" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014
Đạo Đức Phật Giáo và Nguyên Tắc Bất Baọ Động
Lời giáo huấn của Đức Phật về đạo đức thật đơn giản, nhưng đầy uy lực:
Lấy an hoà thắng giận dữ,
Lấy thiện thắng ác,
Lấy bố thí thắng tham lam,
Lấy chân thật thắng ngụy tạo.
(Pháp Cú, kệ số 223)
Hành trì theo con đường cuả Phật là ta phải dùng cách tháo bỏ ba ô trược tâm linh, đó là gian tham, ghét bỏ và hoang tưởng tự đại. Muốn bỏ gian tham, ta phải thực hành bố thí; bỏ thù ghét, ta phải có tâm từ bi; bỏ hoang tưởng tự đại, ta phải học Giáo Pháp.
Về cơ bản, đạo đức Phật giáo chỉ đơn thuần là mở rộng cách tự thanh lọc bản thân trong mối quan hệ với tha nhân. Về khía cạnh tiêu cực, điều này có nghĩa là ta phải bỏ mọi hành động xuất phát từ tâm bất thiện, mà cụ thể là do gian tham, thù ghét và hoang tưởng tự đại. Về khía cạnh tích cực, điều này có nghĩa là trong mọi lời nói và hành động, ta dựa trên tâm từ thiện, đối nghịch với ba điều ô trược tâm linh. Nói một cách lý tưởng hoá, mọi hành động của con người dựa trên lòng mong ước phát huy mọi điều tốt đẹp và bớt đau khổ cuả tha nhân.
Có điều hoàn toàn không rõ là nên phân loại đạo đức Phật giáo như thế nào, hoặc là có nên phân loại không, nhưng các học giả đều đi đến điểm đồng thuận là đạo đức Phật giáo được hiểu một cách tốt nhất như một loại đạo đức về tính hạnh. Dù quan điểm này có phù hợp với đạo đức của Aristotle không, thì đạo đức Phật giáo sử dụng phương cách quán chiếu tự thân để hướng về đạo đức. Vấn đề đạo đức được giải quyết, không chỉ căn cứ trên hành động của con người từ quan điểm ngoại quan, nhưng bằng cách rà soát lại những động lực và chủ tâm. Hành vi tốt đẹp, thiện hay thiện xảo chính là những hành động biểu hiện hay thúc đẩy tâm thiện. Việc xấu, bất thiện, không thiện xảo là những hành động biểu hiện hay đẩy mạnh tâm bất thiện. Hiển nhiên, từ tâm là những động lực tốt đẹp. Thù ghét, ganh tị, gian tham và hãnh diện là những động lực xấu. Ý định làm giảm bớt đau khổ cho nguời khác là một thiện ý. Ý định làm cho người khác chịu đau khổ là một ác ý. Đối với một hành vi có giá trị đạo đức phải có được là do thúc đẩy và có thiện ý. Điều này cũng chưa đủ mà người ta cũng cần có trí huệ khôn ngoan.
Thí dụ có lập luận của Phật tử chống lại việc giúp làm cho người chết không gây đau, xem cách này là điên rồ, vì ngay cả khi thực hiện với động lực tốt đẹp (từ tâm đối với bịnh nhân) và thiện ý (nhằm chấm dứt đau khổ của bịnh nhân), vì bệnh nhân còn trong vòng luân hồi, nên việc chết không gây đau chỉ đơn thuần kéo dài đau khổ hơn là dứt khổ cho bịnh nhân, vì có thể làm vấn đề còn tồi tệ hơn cho bệnh nhân trong kiếp sau.
Đức Phật định nghĩa nghiệp (karma) là một hành vi của ý muốn, chính là tự ý mình thể hiện qua hành vi của thân, tâm và trí.
“Này các tỳ kheo, khi có ý muốn, Ta gọi đó là nghiệp. Với ý muốn, người ta hành động bằng cách bộc lộ qua thân, ý và tâm“, (Tăng Chi Bộ Kinh, Anguttara-nikaya, III, 415).
Phê phán hành động là tốt hay xấu tùy thuộc vào tác nhân muốn hành động như thế nào. Lời khuyên này dường như có hàm ý là làm hại một sinh vật hữu tình không có chủ tâm không phải là tạo nghiệp ác, kể cả khi việc hại tạo ra này có thể tiên đoán được.
Peter Harvey có trích thí dụ ép cây mía, “khi ta biết rõ hoặc có nghi ngờ chắc là trong mía có sâu” và “lái xe trong một ngày oi bức làm chết côn trùng có thể xãy ra”. Vài học giả chấp nhận ảnh hưởng này và cũng có nhiều kinh điển hỗ trợ cho lập luận này.
Thí dụ như trong kinh chuyện Tiền Thân Đức Phật (Kurudhamma Jātaka), theo ý kiến của Peter Harvey, có nhấn mạnh là “không chủ tâm làm hại tha nhân không xem là làm hại, mà khi còn nặng lòng lo nghĩ vấn đề này là thiếu khôn ngoan, như “chuyện vua bắn cung lên trời trong buổi lễ, khi mất một cây cung, vua lo cây cung sẽ rơi xuống hồ và giết chết cá”.
Giữa đạo đức Phật giáo và Kỳ Na giáo thường được nhận định là dù có chung một nền tảng, nhưng lại có dị biệt nhau về khía cạnh chủ yếu này. Theo đạo Kỳ Na, ngay cả khi không có chủ tâm giết một sinh vật hữu tình, kể cả việc tình cờ làm chết một côn trùng, thì cũng là tạo nghiệp ác.
Phân tích này là khả tín nếu ta nghĩ là hậu quả của hành động, dù không có chủ tâm, nhưng có thể tiên đoán được, không liên hệ đến việc phải chịu có gây nghiệp ác hay không (hay chịu hậu quả tai hại hơn). Hiểu biết của Phật giáo về sự siêu hình của nghiệp và cơ chế mà nghiệp gây hậu quả hoàn toàn khác biệt với ý nghĩa của Kỳ Na giáo. Nhưng nếu cho rằng hậu quả của hành vi không chủ tâm nhưng có thể tiên đoán được không gây chịu đựng về một hành vi đạo đức xấu, điều này có thuyết phục được không?
Thí dụ như tôi quyết định việc tập bắn cung trong sân sau nhà tôi, trong lằn ranh nhà bên cạnh sân chơi của trẻ. Nếu có một đứa trẻ bị trúng tên và chết, điều này có quy trách cho tôi được không, khi tôi không có chủ tâm giết trẻ? Nhưng suy đoán rằng tôi thường xuyên bắn sai mục tiêu làm chết nhiều trẻ khác, thì đối với tôi, đó có phải là chuyện phải ray rứt về những tai nạn không may này không?
Khi phân loại việc này ra, ta có thể bắt đầu nhận ra rằng đạo đức Phật giáo, hoàn toàn khác hẳn với thuyết vụ lợi, vì không nói rằng hành vi là tốt hay xấu, vì nó có hậu quả tốt hay xấu, nhưng nói là mọi hành vi có hậu quả tốt hay xấu (đặc biệt là hậu quả theo nghiệp tốt hay xấu) vì hành vi tốt hay xấu. Một hành vi có giá trị đạo đức hay vô đạo đức do tâm trạng nội tại của con người, không tùy thuộc vào hậu quả ngoại lai của hành động. Nếu như thế, có thể là một hành vi tác hại là nghiệp ác chỉ khi nào tác hại có chủ ý (bởi vì cơ chế của nghiệp, dù tốt hay xấu, hứng chịu thành quả); một hành vi có thể là xấu về mặt đạo đức bởi vì tính chất cố hữu của nó là xấu.
Giả dụ rằng trong tâm trạng mừng lễ tôi bắn súng lên không trung và không hề để ý rằng đạn sẽ có thể trở lại mặt đất và làm chết hay bị thương người. Khả năng này có thể không bao giờ xãy ra cho tôi, trong trường hợp mà tôi hành động lơ đễnh, không để tâm đến hậu quả có thể xãy ra do hành động này. Hoặc cũng có thể là tôi có ý thức rõ về khả năng này. Hiển nhiên, tôi có hành động sai trái về một cái gì đó và tôi cũng không thể xin lỗi về sự bất cẩn này bằng cách nói rằng tôi không hề chủ ý làm hại ai. Tôi đang làm một cái gì đó sai trái, cho dù tôi không hề có ý định làm hại ai và thực ra tôi có gây hại hay không.
Theo đạo đức của Kỳ Na giáo thì khấn nguyện tuân thủ theo tinh thần bất bạo đông được hiểu trước hết và quan trọng trên hết là lòng khâm tuân cẩn trọng. Để thực hiện lời nguyện này, tín đồ phải làm bất cứ điều thiết yếu nào để tránh gây hại cho bất cứ sinh vật hữu tình nào, bất kể là có chủ ý hay không. Nếu không làm trọn, việc khấn hứa không thành, dù bất kỳ là sinh vật hữu tình có thực sự bị thiệt hại hay không. Tu sĩ khất thực theo đạo Kỳ Na có thể khấn nguyện theo tinh thần bất bạo động này một cách cực đoan, thí dụ như họ đội mũ che đầu để tránh hít phải ruồi, dường như họ nắm bắt được tinh thần này hơn là chỉ khấn nguyện xuông là không chủ tâm làm hại.
Có nhiều bằng chứng của Phật tử lúc sơ khai chấp nhận khái niệm rộng hơn về bất bạo động. Sư tăng cũng tuân thủ theo khuôn mẫu của Kỳ Na giáo, thường miễn cưỡng phải uống nước để tránh nuốt các sinh vật cực nhỏ. Đức Phật có dạy sư tăng, nếu phải di chuyển thường, cũng nên tránh đi lại trong mùa mưa tình cờ dẫm chết côn trùng dưới chân. Hành vi bất cẩn cũng bị minh thị kết án. Trường hợp mà kinh điển nói tới đó là có một vị sư ngồi trên đống giẻ rách vô tình giết chết một trẻ thơ nằm trong. Có trường hợp tương tự là có một vị sư ném hòn đá từ trên núi xuống và không có ý giết chết người dưới núi. Cả hai trường hợp theo kinh điển là có kết án các vị sư này sai trái.
Quan điểm rộng hơn về bất bạo động – như là một khấn nguyện bảo trọng – tự nó có sức thuyết phục nhiều hơn, đặc biệt là trong khuôn khổ đạo đức về tính hạnh. Giả dụ như một y sĩ có thể trị liệu cho bịnh nhân hết bịnh với một trong hai cách X và Y. Cả hai cách điều trị đều có hai hậu quả phụ, nhưng hậu quả của cách X là tệ hơn của Y. Nếu theo quan điểm hẹp hòi về bất bạo động thì chuyện trị liệu theo X hay Y đều không quan trọng, vì chủ tâm của y sĩ là không làm hại bệnh nhân.
Hậu quả phụ của trị liệu dù có thể nhận ra được, nhưng không có chủ tâm không liên quan đến việc vị y sĩ chọn lựa thuốc nào. Tuy nhiên, nếu xét trên một khía cạnh rộng hơn, thì vấn đề hậu quả phụ này phải đặt ra để cứu xét. Hiển nhiên, y sĩ phạm phải bất cẩn khi cho thuốc mà không để ý tác dụng phụ của thuốc gây ra. Cũng có thể cho là bất cẩn gia trọng hay nhẫn tâm khi y sĩ cho thuốc X khi biết rằng là tác hại hơn Y. Trong cả hai trường hợp, về phương diện đạo đức, thái độ của y sĩ là xấu và trái với nguyên tắc bất bạo động, nếu ta hiểu một cách rông hơn. Nói chung, hành động này có thể được mô tả là cùng một loại với bất cẩn, lơ đểnh, không bảo trọng, hay nhẫn tâm.
Đức Phật có khuyên chúng sinh nên bộc lộ từ tâm đối với các sinh vật hữu tình và thái độ bất cẩn, lơ đểnh, thiếu cẩn trọng hay nhẫn tâm chắc chắn là ngược lại với đạo đức từ bi. Nói một cách thực tế, không ai có thể sống một cuộc đời hoàn toàn vô hại, nhưng người ta phải cố gắng tối thiểu hóa gây ra tổn hại.
Trên môt quan điểm rộng hơn, người tuân thủ thuyết bất bạo động không chỉ giới hạn việc không chủ tâm làm hại người khác mà cũng còn tránh việc gây hại thái quá không cần thiết. Có thể tha thứ dù gây ra thiệt hại tiên đoán được khi có ý tốt (như trường hợp y sĩ cho thuốc và biết được hậu quả phụ có thể gây xấu), điều này cũng còn áp dụng cho trường hợp khi điều thiệt hại xãy ra không vượt mức cần thiết khi mang lại thiện ý.
Đỗ Kim Thêm dịch
Charles K. Fink, Journal of Buddhist Ethics
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét