Thứ Hai, 15 tháng 1, 2018

HÃY CHUẨN BỊ CHO MỘT SỰ TAN RÃ




Lê Tâm Minh



Ảnh minh họa

Đề tài nầy nghe có vẻ như không hề thích hợp với thế giới mà chúng ta đang sống. Hai chữ “tan rã” nói lên một sự tuyệt vọng khủng khiếp của một cái chết giữa một thế giới sinh động, đáng yêu và đầy sáng tạo hứa hẹn. Ai cũng sợ chết và muốn được hiện hữu vĩnh viễn. Thế mà thần chết không hề tha sót người nào. Vì vậy, từ ngữ “tan rã” được hiểu đầu tiên là tan rã thân xác. Ôi ! chuyện đó còn lâu lắm, biết tới nó làm gì ? Trên đời nầy còn rất nhiều chuyện để làm mà ! Thế rồi, lớn lên học hành, bon chen, đi làm, lập gia đình, làm lụng cực nhọckiếm cơm, sinh con, nuôi con , v.v…, toan tính đủ thứ, tranh dành, chụp giựt, tưởng chừng như mình sẽ không bao giờ chết. Làm như thế để tự cảm thấy mình hiện hữu hay sao, để rồi đùng một cái, một cơn bệnh trổ ra, bị thần chết rước đi trong đau khổ luyến tiếc ?

1) Diệt thuyết và Thường thuyết:

Ai có suy nghĩ thâm sâu, đều không vừa ý một cuộc đời như vậy, huống chi nó lại sẽ kết thúc một cách bất ngờ đau đớn nữa: cái chết ! Tất cả chỉ là một con số không. Nghĩ như vậy và ôm ấp điều nầy ắt rơi vào chủ nghĩa hư vô (Nihilism). “ Khốn thay cho kẻ nào ôm giữ sa mạc, vì sa mạc lớn dần”. Đó là câu nói của nhân vật tưởng tượng Zarathustra trong tác phẩm “ Zarathustra đã nói như thế ” ( Ansi parlait Zarathustra, Thus spoke Zarathustra) của triết gia Đức Nietzsche, ám chỉ rằng con người là những con lạc đà ngu si, bị chất lên lưng đầy những đảm đang gánh vác đi trong sa mạc, để rồi kết cuộc cũng chẳng được gì ngoài việc tiếp tục cái nghiệp phi lý nầy một cách vô tận.

Thật ra, hư vô chủ nghĩa không phải đầu tiên phát xuất từ triết gia Tây phuơng nầy, mà hẳn đã có từ lâu đời trong một vài trường phái tôn giáo của Ấn Độ trước thời đức Phật Thích Ca, gọi là Diệt thuyết. Chết là hết. Cái chết xóa sổ tất cả, chấm dứt tất cả. Tất cả đi vào hư vô, vào một con số không to tướng trong đó mọi giá trị đều sụp đổ và không còn gì để nói thêm nữa. Như là một nỗi tuyệt vọng não nùng, Diệt thuyết nầy dễ dàng làm mồi cho thuyết hiện sinh kiểu duy vật hoặc chủ nghĩa vô thần. Cả hai chủ thuyết nầy có thể làm nơi nương tựa cho những kẻ vô đạo bất nhân: không nhân, không quả, không tội, không phước. Tương tự Diệt thuyết cổ xưa nầy, một kiểu Diệt thuyết mới ngày nay lại xuất hiện, tự xưng là “Phật giáo”, quan niệm rằng chuyển biến của tâm tư từ sát na nầy sang sát na khác chính là luân hồi, và ngoài ra không có kiếp sau nào hết, chết là hết. [ Quí vị có thể tham khảo Tà kiến nầy đã được tôi nêu ra ở bài viết “ Thoát khỏi luân hồi” trong Đặc san Hiện Thực số 40/2017]. Ngược lại với Diệt thuyết là Thường thuyết, chủ trương rằng con người có một cái bản ngã thường hằng, đó là linh hồn bất tử, là tự ngã (Atman) hay Tiểu ngã, sống hòa hợp với Đại Ngã (Brahman) cũa vũ trụ. Cả hai Tiểu Ngã và Đại Ngã nầy đều bất biến và trường tồn vĩnh cữu. Đại Ngã của vũ trụ được xem là bản thểcủa muôn loài, hay là Thượng Đế, v.v... Để điều hành vũ trụ, Thượng Đế nầy lại có 3 ngôi: Sáng tạo(thần Brahman), Huỷ diệt (thần Shiva) và Bảo tồn (thần Vishnu). Khác hơn thế, người theo chủ thuyết Duy vật, tuy không tin có linh hồn, nhưng tin vào một Qui luật tự nhiên của vật chất. Qui luật nầy thường hằng bất biến, chi phối và điều hành thế giới vật chất của họ. Ngoài ra, tất cả những triết thuyết nào trên thế giới, bất kể là triết đông hay triết tây, chủ trương thế giới hay vũ trụ và con người có một bản thểthường hằng bất biến, bất kể là lấy tên gì (chẳng hạn như Đại Ngã Bà La Môn hay Thượng đế, v.v.), đều là những loại Thường thuyết. Những lý luận của Thường thuyết xem như khá hữu lý và có tính cáchthuyết phục hơn Diệt thuyết. Tuy nhiên, ngày xưa, khi bị chất vấn để dò hỏi về chân lý của ngoại đạo, trong tháI độ lặng thinh, đức Phật không trả lời chi cả. Sau nầy, các đệ tử của ngài hiểu rằng ngài đã bác bỏ cả hai, Diệt thuyết lẫn Thường thuyết vào thời đó.

Gần đây, ý niệm về Big Bang (tiếng nổ lớn) là nguyên nhân tạo thành vũ trụ đã làm lung lay niềm tincủa con người vào một đấng Sáng Tạo. Nếu thế giới có bản chất thường hằng hay một bản thể bất biếnnào đó, sao lại không ở lì như vậy mà lại phát ra tiếng nổ Big Bang ? Như vậy trong 2 thời kỳ tiền Big Bang và hậu Big Bang, cái nào là thường hằng bất biến ? Rõ là mâu thuẫn phi lý khi gán cho vũ trụ có một bản thể thường hằng bất biến. Nhưng khoa học vẫn là sự thật không thể chối cãi. Ngược lại với hiện hữu độc lập là hiện hữu trong thế tương quan gồm tương liên, tương tác và tương tạo giữa mọi sự vật, trong đó mọi cái gọi là bản chất hay bản thể nào đó đều phải tan biến đi không còn gì nữa. Hiện hữu trong thế tương quan là giáo lý cốt lõi của đức Phật Thich Ca với tên gọi là thuyết Duyên khởi( Pratyasamutpada). Theo thuyết nầy, không có sự hiện hữu nào độc lập, hiện hữu độc lập là một điềukhông tưởng, và do đó, không có một hữu thể nào là bản thể thường hằng bất biến. Thử suy nghĩ về 2 điểm:

1) Nếu thế gian nầy có một bản thể thường hằng bất biến thì nó phải hiện hữu độc lập. Bất kể là có con người hay không có con người, nó vẫn là thế ấy và không bị ảnh hưởng. Nó không có liên quan gì đến con người thì làm sao con người có thể hội nhập được vào nó để nhận lấy nó là bản thể của chính mình ? Tính bất khả tới gần nầy (the inaccessibility) của hữu thể ấy có thể ví như đi du lịch vào một quốc gia mà không thể mua vé, không thể có hộ chiếu và giấy thông hành, do là không có liên quan gì, thì làm sao vào được ? Nếu bản thể thường hằng nầy là thật có (thí dụ như Thượng đế, Đại Ngã hay Qui luật, v.v..) thì mọi sự tu hành, thiền tập hay hành thiện đều vô nghĩa vì không thể tới gần được những thực thể được gọi là cao cả ấy. Trong đạo Phật, nếu gọi chúng là những thực thể thì không đúng, phải nên gọi là “ảo thể” vì chúng vốn không có thật. Hướng về chúng là chạy theo ảo tưởng của chính mình, dĩ nhiên cũng có thể có ích lợi cho mọi người nếu ảo tưởng đó là thiện hoặc cũng có thể gây ác hại nếu ảo tưởng đó là ác, nhưng tuyệt nhiên không thể nào có giác ngộ giải thoát, cái mà người theo chủ thuyết Thường thuyết nầy gọi là “ nhập vào bản thể” hay “đường vào bản thể “ hay “đắc đạo”, v.v….

2) Còn nếu cho rằng thế gian hay vũ trụ hàm chứa luôn con người trong đó thì cái bản thể bất biếnthường hằng ấy của thế gian ở đâu không thấy, mà chỉ thấy sanh lão bệnh tử, một sự vô thường trơ tráo. Nếu bản chất nào là thường hằng thì ác là vẫn luôn là ác, không thể tu hành đắc đạo được, còn thiện là vốn thiện, không cần phải tu hành chi cả. Ác cũng không đáng trách, thiện cũng không đáng hoan nghênh, phi lý không ?

Tất cả những điều phi lý nầy cho chúng ta thấy rằng : bản thể thường hằng bất biến là một điều không tưởng, là một sản phẩm của trí tưởng tượng . Lý thuyết về Thường thuyết nầy trong kinh Phạm Võnggọi là Thường trú luận, một loại vọng tưởng về quá khứ, là một tà kiến với 4 luận chấp trong số 62 món tà kiến mà đức Phật đã giảng dạy.(Xem Trường Bộ Kinh- Kinh Phạm Võng- Digha-Nikaya- Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali). Với Thường thuyết nầy, ý niệm về linh hồn, về Thượng đế, hoặc về Qui luật được thành lập. Nhưng trong giáo lý đạo Phật, chúng ta luôn hiểu rằng: 1) Không có một linh hồn nào như vậy 2) Không có một Thượng đế nào như vậy và 3) Không có một qui luật nào như vậy.

Linh hồn: đức Phật thay thế chữ linh hồn bằng từ ngữ “thân trung ấm” để tránh hiểu lầm đó là một cái gì cố định và có bản chất hay tự tính. Thân trung ấm là một tập hợp, là một loại uẩn (skandha) không có tự tánh cố hữu, luôn thay đổi (thí dụ như khi thiện, khi ác)

Thượng đế: con người lọt vào ý niệm tôn thờ một “Thượng đế” khi chủ trương một phần thường trú luận và một phần vô thường luận, cho rằng: bản ngã và thế giới là thường hằng đối với một hạng hữu tình (Thượng đế, Hóa sanh chủ, Sáng tạo chủ) và vô thường đối với hạng hữu tình khác (chúng sanhđến sau trong thế giới ấy). Người tới sau trong thế giới nầy tưởng lầm rằng người tới trước sanh ra mình. Người tới trước do cô độc ban đầu, ước nguyện muốn có nhiều người tới ở chung; ước nguyệnđược thành tựu bèn vọng tưởng rằng chính mình sanh ra những kẻ tới sau. Đây là những vọng tưởngvề quá khứ của cả 2 loại hữu tình nói trên. Vọng tưỏng nầy là vô minh, là một tà kiến . Do vì nhờ có tu nên thấy biết được một đời quá khứ, chứ không thấy biết được nhiều đời trước nữa. Tà kiến nầy cũng được phân biệt thành 4 loại luận chấp trong số 62 món tà kiến mà đức Phật đã giảng dạy (Xem Trường Bộ Kinh- trang 17 kinh Phạm Võng, Thượng Tọa Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali).

Qui luật: thuyết vô thường đánh ngã tất cả những gì được gọi là thường hằng. Vì vậy không có qui luật nào cố định được xem như là bản thể.

2) Thuyết Duyên khởi và Tính Không:

Cả 3 ý niệm trên về linh hồn, Thượng đế và Qui luật đều trở thành phi lý trước thuyết Duyên khởi ( Pratityasamutpada= Dependent Origination) của đức Phật Thích Ca. Thuyết đó là: các pháp trên thế gian đều hiện hữu trong thế tương quan (tương liên, tương tác và tương tạo= interdependence, conditioning co-production), nên không có sự hiện hữu nào độc lập. Lý vô thường ( Impermanence) xuất hiện từ đây: sự vật luôn thay đổi nên không có bản chất bất biến, không có tự tính, đây là lý Vô ngã. Sự thay đổi tương tục nối tiếp nhau trong dòng thời gian tạo ra lý Nhân quả ( Theory of Cause and Effect= Karma). Từ lý Vô thường, con người có sinh lão bệnh tử. Từ Sinh Tử và Nhân quả, thuyết Luân hồiđược thành lập. Vì pháp thế gian biến đổi vô thường tương tục từ vô thủy đến vô chung, nên nó không có chơn tướng riêng, và do vậy cũng không có tên gọi nào cho xứng về phương diện tuyệt đối, đây gọi là vong thân danh từ, tức là Tính Không về đối tượng. Thuyết Nhị đế xác định tên gọi tương đối theo qui ước thế gian (thí dụ cái bàn, cái ghế,v.v…). Đó là Tục đế, còn tên gọi tuyệt đối thì bị vong thân, trở thành không tên trong Chân đế. Tính Không về chủ thể (người quan sát) là Tâm Không. Người chứng được Tính Không là người có Tâm Không (tâm rỗng rang trước đối vật), thấy được Tướng Không của sự vật ( “Thị chư pháp Không tướng” trong Bát Nhã Tâm Kinh), thấy sự vật là vô tướng. Đó là người đã dứt bặt Tham Sân Si.



So sánh Tính Không trong Hư vô chủ nghĩa và Tính Không trong Phật giáo, chúng ta thấy có một khác biệt lớn lao, đó là lý Nhân quả. Hư vô chủ nghĩa khơi dậy một nỗi tuyệt vọng tận đáy lòng khi mọi giá trịvề hành vi hay đạo đức đều bị sụp đổ trong ý niệm rằng: không nhân không quả, không tội không phước, chết là hết. Ngược lại, lý nhân quả trong đạo Phật dựng lại cho con người mọi ý nghĩa sáng tạocủa cuộc sống, một niềm tin về mọi giá trị của những hành vi của mình. Lại có thêm thuyết luân hồi, báo tin mừng cho mọi người biết rằng chúng ta không bao giờ chết, mà chỉ chuyển sang một thân thể khác ở kiếp sau, tuy không có một linh hồn được hiểu sai theo quan niệm thường kiến của mọi người.

3) Phật giáo có phải là vô thần không ?

Đạo Phật không tin vào một bản thể thường hằng bất biến, hay một Thượng đế siêu phàm vĩnh cữu. Điều nầy dẫn tới sự hiểu lầm hoặc nghi vấn rằng: đạo Phật là vô thần ? Sự thật là không. Chẳng hạn như Tông phái Tịnh độ Tông tuy tin rằng đức Phật A Di Đà là vô lượng thọ, là hiện hữu lâu dài không tính đếm nổi, nhưng không có nghĩa là đức Phật nầy hiện hữu vĩnh cữu, nghĩa là đến một thời điểm nào đó cũng sẽ lui mất. Lui mất đi rồi thì đi đâu và làm gì, ở đâu ? Chỉ có Phật với Phật mới biết. Phàm phu chưa giác ngộ như chúng ta chỉ có thể ước lượng rằng ngài biến thành một vị Phật khác ở một cõi Phậtkhác do một nguyện lực mới phát khởi tự chính ngài, và điều nầy không tạo ra do một bản chất bất biếncố hữu nào hết. Phật tánh là một cái gì sinh động, biến thiên không dừng nghỉ, chứ không phải là chết cứng, cố đặc theo một công thức hay qui luật nào hết, nghĩa là hoàn toàn sáng tạo. Vì vậy thuyết Vô ngã của đức Phật chi phối luôn cả Phật tính và Niết Bàn: hai thứ nầy cũng đều thiếu vắng tự tánh. Đối với người phàm phu như chúng ta, khi cái chết đến, thân xác tan rã biến thành một dạng năng lượng có ý thức gọi là trung ấm thân trước khi nhập thai hoặc sanh vào một thân xác mới, hữu hình hoặc vô hình trong 6 nẻo luân hồi: trời, người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, hoặc nếu có tu, đắc quả Vô Sanh thành A La Hán. Thuyết Duyên khởi trong ý nghĩa sự tương liên, tương tác và tương tạo giữa các chúng sinh hữu hình và vô hình, làm thành thuyết cứu độ của các vị Phật đã thành và của các vị Bồ tát, đối với các chúng sanh khác đang trên con đường tu tập. Đây là điều rõ ràng rằng đạo Phật không phải là vô thần.

4) Sự khác nhau giữa Phật và chúng sinh:

Trong kinh điển có ghi lời Phật rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” ngụ ý dạy rằng mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, là một mầm mống, một hạt giống để trở thành Phật, ví như một chiếc gương bị bụi Tham Sân Si bu bám, khiến nó lu mờ, vô minh. Chỉ cần ra công lau chùi, nó sẽ trở nên sáng bóng. Tham sân si (tam độc) cũng không có thực chất, không có tự tính, đều là những cấu hợp (aggregates), tạo nên thân thể con người, gọi là thân ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Khi tam độcnầy tan rã, hành giả chứng được Tánh không (tâm rỗng rang trước đối vật) từ địa hạt vi mô (từng giây phút) đến địa hạt vĩ mô (một thời gian dài), đắc quả giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Thân xác vật chấtkhông còn nữa. Đổi lại, hành giả nầy có được một thân mới có trí tuệ siêu việt, là thân năng lượng dưới dạng ánh sáng thuần khiết, có thể đi đây đi đó vô giới hạn để gặp gỡ giúp đỡ những người mình muốn giúp.

Người phàm phu và bậc giải thoát chỉ khác nhau ở chỗ là mê mờ và sáng suốt, nhưng cả hai đều đồng một Tánh giác (Tánh biết): Biến kế sở chấp tánh hoặc Y tha khởi tánh hay Viên thành thật tánh cũng đồng một thể, ví như cùng là nước trong đại dương, bất kể là lúc nổi thành sóng dữ gào thét (Biến kế sở chấp của Tham Sân Si) hay yên lặng như tờ lúc biển yên (Viên thành thật của vô tâm). Đó là phân tích theo Duy thức học tức Pháp Tướng tông. Tuy nhiên, với cái nhìn phóng khoáng về cùng một Tánh biết nói trên, Pháp Tánh tông (hay Thiên thai tông) qui gán hai đối cực lại thành một thể: Phật và chúng sanh là một (đã thành và chưa thành), Niết Bàn và Sanh tử là một, Giải thoát và Luân hồi là một, Bồ đềvà Phiền não là một. Ý niệm nầy của Pháp Tánh tông thật là hết sức vi diệu, nhưng lại trừu tượng khó hiểu nếu không được cụ thể hóa bằng hình ảnh một đồng xu gồm 2 mặt sấp và ngữa: Ngữa lên là Phật, lật lại là Chúng sanh, ngữa lên là Niết Bàn, lật lại là Sanh tử, ngữa lên là Giải thoát, lật lại là Luân hồi, ngữa lên là Bồ đề, lật lại là Phiền não. Đó chỉ là giả dụ trong cái nhìn phóng khoáng mà thôi trong bình diện vi mô (từng giây phút), chứ thật ra, trên bình diện vĩ mô (một thời gian dài), lật sấp muốn trở thànhlật ngữa, đồng xu (tức hành giả) phải trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập trong chánh pháp. Ví dụ về đồng xu nầy cũng cho ta thấy rằng: Niết Bàn hoặc Phật tánh, hay Giải thoát, không hề có một bản chấtbất biến trường tồn nào hay một bản thể vĩnh cữu nào chi phối. Và cũng nên nhớ rằng mặt sấp hay mặt ngữa của đồng xu không phải là một trò chơi hên xui của Hư vô chủ nghĩa, mà là một sự chuyển mình trong nỗ lực phi thường của hành giả bị chi phối bởi luật Nhân quả (karma) trong quá trình vĩ mô dài hạn mà ta gọi là tiệm ngộ. Không có cái gọi là “Hoát nhiên đại ngộ” hay đốn ngộ của “Pháp ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ chơn tâm, Kiến tánh thành Phật” . Ý nghĩa đốn ngộ nầy chỉ là thấy được một loé sáng rồi vụt mất trong đêm tăm tối (trong nghĩa vi mô) mà thôi. Nếu kiến tánh thành Phật dễ như vậy thìngười ta thành Phật hết rồi !

5) Tan rã và buông bỏ:

Trong môn Tâm lý học, Tham Sân Si được xem là bản ngã (self, ego) của con người. Tam độc Tham Sân Si nầy có thể rút gọn lại thành một cái ngắn gọn là Tánh tham, vì Sân và Si cũng từ Tham mà ra. Với thuyết Vô ngã, tánh Tham, như bao nhiêu pháp khác, cũng không có tự tánh của nó. Nó chỉ là một cấu hợp, là một uẩn (skandha). Đề tài “Hãy chuẩn bị cho một sự tan rã “ không phải chỉ có nghĩa là chuẩn bị cho cái chết, mà bây giờ là chuẩn bị cách thức để đập tan bản ngã. Hãy nhìn kỹ: Bản ngã, cũng như Tham Sân Si, vốn không có thật. Chúng ta không cần đập nó tan rã, mà chỉ cần buông bỏ nó. Những tâm tánh đặc trưng của các cõi là: tánh tham và dâm dục ở cõi quỉ đói, tính phóng dật thích thúở các cõi trời, tính kiêu mạn đố kỵ ở cõi A Tu La, tính ghen tỵ ở cõi người, tính thù hận giận dữ ở các cõi địa ngục, là những đối tượng bên trong cần buông bỏ. Ngoài ra, những đối tượng bên ngoài gồm thế giới và người thân cũng là những sợi dây oan trái ràng buộc, tù hãm chúng ta trong một cái rọ kiên cốkhó thoát ra được. Cách đối trị hai loại đối tượng bên trong và bên ngoài nầy đã được đề cập trong bài ”Thoát khỏi luân hồi” trong Đặc san Hiện thực số 40/2017 , quí vị có thể tìm thấy chi tiết ở đó. Dưới đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh và khai triển thêm phần khó làm nhất trong những đối tượng trên, đó là làm thế nào để khắc phục sự tham luyến thế giới và người thân trong giờ phút lâm chung. Nếu khôngkhắc phục được điều nầy, mục tiêu giải thoát sẽ không thể tiến tới được.

1. Tham luyến thế giới, quốc gia, quê hương, làng xóm mình đang sống:

Muốn khắc phục điều nầy cần có những chuẩn bị lâu dài về thói quen sống ẩn dật (hạnh A Lan Nhã) chẳng hạn như không muốn làm nổi bật mình giữa đám đông, cũng như về lối giao tiếp với bạn bè , thí dụ như giữ cân bằng và độc lập với họ. Đại sư Liên Hoa Sanh có khuyên rằng trong giờ phút lâm chunghãy buông bỏ mối quan tâm đối với thế giới nầy

2. Tham luyến người thân trong gia đình:

Đại sư Liên Hoa Sanh khuyên rằng: trong giờ phút lâm chung, hãy buông bỏ sự dính mắc với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời nầy.

Điều nầy phải được chuẩn bị từ trước trong thói quen suy nghĩ và hành động, hướng đến mục tiêu làm tròn bổn phận cho ngưòi thân của mình. Đây là nghiệp mà mình phải trả cho họ. Khi tròn bổn phận rồi thì đừng khởi tâm tham luyến nữa. Nếu vì quá thương tiếc không nỡ ra đi thì hãy nên nghĩ rằng: Ta đã từng có cả triệu người cha (hay mẹ, hay con cái) trong nhiều kiếp trước rồi, sao ta không thương tiếc họ đi ? Có ích lợi gì không ?

Nếu nghĩ như thế mà chưa hết tham luyến, hãy nghĩ thêm rằng: tất nhiên ta chắc chắn sẽ gặp lại cha ta, (hay mẹ ta, hoặc con ta). Hãy nhớ rằng, theo Du Già Sư Địa Luận (Yogacarabhumi) được thánh giả Vô Trước (Asanga) ghi chép lại từ Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) thì con người chết đi và đầu thai lại chỉ luẩn quẩn trong vòng những người thân của mình trong vô lượng lần. Điều nầy cũng dễ hiểu, vì rất hiếm ai tìm đến những nơi xa lạ không quen thuộc, thí dụ như Việt kiều khi đi du lịch, hầu hết là thích về Việt Nam hơn là về những xứ xa lạ như Ả Rập hay A Phú Hãn. Đầu thai lại, dầu là không nhận biết được nhau, nhưng gặp lại là được rồi. Nghĩ như vậy thì giảm bớt được tham luyến. Hãy nghĩ thêm một bước thứ hai nữa là: gặp lại trong hoàn cảnh của kiếp mới chưa chắc sống với nhau được tốt đẹp như kiếp nầy, biết đâu còn tệ hại hơn, do điều kiện sống có thể khác xa. Rồi thì, thân có thể trở thành thù, rồi thù có thể biến thành thân. Tình cảm nào cũng vô thường, cũng có 4 giai đoạn sinh trụ hoại diệt, đừng nên quan trọng nó làm gì. Suy nghĩ với những bước như vậy cho thành thói quen, đến lúc lâm chung sẽ thuần thục, sẽ không bị dính mắc.



Lê Tâm Minh

Con Rồng cháu Tiên ở… Myanmar





Myanmar là một quốc gia Phật giáo nổi tiếng với những ngôi chùa tháp, tượng Phật vàng khổng lồ và các dấu chân, xá lợi Phật như ở các thành phố Yagon, Mandalay … Thế nhưng ở Myanmar vẫn không khó nhận ra một lớp văn hóa bản địa truyền thống, không phải Phật giáo hay Ấn Độ giáo, mà lại là những nét văn hóa rất… Việt.
Trước hết phải nói về người Karen, là nhóm dân tộc tới nay vẫn còn dùng trống đồng ở Myanmar. Người Karen sống tập trung ở 2 bang Kayah và Kayin, là dân tộc lớn thứ ba của Myanmar, chiếm 7% dân số của nước này. Thực tế về nhóm người ở Myanmar dùng trống đồng có thể làm cho nhiều người phải ngỡ ngàng đặt câu hỏi, vậy những người dân này có liên hệ thế nào với nền văn hóa trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam?



Trống đồng ở Myanmar.

Trống đồng Karen thuộc loại trống đồng loại Heger III có trang trí là hình mặt trời ở trung tâm và nhiều vòng tròn đồng tâm với các mô típ chính là cá và chim. Trên mặt trống ở 4 góc là hình những con cóc chồng lên nhau, thường là 3 tầng. Do đó, loại trống này còn gọi là trống cóc (frog drum).
Trống đồng là nhạc cụ được người Karen rất coi trọng, sử dụng trong các buổi cúng lễ để gọi hồn tổ tiên về chứng giám các đám cưới, đám tang, mừng nhà mới hay để xua đuổi tà ma. Người Karen cũng tin rằng trong trống đồng có các linh hồn ngự trị nên họ cất giữ trống cẩn thận và phải làm lễ cúng trống nếu mặt trống bị thay đổi biến dạng.



Hoa văn trên trống đồng Myanmar.

Người Karen cũng thường để các đồ quý giá trong trống đồng và chôn cất ở nơi kín đáo, tin rằng đó là những của mà sau khi họ chết sẽ đem theo. Tục chôn trống đồng cùng với người chết cũng từng gặp ở người Karen, cho những thủ lĩnh của bộ tộc.
Trống đồng còn là biểu tượng của sự giàu có và quyền lực đối với người Karen. Thậm chí bang Karenni (một bang nhánh của người Karen trước đây) dùng hình ảnh mặt trống đồng làm biểu tượng trên lá cờ của mình.

Cờ của người Karenni.

Người Karen có truyền thuyết nói rằng họ xuất phát từ một vùng “sông cát bay” (river of running sand). Người ta cho rằng đó là nói tới sông Hoàng Hà ở Trung Quốc. Nhưng với nền văn hóa trống đồng sâu sắc vẫn còn tới nay như vậy thì người Karen không thể nào khởi nguồn từ vùng sông Hoàng Hà được. Nhóm dân tộc này chắc chắn có khởi nguồn ở khu vực văn hóa trống đồng tại Đông Nam Á. Vùng “cát bay” ở “Trung Quốc” cổ đại có thể là vùng miền Trung Việt vì nước Việt cổ chính là Trung Hoa.
Một nhóm người Karenni được biết đến nhiều nhất là nhóm người cổ dài Kayan, nổi tiếng bởi tục đeo các vòng đồng ở cổ. Những người phụ nữ Kayan quấn các vòng đồng quanh cổ từ khi còn nhỏ. Có truyền thuyết cho rằng những chiếc vòng cổ này là tượng trưng cho cổ rồng.



Phù điêu phụ nữ người Kayan với những chiếc vòng đồng trên cổ, cổ tay và cổ chân.

Người cổ dài Kayan không chỉ đeo các vòng đồng ở cổ mà ở cổ tay, cổ chân họ cũng đeo những chiếc vòng này. So sánh thì tục đeo vòng ở cổ tay cổ chân rất tương đồng với những chiếc vòng đồng trong văn hóa Đông Sơn.
Tín ngưỡng của người Kayan cho rằng dân tộc mình được hình thành do kết quả sự kết hợp giữa mẹ rồng (a female dragon) và cha tiên (a male angel). Họ được sinh ra từ một trong những quả trứng của rồng. Truyền thuyết khởi nguồn này của người Karen chỉ rõ mối liên hệ nguồn gốc trực tiếp với người Việt cổ, cùng là dòng giống Rồng Tiên, dùng trống đồng, vòng đồng.
Trong truyền thuyết Việt, Cha Tiên lấy Mẹ Rồng là chuyện Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình. Phải chăng người Karen là một nhánh tộc từ thời mở sử Việt này đã di cư về phía Tây?



Vòng ống chân ở di chỉ Làng Vạc, Nghệ An (Ảnh internet).

Hình tượng rồng trong văn hóa Myanmar tới nay còn rất phổ biến. Các bức chạm khắc gỗ hình rồng, hình chim phượng được dùng để trang trí khách sạn, công sở, gia đình ở nhiều nơi. Hình rồng còn dùng trong tạo hình các giá đỡ cho các bộ cồng chiêng. Cồng chiêng cũng là nhạc cụ và văn hóa phổ biến ở Myanmar.


Chạm gỗ hương hình rồng đỡ cồng ở Myanmar.

Con rồng ở Myanmar còn biến thể thành một loài linh thú đầu sư tử, sừng và chân hươu, vòi và ngà voi, thân và đuôi cá, cánh chim. Biểu tượng linh thú này dùng phổ biến trong các trang trí chùa đền, ngai vàng… ở Myanmar.

Hình mẫu một bộ giá cồng chiêng với linh thú dạng rồng ở Myanmar.

Một liên hệ khác của tộc người tại Myanmar với lịch sử Việt là nhóm người Shan. Người Shan ở Myanmar thuộc nhóm Tai-Kadai, là dân tộc lớn thứ hai ở nước này, chiếm 9% dân số. Bang Shan là bang có diện tích rộng nhất Myanmar, nằm ở phía Đông của nước này.



Bản đồ phân bố các nhóm dân tộc ở Myanmar
(Màu đỏ là nhóm Karen. Màu xanh xám là nhóm Shan).

Người Shan thuộc nhóm Tai Luang hay Tay Yai (Thái Lớn). Hiện người ta cho rằng người Shan di cư đến từ Vân Nam từ trước thế kỷ 10. Đối chiếu lịch sử các quốc gia Đông Nam Á có thể nhận ra rằng bang Shan chính là 1 trong 7 “chiếu” hình thành dưới thời Khun Borom hay Bố Cái đại vương Phùng Hưng ở thế kỷ 8. Khun Borom là vị vua đầu tiên khởi dựng nước Nam Chiếu dưới thời nhà Đường và được coi là ông tổ của người Thái Lào.
Theo sử Thái – Lào thì một hoàng tử của Khun Borom là Khun Lok Klom đã được cử tới Muang Hongsa (Mường Hồng Sa?) thuộc đất Myanmar ngày nay. Nguồn gốc của người Shan như thế không phải từ Vân Nam mà là từ vùng Tây Bắc Việt Nam vì Khum Borom đầu tiên lập thủ phủ ở Mường Then, nay là Điện Biên của Việt Nam.



Vị trí 7 chiếu dưới thời Khun Borom (Nam Chiếu).

Kiến trúc của người Shan còn để lại đáng kể những cụm di tích với hàng ngàn ngôi tháp tương đối nhỏ thờ Phật tại khu Indein cạnh hồ Inle hay ở thủ phủ Shan tại Taunggyi. Những trang trí trên các tháp này khá tương đồng với người Chăm ở Việt Nam, với nổi bật các hình chim và nét cong như tượng người chim (Kinnari), hình chim công, hình vũ nữ… Những trang trí tương tự có thể thấy trên các kiến trúc thời Lý Trần cùng thời ở Việt Nam.


Trang trí người chim và chim vẹt trên mái một ngôi tháp ở Indein, cố đô của tộc Shan.

Như thế 2 nhóm dân tộc lớn thứ hai và thứ ba của Myanmar là Shan và Karen đều có mối liên hệ với người Việt. Có thể coi nhóm Karen là dòng giống Rồng. Còn nhóm Shan là giống Tiên (Chim), là 2 nhánh của một nền văn hóa cổ con Rồng cháu Tiên xưa.



Chạm gỗ Rồng – Phượng ở Mandalay.

Theo Bách Việt Trùng Cửu

Chủ Nhật, 14 tháng 1, 2018

Chân Lý Khách Quan và Chân Lý Chủ Quan


Huy Thái
 12-Jan-2018
Bay tự do trong không gianẢnh apod.
Kính thưa quý bạn,
Chân lý là gì mà con người lại thường tìm cách mô tả và cho đó là giá trị đáng ngưỡng mộ, đáng tôn kính, và thậm chí còn lấy thân mạng của mình ra để bảo vệ nó?
Như chúng ta biết ngôn tự là phương tiện mà con người dùng để diễn đạt và truyền thông về các hiện tượng sinh động của vạn sự vạn vật xung quanh ta và chính bản thân ta, mà các giác quan thông thường của con người cảm nhận được. Do đó, ngôn tự “chân lý” là một trường hợp như bao ngôn tự khác.
Về mặt ngôn tự thì chân lý là từ ghép có 2 phần chân và lý :
chân 眞: thật, thực, hiện thực // sự thật.
lý 理: lý lẽ
Như thế, chân lý 眞理 hàm ý nghĩa “lý lẽ biểu hiện cho một sự vật thật, cho một hiện thực”. Theo ý nghĩa đó, một sự vật hiện thực mới chỉ là chân, và chỉ có  khi nào có những lý lẽ diễn đạt mang tính quy luật kèm theo mà ai ai cũng có thể nhận biết ra về nó.
Thí dụ 1 - Chân lý về vũ trụ: Mọi sự vật trong vũ trụ là một hiện thực từ giác quan, mà không cần lời nói và chữ viết (ngôn tự), nên là chân. Khi có lý lẽ “tương tác giữa các sự vật trong vũ trụ làm cho các sự vật luôn biến đổi và không có ngoại lệ”, mang tính quy luật, tức là . Theo đó, chúng ta bảo vũ trụ vô thường; và như thế, vũ trụ vô thường được gọi là chân lý, hay vũ trụ vô thường là chân lý về vũ trụ.
Thí dụ 2 - Chân lý về Thượng Đế: Thượng Đế theo cách hiểu thông thường là ông vua ở trên trời có nhiều quyền năng, có quyền thưởng phạt con người và vạn vật. Đây là ý nghĩ tưởng tượng của người xưa khi chưa rõ các quy luật tự nhiên; họ đồng hóa trong thiên nhiên có một vị vua (đế) ở trên trời cao (thượng), có sức mạnh vô song như làm mưa lut, gió bão, … Ông vua vô hình ở trên trời tưởng tượng này tất phải lớn hơn và mạnh hơn, trùm hết cả các ông vua hữu hình ở dưới đất!
Trong tôn giáo, môn thần học là môn nghiên cứu về Thượng Đế, với lý lẽ cho rằng Thượng Đế không thể cảm nhận hiện thực từ giác quan, là ngoại lệ của vũ trụ, là nguyên nhân đầu tiêntự hữu và hằng hữuchưa ai thấy biết được nhưng không được phép nghi ngờ. Lý lẽ hoàn toàn không hiện thực về Thượng Đế vẫn được tôn giáo áp đặt cho rằng Thượng Đế là chân lý.
Qua hai thí dụ trên, ta thấy thí dụ 1 sát với ý nghĩa gốc, còn thí dụ 2 thì hoàn toàn trái lại. Cho nên biểu hiện của thí dụ 1 nói lên ý nghĩa chân lý khách quan, bởi nó mô tả lý lẽ hợp với hiện thực mà ai ai với chút quan sát và nghĩ suy thì cũng có thể nhận ra và gần gũi đối với cuộc sống; còn thí dụ 2 được gọi là chân lý chủ quan, tức chẳng phải là chân lý theo ý nghĩa gốc, bởi nó mô tả lý lẽ hoàn toàn không hợp với hiện thực, mà có lẽ chỉ chỉ dành cho những ai lười suy nghĩ hay tâm lý yếu đuối dễ bị áp đặt mà thôi.
 “Khi Thấy điều vô lý thực sự là vô lý, như nó đang là mà không phân tích, suy luận, biện minh... là Thấy được Chân lý". Cái vô lý, cái có lý không phải là Chân lý mà cái Thấy như thực mọi đối tượng mới là Chân lý.”
Như thế:
Khi thấy điều vô lý thực sự là vô lý hay thấy điều có lý thực sự là có lý, tức là ta đã chạm vào phân tích, suy luận, biện minh trên một chuẩn mực biểu kiến nào đó rồi. Còn như thấy như thực (như nó đang là) mà không phân tích, suy luận, biện minh nơi mọi đối tượng thì chỉ là thấy Chân, chứ chưa là Chân lý?
HT

Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018

TRANG HỒNG-GIÁ 500K



Bắt ông Vũ Nhôm khó hơn bắt ông Đinh La Thăng- vì sao?





Tác giả: Nhà báo Hoàng Hải Vân, nguyên Tổng Thư ký Tòa soạn báo Thanh Niên

.

Vụ Đinh La Thăng và những sai phạm tày đình tại Tập đoàn Dầu khí là cái giá phải trả cho sự chậm trễ của quá trình tự do hóa nền kinh tế theo định hướng của đường lối Đổi Mới.

Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang đứng

Nó hoàn toàn không phải là “mặt trái” của kinh tế thị trường mà là sự nửa vời của kinh tế thị trường được duy trì một cách có chủ đích dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Nhóm lợi ích này lợi dụng “vai trò chủ đạo” của kinh tế nhà nước, sự lỏng lẻo của cơ chế quản lý tài sản công, được sự dung túng của những người có quyền lực không bị kiểm soát. Khi pháp quyền được lập lại, quyền lực được kiểm soát thì nhóm lợi ích này, dù đương chức hay đã về hưu, cũng khó mà thoát khỏi sự điều chỉnh của luật pháp.

Đối với trường hợp của Vũ nhôm thì phức tạp hơn nhiều. Suốt 15 năm anh ta làm mưa làm gió ở Đà Nẵng và nhiều nơi khác, nhưng không ai dám động đến anh ta. Từ một người kinh doanh nhỏ (làm nhôm), anh ta nhanh chóng trở thành cánh tay đắc lực của ông Nguyễn Bá Thanh trong những “phi vụ” đặc biệt, rồi lũng đoạn cả cơ quan Thành ủy và chính quyền thành phố, thâu tóm đất đai công sản, rồi đột nhiên trở thành một sĩ quan cao cấp (điều này không ai dám nói công khai, cho đến khi Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa chính thức công bố anh ta là một thượng tá) và dùng tư cách đó đi dọa người khác để tích lũy tài sản.

Điều lạ lùng nhất là anh ta đã khống chế hầu như toàn bộ các cơ quan truyền thông chính thống lớn và phần lớn các địa chỉ đông người theo dõi nhất trên mạng xã hội. Cả “lề phải” lẫn “lề trái” đều không dám động đến anh ta. Ai gây bất lợi cho anh ta đều bị anh ta làm cho điêu đứng. Hiệu lực dập tắt thông tin bất lợi cho anh ta đối với truyền thông còn mạnh hơn là hiệu lực chỉ đạo của Ban Tuyên giáo. Tôi không tin là lãnh đạo các cơ quan truyền thông lớn bị anh ta mua chuộc, nhưng điều chắc chắn là có không ít các nhà báo đã bị anh ta biến thành công cụ hoặc bị anh ta khống chế làm cho sợ hãi. Theo tôi được biết thì có cả một số bộ trưởng và một số vị tướng công an cũng sợ thế lực của anh ta.

Thế lực bảo kê cho anh ta lớn đến cỡ nào, hàng rào bảo kê cho anh ta dày dặc tới đâu, chắc chắn sẽ được làm rõ trong quá trình điều tra sau khi anh ta bị bắt.

Khi cơ quan an ninh tiến hành điều tra tình trạng vi phạm pháp luật của các dự án của anh ta và hàng chục công sản ở vị trí đắc địa mà thành phố Đà Nẵng bán cho anh ta với giá rẻ mạt không qua đấu giá, tôi đã từng cảnh báo trên trang facebook này, rằng những người trong cuộc và đối tượng bị điều tra, trong đó có anh ta, đều phải được bảo vệ để tránh bị diệt khẩu. Nhưng anh ta đã được tạo điều kiện trốn ra nước ngoài sau khi rút gần hết vốn tại các dự án ngay trước khi lệnh khởi tố được thực hiện. Việc bắt được anh ta chỉ là do ngẫu nhiên may mắn.

Đối với những kẻ bảo kê cho anh ta, việc tạo điều kiện cho anh ta chạy trốn chắc chắn sẽ bị quy trách nhiệm. Nhưng tôi đồ rằng, trách nhiệm của ai đó trong việc để cho anh ta chạy trốn sẽ nhẹ hơn rất nhiều so với trách nhiệm của ai đó phải chịu từ những gì mà anh ta sẽ khai ra về những kẻ bảo kê khi anh ta bị bắt. Bởi vì, nếu như anh ta chạy trốn thì phần lớn vụ án sẽ bị kéo dài, có thể kéo dài đến hết nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Tôi không biết những kẻ bảo kê cho anh ta có tính toán như vậy hay không, điều này phải đợi đến sau khi kết thúc điều tra mới có thể biết được.

Đó là lý do nói rằng việc bắt ông Vũ nhôm còn khó hơn là bắt cựu Ủy viên Bộ Chính trị Đinh La Thăng.

Điều đáng mừng là lực lượng trung kiên chính trực trong Bộ Công an hiện đang ở thế thượng phong.

KIẾP NGƯỜI TRÔI



Đầu hàng duyên nợ bỏ cuộc chơi
tôi vào góc tối mụ mị đời
sân ga vắng bóng con tàu đổ
phố cũng không còn dáng mồ côi


Đêm trôi chấp chới muôn trùng cõi
há miệng nuốt từng giọt máu rơi
trái tim dị dạng chừng hấp hối
đập loạn luân hồi đón ly bôi


Phách lạc hồn tan về trăm lối
chia tình trăm ngã kiếp người trôi

Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2018

BONSAI LAMP- BÔNG GIẤY MỸ




NHẬP THẾ

Thơ Nguyễn Thị Thùy Linh








Em không biết mình, con chim xanh cánh xòe nạm ngọc
Hay con lươn trơn đứng dậy bằng đuôi?
Ngác ngơ đi vào thế giới
Nhớ nhung thế tục nồng nàn

Em đã nín thở nhiều giờ trong tưởng tượng
Để sống và vượt qua nỗi cồn cào lá nhú
Đã đập tan sự im lặng này
Bằng sự im lặng khác
Im hơn sâu hơn

Chúng có cùng tần sóng không anh?
Như khi em khóc
Dòng sông liệu có ngưng thở vài giây
Tiếc cho những giọt nước tự quyên sinh xuống cỏ


Trên bãi cát lạnh
Sóng đang ăn những quả chín đầu mùa
Tựa đôi mắt em vừa khóc
Khi run rẩy nói rằng
Trước mặt đất hoàn toàn trong sạch
Em sẽ trút xuống bộ da thịt thiêng liêng này
Chỉ để làm một bông hoa nhỏ
Mọc trên võng mạc thế gian
Và máu của hoa tràn về cứu rỗi.

Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

Bản chất thực sự của trạm thu phí BOT là gì?



BOT là một thuật ngữ tiếng Anh được sử dụng nhiều trong các văn bản cũng như trong giao tiếp bình dân hàng ngày của người Việt Nam. Vậy BOT là gì và trạm thu phí BOT là gì?


Thuật ngữ BOT là viết tắt của cụm từ (Build – Operate - Transfer) hay còn gọi là Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao trong kinh tế. Theo Khoản 3, Điều 3, Nghị định về Đầu tư theo hình thức Đối tác Công tư Hợp đồng thì Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Hình thức đầu tư các công trình giao thông theo dạng BOT ở nước ta hiện đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc trưng của một quốc gia đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thậm chí, trong khoảng 5 năm gần đây, có hàng trăm hợp đồng BOT đang mọc lên như nấm vì nguồn lợi nhuận khổng lồ.

Có thể hiểu nôm na thì những công trình này được hình thành trên cơ sở hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Sau khi nhà đầu từ tiến hành xây dựng công trình giao thông (cầu và đường), nhà đầu tư có quyền kinh doanh công trình trong thời gian nhất định. Khi hết thời hạn thì lúc đó nhà đầu tư mới chuyển giao cho nhà nước quản lý.



Hình ảnh một trạm thu phí BOT. Ảnh: Zing.vn

Vì những dự án giao thông BOT đều là vốn của nhà đầu tư nên khi chạy xe trên đường là các công trình giao thông BOT, người tham gia giao thông đều phải trả tiền. Và để thu tiền của các phương tiện tham gia giao thông thì các chủ đầu tư sẽ xây những trạm thu phí.

Trạm thu phí BOT là những trạm chốt được lập nên tại các tuyến đường thuộc dự án BOT với chức năng thu phí đường bộ của các phương tiện tham gia giao thông trên tuyến đường đó. Số tiền thu được từ người tham gia giao thông sẽ được dùng vào việc chi trả, bảo trì và nâng cấp các tuyến đường. Hiện nay, mức tiền thu phí được nhà nước quy định và điều chỉnh theo từng thời điểm, từng loại hình phương tiện và từng tuyến đường khác nhau.

Mức thu phí tại các trạm BOT được quy định theo thông tư số 159/2013/TT-BTC hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ hoàn vốn đầu tư xây dựng đường bộ. Thông tư này quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ để hoàn vốn các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh. Đối với các dự án đầu tư khác thực hiện theo hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính (đối với đường quốc lộ) hoặc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (đối với đường địa phương).

Đối tượng chịu phí sử dụng đường bộ bao gồm:Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Các trường hợp được miễn phí

- Xe cứu thương, bao gồm cả các loại xe khác chở người bị tai nạn đến nơi cấp cứu.

- Xe cứu hỏa.

- Xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp gồm: máy cày, máy bừa, máy xới, máy làm cỏ, máy tuốt lúa.

- Xe hộ đê, xe làm nhiệm vụ khẩn cấp về chống lụt bão.

- Xe chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh gồm: xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo, xe chở lực lượng vũ trang đang hành quân.

Ngoài ra, đối với xe chuyên dùng phục vụ quốc phòng còn bao gồm các phương tiện cơ giới đường bộ mang biển số: Nền màu đỏ, chữ và số màu trắng dập chìm (dưới đây gọi chung là biển số màu đỏ) có gắn các thiết bị chuyên dụng cho quốc phòng (không phải là xe vận tải thùng rỗng) như: công trình xa, cẩu nâng, téc, tổ máy phát điện. Riêng xe chở lực lượng vũ trang đang hành quân được hiểu là xe ô tô chở người có từ 12 chỗ ngồi trở lên, xe ô tô tải có mui che và được lắp đặt ghế ngồi trong thùng xe, mang biển số màu đỏ (không phân biệt có chở quân hay không chở quân). Xe chuyên dùng phục vụ an ninh của các lực lượng công an (Bộ Công an, Công an tỉnh, thành phố, Công an quận, huyện)

- Đoàn xe đưa tang.

- Đoàn xe có xe hộ tống, dẫn đường.

- Xe ô tô của lực lượng công an, quốc phòng sử dụng vé “Phí đường bộ toàn quốc” được quy định tại Thông tư số 197/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 của Bộ Tài chính không phải nộp phí khi qua trạm thu phí. - Miễn phí sử dụng cầu, đường bộ quốc lộ đối với xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe hai bánh gắn máy, xe ba bánh gắn máy.

- Xe làm nhiệm vụ vận chuyển thuốc men, máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hóa đến những nơi bị thảm họa hoặc đến vùng có dịch bệnh theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm.

Ánh Ngân

Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

Thuyết tiến hóa Darwin: Đã đến lúc chấm dứt sự lừa dối vĩ đại





Keymaster




Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy. Điển hình là trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học thuyết Darwin. Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức: “Thuyết tiến hóa có thể chứng minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a courtroom?).

Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006, ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….

Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”, Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng (tìm xem video “Richard Dawkins stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi của những người theo thuyết sáng tạo). Còn đây là thêm 2 videos bác bỏ Darwin:

The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ

DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w

Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.

Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới, tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.

Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết: “Sự giải thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.

Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.

Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự thật. Với công nghệ 3D hiện đại, nhiều bức tranh tiến hóa được bịa ra bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy (hình đi kèm là một ví dụ).
Nhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.

Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ 20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là missing links (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc, một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới, đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy họ rằng “trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”.
“Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức” (Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California).

Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cái được coi là động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.

Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác hơn, bản chất phản khoa học của nó.

Nó phi khoa học vì vô bằng chứng: “Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa) của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại Denver, Mỹ).

Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như giận dữ bác bỏ cơ chế này:

“Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358, “Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).

Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên, một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn, không có chọn lọc tự nhiên.

Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu, hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu, hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang đường!

Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.

Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn. Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.

Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn “Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại Anh năm 1983. Xin trích đoạn:

“Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.

Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles Darwin.

Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991, trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
“… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science… It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as sound parts).

Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên, thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay. Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât: “một ngày nào đó, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học”.
Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg. Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10 nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp này.

Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và “Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi!

Nguồn: Pham Viet Hung’s blog