Thứ Tư, 13 tháng 9, 2017

BIG BANG VÀ VŨ TRỤ VÔ THỈ CỦA ĐẠO PHẬT




Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



 

Có ai không cảm thấy kinh hải trong khi nhìn vào bầu trời được chiếu sáng với vô số vì sao trong một đêm trời trong không? Ai không từng tự hỏi có một trí thông minh nào đằng sau vũ trụ hay không? Ai không từng tự hỏi có phải trái đất là hành tinh duy nhất nuôi dưỡng sự sống của các tạo vật? Đối với tôi, đây là những sự tò mò tự nhiên trong tâm thứccon người. Suốt lịch sử văn minh của loài người có một sự thôi thúc thật sự để tìm những câu trả lời cho các câu hỏi này. Một trong những thành tựu lớn của khoa học hiện đại là dường như nó đã đưa chúng ta đến gần hơn bao giờ hết một sự thấu hiểu về những điều kiện và những tiến trình phức tạp làm cơ sở cho những nguồn gốc của vũ trụ.

Giống như nhiều nền văn hóa cổ truyền, Tây Tạng có một hệ thống chiêm tinh học phức tạp chứa đựng những yếu tốmà văn hóa hiện đại gọi là thiên văn học, vì thế người Tây Tạng đã đặt tên cho hầu hết những vì sao thấy được bằng mắt thường. Trong thực tế, người Tây Tạng và Ấn Độ từ lâu đã có thể tiên đoán được những vụ nhật thực và nguyệt thực với một mức độ chính xác cao trên căn bản của những quán sátthiên văn của họ. Như một cậu bé ở Tây Tạng, tôi đã dành nhiều đêm nhìn chăm chú vào bầu trời với kính viễn vọng của tôi, nghiên cứu những hình dáng và tên của những chòm sao.

Tôi nhớ cho đến ngày nay sự sung sướng mà tôi cảm nhận khi tôi có thể thăm viếng một đài quan sátthiên văn thật sự ở Delhi tại Cung Thiên Văn Birla. Năm 1970, trong chuyến viếng thăm lần đầu tiên của tôi đến phương Tây, tôi được mời bởi Đại học Cambridge ở Anh quốc để nói chuyện tại Thượng Nghị Viện và Khoa Thần Học. Khi vị hiệu phó của trường hỏi rằng tôi có điều gì đó đặc biệt muốn làm ở trường Cambridge không, tôi đã trả lời không do dự là tôi ao ước thăm viếng kính thiên văn quang tuyếnnổi tiếng tại Khoa Thiên Văn Học.

Trong một hội nghị Tâm Thức và Đời Sống tại Dharamsala, nhà vật lý thiên văn Piet Hut, từ Viện Nghiên Cứu Tiên Tiến tại Princeton, trình bày một mô phỏng bằng máy điện toán vấn đề những nhà thiên vănhọc hình dung các sự kiện vũ trụ hiển bày khi các thiên hà va chạm nhau như thế nào. Đó là một cảnh tượng quyến rũ, một quang cảnh sống động. Những máy vi tính hoạt hình như vậy giúp chúng ta hình dung cung cách, ở những điều kiện nào đó một cách lập tức sau vụ bùng nổ vũ trụ, vũ trụ phát triển xuyên qua thời gian theo những quy luật căn bản của vũ trụ học. Sau sự trình bày của Piet Hut, chúng tôi có một cuộc thảo luận mở. Hai trong những người tham dự khác tại cuộc gặp gở, David Finkelstein và George Greenstein, đã cố gắng để chứng minh hiện tượng mở rộng vũ trụ bằng việc sử dụng những dải đàn hồi với các vành đai trên chúng. Tôi nhớ điều này một cách rõ ràng vì hai người thông dịch của tôi và tôi đã có một sự khó khăn nào đó trong việc hình dung sự mở rộng vũ trụ từ sự minh chứng này. Sau này, tất cả những nhà khoa học tại cuộc gặp gở cùng tham dự vào để đơn giản hóa sự giải thích, mà dĩ nhiên lại có hậu quả thậm chí làm chúng tôi rối rắm hơn nữa.

Vũ trụ học hiện đại – giống như nhiều thứ khác trong khoa học vật lý – được thành lập trên thuyết tương đối của Einstein. Trong vũ trụ học, những sự quán sát thiên văn đi cùng với thuyết tương đối tổng quát, là thứ định hình lại trọng lực như đường cong của cả không gian và thời gian, đã cho thấy rằng vũ trụcủa chúng ta không vĩnh cửu và cũng không tĩnh trong hình thể hiện tại của nó. Nó đang tiến hóa và mở rộng một cách liên tục. Sự khám phá này phù hợp với trực giác căn bản của những nhà thiên văn học Phật giáo cổ đại, những người nhận thức rằng bất cứ hệ thống vũ trụ đặc thù nào cũng đi qua những giai đoạn hình thành, phát triển, và cuối cùng tan hoại. Trong thiên văn học hiện đại, vào những năm 1920, cả sự tiên đoán lý thuyết (do Alexander Friedmann) và sự quán sát thực nghiệm chi tiết (do Edwin Hubble) – thí dụ, sự quán sát rằng sự chuyển dịch màu đỏ được đo lường trong ánh sáng phát ra bởi những thiên hà xa thì lớn hơn , so với sự phát ra ánh sáng bởi những thiên hà gần hơn – được chứng minh một cách đáng tin tưởng rằng vũ trụ là cong và đang mở rộng.

Giả định rằng sự mở rộng này sinh khởi từ một vụ nổ vũ trụ lớn – vụ nổ lớn nổi tiếng, big bang, vốn được được cho là đã từng xảy ra khoảng 12 đến 15 tỉ năm trước. Những nhà vũ trụ học ngày nay tin rằng vài giây sau vụ nổ này, nhiệt độ giảm xuống tới một điểm mà những phản ứng đã xảy ra bắt đầu làm hạt nhân của những thành phần nhẹ hơn, mà từ đó đến rất lâuvề sau này tất cả vật chất trong vũ trụđi đến hình thành. Vì vậy, tất cả không gian, thời gian, vật chất, và năng lượng như chúng ta biết và kinh nghiệm chúng đi đến hình thành từ quả cầu lửa của vật chất và bức xạ này. Trong những năm 1960 bức xạ sóng vi ba nền đã được phát hiện trong toàn vũ trụ; nó đi đến được nhìn nhận như một tiếng vang, hay ánh sáng đỏ rực rở còn sót lại từ những sự kiện của big bang. Sự đo lường chính xác quang phổ, sự phân cực và phân bổ không gian của sự bức xạ nền này dường như đã được xác nhận, tối thiểutrong những mô hình phác thảo của lý thuyết hiện tại về nguồn gốc của vũ trụ.

Cho đến khi tình cờ phát hiện tiếng vang của sóng vi ba nền này, thì đã có một sự tranh luận đang tiếp diễn giữa hai trường phái ảnh hưởng lớn trong vũ trụ học hiện đại. Một số thiên về việc thấu hiểu sự dản ra của vũ trụ như một lý thuyết trạng thái ổn định, có nghĩa rằng vũ trụ đang dản ra ở một tốc độ ổn định, với những quy luật bất biến của vật lý được áp dụng trong mọi lúc. Về phía khác đó là những người thấy sự tiến hóa trong dạng thức của một vụ nổ vũ trụ. Tôi nghe nói rằng những người ủng hộ mô hình trạng thái ổn định kể cả một số nhà tư tưởng lớn nhất của vũ trụ học hiện đại, chẳng hạn như Fred Hoyle. Trong thực tế, vào một thời điểm trong trí nhớ, thì lý thuyết này từng là quan điểm khoa học chính thống về nguồn gốc của vũ trụ. Ngày nay, dường như, hầu hết những nhà vũ trụ học tin chắc rằng tiếng vang của sóng vi ba nền này chứng minh một cách thuyết phục giá trị của thuyết big bang. Đây là một thí dụ tuyệt vời về vấn đề trong khoa học, với sự phân tích sau cùng, chính chứng cứ thực nghiệm đã trình bày sự phán xét cuối cùng như thế nào. Ít nhất trong nguyên tắc, điều này cũng đúng trong tư tưởng Phật giáo, như nói rằng thách thức thẩm quyền của chứng cứ thực nghiệm là truất quyền của chính mình như một kẻ nào đó xứng đáng với sự tham gia bình phẩm trong một cuộc thảo luận.



Ở Tây Tạng có những huyền thoại khó hiểu về sự tạo hóa bắt nguồn trong một tôn giáo trước Phật giáolà đạo Bon. Chủ đề trung tâm trong những huyền thoại này là việc thiết lập trật tự từ trong hổn độn, chiếu sáng bóng tối, ngày từ đêm, hiện hữu từ không gì cả. Những hành vi này được tác động bởi một đấng siêu nhiên, đấng tạo ra mọi thứ từ tiềm năng thuần khiết. Một loạt những huyền thoại khác miêu tảvũ trụ như một tạo vật sống được sinh ra từ một trứng vũ trụ. Trong những truyền thống tâm linh và triết lý phong phú của Ấn Độ cổ đại, nhiều quan điểm vũ trụ đối lập được phát triển. Những thứ này kể cả những phát biểu đa dạng có hệ thống của giáo lý Số Luận ban đầu về tính vật chất nguyên sơ, vốn diễn tả về nguồn gốc của vũ trụ và sự sống trong nó như sự biểu hiện một thể nền cơ bản tuyệt đối. Thuyết nguyên tử của phái Thắng Luận (Vaiśeṣika), thay thế một đa nguyên của những “nguyên tử” không thể phân chia như những đơn vị căn bản của thực tại cho một thể nền cơ bản độc nhất; những giáo thuyết khác nhau của Brahman (Phạm Thiên) hay Ishvara (Tự Tại Thiên) như nguồn gốc của sự tạo hóa thần thánh; thuyết của những nhà duy vật cực đoan Charvaka[1] về sự tiến hóa của vũ trụ qua một sự phát triển vật chất không mục đích, ngẫu nhiên; với tất cả những tiến trình tinh thần được xem như khởi nguồn của những hình thể phức tạp của hiện tượng vật chất. Lập trường cuối cùng này thì không khác với sự tin tưởng của chủ nghĩa duy vật khoa học rằng tâm thức có thể quy thành thực tại thần kinh và sinh hóa và những thứ này lần lượt là những sự kiện của vật lý. Phật giáo trái lại, giải thích sự tiến hóacủa vũ trụ trong dạng thức của nguyên lý nguồn gốc lệ thuộc hay lý duyên khởi, trong đó nguồn gốc và sự tồn tại của mọi thứ phải được thấu hiểu trong dạng thức của một mạng lưới phức tạp của những nguyên nhân và điều kiện có liên hệ với nhau. Điều này áp dụng cho tâm thức cũng như vật chất.



Theo những kinh điển ban sơ, chính Đức Phật không bao giờ trả lời trực tiếp những câu hỏi đặt ra cho Ngài về nguồn gốc của vũ trụ. Trong sự so sánh nổi tiếng, Đức Phật liên hệ với người hỏi những câu hỏi kiều này cũng như một người bị bắn bởi mũi tên độc. Thay vì để được giải phẩu để rút mũi tên ra, người bị thương lại khăng khăng đòi hỏi trước phải tìm ra đẳng cấp, tên họ, và dòng tộc của người bắn tên; người ấy da thâm, nâu, hay trắng trẻo; người ấy sống trong làng xóm, thị trấn, hay thành phố; cây cung thường hay cây nỏ; dây cung làm bằng sợi, cây sậy, cây gai dầu, sợi xoắn, hay vỏ cây; mũi tên làm bằng gỗ hoang hay gỗ trồng; và v.v… Những diễn giải về ý nghĩa sự từ chối trả lời trực tiếp những câu hỏi này của Đức Phật thì bất đồng. Một quan điểm nói rằng Đức Phật đã từ khước trả lời vì những câu hỏi siêu hình này không liên quan một cách trực tiếp đến giải thoát. Một quan điểm khác, một cách chính yếu luận bàn bởi Long Thọ, rằng trong chừng mực nào đó những câu hỏi này bị đóng khung trên điều giả định trước của thực tại thuộc bản chất (tự tánh thực tại) của mọi thứ, và không phải trên duyên sanh, thì câu trả lời sẽ dẫn đến việc chấp thủ sâu hơn trong sự tin tưởng về sự tồn tại cố hữu thật sự (tự tánh).

Những câu hỏi được chia thành từng nhóm hơi khác nhau trong những truyền thống Phật giáo khác nhau. Kinh tạng Pali liệt kê mười câu hỏi “không trả lời” như vậy, trong khi truyền thống cổ điển Ấn Độđược người Tây Tạng kế thừa liệt kê mười bốn câu hỏi sau:
Có phài tự ngã và vũ trụ là vĩnh cửu?
Có phải tự ngã và vũ trụ là tạm thời?
Có phải tự ngã và vũ trụ là cả vĩnh cửu và tạm thời?
Có phải tự ngã và vũ trụ không vĩnh cửu cũng không tạm thời?
Có phải tự ngã và vũ trụ có một sự bắt đầu?
Có phải tự ngã và vũ trụ không có sự bắt đầu?
Có phải tự ngã và vũ trụ có cả sự bắt đầu và không có sự bắt đầu?
Có phải tự ngã và vũ trụ không có sự bắt đầu cũng không có sự không bắt đầu?
Có phải Đức Thế Tôn tồn tại sau khi chết?
Có phải Đức Thế Tôn không tồn tại sau khi chết?
Có phải Đức Thế Tôn cả tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
Có phải Đức Thế Tôn cả không tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết?
Có phải tâm thức là một với thân thể?
Có phải tâm thức và thân thể là hai thực thể riêng biệt?

Bất chấp truyền thống kinh điển của Đức Phật từ khước tham gia vào trình độ luận bàn siêu hình này, nhưng Phật giáo như một hệ thống triết lý Ấn Độ cổ đại đã phát triển một lịch sử dài lâu về việc nghiên cứu một cách sâu sắc trong những câu hỏi cơ bản và lâu đời này về sự tồn tại của chúng ta và thế giớimà chúng ta sống trong ấy. Truyền thống Tây Tạng của tôi đã thừa kế di sản triết lý này.



Có hai truyền thống chính về vũ trụ học trong Phật giáo. Một là hệ thống A Tỳ Đạt Ma, được chia sẻ bởi nhiều trường phái Phật giáo, chằng hạn như Phật giáo Nguyên thỉ (Theravada), vốn là trường phái chiếm ưu thế cho đến ngày nay ở những nước như Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Campuchia, và Lào. Mặc dù trường phái Phật giáo truyền đến Tây Tạng là Đại thừa Phật giáo, một cách đặc biệt là hình thức của Phật giáo Ấn Độ được biết như truyền thống Nalanda, nhưng tâm lý học và vũ trụ học A Tỳ Đạt Ma đã trở thành một bộ phận quan trọng của quang cảnh tri thức Tây Tạng. Tác phẩm chính của hệ thống A Tỳ Đạt Ma về vũ trụ học được truyền vào Tây Tạng là Kho Tàng Kiến Thức Cao Cấp (A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận) của Thế Thân. Truyền thống vũ trụ học thứ hai ở Tây Tạng là hệ thống được thấy trong một tập họp của những văn bản Phật giáo Kim Cương thừa quan trọng được biết như Kalachakra, có nghĩa là “bánh xe thời gian” hay “thời luân”. Mặc dù truyền thống quy cho giáo lý chính của chu trình Thời Luân là Đức Phật, nhưng thật khó để xác định một cách chính xác năm tháng xuất xứ của những tác phẩm sơ khai nhất trong hệ thống này. Theo sự chuyển dịch những văn kiện then chốt của Thời Luân từ Sanskrit sang Tạng ngữ vào thế kỷ 11, Thời Luân đã đi đến chiếm cứ một vị trí quan trọng trong di sản Phật giáo Tây Tạng.



Vào lúc 20 tuổi, khi tôi bắt đầu sự học tập hệ thống những văn bản thảo luận về vũ trụ học của A Tỳ Đạt Ma, thì tôi biết rằng thế giới là tròn, đã nhìn vào những hình chụp các miệng núi lửa trên mặt trăng ở những tạp chí, và có một sự hiểu biết nào đó về vòng quay quỹ đạo của trái đất và mặt trăng chung quanh mặt trời. Thế nên tôi phải thừa nhận, khi tôi đang học sự trình bày cổ điển của Thế Thân về hệ thống vũ trụ A Tỳ Đạt Ma, thì nó đã không hấp dẫn nhiều với tôi.

Vũ trụ A Tỳ Đạt Ma diễn tả một trái đất bằng phẳng, với các thiên thể như mặt trời và mặt trăng xoay chung quanh. Theo thuyết này, trái đất của chúng ta là một trong bốn “lục địa” – trong thực tế, lục địa phía nam – nằm trong bốn hướng chủ yếu của một núi cao chót vót gọi là núi Tu Di, ở trung tâm của vũ trụ. Mỗi một lục địa này được nằm bên sườn bởi hai lục địa nhỏ hơn, trong khi khoảng cách giữa chúng được choán đầy bởi những đại dương rộng lớn. Toàn bộ hệ thống thế giới này được nâng đở bởi một “mặt đất”, hóa ra được duy trì lơ lững trong không gian trống rỗng. Năng lực của “không khí” giữ cho nền móng nổi trong không gian trống rỗng. Thế Thân cho một sự diễn tả chi tiết về đường hướng quỹ đạo của mặt trời và mặt trăng, kích thước của chúng, và khoảng cách của chúng từ mặt đất.

Kích thước những khoảng cách này, và v.v… mâu thuẩn một cách dứt khoát bởi chứng cứ thực nghiệm của vũ trụ học hiện đại. Có một châm ngôn trong triết lý Phật giáo rằng duy trì một giáo thuyết mâu thuẩn với lý trí là phá hoại uy tín của người [bảo thủ] ấy. Do vậy, thật khó để theo vũ trụ học của A Tỳ Đạt Ma một cách chữ nghĩa. Thực tế, ngay cả không có nguồn gốc với khoa học hiện đại, thì cũng có một loạt những mô hình mâu thuẩn về vũ trụ học trong tư tưởng Phật giáo cho chúng ta đặt nghi vấn về chân lý theo chữ nghĩa của bất cứ phiên bản nào. Quan điểm của riêng tôi là Phật giáo phải từ bỏ nhiều khía cạnh của vũ trụ học A Tỳ Đạt Ma.

Phạm vi nào mà chính Thế Thân tin tưởng trong thế giới quan A Tỳ Đạt Ma thì để ngỏ cho nghi vấn. Ngài đang trình bày một cách hệ thống những suy đoán vũ trụ quan đa dạng ở Ấn Độ thời đó. Nói một cách nghiêm túc, sự diễn tả vũ trụ và nguồn gốc của nó – mà những kinh luận Phật giáo liên hệ đến như “vật chứa” – là thứ yếu đối với tầm quan trọng của bản chất và nguồn gốc của chúng sanh “được chứa đựng.” Học giả Tây Tạng Gendun Chophel, người đã du hành một cách rộng rãi khắp lục địa Ấn Độtrong những năm 1930, nhắc nhở rằng sự diễn tả của A Tỳ Đạt Ma về “trái đất” như một lục địa phương nam trình bày một bản đồ cổ điển của trung tâm Ấn Độ. Ông có một tường thuật hấp dẫn những diễn tảvề ba “lục địa” còn lại phù hợp với vị trí địa lý thực tế của Ấn Độ hiện đại như thế nào. Linh cảm này có đúng không hay có phải những vị trí này trong thực tế được đặt tên sau khi “những lục địa” được cho là bao quanh núi Tu Di vẫn là một nghi vấn.



Trong một số kinh điển buổi đầu, những hành tinh được diễn tả như những khối hình cầu lơ lững trong không gian trống trải, không khác khái niệm những hệ thống hành tinh trong vũ trụ học hiện đại. Trong vũ trụ quan Thời Luân, một dãy xác định được đề ra cho sự tiến hóa của những thiên thể trong thiên hà hiện tại. Thứ nhất, những ngôi sao được hình thành, sau đó hệ thống mặt trời đi đến hình thành, và v.v… Những gì hấp dẫn trong cả vũ trụ quan A Tỳ Đạt Ma và Thời Luân là khung cảnh lớn mà chúng cung cấp cho khởi nguyên của vũ trụ. Cả A Tỳ Đạt Ma và Thời Luân cùng cho thuật ngữ kỷ thuật trichilicosm hay ba nghìn đại thiên thế giới (tôi tin rằng tương ứng cho khoảng một tỉ hệ thống thế giới) để chuyên chở cho khái niệm về những hệ thống vũ trụ bao la, và cả hai cho rằng có vô số những hệ thống như vậy. Cho nên theo nguyên tắc, mặc dù không có “bắt đầu” hay “kết thúc” với toàn thể vũ trụ, thì vẫn có một tiến trình thời gian xác định của một sự bắt đầu, đoạn giữa, và kết thúc (sanh, trụ, diệt) trong mối quan hệ đến bất cứ một hệ thống thế giới cá biệt nào.

Sự tiến triển của một hệ thống vũ trụ đặc thù được thấu hiểu trong dạng thức của bốn giai đoạn chính, được biết như bốn thời kỳ của (1) không, (2) thành, (3) trụ, và cuối cùng (4) hoại. Mỗi giai đoạn này được cho là tồn tại một thời gian dài không thể tưởng, hai mươi “trung vô số kiếp[2]”, và chỉ ở trung vô số kiếp cuối cùng của giai đoạn thành mà chúng sanh mới được nói là tiến hóa. Kiếp hoại của một hệ thống vũ trụ có thể được tạo bởi bất cứ ba yếu tố khác hơn là đất và không gian – có tên là: nước, lửa, và không khí. Bất cứ yếu tố nào đưa đến sự hoại của hệ thống thế giới trước sẽ hoạt động như căn bảncho việc tạo thành một vũ trụ mới.

Do thế, trung tâm của vũ trụ học Phật giáo không chỉ là ý tưởng rằng có những hệ thống thế giới phức tạp – nhiều hơn số hạt cát trong sông Hằng, theo một số kinh luận – mà cũng là ý tưởng rằng chúng ở trong một trạng thái liên tục hình thành và mất đi. Điều này có nghĩa rằng vũ trụ không có sự bắt đầu tuyệt đối. Những câu hỏi của ý tưởng này đề ra cho khoa học là căn bản. Chỉ có một big bang hay có nhiều big bang? Có một vũ trụ hay có nhiều, hay thậm chí có vô số? Vũ trụ giới hạn hay vô hạn, như Phật giáo khẳng định? Vũ trụ của chúng ta sẽ mở rộng vô hạn, hay sự mở rộng của nó chậm lại, ngay cả đảo ngược lại, vì thế cuối cùng nó sẽ kết thúc trong một cuộc khủng hoảng lớn? Có phải vũ trụ của chúng ta là bộ phận của một vũ trụ tái sinh không ngừng? Các nhà khoa học đang tranh luận những vấn đề này một cách mạnh liệt. Theo quan điểm của Phật giáo, có câu hỏi xa hơn này. Ngay cả nếu chúng ta cho rằng chỉ có một vụ nổ vũ trụ, hay một big bang, thì chúng ta vẫn có thể hỏi, Có phải đây là nguồn gốc của toàn thể vũ trụ hay có phải điều này chỉ chứng tỏ nguồn gốc hệ thống vũ trụ đặc thù của chúng ta mà thôi? Thế nên câu hỏi then chốt là có phải big bang – điều theo vũ trụ học hiện đại, là sự khởi đầu hệ thống thế giới hiện tại của chúng ta – thật sự là khởi đầu của mọi thứ?



Theo quan điểm Phật giáo, ý tưởng rằng có một sự bắt đầu xác định là khả nghi cao độ. Nếu có một sự khởi đầu chắc chắn, nói một cách logic, điều này để lại chỉ hai lựa chọn. Một là hữu thần, vốn đề xướngrằng vũ trụ được tạo thành bởi một trí thông minh hoàn toàn siêu việt, và do thế ở ngoài luật nhân quả. Thứ hai là vũ trụ đi đến hình thành hoàn toàn không có nguyên nhân gì cả. Phật giáo phủ nhận cả hai lựa chọn này. Nếu vũ trụ được hình thành bởi một trí năng tiên quyết, thì những câu hỏi về vị thế bản thể học của một trí năng như vậy và loại thực tại nào mà nó là, vẫn tồn tại.

Nhà đại luận lý và nhận thức luận Pháp Xứng (thế kỷ thứ 7 Dương lịch) đã trình bày sự phê bình thuyết hữu thần theo tiêu chuẩn Phật giáo một cách thuyết phục. Trong tác phẩm cổ điển Giải Thích Nhận Thức có Giá Trị[3] của ngài, Pháp Xứng đã phê bình một số “chứng minh” ảnh hưởng nhất cho sự tồn tại của đấng Tạo Hóa được hình thành bởi một số trường phái triết lý hữu thần Ấn Độ. Vắn tắt, những lập luận cho thuyết hữu thần hoạt động như sau: Những thế giới của cả kinh nghiệm nội tại và vật chấtbên ngoài được tạo ra bởi một trí năng tiên quyết, (a) bởi vì, như những dụng cụ thợ mộc, chúng vận hành trong một trình tự liên tục, của tính trật tự; (b) giống như những đồ đạc tạo tác chẳng hạn những chiếc chậu, chúng có hình thể; và (c) giống như những vật thể sử dụng hàng ngày thì chúng sở hữuhiệu lực nhân quả.

Những lập luận này, tôi nghĩ, có một sự giống nhau với lập luận hữu thần trong truyền thống triết họcphương Tây được biết như Thiết kế luận ( lập luận xuất phát từ ý định[4]-Lập luận về sự tồn tại của một đấng tạo hóa trí năng). Sự lập luận này lấy trật tự ở mức độ cao cấp mà chúng ta nhận thức trong thiên nhiên như chứng cứ của một trí năng vốn phải mang nó thành hiện hữu. Giống như chúng ta không thể nhận thức về một đồng hồ đeo tay mà không có người làm ra đồng hồ, vì thế thật khó khăn để nhận thức về một trật tự vũ trụ mà không có một trí năng ở phía sau nó.

Những trường phái triết lý Ấn Độ cổ truyền ủng hộ chủ trương một sự thấu hiểu hữu thần về nguồn gốc của vũ trụ cũng đa dạng như những đối tác của họ ở phương Tây. Một trong những trường phái sớm nhất là một nhánh của phái Số Luận, vốn giữ quan điểm rằng vũ trụ đi đến hình thành qua sự tác độngsáng tạo lẫn nhau về những gì họ gọi là “thể chất nguyên sơ”, tự tánh (prakit), và Tự Tại (Ishvara), hay Thượng Đế. Đây là một thuyết siêu hình tinh vi đặt nền tảng trên luật nhân quả tự nhiên, giải thích vai trò của Thần Thánh trong dạng thức của những đặc trưng huyền bí hơn của thực tại, chẳng hạn như sự tạo hóa, mục tiêu của sự tồn tại, và những vấn đề như vậy.



Điểm then chốt trong sự phê bình của Pháp Xứng liên hệ đến việc chứng minh một sự mâu thuẩn căn bản mà ngài cảm thấy trong lập trường hữu thần (có sự tạo hóa). Ngài cho thấy rằng chính nổ lực giải thích cho nguồn gốc của vũ trụ trong dạng thức hữu thần được động viên bởi nguyên lý nhân quả, tuy thế - trong sự phân tích sau cùng – thuyết hữu thần bị buộc phủ nhận nguyên lý này. Bằng việc đặt một sự khởi đầu tuyệt đối với chuỗi nhân quả, những nhà hữu thần đang hàm ý rằng có thể có điều gì đó, tối thiểu là một nhân, mà tự nó ở ngoài luật nhân quả. Sự khởi đầu này, vốn có hiệu quả với nguyên nhânđầu tiên, tự nó sẽ là sẳn có. Nguyên nhân đầu tiên sẽ phải là một yếu tố căn bản vĩnh cữu và tuyệt đối. Nếu là như vậy, chúng ta giải thích cho năng lực sản sinh mọi sự vật và sự kiện vốn là tạm thời như thế nào? Pháp Xứng lập luận rằng không có hiệu ứng nhân quả nào có thể phù hợp với một yếu tố cơ bản thường hằng như vậy. Về bản chất, ngài đang nói rằng sự thừa nhận một nguyên nhân đầu tiên sẽ phải là một giả thuyết siêu hình tùy tiện. Nó không thể chứng minh được.

Vô Trước, sáng tác trong thế kỷ thứ 4, đã hiểu những nguồn gốc của vũ trụ trong dạng thức của thuyết duyên khởi. Thuyết này trình bày rõ rằng tất cả mọi thứ sinh khởi và đi đến chấm dứt trong sự lệ thuộctrên những nguyên nhân và điều kiện (nhân và duyên). Vô Trước nhận diện ba điều kiện then chốt chi phối nguồn gốc lệ thuộc hay duyên khởi. Thứ nhất là điều kiện của sự vắng mặt một trí năng có trước. Vô Trước phủ nhận khả năng vũ trụ là sự tạo hóa của một trí năng có trước, lập luận rằng nếu người ta thừa nhận một trí năng như vậy, thì nó sẽ là hoàn toàn vượt khỏi nhân và quả. Một sự tồn tại tuyệt đối là vĩnh cửu, siêu việt, và vượt quá sự phạm vi của luật nhân quả sẽ không có khả năng để tương tác với nhân và quả, và vì thế không thể bắt đầu thứ gì đó và cũng không thể chấm dứt nó. Thứ hai là điều kiệnvô thường, mà nó quyết định rằng mỗi nguyên nhân và điều kiện cho phát sinh thế giới duyên khởi tự chính chúng là vô thường và đối tượng để thay đổi. Thứ ba là điều kiện tiềm năng. Nguyên tắc này liên hệ đến sự kiện rằng điều gì đó không thể được sản sinh từ chính bất cứ thứ gì khác. Đúng hơn, một tập họp đặc thù của những nguyên nhân và điều kiện để phát sinh một tập họp những hệ quả hay các hậu quả đặc thù, phải có một loại quan hệ bản chất giữa chúng. Vô Trước quả quyết rằng nguồn gốc của vũ trụ phải được hiểu trong dạng thức của nguyên lý về một chuỗi vô tận của nhân quả mà không có trí năng siêu việt hay tiên khởi.



Phật giáo và khoa học đều căn bản không sẳn lòng đưa ra một bản chất siêu việt như nguồn gốc của mọi thứ. Điều này hầu như không đáng ngạc nhiên cho rằng những truyền thống khảo sát này căn bảnlà vô thần (không có đấng tạo hóa) trong xu hướng tư tưởng triết lý của họ. Tuy nhiên, nếu về một mặt, thuyết big bang được xem như sự khởi đầu tuyệt đối, vốn hàm ý rằng vũ trụ có một thời điểm bắt đầu xác định, thì ngoại trừ người ta từ chối xét đoán vượt khỏi vụ nổ vũ trụ này, bằng không thì những nhà vũ trụ học phải chấp nhận dù muốn dù không một loại nguyên lý siêu việt nào đó như nguyên nhân của vũ trụ. Điều này có thể không giống như Thượng Đế mà những người hữu thần (có đấng tạo hóa) đưa ra; tuy vậy, trong vai trò nguyên sơ như sự tạo hóa của vũ trụ, thì nguyên lý siêu việt này sẽ là một loại thần thánh.

Về mặt khác, nếu (như một số nhà khoa học đã cho rằng) big bang là một điểm khời đầu kém quan trọng hơn một điểm dao động nhiệt động lực học, thì có chỗ cho một sự thấu hiểu tế nhị và phức tạphơn cho sự kiện vũ trụ này. Tôi nghe nói rằng nhiều nhà khoa học cảm thấy sự giám định vẫn tiếp tục về vấn đề có phải big bang là sự khởi đầu tuyệt đối của mọi thứ không. Chứng cứ thực nghiệm kết luậnduy nhất, như tôi nghe nói, là môi trường vũ trụ của chúng ta dường như đã tiến hóa từ một trạng tháinóng, đặc một cách dữ dội. Cho đến khi một chứng cứ đáng tin cậy hơn có thể được tìm ra cho những khía cạnh đa dạng của thuyết big bang, và những tuệ giác then chốt của vật lý lượng tử và thuyết tương đối hoán toàn nhất trí, thì nhiều câu hỏi vũ trụ phát sinh ở đây sẽ vẫn tồn tại trong thế giới siêu hình, chứ không phải khoa học thực nghiệm.



Theo vũ trụ quan Phật giáo, thế giới được cấu thành bởi năm yếu tố: yếu tố hổ trợ là không gian, và bốn yếu tố căn bản là đất, nước, lửa, và không khí. Không gian cho phép sự tồn tại và hoạt động của tất cả những yếu tố khác. Hệ thống Thời Luân trình bày không gian không như hoàn toàn không có gì cả, nhưng như một môi trường của “những hạt không” hay “những hạt không gian” (vi trần), vốn được nghĩ như những hạt “vật chất” cực kỳ vi tế. Yếu tố không gian này là căn bản của sự tiến hóa và sự tan rã của bốn yếu tố, những thứ được sinh ra từ nó và hấp thụ ngược lại vào trong nó. Tiến trình tan rã xảy ra trong trình tự này: đất, nước, lửa, và không khí. Tiến trình phát sinh xảy ra theo trình tự này: không khí, lửa, nước, và đất.

Vô Trước xác định rằng những yếu tố căn bản này, là những thứ được ngài diễn tả như “bốn yếu tố lớn” hay “tứ đại”, không nên được hiểu trong dạng thức của vật chất theo ý nghĩa tuyệt đối. Ngài giải thíchmột sự phân biệt giữa “bốn yếu tố lớn”, vốn giống như tiềm năng hơn, và bốn yếu tố là những thành phần của vật chất tổng hợp hay hợp chất. Có lẽ bốn yếu tố trong một đối tượng vật chất có lẽ được hiểu một cách tốt hơn như rắn chắc (đất), chất lỏng (nước), sức nóng (lửa), và năng lượng động lực (không khí). Bốn yếu tố được phát sinh từ cấp độ vi tế đến thô phù, từ nhân tiềm ẩn của những hạt không, và chúng tan rã từ cấp độ thô phù đến vi tế và trở lại vào trong những hạt không của không gian. Không gian, với những hạt không của nó, là căn bản cho toàn bộ tiến trình. Thuật ngữ hạt (particle) có lẽ không phù hợp khi liên hệ đến những hiện tượng này, vì nó đã hàm ý hình thành những thực tế vật chất, Thật đáng tiếc là chỉ có diễn tả chút ít trong văn bản giúp để miêu tả những hạt không gian này xa hơn.

Vũ trụ học Phật giáo thiết lập một vòng tuần hoàn của vũ trụ theo cách sau: thứ nhất có một giai đoạn hình thành (thành), tiếp theo một giai đoạn khi vũ trụ tồn tại (trụ), sau đó một giai đoạn khi nó bị tàn hoại (hoại), được tiếp theo bởi một giai đoạn trống không (không) trước khi hình thành một vũ trụ mới. Trải qua bốn thời kỳ, giai đoạn trống không, những hạt không gian tồn tại, và chính là từ những hạt này mà tất cả vật chất trong một vũ trụ mới được hình thành. Chính là trong những hạt không gian này mà chúng ta tìm thấy một nguyên nhân căn bản của toàn bộ thế giới vật chất. Nếu chúng ta mong muốn diễn tả sự hình thành vũ trụ và những thân thể vật chất của chúng sanh, thì chúng ta cần phân tích cung cách những yếu tố khác nhau cấu thành để cho vũ trụ ấy có thể hình thành từ những hạt không giannày.

Chính trên căn bản tiềm năng đặc thù của những hạt đó mà cấu trúc của vũ trụ và mọi thứ trong nó – những hành tinh, những vì sao, chúng sanh, chẳng hạn như con người và thú vật – đã hình thành. Nếu chúng ta đi ngược lại nguyên nhân cơ bản của những đối tượng vật chất của thế giới, thì cuối cùngchúng ta đến những hạt không gian. Chúng có trước big bang (là thứ để nói cho bất cứ một sự bắt đầu mới nào) và quả thật là phần còn sót của vũ trụ trước đó vốn đã bị tan hoại. Tôi nghe nói rằng một số nhà vũ trụ học ủng hộ ý tưởng rằng vũ trụ của chúng ta đã sinh khởi như một sự dao động thất thường từ điều được gọi là chân không lượng tử (quantum vacuum). Đối với tôi ý tưởng này âm hưởng giáo lýThời Luân về những hạt không gian (vi trần).

Theo quan điểm của vũ trụ học hiện đại, việc thấu hiểu nguồn gốc của vũ trụ trong thời gian vài giây đầu tiên đặt ra một sự thử thách gần như không thể vượt qua. Một phần của vấn đề nằm trong sự kiện mà bốn năng lực tự nhiên được biết – lực hấp dẫn và điện từ học, và những năng lực mạnh và yếu của hạt nhân nguyên tử - không hoạt động vào thời điểm này. Chúng tham dự sau đó, khi mật độ và nhiệt độ của giai đoạn đầu tiên đã giảm sút một cách đáng kể để cho các hạt căn bản của vật chất, chẳng hạn hydrogen và helium bắt đầu hình thành. Sự khởi đầu chính xác của big bang là điều được gọi là “tính phi thường”. Ở đây, tất cả những phương trình toán học và quy luật vật lý bị phá vở. Những số lượng thông thường đo lường được, chẳng hạn mật độ và nhiệt độ, trở thành bất định vào thời điểm như thế.

Vì sự nghiên cứu của khoa học về nguồn gốc của vũ trụ đòi hỏi việc áp dụng những phương trình toán học và sự thừa nhận giá trị các quy luật vật lý, dường như thế, nếu những phương trình này và những quy luật bị phá vở, thì chúng ta phải tự hỏi mình là bao giờ chúng ta có thể có một sự thấu hiểu hoàn toàn về một vài giây đầu tiên của big bang. Những người bạn khoa học của tôi đã nói với tôi rằng những tâm thức tuyệt vời nhất đang dấn thân trong việc khám phá câu chuyện về những giai đoạn đầu tiên trong việc hình thành vũ trụ chúng ta. Tôi nghe nói rằng một số tin tưởng giải pháp mà với nó đang hiện hữu như một loạt những vấn đề không vượt qua được phải ở trong việc tìm kiếm một đại lý thuyết hợp nhất, là thứ sẽ giúp để hợp thành một thể thống nhất tất cả những quy luật được biết của vật lý. Có lẽ nó sẽ mang hai khuôn mẫu của vật lý hiện đại dường như mâu thuẩn với nhau kết hợp lại – thuyết tương đối và cơ học lượng tử. Tôi nghe nói rằng những thừa nhận hiển nhiên về hai lý thuyết này cho đến bây giờ chứng tỏ rằng không thể giải quyết ổn thỏa. Thuyết tương đối cho rằng sự tính toán chính xác về hoàn cảnh chính xác của vũ trụ vào bất cứ thời điểm nào là có thể nếu chúng ta có thông tin đầy đủ. Cơ học lượng tử trái lại thừa nhận rằng thế giới của những hạt cực nhỏ này có thể được hiểu chỉ trong điều kiện xác suất, bởi vì ở cấp độ cơ bản thế giới bao gồm một số lượng lớn hay số lượng đặc biệt của vật chất (tên vật lý lượng tử là từ nguồn gốc này), vốn là chủ thể đối với nguyên lý không chắc chắn. Những lý thuyết với các danh xưng kỳ lạ như thuyết siêu dây (superstring theory – thuyết siêu huyền[5])hay thuyết M đang được đề xuất như những ứng viên cho đại lý thuyết hợp nhất.

Có một thử thách xa hơn với chính việc làm khó khăn mong có kiến thức trọn vẹn về nguồn gốc rõ ràngcủa vũ trụ. Ở cấp độ căn bản, cơ học lượng tử nói với chúng ta rằng thật không thể đoán trước một cách chính xác vấn đề một hạt hoạt động như thế nào trong một hoàn cảnh nào đó. Do thế, người ta có thể thực hiện những tiên đoán về sự hoạt động của những hạt chỉ trên căn bản xác suất. Nếu điều này là như vậy, bất chấp vấn đề năng lực công thức toán học của chúng ta có thể tài giỏi như thế nào, nhưng vì kiến thức của chúng ta về những điều kiện ban đầu của một hiện tượng hay một sự kiện nào đó luôn luôn không hoàn toàn, cho nên chúng ta không thể thấu hiểu hoàn toàn vấn đề toàn bộ câu chuyện còn lại phơi bày như thế nào. Một cách tốt nhất, chúng ta có thể thực hiện những sự ước lượngđại khái, nhưng chúng ta có thể không bao giờ có được một sự diễn tả hoàn toàn ngay cả một hạt nguyên tử độc nhất, thì nói chi đến toàn bộ vũ trụ.



Trong thế giới quan Phật giáo, có một sự thừa nhận về thực tế không thể đạt được tri thức hoàn toàn về nguồn gốc của vũ trụ. Một văn kiện Đại thừa tên là Kinh Hoa Nghiêm chứa đựng một thảo luận dài về những hệ thống thế giới vô tận và những giới hạn của tri thức loài người. Một phần được gọi là “Không thể tính đếm” (phẩm A Tăng Kỳ) cung ứng một chuỗi tính toán của những con số cực kỳ cao, lên đến tột bậc trong dạng thức chẳng hạn như “không thể tính đếm”, “không đo lường được”, “không bờ bến”, và “không thể so sánh được”. Con số cao nhất là “bình phương vô kể”, được nói là hàm số của tự nó nhân lên “không kể xiết”! Một người bạn đã nói với tôi rằng con số nay có thể được viết là 1059. Hoa Nghiêmtiếp tục với những con số cực kỳ khó khăn để tưởng tượng với những hệ thống vũ trụ; nó đề xuất rằng nếu những thế giới “hằng hà sa số” được rút gọn thành những nguyên tử và mỗi nguyên tử chứa đựng “vô số” thế giới, thì những con số về những hệ thống thế giới sẽ vẫn không thể đếm hết.

Tương tự thế, trong những câu thi kệ tuyệt vời, kinh Hoa Nghiêm so sánh thực tại khó hiểu và sự nối kết tương liên một cách sâu sắc về thế giới đến một mạng lưới vô tận của châu báu được gọi là “Đế châu hay lưới châu báu của trời Đế Thích”, là thứ có thể vươn ra đến không gian vô tận. Ở tại mỗi nút thắt trên lưới là một viên pha lê, vốn nối kết với tất cả những viên pha lê khác và phản chiếu trong chính nó tất cả những viên pha lê khác. Trên một mạng lưới như vậy, không có viên pha lê nào ở trung tâm hay ngoại biên. Mỗi một viên pha lê là ở tại trung tâm và trong nó phản chiếu tất cả những viên pha lê khác trên lưới. Cùng lúc, nó là ở ngoại biên mà trong đó nó tự phản chiếu trong tất cả những viên pha lêkhác. Đưa ra sự nối kết tương liên sâu sắc của mọi thứ trong vũ trụ, thì thật không thể có một kiến thứchoàn toàn của ngay cả một nguyên tử đơn lẻ ngoại trừ người ấy là toàn tri toàn giác (omniscient). Để biết ngay cả một một nguyên tử đơn lẻ trọn vẹn hàm ý sự hiểu biết về những mối quan hệ của nó với tất cả những hiện tượng khác trong vũ trụ vô tận.

Luận điển Thời Luân cho rằng, trước sự hình thành của nó, bất cứ một vũ trụ nào cũng duy trì trong trạng thái rỗng không, nơi mà tất cả những yếu tố vật chất của nó tồn tại trong hình thức tiềm năng như “những hạt không gian.” Vào một thời điểm nào đó, khi các xu hướng nghiệp của chúng sanh, những kẻ có khả năng tiến hóa trong vũ trụ đặc thù này chín muồi, thì “những hạt không khí” bắt đầu tập họp lại với nhau, tạo thành một cơn gió vũ trụ. Tiếp theo “những hạt lửa” tập họp cùng cách, tạo thành những sự tích “nhiệt” mạnh mẽ di chuyển qua không khí. Tiếp theo điều này, “những hạt nước” tập họp để hình thành những cơn mưa xối xả kèm theo ánh sáng. Cuối cùng, “những hạt đất” tập họp và cùng với những yếu tố khác, bắt đầu tạo thành hình thể rắn. Yếu tố thứ 5, “không gian” được cho là lan tràn khắp tất cả những yếu tố khác như một năng lực nội tại và vì thế không sở hữu một sự tồn tại riêng biệt. Trải qua một tiến trình thời gian lâu dài, 5 yếu tố này mở rộng để hình thành vũ trụ vật chất như chúng ta đi đến biết và trải nghiệm nó.

Cho đến giờ chúng ta đã đang nói về nguồn gốc của vũ trụ mặc dù nó chỉ gồm có một hổn hợp vật chấtvà năng lượng vô tri giác – sự sinh thành của những thiên hà, những hố đen, các vì sao, các hành tinh, và vô số những hạt hạ nguyên tử. Tuy nhiên, theo quan điểm Phật giáo, có một vấn đề quan trọng về vai trò của [tâm] thức. Thí dụ, vốn có trong cả vũ trụ quan Thời Luân và A tỳ đạt ma là ý tưởng rằng sự hình thành của một hệ thống vũ trụ đặc thù nào là được nối kết một cách mật thiết xu hướng nghiệp của chúng sanh. Trong ngôn ngữ trần tục, những vũ trụ học này của Phật giáo có thể được thấy như việc đề xuất rằng hành tinh của chúng ta đã tiến triển trong một cách mà nó có thể hổ trợ sự tiến hóa của chúng sanh trong những hình thể của vô số chủng loại tồn tại ngày nay trên trái đất.

Bằng việc viện dẫn nghiệp ở đây, tôi không đang cho rằng theo Phật giáo, mọi thứ là một sự thể hiện của nghiệp. Chúng ta phải phân biệt giữa quá trình hoạt động của quy luật tự nhiên về nhân quả, mà qua đó một khi một chuỗi những điều kiện nào đó được đặt trong sự vận hành thì chúng sẽ có một chuỗi nhưng hiệu quả nào đó, và luật nghiệp báo, mà qua đó một hành vi có ý sẽ thu hoạch những kết quả nào đó. Vì thế, thí dụ, nếu lửa trại bị bỏ quên trong rừng và gặp những nhánh lá khô, sẽ đưa đến cháy rừng, sự kiện là một khi cây cối bị bốc lửa chúng cháy, trở thành than và khói, đơn giản là sự hoạt độngcủa luật nhân quả, là bản chất của lửa và những vật chất đang cháy. Không có nghiệp liên hệ với một loạt những kiện này. Nhưng một con người chọn đốt lửa trại và quên dập tắt nó – làm bắt đầu một chuỗi những sự kiện - ở đây nghiệp quả có liên hệ.



Quan điểm của riêng tôi là toàn bộ tiến trình của việc phơi bày một hệ thống vũ trụ là vấn đề của quy luật tự nhiên về nhân quả. Tôi hình dung nghiệp đi vào trong khung cảnh ở hai điểm. Khi vũ trụ đã tiến hóa đến một giai đoạn nơi mà nó có thể hổ trợ cho sự sống của chúng sanh, số phận của nó trở thànhbị liên lụy với nghiệp của chúng sanh, những kẻ sống trong nó. Khó khăn hơn có lẽ là sự xen vào đầu tiên của nghiệp, là thứ có hiệu quả với sự trưởng thành tiềm năng của nghiệp với chúng sanh là những kẻ sẽ chiếm cứ vũ trụ ấy, vốn thiết lập trong sự vận hành đi đến sự hiện hữu của nó.

Năng lực để thấy rõ một cách chính xác nơi mà nghiệp giao nhau với quy luật nhân quả tự nhiên được nói một cách truyền thống là chỉ ở trong tâm toàn tri toàn giác của Đức Phật. Vấn đề là để làm hài hòa hai bộ phận của sự giải thích như thế nào – thứ nhất là bất cứ hệ thống vũ trụ nào và chúng sanh trong nó là sinh khởi từ nghiệp, và thứ hai, rằng có một tiến trình tự nhiên của nhân và quả, vốn chỉ là bày ra. Những kinh luận ban sơ của Đạo Phật cho rằng vật chất về một mặt và [tâm] thức về mặt kia liên hệ phù hợp với tiến trình nhân và quả của chúng, là thứ làm cho sinh khởi một loạt những chức năng và đặc tính mới trong cả hai trường hợp. Trên sự thấu hiểu cơ sở bản chất, những mối quan hệ nhân quả, và các chức năng của chúng, thế thì người ta có thể tìm thấy những kết luận – cho cả vật chất và [tâm] thức – làm phát sinh kiến thức. Những giai đoạn này được hệ thống hóa như “4 nguyên lý”: nguyên lý bản chất, nguyên lý lệ thuộc, nguyên lý chức năng, và nguyên lý chứng cứ.

Câu hỏi rồi thì là, Có phải bốn nguyên lý này (vốn cấu thành một cách hiệu quả những quy luật của tự nhiên theo triết lý Phật giáo) tự chúng là độc lập với nghiệp, hay ngay cả sự tồn tại của chúng thì cũng liên kết với nghiệp của chúng sanh sống trong vũ trụ mà trong ấy chúng hoạt động? Vấn đề này tương ứng với những câu hỏi được nêu lên trong mối quan hệ với vị thế của những quy luật vật lý. Có thể có không một loạt những quy luật vật lý hoàn toàn khác biệt trong một vũ trụ khác, hay có phải những quy luật vật lý như chúng ta thấu hiểu chúng cũng đúng trong tất cả những vũ trụ có thể có? Nếu câu trả lờilà trong một loạt những quy luật khác biệt có thể hoạt động trong một hệ thống vũ trụ khác, thì điều này cho thấy rằng (theo một quan điểm của Đạo Phật) ngay cả những quy luật vật lý cũng bị vướng mắc với nghiệp của những chúng sanh sẽ xuất hiện trong vũ trụ ấy.

Những lý thuyết vũ trụ của Phật giáo hình dung thế nào sự phân biệt mối quan hệ giữa những thiên hướng nghiệp của chúng sanh và sự tiến hóa của vũ trụ vật chất? Cơ chế nào mà qua nó nghiệp nối kết với sự tiến hóa của hệ thống vật chất? Trên tổng thể, luận A Tỳ Đạt Ma của Phật giáo không nói nhiềuvề những câu hỏi này, ngoại trừ quan điểm tổng quát rằng môi trường nơi một chúng sanh tồn tại là “một hệ quả môi trường” của nghiệp tập thể của chúng sanh cùng và chia sẻ với vô số những chúng sanh khác. Tuy nhiên, trong giáo lý Thời Luân, thì những tương quan gần gũi được xác lập giữa vũ trụvà thân thể của những chúng sanh sống trong nó, giữa những yếu tố tự nhiên trong vũ trụ vật chấtngoại tại và những yếu tố bên trong thân thể của những chúng sanh, và giữa những giai đoạn trong hành trình của những thiên thể và những thay đổi trong thân thể của các chúng sanh. Giáo lý Thời Luântrình bày một khung cảnh chi tiết của những tương quan này và những biểu hiện của chúng trong kinh nghiệm của một tạo vật có tri giác. Thí dụ, Thời Luân nói về vấn đề nhật thực và nguyệt thực có thể ảnh hưởng thân thể của một chúng sanh qua sự thay đổi những mô thức trong hơi thở. Thật sẽ rất hấp dẫnđể đưa ra một số vấn đề này, là những thứ thực nghiệm, đến sự thẩm tra của khoa học.

Thậm chí với tất cả những lý thuyết khoa học sâu sắc này về nguồn gốc của vũ trụ, tôi còn những câu hỏi này, những câu hỏi nghiêm túc nhất: Điều gì tồn tại trước big bang? Big bang đến từ chốn nào? Thứ gì tạo ra nó? Tại sao hành tinh của chúng ta tiến triển để hổ trợ sự sống? Mối quan hệ giữa vũ trụ và những tạo vật đã tiến hóa trong nó là gì? Các nhà khoa học có thể gạt bỏ những câu hỏi này như vô nghĩa, hay họ có thể thừa nhận tầm quan trọng của chúng nhưng không chấp nhận chúng thuộc phạm vi nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, cả hai sự tiếp cận này sẽ có hậu quả về việc hiểu biết những giới hạn rõ ràng của tri thức khoa học về nguồn gốc vũ trụ của chúng ta. Tôi không lệ thuộc với những cưỡng ép của chuyên môn hay lý tưởng về một thế giới quan vật chất triệt để. Và trong Phật giáo, vũ trụđược thấy như vô tận và vô thỉ, cho nên tôi hoàn toàn vui mừng để mạo hiểm vượt khỏi big bang và suy xét về những trạng thái có thể về các tình huống trước nó.

Ẩn Tâm Lộ

Dịch xong: Wednesday, September 6, 2017

Hiệu đính: Tuesday, September 12, 2017




[1]Charvaka: Triết học duy vật khoái lạc


[2] A tăng kỳ kiếp có đại, trung và tiểu a tăng kỳ kiếp; hay đại kiếp, trung kiếp, tiểu kiếp: Tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp: Cứ một kiếp-tăng, kiếp-giảm là một tiểu-kiếp. Như thế, một tiểu-kiếp có 16.678.000 năm. Hai mươi tiểu-kiếp là một trung-kiếp. Trung-kiếp có 333.560.000 năm. Bốn trung-kiếp hợp thành một đại-kiếp. Đại-kiếp có 1.334.240.000 năm. Thế thì một đại-kiếp có 80 tiểu-kiếp. Bốn trung-kiếp trong đại-kiếp là: trung-kiếp-thành, trung-kiếp-trụ, trung-kiếp-hoại và trung-kiếp-không. Tam-thiên-thế-giới sanh diệt theo tuần tự thành, trụ, hoại, không của đại-kiếp. Dưới đây, xin kể lược qua bốn giai đoạn ấy.
PHẬT HỌC TINH YẾU ( HT THÍCH THIỀN TÂM)


[3] Exposition of Valid Cognition: Giải Thích Nhận Thức Có Giá Trị/ Lượng Quyết Định Luận, theo Làng Đậu


[4] Argument from design/ intelligent design argument/ Tranh luận về sự tồn tại của Thượng Đế, hay về một đấng tạo hóa trí năng./ Thiết kế luận, theo Làng Đậu


[5] thuyết siêu dây (superstring theory – thuyết siêu huyền) lại có thuyết dây (string theory – thuyết huyền)

Thứ Hai, 11 tháng 9, 2017

VĂN THÙY – THƠ TÌNH





Mộc Nhân – Tổng hợp từ nhiều nguồn




Nhà thơ Văn Thùy quê ở thị trấn Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, ông luôn thoắt ẩn thoắt hiện như chính thơ mình.
Người ta đã gán cho Văn Thùy những cái tên: lục bát giang hồ, nhà thơ vườn hoang, lãng tử thi, dị nhân đạo sỹ, quái nhân hiệp khách, thu thủy chữ, cửu vạn chữ,...

Nếu Văn Thùy là một tay đan bồ cót rổ giá giần sàng nong nia dưới bóng tre làng, thì lục bát là những nan tre nuộc lạt mà ông lẩn mẩn trau chuốt tối ngày. Nếu Văn Thùy là tay kiếm cá đồng quê, thì lục bát là cái đơm cái đó của gã. Nếu Văn Thùy là một thầy lang, thì lục bát là dao cầu thuyền tán. Nếu Văn Thùy là một thầy cúng, thì lục bát là mõ là chuông. Nếu Văn Thùy là một tay bán quà rong thì lục bát là tò he, là lạc rang kẹo kéo (TS Chu Văn Sơn).
Văn Thùy, luôn và hằng tự giới thiệu mình trong các tập thơ chép tay bán đắt như tôm tươi là Hợp tác xã thơ Hồn Rơm.
Thơ Văn Thùy được gọi là thơ bút lông vì ông già 70 cái hom hem này có biệt tài trình bày thơ lục bát của mình bằng thư pháp rất đẹp. Và không ai có thể tin rằng “anh già” này đã “bịa” ra vô số câu thơ tình cực hay làm ngơ ngẩn lòng người.
Những cặp lục bát tài hoa được Văn Thùy thể hiện ngọt như mía lùi, nhẹ như tên và tự nhiên như... ruồi. Chữ nghĩa không cầu kì, uốn éo, văn phong đa dạng, lúc phảng phất hồn thơ Nguyễn Bính, nhưng không man mác, nhè nhẹ mà rất mạnh. Mảng thơ thế sự thì quyết liệt, đáo để, bỗ bã, chữ nghĩa “tử tế” và tung hoành. Đến báo chí cũng phải công nhận, Văn Thùy là người chuyên “chế tạo” ca dao và “sản xuất” thơ sạch.
Người ta thấy trong thơ ông một chút Nguyễn Bính, một chút Nguyễn Duy, một chút Đồng Đức Bốn, một chút Phạm Công Trứ, lại một chút Bút Tre…, nhưng những xoang điệu hơi hướm người khác vẫn không phủ mờ được hình cốt Văn Thùy. Ấy là một Văn Thùy bám chặt hương hỏa ca dao, ăn đong với đời thường, bán sỉ đời mình cho thơ, bán lẻ hồn mình cho từng cặp lục bát.
Chúng tôi xin trích giới thiệu một số câu thơ / bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Văn Thùy.


***


Dăm bài dở mếu dở cười
Nội soi chữ, thấy nhiễm lời thằng khôn


Em đi mấy bước nữa rồi
Dẫm chồng lên vết hôn hồi mới yêu


Vừa ban thông điệp yêu đương
Bỗng dưng cả bộ dát giường động kinh


Có gì mạnh đến lạ thường
Yêu suông đã bốn chân giường còn hai


Từ ngày sa đọa làm thơ
Khôn ngoan thêm mỏng ngẩn ngơ thêm dày
Đam mê là tội giời đày
Càng béo chữ nghĩa càng gầy niêu cơm

Đâu như em thích tôi rồi
Mẹ cha đã cử nụ cười trực ban


Trưa nay nắng nẩy mầm rồi
Mắt em sao lại đâm chồi mưa ngâu.


Em nguyền khổ hạnh ăn chay
Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần

Thôi em cố gắng ở nhà
Lá chanh cứ thái đùi gà cứ băm
Tôi đi rước chữ vài năm
Cưới xong lục bát về nằm ru em


Kệ thơ son phấn cấp cao
Ta hong mấy mẹt ca dao ruột vàng
Mặc người chữ nghĩa xênh xang
Ta khênh lục bát giữa làng đọc chơi.


Dứt phăng sợi chữ tân thời
Xe thành lục bát nối lời ru xưa.


Nhịp hành khúc của người ta
Mình gam La thứ mình ca giọng mình
Thơ người bác học cung đình
Chữ mình tấm cám thì mình ca dao.


Xin làm một tiếng chuông chiều
Cho em thỉnh một lần yêu lỡ làng
Gửi em mấy sợi rơm vàng
Để em buộc lỏng mơ màng gió mây.

Chẳng làm con sáo sang sông
Chị thành một giọt người trong bể người
Anh nằm đâu ở góc trời
Chị tôi đứng vậy suốt đời khói nhang.


Ra ngõ gặp gái một con
Xòe tay đậy mắt kẻo mòn con ngươi


Sao đành làm gái một con
Để cho phỗng đá liếc mòn con ngươi.


Em ăn mày Phật cửa chùa
Tôi thành hành khất bốn mùa yêu chay…


Em còn mặc cả gốc mai
Quay ra người bán mất hai cành đào
So đo nụ thấp nụ cao
Chợ tan còn cặp má đào đợi phai


Từ ngày đốc chứng làm thơ
Khôn ngoan vốn mỏng ngẩn ngơ thêm dày


Bây giờ hoặc mốt mai sau
Biết ai vuốt mắt cho câu thơ buồn


Một mai hóa cát bụi rồi
Biết ai hú vía cho tôi thơ tình


Người đi đan lát cao sang
Tôi ngồi rút sợi trăng vàng dệt thơ
Người xa xa đến mịt mờ
Người gần thì cứ giả vờ như xa.


Cho tôi sờ áo một lần
Đêm nay bất chấp tử thần gọi tên
Một lần thôi chẳng vòi thêm
Chạm tay vạt áo khát thèm đã tan
Đã âm thầm nỗi yêu khan
Một phen mó áo vô vàn ngẩn ngơ
Hãy tin những tín đồ thơ
Yêu chay nên chỉ dám sờ áo thôi
Ngón tay ngọng mấy đốt rồi
Kể là chín ngón hỏng mười cũng xong
Áo gì cứ mỏng mòng mong
Kiểu này rồi đến phải lòng mất thôi
Rủi mai hóa cát bụi rồi
Hú hồn đốt mã cho tôi áo này
Vía van lang bạt cõi mây
Thương tôi đừng mặc áo dày được không


Đêm qua em đúng là em
Còn tôi thì lại chả thèm giống tôi


Hoàng hôn đậy bớt nét cười
Sợi trăng buộc lỏng hai người gần nhau


Em nguyền khổ hạnh ăn chay
Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần.


Vướng vào đôi mắt lá răm
Đi bộ cũng tội quanh năm đắm đò.

Chủ Nhật, 10 tháng 9, 2017

VẪN CHƯA PHẢI LÀ SỰ CÁO CHUNG CỦA LỊCH SỬ?



Tác giả: Timothy Stanley & Alexander Lee | Biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh


Dù chúng ta có công nhận hay không thì đa số người phương Tây đều tin vào chủ nghĩa tự do. Chúng ta muốn đạt được quyền bình đẳng cho tất cả mọi người, xóa bỏ ranh giới chủng tộc, vừa tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng vừa bảo vệ quyền được phản đối. Đồng thời, chúng ta theo đuổi một hệ thống kinh tế có lợi cho tham vọng của cá nhân. Nhưng càng ngày người ta càng cảm thấy rằng chủ nghĩa tự do dường như không đạt được những gì mà nó đã hứa hẹn ngay chính tại phương Tây và cũng không được ưa chuộng như chúng ta mong muốn tại các quốc gia đang phát triển. Vấn đề ở đây chính là sự tự đại đã làm mờ mắt những người ủng hộ thuyết tự do, làm cho họ không trông thấy những vấn đề trong cuộc khủng hoảng đang làm mai một bản sắc của lí thuyết này. Điều này làm cho chủ nghĩa tự do không thể thích nghi được với những thách thức trong thế giới hiện nay.


Vào mùa hè cách đây 25 năm, Francis Fukuyama tuyên bố “sự cáo chung của lịch sử” và chiến thắng không thể chối cãi của nền dân chủ tư bản tự do. Lập luận của Fukuyama đơn giản là: nền dân chủ sẽ lấn át các loại hình nhà nước khác vì bản chất yêu chuộng hòa bình và thịnh vượng [của con người] sẽ thúc đẩy các quốc gia đi vào con đường tiến bộ – điều này là không thể tránh khỏi. Nếu một quốc gia – thậm chí là một quốc gia cộng sản – mong muốn đạt được độ thịnh vượng cao nhất có thể, quốc gia này phải áp dụng một số phương pháp của chủ nghĩa tư bản. Vì khả năng tạo ra thịnh vượng phụ thuộc vào sự bảo vệ tài sản cá nhân, những “yếu tố tư bản” dần rồi sẽ đòi hỏi quyền cá nhân được bảo vệ nhiều hơn trước pháp luật.


Cũng như nhiều nhà phê bình đã chỉ ra, logic của Fukuyama mang sắc thái gần giống như thuyết sử luận kiểu giả Hegel (pseudo-Hegelian historical determinism). Trong đầu thế kỉ 20, những nhà Mác-xít và Phát-xít đã vận dụng thuyết này và để lại nhiều hậu quả khủng khiếp. Tuy nhiên, khi bài báo của Fukuyama xuất hiện trên tờ The National Interest thì khó có thể không đồng tình với ông. Bức tường Berlin chuẩn bị sụp đổ, Liên Xô đang tan rã và cả thế giới đang háo hứng với sự nở rộ của thị trường tự do. Mọi thứ đều chỉ ra rằng chỉ có nền dân chủ tư bản tự do mới cho phép con người phát triển trong một thế giới ngày càng toàn cầu hóa, và chỉ có việc thúc đẩy nền kinh tế tư bản mới có thể đảm bảo một tương lai của các quốc gia tự do-dân chủ, không bị áp bức, tồn tại trong hòa bình và sung túc.


Với hoàn cảnh hiện tại thì Fukuyama không thể nào sai hơn. Lịch sử không hề cáo chung và chủ nghĩa tự do lẫn nền dân chủ cũng không hề tăng lên. Sự đồng thuận êm ái của phương Tây bắt nguồn từ lập luận của Fukuyama đang bị thách thức theo những cách mà chính Fukuyama cũng đã không dự báo được. Một cuộc Chiến tranh Lạnh mới đã nổ ra. “Chủ nghĩa tư bản Mác-xít” của Trung Quốc cho thấy rằng có thể đạt được sự thịnh vượng mà không cần đến tự do. Và sự thắng thế của phong trào Nhà nước Hồi giáo ISIS có thể là khởi đầu của một loại chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo kiểu mới hướng tới mẫu hình nhà nước.


Đáng lo ngại hơn nữa là mối liên hệ giữa chủ nghĩa tư bản, nền dân chủ và chủ nghĩa tự do – nền tảng chính trong lập luận của Fukuyama – bản thân nó cũng đã sụp đổ. Với cuộc khủng hoảng tài chính và sự đi xuống của kinh tế toàn cầu, ta càng thấy rõ rằng thịnh vượng không thể đạt được thông qua việc theo đuổi hệ thống kinh tế tư bản mở hay việc mở rộng không thể tránh khỏi của quyền tự do trong kinh tế. Thậm chí điều ngược lại có thể đúng. Như Thomas Piketty đã lập luận trong quyển Capital in the Twenty-First Century (Tư bản trong Thế kỷ 21), thị trường tự do không chỉ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, mà còn làm suy giảm thu nhập trung bình tại các nước phát triển lẫn đang phát triển. Tại các nước bị thiệt hại nặng nề nhất từ suy thoái kinh tế – như Hi Lạp hay Hungary, các cử tri đã quay lưng lại với chính khái niệm chủ nghĩa tự do mà Fukuyama tin tưởng rằng họ sẽ đón chào nồng nhiệt. Trên khắp châu Âu, chủ nghĩa can thiệp kinh tế, chủ nghĩa dân tộc, thậm chí là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đang thu hút được nhiều cử tri hơn những những người ủng hộ tự do, phi điều tiết hay bình đẳng trước pháp luật. Nền dân chủ tư bản tự do không hề chiến thắng. Thậm chí, những thất bại của chủ nghĩa tư bản đã biến nền dân chủ thành kẻ thù của chủ nghĩa tự do. Thêm vào đấy, bản sắc tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa tự do đang bị tấn công mạnh mẽ.


Dự cảm thấy rằng lập luận khổng lồ của Fukuyama đang gặp phải một trở ngại lớn, những lí thuyết gia của chủ nghĩa tự do cố gắng làm mọi cách để cho con thuyền này không bị đắm. Hàng loạt đầu sách được xuất bản nhằm thổi một luồng gió mới vào chủ nghĩa tự do. Trong số này có quyển Inventing the Individual của Larry Siedentop và Liberalism: The Life of an Idea của Edmund Fawcett là nổi bật hơn cả. Cả hai đều thừa nhận những điểm yếu trong lập luận của Fukuyama đã được bộc lộ trong những sự kiện gần đây. Cả hai đều thừa nhận những trở ngại mà chủ nghĩa tự do đang mắc phải. Nhưng thay vì đề cập trực tiếp đến những trở ngại này, họ lại tìm về quá khứ để tự an ủi. Thông qua việc gọi một tập hợp tùy tiện các tư tưởng là “tự do”, họ cố chứng tỏ rằng chủ nghĩa tự do đã từng chiến thắng nhiều tư tưởng đối nghịch trong nhiều thế kỉ qua. Họ đang cố vẽ nên một câu chuyện mới để chứng minh rằng chủ nghĩa tự do là chính đáng. Vì những tư tưởng “tự do” đã chiến thắng, Siedentop và Fawcett lập luận rằng chủ nghĩa tự do là đúng đắn, dù rằng hiện nay có đang gặp khó khăn nhưng rồi vẫn sẽ chiến thắng về sau.


Các nhà lãnh đạo từ nhiều cực chính trị nhanh chóng chấp nhận lập luận mang nặng tính sử luận này. Tại Anh Quốc, chính phủ trung hữu của David Cameron rất tự hào rằng mình theo chủ nghĩa tự do. Chính phủ này cũng không ngần ngại sử dụng lịch sử để nhào nặn một thế hệ cử tri mới theo mẫu hình của chủ nghĩa tự do. Đầu năm nay, cựu bộ trưởng giáo dục của chính quyền này là Michael Gove rao giảng rằng Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là ví dụ của việc những giá trị tự do chiến thắng chủ nghĩa tiền phát-xít của Đức. Đây là “bằng chứng” biện minh cho tính chính đáng không thể chối cãi của loại chủ nghĩa tự do quân sự mà phái bảo thủ mới rất ưa chuộng.


Gần chúng ta hơn chính là Hillary Clinton – người hiện giờ đang trong giai đoạn đầu tiên của cuộc tranh cử úp mở vào Nhà Trắng – đã áp dụng một loại tầm nhìn tương tự trong lĩnh vực đối ngoại. Nhìn nhận những lí tưởng của các nhà lập quốc thông qua một lăng kính màu hồng, bà Clinton đã nhẹ nhàng tách mình ra khỏi chủ nghĩa hiện thực thận trọng của ông Barack Obama. Bà sử dụng khéo léo những liên hệ đến quá khứ để biện minh cho việc “xuất khẩu” những giá trị tự do ra toàn cầu thường xuyên nhất có thể. Theo luận điểm này, vì lịch sử đã chứng minh rằng chủ nghĩa tự do thật tuyệt vời thông qua những chiến thắng trong lịch sử trước cường quyền, chủ nghĩa tự do sẽ lại chiến thắng nếu chúng ta cố gắng ủng hộ và chiến đấu vì nó.


Nhưng dù dạng thức sử luận tự do mới này nghe có một chút xuôi tai thì nó cũng khó có thể thuyết phục được ai. Thay vì thừa nhận điểm yếu trong lập luận ban đầu của Fukuyama, Siedentop, Fawcett, Cameron và Clinton đều khơi dậy lập luận sử luận cũ kĩ, có khác chăng thì chỉ là không đề cập đến khía cạnh kinh tế. Lập luận của họ cũng kém thuyết phục như của Fukuyama.


Chính Karl Popper – triết gia vĩ đại theo trường phái tự do – là người đầu tiên chỉ ra khuyết điểm của thuyết sử luận trong vai trò một dạng biện minh chính trị trong tác phẩm đã đánh tan nát thuyết định mệnh luận Mác-xít và phát-xít của mình. Mỉa mai thay, lập luận tương tự bây giờ lại có thể áp dụng cho chính chủ nghĩa tự do – trường phát mà Popper bảo vệ. Nếu đi theo lập luận của Popper, ta có thể thấy rằng có ít nhất 2 vấn đề logic nghiêm trọng trong cách tiếp cận sử luận đối với chủ nghĩa tự do.


Thứ nhất, đó là lập luận cho rằng bất cứ ai thể hiện, ở bất kì mức độ nào, sự công bằng hay sự quan tâm đối với lương tri của cá nhân đều là người theo chủ nghĩa tự do. Việc cho rằng lịch sử tiến bộ của con người đã phát triển theo một đường thẳng nối giữa Thánh Paul sang Luther, sang các triết gia của Kỉ nguyên Ánh sáng, sang Lloyd George và Jack Kennedy, là rất vô lí. Tất cả những người này đều có một định nghĩa riêng về tự do và mục đích của tự do.


Thứ hai, việc cho rằng có một “định luật lịch sử” quyết định sự phát triển của xã hội là hão huyền. Nếu như thật sự có sự lặp đi lặp lại nào đó trong quá khứ mà ở đó có thể xem tư tưởng “tự do” đã “chiến thắng”, thì không thể kết luận gì hơn ngoài việc tò mò về mô hình này. Điều này không thể chứng minh được gì về bản chất của chủ nghĩa tự do và cũng không thể dùng để tiên đoán tương lai. Nó chỉ có thể cho chúng ta biết những điều đã xảy ra trong quá khứ. Việc tìm ý nghĩa hay khả năng tiên đoán tương lai từ những mô hình trong quá khứ thì thật ra chẳng khác nào xem bói qua bã trà.


Những khuyết điểm của cách tiếp cận sử luận trong chủ nghĩa tự do đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa tự do đang cố gắng vực dậy từ khủng hoảng hậu-Fukuyama vì chính những người bảo vệ chủ nghĩa tự do quá lười biếng. Siedentop, Fawcett, Cameron và bà Clinton đều giả định rằng ai có một tí lí trí là phải theo chủ nghĩa tự do. Vì vậy không cần phải bảo vệ chủ nghĩa tự do trước những yếu kém vốn có. Nhưng dù tự vỗ vai bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không thể thuyết phục được những người bất đồng ý kiến. Chính vì sự ngạo mạn trong khoa học này mà ta không ngạc nhiên khi thấy phần lớn thế giới từ bỏ họ. Ta cũng không ngạc nhiên khi thấy người khác từ chối lắng nghe lời cố vấn khôn ngoan của những người theo chủ nghĩa tự do khi thị trường thì đang sụp đổ và các khoản tiết kiệm cả đời đang bị đe dọa bởi các tai nạn của nền kinh tế tư bản thị trường tự do.


Nếu như chủ nghĩa tự do muốn sống sót và phát triển thì phải thoát khỏi lập luận của Fukuyama và thuyết sử luận. Nó phải được định nghĩa lại và bảo vệ lại. Điều này dẫn đến câu hỏi chủ nghĩa tự do thật sự là gì – điều đáng chú ý là nhiều người theo chủ nghĩa tự do đã bỏ qua bước này, tưởng như nó không quan trọng. Trong ấn phẩm gần đây của Foreign Policy xoay quanh việc đánh giá lại di sản của Fukuyama, vấn đề “bản sắc chủ nghĩa tự do” chưa được giải quyết vẫn hiển hiện. Việc hết bài viết này đến bài viết khác thất bại trong việc bảo vệ chủ nghĩa tự do trước chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân túy chính là vì chúng không đưa ra được cách hiểu rõ ràng, thuyết phục về chủ nghĩa tự do hậu-Fukuyama nào. Ta không thể bảo vệ chủ nghĩa tự do trước những phản biện nếu không làm rõ ra rằng chủ nghĩa tự do ủng hộ điều gì. Ta cũng không thể thuyết phục những người còn nghi ngờ nếu như bản thân những người theo chủ nghĩa tự do cũng không thể nói được rằng tư tưởng mới này là gì và nó khác gì so với mớ hỗn độn chẳng đem lại cảm hứng gì của Fukuyama và những người theo sau Fukuyama.


Vì bị bủa vây bởi những câu nói ngớ ngẩn, lảm nhảm và tối nghĩa của các bình luận viên chính trị hiện nay, ta có thể dễ dàng quên mất rằng chủ nghĩa tự do chính là sự cam kết đối với tự do. Ở gốc rễ, tự do là một khái niệm bắt nguồn từ con người cá nhân. Đó là sự tự do được là những gì mình muốn, giúp phát triển đầy đủ những tiềm năng của cá nhân, trở thành một con người có khả năng sáng tạo và khả năng tự đưa ra những đánh giá về giá trị cho chính bản thân mình.


Đúng là tự do đương nhiên có thể được hiểu theo nhiều cách. Theo như quan sát của Isaiah Berlin, còn có tự do tích cực (positive liberty) – tự do được làm điều gì đấy, và tự do tiêu cực (negative liberty) – tự do được thoát khỏi điều gì đấy. Tùy theo hoàn cảnh mà loại tự do nào có giá trị quan trọng hơn. Tuy cách phân biệt này rất phổ biến trong triết học chính trị kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, việc xem lại những bài viết của Voltaire và tác phẩm của nhóm Bách khoa gia Pháp (Encyclopédistes) vào thế kỉ 18 sẽ nhắc cho chúng ta nhớ lại rằng tự do trong nghĩa thuần khiết nhất- cả tiêu cực lẫn tích cực – là sự hiện thực hóa nhân phẩm vốn có của con người.


Đây không hề là những lời hoa mỹ. Khái niệm nhân phẩm có 2 ý nghĩa quan trọng, thậm chí được Cicero thừa nhận vào tận thế kỉ thứ nhất trước công nguyên, mà hiện nay đang bị quên lãng. Thứ nhất, chúng ta cùng chia sẻ một mức nhân phẩm: không một ai có ít tiềm năng hơn người khác và nhân phẩm của một người không thể ít hơn người khác. Thứ hai, vì chúng ta là con người nên chúng ta có cùng những nhu cầu cơ bản. Theo bản chất, chúng ta cần thức ăn, chốn ở, quần áo, sự an toàn, và một loạt những loại sản phẩm cần cho sự sống còn khác. Mặc dù nghe rất đơn giản, những ý nghĩa này có tác động quan trọng khi chúng ta xem xét làm cách nào tích hợp tự do cá nhân vào các thiết chế xã hội và chính trị. Để tự do của mỗi cá nhân được duy trì và mở rộng, những nền tảng qui tắc về sự công bằng và những lợi ích chung phải được ghi nhận trong nền tảng của cấu trúc xã hội. Vì xã hội được xây dựng dựa trên luật, luật lệ phải thể hiện những tư tưởng này. Sống trong sự tự do tức là sống theo những điều luật dựa trên sự công bằng và lợi ích chung. Nếu như pháp luật đi chệch dù một ít ra khỏi nền tảng này, thì pháp luật trở thành công cụ của các nhóm lợi ích và lợi ích tư. Như vậy, nền tự do sẽ bị mất đi.


Tuy nhiên, nền tự do nói trên sẽ phải phụ thuộc vào đạo đức của công dân, đặc biệt là các quan chức. Mặc dù luật lệ kiến tạo nên xã hội, chính ý chí của những người quản lí và công dân mới là động lực và sắc thái của nó. Chỉ khi mọi người công nhận nhân phẩm của từng cá nhân, họ mới công nhận giá trị tự có của sự công bằng và lợi ích chung. Chỉ khi đấy họ mới cố gắng phấn đấu bảo vệ không chỉ tự do của riêng mình, mà của tất cả những người khác thông qua luật pháp. Nếu cam kết đối với nền tự do sụp đổ, xã hội trở thành một khu rừng mà thân ai lo cho người đấy, lợi ích cá nhân hoàn toàn sẽ chi phối, luật pháp không còn công minh và sự độc tài sẽ chiến thắng tự do.


Tóm lại, nền chính trị tự do phải là một nền chính trị đạo đức. Chủ nghĩa tự do sẽ không có tác dụng nếu đặt nặng vấn đề tự chủ cá nhân lên trên lợi ích của người khác. Chủ nghĩa tự do cũng sẽ không có tác dụng nếu bị phụ thuộc quá nhiều vào chủ nghĩa vật chất và chủ nghĩa tiêu thụ. Mô hình của Fukuyama là pha trộn giá trị tự do với lợi ích kinh tế cá nhân. Mô hình này nếu không được kiểm soát sẽ gây hại cho xã hội như trong những năm gần đây. Thay vào đó, một mô hình đặt nặng nhân phẩm cho phép một dạng chính trị có ý nghĩa tích cực hơn – tự bản thân nó chiến đấu để tồn tại. Thay vì thuyết phục bản thân cứ yên tâm rằng chủ nghĩa tự do cuối cùng rồi sẽ chiến thắng, một khái niệm tự do dựa trên nhân phẩm chấp nhận rằng sự thành công của nó không phải là chắc chắn. Mỗi chúng ta mong muốn được tự do ở tầm cá nhân, nhưng tự do cá nhân lại phụ thuộc vào tự do của cả tập thể. Điều này có nghĩa rằng chúng ta đều phải bám lấy nhân tính chung, nhân phẩm chung.


Như vậy, nếu chủ nghĩa tự do có tương lai, thì tương lai đó không phụ thuộc vào thuyết sử luận của Fukuyama hay như gần đây là của Siedentop, Fawcett và Clinton, mà phụ thuộc vào mỗi chúng ta. Tương lai này không phụ thuộc vào kinh tế hay là nhưng đợt sóng của lịch sử. Nó phụ thuộc vào việc công nhận giá trị nhân văn trong mỗi con người.


Bản gốc tiếng Anh: The Atlantic

Thứ Năm, 7 tháng 9, 2017

HUY CẬN NGHĨ VỀ THƠ




Thu Tứ

Các cụ ta xưa kia sống cái triết Đông chứ không suy luận miên man về triết Đông. Các cụ ta xưa kia làm thơ chứ không lý luận miên man về thơ.
Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ sống, nói như Phạm Quỳnh, khiến "ta thật đáng thờ (...) làm ông cha".(1) Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ thơ "động đất trời"...(2)

Chưa gặp Tây, người Việt Nam coi như chỉ sống và thơ. Gặp Tây, thấy Tây luận say sưa, thỉnh thoảng ta cũng luận tí cho vui, sau khi đã sống và thơ thật đã đời. Sau hơn nửa thế kỷ sáng tạo, Huy Cận có gửi lại cho hậu thế chút suy nghĩ về nghệ thuật.(3) Cái nghĩ nói chung thấu đáo mà cách diễn cái nghĩ nhiều chỗ cũng thú vị ghê. Ai ưa luận vì luận thì đi nghe Bụt ở... Tây phương, còn ai thích luận vì thơ thì đây tiếng "Bụt chùa nhà"!

*Nghe Bụt chùa nhà

"Cha ông" mà Huy Cận nói đây cụ thể là một người xưa nào đó đã phát biểu rằng "Văn chương là tiếng chim gọi đàn".

Đối với chúng ta bây giờ, Huy Cận chính là bậc "cha ông". Vậy ta hãy chú ý lắng nghe "Bụt" Lửa Thiêng "thuyết thơ".

--------

Chúng ta ngày nay có dịp tiếp xúc với nhiều lí luận văn nghệ của các nước (...) điều ấy rất bổ ích cho sự nghiên cứu, tìm tòi của chúng ta. Nhưng thiết tưởng cũng cần tìm hiểu (...) những suy nghĩ, những tổng kết của cha ông về văn học, nghệ thuật. Chả lẽ bụt chùa nhà thì cứ phải kém thiêng!

*Lao động nghệ thuật

Nghệ phẩm có xác và hồn.

Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, xác và hồn cùng lớn lên với nhau, ảnh hưởng qua lại. Chứ không phải là hồn đã lớn sẵn từ đầu và trơ trơ trong khi nghệ sĩ làm xác.

Một cảm nghĩ hết sức mơ hồ chợt hiện ra thành vài câu thơ rất đỗi vu vơ. Những câu thơ đầu tiên ấy giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn một chút, hiện ra thành những câu thơ bớt vu vơ hơn một chút, rồi những câu thơ mới này lại giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn chút nữa v.v.

Nghệ sĩ sáng tạo, không phải chỉ làm xác mà làm cả hồn!

---------

Nếu như lao động sáng tạo ra con người, thì lao động nghệ thuật sáng tạo ra con người nghệ sĩ... Người nghệ sĩ phải tự tạo luôn luôn thì mới sáng tạo được tác phẩm. Tự tạo bằng cách tự nhào nặn mình trong cuộc sống, qua hành động, và cũng tự nhào nặn thường xuyên qua lao động nghệ thuật nữa. Chính lao động nghệ thuật ấy tiếp tục sáng tạo ra nội dung, sáng tạo ra tâm hồn. Không phải rằng lúc ta đến bàn viết, lúc ta vào xưởng vẽ là ta đã có sẵn, hoàn chỉnh, tác phẩm trong đầu và chỉ còn cái việc thể hiện ra bằng tay vẽ, tay viết. Làm như là đã mang sẵn tác phẩm trong tâm trí và chỉ việc phiên dịch ra bằng ngôn ngữ nghệ thuật, bằng chữ hay bằng nét vẽ hoặc màu sắc! Trăm lần không phải như vậy! Lúc anh ngồi vào bàn hay vào xưởng, anh chỉ mới có cái "khung", chỉ mới có một niềm xúc động. Nhưng anh còn phải lao động đổ mồ hôi để cụ thể hóa niềm xúc động ấy, để cho niềm xúc động ấy đầu thai vào những hình tượng, thành những hình tượng. Anh còn phải vật lộn trầy xương với cái vật chất của chữ, của vật liệu, của đường nét, của màu sắc, của âm thanh, làm cho cái vật chất ấy chịu nói cái tâm hồn mà anh cảm thấy đang hình thành, mà không có vật chất ấy thì cái tâm hồn kia cũng không hình thành được (...)
Một nhà phê bình (...) thường đơn giản hóa vấn đề đi, không thâm nhập vào quá trình biện chứng của việc sáng tạo nghệ thuật, cho nên không bắt được phép biện chứng của sự sáng tạo.

Yêu thay Nguyễn Du (theo người ta kể) trăm lần viết lên cánh cửa những câu thảo của Truyện Kiều, xóa đi, chữa lại (...)

*Thơ ca di dưỡng tinh thần

Làm hay đọc một bài thơ hay, đều được sướng.

Nhưng người làm thơ sướng nhiều hơn người đọc thơ.

Vì ngoài cái sướng trong tư cách một người đọc bài thơ đã làm xong (thi sĩ cũng là một độc giả của thơ mình), người làm thơ trước tiên có cái sướng trong khi sáng tạo. Ồ, trông thấy tận mắt một cảm nghĩ hết sức mơ hồ nhờ sự cố gắng và năng khiếu của mình mà hiện ra thành lời, lớn dần, chín dần thành một bài thơ giá trị, sướng để đâu cho hết!

Kẻ trồng cây sướng hơn người chỉ ăn quả, như thế cũng là lẽ công bằng.

----------

Các cụ ta ngày xưa thường nói "thơ ca di dưỡng tinh thần". Đúng lắm! (...) (Thơ giá trị chứa) một trạng thái tâm hồn, hơn thế nữa, một trạng thái tâm thần (...) cởi mở, thư thái mà sôi nổi, hào hứng mà lắng trong, một trạng thái toàn diện trong đó ý và tình đều như đang sinh ra, đang nhú lên, tình đang đọng thành ý, ý còn mang tất cả cái rung động của tình, một trạng thái tinh khôi, sáng tạo. Tâm thần được nuôi nhiều bằng (thứ) trạng thái ấy. Đúng là một chất di dưỡng cho tâm hồn. Có cái gì giống như là trái đang chín cây, chứ không phải chín dú. Trạng thái đang chín đó đã truyền từ tâm hồn người làm thơ, qua cơ thể bài thơ, câu thơ. Bởi một bài thơ hay là một cơ thể sống trong đó ý và tình, cảm giác và cảm tưởng, chữ và nhịp, hình tượng và nhạc điệu, tất cả đều tồn tại trong một thể thống nhất, gây thành một xúc động thống nhất, toàn diện. Tóm lại là một hiện tượng của sự sống, không phải là một sơ đồ. Hiện tượng ấy là một hiện tượng cởi mở, đón chờ, đang chín, thuận cho mọi sự thai nghén, tụ thành.
Cho nên có những điều kỳ lạ, tưởng như mâu thuẫn, lúc nhà thơ đang làm thơ và lúc độc giả đang đọc thơ, đang hưởng thơ. Ví dụ: làm hoặc đọc một bài thơ về đau khổ, về nỗi dằn vặt của tâm hồn, hay nung cháy tâm can. Theo lý luận thông thường thì lúc đó nhà thơ hay người đọc thơ phải ở trạng thái đau khổ, dằn vặt. Nhưng không! Nhà thơ làm thơ về đau khổ trong một trạng thái tâm hồn hào hứng, trong một trạng thái trái đang chín cây. Người đọc thơ được di dưỡng tinh thần với trạng thái ấy, mặc dù người làm thơ có thể mang nỗi đau khổ trong đáy tâm hồn mình.

*Rung động thơ

"Nỗi-niềm-tinh-vân", so sánh hay và đẹp quá!

Nhưng khi Huy Cận bảo "Thưởng thức thơ là phải biết sống lại (...) quá trình từ nỗi-niềm-tinh-vân đọng lại dần thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ", thì e rằng ông đã đòi hỏi quá nhiều nơi người thưởng thức.

Chẳng những độc giả không tài nào "sống lại" quá trình sáng tạo của thi sĩ, mà chính thi sĩ có lẽ nói chung cũng khó thực sự sống lại được cái quá trình sáng tạo một bài thơ nào đó của mình!

Lần trước nói thi sĩ sướng nhiều hơn độc giả vì đã sướng ngay từ lúc còn đang sáng tạo. Lần này xin nói thêm rằng cái sướng "đầu tiên" ấy có lẽ nói chung chỉ hưởng được có đúng một lần.

Trong khi cái sướng thưởng thức bài thơ làm xong thì cứ mỗi lần đọc lại là mỗi lần hưởng lại!

----------

Rung động làm ra thơ, làm ra nghệ thuật, cũng cùng loại với rung động của tình yêu. Bắt đầu yêu là một niềm xao động, bắt đầu của một tứ thơ cũng là một nỗi niềm, mà tôi muốn gọi là nỗi-niềm-tinh-vân. Bắt đầu chưa có câu, chưa có lời, thậm chí chưa có tứ cụ thể. Câu sẽ đến sau, lời sẽ đến sau. Nhưng trước hết là một nỗi niềm ùn ùn trước ngực, rạo rực tâm hồn. Bắt đầu là tinh vân, tinh vân đọng lại mới hình thành mặt trời, mặt trăng và các hành tinh... Từng câu, từng lời cũng như những hành tinh, mặt trời, mặt trăng đọng lại từ tinh vân nguyên thủy.
Thưởng thức thơ là phải biết sống lại quá trình ấy, quá trình từ nỗi-niềm-tinh-vân đọng lại dần thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ. Biết sống lại quá trình tác tạo ra một bài thơ là "hiểu", là xúc động thơ từ bên trong một cách biện chứng. Cho nên người thưởng thức thơ ít nhiều cũng có hồn thơ như vậy.

Nói nỗi-niềm-tinh-vân, có phải là huyền bí hóa rung cảm thơ, của người làm nghệ thuật không? Thực ra không có gì là huyền bí, vì nỗi-niềm-tinh-vân ấy cũng là do một quá trình tích lũy lâu dài của người làm thơ, của người làm nghệ thuật mà có được; tích lũy vốn sống và cuộc sống, tích lũy hình tượng nó là tín hiệu sống, giữa vạn vật và cuộc đời với tâm hồn thi sĩ và nghệ sĩ. Tích lũy càng giàu, càng nặng thì nỗi-niềm-tinh-vân càng phong phú, càng thiên biến vạn hóa, và xúc động thơ, xúc động nghệ thuật càng muôn vẻ, muôn màu, bồi hồi sự sống. Hiểu được như vậy sẽ giúp ta giảng dạy văn học đi vào bề sâu của tâm hồn, và bề sâu của tác phẩm.

*Sự đầu thai của một tứ thơ

Đọc Huy Cận sau đây, chợt nghĩ tới chuyện dịch thơ.

"Hồn và xác của một bài thơ quyện nhuyễn vào nhau làm một"...

Hai cái quyện nhuyễn làm một, nên hễ đụng tới cái này là đụng luôn tới cái kia, mà dịch là đụng hết sức mạnh tới xác, là thay hẳn xác, tức không đừng được cũng là thay hẳn hồn. Vậy bài thơ dịch không có chút liên hệ gì với bài thơ nguyên tác hay sao?

Không hẳn như thế. Hồn của một bài thơ là một "tổng thể xúc động" trong đó có tứ. Bài thơ dịch có liên hệ với bài thơ nguyên tác vì hồn của nó chứa tứ của nguyên tác.

--------

Sự đầu thai của một tứ thơ vào một thể lọai thơ, vào những hình tượng thích ứng, đó là một quá trình hào hứng và rộn rực, có khi dằn vặt. Một quá trình có qui luật của nó. Không phải tứ thơ nào cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức, thể lọai nào. Trong đời làm thơ của tôi, có mấy lần tôi phải thay áo cho thơ, phải đổi thể lọai thì tứ thơ mới bật ra được.
Ví dụ: bài Đẹp Xưa trong tập Lửa thiêng lúc đầu làm theo thể Đường luật:

"Ngập ngừng mép núi đường quanh co
Quán đứng chơ vơ ngọn lá đưa
Gió hút về ngàn vi vút mãi
Dạt sườn thung lũng hàng lau thưa..."

Đọc nhám mãi, thấy còn nhẹ quá, có cái gì hẫng, không đạt được cái đẹp xưa trong cảnh sắc tâm hồn và tạo vật. YÙ thì không có gì thay đổi nhưng điệu thơ, âm hưởng của câu thơ thì thử phổ lục bát xem sao:

"Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon...
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Chơ vơ buồn lạc quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người".

Rõ ràng là trong trường hợp này, lần đầu thai sau đúng chỗ hơn: bài lục bát thơ đọng hơn bài Đường luật.

Bài Tràng Giang trái lại, lúc sơ khai lại muốn là một bài lục bát và tên nguyên thủy của nó là Chiều Trên Sông. Nhưng cái nhịp điệu Đường luật đến ám ảnh ngay sự xúc động của tác giả và đặc biệt cái nhịp láy của sóng nước, của thuyền nan đã đầu thai ngay thành nhịp láy của ngôn ngữ:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song"

và cái xao động của cảnh chiều, của sông nước nhập thành cái xao động của cuộc đời. Bài thơ tưởng là tả cảnh, thật sự là tả tâm hồn, mang ý nghĩa tượng trưng rất tự nhiên, bằng cái lô-gíc bên trong của nó.

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sầu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Xác và hồn, hồn và xác của một bài thơ quyện nhuyễn vào nhau làm một. Khi ta đụng vào xác, sửa đổi một tí trong xác làm ảnh hưởng đến hồn của bài thơ, ấy là một dấu hiệu của thành công. Còn như thay đổi vần điệu, câu chữ, thậm chí thay đổi cả thể loại mà cảm thấy hồn thơ, tứ thơ không bị ảnh hưởng gì, thì đó một điều đáng lo.

Nội dung quyết định hình thức, có nghĩa là phải tìm cho ra hình thức thích hợp để cho nội dung đầu thai thành máu thịt của tác phẩm, chứ không có nghĩa xem nhẹ sự sáng tạo hình thức. Không có hình thức đẹp thì lấy đâu cho nội dung đẹp tồn tại! Xin nhớ rằng nội dung của tác phẩm nghệ thuật không chỉ là ý, mà là cả một tổng thể xúc động của tác phẩm.

*Vai trò của trạng từ trong câu thơ

Những chữ mà Huy Cận gọi chung là "trạng từ" thực ra thuộc hai nhóm từ khác nhau.(4)

"Nao nao" là từ cụ tượng hữu cảm, vì nó vừa mô tả vật cụ thể vừa chứa cảm xúc của người nhìn. "Bâng khuâng" là từ trừu tượng cảm xúc, vì nó không tả vật cụ thể nào hết mà chỉ chứa cảm xúc.

Hai nhóm từ vừa nói trên nếu người làm thơ khéo dùng thì sẽ có "hiệu quả (...) vô cùng lớn lao" đối với giá trị nghệ thuật của câu thơ.

Từ lâu tiếng Việt đã hết sức giàu hai nhóm từ ấy!

Vật liệu thơ đã sẵn sàng, chỉ cần chờ... Nguyễn Du múa bút khiến chúng kết lại với nhau thành tuyệt phẩm văn chương!

---------

Trong câu thơ, mỗi chữ, mỗi tiếng không chỉ mang cái nghĩa nguyên sơ của nó, cái nghĩa định trong từ điển của nó, mà thấm nhuần cái sức xúc cảm của chữ bên cạnh, của chữ láng giềng; chữ trước nó và chữ sau nó tỏa điện vào nó, biến nó thành một nghĩa mới, mang cảm xúc mới. Đây không phải là một vấn đề hình thức mà thôi. Sở dĩ có hiện tượng truyền điện như vậy là do có một luồng điện, tức là ý thơ, hồn thơ nó chạy suốt qua câu thơ. Vì vậy trong một câu thơ có một độ tối ưu để sắp xếp các chữ, các ý. Nếu tham nhét nhiều thứ quá, nhiều tính từ quá vào một câu thơ thì tăng điện trở, tăng chướng ngại vật, luồng điện thơ không qua được. Cũng vì vậy mà trạng từ có vai trò đặc biệt, trạng từ có sức dẫn điện cao. Vì sao? Phải chăng trạng từ nói lên dáng dấp của sự vật, dáng dấp của tâm hồn. Mà cái dáng dấp ấy linh hoạt lắm. Khéo dùng trạng từ thì câu thơ dễ truyền đạt cho ta trạng thái tâm hồn thông qua trạng thái sự vật.
"Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh".

"Nao nao", "sè sè", "rầu rầu", vẽ lên dáng dấp rất khó tả của buổi chiều thanh minh và nàng Kiều lần đầu tiên gặp bóng dáng của số mệnh:

"Động phòng dìu dặt chén mồi
Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa".

Hai tiếng "bâng khuâng", "ngậm ngùi" có thể là tính từ, nhưng thực chất là trạng từ. Nếu tính từ thì cũng đã trạng từ hóa. Dáng dấp của tâm hồn chàng Kim nhớ mối tình đầu với nàng Kiều trong buổi sum vầy trở lại "tình nhân lại gặp tình nhân", chỉ cần hai trạng từ là nói được đầy đủ.

Dáng dấp của một hồn ma cũng vẽ được dễ dàng:

"Sương in mặt, tuyết pha thân
Sen vàng lãng đãng như gần như xa".

Trạng từ thật là chiếm ưu thế để mô tả dáng dấp sự vật và tâm hồn, đến nỗi trong câu thơ Việt có xu hướng trạng từ hóa tính từ:

"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".

Nhân đây có một nhận xét: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du rất tiết kiệm dùng tính từ; không phải là không dùng, nhưng dùng rất dè dặt, rất cẩn thận, rất tiết kiệm. Trái lại trạng từ lại được dùng nhiều. Cũng có khi đáng lẽ dùng một tính từ thì Nguyễn Du mô tả dưới dạng động của sự vật. Ví dụ:

"Sương in mặt, tuyết pha thân"

để nói cái màu trắng thực thực hư hư của hồn ma Đạm Tiên.

"Làn thu thủy nét xuân sơn"

cũng theo một bút pháp ấy.

Nhớ câu ca dao:

"Mưa lâm thâm ướt đầm lá hẹ
Em thương một người có mẹ không cha".

Trạng từ "lâm thâm" thấm vào tâm hồn chúng ta còn hơn là mưa.

Dáng dấp của sự vật, tâm hồn... Cho nên dùng trạng từ rất khó. Nhưng dùng đúng thì hiệu quả xúc cảm vô cùng lớn lao.

*Trí nhớ trong sáng tạo văn học

Có lẽ có thể nghĩ như thế này: Đối diện thực tại, giác quan thu hình ảnh rồi tâm hồn nẩy sinh ấn tượng về hình ảnh. Nhớ có thể là nhớ hình ảnh, có thể là nhớ ấn tượng, có thể cả hai.

Làm nghệ thuật cần ấn tượng. Nếu mất ấn tượng mà còn hình ảnh (trong trí nhớ hoặc sổ tay), có thể ngắm hình ảnh để cố nhớ ấn tượng.

Kể ra, có thể ngắm hình ảnh cũ mà nẩy ấn tượng mới, nhưng thường thì nếu việc xẩy ra lâu rồi khi ngắm lại hình ảnh cũ ta chỉ... trơ mắt ếch chứ không cảm thấy thế nào cả.

Nếu không nhớ nổi ấn tượng cũ, cũng không sinh nổi ấn tượng mới, thì đành không làm được nghệ thuật.

---------

Trí nhớ cũng cần cho sáng tạo văn học, vì trí nhớ (...) tích lũy vốn sống, chất liệu của nghệ thuật (...) Phải trau dồi trí nhớ. Sổ ghi chép là cần thiết, nhưng không đủ, nếu không có trí nhớ làm gốc (...) Có hai loại trí nhớ (...) hay đúng hơn là hai cách nhớ: Một là nhớ các sự việc, chi tiết của sự việc, có khi cả chi tiết tỉ mỉ (...) bên cạnh (...) còn cách nhớ trạng thái tâm hồn của chính bản thân tác giả lúc sự việc (...) đang xảy ra (...) Có lẽ cách thứ nhất cần nhiều cho người viết tiểu thuyết, và cách nhớ sau cần cho người làm thơ nhiều hơn (...) lúc làm bài thơ là lúc phải sống lại đầy đủ xúc động của tâm hồn (...)
chỉ có thể làm thơ tình yêu vào lúc đang yêu, kể cả lúc làm thơ hoài niệm về tình yêu, vì hoài niệm là còn yêu, là yêu nuối, là ngọn lửa tình yêu bừng dậy một lần nữa, có thể để rồi tắt ngóm. Khó tưởng tượng một nhà thơ làm thơ tình yêu bằng cách mở các "ký họa" về tình cảm mà nhà thơ đã ghi chép được trước đây (...)

rèn luyện trí nhớ nói cho cùng là tích lũy vốn sống một cách cần mẫn, làm cho quá khứ luôn luôn sống trong cơ thể, trong tâm hồn.

______________
(1) Phạm Quỳnh, "Luận về quốc học", Nam Phong số 163, 6-1931.

(2) Tố Hữu về Nguyễn Du: "Tiếng thơ ai động đất trời / Nghe như non nước vọng lời nghìn thu".

(3) Tất cả những đoạn trích dẫn đều từ Tuyển tập Huy Cận II - Thơ và văn xuôi.

(4) Xem bài Tương Lai Từ Vựng Tiếng Việt của TT, đăng trên tranggocnhin.net.

Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

TẢN MẠN HOA VÀ RƯỢU




Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo

HOA

Không rõ từ bao giờ, người ta đã ví đời Hoa với đời Người, đặc biệt là với Người đẹp. Mỹ nhân như hoa cách vân đoan. (Người đẹp như hoa cách tầng mây), Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung (Ngỡ mây là xiêm áo, ngỡ hoa là dung nhan)… Lý Bạch đã nhiều lần thảng thốt ngỡ người đẹp là hoa, ngỡ hoa là người đẹp. Lưu Tích Vũ uống rượu bên hoa lại “Chỉ e hoa nói nên lời: Em không phải nở cho người già nua” (Đãn sầu hoa hữu ngữ – Bất vị lão nhân khai) v.v… Đấy là rung cảm của người thơ về hoa.

Lại có những loài hoa cảm người thì thật lạ. Chỉ cần chạm tay vào cây hoa tử vi, lập tức tất cả hoa đều rung động. Một nhà sư ở chùa Từ Hiếu kể tôi nghe chuyện ông chăm sóc hai cây hoa nguyệt quế, chế độ chăm sóc giống nhau, nhưng tình cảm với cây khác nhau, rốt cuộc cây hoa ông dành tình cảm ưu ái thì nở hoa, còn cây kia thì không. Sách xưa cũng ghi chuyện Võ Hậu ra lệnh cho các loài hoa quanh cung cấm phải nở hoa cho bà thưởng ngoạn, tất cả các loài hoa đều tuân lệnh, riêng Lục Mẫu Đơn là không chịu nở. Hoá ra hoa cũng ưa chiều chuộng và hoa cũng biết giữ gìn khí tiết lắm thay.

Cái hạnh phúc của con người xứ nhiệt đới là quanh năm sống giữa bốn mùa hoa. Hoa gắn bó chia sẻ buồn vui với con người từ khi lọt lòng cho đến lúc trở về cát bụi. Từ vẻ đẹp thiên nhiên, hoa trở thành vẻ đẹp văn hoá khi đi vào thuần phong mĩ tục từ đời này qua đời khác. Hoa sinh nhật, hoa cưới, hoa tết, hoa tặng, hoa trang trí, hoa cảnh và hoa tiễn đưa đời người về nơi an nghỉ cuối cùng. Chưa hết, hoa còn được đặt trên bàn thờ cúng những hương hồn và thần linh. Có những loài hoa được chọn làm biểu tượng riêng cho từng mĩ tục. Trong ngày Lễ Nhớ Mẹ, các cô gái Nhật mang những giỏ hoa hồng màu trắng đi ra đường, cài hoa lên ngực áo những chàng trai đã mồ côi mẹ. Hoa hồng đỏ lại thường là biểu tượng của tuổi tác. Tình cờ tôi gặp một cô gái bên bến sông Thương mừng mẹ tròn 70 tuổi bằng cả một lẵng hoa gồm 70 bông hồng đỏ. Trong đám tang thi sĩ Xuân Diệu, giữa hàng trăm vòng hoa viếng, hiện lên một vòng hoa trắng độc sắc, đấy là vòng hoa của người vợ xưa đưa tiễn sự trinh trắng của chàng. Ngày tết, người miền Bắc coi hoa đào là “chúa xuân”, người miền Nam lại lấy hoa mai làm biểu tượng. “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, không ngẫu nhiên Nguyễn Du tả Kiều lại ví nàng với cốt cách của mai, và cũng không dễ gì Cao Bá Quát thốt lên Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Một kiếp cúi đầu lạy hoa mai). Chả thế mà thời Ngô Đình Cẩn quyền thế nhất miền Trung đã đem cả toà nhà đòi đổi một cây Mai thế trăm tuổi ở Long Thọ (Huế) mà chủ nhân của nó vẫn không chịu đổi.

Tôi đã được gặp những “bữa tiệc hoa” trong các gia đình Hoàng phái Huế. Mỗi đĩa thức ăn là một đĩa hoa. Từ món lòng gà xào dứa được sắp xếp thành hoa mai, hoa hồi, đĩa giò mỡ có nhân trứng hoa vàng, đến đĩa dưa món, đĩa rau sống thì quả là trăm hoa đua nở. Chỉ một đĩa rau sống đủ chứa đựng cả thế giới chan hoà màu sắc: Trên bầu trời xanh màu rau, nổi lên những ngôi sao vàng khế, những mặt trời đỏ rực cà chua, những vành trăng khuyết màu ngà của trái vả, những búp hoa ngọc lan trắng nõn màu đu đủ, và ớt đỏ nở túa ra những cánh hoa màu lửa. Bữa tiệc được kết thúc bằng món “bánh hoa” ngũ sắc thơm thảo, ngọt ngào như thấm đẫm hương vị tuyệt diệu của trời đất. Lúc ấy, thực khách hẳn sẽ phải thốt lên một tiếng khen “ngoo… oong” kéo dài theo kiểu Huế để cám ơn gia chủ.

Hoa gắn bó với con người đến nỗi, cha mẹ sinh con cũng lấy tên hoa mình yêu thích để đặt tên cho con cái. “Những Hồng những Cúc những Lan/ Những Mai những Huệ trần gian nao lòng”. Sư Giới Đức ở chùa Huyền Không còn lấy tên hoa đặt tên cho ngôi nhà lá đọc sách ngâm thơ của mình là Lý Thảo Đình, bởi vì khi làm xong ngôi nhà này, sư ông treo vào đó một chậu lan Lý Thảo, và sáng hôm sau bỗng thấy nó nở những nhành hoa rực rỡ. Ngược lại có tên người lại được dùng để nói về hoa như Chuỗi trăm hoa Tống Thị chẳng hạn. Theo Mộng Kinh sư thì Tống Thị là một mĩ nhân có tài kết chuỗi trăm hoa, ai đã ngửi thấy hương thơm của chuỗi trăm hoa do tay nàng kết thì đều mê mẩn hướng vọng về nàng. Tống Thị đã không chỉ làm say lòng chúa Nguyễn trong Nam, mà chuỗi trăm hoa của nàng còn làm cho Trịnh Tráng ngoài Bắc xao xuyến tâm thần phải mở cuộc Nam chinh để dẹp lòng người đẹp. Phải chăng, Tống Thị đã phối hưởng của nhiều loài hoa để tạo ra một mùi hương quyến rũ đặc biệt?

Đã là người thì có sinh có tử, đã là hoa thì có nở có tàn. Nhưng hoa đẹp chóng tàn thường khiến lòng người thảng thốt không nguôi. Nếu như đời hoa phù dung đẹp trọn từ bình minh đến hoàng hôn, thì đời hoa quỳnh – “nữ hoàng ban đêm” – chỉ làm cuộc hiến dâng trong chốc lát. Sắc đẹp và hương thơm của nàng hoa kiêu kì và đài các này chỉ dành cho người biết thưởng hoa mà thôi, nhờ thế mà người đời bày ra thú vui “uống rượu xem quỳnh nở”. Nói là thú vui, nhưng khi nhìn thấy hoa quỳnh rũ cánh tự liệm mình, lòng người thưởng hoa buồn ứa lệ, xao xuyến mãi trong lòng tâm trạng vừa hay tin người đẹp đã qui tiên…

Triêu vi phất vân hoa/ Mộ vi uỷ địa tiều (Sớm còn là cây hoa cao ngất tầng mây/ Chiều đã thành củi khô lăn lóc trên mặt đất). Bạch Cư Dị mười ba thế kỉ trước đã nhìn thấu cái chớp mắt kinh hoàng của đời Hoa, đời Người vậy đó. Nhìn thấu để cảm thông chia sẻ. Nhìn thấu để trân trọng, nâng niu, gìn giữ, yêu thương Cái Đẹp chớp mắt của Hoa, của Người vậy!

RƯỢU

Rượu là một yếu tố đặc biệt trong sinh hoạt văn hoá từ xa xưa. Từ lễ tết hội hè đình đám đến những cuộc vui chơi thù tạc đều thấy sự hiện hữu của rượu, nó là chất men kích thích con người trở về với tự nhiên, xoá đi những hàng rào ngăn cách của ý thức. Người xưa nói Nam vô tửu như kì vô phong (Đàn ông không rượu như cờ không gió) chính là nói về cái lẽ tự nhiên mà rượu mang tới. Kề cận các trung tâm chính trị, văn hoá của các triều đại đều thấy xuất hiện những “trung tâm rượu” nổi tiếng và thường được duy trì lâu dài về hậu thế. Nếu như loài người đã tạo ra văn hoá, thì “văn hoá rượu” quả là đáng kể.

Tôi có may mắn được uống rượu từ nhiều “trung tâm rượu” của đất nước mình, nhưng đáng kể nhất vẫn là rượu làng Vân (Hà Bắc) và rượu Bàu Đá (Bình Định). Làng Vân thuộc vùng Kinh Bắc xưa, sau nhà Lý dời đô lên Thăng Long thì cũng chỉ cách lò rượu này vài chục cây số. Còn lò rượu Bàu Đá gần như kề sát kinh thành của người Chăm xưa. Năm 1985, tôi được chứng kiến lần đầu tiên nhạc sĩ Văn Cao uống rượu Bàu Đá vừa lấy ở lò ra, ông rất ngạc nhiên về sự thơm ngon đậm đà kì lạ, và đã đem so rượu Bàu Đá với rượu làng Vân. Ông nhận xét: “Rượu Vân mỏng, rượu Bàu Đá dày”. Những lò rượu nổi tiếng như thế đều được sản xuất với kĩ thuật bí truyền đặc biệt, đó là kĩ thuật ủ men, kĩ thuật chưng cất và có khi cái ngon đặc biệt của rượu nằm trong nguồn nước dùng chỉ có ở riêng một vùng đất mà thôi. Để giữ riêng kĩ thuật nấu rượu của mình, trước đây con gái làng Vân không được đi lấy chồng làng khác. Ngược lại, con gái Bàu Đá dẫu có về làm dâu vùng khác vẫn không thể nấu được rượu ngon như khi nấu rượu ở chính quê mình.

Kĩ thuật nấu rượu bí truyền ở làng Vân cho đến nay vẫn là cả một bí mật không dễ gì khám phá. Mấy năm trước, một đoàn cán bộ sinh hoá đã đến làng Vân nghiên cứu và làm thực nghiệm với những công cụ và phương tiện hiện đại để đối chiếu với công nghệ nấu rượu thủ công của một chị nông dân. Rốt cuộc, mẻ rượu của chị nông dân ngon và dịu hơn hẳn mẻ rượu của các nhà sinh hoá, dù “phương tiện” kiểm tra của chị chỉ có tay và mắt. Với công nghệ thủ công mà rượu làng Vân nổi tiếng khắp gần xa, và đã trở thành nguồn rượu quí đối với văn hoá ẩm tửu của vua quan ở kinh thành Thăng Long một thuở, nó từng được đóng vào các bình sứ với nhãn hiệu Vân Hà mĩ tửu có vẽ hình ông tiên cầm gậy trúc. Nhưng cũng có thời do tình hình khan hiếm lương thực, chính quyền đã cấm nấu rượu và tịch thu các phương tiện sản xuất ở lò rượu làng Vân.

Việc cấm rượu rốt cuộc đã không thành vì ẩm tửu đã trở nên một nhu cầu văn hoá có tính truyền thống. Bây giờ thì rượu làng Vân, rượu Bàu Đá không những được bảo tồn mà còn có xu hướng phát triển với qui mô lớn. ở Hà Bắc đã có cả một công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên sản xuất rượu bằng phương pháp thủ công cung cấp cho các đại lí, các khách sạn du lịch, các sân bay quốc tế và xuất khẩu ra nước ngoài với nhãn hiệu Vân Hương mĩ tửu. Tết vừa rồi ghé Vinh, tôi được nhà thơ Hồ Phi Phục thết một chai “Vân hương mĩ tửu”, mà chai và hộp đẹp không kém gì thứ rượu Tây mà ta vẫn thường gặp. Nhưng điều đáng nói hơn là loại “rượu nội” này còn ngon hơn bất cứ một thứ vốt-ca hảo hạng nào của Âu châu. Gần đây, có dịp đến Bắc Ninh, trong một cuộc nghe hát quan họ, tôi lại được nhấp một loại rượu Vân đặc biệt nữa, đấy là rượu cốm. Nghe đồn rằng, người làng Vân bây giờ không chỉ nấu rượu gạo, rượu sắn, rượu nếp như trước nữa, mà người ta còn nấu rượu bằng cốm. Cô gái quan họ chít khăn mỏ quạ, mang áo mớ bảy mớ ba, nâng trên tay ly rượu cốm trong veo, hát câu dân ca duyên dáng mời khách:

Tay tiên chuốc chén rượu đào

Sánh ra thì tiếc, uống vào thì say…

Nâng chén rượu lên môi, mùi hương cốm thấm hơi men toả thơm ngào ngạt. Rượu vừa nhấp đã cảm thấy người râm ran một cảm giác ngất ngây diệu vợi, cặp mắt, nụ cười trở nên tươi sáng kì lạ, và đầu óc bỗng minh mẫn khác thường. Theo sử sách ghi lại thì từ thời cổ đại, rượu là thứ đồ uống nhật dụng thường ngày kích thích bữa ăn thêm ngon miệng hoặc truyền thêm sức mạnh tinh thần cho con người, dần dà nó mới đi vào lối sống cao thượng của kẻ sĩ. Họ mượn rượu để bày tỏ nhân cách và quan niệm nhân sinh của mình. Rượu giúp cho văn nhân có cảm hứng khác thường, kích phát trí tưởng tượng và làm bùng cháy lên những tình cảm bột phát của linh tính. Những bài thơ tuyệt tác của Lý Bạch đều liên quan đến rượu là bằng chứng của sức sáng tạo bôn phóng độc đáo được rượu nuôi dưỡng và kích phát: Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân (Nâng chén mời trăng sáng/ Cùng với bóng thành ba người). Nguyễn Du hẳn cũng là đệ tử của Lưu Linh khi ông viết: Hữu khuyển thả tu sát/ Hữu tửu thả tu khuynh (Có chó cứ giết thịt/ Có rượu cứ nghiêng bầu) để rồi phóng ra những câu thơ phát sáng bất hủ. “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Hầu như các thi nhân đông tây kim cổ đều dính líu đến rượu. Chả thế mà từ xưa đã có câu “bầu rượu túi thơ” nói về mối quan hệ cực kì mật thiết giữa thơ và rượu.

Cái thú ẩm tửu làm phát lộ những tố chất chứa đựng tinh hoa của con người. Khai mở những giới hạn ràng buộc nặng nề trong cuộc sống, giải phóng những ẩn ức và thể hiện tâm cách một cách tự nhiên, mang tới niềm cảm thông, vui sống và sáng tạo. Đấy là Tiên tửu. Dưới Tiên tửu là Tục tửu, và sau nữa là Cuồng tửu. Những kẻ tục tửu thường lấy rượu làm mục đích, uống càng nhiều càng oai, nốc càng lắm càng hùng. Những kẻ cuồng tửu lại thường không kìm chế nổi mình, càng uống càng hung dữ. Vậy là rượu với người này hoá hay, rượu với kẻ kia hoá dở. “Tỉnh rồi mới biết mình say/ Tưởng là tại rượu, đâu hay: Tại mình”. Câu thơ tự kiểm của một người quá chén, kể cũng dễ thương sao. Có lần người viết bài này đã lẩn thẩn nghĩ rằng, bên cạnh bức tượng người phát minh ra nguyên tử cũng cần dựng thêm tượng của người phát minh ra rượu. Sức công phá của rượu đâu có thua gì sức công phá của nguyên tử. Vấn đề là người ta phải sử dụng nguyên tử và rượu như thế nào để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, chứ đừng dùng nó vào mục đích huỷ diệt những tốt đẹp được xây đắp từ bao đời.

Sẽ buồn tẻ biết bao nếu trên đời này không còn cái thứ nước mang tên là Rượu. Tất nhiên, điều ấy chẳng bao giờ xảy ra. Có như vậy, những lễ tết hội hè đình đám, gặp gỡ, chia li mới thêm niềm tri kỉ. Những cô gái trong cuộc vui chỉ nhấp môi vào ly rượu đủ ửng hồng đôi má, mà vẻ đẹp trở nên rực rỡ khác thường. Những chàng trai cạn vài ba chén rượu có thể đi tận mọi chân trời góc bể. Và các cụ già bên chén rượu nhâm nhi, như sống lại cả quãng đời oanh liệt tự hào. Và tết đến, tất nhiên rồi, xin đừng quên rót mời nhau chén rượu mừng xuân:

Tết mời nhau rượu uống
Nào ai nỡ chối từ
Cụng ly nghe mới sướng
Dốc cạn niềm tâm tư…nạn niềm tâm tư…

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Thứ Tư, 16 tháng 8, 2017

PHỤ NỮ VÀ LÀM ĐẸP




Sinh ra trên đời được làm phụ nữ là một điều hạnh phúc, vì kể từ khi chào đời bạn đã được yêu mến gọi là “phái đẹp”. Lớn lên, thậm chí cho đến già, nếu bạn vẫn còn tự hào mình đẹp thì bạn vẫn còn được đàn ông săn đón như diễn viên điện ảnh Trung Quốc Lưu Hiểu Khánh ở tuổi ngoài 60 vẫn có thể vào vai một cô gái đẹp đôi mươi và vẫn cưới được thêm một tỉ phú về làm chồng thứ tư, hay như ca sĩ có giọng hát lả lơi Ý Lan, đã gần 60 tuổi mà mỗi lần chị xuất hiện trên sân khấu hay ngoài đời thường đều khiến chúng ta ngỡ ngàng vì sự trẻ trung xinh đẹp và rất điệu đà.


Câu danh ngôn nổi tiếng “Không có phụ nữ xấu, chỉ có phụ nữ không biết làm đẹp” mà cánh đàn ông sau khi vỡ mộng thường chua chát trong hơi men rằng “Không có phụ nữ đẹp, chỉ có phụ nữ biết làm đẹp” quả là rất chí lý và đáng mừng thay cho những ai “biết” làm đẹp.


***


Làm đẹp là hành động mà bất kỳ một người phụ nữ nào bắt đầu có nhận thức đều đã làm và nên tiếp tục làm cho đến cuối chặng đường đời phù hoa này. Một đứa trẻ chập chững biết đi đã biết soi gương và cài cho mình một mớ nơ xanh đỏ tím vàng lên đầu. Một bà cụ trăm tuổi trong cơn hấp hối xếp hàng mua vé về với tổ tiên cũng còn nhớ dặn con cháu chải cho mình cái đầu tử tế rồi quấn lên chiếc khăn nhung đen huyền đã may sẵn từ lần ốm năm kia…


Bản chất của việc làm đẹp là điều rất tốt đẹp, đúng đắn. Mỗi người chúng ta đẹp hơn lên là một nhánh lan rừng điểm xuyến thêm cho mùa Xuân muôn sắc. Vì vậy, ai cũng cần làm đẹp và nên biết cách làm đẹp cho bản thân, nhất là phụ nữ hiện đại.


Tuy nhiên cũng không hiếm phụ nữ bỏ bê sắc đẹp. Không phải vì họ không muốn đẹp, mà có thể họ tự cho mình cái quyền “được xấu” khi đã đạt được một thành quả nào đó như lấy được chồng hay “trói” được một anh chàng nào đó đúng kế hoạch… Họ không biết rằng chiến lợi phẩm họ vừa mới chiếm đoạt được không phải là một cái tivi hay một cái ipad mà là một loại động vật bậc cao có tâm hồn, có mắt để nhìn, có óc để suy và đặc biệt là có chân để chạy!


Để tìm một điển hình cho thành phần này chẳng đâu xa lạ. Bạn cứ nhìn một vòng quanh công sở bạn làm việc hay một vòng quanh hàng xóm nơi bạn sinh sống. Một cô chừng 30 tuổi có một anh chồng lười việc nhà và hai đứa con thơ sẽ sẵn sàng cho phép mình mặc một chiếc áo nhàu nát hay đi một đôi săng đan màu sặc sỡ nhưng cáu bẩn đất cát, ngồi lên một chiếc xe máy khoảng chừng hai năm rưỡi chưa lau chùi rửa ráy để ra đường, thậm chí đến cả chỗ làm. Rồi một ngày hè bức bối nào đó chồng cô có lỡ buồn mồm nói mát mẻ đôi câu cho bớt cái nóng bức thì ngay tối hôm đó anh chồng sẽ được ngồi nhai rau muống luộc với cơm nguội và cố mà đọc cho được cái thông điệp trên bộ mặt cang trường kia rằng “Tôi còn bận lo cho hai đứa con, thời gian đâu mà làm đẹp, thời gian đâu mà anh đòi sơn hào hải vị…”. Anh chồng may mắn có được người vợ hết lòng chăm lo con cái kia sẽ ngồi gật gù thương cảm, gỡ chút xơ rau muống già dắt nơi kẽ răng khẽ dịu dàng thưa với vợ anh rằng “Thật may cho cái cô Angelina Jolie kia, cô có tận 6 đứa con để tự tay chăm sóc chứ nếu cũng chỉ có 2 đứa như em thì chắc giờ cô ta phải bù xù, xấu xí lắm em nhỉ?”…


Ngoài ra cũng có những người phụ nữ luôn nghĩ rằng mình vốn xấu sẵn rồi, mình không thể đẹp lên được nên mặc kệ nó. Suy nghĩ này là vô cùng tai hại, vì sống với suy nghĩ đó thì tất yếu mỗi ngày bạn sẽ mỗi xấu hơn thêm.


Quay lại vấn đề chính là làm sao để bạn đẹp hơn mỗi ngày?


Tôi không phải là nhà chuyên môn trong việc làm đẹp nên không thể đi sâu chi tiết, hay hướng dẫn bạn cách làm đẹp. Vả lại điều đó không mấy quan trọng khi một người đã có đủ quyết tâm, đủ nhiệt huyết để làm đẹp. Vì một khi bạn đã có đủ động lực, bạn tin rằng mình sẽ “Ngày một đẹp hơn!” và bạn “Không chấp nhận mình xấu!” Thì bạn sẽ có trăm phương nghìn kế để làm cho mình đẹp lên.
Trong khuôn khổ nội dung bài viết này, tôi hy vọng rằng sẽ truyền được cho bạn chút nhiệt huyết làm đẹp, cho bạn thấy những lý do chính đáng để bạn luôn phải làm đẹp bản thân và hướng cho những người xung quanh bạn cùng làm đẹp.


***


Lý do đầu tiên là: chẳng ai thích bạn xấu cả(đặc biệt là bạn)!


Có chăng chỉ là mấy đứa ghen ăn tức ở hoặc là vợ của xếp bạn. Mà thế thì bạn càng cần phải đẹp!


Nếu bạn là phụ nữ, có thể bạn không tin. Nhưng đàn ông chúng tôi thực sự cảm thấy xui xẻo và mất hứng khi gặp phụ nữ “xấu”. Kiểu như, mới mờ sáng bước ra ngõ đã gặp ngay một cô tuổi đôi mươi, kéo lê xoèn xoẹt đôi dép, đầu tóc rối bời, quần áo nhếc nhác… Chữ “xấu” tôi để trong ngoặc kép và xin các bạn đừng hiểu đơn thuần theo nghĩa đen. Bạn không cần phải đẹp như tiên sa, toả sáng như thiên thần. Vì dù bạn có đẹp như tiên nhưng bạn đến chỗ đông người với một cái miệng hoặc một cái nách ngát hương thì lập tức bạn tự biến mình thành con vịt xấu xí. Ngược lại, có thể sinh ra bạn đã có ngoại hình khiếm khuyết, có thể bạn “không đẹp” theo một số tiêu chí sách vở nào đó… Nhưng bạn vẫn là người phụ nữ “đẹp” nếu bạn biết trân trọng những gì bạn có, tự tin(không lố bịch) và luôn hướng đến cái đẹp. Nói có thể bạn không tin, nhưng nếu xem những bức ảnh của cô đào Marilyn Monroe lúc còn chưa nổi tiếng, quá nửa phụ nữ thấy mình còn xinh hơn. Với cái nốt ruồi to ở vị trí được cho là khá vô duyên vào thời đó, nếu là một người bình thường có thể đã xoá bỏ nó. Nhưng Marilyn Monroe đã tự tin với nó và khiến cho cả thế giới thay đổi quan điểm, rồi cùng với những nỗ lực không ngừng, cô đã trở thành biểu tượng của sắc đẹp cho đến tận ngày hôm nay.


Lý do thứ hai là: làm cho mình đẹp hơn không quá khó như nhiều người vẫn hay nghĩ!


Sự thật là làm đẹp không quá phức tạp, không quá cầu kỳ và gian nan như bạn nghĩ. Không cần thiết phải bỏ ra hàng đống tiền và vài tiếng đồng hồ mỗi ngày để đắp đủ các thứ lên mặt, bôi đủ các thứ chẳng rõ nguồn gốc lên cơ thể để có làn da đẹp. Những thứ đó chỉ là những tác động ngắn hạn, không phải là giải pháp lâu dài. Điều gì sẽ xảy ra với làn da của bạn nếu bạn ngừng sử dụng nó? Cũng không loại trừ trường hợp có rất nhiều tác dụng phụ của nó chưa xuất hiện ngay thời gian đầu bạn dùng nó cho đến khi bạn phát hiện ra thì đã muộn. Muốn có một làn da đẹp(trừ những người mắc bệnh ngoài da mãn tính hoặc rối loạn nội tiết…), bạn cần có một chế độ ăn uống và nghỉ ngơi phù hợp. Không đến mức như các ngôi sao chuyên nghiệp, nhưng ít ra bạn cần hiểu thứ mình đang nhồi vào bao tử vốn khá nhạy cảm của mình là gì? Và đặc biệt đảm bảo cho mình một giấc ngủ ngon(không quá dài và không quá ngắn, chừng 6 tiếng mỗi ngày là vừa). Ngoài ra việc duy trì chế độ tập thể dục thường xuyên không những giúp cho chúng ta có một hình thể đẹp mà còn giúp chúng ta có một sức khoẻ tốt, một khả năng bền bỉ chống lại bệnh tật. Mà một người thường xuyên bệnh tật cũng không bao giờ có một làn da đẹp.


Cũng không nhất thiết phải bỏ ra mấy chục triệu đồng mỗi năm để mua thẻ tập nếu bạn chưa có đủ điều kiện kinh tế và thời gian. Để có một hình thể đẹp thì điều đầu tiên bạn cần khắc cốt ghi tâm là:


Trân trọng lấy cái hình thể bạn đang có ngay lúc này!


Có thể bạn sẽ cảm thấy buồn cười. “Tôi béo thế này có gì mà trân trọng?”, hoặc là “Tôi gầy ốm tong teo thế này có gì mà trân trọng?”.


Bạn cần nhớ rằng, với suy nghĩ đó, với cách bạn đang thả trôi con người bạn, thì chỉ một năm, thậm chí một vài tháng sau bạn sẽ lại mơ ước về hình thể của bạn lúc này! Vì thế bạn hãy trân trọng nó, đừng ghét bỏ nó! Và bạn hãy bắt đầu chiến dịch làm cho nó ngày một hoàn thiện hơn ngay từ ngày hôm nay! Ngay từ lúc này! Và với bất kỳ thứ gì bạn đang có sẵn! Một mẩu dây, một vài bậc cầu thang, một chiếc ghế, thậm chí là ngay chiếc giường bạn vẫn thường ngủ… với vài phút đồng hồ những khi bạn rỗi và cái bụng không quá no. Cách tập thế nào thì đã có cụ Google chỉ bảo tận tình miễn phí, tôi cũng không cần phải nói kỹ. Và nhảy dây hay nằm ngửa trên giường tập cơ bụng, cơ lưng thì rất đơn giản mà hiệu quả.
Tuy nhiên, nếu có thể thì bạn nên tập thể dục đều đặn mỗi ngày. Bạn tập môn nào cũng được. Erobick, võ thuật, khí công, yoga, thể dục nhịp điệu, chạy bộ, bơi lội… Miễn là bạn thấy phù hợp và cảm thấy hạnh phúc với nó.


Tuy nhiên đại đa phần những người chưa làm được đều có lý do là quá bận, thời gian không cố định được hoặc là không có tiền… Nếu vậy, bạn hãy bắt đầu bằng những thói quen tốt, gần gũi với cuộc sống hàng ngày mà không hề mất thời gian hay tiền bạc gì cả như:


Cố gắng đi bộ nếu quãng đường không xa và bạn không quá vội. Mỗi lần đi bộ bạn hãy cố gắng rảo bước thật nhanh, vươn dài bước chân hơn mức bình thường. Điều này nếu bạn để ý sẽ thấy người phương Tây luôn luôn như vậy.


Khi đi cầu thang ít nhất bạn hãy bước 2 bậc một lần bước, nếu là thanh niên có thể nhảy lò cò, bước thụt lùi… Điều này cũng như nhảy dây, chạy bộ, rất tốt cho đôi chân, bớt nhão, bớt lồi lõm, săn chắc hơn. Và chắc chắn bạn sẽ cảm thấy rất vui vẻ, phấn khích khi làm được những điều chẳng giống ai như vậy.


Rồi những khi bạn nằm đọc sách, xem tivi hay mơ mộng về một anh chàng nào đó bạn cũng có thể tập được bằng nhiều tư thế khác nhau. Ví dụ như bạn có thể nằm ngửa, kê một chiếc gối cao, hai tay cầm sách đọc, duỗi thẳng hai chân và nâng lên lơ lửng cách mặt giường khoảng chừng gang tay. Giữ được càng lâu càng tốt!…


Nói thì dài, nhưng chung qui lại bạn nên nhớ rằng bản thân bạn vốn đã chứa đựng đầy đủ những yếu tố để đẹp rồi. Chỉ cần bạn cho nó một cơ hội để toả sáng ra ngoài, cho nó một cơ hội để phát triển mà thôi. Thật vậy, bất kỳ ai, chỉ cần “gọn gàng, sạch sẽ, thơm tho” là đã đẹp được một nửa. Duyên dáng, hay đơn giản hơn là “không vô duyên” là đã đẹp được ba phần tư. Thêm vào “hiểu biết, nhân ái” là đẹp toàn diện.


***


“Gọn gàng, sạch sẽ, thơm tho” thì thật dễ và ai cũng biết cách làm. Tuy nhiên cũng đừng vì sạch quá mà cả ngày cầm đũa đi gắp vi trùng trong khi chồng ngủ gật chờ cơm, và cũng đừng vì thơm mà mỗi khi chuẩn bị ra đường bạn lại giội lên cơ thể một nửa gáo nước hoa.


Để được duyên dáng có thể khó nhưng để “không vô duyên” khi chẳng mấy khó. Chỉ cần bạn đừng cười hở quá nhiều răng khi bạn có một hàm răng đen xỉn 3068. Bạn cũng không nên quá tự tin mặc quần shot cũn cỡn đến dự tiệc trong khi bạn sở hữu một cặp đùi ếch ộp với rất nhiều lúm đồng tiền trên đó.


Còn “hiểu biết, nhân ái” thì hãy để bạn tự mình suy xét và trở thành một người phụ nữ đẹp toàn diện cho đàn ông chúng tôi được thấy yêu đời hơn.


Cuối cùng xin nhờ mấy đức ông chồng những khi rảnh rỗi ngồi gỡ xơ rau muống dắt răng đừng nên trách vợ mình đoảng, mà hãy tự ngậm ngùi vì tạo hóa ban tặng cho hàm răng thưa. Và hãy lựa lời mà đọc to, rõ ràng cho vị hôn thê của mình nghe bài này nhé. Vì những phụ nữ lười làm đẹp cũng rất ít khi siêng đọc!




Phạm Phú Quảng

Thứ Hai, 14 tháng 8, 2017

VỀ Ý NGHĨA CỦA “SỰ PHƠI BÀY CÁI-ĐANG- LÀ "





Tô Đăng Khoa



Trong bài viết này, chúng ta sẽ khai thác đặc tính thực dụng và tương đối của ngôn ngữ quy ước để làm cho sáng tỏ, bộc lộ, và phơi bày một sự thật rốt ráo nhưng lại rất hiển nhiên. Xin bạn hãy hướng tâm, chú ý lắng nghe ngôn ngữ trình bày một cách thụ động, và sau đó, hãy tự mình suy nghiệm.

Bất cứ lúc nào và ở đâu thì trước Tâm Thức của bạn cũng chỉ có hai lựa chọn để nó hướng tâm đến:

1. Lựa chọn thứ nhất: hướng tâm đến cái-đang-là. Đây là sự hướng tâm đúng vì nó đưa đến sự phơi bày bộc lộ của cái-đang-là, một thực-tại-hiện-tiền, sẽ đưa tới trí tuệ như-thật-như-vậy, và giải thoát.

2. Lựa chọn thứ hai: hướng tâm vào cái-không-đang-là (tức là cái-phải-là, cái-nên-là, cái-sẽ-là). Đây là sự hướng tâm sai, sẽ đưa tới mâu thuẩn, xung đột, và khổ não. Vì sao? Vì gốc rể của cái-phải-là chính là do bản ngã của bạn phóng ra, nên chúng mâu thuẩn với cái-đang-là đang vận hành một cách tự nhiên trong vô-ngã.

Một khi tất cả suy nghĩ và lời nói và hành động đều lấy cái-đang-là làm chủ đề duy nhất thì chính những hoạt động đó cũng LÀ- cái-đang-là. Như vậy khi đó chỉ có một cái-đang-là duy nhất đang vận hành, không hề có ảo tưởng phân biệt về cái-đang-là và chủ-thể-tự-ngã-đang-rõ-biết-cái-đang-là.

Điều này có nghĩa là: Cái-đang-là đang tự biết chính nó! Đang tự phản chiếu chính nó trên tấm gương nhận thức của chính nó. Cho nên, trong sự phản chiếu đó: Khái niệm về tự-ngã chỉ là một ảo tưởng, như mộng, điển, bào, ảnh, không có thực chất tính. Đây chính là nguồn cội của trí tuệ vô ngã, đưa bạn đến giải thoát. Đức Thế Tôn dạy: “Tự mình có sắc, biết các sắc khác: Đó là giải thoát!” Lời dạy của Đức Bổn Sư hết sức cô đọng và không hề hư ngụy. Trên mặt tục đế, tấm thân con người được cấu tạo từ Sắc (tức là đất nước gió lửa) nhưng lại có khả năng phản chiếu các hình sắc khác (cũng là đất nước gió lửa). Cho nên trong hiện tượng nhận thức, về bản chất rốt ráo, chỉ là “Sắc đang phản chiếu các Sắc khác”. Khi bạn nhìn thấy một cái cây, không phải là có “cái-ta” đang nhìn thấy, lức đó chỉ là cái-đang-là đang phản chiếu chính nó qua tấm gương nhận thức. Cái Ta-ảo-tưởng không có mặt ở đó, không có mặt trong đời này, đời sau, hay đời chặng giữa, và như vậy, chỉ cần như vậy thôi là đoạn tận khổ đau. Xin bạn hãy chiêm nghiệm và thể nhập một cách thâm sâu về điều này để nhờ đó thoát khỏi tất cả mọi khổ não không cần thiết của cái không-phải-đang-là do cái Ta-ảo-tưởng phóng rọi ra.
Không có một quyền năng nào trên thế gian này có thể huỷ hoại cái-đang-là của các hiện tượng thế gian . Vì thế bạn hãy chấp nhận nó một cách vô điều kiện. Mong cho những định kiến, những lề lối tư duy cũ, những khát vọng sẽ không lôi kéo bạn trở lại cái-phải-là hay cái-sẽ-là của cái Ta đem đến. Và duy chỉ có phương pháp hướng tâm trọn vẹn vào Cái-đang-là của bạn sẽ giúp bạn vượt qua chúng.
Như vậy chỉ còn duy nhất một chủ đề duy nhất cho bạn chiêm nghiệm: Đó là Cái-đang-là. Nó đang phơi mở một cách viên mãn trong nguyên lý trùng trùng duyên khởi. Cái-đang-là không phải thường vì nó luôn luôn thay đổi, không phải vô thường vì lúc nào nó cũng đang-là. Cái-đang-là siêu việt thường và vô thường, bất sanh bất diệt, bởi vì nó vẹn toàn, không có thời gian.

Cái-đang-là không thuộc về quá khứ, không thuộc về tương lai, bởi nó ngự trị toàn vẹn trong cái bây giờ và ở đây. Nó chỉ có một và không có bị giới hạn. Làm sao bạn có thể gượng gán cho Cái-đang-là một cái điểm khởi đầu? Nó không tiến hóa, không bị hủy hoại, không có bắt đầu đang-là, không có kết thúc đang-là. Cái đang là không có thời gian, hãy đến để mà thấy.
Bạn đừng bao giờ cho rằng Cái-đang-là được sinh ra từ Không hay là nó không hiện hữu. Không có sự thúc bách nào từ thế giới hiện tượng có thể xui khiến Cái-đang-là hiện hữu một cách sớm hơn hay muộn hơn. Nó chỉ đơn thuần hiện hữu ngay bây giờ và ở đây, một cách tuyệt đối phi thời gian, thế thôi.
Sự thâm chứng sâu sắc về sự trì ngự của Cái-đang-là sẽ không bao giờ chấp nhận rằng Cái-đang-là được sinh ra từ Không. Chính bằng cách này mà các bậc Thánh Nhân đã vượt qua sanh tử. Các vị ấy hộ trì, quán niệm một cách không có gián đoạn Cái-đang-là.
Làm sao có thể xảy ra sự kiện rằng một ngày nào đó Cái-đang-là sẽ thôi hiện hữu? hay là sẽ được sinh ra? Phàm cái gì bị sanh sẽ đoạn diệt và không hiện hữu miên viễn, và cái sẽ sanh cũng như vậy. Vì thế Cái-đang-là là bất sanh bất diệt.
Trong Cái-đang-là, không có sự khác biệt vì nó hoàn toàn là chính nó. Khái niệm “Đó” chẳng khác với khái niệm “Đây” vì không có vật gì xen vào làm gián đoạn sự tương tục của Cái-đang-là. Cũng thế, “Đó”, “Đây” cũng chẳng thiếu chẳng dư vì nơi nơi chốn chốn đều tràn ngập sung mãn trong Cái-đang-là. Tất cả đều tương tục như bầu trời xanh nối liền bầu trời xanh tuy vậy vẫn duy trì được sự Bất Động bởi những liên kết huyền nhiệm vô cùng vững chắc.
Cái-đang-là trảy ra vô cùng vô tận vì sanh tử đã được nhận ra là mâu thuẩn với cái thực tại tối hậu Bất Động của Cái-đang-là. Cái-đang-là ngự trị trong chính nó, hiện hữu, tồn tại trong chính nó, và duy trì chính nó vì bản chất của cái đang là là bất sanh, bất diệt.
Chính vì thế bản chất của Cái-đang-là không thể là bất toàn. Nếu như nó bất toàn, thiếu sót chỉ một điều gì đó, nó sẽ thiếu tất cả. Cái-đang-là không có tiến hóa. Nó toàn hảo từ xưa tới nay và muôn đời sau vẫn thế.
Những suy nghĩ,những khái niệm và cả những vật thể mà khái niệm nhắm tới, tựu trung đều xuất xứ từ Cái-đang-là. Không có một pháp gì, và mãi mãi sẽ không có bất cứ một Pháp gì, có thể xuất hiện bên ngoài Cái-đang-là. Nó là nền tảng cho tất cả các Pháp hiển tướng.
Vì thế vấn đề Sinh Tử, hiện hữu hay không hiện hữu, thay đổi hay vô thường đều là nhãn quan của ngã tướng còn trong vô minh. Cái-đang-là là tối thượng, toàn hảo khắp mọi nơi đâu đâu cũng có. Nó là cái duy nhất không bị biết bởi một ai khác, bởi chỉ có nó Tự Biết chính nó. Chính trong cái Tự Biết đó, năng sở song vong, thể dụng hợp nhất. Ngôn ngữ vỡ vụn từng mãng trong sát na đó: tức là lúc Cái-đang-là nhận ra chính nó. Từ đó, cánh của Nhị Nguyên không còn giam cầm bạn trong những tranh luận vô bổ nữa. Cái-đang-là tuy siêu việt trừu tượng như vậy nhưng lại là một Sự Thật Phơi Bày Sáng Chói Ngay Trước Mặt. Bạn hãy chiệm nghiệm và thể nhập

Thứ Sáu, 11 tháng 8, 2017

QUANH CÁI CHẾT CỦA MỘT CON CHUỘT






Truyện ngắn : Phạm Phú Quãng


Ngồi trong quầy thu ngân, bà chủ tiệm vàng Kim Siêu Tinh lau hai bàn tay nung núc những mỡ bằng một chiếc khăn trắng tinh tươm. Bà lau cổ tay, lau bàn tay, rồi đến các ngón tay. Các ngón tay mập lùn như những quả chuối cau, được thắt ngấn bằng nhiều cái nhẫn, cái thì vàng chóe bằng kim loại, cái thì xanh biếc bằng ngọc thạch. Bà lau rất kỹ. Những chiếc móng tay quét sơn đen bóng trở nên quá nhỏ bé trên các đầu ngón tay mập mạp cũng được bà lau rất kỹ. Bà vừa lau vừa chửi. Bà chửi mấy đứa bán hàng chỉ biết nhấm nháy cái điện thoại nhắn tin đong giai, rồi bà chửi đến lão chồng quý hóa chỉ biết tối ngày nhậu nhẹt say sưa và mang tiền bà đi nướng vào mấy cái chiếu bài. Đó là chưa kể đến một vài lần bà bắt được ông đang nhìn mông, nhìn ngực mấy đứa bán hàng. Bà chửi tất, chửi cả một lũ ăn hại.


***


Chuyện là vậy, là vì cái con chuột nó chết.


***


Nhà bà làm nghề kim hoàn đã bốn đời. Tiền, vàng từ xưa đã nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Cuộc sống sung túc cứ hiển nhiên như là trong chum, trong vại nhà bà. Bà có ném cho ai rồi nó cũng tự tìm đường quay lại.


Thời gian gần đây trong nhà bà xuất hiện một con chuột, loại chuột già rất khó trị. Bà thử đủ mọi cách mà cũng không thành. Nào bẫy, nào keo dính, nào thuốc, đều chẳng ăn nhằm gì, mà bà lại nhất quyết không nuôi mèo. Bà ghét cái thứ luôn luẩn quẩn dưới chân rồi rắc lông khắp nhà. Con chuột thì cứ như con ma nhỏ, thoắt ẩn, thoắt hiện, cắn phá bất cứ thứ gì ăn được. Phàm những hôm nào bà đặt bẫy hoặc bỏ thuốc vào thức ăn thì nó lại cắn thêm của bà vài thứ đồ, như dây quạt, dây nồi cơm điện, giày da, góc sô pha… như muốn trả thù bà. Hết cách, bà đành để mặc, coi như đó là một phần tất yếu bà phải chịu vậy. Để tránh sự phá hoại của nó, hàng ngày bà vứt thức ăn thừa vào góc bếp. Bà không để cho nó đói. Đôi khi bà nghĩ “Dù sao cũng còn đỡ hơn cái lão chồng vô tích sự kia. Từ lúc bước chân về làm rể trong nhà bà, lão chẳng làm nên trò trống gì ngoài việc phá tiền của bố mẹ bà, rồi bây giờ là tiền bà”.


***


Ngày trước bà gặp lão thì lão đang thuộc vào hàng quý hiếm. Lão là vận động viên boxing chưa có lấy một trận thua trên sân nhà, lại đẹp trai, nhất là khoản giường chiếu thì thuộc đẳng cấp súc vật. Bà chết mê, chết mệt lão ở cái khoản này. Bố mẹ bà thì trăm đường ngăn cản, ngay hôm đầu tiên dẫn chàng về ra mắt, khách vừa bước ra khỏi cổng thì bố mẹ bà đã đóng cửa buồng và nói với con gái:


– Thiếu gì đàn ông mà lại rước cái thứ lưng dài đầu ngắn như vậy về làm chồng? Gia đình ta ba đời kinh doanh phát đạt cũng bởi luôn có người đàn ông chịu khó, giỏi giang. Bố mẹ nhìn anh ta không phải là kiểu người đó, con lại là con một.


Bà vẫn cưới lão về làm chồng, cung phụng lão. Giờ nghĩ lại bà thấy bố mẹ bà quả là lõi cái sự đời. Sự nghiệp huy hoàng của chồng bà vụt tắt chỉ sau một vài trận thua, một vài lần bị đối xử bất công, mà trong cái ngành thể thao thì kẻ cầm cân nghiêng nhiều gấp trăm lần người cầm cân thẳng. Uất ức, chồng bà lao vào uống rượu, cờ bạc. Cực chẳng đã, bố mẹ bà lại phải dốc tiền ra trả nợ cờ bạc, rồi dốc tiền ra mua lại hai chữ “công bằng” cho chàng rể quý. Nào ngờ khi đã có hai chữ “công bằng” lận lưng quần, khi không còn sợ bị đối xử bất công nữa thì chồng bà lại không còn nằm trên đỉnh cao của phong độ. Con ma cờ bạc và cụ Lưu Linh đã đưa đường dẫn lối chồng bà sang bên kia dốc đồi. Thua thêm vài trận, chồng bà đã hoàn toàn biến thành một con người khác. Một con nghiện cờ bạc, một kẻ nát rượu. Mà cay đắng hơn cả là cái thứ bà cần nhất, cái đẳng cấp súc vật kia cũng bị cụ Lưu Linh đem làm cái vòi xả rượu mất rồi. Con bò tót hung hãn ngày nào giờ chỉ đáng là con đỉa. Bà lại đang lúc phơi phới xuân thì. Thế rồi không để cho bố mẹ bà buồn, để quên đi cái cục vô tích sự hằng đêm vẫn phả hơi rượu nồng nặc vào mặt bà mà miệng nói mê kêu con Bát sách, con Cửu vạn, bà lao vào học kinh doanh, bà làm tiền. Vậy mà bà quên được thật, bà tìm được niềm vui trong việc kiếm tiền. Chỉ có điều bà làm thì chồng bà phá. Nhưng cũng không sao, bà vẫn kiếm đủ cho lão phá, miễn đừng mèo mả gà đồng, đừng trai trên gái dưới là bà nhắm mắt cho qua.


***


Sắp đến Trung Thu, hôm qua bà đi mua bánh. Còn phải lễ lạt cho ông Quan, ông Đội nữa chứ. Cái thời buổi kinh tế khó khăn này, nghề vàng cũng lao đao lắm, thêm vào đó Nhà nước lại siết chặt. Bà phải xoay sang buôn xanh, buôn ngoại tệ, làm dịch vụ chuyển Đô la, tiền mặt… Làm chui. Vậy nên phải lễ lạt, phải lạy. Bà mua rất nhiều bánh ngon, hiệu Long Đình. Mỗi hộp lên tới gần năm triệu đồng. Về đút thêm phong bì, phong bao rồi cho vào ngăn tủ, định bụng sáng hôm sau sẽ đi phát. Nào ngờ khi đóng cánh tủ, bà không để ý, có một hộp bánh kênh ra ngoài, cánh tủ khép vào không hết.


Sáng ra bà như phát điên khi mở tủ. Các túi quà bị cắn nham nhở, các hộp bánh thượng hạng chẳng còn cái nào nguyên vẹn. Đến các phong bì chứa đầy tờ năm trăm nghìn cũng bị cắn rách tứ tung. Giữa cái mớ hỗn độn đó là một con chuột mắt lờ đờ đang nằm thở thoi thóp. Nó béo nẫn, sạch sẽ, bộ lông mượt mà. Một con chuột nhà giàu. Nhưng nó sắp chết. Bà gọi mấy đứa bán hàng, đứa nào cũng bảo sợ chuột. Chúng nó bảo bà vứt con chuột đi thì mới dám dọn. Bà gọi lão chồng, lão còn bận nhâm nhi cốc rượu suông thay cho việc đánh răng rửa mặt buổi sáng. Lè nhè lão nói:


– Bà tự đi mà làm, việc đ. gì phải mua cả đống bánh về để cho chuột nó ăn rồi lại bắt người khác phải dọn.


Phần thì tiếc của, phần thì tiếc công đi mua, đi chọn. Nén cục tức, bà xé tờ báo, một tay cầm đuôi con chuột, một tay xách chiếc ví tiền. Bà đi vứt. Bước ra khỏi cửa nhà bà là mặt đường Hàng Đào tấp nập người xe qua lại. Ngay trước mặt cửa hàng, xuống hết vỉa hè là chiếc miệng cống đen ngòm hôi hám. Phía bên kia đường, dưới chân chiếc biển chờ xe buýt là chiếc thùng rác công cộng. Một thằng bé gầy gò, lấm lem đang dựa lưng vào đó mà ngủ. Chiếc nón lá thủng lỗ chỗ cũng lấm lem như nó úp trên mặt. Một manh áo rách tơi tả không che được cái bụng dẹp lép đang thoi thóp thở với những cái xương sườn. Tay nó giữ khư khư một chiếc ca nhựa loang lổ bẩn có vài đồng tiền lẻ bên trong. Bà xách con chuột đi qua đường, định bụng sẽ ném nó vào thùng rác. Vừa lúc đang đến giữa đường thì một chuếc xe buýt trờ tới. Mùi khói dầu và hơi nóng của nó phả vào người bà. Liếc nhìn chẳng thấy ai để ý, bà liền vứt con chuột xuống đường rồi vội bước quay lại. Cũng đúng lúc đó hai cô bán hàng bê chiếc chậu đựng những cái bánh Trung Thu thượng hạng bị chuột cắn ra đến đường. Một chút tần ngần rồi đổ ụp xuống miệng cống.


***


Bên kia đường thằng bé đã tỉnh giấc. Mùi khói dầu và hơi nóng của chiếc xe buýt đã đánh thức nó. Gỡ chiếc nón ra khỏi mặt, nó dụi mắt nhìn vào chiếc ca nhựa. Vẫn chỉ có một đồng một nghìn và hai đồng năm trăm nhàu nát nó đã tự bỏ vào từ sáng hôm qua. Mặc dù chịu đói cả ngày, nhưng nó vẫn quyết giữ cho bằng được ba tờ tiền nhàu nát này. Đó là tiền mồi. Sau một thời gian hành nghề, nó biết phải có tiền mồi, phải có cái để cho người ta còn biết là nó xin gì. Phải bôi bẩn, phải ăn mặc rách rưới, phải ngủ ở những nơi tồi tàn nhưng lắm người qua lại. Chỗ này là một nơi lý tưởng, chí ít ra thì sáng hôm qua khi mới tới đây nó cũng nghĩ vậy. Nhất là lại nằm vào giữa khu đông đúc những người giàu có, những cửa hàng to đẹp với bao nhiêu là đèn màu xanh đỏ như thế này. Nhưng có lẽ nó đã lầm. Nó buồn bã nghe tiếng réo rắt của bụng nó xen lẫn với tiếng xe, tiếng người. Nó rời mắt khỏi chiếc ca nhựa, ngước nhìn ra đường. Nó thấy con chuột với cái bụng căng phình nằm giữa lòng đường đang nhìn nó, một cái nhìn yếu ớt. Nó thấy một cặp mông nẫn mỡ đang ngọ ngoạy xa dần sang phía bên kia đường. Thấy hai cô bán hàng đang nghiêng cái chậu bánh xuống miệng cống. Nó vùng dậy hét lên:


– Đừng!


Nhưng đã muộn, cả chậu bánh đã tuồn vào trong miệng cống. Cả thằng bé, bà chủ tiệm vàng và hai cô bán hàng đều giật mình. Nó giật mình vì tiếc chậu bánh. Hai cô bán hàng giật mình vì một điều vụng trộm bị phơi bày. Bà chủ tiệm vàng giật mình vì một lý do khác. Chẳng là khi bà vừa bước chân xuống lòng đường, cái cục tức vẫn còn nằm ngang cổ họng thì bà sực nhớ tới thằng bé ăn xin. Nó đã nằm cạnh cái thùng rác bên kia đường suốt từ sáng ngày hôm qua, bà biết vậy nên bà tránh, bà không đi sang bên kia đường. Vừa rồi giận quá làm bà quên mất, tay bà lại còn cầm ví tiền, bà lại là người giàu có. Chẳng lẽ sang tới đó lại không cho thằng bé lấy một vài đồng. Thật may, đúng lúc chiếc xe buýt xuất hiện, tấm bình phong cho bà víu xuất hiện. Bà liền giả vờ bịt mũi nhăn mặt ném con chuột xuống đường và quay lại. Tiếng hét của thằng bé như nói với bà “Bà đừng giả vờ nữa. Tôi thấy rồi, tôi biết hết rồi”. Bà lấm lét quay lại nhìn. Vẻ mặt thất vọng và ánh mắt tiếc rẻ của thằng bé hướng về cái miệng cống làm bà thấy yên tâm. Vậy là nó tiếc chỗ bánh. Vậy là nó không biết.


Vào nhà, rửa tay thật kỹ rồi bà ra quầy thu ngân. Hình ảnh con chuột với cái bụng căng phình, hơi thở thoi thóp, hình ảnh thằng bé gầy gò ốm yếu với cái bụng cũng dẹp lép và thoi thóp, hình ảnh cái chậu chứa đầy bánh Trung Thu, cứ quay quẩn trong óc bà. Bà lấy tiền ra đếm, rồi bà lấy sổ bán hàng ra xem. Chúng vẫn quay cuồng trong óc bà. Bẩn quá, nhớp nháp quá. Bà dẹp tiền, dẹp sổ, lấy chiếc khăn tay. Bà lau mặt, lau tay. Hồ như muốn lau đi tất cả những hình ảnh cứ quẩn quanh đó. Rồi bà dừng lau, vẻ mặt thoáng chút tiếc rẻ. Không ai biết bà tiếc rẻ điều gì? Chỉ nghe sau đó tiếng bà lanh lảnh. Bà chửi mấy đứa bán hàng, rồi bà chửi lão chồng vô tích sự.


Bên kia đường, thằng bé đã thôi không nhìn vào cái miệng cống. Nó cố quên đi những cái bánh Trung Thu trong cái chậu. Miệng nó tứa đầy nước bọt. Nó nhìn con chuột. Con chuột vẫn nằm đó, vẫn thở thoi thóp. Những chiếc xe vẫn tấp nập qua lại, vẫn chưa một chiếc nào chèn lên con chuột. Thằng bé đứng dậy, úp cái nón rách lên đầu, nhặt mấy đồng tiền lẻ trong ca nhựa đút vào túi quần rồi cầm chiếc ca đi về phía con chuột. Nó định bụng sẽ mang con chuột bỏ vào thùng rác. Vừa được vài bước chân, nó nghe tiếng nổ “bụp”. Một chiếc ô tô vừa chèn qua con chuột. Con chuột bẹp dí như một con khô mực, nhầy nhụa những máu. Xung quanh cơ man nào là trứng, là hạt sen, đậu xanh, thịt mỡ… làm nhân bánh. Thứ bánh thượng hảo hạng của Long Đình. Thằng bé quay mặt, lén nuốt nước bọt rồi đổi hướng chân đi. Ánh mắt nó ngời lên rồi chùng lại.






Một tấn trò đời khốn nạn, một vở diễn thương tâm vừa diễn ra ngay nơi giàu có bậc nhất Thủ Đô, nơi giá tiền một mét đất có thể nuôi sống được cả một gia đình nông dân suốt ba thế hệ. Không một ai xem, chẳng một ai chú ý. Chỉ duy nhất một thứ vẫn còn chú ý. Đó là con chuột, hay đúng hơn là linh hồn con chuột, đang vắt vẻo trên đầu cột biển chờ xe buýt. Nó nhẹ nhàng bay sang tiệm vàng Kim Siêu Tinh, nhẹ nhàng chui vào đầu bà chủ tiệm. Nó gặp và hỏi con Suy Nghĩ:


– Sao bà chủ có vẻ tiếc nuối điều gì?


Con Suy Nghĩ trả lời:


– Bà tiếc vì nếu nghĩ ra sớm thì gọi thằng bé ăn xin vào cho nó chỗ bánh chuột gặm đó rồi bảo nó dọn cho. Vừa không phải bẩn tay lại được tiếng cho người nghèo mà vẫn không tốn tiền.


Linh hồn con chuột lại nhẹ nhàng chui ra khỏi đầu bà chủ tiệm vàng, nhẹ nhàng bay sang đường và chui vào đầu thằng bé ăn xin. Nó lại tìm gặp con Suy Nghĩ và hỏi:


– Sao ánh mắt thằng bé lại sáng lên?


Con Suy Nghĩ trả lời:


– Tại vì thằng bé vừa rút ra được một bài học mới. “Không ăn xin ở nơi có nhiều người giàu”.


Linh hồn con chuột lại hỏi:


– Vậy sao mắt thằng bé lại chùng lại nhanh thế?


Con Suy Nghĩ trả lời:


– Tại vì nó nghĩ đến cái đói.


Linh hồn con chuột lại nhẹ nhàng bay ra khỏi đầu thằng bé, nó đậu lên đầu cột biển báo xe buýt và nghĩ. Nó nghĩ về cái chết của con chuột, kiếp trước của nó. Đến giờ nó vẫn không thể hiểu tại sao nó chết? Chết vì ăn quá nhiều bánh Trung Thu hay vì ăn phải những đồng giấy bạc? Rõ ràng đêm hôm trước nó nghe bà chủ tiệm vàng nói “Các ông Quan, ông Đội thì từng này chứ mười lần thế các ông cũng nuốt hết”, vậy mà nó chỉ mới ăn được có một góc mà đã chết. Nó tự nhủ sẽ tìm gặp cho được ông Quan, ông Đội. Phải hỏi cho được cách ăn, cách nuốt. Vì nó nghe nói rằng nếu biết cách ăn, cách nuốt, lại có sẵn bản chất hay chui lủi, không sợ bẩn của loài gặm nhấm nó sẽ được đầu thai làm ông Quan, ông Đội. Mà làm ông Quan, ông Đội thì còn gì bằng!