Thứ Tư, 2 tháng 8, 2017

Phật Giáo và hư vô chủ nghĩa[1]



Phật giáo hiện diện trước hết như một lý thuyết làm rối tung lên những phạm trù triết học, phá vỡ những luận điểm căn bản của siêu hình học, mà chủ yếu là sự hiện hữu của chủ thể hay là sự phân biệt giữa hữu thể và vô thể.

Phật Giáo và hư vô chủ nghĩa[1]



* Chân Phương & Trần Doãn Nho dịch

Chúng ta tưởng là đã hiểu rõ Phật Giáo. Ðúng, ở một nghĩa nào đó. Ðã có hàng ngàn luận án và các tác phẩm uyên bác cũng như dịch phẩm được xuất bản từ cả trăm năm qua trong toàn thể các nước Tây phương. Liệu chúng ta đã có một cái nhìn chính xác và rõ ràng về thế giới đa dạng này không? Chắc chắn là không. Ðơn giản không phải chỉ vì chúng ta có thiếu sót trong những công trình nghiên cứu. Phải xét đến một lý do khác: có một phần tưởng tượng, một mộng ảo dư thừa[2] đã xen vào tri thức này. Chúng ta mơ Phật Giáo cùng lúc chúng ta nghiên cứu nó. Chúng ta gán cho nó những cái vốn là của chúng ta, chúng ta phóng rọi trên nó những thiên kiến của chúng ta: hôm qua là những nỗi sợ hãi, hôm nay là những niềm hy vọng. (Những sợ hãi và hy vọng đó)[3] nói về hoàn cảnh của chúng ta hơn là về thực tế của nó. Vì thế, cần nhắc lại kiến thức về Phật Giáo đã được hình thành như thế nào, trước khi giải thích giấc mơ mà nó gợi lên được cấu tạo ra sao.
Ít có nhà nghiên cứu nào ở Tây Phương tự hỏi đối tượng của tri thức được gọi là Phật Giáo đã được khởi thảo như thế nào. Câu trả lời có vẻ quá hiển nhiên, quá giản dị đến nỗi tưởng như không cần phải đặt ra: Phật Giáo hiện hữu từ khi Phật thuyết pháp và Tây Phương biết Phật Giáo dần dần. Chỉ thế thôi. Chắc chắn người ta đã nhìn sơ qua các chủ thuyết tùy theo thời đại, theo nguồn thông tin, theo khả năng ngữ văn và cơ cấu tinh thần của những chứng nhân. Dù vậy, căn bản mà nói, có thể đã có một cái gì đáng gọi là “Phật Giáo” hiện diện và những người Châu Âu hiểu dần dần, như họ đã phát hiện ra những con hải sư có lông hay quần đảo Kerguelen.

Qua lăng kính các câu chuyện của du khách

Không đúng hẳn như thế. Mãi cho đến thế kỷ thứ 18, người ta chẳng cần tìm hiểu xem giáo lý của nhà Phật khác với giáo lý Bà La Môn như thế nào? Hiển nhiên là có các câu chuyện kể của những người du lịch và những nhà truyền giáo. Nhưng chẳng có nghi vấn tổng quát nào được họ đưa ra. Chẳng có ai đứng ra sưu tập những đặc tính phân tán do nhiều người quan sát khác nhau thâu lượm được khi thì được gán cho những người theo chi phái Xaca ở Nhật, khi thì quy cho các nhà sư theo đạo Fo bên Trung Hoa, lúc lại gán cho phái tu hành ở Tích Lan, cho tăng lữ ở Mông Cổ hay Tây Tạng, hoặc các nhà sư Xiêm la và sự thờ phượng thần Sommonacodom như Pierre Bayle gọi hoặc thần Sammonocodom như Voltaire nói. Phật Giáo chưa hiện hữu như một từ loại hay là đối tượng thống nhất của một tri thức khả thể. Các tác giả như Anatole Bailly hoặc Antoine Court de Gébelin muốn mở rộng một cách mông lung một hệ thống những tương đương, theo đó, Phật Giáo “cùng một thứ” như thần Thot của Ai Cập, thần Hermès của Hy Lạp, thần Visnu của Ấn Ðộ, thần Wotan của những người vùng Scandinave. Vào thời này, người ta xác tín rằng Phật Giáo có trước Bà La Môn Giáo. Nó tượng trưng cho một hình thức thờ phượng rất cổ sơ, một loại tôn giáo cổ sơ. Nguồn gốc của nó được cho là ở Ai Cập hay ở Ethiopie hay ở Ấn Ðộ. ý tưởng này nhanh chóng tan biến khi một tập hợp những tra vấn mới hình thành.
Những nhà tư tưởng Âu Châu khám phá ra Phật Giáo không phải từ một đối tượng có sẵn đột ngột xuất hiện trong khi đang nghiên cứu. Ðó là một tiến trình, qua đó, đối tượng của một tri thức khả thể được kiến tạo bởi những tra vấn quy định cho nó. Phật Giáo được khám phá khi những câu hỏi sau đây được đặt ra một cách rõ ràng: Biên giới giữa thực tế lịch sử và chuyện hoang đường nằm ở đâu trong các tiểu sử về Ðức Phật? Vào những lúc nào và bằng các con đường nào mà từ nơi khai sinh là Ấn Ðộ, tư tưởng Phật Giáo truyền bá đến những xứ Á Châu khác nhau và hiện giờ vẫn còn tồn tại? Những luận điểm mà quanh đó các khía cạnh đạo đức, tôn giáo cho đến triết học đan kết với nhau là gì? Chung quanh những điểm nào mà các phần kiến tạo của các chi phái hoặc trường phái Phật Giáo khác nhau vận động. (Trả lời) những câu hỏi đó đưa đến việc hình thành ngành Phật Giáo học (bouđhologie). Các tra vấn này vạch ra một lãnh vực nghiên cứu khác với các định kiến của những phái bộ truyền giáo và khách du lịch. Những định kiến này quan tâm đến tương quan giữa Phật Giáo với “tôn giáo nguyên thủy” hoặc với “mặc khải nguyên thủy”, là giải thích sự ra đời và ý nghĩa của sự sùng bái nó, giả thiết cho rằng Phật Giáo có trước Bà La Môn Giáo, và những liên hệ căn bản mà nó có với truyền thống Ai Cập hoặc với một huyền thoại nào đó được xem như người sáng lập, vân vân. (Nhưng rồi) tất cả những điều này biến mất. Biến mất khi nào? Khoảng chừng vào năm 1820.
Lúc này, cuộc nghiên cứu rời bỏ chân trời huyền thoại để đi vào không gian lịch sử. Người ta bắt đầu sử dụng một từ cho đến lúc đó vẫn chưa hiện hữu: “bouđhisme”. Từ này chưa hề được dùng đến trong bất kỳ ngôn ngữ nào ở châu Âu. Sự ra đời của nó là dấu chỉ cho một đối tượng tri thức mới, đến lúc đó còn vắng mặt. Ở Pháp, Michel Jean Francois Ozeray dùng từ “bouđhisme” từ năm 1817; Benjamin Constant dùng từ “bouđhaisme” năm 1827; Eugène Burnouf và Christian Lassen dùng từ “bouđhisme” năm 1826 trong tác phẩm “Essai sur le pali”. Từ “buđhism” xuất hiện lần đầu trong Anh ngữ qua tựa đề của một tác phẩm của Edward Upham “The History & Doctrine of Buđhism”, năm 1829, nhưng người ta đã dùng từ này từ nhiều năm trước đó. Ở Ðức, năm 1819, Schopenauer dùng “bouđhaismus”, từ còn được dùng cho đến giữa thế kỷ 19, trước khi được thay thế hẳn bởi một từ khác của Hégel được ông sử dụng từ năm 1827: “buđhismus”

Cơn ác mộng hư vô hóa

Việc khám phá ra Phật Giáo trước hết bắt nguồn từ sự phát triển của phương pháp đối chiếu, là thứ lý thuyết pha trộn các quy phạm đông phương học riêng biệt. Do sự truyền bá giáo lý Phật Giáo ra khắp Á Châu, và vì sự biến mất của nó ở Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ 11, việc xác định mốc điểm đòi hỏi những tài liệu so sánh từ nhiều lĩnh vực: Trung Hoa học, Tây Tạng học, Nhật học và Mông Cổ học. Những luận điểm Phật Giáo viết bằng tiếng sanskrit được Brian tìm thấy ở Népal trong thập kỷ 1820; cùng thời, Burnouf và Lassen đọc được tiếng pali và Jean-Pierre Abel-Rémusat nghiên cứu những bản kinh văn Phật Giáo Trung Quốc; không lâu sau đó, nhà nghiên cứu Hung Alexandre Csoma de Koros học được tiếng Tây Tạng. Ðó là một khúc quanh, dẫn Âu Châu từ chỗ mê mờ đến chỗ sáng tỏ.
Phải nhấn mạnh rằng, so với Bà La Môn, việc khám phá ra Phật Giáo quả là chậm trễ biết bao. Có đến nửa thế kỷ cách nhau trong sự nghiên cứu hai tư tưởng, cả về thời kỳ xuất hiện những công trình nghiên cứu nền tảng – 1785-1810 với Bà La Môn, 1835-1850 đối với Phật Giáo – cũng như đối với thời kỳ mà sự hiện diện của nó đạt đến cao điểm trong những cuộc tranh luận tư tưởng. Ngoài ra, sự khám phá Phật Giáo tiến triển từ thời gian gần hơn trở về thời xa xưa hơn. Kiến thức Âu Châu càng đi trực tiếp đến cội nguồn tư tưởng Bà La Môn bao nhiêu thì con đường khám phá Phật Giáo lại diễn ra theo một trật tự ngược với lịch sử phát triển thực sự của nó bấy nhiêu. Người ta bắt đầu nghiên cứu Phật Giáo ở những quốc gia mà tư tưởng Phật Giáo truyền đến chậm (kinh văn Mông Cổ, Nhật, Tây Tạng, Trung Hoa) rồi mới tiến đến những kinh văn cổ xưa hơn, như kinh điển pali chỉ thực sự được khám phá sau năm 1880.
Cuối cùng và đặc biệt là, sự khám phá này khiến người ta vô cùng sửng sốt. Những trường phái lý thuyết Bà La Môn Giáo, dù khác biệt nhau, đã có thể dành cho những người theo chủ nghĩa lãng mạn Ðức những luận điểm gần gũi với các nguyện vọng riêng của họ qua những gì liên hệ tới tương quan giữa bản ngã và tuyệt đối, tới vấn đề phiếm thần hoặc là vấn đề trực giác tri thức. Phật Giáo không thích hợp với những định danh đó. Nó hiện diện trước hết như một lý thuyết làm rối tung lên những phạm trù triết học, phá vỡ những luận điểm căn bản của siêu hình học, mà chủ yếu là sự hiện hữu của chủ thể hay là sự phân biệt giữa hữu thể và vô thể.
Không có gì trong tất cả điều này đủ để giải nghĩa nỗi kinh hoàng đã xâm chiếm Âu Châu lúc bấy giờ. Thực ra, Phật Giáo đã gây nên sợ hãi từ lâu rồi. Rất nhiều nhà tư tưởng tìm thấy ở đó một mối nguy hiểm không tên. Họ cho ông Phật là dấu hiệu của một cơn ác mộng. Nền tảng lý thuyết của ngài, theo họ, là một khát vọng về hư vô, là cái gì bất khả vì tinh thần con người không thể mong muốn đánh mất chính nó. Dẫu vậy, Phật Giáo là có thật: nó xuất hiện cùng thời với văn minh Hy Lạp, số môn đệ của nó vượt xa con số những người theo Thiên Chúa Giáo. Khó mà không kính trọng đạo lý của nó, lại càng không dễ gì đưa nó vào trong một hình thức thần học nào đó. Sự hiện hữu của Phật Giáo gợi nên một cơn mộng dữ. Ðiều đó giải thích nỗi kinh hoàng (của họ): một điều bất khả, lẽ ra không thể hiện hữu, lại được xác nhận và hiện diện khắp nơi.

Những khuôn mặt thiên thần mới
Giờ thì chúng ta hoàn toàn quên lãng nỗi khiếp sợ xưa cũ này rồi. Tuy thế, ta tìm thấy nhiều chỉ dấu khác biệt về nỗi sợ hãi đó ở các triết gia Ðức – Hegel, Schelling, Schopenhauer, Nietzsche và những người khác. Nó cũng để lại dấu vết nơi những người Pháp, từ Cousin cho đến Renouvier, xuyên qua Quinet, Taine, và Renan. Nói chung, dù hơn dù kém, họ đã đặt Niết Bàn gần với hư vô, đã xem Phật Giáo như một thứ hư vô chủ nghĩa, đã gắn liền Phật Giáo với chủ nghĩa yếm thế. Có thể trưng dẫn hàng trăm thí dụ. Hégel, trong những phiên bản năm 1827 và năm 1830 của tác phẩm “Encyclopédie” (Bách khoa), trình bày ở đoạn 87: “Hư vô, mà những người theo đạo Phật tôn làm nguyên tắc của mọi sự, là mục đích tối hậu và cứu cánh tối hậu của mọi sự”. Trong “Lecons sur la philosophie de la religion”, ông giải thích rằng, đối với Phật Giáo, “con người phải tự biến thành hư vô”[4], thừa nhận “sự bình an vĩnh cửu của hư vô”[5]. Tiếp đó, những triết gia xem thứ lý thuyết được truyền giảng bởi một người mà Edgar Quinet đặt tên là “Vị Chúa vĩ đại của cái không” (Le grand Christ du vide) là một thứ “chủ nghĩa cuồng tín hư vô”[6]. Riêng Ernest Renan thì kết luận rằng thứ tôn giáo không thể nhận thức được này “gán cho đời sống một mục tiêu tối cao là hư vô”, cái “bộ máy tạo khoảng trống trong tâm linh” này là chỉ dấu rằng có sự hiện hữu của một “giáo hội của hư vô chủ nghĩa”[7].
Schopenhauer không đắn đo ca tụng sự “phù hợp kỳ diệu” giữa Phật Giáo và chủ nghĩa yếm thế riêng của ông. Còn Nietzche thì tố cáo Phật Giáo là nỗi “hoài vọng về hư vô”[8], là “sự phủ nhận tính minh triết của bi kịch”[9]. Ông thống trách sự “suy nhược ý chí” dẫn đến chỗ trốn chạy đau khổ, do đó, không cam chịu mà cũng không yêu thương đời sống, và đặc biệt phê phán niết bàn, tức là cái “hư vô đông phương”, mà theo ông là cốt lõi của một tư tưởng còn yếm thế hơn cả Schopenhauer. Dù có một số nét đúng đắn và dịu dàng, theo Nietzche, Phật Giáo chẳng khác gì là một “phủ nhận toàn diện thế giới”[10]. Vậy thì cần phải cho Phật Giáo một “phát súng ân huệ” nếu chúng ta muốn tìm thấy ý nghĩa bi kịch của cuộc sống. Nietzche bảo “Chỉ có bi kịch mới có thể cứu chuộc chúng ta khỏi Phật Giáo”. Nhiều bài viết khác cũng đáng được nêu lên. Chẳng hạn như những bài viết của Mainlander và của Von Hartmann, trong giòng tư tưởng của Schopenhauer. Những bài của Schelling trong “Triết học về huyền thoại” (Philosophie de la Mythologie). Những bài của các tác giả Pháp như Cousin, Quinet, Taine, Comte, Gobineau, Amiel hay Renouvier, đáng kể nhất là trong “Triết học phân tích về lịch sử” (La philosophie analytique de l’histoire).
Rõ ràng là tất cả đều được nói ra một cách minh bạch, như trắng với đen. Chỉ cần chịu khó lục lọi trong đống hồ sơ lưu trữ. “Trong khi mâu thuẫn với tất cả thiên tính của chúng ta, Phật Giáo lại có sức lôi cuốn độc hại mà ta không hiểu rõ”, Renan nhấn mạnh. Jules Barthélemy Saint-Hilaire, giáo sư đại học Collège de France, bạn thân của Victor Cousin, bộ trưởng tương lai của chính phủ Jules Ferry, là một tác giả nổi tiếng khi còn sống. Trong “Bouđha et sa religion” xuất bản năm 1862, ông xác định rằng các giáo thuyết của Phật thực là “đáng thương hại và phi lý”. Hệ thống lý luận của ngài là “gớm ghiếc”, dựa trên những “nguyên tắc buồn bã”, đầy những “lầm lẫn kỳ quái”. Mang “ý nghĩa sầu thảm”, nó dẫn đến một cuộc “tự sát về đạo lý”. Tóm lại, đó là một tôn giáo “ghê tởm nhất”. Không thể nửa vời được: “Chỉ có một sự lên án toàn diện thì mới cân xứng”.
Nỗi sợ hãi đó không chỉ riêng ở Pháp. Max Muller, dạy tiếng Phạn tại đại học Oxford, thảo ra một bản tường trình dài về tác phẩm của Barthélemy: “Như người ta đòi hỏi chúng tôi về điều đó, tin rằng có một nửa nhân loại đã từng muốn hư vô hoàn toàn đưa ta đến chỗ hầu như phải tin rằng có sự khác nhau về chủng loại giữa hai loại người”. Ở Tây Ban Nha, Garcia Ayuso công bố một tập sách nhỏ nhan đề “Cõi niết bàn Phật Giáo và những tương quan của nó với các hệ thống triết học khác” (Le nirvana bouđhiste et ses relations avec d’autres systèmes philosophiques) – tức là các hệ thống tư tưởng của Schopenauer và của von Hartmann. Ông viết “Ðạo đức và siêu hình của Thích Ca quá nghèo nàn và các lý thuyết của ông ta là quá lạt lẽo và nói chung, quá thiếu nền tảng đến nỗi sự truyền bá giáo lý mạnh mẽ của ông ta chỉ có thể thực hiện được ở nơi các dân tộc đã suy đồi”.
Trong sự bối rối về tư tưởng do Phật Giáo gây ra tại Âu Châu thế kỷ thứ 19, thì hư vô chủ nghĩa hóa ra là sợi chỉ dẫn đường đáng tin cậy. Xoay quanh vấn đề hư vô và những ý nghĩa khác nhau của nó đã hình thành nên cơn mộng dữ mà Phật Giáo đóng vai trò trung tâm. Việc sáng lập ra sự “thờ phượng hư vô” khó mà quan niệm được ấy phần nào dính líu đến việc khởi thảo hư vô chủ nghĩa trong tư tưởng triết học Tây Phương gần đây. Dính dự vào đó là những vấn nạn mà Phật Giáo và những nghịch lý của nó gợi lên: đó là một tôn giáo thiếu vắng Thượng Ðế, một con đường giải thoát không mang tính bất tử, một trạng thái an lạc thiếu nội dung, một luật tắc tách ra khỏi ngôi lời[11], một thứ đạo lý bị tước bỏ siêu việt tính. Góp phần vào đó cũng còn là các phương pháp khám phá kỳ quái và hậu quả chính của nó: tính uyển chuyển bền vững[12] của một lý thuyết bị hiểu sai, vốn chỉ được soi sáng bằng những mảnh vụn nắm bắt được trong sự hỗn độn, do tưởng tượng hơn là xem xét kỹ lưỡng, rồi tái tạo và hoàn tất bằng hư cấu hơn là bằng khoa học. Rốt cuộc, sự khám phá ra Phật Giáo đã là một yếu tố xúc tác. Những hình tượng chính yếu của hư vô chủ nghĩa được xác định và tinh luyện nhờ Phật Giáo trong những suy tưởng về các nghịch lý của nó. Tưởng đang nói về Phật, lúc bấy giờ người Âu Châu chỉ nói về chính họ. Họ góp vào Á Châu những thiên kiến của họ, phóng rọi lên đó sự sợ hãi hoặc nỗi phân vân của họ.
Có một biểu hiện bất thường: một tri thức mới đã tạo ra một cơn mê sảng mới. Trong lúc một ngành khoa học mới xuất hiện thường cắt đứt hẳn với một quá khứ đã trở thành vô ích và mơ hồ thì ngược lại, các công trình của những nhà đông phương học đã không xóa đi được những ảo tưởng xưa cũ. Như một trò chơi kỳ quặc, những dữ kiện được xây dựng vững chắc đã lại nuôi dưỡng những cơn ác mộng quái đản. Sự xuất hiện và phát triển kiến thức bác học về Phật Giáo đã giúp hình thành thêm nhiều ảo ảnh. Trong khi những nhà ngữ học, bắt đầu từ các tác phẩm lưu lạc đó đây, tìm cách xây dựng từng dòng một ý nghĩa khả thể của những văn bản và tái tạo lịch sử của Phật Giáo và các đặc trưng tư tưởng của nó, thì nơi những nhà triết học lại hình thành nên một hình ảnh khác, đầy mâu thuẫn và rối loạn, thứ hình ảnh của “thờ phượng hư vô”. Hình ảnh này không phải hoàn toàn bịa đặt, mà được tạo ra từ những chất liệu do chính những nhà đông phương học cung cấp. Cũng giống như những hình tượng của giấc mơ được bố trí khác hẳn với những yếu tố cung cấp từ hiện thực, đến mức khiến cho những ráp nối ấy biến thành quái gở và đầy đe dọa, thì những giấc mơ xã hội này phân tán những dữ kiện của ngành đông phương học đến nỗi rút ra từ đó những điều khác hẳn.
Hình ảnh mà hôm nay chúng ta có về Phật Giáo rõ ràng quy hướng theo một cách khác. Tích cực, an nhiên, giải thoát. Những vị thiền sư Nhật, những đại sư Tây tạng xuất hiện giữa chúng ta như những kẻ bảo tồn các nguồn suối tri thức có thể giúp phục hồi, ngay cả cứu chuộc, thế giới già cỗi của chúng ta. Hay ít nhất cũng cứu vớt đời sống cá nhân già cỗi của chúng ta. Tuy nhiên, khi người ta đã chìm đắm quá lâu trong cơn ác mộng của thế kỷ 19, thật khó tự mình giải thoát khỏi nỗi hiềm nghi. Chúng ta đã không từng thay thế các con ngáo ộp quá khứ[13] bằng những khuôn mặt thiên thần đó sao? Chúng ta đã không từng thay ngay vào chỗ của những phật tử tôn sùng hư vô thuở xưa bằng những vị lạt ma được xem như là bảo đảm một sự tinh khiết mới đó sao? Khi đảo ngược những cực đối lập của giấc mơ, liệu chúng ta có thoát ra khỏi nó không?










[1] Nguyên văn “Le Grand Christ du vide” (Vị Chúa Vĩ Ðại của cái không), do
nhà nghiên cứu Phật Giáo Roger-Pol Droit viết, đăng trên tạp chí “Le Nouvel
observateur”, tháng 4,5 & 6/2003, số đặc biệt về Phật Giáo.
[2] excroissance de rêve
[3] Những cụm từ nằm trong ngoặc đơn là do chúng tôi thêm vào cho rõ nghĩa
[4] nguyên văn: l’homme doit se faire néant
[5] nguyên văn: l’éternelle paix du néant
[6] fanatisme du néant
[7] Eglise du nihilisme
[8] nostalgie du néant
[9] sagesse du tragique
[10] vaste “négation du monde”
[11] parole divine
[12] plasticité durable
[13] épouvantails d’hier

Thứ Ba, 1 tháng 8, 2017

LẪN TRONG ĐEN BẠC VỤN VÀNG LÁ THU





Sài gòn ồn ào cộ xe bát nháo
có chỗ nào cho Thu vào cỡi áo yêu thương
con đường Duy Tân hàng me đã cổ
trường Luật bây giờ lố nhố bán mua


Đinh Tiên Hoàng- Văn khoa còn đó
tình ở nơi nao thơ mãi cơ cầu
khói bụi đục ngầu hồn Ngâu trôi dạt
em bước qua cầu thu lạc chân quê

Sài gòn đã nát bờ đê
nên con sóng dữ đổ tràn u mê
chơi vơi đứng lại bên lề
nhớ xưa áo trắng người mang thu về

Gió cuồng vung vãi ê chề
lẫn trong đen bạc vụn vàng lá thu

AI BỐ THÍ QUA BỜ BÊN KIA?





Nguyễn Thường Tâm



Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không?

Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.

Cái chữ “oan” sử dụng nơi đây khá là kỳ kỳ. Chúng ta là những kẻ nặng gánh tham sân si, ở một cõi trí tuệ cực kỳ thấp so với Đức Phật, có nói gì về Kinh Phật cũng hệt như đang đứng nhìn lên hướng mặt trời. Một là thấy được ánh sáng mặt trời đang chiếu sáng cõi này, hai là sẽ thấy hoa đốm, thấy không như thật, chỉ vì tự chúng ta loạn sắc hay nhậm mắt. Thì cớ gì mà bảo ánh sáng kia bị “oan.”

Chỉ có người đạị giác ngộ, thấy được ánh sáng như thật, mới dám nói như Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14, trong bài viết tựa đề “Our Faith in Science” trên báo New York Times ngày 12 tháng 11-2005 rằng:

“Nếu khoa học chứng minh rằng có vài niềm tin trong Phật Giáo là sai nhầm, Phật Giáo sẽ phải thay đổi. Trong quan điểm của tôi, khoa học và Phật Giáo chia sẻ một cuộc tìm kiếm sự thật, và một cuộc tìm kiếm sự hiểu biết về thực tại.” (1)

Nghĩa là, Đức Đạt Lai Lạt Ma chấp nhận rằng trong cánh rừng chữ nghĩa Phật Giáo, có thể sẽ cần sửa chữa. Dĩ nhiên, lúc đó sẽ vẫn phải dựa vào các pháp ấn để không đi lạc. Nhưng người dám nói, dám nghĩ như thế, tất đã thấy được bản đồ trí tuệ, để không nhầm đường cho dù có sửa vài chữ hay vài ý trong Kinh Phật.

*

Một điểm thường gây tranh cãi là về chuyện tiền thân Đức Phật, khi ngài là vị Bồ tát có tên là Vessantara. Lúc đó, vị Bồ tát này bố thí cả vợ và hai con nhỏ cho một người bà la môn già, xấu xí, tham lam. Có thật Đức Phật kể chuyện cổ tích như một ẩn dụ, hay chuyện này đã xảy ra như thế trong một kiếp lâu xa nào đó?

Trong truyền thống Phật Giáo vẫn thường dùng nhiều ẩn dụ, như tâm lăng xăng thì gọi là tâm khỉ vượn, hay hình ảnh từ bùn vươn lên mà vẫn trong sạch thường được ẩn dụ như hoa sen. Hay các biểu tượngnhư sư tử, voi, gươm trí tuệ. Và vân vân.

Có một thực tế là, một số vị chấp vào chữ, tin rằng chuyện bố thí vợ con cũng là một hạnh tu.

Ngày xưa, tất nhiên, vợ con là tài sản của đàn ông.

Nhưng nếu Kinh Phật một thời có nơi đã xem như thế, cũng có rất nhiều nơi trong kinh công nhận tính bình đẳng giữa nam và nữ, và cũng công nhận tính bình đẳng giữa người với người không phân biệttuổi tác hay thứ bậc xã hội.

Khi Đức Phật trả lời ngài Ananda rằng phụ nữ có thể chứng ngộ giải thoát, đó là một dấu mốc lớn của lịch sử nhân loại, rằng nam nữ thực sự bình đẳng.

Kinh cũng kể lại trường hợp Đức Phật dạy một cô gái dệt vải 16 tuổi về quán niệm sự chết, và ba năm sau, khi Đức Phật trở lại thị trấn nơi cô này cư trú, chỉ qua vài câu vấn đáp, cô gái chứng ngay quả Thánh Dự Lưu. Tích Truyện Pháp Cú ghi như thế, ở phẩm 13, giảỉ thích về bài kệ 174 Pháp Cú.

Giả sử rằng, một cô gái như thế là vợ, là con, là thợ dệt của một ai nào đó; câu hỏi là, người đàn ông này có dám bố thí cô gái dệt vải này cho bất kỳ ai? Khoan nói gì tới chuyện đem cô bé quả Thánh Dự Lưu này trao tặng cho một ông già bà la môn xấu xí, tham lam.

*

Bây giờ, chúng ta nói về trường hợp ngài La Hầu La, người con duy nhất của Đức Phật và là vị sa diđầu tiên của Tăng Đoàn. Ngài La Hầu La năm mới 7 tuổi, đã được Đức Phật cho xuất gia. Lúc đó, Đức Phật yêu cầu ngài Sariputta cho ngài La Hầu La thọ giới sa di.

Và cũng năm mới 7 tuổi, ngài La Hầu La được Đức Phật dạy đừng nói dối, và dạy phương pháp quán ba nghiệp: quán thân, quán khẩu, quán ý. (2)

Tại sao Đức Phật không bố thí cậu La Hầu La cho ông nội là vua Tịnh Phạn, hay cho mẹ là công chúaDa Du Đà La? Cũng không bố thí cậu cho đất nước, dân tộc...

Tất cả những gì Đức Phật làm đều vì mục tiêu tối thượng là để đưa chúng sanh qua bờ bên kia. Và do vậy, ngài đã không bố thí cậu La Hầu La cho ông nội và mẹ của cậu.

Vua Tịnh Phạn tất nhiên là buồn, mới thỉnh cầu Đức Phật ra luật rằng chỉ nên cho thiếu niên xuất gia với sự cho phép của ba mẹ hay người giám hộ. Đức Phật ưng thuận.

Chú ý rằng, bài pháp dạy cho vị sa di 7 tuổi này không dễ. Nơi đây trích dịch một đoạn ở phần dạy pháp quán tâm niệm (hãy hình dung, cậu La Hầu La 7 tuổi nghe lời dạy này):

"Khi niệm khởi, hãy quán sát: Niệm này tôi đã khởi lên -- có dẫn tới tự tổn thương mình không, có tổn thương người khác không, hay tổn thương cả hai? Có phải đó là một niệm không khéo, dẫn tới hậu quảđau đớn, kết quả đau đớn? Nếu, khi quán sát, tôi biết niệm này dẫn tới tự tổn thương, hay dẫn tới tổn thương người khác, hay cả hai; đó là một niệm không khéo với hậu quả đau đớn, kết quả đau đớn, thì con nên cảm thấy bất ổn, xấu hổ & không hài lòng với niệm này. Cảm thấy như thế, con nên tập tránh khởi các niệm như thế tương lai. Nhưng nếu, khi quán sát, con biết niệm này không dẫn tới tổn thương... đó là một niệm khéo léo với kết quả an lạc, hậu quả an lạc, con nên giữ tâm hoan hỷ và tươi mới, tập ngày và đêm trong các tâm niệm khéo léo như thế.” (2)

Hiển nhiên, thấy rõ, Đức Phật muốn giữ cậu sa di 7 tuổi La Hầu La sống trong pháp như thế, và không hề muốn bố thí cậu cho bất kỳ ai, dù là cho ông nội hay mẹ nơi cung điện.

Tại sao có người phảỉ tin rằng tu hạnh bồ tát là phải bố thí vợ con? Phải chăng chỉ là ẩn dụ?

*

Tới đây, chúng ta cũng nên trích dẫn Kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt từ Trường Bộ Kinh, bản dịch Việt ngữ của Hòa thượng Thích Minh Châu. Đặc biệt, xem nửa phần sau của đoạn văn 28 về lời Đức Phật dạy cách ba mẹ phải đối xử với con, và xem nửa phần đầu của đoạn văn 30 về cách người chồng phải đối xử với vợ. Trong kinh này, Đức Phật dạy phải trân trọng cả vợ lẫn con, chứ không hề bảo phải bố thívợ hay bố thí con. Trích:

“28. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Đông: "Được nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời". Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Đông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con.

Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Đông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách. Như vậy phương Đông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

...

30. Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang với vợ; Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thànhvới chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

Này Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi...”(3)

Như thế, suy luận qua bản dịch trên của Hòa Thượng Thích Minh Châu: nếu có khi nào Đức Phật kể chuyện tiền thân, và nếu chuyện có chỗ khả vấn, hãy nên nghĩ rằng đó là những ẩn dụ mà chúng tachưa dò nổi.

*

Tuy nhiên, chúng ta nên suy nghĩ thế nào về hạnh Bố thí? Chúng ta có cần phải bố thí thế này, hay bố thí thế kia? Đức Phật đã dạy thế nào là Bố thí qua bờ bên kia?

Xin mời đọc lại đoạn kinh sau, để thấy rằng bạn chỉ cần ngồi một chỗ, khỏi cần đứng dậy -- xin nhắc lại, Đức Phật dạy chỉ cần ngồi một chỗ, cũng sẽ được hưởng diệu dụng của pháp Bố thí.

Trong Tăng Chi Bộ, kinh này có tên là “Mahanama Sutta: To Mahanama” dựa theo bản Anh dịch của sư Thanissaro Bhikkhu, trích đoạn dịch như sau:

“Thêm nữa, có trường hợp khi học nhân gợi nhớ lại việc bố thí của mình: “Đây là lợi ích, lợi ích lớn cho tôi, rằng – trong những người vượt thắng với tâm ô nhiễm ưa sở hữu – tôi sống ở nhà, tâm tôi tỉnh thứcvơí không nhiễm ô muốn sở hữu nào, rộng rãi tự do, tay mở ra, hoan hỷ khi độ lượng bố thí, đáp ứngvới lời xin, hoan hỷ khi cúng dường phẩm vật.”



Vào bất kỳ lúc nào, khi một học trò của bậc thánh gợi nhớ lại việc đã bố thí, tâm học nhân không bị tham xâm chiếm, không bị sân xâm chiếm, không bị si xâm chiếm. Tâm học nhân thẳng về trước, dựa vào hạnh bố thí. Và khi tâm này hướng thẳng về trước, học nhân của bậc thánh đạt được hướng mục tiêu, đạt được Pháp vị, đạt được niềm vui với Pháp. Trong tâm người có niềm vui, hỷ lạc phát sinh. Trong tâm người có hỷ lạc, thân sẽ an tĩnh. Với người có thân an tĩnh, sẽ thấy thân thư giãn. Khi trong người thư giãn, tâm sẽ định tĩnh.

Này Mahanama, với người làm như thế, sẽ được thấy rằng: “Trong những người chệch hướng, học nhân của bậc thánh cư trú hòa hợp đúng pháp; trong những người gây tổn hại, học nhân cư trú mà không gây tổn hại gì; bước vào dòng suối Pháp, học nhân khởi trong tâm gợi nhớ về hạnh bố thí.” (4)

Bước vào dòng suối Pháp, phải chăng có nghĩa là đạt quả thánh đầu tiên? Nơi đây, tôi xin dưạ cột để nghe, vì bản thân mình không phải là giảng sư. Nhưng hiển nhiên nơi đây, Đức Phật nói rất rõ, chỉ cần nhìn vào tâm thôi, và niệm về hạnh bố thí để hoan hỷ với niềm vui Chánh Pháp.

Không nghe nói chuyện bố thí vợ con gì hết. Mà vẫn bước vào được dòng suối Pháp.

*

Kinh vừa dẫn trên là nói với chư Tăng Ni. Bây giờ, nói về hạnh bố thí của người cư sĩ, Đức Phật cũng nói tương tự. Chỗ này chúng ta sẽ thấy thêm rằng, với người cư sĩ có trí tuệ, thấy được ngũ uẩn biến diệt, tất sẽ thoát khổ, sẽ giải thoát. Nghĩa là, cư sĩ có thể đạt quả thánh cao nhất?

Nơi đây, chúng ta sẽ dẫn kinh “Dighajanu (Vyagghapajja) Sutta: Conditions of Welfare” dựa vào bản Anh dịch của sư Narada Thera. Trích đoạn, dịch như sau:

“Thế nào là thành tựu hạnh bố thí?

Nơi đây, một gia chủ cư trú ở nhà với tâm xa lìa tham lam, hết lòng bố thí, tay mở ra, hoan hỷ độ lượngbố thí, chăm sóc người nghèo khó, hoan hỷ phân phát phẩm vật cúng dường. Đây gọi là thành tựu hạnhbố thí.

Thế nào là thành tựu trí tuệ?

Nơi đây, một gia chủ khôn ngoan: có được trí tuệ hiểu được sự sinh khởi và biến diệt (năm uẩn của các pháp); người này đạt được cái nhìn soi thấu cao quý dẫn tới sự phá hủy đau khổ. Điều này gọi là thành tựu trí tuệ.” (5)

Kinh trên cũng nói về hạnh bố thí, nhưng không nói gì chuyện bố thí vợ con. Mà cũng vẫn soi thấu năm uẩn, và dẫn tới trí tuệ vượt qua bờ đau khổ. Như vậy, bố thí nơi đây phảỉ chăng là bố thí tất cả những gì vướng bận trong tâm?

*

Một thời, nhiều thập niên trước, tôi theo học một vị sư già, ở một miền quê Đông Nam Bộ. Khi tôi thú thực với Thầy rằng, năm giớí nhiều quá, sợ con giữ nghiêm túc không nổi.

Thầy nói rằng, con chỉ cần giữ một giới là đủ.

Tôi hỏi, Thưa Thầy, một giới là giới nào.

Vị sư già nói, một giới đó là Phật giới.

Tôi hỏi, thế nào là Phật giới.

Thầy đáp, Phật giới là bình đẳng.

Tôi đã giữ mãi lời dạy đó, giữ cái nhìn này theo mình ngày và đêm. Tôi nhận ra lời dạy này nơi các pháp sinh khởi và biến diệt hệt như sóng và nước không hề dị biệt; nơi tất cả những gì trước mắt và bên tai tôi đều là pháp giới tâm mình hiển lộ. Nơi đó, tất cả các pháp đều là vô thường.

Nơi đó, tất cả các pháp đều là hiển hiện trong tâm mình, diễn ra như một vở kịch hay một cuốn phim với đầy đủ âm thanh, sắc tướng, vui buồn, vân vân.

Nhưng cũng nơi đó, bất kể là tuồng diễn ra vui hay buồn, bất kể phim diễn ra hài hay bi, bản tâm thực sự vẫn là bất động ở cả ba thời: khi chưa kéo màn, khi đang kéo màn, và khi đã hạ màn.

Nhưng cũng nơi đó, bất kể sóng lớn hay nhỏ, bất kể sóng cuồng nộ hay lặng êm, tâm vẫn là tánh nước, xa lìa cả động và cả bất động.

Trong cùng tận, cái nhìn bình đẳng là tối hậu của Tứ Niệm Xứ.

Thử nhìn lại chuyện bố thí vợ và con dưới ánh sáng của Tứ Niệm Xứ: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.

Cái tôi nào đang bố thí? Thân mình có thật đâu, sao gọi là có cái tôi nào bố thí. Tay, chân, đầu, tóc, lưng, bụng... đều không phải là cái thân. Khi niệm thân sẽ thấy: kể cả cái tánh nam hay tánh nữ, cái thân già hay thân trẻ, đều tìm không ra trong khối ngũ uẩn này, lấy cái gì mà gọi là có thân, mà gọi là có ta, mà gọi là có thân ta.

Khi niệm thọ sẽ thấy, buồn không có thật vì không ngăn được khi vui, vui không có thật vì không ngăn được khi buồn; do vậy, vui hay buồn không tự hữu, chỉ theo duyên mà khởi. Khi thấy tất cả các thọ đều tự thân là tánh không, tâm của học nhân sẽ không vương vào bất kỳ một thọ nào. Khi ly tất cả các thọ do duyên khởi, sẽ là một niềm pháp lạc tự nhiên.

Tương tự với niệm tâm, sẽ không thấy tâm ở đâu. Tương tự với niệm pháp, sẽ không thấy pháp nào thực có.

Tất cả sẽ tự trở về với bản tâm là tánh không. Lúc đó, là giây phút của xả ly; đây mới thật là bố thí.

Trong khi đó, dưới cái nhìn này, vợ và con cũng không thật hữu, lấy gì mà bố thí. Mà thực sự, ai bố thínơi đây?

Nếu gọi rằng có ai bố thí, thì đó không phảỉ là Phật pháp – nơi tận cùng, là một tấm gương tâm thật lớn, nơi đó tất cả pháp đều bình đẳng.



GHI CHÚ:

(1) If science proves some belief of Buddhism wrong, then Buddhism will have to change. In my view, science and Buddhism share a search for the truth and for understanding reality. (http://www.nytimes.com/2005/11/12/opinion/12dalai.html?pagewanted=all&_r=0)

(2) Kinh Ambalatthika-rahulovada Sutta, phần ghi chú có viết, ngài La Hầu La (Rahula) đươc dạy kinh này khi 7 tuổi. (http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.061.than.html)

"Having done a mental action, you should reflect on it: 'This mental action I have done — did it lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Was it an unskillful mental action, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it led to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it was an unskillful mental action with painful consequences, painful results, then you should feel distressed, ashamed, & disgusted with it. Feeling distressed, ashamed, & disgusted with it, you should exercise restraint in the future. But if on reflection you know that it did not lead to affliction... it was a skillful mental action with pleasant consequences, pleasant results, then you should stay mentally refreshed & joyful, training day & night in skillful mental qualities.”

(3) Kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt - http://thuvienhoasen.org/p15a241/31-kinh-giao-tho-thi-ca-la-viet-sigalovada-sutta

(4) "Furthermore, there is the case where you recollect your own generosity: 'It is a gain, a great gain for me, that — among people overcome with the stain of possessiveness — I live at home, my awareness cleansed of the stain of possessiveness, freely generous, openhanded, delighting in being magnanimous, responsive to requests, delighting in the distribution of alms.'

At any time when a disciple of the noble ones is recollecting generosity, his mind is not overcome with passion, not overcome with aversion, not overcome with delusion. His mind heads straight, based on generosity. And when the mind is headed straight, the disciple of the noble ones gains a sense of the goal, gains a sense of the Dhamma, gains joy connected with the Dhamma. In one who is joyful, rapture arises. In one who is rapturous, the body grows calm. One whose body is calmed experiences ease. In one at ease, the mind becomes concentrated.

"Of one who does this, Mahanama, it is said: 'Among those who are out of tune, the disciple of the noble ones dwells in tune; among those who are malicious, he dwells without malice; having attained the stream of Dhamma, he develops the recollection of generosity.' (http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an11/an11.012.than.html)

(5) "What is the accomplishment of charity?

"Herein a householder dwells at home with heart free from the stain of avarice, devoted to charity, open-handed, delighting in generosity, attending to the needy, delighting in the distribution of alms. This is called the accomplishment of charity.

"What is the accomplishment of wisdom?

"Herein a householder is wise: he is endowed with wisdom that understands the arising and cessation (of the five aggregates of existence); he is possessed of the noble penetrating insight that leads to the destruction of suffering. This is called the accomplishment of wisdom.”

(Link: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an08/an08.054.nara.html)

Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

MỞ TOANG CHIỀU RỘNG ĐÓN THU SANG





Sợi nắng mềm trườn lên má em
luồn vào mái tóc nở hoa vàng
gió khều nhè nhẹ hương phát tán
len lẻn vào ta ngây ngất say


Một chiếc lá vừa bay ngang cửa
mở toang chiều rộng đón thu sang
chân trời nhóm lửa đun mây xám
mắt phố đong đưa anh ánh tình

Bóng bám theo hình thong dong bước
thời gian cong vạt nắng lưng ong
mộng phập phồng trên dòng nhựa sống
tiếng trẻo trong tuôn chảy mênh mông

Thu tràn lên hạ vàng son
hoàng hôn bỗng hóa trẻ con bên thềm

Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

Lời thỉnh cầu ở Nghĩa Trang Đồng Lộc




Mười bát nhang, hương cắm thế đủ rồi
Còn hương nữa hãy dành phần người khác
Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi
Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc
Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp
Như cỏ trong thung, như nắng trên đồi!
Hoa cỏ may khâu nặng ống quần, kìa!
Ơi các em cổ quàng khăn đỏ
Bên bia mộ, xếp hàng nghiêm trang thế
Thương các chị lắm phải không? Thì hãy quay về
Tìm cây non trồng lên đồi Trọ Voi và bao vùng đất trống
Các chị còn khao khát bóng cây che!
- Hai bảy năm trôi qua, chúng tôi không thêm một tuổi nào
Ba lần chuyển chỗ nằm lại trở về Đồng Lộc
Thương nhớ chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc
Về bón chăm cho lúa được mùa hơn
Bữa ăn cuối cùng mười chị em không có gạo
Nắm mì luộc chia nhau, rồi vác cuốc ra đường!

- Cần gì ư? Lời ai hỏi trong chiều
Chúng tôi chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu
Ngày bom vùi tóc tai bết đất
Nằm trong mộ rồi mái đầu chưa gội được
Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho mọc dậy vài cây bồ kết
Hương chia đều trong hư ảo khói nhang…

Vương Trọng

(Đồng Lộc, ngày 5/7/1995

Chú thích: Đọc Lời thỉnh cầu của nhà thơ Vương Trọng, ngày 19-8-1998, iôi trồng 2 cây bồ kết tại nghĩa trang này. (Đại tá Nguyễn Tiến Tuấn - Công an Hà Tĩnh)



Bản dịch tiếng Anh của anh Trần Đình Hoành:

A Request at Dong Loc Cemetery
That’s enough for ten bowls
The rest of incense, let’s save for others
We’re not the sole fallen ones
So much blood and bone was spent for Dong Loc
Memories, let’s spread evenly
Like grass in the valley, sunlight on the hill.
Look! Tongue-grass buds cling to the pants!
O you red-scarfed children standing straight by the tombs
You love us so much, don’t you?
Then, go home, find little plants
Plant them on Tro Voi Hill and on these bare lands
We’re so thirsty longing for some tree shades!
Twenty-seven years have passed, we haven’t grown a day
Three times changing bed, we’re now back in Dong Loc
Friends, if you love us, don’t cry!
Go back and tend the rice for better harvest
The last meals we ten had no rice
Just a handful of cassava, then out with hoes we went.
Our needs? One afternoon someone has asked
We’re not yet married and haven’t got a chance to love
When the bomb buried us all, our hair was enmeshed in dust
Lying here in these tombs, we haven’t got a chance to wash our hair
We ask that on the parched ground of this cemetery
Someone would grow some carob tree(*)
That spread fragrance evenly in the ethereal incense smoke…

Vuong Trong, Dong Loc, July 5, 1995

Note: Having read Vuong Trong’s Request, I plant two carob trees at this cemetery today, August 19, 1998 - Colonel Nguyen Tien Tuan, Ha Tinh Police


(*) Note by translator: Carob or locust tree is a kind of leguminous tree, the pods of which are boiled in water and the resulting liquid is used as hair shampoo.
Translated by Trần Đình Hoành ( A Vietnamese resident in USA)

Lê Phượng

Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2017

CÁI ÁC CÓ TỒN TẠI KHÔNG VÀ THƯỢNG ĐẾ CÓ TẠO RA CÁI ÁC KHÔNG?



Thượng Đế không tạo ra điều ác, điều ác chính là kết quả của việc trái tim con người không còn lương thiện. Nó giống như cái lạnh sẽ đến khi không có nhiệt hoặc bóng tối sẽ đến khi không còn ánh sáng nữa.


Trong một lần giảng bài trên lớp, một vị giáo sư hỏi các sinh viên: “Có phải mọi thứ trên đời này đều do Thượng Đế tạo ra không?”.

Một sinh viên đứng dậy và trả lời: “Vâng, đúng ạ”.

Vị giáo sư hỏi tiếp: “Nếu Thượng Đế tạo ra tất cả mọi thứ, điều đó có nghĩa Thượng Đế cũng tạo ra cả cái ác. Nếu chiểu theo nguyên tắc: Những việc chúng ta làm sẽ xác định chúng ta là ai, vậy Thượng Đế cũng là kẻ ác phải không?”

Cả lớp im lặng sau khi nghe điều này. Vị giáo sư rất vui mừng khi một lần nữa ông lại chứng minh được rằng Thượng Đế có lẽ chỉ hiện diện trong thần thoại.

Tuy nhiên chỉ ít phút sau, một sinh viên khác đứng dậy và nói: “Thưa giáo sư, em có thể hỏi thầy một câu được không ạ?”

Vị giáo sư đáp: “Tất nhiên rồi”.

Cậu sinh viên hỏi: “Thưa giáo sư, cái lạnh có tồn tại không ạ?”

“Tất nhiên là có. Chẳng lẽ cậu chưa bao giờ thấy lạnh sao chàng trai?”, vị giáo sư hỏi vặn lại cậu sinh viên.

Trong lớp bỗng bật lên những tràng cười không ngớt và tiếng xì xào bàn tán.

Nghe câu trả lời từ giáo sư, cậu sinh viên từ tốn nói: “Thưa thầy, thực ra cái lạnh không hề tồn tại. Theo định luật vật lý thì chúng ta chỉ nghĩ về cái lạnh khi chúng ta không thấy có nhiệt. Khi nhiệt độ xuống đến 0 độ, đó là lúc thực sự không có nhiệt. Vậy chúng ta tạo ra từ “lạnh” là để diễn tả trạng thái không có nhiệt”.

Cậu sinh viên này tiếp tục đặt ra một câu hỏi khác: “Thưa thầy, bóng tối có tồn tại không ạ?”

“Tất nhiên là có rồi”.

Thượng Đế không tạo ra điều ác, điều ác chính là kết quả của việc trái tim con người không còn lương thiện. Nó giống như cái lạnh sẽ đến khi không có nhiệt hoặc bóng tối sẽ đến khi không còn ánh sáng nữa.
Một lần nữa, cậu sinh viên lại trả lời: “Thưa thầy, thầy lại sai rồi. Bóng tối thực sự không tồn tại. Đó chỉ là trạng thái không có ánh sáng. Chúng ta chỉ có thể nghiên cứu về ánh sáng mà không nghiên cứu về bóng tối. Theo định luật Newton, chúng ta có thể nghiên cứu về ánh sáng trắng và phát triển nó thành nhiều màu khác nhau nhưng chúng ta không thể đo lường được mức độ tối của bóng tối. Làm thế nào để chúng ta có thể đo được lượng bóng tối trong một không gian nhất định? Bóng tối chỉ là cụm từ được sử dụng để mô tả việc thiếu ánh sáng mà thôi”.

Cuối cùng, cậu sinh viên hỏi: “Thưa giáo sư, vậy thì cái ác có tồn tại không?”

Vị giáo sư trả lời: “Có, tất nhiên cái ác có tồn tại. Không những thế, chúng ta còn thấy nó đang hiện diện trong cuộc sống hàng ngày. Tội phạm, bạo lực xảy ra trên toàn thế giới chính là ví dụ về cái ác”.

Một lần nữa, cậu sinh viên vừa lắc đầu vừa mỉm cười: “Không phải vậy thưa giáo sư. Cái ác tự nó không tồn tại, mà đó chỉ là sự thiếu vắng cái thiện. Thượng Đế không tạo ra điều ác, điều ác chính là kết quả của việc trái tim con người không còn lương thiện. Nó giống như cái lạnh sẽ đến khi không có nhiệt hoặc bóng tối sẽ đến khi không còn ánh sáng nữa”.

***

Có lẽ, điều mà vị giáo sư trong câu chuyện ở trên ngờ vực, cũng là nỗi nghi hoặc của rất nhiều người trên thế gian này. Tuy nhiên, câu trả lời hết sức đơn giản nhưng cũng cực kỳ thông minh của cậu học trò đã giải khai cho những điều thắc mắc ấy.

Vậy, có bao giờ bạn từng suy nghĩ, nếu bạn tin vào Thượng đế và Thần Phật, và Họ không tồn tại, bạn sẽ mất những gì? Còn nếu như Thượng đế, Thần Phật thật sự có tồn tại, nhưng bạn lại phỉ báng Họ, bạn sẽ mất những gì?

Nhờ có niềm tin vào Phật, bạn đã có một đời an lạc. Vậy bạn đã được gì và mất gì? (Ảnh dẫn theo tinhhoa.net)
Đối với mỗi người trong chúng ta, bất kể là có tin Thượng đế, Thần Phật hay không thì đều biết rằng Thượng đế, Thần Phật là lương thiện, là từ bi và luôn bảo hộ chúng sinh. Ý chỉ của Phật là giáo huấn con người sống lương thiện, chân thành và khoan dung. Mọi người khi gặp nạn đều khẩn cầu Thượng đế, Thần Phật phù hộ.

Người có lòng tin vào Đấng tối cao và Thần Phật thường là người lương thiện, trong tâm họ luôn chứa đựng những lời dạy bảo và ý chỉ của Phật. Họ luôn luôn vui vẻ, bao dung và biết ơn. Họ tin rằng thiện ác hữu báo nên họ không làm điều ác, tôn sùng điều thiện và hòa ái, chân thành; như vậy không tốt sao?

Và bởi vì người ta không tin vào sự tồn tại của Đức Phật, không tin vào thiện ác hữu báo, nên họ dám làm bất kỳ điều gì để đạt được danh lợi cho mình, không có đạo đức để ước thúc tâm mình.

Shakespeare đã từng nói rằng:

“Đừng phỉ báng những điều bạn không biết sự thật, nếu không, tính mạng của bạn sẽ gặp trùng trùng điệp điệp những nguy hiểm”.

Nếu khi bạn chết, bạn thực sự thấy Đức Phật, Phật Pháp đúng là có thật, cũng có luân hồi và địa ngục. Như vậy những người lương thiện thì thật đáng quý, còn bạn, bạn đã mất đi điều gì?

Hãy nhìn xung quanh chúng ta, nếu một thế giới không có đức tin đúng đắn, người ta sẽ không còn phân biệt được thiện – ác, đúng – sai. Chân thành, lương thiện, nhẫn nhịn, những người có những đức tính này là những người tốt nhất. Còn những người bị tiền bạc thay thế thiện niệm, bái lạy Phật chỉ vì danh lợi, họ đã bị mất đi phương hướng, tìm không thấy ý nghĩa đích thực của cuộc sống này.

Bản tính con người là thiện – ác đồng thời tồn tại. Vậy nên, hạt giống lương thiện ở trong tâm hồn mỗi chúng ta, hãy tưới lên nó đức tin đúng đắn, nếu như vậy bạn sẽ tuyệt đối không mất gì mà còn có được một cuộc sống hạnh phúc tròn đầy!

Ngọc Tâm

Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2017

Nơi thời gian dừng lại






Truyện ngắn của Trương Thái Du




. Phải khẳng định tôi là kẻ vô thần. Tôi không tin dị đoan, ma quỷ, tiên thánh. Do đó chiếc xích đu nằm giữa vuông sân trời rộng và kín gió, tôi đặt tên là cỗ máy vĩnh cửu. Chẳng liên tục nhưng thi thoảng chiếc xích đu lại tự đưa đẩy như có người đang ngồi chơi, mà không vì một lý do cơ học rõ ràng nào.


Khu tôi ở vốn đã yên tịnh, vườn cây lưu niên hàng ngàn thước vuông xung quanh càng tách biệt căn nhà với thế giới xung quanh. Những đêm trăng thanh vắng tôi thường không ngủ được vì chiếc xích đu cứ kẽo kẹt mãi. Sân trời cỡ một sảnh khách lớn, ba phía đều có cửa phòng hoặc cửa sổ trổ ra, từ những mảng tường đá rửa hồng xám. Hàng lan can sắt nhìn xuống thảm cỏ bên hông. Bể đất to và sâu kéo dài suốt chiều dọc sân, đầu giáp lan can có bụi hoàng anh già cỗi xù xì leo lên những chiếc lam bê tông trang trí bên trên.


Hoa hoàng anh màu vàng ươm, gần giống hoa loa kèn. Khi lìa cành rơi xuống nó tạo nên những tiếng động tinh tế như bước chân tố nữ. Lá hoàng anh già cũng màu vàng. Đầu mùa khô, các xoáy gió đêm hiếm hoi sẽ khiến lá rụng hàng loạt. Chúng thường mông lung gợi hình tà áo mỏng liêu trai, xoắn xuýt quanh chiếc xích đu.


Thấy tôi đi sớm về khuya, thui thủi một mình, chòm xóm đồn nhà tôi bị ma ám. Họ thầm thì về những tiếng cười xé vải hun hút đêm sâu, tiếng đàn tranh rin rít từng tràng ai oán, tiếng cú rúc, tiếng chim lợn eng éc báo điềm xấu… Họ bảo không bị dớp ấy thì căn nhà đã đổi chủ xoành xoạch mỗi bận bất động sản nóng sốt, y như các khuôn viên xung quanh. Tôi từng đuổi không biết bao nhiêu là cò đất lâu lâu đến quấy rầy, nghe ngóng, dụ dỗ. Người ta không tin tôi, trơ tráo ngả giá mua số điện thoại của chủ nhân thực sự.




. *Tòa biệt thự xưa cũ, xây dựng theo phong cách Mỹ cuối thập niên 1960 mà tôi đang ở là tài sản tôi thừa kế từ người chú ruột quá cố. Chú vốn là sĩ quan quân y chế độ cũ. Cha tôi không thèm nhìn mặt chú. Ông ghét em trai một, ghét em dâu mười. Thím tôi bị gọi là đứa tiểu tư sản õng ẹo đồng bóng. Tập kết về, gia đình tôi ở chung với ông bà nội đã gần đất xa trời. Nhà chú cạnh bên.


Năm 1978 thím dắt con, dứt áo vượt biên cùng bạn tình. Học tập xong, chú tôi bán nhà nơi trung tâm thành phố. Ông lóc cóc đạp xe qua cầu Sài Gòn tìm chốn ẩn mình. Mẹ tôi đoán chú vẫn còn của chìm nhưng giả bộ cuốc đất trồng rau, nuôi gà vịt, sống chay tịnh tự cung tự cấp và cắt hết giao tiếp với xã hội.


Thời gian rong ruổi. Cha mẹ tôi về với tổ tiên. Anh hai tôi thành đại gia tiền muôn bạc vạn. Tôi khù khờ nhút nhát nên được anh lo cho chân thủ thư, sống như một chiếc bóng. Chị dâu hay nửa đùa nửa thật bảo tôi là âm bản, là thái cực cân bằng với thành đạt, thông minh, khôn khéo, thức thời của anh trai tôi.


Giỗ đầu cha tôi, anh hai không hiểu làm cách nào đón được chú đến thắp nhang. Từ đó anh cử hẳn một bà vú già trong gia đình qua chăm sóc chú đến cuối đời. Chú mất, di chúc bắt tôi phải giữ nguyên trạng ngôi nhà trong ít nhất hai mươi năm, sau đó muốn làm gì thì tùy. Chị dâu bực bội hỏi đào đâu ra tiền trước bạ. Tôi bảo anh hai đứng tên nhà cũng được. Anh mắng tôi ngu, anh tin tôi chứ không tin vợ. Tôi phải ký giấy tặng riêng anh phần di sản của bố mẹ, tức nửa căn nhà ông bà nội để lại.


Số là dạo ấy anh chị đang bất hòa. Lâu lâu anh lại dọa chị rằng người xưa đã bảo “Giàu đổi bạn – Sang đổi vợ”. Chị nổi khùng hoài, nhưng dần dần cũng thỏa hiệp được. Anh hai bay nhẩy, trăng hoa kín hơn. Chị ở nhà giả tảng không nghe, không biết, tự tìm thú vui như lễ chùa, tụ tập bạn bè cùng trang lứa.




* Hai người khách tỏ vẻ áy náy rất thật vì làm phiền tôi trong ngày nghỉ cuối tuần. Hóa ra đây là tổ ấm cũ của họ. Bao năm xa xứ họ luôn bị thôi thúc trở về. Cây cối lớn vống lên. Riêng tòa nhà chẳng mấy đổi thay, cứ như một phần tư thế kỷ chỉ là chớp mắt.


Tôi dắt họ đi thăm mọi ngóc ngách. Chỗ nào họ cũng qua loa, chỉ trừ vuông sân trời có chiếc xích đu. Vừa bước qua cửa, bà vợ đã đổ sụp xuống bên bể đất trồng hoa. Ông chồng lặng lẽ gạt nước mắt, cúi mái đầu hoa râm phai thuốc nhuộm đỡ vợ dậy.


Cuối tháng Tư năm ấy, một mảnh đạn pháo lạc từ xa lộ đầu cầu Sài Gòn đã cướp đi đứa con gái bé bỏng vừa qua tuổi dậy thì của họ. Cô gục xuống bên chiếc xích đu sơn màu xanh hòa bình. Cha mẹ cô chỉ kịp gói gém thi thể trinh nữ trong mấy lớp ni lông rồi chôn tạm giữa bể đất, trước khi di tản.


Một lọ hoa, hai chung nước lọc và ba cây nhang cùng không khí đặc quánh xung quanh tạo nên lễ cải táng câm lặng nhưng đầy màu sắc tâm linh thần bí. Chúng tôi không nỡ dùng các dụng cụ đào bới như bay thợ hồ hoặc cuốc và xẻng nhỏ. Ba mươi đầu ngón tay trần cào vơi dần khoảng giữa bể đất để thăm dò. Gần đến đáy xi măng, khối rễ hoàng anh chằng chịt làm bật móng tay ông khách. Máu đỏ thấm ướt đất. Chưa kịp đau đớn, ông đã cuống cuồng hoảng hốt vì không thấy gì.


Mọi người nín thinh, tiếp tục bới, hất hết đất đen ra ngoài.


Điều kỳ lạ chỉ lộ diện khi niềm hy vọng sắp tắt. Chiếc tiểu sành màu da lươn. Xương cốt xếp đặt rất ngay ngắn. Hộp sọ thon nhỏ, có lẽ của khuôn mặt trái xoan. Mảnh đạn pháo hình lưỡi rìu chém vào thái dương vẫn còn kẹt lại.


Nắp cao su dẻo kín nước của chiếc vỏ chai thuốc pênêxilin được cậy ra. Mấy dòng chữ nhòe nhoẹt của chú tôi, mực dầu tái chế, bút Bic chắc đã thay bi mấy lần: Định dùng bể đất làm hồ nuôi cá trê phi thì phát hiện đây là một ngôi mộ. Xin thân nhân người quá cố lượng thứ. Ngày x tháng y năm 1982.




* Hai anh em tôi sống tương đối ít va chạm. Tôi luôn nghe lời anh. Trước kia vài ba lần anh cho tôi tiền xài. Tôi không khi nào nhận. Anh chả cần hỏi cũng biết tôi đơn giản lắm. Không rượu chè, cờ bạc, cà phê cà pháo, tôi chỉ thích sách thì tiền khác nào giấy lộn. Sách trong mấy tầng lầu thư viện, hằng tháng chiêu nạp thêm cơ man bản in lưu chiểu mới nhất, tôi đọc đến kiếp sau cũng chưa hết.


Anh thấy tôi vô duyên trên đường tình nên bổn cũ soạn lại. Anh kiếm đâu ra một cô giúp việc sạch sẽ, trẻ trung gửi vào nhà tôi. Đêm đầu tiên như có ma phá. Chiếc xích đu rên xiết. Cô giúp việc mê ngủ la hét rùm trời. Tôi dậy bật đèn, gõ cửa phòng gia nhân. Cô giúp việc ôm tôi khóc rưng rức. Cô bảo vừa thấy ác mộng cũ.


Học hết phổ thông, một bà cùng quê dỗ ngon dỗ ngọt cô vào Sài Gòn. Gia đình cô đến có ba nhân khẩu. Hai ông bà già lương hưu rất hậu. Cậu út của họ mắc bệnh đao, luôn mặc độc mỗi chiếc quần đùi trễ rốn, rong chơi đầu trên xóm dưới, gặp ai cũng chửi. Mấy năm nay hắn giở chứng, cứ giục mẹ lấy vợ cho.


Đêm đầu tiên cô đến nơi ở mới, cậu kia trần truồng nạy cửa phòng đòi hợp cẩn. Cô gào khóc, cấu véo, cắn xé. Mãi sau mới thấy ông chủ trên lầu hét gọi quý tử. Cô bỏ trốn, tìm chị bạn đồng hương làm tại nhà anh tôi. Cô thật thà bảo anh tôi đã nói trắng rằng tôi không tâm thần, chỉ tội tồ quá, con gái thành phố chẳng để mắt tới. Nếu cô dụ được tôi, anh sẽ lo tất, sẽ tặng bố mẹ cô ngoài bắc một căn nhà mái bằng.


Tôi bảo tôi rất quý cô, mới gặp đã thấy quý. Từ khi dọn đến biệt thự này, trong đầu tôi luôn có cảm giác đã lập gia đình. Ở chung với cô tôi rất ngại. Tôi nhờ ông già bảo vệ nhà Tây thuê cạnh bên kiếm cho cô công việc lau dọn. Lương tàm tạm, đủ để cô tìm một chỗ trọ tồi tàn và hàng tháng giúp cha mẹ chút ít. Chưa đầy năm, cô hớn hở mời tôi dự đám cưới. Chồng cô là lái xe của chủ nhà.


5. Mấy đứa cháu con anh tôi đều du học tự túc ở Mỹ cả. Năm kia tôi nhờ chúng chuyển ít quà cho ông bà Việt Kiều già. Chúng kể họ sống đạm bạc, lẻ loi và cô độc lắm. Ông bà có tất cả bốn người con. Cô hai dính hòn tên mũi đạn. Ngày di tản cậu ba dạt theo bên ngoại, lỡ chuyến. Cuối năm ấy cậu cũng yểu mệnh, chết vì đói và khát trong những ngày lênh đênh vượt biển. Ông bà trách hai người sinh tại Mỹ mất gốc, đã Mỹ hóa hoàn toàn. Cũng vì cả gia đình sống biệt lập ở một tiểu bang không có cộng đồng Việt Nam đông đảo. Ông bà ao ước dăm năm nữa sẽ về Sài Gòn dưỡng già. Họ hỏi cháu tôi năm mươi ngàn Mỹ kim dành dụm của họ có mua nổi một căn nhà tàm tạm không, càng gần tôi càng tốt. Tự lúc nào họ đã thầm xem, thầm ước tôi là con là rể họ.


Anh tôi và chị dâu, nghe bảo hay kể công với đống vàng cạnh cầu Sài Gòn. Cháu tôi không vừa ý, chúng cảnh báo người làm ăn buôn bán nên biết điều với âm hồn trinh nữ trẻ. Theo chúng, căn nhà cũ của ông bà để lại mà anh chị đang cho thuê, mặt tiền một quận trung tâm, cũng chẳng làm họ thiệt thòi. Tôi nào hay biết nhưng đám cháu khôn đáo để, chúng ước lượng nhà của tôi bây giờ giá hàng triệu Mỹ kim. Tôi bảo chú già rồi, tiền bạc không biết tiêu, không biết tính, mai này để lại cho các cháu tất. Chúng cười tôi cả nghĩ xa xôi, bố chúng giàu lắm lắm, tôi không tưởng tượng nổi đâu. Xe cộ, nhà cửa anh tôi sắm cho chúng bên Mỹ, dù chỉ ở tạm mấy năm học, cũng làm cho triệu phú Mỹ phải tròn mắt.




* Từ ngày qui định bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, tôi đổi chiếc Honda 81 giọt lệ kim vàng lấy một chiếc xe đạp điện Đài Loan. Thế mà hay, quãng đường tôi đến thư viện làm việc thường nhật thành ra có sức sống hơn. Lúc nào thích thì tôi tắt động cơ, nhấn bàn đạp cho săn gân cốt.


Tôi bỗng thấy yêu đời. Những đêm trăng thanh tôi không còn trốn trong phòng và nổi gai ốc vì nghe tiếng xích đu kẽo kẹt nữa. Tôi ra hẳn đấy, vừa đọc sách vừa thưởng trà bắc ủ hoa nhài tươi hái ngay trong bể đất. Có khi tôi thắp một nén hương trầm dìu dịu. Các vòng khói tròn quấn quít bức ảnh khắc đá dán đè lên tường đá rửa. Cô bé có cái nhìn thật lương thiện. Cô bằng tuổi tôi nhưng vẻ thanh xuân mãi mãi dừng lại ở khoảng khắc oan nghiệt năm nào.

THU VỀ THẢ LÁ TƯƠNG TƯ





Xác ve bay bay
nắng là đà nhạt
thu về thả lá tương tư
buồn cong ngọn cỏ
thơ bỏ vàng dư
dấu chân nhòa


Con tàu không bóng trên toa
đánh rơi kỷ vật một thời đón đưa
sân ga nào có chỗ thừa
cho tôi chen lọt đặt vừa tàn phai

Lá úa bay bay
mây đè bóng lẻ
thu tràn bờ kè
nhớ nặng vành mi
giọt tình đi
xa mờ nhân ảnh
câu thơ lạnh
lặn vào tim

Thương bước đêm đêm tìm trăng bạc
khuyết nửa vành môi hồn lạc dòng mơ
thu khều bật cửa tình hờ
đốt tương tư lá thả thơ về trời

Xuyên tạc và đạo văn trong "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" Tác phẩm đạt giải Hội nhà văn Việt Nam của Lê Xuân Đức




Hoàng Tuấn Công








“Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh”, là sách được giải cao nhất của Hội Nhà văn Việt Nam trong cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Sách đề tên tác giả: “Lê Xuân Đức Dạy văn, Viết văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Đại biểu quốc hội khóa VIII”.


“Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” có hai phần. Phần I “Thơ tiếng Việt” và phần II “Thư chữ Hán”. Những gì Lê Xuân Đức viết trong phần I rất khó xác minh đúng sai, kiểm chứng thông tin. Vì nhiều đoạn, Lê Xuân Đức kể giống như chính mình là người chứng kiến mà không hề chú thích theo nguồn tài liệu nào. Bởi vậy, chúng tôi không thể lại “đi tìm xuất xứ” những dòng Lê Xuân Đức viết. Tuy nhiên, phần thơ chữ Hán số lượng hơn 30 bài, nhác qua đã thấy tới nửa số bài có vấn đề. Và “vấn đề” ở đây cũng không có gì mới. Tức cái sai vẫn mang dấu ấn của Lê Xuân Đức: “chữ tác đánh chữ tộ”, phá hỏng nguyên tác thơ Hồ Chí Minh, và đạo văn.
I.CHỮ TÁC ĐÁNH CHỮ TỘ:
1. Bài “Tặng Bùi công”:
Câu "Khán thư sơn điểu thê song hãn" (Lúc xem sách chim rừng vào đậu ở cửa sổ).
Chữ "hãn" 杆 trong “song hãn” nghĩa là cái song cửa, một âm đọc khác là “can” trong từ “lan can”-hàng chấn song cửa (chữ hãn có bộ mộc 木chỉ nghĩa và bộ can 干ghi âm) bị viết thành chữ “hãn” 扞 (chữ hãn có bộ thủ扌chỉ nghĩa và bộ can 干ghi âm) nghĩa là: “Chống giữ ② Chống cự, như hãn cách 扞格 chống cự”. (Hán -Việt từ điển-Thiều Chửu). Như vậy, Nguyên tác thơ Hồ Chí Minh: 看書山鳥棲窗杆 (Xem sách chim rừng vào đậu ở cửa sổ) qua tay Lê Xuân Đức bị biến thành: 看書山鳥棲窗 扞 và bắt buộc phải hiểu là: Xem sách, chim rừng vào đậu cửa ở sổ nhưng bị ngăn lại (!)
2.Bài “Vô đề”:
Câu "Quân cơ quốc kế thương đàm liễu" (Việc quân việc nước đã bàn xong). Chữ liễu 了 trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh nghĩa là xong, rồi, bị viết thành chữ liệu 瞭 (có bộ mục) có nghĩa là: mắt sáng, hiểu rõ. Căn cứ "nguyên tác" của Lê Xuân Đức, ý nghĩa của câu thơ sẽ thành: Mắt vẫn sáng để bàn chuyện quân cơ quốc kế, hoặc: Khi bàn việc quân việc nước vẫn hiểu rõ (!?)
3.Bài “Tư chiến sĩ”:
Câu "Dương quang hòa noãn báo tân xuân" (Ánh mặt trời ấm áp báo mùa xuân mới đã sang). Chữ "báo" 報trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh có nghĩa là báo tin, bảo cho biết (động từ) bị Lê Xuân Đức viết thành chữ "báo" 豹 có nghĩa là con báo (danh từ chỉ động vật): 陽光和暖豹新春 Như thế, nguyên tác thơ bị biến thành: Ánh mặt trời ấm áp mùa xuân đến cùng...con báo (!)
4.Bài “Gửi đồng chí Trần Canh”:
Câu "Hùng sư bách vạn tất thính lệnh" (Trăm vạn hùng binh đều nghe lệnh) chữ "tất" nghĩa là đều, hết, tất cả, bị phiên âm thành "đất"-một từ không hề có trong Hán tự.
5. Bài “Ngọ quá thiên giang”:
Câu "Thiên giang, giang ngạn mãn xuân tương" (Bên bờ sông Thiên, sương xuân đã phủ đầy). Nguyên tác chữ Hán "Thiên giang, giang ngạn" 遷江江岸 (Bên bờ con sông Thiên) bị Lê Xuân Đức viết thành "Thiên giang, thiên ngạn"遷江遷岸. Chữ “thiên” 遷có nghĩa là dời đổi, “Thiên ngạn” nghĩa là Bờ con sông Thiên đã bị dời đi nơi khác phủ đầy sương xuân (!).
Đáng chú ý, trong sách "Tinh hoa thơ Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức (NXB Văn học-2010) câu "Thiên Giang, giang ngạn" lại bị ông đánh hỏng đi kiểu khác. Đó là ông phân tích: "Thiên Giang giang" là sông Thiên Giang (sông Thiên)". Thế là Lê Xuân Đức chẳng hiểu gì về ngữ pháp Hán văn, chẳng hiểu gì về con sông Thiên. Bởi "Thiên giang" đã có nghĩa là sông Thiên rồi. Chữ "giang" thứ hai phải gắn với chữ "ngạn": "giang ngạn" thành nghĩa "bờ sông": Thiên Giang, giang ngạn" là bờ con sông Thiên. Nếu cắt chữ "giang" sang thành cụm từ "Thiên Giang giang" như Lê Xuân Đức thì bỏ chữ "ngạn" đi đâu ?
6.Bài "Đến gần Long Châu":
Câu "Viễn cách long châu tam thập lý" (Cách xa Long Châu ba mươi cây số). Chữ “cách” 隔trong "Viễn cách" nghĩa là cách xa, bị phiên âm thành "Viễn cảnh": “Viễn cảnh Long Châu tam thập lý”. Phiên âm của Lê Xuân Đức chỉ có thể hiểu là: Cảnh xa Long Châu ba mươi dặm (!).
7.Bài "Tặng đồng chí Trần Canh"(tại Việt Bắc)
Câu "Hương tân, mỹ tửu dạ quang bôi" (Rượu ngọt "sâm banh" trong chén ngọc dạ quang) Chữ "quang" trong "dạ quang bôi" (chén bằng ngọc quý) Lê Xuân Đức phiên âm thành "dạ kim bôi" (chén bằng vàng). Phần nguyên tác chữ Hán thấy rõ là "dạ quang bôi" 夜光杯, bị phiên âm là "dạ kim bôi", thế nhưng phần dịch nghĩa lại thấy Lê Xuân Đức dịch là "ngọc dạ quang" (!) Điều đáng chú ý: chữ "dạ kim bôi" Lê Xuân Đức nhất quán nhắc lại ba lần trong bài (lần 1 ở trang 368, lần 2 và lần 3 ở trang 370).)
Vậy, Lê Xuân Đức sai ở phần nguyên tác thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, hay sai ở phần phiên âm ? Và "dạ quang bôi" đúng hay "dạ kim bôi đúng" ? Theo chúng tôi, "dạ quang bôi" đúng, Lê Xuân Đức đọc sai, phiên âm sai. Vì:
1.Bài “Tại Việt Bắc tặng Trần Canh đồng chí” (Tại Việt Bắc tặng đồng chí Trần Canh) Bác Hồ đã mượn bài Lương Châu từ 凉州詞 của Vương Hàn đời Đường. Nguyên tác chữ Hán:
葡萄美酒夜光杯
欲飲琵琶馬上催
醉臥沙場君莫笑
古來征戰幾人回?
Phiên âm:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi;
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi ?
Trần Quang Trân dịch:
Bồ đào rượu ngát chén lưu ly,
Toan nhắp tỳ bà đã giục đi.
Say khướt sa trường anh chớ mỉa,
Xưa nay chinh chiến mấy ai về ?
(Thơ Đường tập I-NXB Văn học-1987)
Bác chỉ thay hai chữ “bồ đào” (rượu nho) ở câu đầu thành “hương tân” (rượu sâm banh); thay câu cuối “Cổ lai chính chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chính chiến mấy người về) thành “Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi” (Chớ để cho một tên địch nào trở về), qua đó, biến chén rượu quan hà bi thương trong bài thơ của Vương Hàn thành chén rượu của niềm khí thế quyết tâm, tin tưởng vào chiến thắng. (Đáng nói là Lê Xuân Đức trích dẫn và xuyên tạc luôn thơ của Vương Hàn. “Dạ quang bôi” trong nguyên tác cũng thành “dạ kim bôi”)
2. Đối chiếu với sách "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích - thư pháp" của GS Hoàng Tranh, nguyên tác chữ Hán Bác dùng "dạ quang bôi" chứ không phải "dạ kim bôi".
3.Về mặt ngữ nghĩa "dạ kim bôi" là vô lý. Bởi chỉ có loại ngọc quý mới phát sáng trong đêm, gọi là ngọc dạ quang. Nếu "kim bôi" - chén vàng, thì vàng đâu có phát sáng trong đêm mà gọi là "dạ kim bôi"? Cũng không thấy hình ảnh nào trong văn chương gọi là "vàng dạ quang".
Có lẽ Lê Xuân Đức không phân biệt được vàng và ngọc khác nhau thế nào nên mới tùy tiện biến "dạ quang bôi" thành "dạ kim bôi" như vậy.
Đọc thêm: Câu chuyện về ngọc dạ quang ở Thanh Hóa. “Tương truyền dưới núi Liên Xá, huyện Kết Thuế (nay thuộc huyện Tĩnh Gia-Thanh Hóa-HTC chú thích) trong huyện hạt có một hòn đá tròn mà rộng, chìm nổi ở cửa biển Trầm Mông, tức cửa Bạng. Có nhà buôn ngoại quốc đang đêm thấy ánh sáng của ngọc rạng chiếu trên hòn đá, cho rằng trong đá có ngọc tốt. Người này mới lấy viên ngọc quý đang cất trong người đưa ra để mưu tính nhử ngọc trong đá. Thế nhưng ngọc trong đá chẳng lấy được mà ngọc đeo bên mình lại bị hút luôn vào đó. Về sau đêm đêm, người trong thôn thường thấy có đôi ngọc dạ quang đuôi đỏ, hình dạng như đôi chim đang bay, thường thường tự sườn núi bay ra Mi Sơn ngoài biển, đến sáng lại quay về. Vì thế nên gọi là núi Cưu Ngọc. Đời Lê, niên hiệu Quang Thuận, Thuần Hoàng đế nam chinh đánh Chiêm Thành. Khi đến nơi này liền lệnh cho người đục đá, lại lấy lửa đốt để lấy ngọc nhưng vẫn không sao lấy nổi.Vua cho rằng trong đá có linh khí chung đúc mà thành, mới đổi tên đất làm Ngọc Sơn” (Trích: Thanh Hóa kỷ thắng-Vương Duy Trinh-nguyên tác chữ Hán -Bản dịch của Hoàng Tuấn Công, chưa công bố).
8.Bài "Hai chớ":
Câu "Dị sử thi nhân hóa tục nhân" (Dễ khiến thi nhân hóa người phàm tục) Cụm từ "Dị sử thi nhân" 易使詩人 (dễ khiến thi nhân) trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh bị viết thành "Dị sử sử nhân" 易使使人 (dễ khiến, khiến người). Đã thừa chữ lại thiếu nghĩa.
9.Bài "Vô đề":
Câu "Nhất niên tứ quý đô xuân thiên" (Một năm cả bốn mùa đều là xuân) Chữ "đô" 都 nghĩa là đều, "đô xuân thiên" nghĩa là đều là ngày xuân, bị phiên âm thành "đổ xuân thiên”. Nếu căn cứ vào bản phiên âm của Lê Xuân Đức mà "đoán chữ" thì sẽ có hai trường hợp chữ “đổ” có nghĩa:
-Nếu "đổ"賭 (có bộ bối) nghĩa là "đánh bạc" thì "Nhất niên tứ quý đổ xuân thiên" có nghĩa: Một năm bốn mùa, chỉ đánh đánh bạc vào ngày xuân (!)
-Nếu "đổ" 堵 (có bộ thổ) nghĩa là "chắn, chặn lại" thì "Nhất niên tứ quý đổ xuân thiên" có nghĩa: Một năm bốn mùa, mùa xuân bị chặn lại không đến được (!)
10. Bài "Tết xuân Mậu Thân":
Câu "Thiên thượng nhàn vân lai hựu khứ" (Trên trời mây đến rồi đi) chữ "lai hựu khứ" bị phiên thành "lại hựu khứ". Thế là Hán-Nôm lẫn lộn, phiên âm lẫn với dịch nghĩa.
11.Bài "Tặng Sơn đệ":
Bạn đọc còn nhớ trong bài “Nhật ký trong tù và lời bình hay trò đùa của Nhà phê bình Lê Xuân Đức”, chúng tôi có nhắc đến cái sai của Lê Xuân Đức trong bài viết của Trần Thư Trung trên Báo Hậu Giang. Khi ấy, chúng tôi chưa có trong tay sách "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh". Nay xem lại mới thấy, Lê Xuân Đức sai nhiều hơn Trần Thư Trung và chúng tôi tưởng. Xin nói lại từ đầu:
1/Đầu đề thiếp thư thấy nguyên văn chữ Hán là "Tống Sơn đệ", 送山弟nhưng Lê Xuân Đức lại phiên âm thành "Tặng Sơn đệ" (như Trần Thư Trung đã từng nêu).
2/Chữ "đệ" 弟trong "Sơn đệ" 山弟 nghĩa là em bị viết thành chữ "đệ" 第 (có bộ trúc đầu) nghĩa là thứ bậc (như Trần Thư Trung đã từng nêu).
3/Câu "Trí dục viên nhi hạnh dục phương". Chữ “trí” 智 trong từ trí tuệ, giỏi giang, lại viết thành chữ “chí” 志 trong ý chí, chí hướng. Viết là “chí” 志, nhưng Lê Xuân Đức lại phiên âm là "trí". Thật chẳng biết đường nào mà lần!
4/Giới thiệu nguồn gốc 12 chữ: "Đảm dục đại, Tâm dục tế, Trí dục viên, Hạnh dục phương" Bác Hồ gửi Nguyễn Sơn, Lê Xuân Đức viết: "Những câu này, chữ này Bác lấy từ một bài thơ của bậc danh y Khổng Tử Mạc thời Tùy Đường, Trung Quốc gửi cho bạn là Lưu Chiếu Lâm (có sách nói là Tôn Tử Mạc), nguyên văn như sau: "Đảm dục đại, nhi tâm dục, Trí dục viên, nhi hạnh dục phương..." Bác lấy 12 chữ ở hai câu thơ đầu và bỏ chữ "tiểu" thay bằng chữ "tế" là tinh tế, tế nhị. Bỏ chữ "tiểu" là bỏ cái nhỏ, người nhận thiếp sẽ hiểu ngay rằng cái tâm của mình cần tinh tế, chín chắn, khéo léo tế nhị hơn nữa"
Chỉ một đoạn văn ngắn này thôi, nhưng Lê Xuân Đức viết sai lung tung cả. Chúng tôi xin có mấy ý kiến:
1/Lê Xuân Đức nói là “nguyên văn như sau”, nhưng lại chẳng nguyên văn tí nào. Đó là cụm từ “nhi tâm dục tế” Lê Xuân Đức viết thiếu mất chữ “tế”, thành “nhi tâm dục”, không biết là “dục” gì?
2/Bậc danh y mà Lê Xuân Đức nói là Tôn Tư Mạc chứ không phải Khổng Tử Mạc. Từ điển Nho-Phật - Đạo (Lao Tử-Thịnh Lệ-NXB Văn học) chép rõ: "Tôn Tư Mạc孫思邈 (581-682) đạo sĩ trứ danh, nhà y học, nhà dược học thời Đường".
Vậy, tại sao tên của Danh y Tôn Tư Mạc lại biến thành “Khổng Tử Mạc”? Có lẽ là bởi chữ "Tôn" và chữ "Khổng", tuy quốc ngữ hoàn toàn khác nhau, nhưng trong Hán tự, chữ Tôn 孫, giản thể viết là 孙 (gồm bộ tử孑 thiên bàng và chữ tiểu) lại gần giống với chữ khổng孔 (cũng có bộ tử 孑thiên bàng) nên Lê Xuân Đức mới nhìn “chữ tác thành chữ tộ” rồi “mạnh dạn” đổi họ Tôn của Danh y Tôn Tư Mạc thành họ Khổng ! Lại nữa, có lẽ Lê Xuân Đức nghĩ: đã là "Khổng" thì phải đi kèm với "Tử" mới hợp lý. Thế là Tôn Tư Mạc-"Đạo sĩ trứ danh, tinh thông thuyết của bách gia, sùng chuộng Lão Trang, hiểu biết Phật điển, tinh y học, sở trường âm dương, suy đoán, diệu giải thuật số, nghiên cứu cả các phương thuật Đạo giáo như Luyện đan, Phục thực để cầu trường sinh thành tiên", chẳng may gặp phải ông thầy cao tay hơn, "đạo", "sĩ" gồm tài, nên Tôn Tư Mạc mới bỗng chốc bị hóa thành "Khổng Tử Mạc" (!) Thương thay!
Đáng chú ý: kiểu chữ tác thành chữ tộ của Lê Xuân Đức diễn ra không ít. Ví như trong "Tinh hoa thơ Hồ Chí Minh" bài Học đánh cờ (bài 1) câu mở đầu: "Nhàn tọa vô liêu học dịch kỳ", chữ "nhàn" bị Lê Xuân Đức đọc thành chữ "bế". Nguyên do: chữ "nhàn" 閑 hơi giống chữ "bế" 閉, vì cả hai chữ đều có bộ môn 門 . Chữ "nhàn", phía trong bộ môn có bộ mộc木, còn chữ bế phía trong bộ môn có chữ tài才. Chữ "tài" giống như chữ mộc bớt đi một nét phía phải. Thế là Lê Xuân Đức giảng sai luôn nghĩa của câu thơ: "Nhàn tọa vô liêu học dịch kỳ" (Nhàn rỗi đem cờ học đánh chơi) thành "Bế tọa vô liêu học dịch kỳ", ông viết: "Bế tọa vô liêu: ngồi trong giam cấm buồn tênh" (!).
Chữ "nhàn" trong nhàn rỗi, bị Lê Xuân Đức biến thành chữ "bế" nghĩa là đóng. Nhàn tọa = ngồi rỗi, thành "bế tọa" nghĩa "ngồi trong giam cấm" (!) Lê Xuân Đức quả là giỏi xuyên tạc!


3/ Lê Xuân Đức viết: "danh y Khổng Tử Mạc thời Tùy Đường, Trung Quốc gửi cho bạn là Lưu Chiếu Lâm (có sách nói là Tôn Tử Mạc)". Thế là Lê Xuân Đức không chỉ biến Danh y Tôn Tư Mạc thành Khổng Tử Mạc nào đó, mà còn tiếp tục mượn tay một người khác theo kiểu “có sách nói” để hòng biến bạn của Tôn Tư Mạc là Lưu Chiếu Lâm thành Tôn Tử Mạc ở tận đẩu tận đâu (!) Nguyên nhân những sai sót này có vẻ như tác giả “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” trong khi “tìm” quanh quẩn ở đâu đó rồi nghe loáng thoáng, đọc loáng thoáng, câu được câu chăng, nhìn gà hóa cuốc nên rốt cuộc nhầm lẫn lung tung cả. Tuy nhiên cụm từ “có sách nói” lại có vẻ Lê Xuân Đức đã làm một việc phi khoa học, đó là cố tình nguỵ tạo chứng cứ trong trường hợp này. Bởi “có sách” là sách nào ? Sao ông không nói ? Danh y Tôn Tư Mạc chính là xuất xứ của 12 chữ trong thư thiếp của Bác Hồ. Chúng tôi không nghĩ Lê Xuân Đức có thể tuỳ tiện “đi tìm xuất xứ” thơ Bác đến vậy ! Nếu bạn đọc muốn tìm hiểu "xuất xứ" mấy chữ trong thiếp thư của Bác Hồ mà lại mua sách “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” về đọc, chẳng phải đã bị Lê Xuân Đức chơi khăm cho một vố thật đau hay sao ? Đúng là “Tiền mất, tật mang”. Ông cha ta nói chẳng có sai!
Nói thêm: 7 cái sai lớn nhỏ chúng tôi vừa nêu trên đây đều có đầy đủ trong sách "Lời bình thơ chữ Hán Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức-NXB Văn học-2010, xuất bản trước sách "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" 2 năm. Như thế, yếu tố "chẳng may sai sót, nhầm lẫn" có thể hoàn toàn được loại trừ.
Xin được tiếp tục với những cái sai trong bài “Tặng Sơn đệ”:
4/Lê Xuân Đức phân tích: “Bác lấy 12 chữ ở hai câu thơ đầu và bỏ chữ "tiểu" thay bằng chữ "tế" là tinh tế, tế nhị. Bỏ chữ "tiểu" là bỏ cái nhỏ, người nhận thiếp sẽ hiểu ngay rằng cái tâm của mình cần tinh tế, chín chắn, khéo léo tế nhị hơn nữa”.
Chẳng qua không hiểu gì về chữ nghĩa nên Lê Xuân Đức mới tán nhăng, tán cuội như vậy. Chữ “tiểu” 小 và chữ “tế” 細 trong Hán tự đều có nghĩa là nhỏ, bé.
-Hán Việt từ điển (Đào Duy Anh): “Tế tâm 細心: Nghĩ ngợi kỹ càng; Tiểu tâm小心: Cẩn thận, chú ý; Đảm đại, tâm tế 膽大心細: Mật thì to, tâm thì nhỏ, nghĩa là làm việc dõng cảm mà cẩn thận từng chút”.
-Từ điển Việt - Hán (GS Đinh Gia Khánh hiệu đính): “Cẩn thận: Tiểu tâm 小心”.
-Ở bên Tàu câu “Đảm đại, tâm tế” hoặc “Đảm dục đại, tâm dục tế (tiểu) được dùng như một thành ngữ. Chữ “tiểu” 小và chữ “tế” 小 đồng nghĩa trong “tế tâm” và “tiểu tâm” nên câu “Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu” còn có một dị bản là “Đảm dục đại nhi tâm dục tế”. Bởi vậy khi Bác Hồ dùng “Đảm dục đại, Tâm dục tế” thì chữ “tế” ở đây là một cách dùng từ có nghĩa tương đương với chữ “tiểu”. Dùng “tâm dục tiểu” hay “tâm dục tế” đều có nghĩa là phải cẩn thận, chín chắn trong hành động, suy nghĩ, giảm bớt lòng dục chứ không phải “Bỏ chữ "tiểu" là bỏ cái nhỏ, người nhận thiếp sẽ hiểu ngay rằng cái tâm của mình cần tinh tế, chín chắn, khéo léo tế nhị hơn nữa” như Lê Xuân Đức giảng giải.
Đọc thêm: Về câu “Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu, Trí dục viên nhi hạnh dục phương” của Danh y Tôn Tư Mạc gửi bạn Lưu Chiếu Lâm, giới nghiên cứu y học Trung Quốc cho rằng đó chính là Tổng kết phương pháp chẩn bệnh của họ Tôn:
“-Đảm đại: Phải hùng dũng, tự tin như khí chất của bậc võ phu. (Đảm đại: Thị yêu hữu như củ củ võ phu, bàn tự tín nhi hữu khí chất).
-Tiểu tâm: Trong công việc phải thận trọng từng tí như đang đi bên bờ vực thẳm, như dẫm chân lên băng mỏng. Tức đi trên băng mỏng thì dễ bị vỡ, đứng ở bờ vực núi cao thì dễ bị sẩy chân, nên lúc nào cũng phải thận trọng từng ly. (Tiểu tâm: Thị yêu như lâm thâm uyên, như lý bạc băng. Tức như đồng tại bạc băng thượng hành tẩu, tại tiêu bích biên lạc túc, nhất dạng thời thời tiểu tâm, cẩn thận)
-Trí viên: Khi gặp việc phải viên hoạt (tức không để lộ thái độ) và phải biết quyền biến (theo việc xảy ra bất thường mà ứng biến cho nhanh). Không được câu nệ. (Trí viên: Thị chỉ ngộ sự viên hoạt, quyền biến, bất đắc câu nệ).
-Hạnh phương: Tức chỉ việc không tham danh vọng, không tranh giành lợi lộc. Được như thế trong lòng không vướng bận, tựa như được uống thang thuốc thần diệu của trời đất vậy (Hạnh phương: thị chỉ bất tham danh, bất đoạt lợi, tâm trung tự hữu thản thang thiên địa).
Đó là lời của Tôn Tư Mạc đối với các bậc lương y. Kỳ thực, những lời nói ấy không chỉ có ý nghĩa đối với những người thầy thuốc”. (HTC tham khảo, trích dịch từ tài liệu qua một số trang mạng củaTrung Quốc).
Chúng ta đều biết, nguyên nhân Bác Hồ gửi thiếp thư cho Tướng Nguyễn Sơn là do Nguyễn Sơn không hài lòng về việc thụ phong hàm Thiếu tướng. Bởi vậy, để hiểu đúng thư thiếp của Bác Hồ cần tìm hiểu nguồn gốc “đảm dục đại, tâm dục tế, trí dục viên, hạnh dục phương” trong triết lý của Tôn Tư Mạc. Mặt khác phải tiếp cận được bản chụp, hoặc bản gốc của thiếp thư. Không nên ngồi đoán già đoán non rồi tán nhăng như cách làm của Lê Xuân Đức.
5. Lê Xuân Đức không chỉ truyền bá cái sai của ông, mà còn “dĩ hư truyền hư”, lấy cái sai của người khác để đem ra trích dùng, tiếp tục quảng bá tới đông đảo bạn đọc. Ví như Lê Xuân Đức trích lời kể của Nguyễn Thạch Kim, “một cộng sự đắc lực” của tướng Nguyễn Sơn: “Tôi (tức Nguyễn Thạch Kim-HTC chú thích) mở ngay ra xem, một tấm thiếp xinh xắn giản dị như mọi cái khác, mặt trước in rõ ba chữ Hồ Chí Minh, mặt sau viết nắn nót, ngay ngắn: Đàm dục đại, tâm dục tế, trí dục viên, hành dục phương (...) Hành dục phương là hành động phải ngay thẳng, đúng đắn, chân chính, phân minh, đàng hoàng”.
Đáng lẽ với một tư liệu có vấn đề như vậy Lê Xuân Đức phải biết phân biệt sai đúng để phân tích định hướng cho độc giả hoặc không sử dụng làm tư liệu. Đằng này Lê Xuân Đức lại chú thích nửa vời, gây hoang mang cho bạn đọc: “Về chữ Đàm hay chữ Đảm, Hành hay Hạnh cần được tra cứu, sưu tầm tấm thiếp của Bác Hồ gửi tướng Nguyễn Sơn”. Chú thích nghe có vẻ khoa học và thận trọng. Tuy nhiên nó lại “lòi” cái sự không biết chữ của tác giả “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh”. Bởi chỉ cần với trình độ Hán học nhập môn tự học đã có thể không cần “sưu tầm thiếp của Bác Hồ” mà vẫn có thể khẳng định: chỉ có “Đảm dục đại chứ” không có “Đàm dục đại”. Vì sao ? Vì chữ “đảm” 膽 ở đây chỉ có nghĩa là cái mật chứ không thể là “đàm” 痰 (nghĩa là đờm trong cổ họng) “đàm” 談 (nói chuyện bàn bạc); “đàm” 潭 (cái đầm) “đàm” 壜 (cái vò rượu) “đàm” 譫 (nói mê sảng)...hay là một chữ “đàm” nào khác của Lê Xuân Đức ghép vào:
-Thiều Chửu giải thích: “Đảm膽: Mật, ở nép trong lá gan thường rỉ nước đắng ra để tiêu chất mỡ. ② Ngày xưa bảo người ta có gan góc là vì cái mật, cho nên người không e sợ gì gọi là đại đảm大膽, người có lòng sốt sắng vì nghĩa quên mình gọi là can đảm 肝膽”.
-Đào Duy Anh giải thích: “Đảm đại: mật lớn lắm = dõng cảm. Đảm đại như đẩu: Mật to bằng cái đẩu
Đời Hán, Khương Duy chín lần đánh Ngụy, khi Thục mất nước, Khương Duy không chịu hàng, quân giặc mổ bụng Khương Duy thấy mật to hơn trứng gà, người ta nói đảm đại như đẩu”. (tức mật to bằng cái chén-HTC chú).
Về chữ “hành” hay chữ “hạnh”. Lê Xuân Đức dẫu có tận mắt nhìn thấy thiếp thư của Bác Hồ cũng thế. Bởi vì chữ hành 行 hay hạnh trong trường hợp này đều viết giống nhau. Thế nên đọc là hành hay hạnh , hiểu là hành hay hạnh phụ thuộc vào kiến thức của mỗi người. Vì đây là phép “Giả tá” trong trong “Lục thư” (6 phép cấu tạo chữ Hán) Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh, Chuyển chú, Giả tá. Chữ hành行khi đọc là hành có nghĩa là đi, người ta mượn nguyên chữ này, đọc là hạnh để chỉ nghĩa đức hạnh. Bởi vậy, nếu giải thích “hành” là “hành động” là không đúng.
Nói thêm: bốn chữ "Công dung ngôn hạnh", chữ "hạnh" là đức hạnh ở đây cũng được viết giống chữ "hành". Nhưng không ai đọc là "Công dung ngôn hành")
Những cái sai của Lê Xuân Đức không phải chỉ có vậy. Tuy nhiên chúng tôi không muốn mất thêm thời gian của bạn đọc và của chính mình nên xin dừng tại đây.Chỉ xin nói thêm, Lê Xuân Đức có 10 cuốn sách viết về thơ Bác. Hiện chúng tôi có trong tay 3 cuốn và thấy rằng: rất nhiều trường hợp cái sai kiểu "chữ tác đánh chữ tộ" của Lê Xuân Đức giống nhau, "nhất quán" trong cả 2, hoặc 3 cuốn sách: (1) Lời bình thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (XB 2010); (2) Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" (XB 2012) (3) Nhật ký trong tù và lời bình (XB 2013).
Ví dụ các bài:
- Bài "Qua Thiên Giang" (sách (1) và (2) đều sai chữ giang thành chữ thiên).
-Bài về chữ “đệ” (sách (1) (2) và (3) đều sai chữ đệ (em) thành đệ (thứ) và ngược lại.
- Bài “Tặng Sơn đệ”: Sách (1) và (2) sai chữ trí thành chữ chí; sai Tôn Tư Mạc thành Khổng Tử Mạc; Lưu Chiếu Lâm thành Tôn Tử Mạc, sai chữ “tống” thành chữ “tặng”. (Trong "Tinh hoa thơ Hồ Chí Minh (NXB Văn học - 2010) " bài "Đảm, tâm, trí, hạnh" Lê Xuân Đức lại một lần nữa bê nguyên những sai lầm này vào sách, tr.196)
- Bài “Hai chớ” (sách (1) và (2) đều sai chữ thi thành chữ sử.
- Bài “Tặng đồng chí Trần Canh” (sách (1) và (2) đều sai chữ "quang bôi" thành "kim bôi" v,v...(Ngoài ra trong cách sách chúng tôi mới tham khảo: Tinh hoa thơ Hồ Chí Minh (NXB Văn học-2010), Đọc thơ Bác (NXB Thanh Niên-2005) cũng thấy Lê Xuân Đức viết "dạ kim bôi"
-Bài "Tân xuất ngục học đăng sơn" sách (1) Câu "Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh", chữ phong 峰 trong nguyên tác có nghĩa là ngọn núi, bị viết sai thành chữ phong 風 nghĩa là gió rất vô nghĩa.
Chúng tôi có cảm giác, cứ đụng đến chữ nghĩa là Lê Xuân Đức lại sai, lại lầm lẫn. Đúng là "Vào rừng không biết lối ra, Thấy cây núc nác ngỡ là vàng tâm".


Tại sao những cái sai của Lê Xuân Đức lại giống nhau và xuất hiện trong cả 3 hoặc 2 cuốn sách ở 3 thời điểm khác nhau? Theo chúng tôi: đó là sai do kiến thức, rất ít trường hợp sai do nhầm lẫn hoặc lỗi văn bản. Thứ hai, ngoài giỏi "xào xáo" văn của người khác thành văn của mình, Lê Xuân Đức còn giỏi "xào xáo" văn của chính ông. Nghĩa là cũng những bài thơ đó, nhưng Lê Xuân Đức thay đổi, thêm bớt tí chút "lời bình", hoặc thêm một số bài mới, tập hợp lại, đặt cho sách một cái tên khác. Thế là có thêm một "tác phẩm mới", làm dày thêm thành tích 40 năm nghiên cứu "thẩm bình" thơ Bác mà không cần biết những trang viết ấy sai sót những gì, có cần sửa chữa, bổ sung để lần sau tránh được sai lầm của lần trước. Với cách làm này Lê Xuân Đức đã đánh lừa được nhiều Nhà xuất bản, các Báo, Tạp chí, moi tiền của bạn đọc. Thậm chí qua mặt được cả Hội Nhà văn Việt Nam và Ban tổ chức cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
II. ĐẠO VĂN.
Độc giả từng đọc bài “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của Nhà phê bình Lê Xuân Đức” đã biết, Lê Xuân Đức đạo chú thích của GS Hoàng Tranh (Trung Quốc) trong sách “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp” để làm nên “Nhật ký trong tù và lời bình” như thế nào. Trong sách “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh”, Lê Xuân Đức vẫn tiếp tục “đạo” chú thích của GS Hoàng Tranh ở những bài thơ chữ Hán không thuộc “Nhật ký trong tù”. Khi tinh vi, lúc trắng trợn:
1.Bài “Tặng đồng chí Trần Canh tại Nam Ninh”.
-GS Hoàng Tranh chú thích: “Điền là tên gọi tắt của tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Từ thời Xuân Thu đến trước thời Hán Vũ đế phần Đông Bắc của tỉnh là đất của Điền Quốc nên Vân Nam còn có tên gọi Điền. Điền biên tức là biên cương của tỉnh Vân Nam”.
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “Điền là tên gọi tắt của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Từ thời Xuân Thu đến trước thời Hán Vũ đế phần Đông Bắc của tỉnh này là đất của Điền quốc nên Vân Nam còn có tên gọi là Điền. Điền biên tức là biên cương của tỉnh Vân Nam”.
Ở đây Lê Xuân Đức chỉ thêm dấu phẩy (,) sau địa danh “Vân Nam”, thêm chữ “này” và chữ “là” mà chúng tôi gạch chân.
-GS Hoàng Tranh chú thích: “Người đọc mấy câu thơ trên đây bằng tiếng Trung Quốc tặng đồng chí Trần Canh. Nguyên văn bài thơ năm ấy không còn lưu lại. Năm 1990, Báo Văn nghệ của Việt Nam đăng lại bài thơ trên bằng tiếng Việt là căn cứ vào lời kể của một đồng chí tháp tùng Hồ Chí Minh trong chuyến đi ấy. Chúng tôi đã căn cứ vào bài thơ tiếng Việt để chuyển thành bài thơ chữ Hán”.
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “Bác đã làm bài thơ Tặng đồng chí Trần Canh bằng chữ Hán. Rất tiếc bản chữ Hán bài thơ này chúng ta không có, Bác đã tặng đồng chí Trần Canh trong bữa tiệc hôm đó, đến nay vẫn chưa sưu tầm được. May thay, Bác cũng đã tự dịch bài thơ chữ Hán ra tiếng Việt, đọc cho mọi người đi với Bác cùng nghe (…) Sau này, căn cứ vào bài thơ tiếng Việt, Giáo sư Hoàng Tranh-Phó viện trưởng Viện Đông Dương, Viện Trưởng viện sử, Phó Viện trưởng Viện khoa học xã hội Quảng Tây chuyển thành bài thơ chữ Hán như sau”
Với cách làm này, Lê Xuân Đức gây nhầm tưởng cho bạn đọc là ông đã có công “tìm được xuất xứ” bài thơ “Tặng đồng chí Trần Canh”. Sự thực là ông chép lại chú thích, lời kể của GS Hoàng Tranh mà không một lời chú thích nguồn gốc tư liệu, Hoàng Tranh nói trong sách nào. Bởi, nếu ông chú thích trích dẫn cụ thể từ sách “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp” khác nào “Lạy ông tôi ở bụi này” ! Dường như Lê Xuân Đức muốn độc giả quên đi rằng, trên đời này có tồn tại một cuốn sách có tên như vậy.
2.Bài “Qua Trường Sa”:
-GS Hoàng Tranh chú thích: “Trong thời kỳ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật, từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 1 năm 1942, quân đội Trung Quốc đã ba lần giao chiến với quân xâm lược Nhật Bản tại khu vực Trường Sa. Những năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động cách mạng ở miền Hoa Nam Trung Quốc, Người còn nhớ rất rõ về những sự kiện đó”.
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “Chỉ riêng trong thời kỳ nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 1 năm 1942, quân đội Trung Quốc đã ba lần giao chiến ác liệt với quân xâm lược Nhật Bản tại khu vực Trường Sa. Những năm đó, Trung Quốc kháng chiến chống Nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh Bác hoạt động cách mạng ở miền Hoa Nam Trung Quốc, Người còn nhớ rất rõ về những sự kiện đó. Bác biết rất kỹ về những sự kiện xảy ra ở Trường Sa”.
Ở phần này, Lê Xuân Đức thêm, bớt, diễn đạt lại một số từ ngữ, nhưng không che được chú thích bản quyền của GS Hoàng Tranh. Ví dụ: “Người biết rất rõ” ông diễn đạt thành “Bác biết rất kỹ”; “những sự kiện đó” thành “những sự kiện xảy ra ở Trường Sa”.
3.Bài Buổi trưa qua Thiên Giang:
-GS Hoàng Tranh chú thích: “Trấn Nam quan nằm trên biên giới Việt-Trung, thuộc thành phố Bằng Tường của Quảng Tây. Năm 1953, sau ngày nước Trung Hoa mới thành lập được đổi tên là Mục Nam quan, năm 1965 đổi tên là Hữu Nghị quan”
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “Trấn Nam quan nằm trên biên giới Việt-Trung, thuộc thành phố Bằng Tường của Quảng Tây. Năm 1953, sau ngày nước Trung Hoa mới thành lập được đổi tên là Mục Nam quan, năm 1965 đổi tên là Hữu Nghị quan”.
Chú thích này bị Lê Xuân Đức đánh cắp nguyên xi. Có lẽ ông ngại diễn đạt lại hoặc cũng không còn cách diễn đạt nào hơn.
-GS Hoàng Tranh chú thích: “Khi viết bài thơ này Hồ Chí Minh nghĩ tới hình ảnh Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến về phương Nam quét sạch tàn quân Quốc dân Đảng, đánh chiếm Trấn Nam Quan, giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Tây”.
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “quân giải phóng Trung Quốc đã lập một chiến công xuất sắc (...) quét sạch toàn quân Quốc dân đảng, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Tây. Cảnh vật và sự kiện Thiên Giang khiến Bác cảm tác thành thơ”.
Ở đây Lê Xuân Đức cố ý xào xáo, đạo văn rất tinh vi, nhưng độc giả không khó nhận ra ông ăn cắp những gì, bản thân Lê Xuân Đức có gì.
4.Bài Thăm Khúc Phụ:
- GS Hoàng Tranh chú thích: “Khúc Phụ là tên một thành phố nhỏ cách núi Thái Sơn của tỉnh Sơn Đông 80 km về phía nam, là quê hương của Khổng tử, người sáng lập học thuyết Nho giáo, là một thành phố văn hóa nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Nơi đây đời nhà Chu là kinh đô của nước Lỗ, đời Tần là huyện Lỗ, đời Tùy đổi tên là Khúc Phụ. Năm 1986, được nâng lên cấp Thành phố. Trong thành phố còn có di tích cổ của nước Lỗ và các di tích như Khổng phủ, Khổng miếu, Khổng lâm. Ngày 19 tháng 5 năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi thăm Khúc Phụ đã làm bài thơ này”.
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “Khúc Phụ nằm trên bờ nam sông Tứ, miền tây tỉnh Sơn Đông. Nơi đây đời nhà Thời nhà Chu là kinh đô của nước Lỗ, đời Tần là huyện Lỗ, đời Tùy đổi tên là Khúc Phụ, năm 1986, là thành phố Khúc Phụ. Đây là quê hương của Khổng tử, người sáng lập học thuyết Nho giáo, là một thành phố địa danh văn hóa lâu đời nổi tiếng trọng lịch sử Trung Quốc. Hiện nay trong thành phố Khúc Phụ còn có di tích cổ của nước Lỗ và các di tích như Khổng phủ, Khổng miếu, Khổng Lâm”.
Ở đây, Lê Xuân Đức cũng chỉ bỏ ra chút “công sức” sửa chữa, diễn đạt lại tí chút là ung dung biến của GS Hoàng Tranh thành của mình.
5.Bài “Vịnh Thái Hồ”:
-GS Hoàng Tranh Chú thích: “Các hồ trên đất Trung Quốc mang tên Tây Hồ có rất nhiều. Tây Hồ trong bài thơ trên là Tây Hồ ở Hàng Châu tỉnh Chiết Giang”.
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “Trung Quốc có nhiều hồ mang tên Tây Hồ. Tây Hồ trong bài thơ “Vịnh Thái Hồ” là Tây Hồ nằm ở phía Tây thành phố Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang”.
6.Bài “Ký Mao chủ tịch”:
-GS Hoàng Tranh chú thích: (1)“Ngày 16 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Mao Trạch Đông 73 tuổi đã bơi qua sông Trường Giang ở Vũ Hán. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất vui mừng khi nghe tin đó, người đã làm bài thơ trên gửi tặng Mao Chủ tịch. Nguyên bài thơ không có đầu đề, trong tập “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh” của Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội xuất bản năm 1990, đầu đề bài được đặt là “Ký Mao Chủ tịch”.
(1). Bài Ký Mao Chủ tịch” đăng trên Nhân dân nhật báo (Trung Quốc) số ra ngày 9 tháng 8 năm 1966.
-“Đi tìm xuất xứ” của Lê Xuân Đức: “Ngày 16 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Mao Trạch Đông 73 tuổi đã tổ chức một cuộc bơi trên qua sông Trường Giang ở Vũ Hán (...) Chủ tịch Hồ Chí Minh rất vui mừng khi nghe tin đó, người đã làm bài thơ trên gửi tặng Mao Chủ tịch. Được tin Mao Chủ tịch có cuộc bơi hiếm có, Hồ Chủ tịch đã gửi tặng Mao Chủ tịch bốn câu thơ chúc mừng. Bốn câu thơ chúc mừng đã được các bạn Trung Quốc đăng trên Nhân dân nhật báo (Trung Quốc) số ra ngày 9/8/1966. Nguyên bài thơ bốn câu thơ không có đầu đề, sau này khi xuất bản trong tập Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh” của Nhà xuất bản NXB Văn học, Hà Nội xuất bản năm 1990, đầu đề bài thơ được đặt là “Ký Mao Chủ tịch” (Gửi Mao Chủ tịch).
Như thế Lê Xuân Đức đã đạo trọn hai chú thích của GS Hoàng Tranh “xào xáo” lại tí chút thành ‘đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” của ông. Thật đáng sợ!
Trên đây chỉ là một số ví dụ về cái sự đạo văn của Lê Xuân Đức. Trong “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” còn có nhiều bài Lê Xuân Đức sử dụng tư liệu của GS Hoàng Tranh nhưng không chú thích theo tài liệu nào và rất khó để “bắt lỗi” do ông chỉ lấy ý, diễn đạt lại hoàn toàn theo hành văn của mình.
Mang một cái tên rất khoa học "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" nhưng cách làm của Lê Xuân Đức lại rất phi khoa học. Đó là không trích dẫn đến nơi đến chốn nguồn tài liệu tham khảo, "lập lờ đánh lận con đen". Thậm chí Thư mục sách tham khảo ở phần cuối sách cũng không có tên một đầu sách nào khiến bạn đọc không biết nguồn tài liệu ấy ở đâu ra, có đáng tin cậy hay không. Thậm chí là nguỵ tạo như đoạn viết “có sách nói” Lưu Chiếu Lâm chính là Tôn Tử Mạc. Bởi vậy, có thể nói, "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" là một công trình phi khoa học.
Trong bài phỏng vấn của VOH (Đài tiếng nói của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh) về nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Lê Xuân Đức nói: “Tôi rất vui khi nhận được giải thưởng lần này. Đây là một sự ghi nhận và đánh giá tác phẩm tôi viết "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh". Đó cũng là kết quả của 40 năm tôi nghiên cứu về thơ Bác”.
Sách "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" có 438 trang khổ 14,5 x 20,5, chúng tôi chỉ mới lướt qua 188/438 trang cuối sách mà đã thấy đầy rẫy những sai lầm, cẩu thả và lưu manh trong văn chương không thể chấp nhận. Kết quả 40 năm nghiên cứu về thơ Bác của Lê Xuân Đức là như vậy sao?
Chúng tôi nghĩ rằng, không ai có thể xác minh hết nguồn gốc những tư liệu Lê Xuân Đức sử dụng trong “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” đúng hay sai, khoa học hay nguỵ tạo, minh bạch hay mờ ám. Có lẽ chỉ duy nhất tác giả của nó mới có thể trả lời những câu hỏi đó.
Với tư cách độc giả, chúng tôi xin gửi tới Hội Nhà văn Việt Nam và Ban tổ chức cuộc “vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" câu hỏi:
-Với những sai lầm, hành vi đạo văn mà chúng tôi đã chỉ ra trong sách “"Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức, việc Hội Nhà văn Việt Nam và Ban tổ chức trao giải cao nhất cho tác phẩm này là đúng hay sai ?
- Nếu là sai, Hội Nhà văn Việt Nam và Ban tổ chức có thu hồi lại giải thưởng đã trao cho tác giả sách “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” hay không ?
-Ai phải chịu trách nhiệm về việc trao giải cho một cuốn sách có nhiều sai lầm, phi khoa học, thiếu minh bạch và vi phạm bản quyền trắng trợn như vậy ?

"KÍNH" TRONG "CỔ KÍNH" NGHĨA LÀ GÌ?







Hoàng Tuấn Công


Trong tiếng Việt, "cổ kính" là từ khá thông dụng. Tuy nhiên, việc giải nghĩa từ, từ tố của "cổ kính" trong các sách từ điển tiếng Việt còn thiếu thống nhất.


Từ điển tiếng Việt (New Era) giải thích: "Cổ kính: Cổ xưa và đáng kính • Những truyền thống cổ kính của dân tộc."

Từ điển từ và ngữ Hán Việt (GS Nguyễn Lân): "Cổ kính (cổ: xưa cũ; kính: tôn trọng) Lâu đời rồi, nhưng còn đáng tôn trọng: Những công trình kiến trúc cổ kính của ông cha để lại."

-Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Tôn Nhan-Phú Văn Hẳn) "Cổ kính: Xưa và có vẻ trang nghiêm".


Từ điển tiếng Việt (Vietlex) "Cổ kính古敬 [tính từ] cổ và có vẻ trang nghiêm • tòa lâu đài rêu phong và cổ kính; cây đa cổ kính."


Như vậy, các sách từ điển trên đây, hoặc giải thích rõ nghĩa từ tố "kính", hoặc giải nghĩa từ "cổ kính" theo hướng "kính" nghĩa là kính trọng, trang nghiêm. Riêng Từ điển tiếng Việt (Vietlex, bản có chú chữ Hán-2015) ghi rõ mặt chữ "kính", trong "cổ kính" là 敬 (nghĩa là cung kính).


Vậy, có đúng "kính" trong "cổ kính" nghĩa là "kính trọng", cung kính không? Xin lại trích dẫn cách giải thích của một số từ điển khác.


-Hán Điển giảng nghĩa từ "cổ kính" như sau: "古勁 [simple and vigorous] [書法,繪畵等] 古朴而雄健有力•篆書古勁" Nghĩa là: "Cổ kính [có vẻ chất phác mà hùng hồn, đầy khí lực] [chỉ về thư pháp, hội họa] Có vẻ cổ phác mà hùng kiện, bút lực già dặn • Ví dụ: triện thư cổ kính".


-Từ điển Việt Hán (GS Đinh Gia Khánh hiệu đính): "Cổ kính 1.古勁, 健勁 • nét bút cổ kính. • 沉郁頓挫 (指書法) 2.古老的." Phiên âm phần chữ Hán: "Cổ kính: 1.Cổ kính, kiện kính • nét bút cổ kính • trầm úc đốn tỏa (chỉ thư pháp) 2. Cổ lão đích". Dịch nghĩa phần chữ Hán: Cổ kính: 1.Cổ kính, cứng mạnh • nét bút cổ kính • thâm hậu, hùng hồn (chỉ thư pháp) 2. Cổ xưa".


-Quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của): "Cổ kính: Sành sỏi, cứng cáp theo điệu xưa (văn chương)".


-Việt Nam tự điển (Hội Khai trí tiến đức): "Cổ kính古勁 già giặn, cứng mạnh: Nét bút cổ kính."


-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ): "Cổ kính • [tính từ]. Già-giặn, mạnh-mẽ. • [danh từ]. Cái kiếng soi cũ : Đập cổ-kính ra tìm thấy bóng-Tự-Đức".


Như vậy, "kính" trong "cổ kính" 古勁 có tự hình là 勁, nghĩa là cứng mạnh, chứ không phải chữ "kính" 敬nghĩa là "tôn trọng". Trong Hán ngữ, từ "cổ kính" 古勁 thường dùng để chỉ vẻ đẹp cổ điển, thể hiện sự già dặn, hùng hồn, rắn rỏi, đặc biệt là trong thư pháp, hội họa. Với tiếng Việt, nghĩa của "cổ kính" 古勁 rộng hơn, hiện nay chủ yếu dùng để mô tả những sự vật, công trình kiến trúc cổ có dáng vẻ già nua, rêu phong, trầm mặc.
Còn "cổ kính" 古鏡 (danh từ), nghĩa là "gương xưa", trong thơ của vua Tự Đức: "Đập cổ kính ra tìm thấy bóng, Xếp tàn y lại để dành hơi", tự hình là kính 鏡 khác với hai chữ "kính" 勁 trong "cổ kính" 古勁, và kính 敬trong cung kính 恭敬.