Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

PHƯƠNG NGỮ TUY HÒA, PHÚ YÊN !!








1.Lời mở đầu: Nói là phương ngữ e không đúng lắm bỡi vì có nhiều từ sau đây còn thấy dùng ở nơi khác. Vả lại có từ dùng ở xóm, xã tôi lại không dùng ở xã khác. Ví dụ “Dưỡng ngư” ở phía bên kia sông, quê của Nguyễn Đình Chúc thì nói là “dữ ngư”.

Phải qua sàn lọc thì từ ngữ mới dùng phổ biến cả tĩnh. Bài này tôi muốn đưa những từ thốt ra từ miệng những người chân lấm tay bùn suốt đời quanh quẩn trong lũy tre làng, trên đồng ruộng nhỏ hẹp của mình, chằng giao lưu đâu xa. Nhờ đó mà còn giữ đặc thù. Trong thế giới ngày nay mở rộng, tiếng nói đặc thù từng địa phương e mai một. Tôi sợ tiếng đặc thù của quê tôi mai một. Nẫu về xứ nẫu bỏ mình bơ dơ ” là câu nói cữa miệng của người dân nông thôn hồi đầu thập niên 1950 của bà con lối xóm làng tôi ở. Tếng “nẫu”nghe quen thuộc đối với mọi người. Khi lớn lên ra tĩnh học bọn trẻ chúng tôi hay bị bạn bè trêu ghẹo “nẫu ơi là nẫu” để chỉ tụi tôi “rặc nòi “người Bình Định Phú Yên. Chúng tôi lấy đó làm “quê”. Cảm thấy bị chọc quê nên dần dần tụi tôi bỏ “nẫu” thay vào đó bằng “người ta”. Dùng từ “người ta” thay từ “nẫu”. Nói: “người ta lấy cái này” thay “nẫu lấy cái này”v. v.
Khi ra ngoài, người mình hay mặc cảm xứ mình không bằng xứ người nên có xu hướng chối bỏ cái đặc thù của mình để hòa nhập vào cái của người ta, lâu dần bị hòa tan trong cộng đồng mới. Lâu ngày thấy cái của người ta cũng thầm thường nhàm chán nên mình trở lại thích cái của mình nhưng bây giờ nó đã trở nên mai một và ta lấy việc đó làm tiếc. Ta yêu mến cái của riêng ta thì nó đã ra đi rồi, tìm lại rất khó. Ngày nay, trong mấy ngày tết, ta triều mến nhìn hình ảnh cái đống rơm, bụi chuối…giữa Đại Lộ Nguyễn Huệ Saigon, bên cạnh nhà cữa hiện đại nguy nga để nhận ra cái cảm giác “rưng rưng”! Hình ảnh “đống rơm” chỉ còn trong ký ức.

Ông Dohamide trong tác phẩm BangSa Champa nói lên cái mặc cảm thói “ăn bốc” của người Chăm Châu đốc nhiễm văn hoá Mã Lai trước văn minh của người Hán ăn bằng đũa và văn minh Châu Âu ăn bằng muổng nỉa. Đến khi dự các bữa tiệc ngoại giao thấy các vị cấp cao người Nam Đảo “ăn bốc” hồn nhiên mà cảm phục cái đẹp của văn hoá mình. Ông nhớ lại tín ngưỡng Ấn Độ của ông, của đồng bào ông ở Châu Đốc. Họ bài xích “đôi đũa” của người kinh: “Hai tay ta là tặng phẩm mà thượng đế đã ban cho. Tại sao ta không trân trọng xử dụng nó mà ruồng bỏ nó để xử dụng cái “đôi đũa” là thứ con người tạo ra. Nó giống như 2 cái que làm ra để chèo vẹo, dày xéo lên thức ăn là thứ gì mà thượng đế đã ban cho ta.!” Nhờ thông tin này mà tôi yêu và quí thói “ăn bốc.” Ngày xưa không biết nên chê ăn như vậy là “man di.”
Phát âm theo tiếng địa phương của mình thì tự do thoải mái hơn nhiều. Chỉ trở ngại là người xứ khác nghe không êm tai hay không hiểu hết ý của mình thôi. Nhưng con dân nên biết khi nào xử dụng tiếng chung cho cả nước, khi nào dùng tiếng địa phương của mình, thì ngôn ngữ nước ấy mới trở nên giàu âm điệu, nhiều màu sắc. Có một thời (Chín Năm Kháng Chiến ở Liên Khu 5), người ta muốn cho thống nhất nên bắt tụi trẻ con chúng tôi phải nói đúng tiếng Việt, tức phát âm theo giọng Hà Nội ví dụ phân biệt “t”và “c”. Phải phát âm phân biệt “hiểu biết” và “xanh biếc”. Người nông dân thoải mái, biếc nào cũng biếc, nên phát âm “hiểu biếc” và “xanh biếc…cho “phẻ” chơi.

Khó khăn lắm tôi mới moi ra được một số từ nói lên cái đặc thù của tiếng nói người Phú Yên dù có những từ không chuẩn lắm, tức vùng khác cũng có thể họ đã dùng. Mong có sự chỉ vẽ khách quan. Cái đặc thù ở đây không những thấy ở các “từ” dùng mà còn thấy “cách phát âm” của người Phú Yên khác hay hơi khác người ở những vùng khác:
2-Tự Điển
2.1-Phát âm:
21.1 phát âm các vần khác nơi khác.
Ai: Người Phú Yên xưa không phát được âm o-a-i =“oai” mà phát a-i thành “ai” cho phẻ, tức lười, không chịu uốn lưỡi. ví dụ: “Toại nguyện” phát âm thành”tại quyện“, “tại ngoại để điều tra”thành “tại quại để điều tra”,”thoai thoải“thành “thai thải“,Ông ngoại“ phát âm thành “ông quại“, “hoài bảo” thành “quàibảo“. “Thoái hoá” phát âm thành “thái quá”. Thoai thoải phát âm thành “thai thải“. Hồi những lớp học Bình Dân thời khởi nghĩa các cán bộ giáo dục ở Phú Yên rất vất vả tập các cụ đọc đúng “Tiếng Việt”!
Ay: Người Phú Yên thích phát âm vần “ay” hơn vần “ây”. Vi dụ “Lại đay(đây)tao cho kẹo.” “Mày (mầy)có mấy anh em?” “Chiện(chuyện) tày (tầy)trời”
Au: vần “âu” phát thành vần “au”ví dụ “đi đâu” thành “đi đau“. Mày có biết chiện đó không?- Tau (tao)đau có biết”, “chiếc tàu(tầu)bay”. Cái chạu (chậu)để rửa chén…Nhưng trong khi các miền khác nói “đi mau lên”, “giọt máu” thì người nông thôn Phú Yên trước đây nói ngược lại là”đi mâu lên“, “giọt mấu‘. Thật “ngược ngạo” với người ta. Cái này không thể nói người Phú Yên có di truyền cái cơ quan phát âm khác người ta hay tại uống “nước” Phú Yên mà phải nói là “hình thành tiếng nói ở một địa phương” là cái gì rất phức tạp. Vì vậy ta nên giữ gìn bồi đắp cái riêng tư của tiếng nói của ta.
Iêm: Vần “êm” phát âm thành “iêm”. “Ẵm em đi dạo dường(vườn)cà/Trái non ăn mấm (mắm)trái già làm dưa/ Dưa chua ba bữa dưa chua/Mẹ mầy(mày) xách chén đi mua từng đòng(đồng)/ Từng đòng(đồng) ít quá chị ơi/ cho thiêm chút nữa ăn cùng bữa cơm”
Iệt: Vần “ật” phát âm thành “iệt”. Ví dụ “Chiều chiều quạ nói dới(với)diều/Ở nơi đống trấu thiệt(thật)nhiều gà con”

Ăm: Vần “ăm” phát thành “âm”. “Cơm dới (với) mấm (mắm) thì thấm dào (vào) lâu” “Mấu (máu) đào nhợm (nhuộm) thấm (thắm)từng trang/ Chỉ quen chiến đấu, đàu(đầu)hàng không quen”
Âu: Vần “ôi” phát thành vần “âu.”ví dụ“đương khi tắt lửa cơm “sâu”/Lợn kêu con khóc, chòong đòi tòm tem!”. “Đừng ăn trái “ẩu” nữa, đi lại đàng kia “thẩu” cho cháy cái biếp(bếp)lửa cho tao!”
Tôi còn nhớ hồi mới khởi nghĩa nghe mấy người lớn hát: “Mấu đào nhuộm thắm từng trang, chỉ quen chiến đấu đàu hàng không quen”. Hai tổ hợp âm “au” và “âu” các vùng khác cũng xài lẫn lộn với nhau ví dụ: người ta dùng cả “mầu” và “màu”. “Màu xanh” và “mầu xanh” đều dùng được hết. Như vậy việc phát âm có thể do thói quen rồi lâu ngày trở nên đặc thù cho một vùng.
Âu: Vần “ôi“ thành vần “âu“ ví dụ “đi rồi” thành “đi rầu“. “Cha con về chưa?-dạ cha con đã dề rầu, dìa rầu“; “Em bé nằm trong cái nâu(nôi)”; phát âm “tồi tàng” thành “tầu tàng“, tội lỗi thành tậu lẫu, môi mép thành mâu mép, nầu niu xoong chảo, bà nậu…Bọn trẻ cũng hay rút gọn “âu”, thành “u”. Ví dụ: các vùng khác thì người ta gọi “tàu bay, tàu thủy hay tầu bay, tàu thủy, đầu gối”. Trong khi trẻ con ở Phú Yên thì gọi “tù bay, tù thủy, đù gấu“. Kiểu gọi này thì hiếm thấy. Cỡ hồi đầu thập niên 1950 thì thường nghe chúng phát âm như vậy.
Ê: Phát âm thành i hay iê. ví dụ: Tim (têm)trầu, thim (thêm)bớt,Nim ním(nêm nếm) iê: làrút gọn của tổ hợp nguyên âm u-y-ê. ví dụ như vần “uyên” phát âm thành vần “iên”: Thuyên chuyển phát âm thành thiên chiển

iê: Còn thay nguên âm “ê”. “điêm “(điêm)phia (khuya)giấc địp(điệp) mơ màng/ Nào ai săn sóc bên giường gọi tui”. “Thêm vào” thành “thiêm vào”. Trên đài truyền hình Cần Thơ trong chương trình hướng dẫn trồng rau VTV2 phát ngày 7-3-08 có câu của một học viên phát biểu: “…yêu cầu cán bộ diễn giải “thiêm”…” Ông này ở Nam hay người Phú Yên vào Cần Thơ làm việc?
Ư: Vần “ươi”phát âm thành “ư.” Tức là lười uốn lưỡi, uốn miệng. Ví du: “Thằng Hai con Ba đi đau(đâu) rầu(rồi) bay?- Ảnh chĩ xuống xóm dứ (dưới) rầu (rồi), đi dìa(về) dứ (dưới )rầu(rồi)”… “Được ở gần chợ nên lúc nào tui cũng ăn được đồ ăn tư (tươi) sống…”
Ưc: Người PhúYên và Nam Bộ thích phát âm ưc hơn uât. Thích nói Kỷ thực hơn kỷ thuật. “Con gái xấu mà biết kỷ thực làm đẹp thì cũng trở nên đẹp”
Oi:Vần “oai” phát âm thành “oi”. ví dụ: “Thoai thoải” phát thành “thoi thỏi“, “thoái hóa” phát thành thói quá (hoá). “Ngoài kia trời mưa hay nắng” thì nói “ngòi kia trời mưa hay nắng”, “Tọai nguyện” phát thành “tọi nguyện”, “Mèo chó là loài ăn thịt” phát âm thành “lòi chó lòi mèo…” Tức không chịu uốn miệng.
Quại:Tổ hợp phụ âm “ng”…”ngờ” phát thành “qu”…”quờ”. ví dụ “ông ngoại” thành “ông quại“, “ngoài trời” thành “quàitrời”.
Quế: Tổ hợp phụ âm “hu“= qu, ho=qu. Ví dụ “ngoài Huế có lạnh không?- Quài Quếlạnh lắm”, “hoa tai”phát âm thành “qua tai“, “hoài bảo” thành “quài bảo“.
Tổ hợp phụ âm “ngo”=“qu”, tức cũng rút gọn lại
Phụ âm D=V “Trời mưa, dào (vào)nhà đi con.” Lối phát âm này tương tợ người Nam Bộ. Người Nam phát âm V thành vz. Vô đây thành vzô đây.
21.2 Âm đặc biệt mà nơi khác không thấy:
Chơi: Về mặt phát âm, người nông dân phú yên có một từ mà tôi dám chắc không một vùng nào trong xứ Việt Nam này có. Chỉ duy Phú Yên có nó mà thôi. Đặc biệt đến nỗi không có ký âm nào của Tiếng Việt ghi được âm của từ đó. Tôi không biết làm sao ký âm từ đó cho đúng âm của nó. Nếu ráp c-h-ơ-i thì thành từ“chơi“. Ráp c-h-o-i thì thành từ “choi”.Còn ráp c-h-â-y thì thành từ “chây”, làm sao có âm của người PY. “Chơi”, “choi”“chây”, đều khác xa âm của người nông thôn Phú Yên dùng. Phải thu âm trực tiếp mới giữ được âm “đúng” của từ này. Phải nói từ này rất đặc thù trong tiếng nói địa phương của Phú Yên mà không ai để ý tới. Một ngày kia nó mai một. Các thế hệ sau không ai dùng nó nữa và nó sẽ biến mất.
Trời: Đặc biệt về phát âm. Cũng như “chơi” có cách phát âm đặc thù mà không mẫu tự LaTinh nào ký âm được. Nếu ráp t-r-ơ-i thì thành “trời”, ráp t-r-ô-i thì thành “trồi”, ráp t-r-o-i thì thành “tròi”.

Đấc: Nói đúng Tiếng Việt là “trái đất“. “Đất”nghe âm nó nằng nặng gần với giọng Bình Trị Thiên, Nghệ Tĩnh và Hà Nội. “Đấc” nghe nhẹ bỗng hơn. Âm nàytrong Nam biến đổi đi và nghe như âm “ức”. Hồi tôi dạy môn địa chất ở trường Chợ Lách tĩnh Vĩnh Long bị học trò chọc quê hoài về từ này. Phát âm “trái đấc” theo giọng Phú Yên và “trái đất” theo giọng của người Nam phân biệt khácnhau. Khi tôi phát âm “trái đất” theo giọng Bắc thì tụi nó không chọc quê nữa.Nhưng tụi nó không phát âm “trái đất”theo giọng Bắc đâu, phát âm theo giọng của nó! Giọng người Nam gần giọng người dân quê của Phú Yên. Nếu ráp đ-â-t thì thành “đất” như người Bắc, ráp đ-â-c thì thành “đấc”, ráp đ-ư-c thì thành “đức”. Phát âm của người PY và của người Nam không giống cả 3 từ đó. Âm của người Nam và người PY hơi giông giống nhau nhưng phân biệt được sự khác biệt. Thế mới hay viết đúngchính tả là một chuyện còn phát âm là một chuyện khác. Tại sao phải bắt nói đúng Tiếng Việt! Tôi nhớ hồi chín năm kháng chiến thầy giáo của tôi khổ công dậy tụi tôi nói đúng Tiếng Việt! Nếu cảnước nói cùng rặc một giọng thì nước đó có màu mè gì? Từ Nam chí Băc chỉ có một màu làm sao xứ đó hấp dẫn được du khách.
2.2-Từ đặc biệt
Ai dè: Tao cứ tưởng mày con nhà giầu có nhiều tiền tha hồ tiêu xài. “Ai dè” mày cũng tiện tặn như tụi tao

Ăn ba hột: ăn vội vàng. “Ăn ba hột rồi đi tắm”
Ăn bẫm: ăn mạnh miệng. “Cái thằng khỉ, ăn bẫm, không biết ngại à”
Ăn chực: Đến nhà người ta có ý chờ người ta cho ăn mà nghĩ rằng mình chẳng có tích sự gì cho người đã cho mình ăn cả. “Hôm qua nhà tao có cúng giỗ. Có mấy đứa nhỏ lạ hoắc đến ăn chực”. Thành ngữ “Ăn chực nằm chờ” là đến nhà người ta chờ đợi quá lâu. Không tự lo ăn được nên phải buộc ăn nhờ người ta
Ăn ké: ăn thêm phần của người khác mà không phải trả thêm tiền. “Hôm nay mẹ mày không đi chợ nấu ăn được. Cho ba ăn ké với con.”Ăn của nhà người khác
Bá láp: không đúng đắn. “Nói bá láp bá xàm, không trúng không trật gì hết ráo!”
Báng: Dùng cho trâu bò. Có nghĩa là dùng sừng để húc vào cái gì hay vào đối thủ. “Con bò này rất khỏe nên nó bángrất hăng.”Ở vùng khác ta thấy từ “báng” trong từ “chống báng”
Ba rọi: “Cắt cho tôi miếng thịt ba rọi”Thịt ba rọi là thịt nửa nạc nửa mỡ.
Bà chã: “Bột đã khuấy chín đang dẻo queo mà đổ nước lạnh vào để cho nó bã chã chơi” Bã chã là không kết dính, rời rạc. Ngoài ra “bã chã”còn có nghĩa “vỡ lỡ, nửa vời, không thành công”. Ví dụ: “Chuyện đang tiến triển ngon lành mà mày nói ra nói vào để trở nên bã chã”
Bảnh: “Con nhỏ này coi bộ bảnh(đẹp)gái, còn cái thằng kia coi bộ bảnh trai!”. Dọn(bày bàn)chi những món ngon nhiều như dậy! Bữa tiệc hôm nay coi bộ bảnh(ngon, đẹp) đó!”. “Bảnh” có nghĩa là đẹp, tốt, ngon…
Bằng: Làm bằng. “Lấy cho cha cái chén coi!”- Chén bằng đất hay chén bằng sứ”.Người Phú Yên hay nói rút gọn. Thay vì nói “chén làm bằng đất” thì nói chén bằng đất. Dùng rộng ra có nghĩa là “cách thức.”Ví dụ “Mày từ trển xuống đay đi bằng gì?-Đi bằng xe đạp. Con hổng chịu đi bộ đau!”
Bét: Mắt bét là mắt có thị lực nhìn kém. Mắt ướt át tèm nhem thường do bịnh đau mắt hột gây ra. Bét mắt: mắt làm việc nhiều trở nên mỏi mệt ví dụ: “Đồ đạc mày bỏ lôn xộn quá! Tao tìm bét mắt mới thấy được cái này!”

Bẹo: “Con Hai đâu rồi! Tối rồi mà chưa dọn cơm ra ăn á!- Chĩ còn đi lỏng nhỏng ở ngoài đường nói chiện quiên thiên với trai. “Bảo nó giờ này mà còn đi đau?, đibẹo hả!”.Từ bẹo ở đây có ý nghĩa xấu chứ ở trong Nam Bộ có ý nghĩa là trưng ra cho người ta thấy. Ở các chợ nổi, kẻ mua người bán đi lại trên ghe nên hàng hóa muốn cho khách mua thấy thì người bán phải bẹo hàng, tức là treo những hàng mẫu trên cây sào cắm ở đầu ghe cho khách ở dưới ghe thấy. Có lẽ từ này xuất phát từ từ “bêu” trong ngữ cảnh “chém bêu đầu”
Biểu: Là bảo. “Tao “biểu” đi lên là đi lên, đi xuống là đi xuống. nghe chưa! ” “Cái thằng này lạ thật. Sao ngồi thừ ra một đống “dậy” mầy!-Ai “ biểu” chị đánh em chi!”
Bộ Lần: Chỉ việc thường hay làm trước đó. “Sao sáng nay mày bỏ quên cái xe!-“Bộ lần”tôi hay thường đi bộ nên hôm nay quên mất cái xe!”
Bớ: Hỡi. Tiếng cảm thán. “Đông về lạnh lắm bớ người ơi! /Chồng em đứng gác ngoài trời khuya lơ” ; “Miệng kiêu(kêu)bớ chú đi đường/Đi đau (đâu)mà dội(vội), đi đau mà dàng(vàng)”
Cắc cớ: “Muốn cho nó thấm nước từ từ thì ta đổ từ từ nước ấm vào bột chứ aicắc cớ đổ nước sôi vào bột một cái ào chẳng nó quánh lại thành cục thành hòn hết trọi.” “Cắc cớ” nghĩa là “lấy làm lạ”, làm chuyện khác thường(nhưng nhiều khi cũng đạt được kết quả như làm một cách bình thường. ví dụ. “Mặn là mặn, ngọt là ngọt. Cắc cớ bỏ muối vào chè thử xem sao!. Cắc cớ nó ngon thiệt!”. “Cắc cớ” dùng trong việc thử nghiệm.
Chình ình: Phơi bày một cách thô thiển. “Đồ con gái hư. Khách khứa ra “dào” mà nằm chình ình ra đó.” “Trời ơi té ở đâu mà mình mẩy con ướt át đất cát lấm tèm nhem dậy!(vậy)-Té ở cữa ngõ. Không biết ai bỏ cục đá mằm “chình ình” ra đó. Tối trời con có thấy đau!(đâu)”

Chịu đèn: là trai gái chịu gần gụi với nhau có thể tiến tới hôn nhân. “Con Thắm với thằng Hai coi bộ “chịu đèn” với nhau. “Thâu” ông bà gả phức đứa con gái cho nó đi cho “rầu”…”
Chõng: là cái giường. có câu “Lều chõng đi thi”nên nói từ này là từ địa phương của Phú Yên nghe không chuẩn. Nhưng ngày xưa ở nông thôn Phú Yên thường nói cái chõng hơn. Ngày nay đàn em chúng ta hay gọi là cái giường. Gọi chõng nghe lạ lắm.
Chụm lửa: chất củi vào bếp để duy trì lửa trong bếp. Người Bắc gọi là thổi cơm hay đun bếp.
Cũ mèm: “Khoác lên mình cái áo thun cũ mèm.” Cũ mèm là cũ lắm
Dan ca: Bày vẽ ra cho ruờm rà. Nói vòng vo, không nói thẳng vào mục đích. “Ăn uống sơ sơ rồi đi làm! Ai biểu nấu nướng bày biện dan ca ra để cho công chiện (chuyện) trễ nải đi rồi lùng bùng!” “Em gặp anh đây cũng muốn dan ca/Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.”
Dí: nghĩa là với “Chiều chiều quạ nói “dí”(với)diều/ ở nơi đống trấu thật nhiều gà con.”Ăn cơm “dí”(với)cá “dí”(với)dưa. Có lẽ là từ đọc trại lại từ “vzới” của người Nam Bộ
Dìa: nghĩa là “về” ví dụ đi dìa nhà. “Chị hai đi dìa dứ(dưới hay đi dìa trển(trên đó)?”
Dí thá: Ở PhuYên , trâu bò cày phải dùng một đôi để kéo cày. Một con đi bên phải gọi là đi vai “dí”, một con đi bên trái gọi là đi vai “thá.”Người cày quất roi vào con vật hô: “dí, thá”để điều chỉnh chúng nó đi thẳng đường cày. Muốn nó đứng lại thì hô “dí dò.”Những từ này có thể bắt nguồn từ chuyện cổ tích nói về chuyện trâu ở núi Hương, thôn Mỹ Thạnh xã Hoà Phong huyện Tuy Hoà. Trong quyển sách “Tim Hiểu Địa Danh Qua Tục Ngữ Ca Dao Phú Yên”Nguyễn Đình Chúc viết: “Núi Hương xưa kia có nhiều danh mộc. Tương truyền trên đỉnh có cây kì nam to mùi hương bay khắp và trong núi có 2 con trâu trắng và đen, ngày thường có chim lùa trâu ra bàu uống kêu “Dí cò, thá cháng.”Có người Hoa Kiều nghe tin núi Hương có kì nam nên đến nơi xem xét và quả thật có mùi thơm, nên đem lễ vật đến cúng để khai thác, nhưng cọp, rắn trăn rượt chạy. Chiều ngày sau, 2 con trâu kéo cây kì nam xuống bàu và mất hút…”

Dìa: đi dìa, đi dô, đi dề. “di dìa”đúng là từ nói trại đi của từ “đi dề”. Người nông dân “cũ” của Phú Yên phát phụ âm “v” na ná giống người Nam Bộ và khác xa người Bắc. Người Bắc nói “vâng,vô, về” thì người Nam nói ” vzâng”, người nông thôn Phú Yên nói “đi dô, đi dề,đi dìa”
Dính lẹo: hay lẹo: là thực hiện tính giao phối đực và cái trong tự nhiên. “mùa này chó hay lẹođực” “Kệ nó con! nó “dính lẹo” đừng có đập nó tội nghiệp nó, con!”Hồi nhỏ chúng tôi nghe những lời chất phát của ông bà cha mẹ nói với con cháu cũng hồn nhiên không kém. Hình ảnh này không có gì kích thích sự tò mò về tính giao mà ngày nay cả cha lẫn con bị hấp dẫn trong thế giới “văn minh hấp hẫn” này. Từ này có tác dụng giáo dục về cái ngày nay gọi là “giáo dục gới tính.”Nghe có vẻ khoa học nhưng thiếu tính tự nhiên nên kết quả giáo dục kém hơn ông bà ta. Hình ảnh dính lẹo hết sức tự nhiên như hình ảnh Linga và yoni mà người Chăm thờ phượng trong tín ngưỡng văn hoá Phồn thực của Chăm. “Dính lẹo” chứa đựng hình ảnh phồn thực hết sức tự nhiên, có phải phiên bản của văn hoá này?
Dít: Nghĩa là bít lại, kín, phát âm sai từ “vít”. “Lợi dụng kẽ hở mà làm sai trái-Đã là cái kẽ thì hở. Có cái kẽ nào dít đâu mà nói”. “Ăn no dít đít.”
Dịt: là giỏ đựng cá. Dụng cụ để một khi câu được cá hay bắt được cá thì bỏ vô, đan bằng nan tre giống hình con vịt. Thường được cột vào 2 bên bằng 2 ống tre kín 2 đầu để “Dịt” nổi trên mặt nước. Ngư dân tha hồ kéo theo bên mình để bắt cá bỏ vô.
Dở ẹt: hay dở ẹc là rất dở ví dụ “bài hát dở ẹc. Món này ăn dở ẹc”. “Ẹc” có có nghĩa nhỏ nhất, sau cùng. ví dụ “Trời tối rồi! Còn con vịt nào đi ăn về chuồng trễ nữa không? –Không. Đây là con về út ẹc”.
Dưỡng ngư: nghĩa là khinh xuất, không cẩn thận đề phòng., không biết sợ nữa. “Nó bịnh mấy bữa nay rồi. Ăn uống không được, nằm một chỗ mà bảo rước thầy bẳt mạch mà nó không chịu-Coi bộ nặng đó, đừng có “dữơng ngư”…”Còn có nghĩa trẻ con rầy la mà không biết sợ cứ làm tới “Đừng có chọc ghẹo em nữa! Cứ dỡn mặt nó . Nó sẽ “dưỡng ngư”…”
Đầy ngay: nghĩa là nhiều lắm. “Hôm nay là ngày lễ. Ở ngoài đường xe nó chạy đầy ngay”
Đi lút: “Lạ tới mức anh đi lút vào đất Thái mà không biết”. Lút nghĩa là sâu.”Cắm lútcon dao.”

Đồ: là đại từ bất định chỉ những cái đã bày ra. “Tụi nó sắp biểu tình! Tui thấy nó treo cờ treo băng, treo đồ, tuồng như to chiện(chuyện)lắm!
Đụng: là trai gái chịu lấy nhau làm vợ làm chồng. “Cháu ông “đụng” cháu bà có sao đâu. Có bà con “dí” nhau “đau” mà sợ. Cho “cứ” đi là “dừa.”Khen chê tụi nó sẽ ở “giá” đó”Có tác giả nói từ này xuất xứ ở Nam Bộ. Lấy ý từ chỗ ghe thuyền đi mua bán trên sông hay đụng nhau trong các cuộc giao lưu mua bán đi lại. Đó là duyên để lắm đôi trai gái gặp nhau kết nghĩa thành vợ thành chồng.
Đựng: nghĩa là “để mà”. Từ này thấy người Nam Bộ có dùng như câu sau đây thấy trên đài truyền hình phỏng vấn một mẹ được tặng nhà tình nghĩa ở quận 7 TPHCM: “Nhà dột nát hết “dáo”. Tui phải lấy tấm nhựa phủ lên mái “đựng” mà có chỗ chui “da” chui “dào”…
Êm ru bà rù, hay iêm ru bà rù: “Ở nhàảnh chĩ cãi nhau tùm lum. Thấy cha mẹdìa hai vợ chồng êm ru bà rù không thấy nói gì hết”. “.Êm ru bà rù” nghĩa là êm re, lẵng lặng như tờ, êm phăng phắc. Không những thế mà còn có nghĩa trơn tru, trôi chảy mữa. “Cái máy chạy êm ru bà rù”
Gía: là goá. “Ráng chữa chạy cho nó sống. “Thẵng” mà chết thì “cỏn” nó ở “giá”. Làng này con gái “giá” bụa nhiều và đã mang tiếng nhiều “dụ de bà giá!”…”Đàn ông chọc ghẹo đàn bà con gái gọi là “de” gái
Giội: là dùng nước tạt mạnh để làm trôi đi vật thừa thãi dơ dáy ví dụ giội nhà giộicầu.
Giỏ cụ lão: Giỏ dùng để tải gạo ra chiến trường thời 9 năm kháng chiến chống Pháp ở Phú Yên. Giỏ được các cụ lão đan bằng nan tre để đựng gạo. Giới trẻ hơn gọi là giới nông dân. Nông dân thì làm thành đoàn dân công tải gạo và quân nhu ra chiến trường. Gới tốt hơn nữa là giới thanh niên. Thanh niên thì cầm súng.

Giọc nước: là thò tay vào nước để quậy phá chơi thôi chữ không nhằm mục đích làm gì. Ví dụ: “Trông em, Coi chừng đừng để nó “giọc nước”ướt hết áo quấn nó sẽ bịnh cảm đó.”
Giỡn mặt: Chọc ghẹo không nghiêm túc để người đối diện không sợ, không nể. ‘”Giỡn chó thì chó liếm mặt” Ông cảnh sát nói với tay anh chị: “Đừng có giỡn mặt, tao bỏ tù mày đấy!”
Gút gạo: là vo gạo cho sạch rồi hong khô. Vi dụ “Gút gạo cho sạch rồi đem đi xay đi!”
Hèn chi: “Nó ích kỷ thật. hèn chi mày không chơi với nó”. “Hèn chi” có nghĩa là vì vậy, do đó, bỡi vậy…
Hòn Nần: xem Miếu Biểu Trung.
Hổng giống ai: không giống ai thì phát âm “hổng giống ai”.
Í dui: là nói ái chà! Biểu lộ đau đớn. “Í dui, sao mày nghéo bắp dế(vế)của tao đau quá!” “Í dui! Kim chích vào tay của em, đau quá hè!”
Ỉa giấc: khi xưa ở làng quê người ta không biết làm nhà cầu. Người ta vào rừng, ra đồng, ra gò hay nơi nào xa nhà và kín đáo để ỉa. Gò là nơi đất cao dùng dể chôn người chết. Ỉa giấc là bạ đâu ỉa đó. Lười biếng không đến những nơi đó. “Đi ra chỗ kia con! Sao mày hay ỉa giấc như dậy!”
Hớt hỏng: là lẻo mép. Chỉ tính nông cạn, không kín đáo hay kể sự thật không cần thiết cho người chẳng có gì liên quan đến chuyện đang nói “Đồ hớt hỏng, chưa chi mà khai hết chuyện nhà của mình cho người ta biết”. “ hay thường nói “Đồ ăn cơm trên hớt hỏng”
Hư: là không còn tốt. “Đồ con gái hư! Ăn nói rổn rảng giữa đám đông.” “Mẹ ơi! Con viết bài không được. Không phải nó hết mực mà nó hư rồi”
Không hè: “Lấy cho tao cái muỗng, đôi đũa cái bát và tăm xỉa răng” – “Chỉ có tăm xỉa răng không hè!“. Không hè có nghĩa là không có cái gì ráo, chỉ có mỗi một cái đó mà thôi.

Lảng xẹt: Lảng là không đậm đà ý vị, Không đúng đắn nghiêm trang. “Canh mà nấu không có cá có thịt trông nó lỉnh lảng làm sao!”. “Con nhỏ này thật lảng nết . Hễ gặp con trai bất kể quen hay không đều xáp lại nỏi ỏm tỏi không kiêng nể gì cả”. “Em nó bịnh ăn không được tao cho nó chén cháo thịt. Mày mạnh nuốt cái gì không được. Ăn cháo có đường mà chê, đòi cho được cháo thịt.”Đòi lảng xẹt à!”
Lẫm: (1) là một cấu trúc hình hộp có 5 mặt làm bằng vách đất và đáy cũng làm bằng vách đất. Có cữa để đổ lúa vào làm kho chứa lúa. (2) là cái đình để chức sắc trong làng làm việc. “Xóm Lẫm”. Có câu ru con như sau: “Nực cười đũa bếp bịt vàng?Chuồng heo phủ ngói/Lẫm llàng lợp tranh!”
Lấm lem : lem luốc thì có thấy các vùng khác dùng nhưng lấm lem thường thấy dân nông thôn ở Phú yên dùng nhiều.Lem là lan ra và có ý nghĩa dơ dáy, không sạch sẽ sắc sảo. Từ “lấm lem” gợi hình dơ dáy luộm thuộm rất mạnh. Đó là từ tượng hình dùng rất hay: “Trời ơi! em bé sao mà lấm lem lấm luốc dậy“
Mặc bính. Lấy tạm quần áo của người khác mặc. Người nam gọi là mặc kính.“Thằng đó mặc bính áo của tao mày”
Ma da: là ma ở dưới nước chuyên nhận chìm người ta chết để thế mạng mình đi đầu thai kiếp khác, sống trên khô.
Mốc cời: “mặc bộ đồ bà ba mốc cời, đi đôi guốc mòn lẻm và anh ta đội cái nón cời tả tơi!“. “Mốc cời”nghĩa là màu xám nhưng rất cũ, mốc meo hư nát.
Mòn lẻm: “mặc bộ đồ bà ba mốc cời, đi đôi guốc mòn lẻm và anh ta đội cái nón cời tả tơi!“.“Mòn lẻm” nghĩa là quá mòn vật dụng trở nên mỏng và sắc bén.
Mú dẻ: hoa mú dẻ là hoa của 1 thứ cây mọc ở đồi trọc, màu vàng, mùi thơm, cho trái cũng màu vàng chín mọng mà trẻ con(nhất là bọn chăn bò vùng đồi núi) rất ưa thích. “rủ nhau đi hái mú dẻ chim chim”. Chim Chim là loài cây mọc chung với mú dẻ, trái màu đỏ. Nơi khác gọi là Dú Dẻ
Mủng: là dụng cụ đan bằng tre dùng đựng gạo để vo gạo. Lỗ của cái mủng nhỏ, các nan tre đan lại khít hơn khi đan cái rổ. Cái rổ có lỗ lớn hơn dùng để đựng rau cho mau rút nước. Cái mủng nhỏ gọi là cái cão.
Mừ ứ: Nghĩa là để mắt tới. “Con gái gì mà lớn tồng ngồng như dậy(vậy) chẳng có ai mà mừ ứ tới”
Ngầy: “Đi đau giờ nầy mới dìa, hầunãy giờ ổng bã ngầy(ngầy la) mầy tứ tung!”.Người Phú yên nói “rầy la, mắng chưởi, quở phạt, trách mắng người dưới quyền ” thành “ngầy hay ngầy la“.
Nghen: “Tụi bay chơi đông dui(vui) quá nhỉ, cho tau chơi với nhen!”. “Đi với tau(tao) nghen”. “ Nghen!” nghĩa là đồng ý không? Được không? OK chứ? Chịu không?
Nghinh ngang: rất nhiều nên bỏ bừa bãi. “Phú yên tĩnh nhỏ lo gì/Nhưng mà sản vật đủ thì nghinh ngang.”Trích “Non nước Phú Yên”Nguyễn Đình Tư, trang 206. Còn có nghĩa tự do không theo trật tự: “Nép, nép dô(vô), sao đi “nghinh ngang” dữ dậy(vậy)!”
Ních hết: ăn khoẻ “Cá mòi cũng ních/cá trích cũng nhấn”Tức phàm ăn. Cái gì cũng ăn no thôi không kén chê gì cả. “Nó đang đói. Nó ních hết không để cai gì lại hết.”Trong “đất rừng Phương Nam”tác giả cũng có xài từ này…trang 39. Tức người Nam Bộ dùng từ như người Phú Yên.
Núi Cảnh Vực: ĐNNTC viết: “ở phía Đông –Nam huyện Tuy Hoà” có lẽ là vùng núi Đá Bia
Núi Bảo Tháp: là núi Nhạn Tháp
Núi Cấm Sơn: ĐNNTC viết “Núi cấm Sơn ở phía Nam huyện, phía Bắc liền núi Vân Hoà, phía Nam liền núi Lỗ trụ và đèo Húc Viện” Theo mô tả thì đèo Húc Viện có lẽ là đèo Dinh Ông bây giờ. Núi Cấm Sơn có lẽ là núi Cẩm Sơn gần miếu Lương Văn Chánh.
Núi Liên Trì: ĐNNTC viết : “Ở phía Đông-Bắc huyện. chân núi này có hồ sen nên gọi thế”
Núi Chủ Sơn: ĐNNTC Viết: “Ở phía Tây-Nam huyệnTuy Hoà, sóng rất cao, phía Nam có núi Đồn Tàu, phía Bắc giáp Man Động”. Đoán là núi Mẹ Bồng Con hay là núi Chúa.
Núi Thạch Thành: ĐNNTC viết: “Núi Thạch Thành ở phía Tây huyện Tuy Hoà, có thủ sở. Năm Ất Mão đầu đời Trung Hưng, đạo binh cứu viện thành Diên Khánh, sai bọn đốc chiến Mai Tiến Vạn và Nguyễn Văn Nguyên giữ núi Thạch Thành để chặn đường tắt của giặc, tức là đây. Gần về phía Bắc có đồn Phước Sơn, là chỗ phát nguyên của sông Đà Diễn.”
Nước lạnh: “Chế bình trà mời bác 7 uống cho dui(vui)”-Thôi , tui uống 1gáo(dụng cụ để múc nước làm bằng sọ dừa có tra cán để cầm) nước lạnh rồi).Ngoài Bắc gọi là nước lã.
Nước khách: khoa học gọi là nước của cuồng lưu. Nước suối chảy rất lớn, rất mạnh. Nhứt khắc thì suối khô cạn.
Nước kiêu ấm: là nước sắp sôi, nghe tiến kêu re re.
Nước Chè: là nước trà.
Nước giọt: là nước trên mái nhà chảy nhỏ giọt xuống sân
Ngạch cữa: Cữa thì có khung ngoại ôm 2 cánh cữa khi cữa đóng. Khung cữa nhà ngày xưa gồm có 2 thanh ngang. Một ở trên và một ở dưới, 2 thanh 2 bên. Thanh ngang ở bên dưới thì nằm sát mặt đất và gọi là ngạch địa. Nếu nhà kiên cố, cữa đóng then cài, thì kẻ trộm muốn vào nhà ban đêm phải “khoét ngạch”Tức là đào âm qua móng của tường hay âm qua ngạch địa mà chui lên khỏi nền nhà. Ngày xưa tụi trẻ con chúng tôi hay nghe ông bà kể cái khôn của tên ăn trộm. Trước khi chui lên thực sự thì nó lấy cái “Trã”ám khói đen ngòm đặt trên đầu một cây gậy để đưa lên. Gia chủ rình thấy tưởng là cái đẩu của thằng ăn trộm bèn phan một nhát gậy, nghe kêu một cái “oảng”Té ra cái trã bị vỡ chứ đầu thằng ăn trộm không bị vỡ!

Ngó bộ: là xem ra, có vẻ. “Cái đó ngó bội coi đẹp đó”.
Nhem thèm: Nghĩa là bày ra ở trước mặt cho người ta thèm chơi. “Đem ra chỗkhác mà ăn. Đừng đứng trước mặt tụi nó để nhem thèm chúng nó“ Viết đến đây tôi nhớ thời ấu thơ dắt trâu ăn cỏ. Nó thấy lúa ở trong ruộng cứ le lưỡi ra liếm lúa mà ăn. Tức quá tụi tôi bức một nắm cỏ non tươi tốt huơ qua huơ lại trước mặt con trâu và miệng nói liên tục: nhem thèm..nhem thèm…Tức thì con trâu bỏlúa mà quay lại liếm cỏ mà ăn.
Ống lương khô: Dùng thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Ống làm bằng ống tre rộng ruột mỏng vỏ, kín 2 đầu, cưa cắt ra thành một đoạn ngắn làm nắp. Đoạn còn lại dài hơn làm thân Miệng đoạn thân vạt mỏng phía bên ngoài. Đoạn nắp miệng khoét mỏng phía bên trong sao cho 2 cái úp lồng khít vào nhau. Thế là có một hộp hình ống để đựng lương khô. Lương khô thường làm bằng thịt gà hay thịt heo nạt kho khô với muối, đường, sả, ớt hay mắm ruốt để dùng được lâu.
Óng kẹo bà cô: là đi đã lâu rồi. Ví dụ. “Ổng đi hồi nào?-Đi đã lâu rồi, đi óng kẹo bà cô!”
Phái lòng hay phải lòng: là trai gái chịu lấy nhau. “Con Hai nhà mình coi bộ phái lòng thằng Giỏi ở xóm trên đấy!”
Qúa tay, quá chưn: “Ba bỏ mấy cái áo dơ trong thau giặt chung với đồ dơ của mày. Sao mày chỉ giặt đồ của mày còn đồ của ba mày bỏ lại. Con nhỏ quá tay!Còn cái khăn này nữa. Mày cũng bỏ lại. Trời! con cái quá tay quá chưn!. “Qúa tay” có nghĩa là tệ hại thực, tệ hết chỗ nói…

Qúa thảm: “Mày có rất nhiều. Cho nó một ít! “Thì đây nè, lấy một chút thôi nhé!”- “cho chi quá thảm!” . “Quá thảm ” không có nghĩa là quá bi ai mà là quá ít
Quỹ quài: tức là Huỹ hoài, có nghĩa là lâu, nói lâu khó để người ta hiểu mình. Nguyễn Đình Tư viết trong Non Nước Phú Yên trang 24: “Chóp Chài cao lắm bấy/Trông hũy trông hoài/Chẳng thấy người thương” Hồi còn chính sách “bao cấp,”giao tiếp với nhau thì người ta hay dùng điếu thuốc để gợi chuyện phổ biến như ộng bà ta ngày xưa dùng “Miếng trầu đầu câu chuyện”vậy. Thuốc hiệu 3 số năm (555)là thuốc ngoại nên quí, giao tiếp có hiệu quả hơn thuốc hiệu “MAI” nội địa sản xuất ở nhà máy thuốc lá Saigòn(hãng thuốc lá Basto của Pháp để lại). Thời đó có câu “Thuốc Mai nói quài nói quỹ”
Quảy: ở quảy(trong Nam nói là ở ngoảy). Chỉ ở về phía bắc.”Mày mới dô hử. Ở quảy cha mẹ con có phẻ hay không”. “Ở quày Hà Nậu có lạnh lắm không?”
Rế: Dùng để bỏ nồi niêu xoong chảo còn nóng bưng cho khỏi phỏng tay. “Anh dìa(về)thắt rếkim cang/Dót(vót) đôi đũa biếp(bếp), cứ (cưới)nàng còn dư ”Kim cang là một thứ dây bứt ở trong rừng, thắt thành hình vòng tròn hình hoa thị, số cánh thường là số lẻ, từ 5,7,9 trở lên tuỳ rế to nhỏ. Các cánh hoa được bện bỡi dây kim cang quanh chu vi để thành cái vành rế. Người Nghệ Tĩnh nồi không có quai và họ không có rế. Không biết làm sao họ bưng nồi cơm còn nóng? Người Phú Yên đi ghe bầu ra đó buôn mắm thấy làm lạ hát câu: “Nhà không chái/Đái Không ngồi/Nồi không quai”Nhà của người Phú Yên ngoài 2 mái tước sau, có 2 cái chái ở 2 bên. Đàn bà PY thì mặc quần 2 ống chứ không mặc váy một ống, Đàn bà con gái Nghệ Tĩnh cứ đứng thẳng mà đái không sợ ướt “quần!”
Rổ may: là cái rổ đựng đô kim chỉ dụng cụ khâu vá cho các bà các cô dùng
Rộng: là nuôi, trử cá trong cái gì để nó còn sống mà dùng từ từ. Ví dụ: “Bắt cá bỏ vô chậu “rộng” nó đi con!”Dùng rộng ra có nghĩa là chứa chấp. ví dụ: “Tí ha, tí hửng như đồ rượng đực! Lúc nào cũng“rộng” trai ở trong nhà!”
Rớ tới.; Nghĩa là động tới, đề cập đến. “Tụi bay lôn xộn quá. Tao không bao giờ giờ “rớ tới”hết ah!.”

Ruột Nghé: Dụng cụ bằng vải không may 2 mép lại với nhau theo đường thẳng mà gấp chéo qua rồi chéo lại, theo đường cong xoắn ốc thành hình ống như cái ruột để đựng gạo mang theo khi chạy giặc Pháp tản cư ra khỏi nơi Pháp chiếm đóng hay cho binh sĩ đi hành quân. Cách làm: Dùng một băng vải rộng cỡ 2dm. Uốn cong lại sao cho mặt trên nằm gọn vào bên trong. Mặt dưới nằm gọn lại bên ngoài. Lúc bấy giờ 2 mép vải giáp nhau theo đường chéo. Chỉ việc khâu 2 mép lại thì ta có một cái ống vải hình ruột nghé. Đường may chạy xoắn ốc chung quanh ruột nghé.
Sao dẫy: sao như vậy, chỉ sự ngạc nhiên khi nhận ra việc làm sai trái.Ví dụ “Sao dẫy! làm hư hết trọi, hết ráo! làm như thế này chứ”
Săn: Gỗ tốt. ví dụ củi săn khác với củi tre. “Dùi đánh đục, đục đánh săn” nghĩa là dùi đục(làm bằng gỗ) đánh cái đục(bằng sắt) thì đục đánh xuống khúc gỗ.
Tau: Đại từ danh xưng ngôi thứ nhất. Nghiã là tôi, tao. “Tụi bay chơi đông dui quá nhỉ, cho tau chơi dới(với) nghen!”.
Tám hoánh: là đã xong rồi. Ví dụ: “Họ đi lâu chưa?-Đã đi tám hoánh rồi, từ hồi nước mới ròng” Trích “Đất Rừng Phương Nam của Đoàn Giỏi” Người Phú Yên nói đi “đi tám quánh rồi”
Te Tua: là rách nát nhiều lắm. “Hai ống quần rách “te tua” Trích trang 23 trong ĐRPN của Đoàn Giỏi. Người Phu Yên cũng dùng “te tua” Ví dụ tàu lá “rách te tua”. Nó bị “chưởi mắng te tua”.
Thâu đi ông: Dùng để phủ định ý người đang nói. “Đố cái thằng đó mà thi đậu được kỳ này! Thâu đi ông, nó sẽ đậu thủ khoa cho mà xem!”
Thẵng, cỏn: “Mẹ ơi, chị hai, anh bốn và mấy đứa cháu đi về nội về ngoại của nó rồi!” -“Kêu tụi nó lại để mẹ gửi cái này cho thẵng và cỏn cái đã . “Không!, ảnh chĩ đi hết trơn hết trọi rồi”. Thường cha mẹ chồng cha mẹ vợ gọi con dâu và con rể không trực tiếp bằng “con, thằng” thô bạo bà gọi trại lại bằng “cỏn, thẵng” nghe nhẹ nhàng thân mật và lịch sự với lòng nể nang con cái hơn. Anh chị em ở phía chồng phía vợ cũng gọi anh rể chị dâu bằng “ảnh chĩ” cũng ý như vậy. Ngoài ra “ảnh chĩ ”cũng được dùng để làm thay đổi âm điệu câu nói.. Nói “anh” đi rồi nghe không êm bằng “ảnh” đi rồi.
Thớt thịt: là hang bán thịt ở chợ. “Nó bỏ cái rổ ở dưới gầm một “thớt” bán thịt lợn” Trích trang 22 trong “Đất Rừng Phương Nam của Đoàn Giỏi”
Trã: là dụng cụ bằng đất nung dùng vào việc nấu canh kho cá. Nồi chỉ dùng để nấu cơm mà thôi.

Trách: là dụng cụ giống như cái trã, chỉ nhỏ hơn thôi. “cái trách, cái trã, cái mủng, cái cảo”là dụng cụ bếp núc của các bà ngày xưa. Nguyễn Đình Tư viết trong“Non Nước Phú Yên”trang 209: “Cẩm Sơn làm trã làm vung/Làm chum làm vại/Nắn thùng nắn niêu” Đúng câu hát của người Phú Yên là: “Cẩm Sơn làm trã làm dung/Làm chum làm dại/Nắn thùng nắn niêu”… nghe mới đúng điệu người sinh trưởng ở Phú Yên. Niêu là cái nồi đất nhỏ.
Trách trã: là trách móc. “Hôm qua, qua nói qua qua mà qua hổng qua. Nay qua qua. Thôi trách trã làm gì!”
Trắng bóc: Trắng ghê lắm. Hàm ý trắng như cái gì mới lột vỏ ra thấy bên trong quá trắng. “Con nhỏ này mặt mũi trông xấu xí nhưng da dẻ nó trắng bóc à! ” “Con nhà ai mà trắng như trứng gà luộc mới bóc vỏ!”
Trắng tinh: rất trắng. Hàm ý còn mới và tinh khiết nên giữ được màu trắng. “Vở mới mua mà! Giấy má còn trắng tinh”
Trịn: là lấy mông hay đít cọ vào cái gì để chùi cho sạch. “Trẻ con thời xưa chỉ mặc áo chứ không có quần để mặc. Ỉa thì trịn đít lên mô đất thay vì chùi bằng giẻ hay rửa đít.” Câu tục nói: “Một đời phấn sáp đeo hoa/ Một đời ỉa trịn cũng qua một đời!”
Trưa trật: quá trưa. Từ này cũng thấy người Nam Kỳ dùng. “Phải qua 2 cái phà nên trưa trật tôi mới tới đây”(bài viết về tướng cướp Bảy Viễn của Trúc Giang)
Tui: là tôi. “Anh bỏ qua chiện(chuyện) đó chứ tui(tôi) giận lắm”
Tứ tung: là vươn vãi khắp nơi. Tung là đường dọc, hoành là đường ngang. Ở đây biến thể “tứ tung” là bốn phía. “Sao dậy, đút cơm không chịu ăn, để cơm đổ tháo “dung dãi” tứ tung, cái thằng này! Chị “quánh” cho mà coi!”
Ui ui: là nắng không lớn lắm. Ví dụ: “Trời nắng “ui ui” mà mày dẫn em đi xa, không “đậu”mũ thì em nó sẽ bị bịnh cảm đó!”
Ử: là không còn chắc chắn nữa. “Đừng leo lên! Bức tường ở ngoài mưa gió lâu ngày nó ử rồi”
Ưng: là vừa lòng. Ví dụ “ăn món này có ưng ý anh không?”Người Phú Yên còn dùng rộng ra nữa. Trai gái “ưng” ai có nghĩa là lấy ai. Ví dụ “Thằng Hai xóm trên “ưng”con Ba ở xóm “ dứ”(dưới)”
Xỉ: là cái muổng, cái thìa. Phan Ngọc Giang nói từ này gốc Mam Bộ, gốc tiếng người Hoa

Xửng: xửng mưa, tạnh mưa. “Mấy hôm nay mưa quá trời. Khi nào xửng mưa tao qua!”

PHAN NGUYÊN LUÂN… thực hiện

Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017

“Đạo bất đồng bất tương vi mưu”





Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.

Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

Bất Danh

Hàm nghĩa của chữ “Sinh”



“sinh” đối với con người lại chính là “tử” trong mắt của các sinh mệnh cao tầng, con người đến thế gian chính là đi vào cõi chết. Câu nói của Lão Tử “xuất sinh nhập tử” (sinh ra là chết đi) chính là có hàm nghĩa như vậy.



Tác giả: Chiếu Viễn


[ChanhKien.org] “Sinh” (生) là một từ hội ý (từ do hai hay nhiều bộ chữ ghép tạo thành), đây là chữ Giáp Cốt(1) cổ của Trung Quốc, bên trên là chữ “thảo mộc”, bên dưới là “mặt đất” hoặc “thổ nhưỡng”. Nghĩa gốc của từ này chỉ cây cỏ sinh trưởng trên mặt đất. Ngoài ra chữ “sinh” còn có nghĩa là sản sinh, sáng tạo và nuôi dưỡng.

Trong thư pháp chữ Khải, chữ “sinh” (生) bên trên là “nhân” (人), bên dưới là “thổ” (土), “con người ở trên mặt đất” nghĩa là sinh. Con người sau khi chết đi thì an vị dưới đất, không thể ở trên mặt đất được. Vậy thì nơi ở của người sống nên là ở trên mặt đất, nơi có ánh Mặt trời, nếu ở lâu trong căn phòng dưới mặt đất hoặc dưới gầm cầu, đường hầm thì sẽ mang đến âm khí u ám, không có lợi cho sức khỏe.

Nếu nhìn từ góc độ khác, theo lý luận của Đạo gia, trong không gian vũ trụ mà xã hội nhân loại tồn tại này, hết thảy vạn vật đều do âm dương Ngũ hành tạo thành, vật chất cấu thành thân thể người cũng không phải ngoại lệ. “Thổ” đứng vị trí thứ năm trong ngũ hành, cho nên đối với sinh mệnh ở cảnh giới rất cao mà nói, thân thể người chính là đất, con người sống ở thế gian chính là bị chôn vùi trong đất, “sinh” đối với con người lại chính là “tử” trong mắt của các sinh mệnh cao tầng, con người đến thế gian chính là đi vào cõi chết. Câu nói của Lão Tử “xuất sinh nhập tử” (sinh ra là chết đi) chính là có hàm nghĩa như vậy.

Cho nên con người chỉ có cách duy nhất là khắc khổ tu luyện trong chính Pháp đại Đạo, dũng mãnh tinh tấn, cuối cùng ra khỏi Ngũ hành, mới có thể rời xa cõi chết, bước vào cuộc sống vĩnh hằng.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/157291

Chú thích:

(1) Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên mai rùa hay xương thú vật, có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được, đây được coi là hình thái đầu tiên của chữ Hán.

Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2017

Ngủ trong lớp học: một thực hành văn hóa



Nguyễn Hồng Phúc


Đi học bị (một vài) giảng viên bảo nhau rằng ý thức học tập của mình kém, do hay bỏ học và hay ngủ trong lớp học.
Nhưng sao họ chẳng bao giờ đọc hành vi ngủ của sinh viên như đọc một tác phẩm nghệ thuật đương đại nhỉ? Tức là xem hành vi ngủ đó như một thực hành có chủ ý thay vì chỉ đơn thuần là một sự gà gật vô thức của chủ thể. Cũng tức là nhận ra rằng: Thực ra sinh viên đang muốn đối thoại với mình.


Nếu chúng ta luôn nhìn cuộc đời như một loạt những set nghệ thuật sắp đặt, đối diện và tư duy về nó như với những tác phẩm nghệ thuật, hẳn sẽ thu được rất nhiều thứ.
Nếu đọc hành vi ngủ của sinh viên trong lớp như một tác phẩm nghệ thuật, giảng viên sẽ thu được những giá trị phản tư rất lớn, thay vì có những ứng xử bá quyền với sinh viên, những điều chỉ càng bộc lộ rằng: họ ít đọc sách và ít suy tư về giáo dục.

Vì sao sinh viên lại ngủ trong lớp? Điều đó cho thấy những vấn đề gì trong kiến thức của giảng viên, và của thực trạng giáo dục hiện nay? Còn chính bản thân người ngủ nữa? Anh/ chị ta là người thế nào? Ngủ vì lười? Ngủ vì thức khuya đọc sách? Ngủ là thiếu tôn trọng giảng viên? Là nhận thức kém, không hiểu bài hay xuất phát từ việc quá hiểu những kiến thức và môi trường mình đang học? Ngủ thế là thiếu lý tưởng, thiếu ý thức hay vì quá có lý tưởng và ý thức?…Mười vạn câu hỏi vì sao sẽ được đặt ra. Và ngay chính trong việc giải mã này đã hình thành một tâm thế đối thoại, cởi mở của giảng viên, và tất nhiên, sẽ khiến họ khiêm tốn hơn rất nhiều.

Vậy nên, mình nghĩ, mỗi con người, trong cuộc đời này: hãy cố gắng nhìn đời như một tác phẩm nghệ thuật và bằng con mắt của một nghệ sĩ.

“Mừng chảy nước mắt” khi đếm người tham nhũng!







Bích Diệp



(Dân trí) - Theo báo cáo sơ bộ công tác thanh tra 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ từ nay tới cuối năm 2017 của Thanh tra Chính phủ, kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng đã được công khai theo đúng quy định pháp luật.


Các bộ ngành, địa phương kiểm tra trên 1.800 cơ quan, tổ chức, đơn vị về công khai, minh bạch nhưng chỉ phát hiện 22 đơn vị vi phạm.


Báo Dân trí, bài “Chỉ có 77 trường hợp được xác minh tài sản trong năm 2016” cho biết chỉ có 77 người thuộc diện kê khai được tiến hành xác minh tài sản, thu nhập trong tổng số trên 1 triệu người kê khai năm 2016.


6 tháng đầu năm 2017 chỉ có 1 trường hợp người đứng đầu bị kết luận thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng; xử lý kỷ luật 4 người do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng, trong đó có 3 người vi phạm phát hiện từ kỳ trước.


Tổng số vụ tham nhũng mà ngành thanh tra đã phát hiện được là 47 vụ, 66 đối tượng có hành vi tham nhũng và liên quan đến tham nhũng.


Nhận xét trước Chính phủ, ngành thanh tra tự thấy, “số vụ việc phát hiện còn ít”. Ô hay! Ít là tốt chứ! Rất đáng để mừng! Mừng vì hóa ra, “lượng hóa” tham nhũng lại chẳng đến nỗi “nghiêm trọng” như người ta cảm nhận.


Hồi tháng 4 vừa rồi, chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2016 của Tổ chức minh bạch Quốc tế (TI) dựa trên cảm nhận của doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng trong khu vực công cho thấy, Việt Nam được 33/100 điểm, đứng thứ 133/176 bảng xếp hạng toàn cầu, nằm trong nhóm các nước mà tham nhũng được cho là “nghiêm trọng”.


Nhưng nói “nghiêm trọng” mà số vụ việc bị phát hiện, số người chịu trách nhiệm… như báo cáo của ngành thanh tra vừa nêu trên thì có vẻ hơi… thái quá!? Vậy, rốt cuộc, tham nhũng bị phát hiện ít là do cán bộ, công chức ở ta trong sạch, hay vì công tác tố giác, phát hiện còn hạn chế?


Mới chỉ cách đây 3 tháng, tại một xã thuộc tỉnh Hà Nam, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ Công an tỉnh này đã khởi tố và bắt tạm giam đối tượng có tên là Mai Hiển Dũng – một cán bộ lao động thương binh xã hội ở địa phương. Lý do là cán bộ này đã lợi dụng chức vụ để “ăn chặn” tiền trợ cấp các hộ chính sách trong nhiều năm liền.


Hay như hồi đầu năm (tháng 2/2017), Ủy ban Kiểm tra huyện ủy Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang, cho biết cơ quan này vừa ban hành quyết định kỷ luật đối với 13 cán bộ, cá nhân có liên quan đến vụ sai phạm trong việc chi tiền hỗ trợ người dân vùng hạn, mặn trên địa bàn.


Trong đó, ông Đặng Văn Dũng, nguyên Bí thư Đảng ủy và bà Phan Thị The, chủ tịch UBND xã Vĩnh Thuận, cùng bị khiển trách về mặt Đảng và chính quyền vì để thuộc cấp chi sai, bỏ sót hàng trăm hộ dân hoặc chiếm dụng tiền hỗ trợ hạn, mặn cũng như tiền cấp bù quà Tết cho hộ nghèo, cận nghèo tại địa phương.


Bòn rút, ăn chặn tiền trợ cấp cho người nghèo, những người bất hạnh, những người đang lao đao, khốn khó vì thiên tai… đến mức như thế thì chưa nói đến sĩ diện, tự tôn làm người mà lương tâm của những cán bộ kia chắc cũng đã mục ruỗng, bỏ đi mất rồi!


Lại nhớ đến câu nói của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan vài năm trước: “Đến tiền của các cháu dân tộc thiểu số mà hiệu trưởng cùng với một số cán bộ còn biển thủ đến gần 3 tỷ, vừa rồi mới khởi tố. Cái liều vacxin tiêm cho một cháu, nhưng lại san ra tiêm cho hai cháu ngay tại Hà Nội… Tôi càng đi càng thấy buồn, ăn của dân không từ một cái gì”.


Tham nhũng, hay nói cách khác là “dụng công vi tư”, là lạm dụng vị trí, quyền hạn để lấy của công “đút túi” làm của riêng. Vậy, những trường hợp nêu trên không tham nhũng thì gọi là gì?!


Rồi gần đây, có những sự việc vẫn đang trong quá trình điều tra và chờ đưa ra kết luận, như dinh thự, chung cư, xe sang… của Giám đốc Sở TNMT Yên Bái, những băn khoăn quanh nguồn gốc của khối tài sản cổ phiếu hàng trăm tỷ đồng của một vị Thứ trưởng đương chức. Người dân thực sự đang nóng lòng nhận được câu trả lời: Từ vi phạm “nghiêm trọng” cụ thể như thế nào đến mức độ kỷ luật ra sao?


Còn nhớ, hồi tháng 10 năm ngoái, báo cáo Quốc hội về công tác phòng chống tham nhũng, Tổng Thanh tra Chính phủ Phan Văn Sáu cho biết, có trên 1 triệu cán bộ, công chức hoàn thành việc kê khai tài sản, thu nhập nhưng qua xác minh 414 trường hợp chưa phát hiện người nào kê khai không trung thực (!).


Cho nên, để đấu tranh và ngăn chặn tham nhũng, phải nhìn thẳng vào thực tế quy định pháp luật có lỗ hổng để các cá nhân lợi dụng hay không? Đã có phương án “vá” những lỗ hổng đó với những chế tài thực sự đủ mạnh hay chưa? Chứ nói thật, chỉ dựa vào sự trung thực của cán bộ, đảng viên khi kê khai tài sản, chỉ “khiển trách”, “cảnh cáo” trong các mức án kỷ luật… thì chuyện đẩy lùi tham nhũng được hãy còn xa.

BÊN BỜ VỰC









Từ Thức







Hai người lên tới đỉnh núi lúc trời vừa nhá nhem tối. Gã thanh niên vạm vỡ đứng ôm bụng thở dốc, mồ hôi chẩy trên mặt như giọt mưa. Người đồng hành, một ông già râu tóc bạc phơ, y phục, phong thái đạo sĩ, đứng ung dung ngắm cảnh, nhàn hạ như vừa xong một tuần trà.

Gã thanh niên nhìn vách núi dựng đứng, chân núi thăm thẳm, mất hút trong mây mù, nói, hổn hển :

-Con sợ thầy thực. Leo núi suốt từ sáng mà không biết mệt. Không biết bao giờ con mới tập luyện được như vậy.

Lão trượng vuốt râu, cả cười :

-Cần nhất là đừng sốt ruột. Phải tập luyện mỗi ngày, nhưng không tìm cách đốt giai đoạn. Một ông tướng nổi danh nói với binh sỉ : hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đẩy.



Trăng lên, sáng vằng vặc. Sâu hút dưới chân vưc là một con sông uốn éo như rắn, chan hoà ánh trăng. Một hai chiếc thuyền neo bên bờ sông, nhỏ bé xinh xắn như những chiếc thuyền giấy của trẻ con. Gã thanh niên cất tiếng ngâm :

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Lão trượng đang nửa tỉnh, nửa thức, ngạc nhiên, hỏi :

-Con biết tiếng Việt ?

-Thầy quên con là một chuyên viên về cổ ngữ ?

Ông già cả cười :

-Quả thực, nhiều lúc thầy quên con đã trưởng thành, đã là một học giả có tên tuổi. Ngày nay, ít ai còn biết tiếng Việt

Thời gian đi vùn vụt.Trong đầu ông già, gã học trò vẫn còn là một chú nhỏ chạy lăng quăng trong sân nhà, hay ngủ gà ngủ gật giữa những buổi học kéo dài trong cái nóng nực của trưa hè. Mới như hôm qua, cái buổi sáng người ta trao cho ông một hài nhi còn đỏ hỏn ai đem bỏ trước cổng nhà từ lúc đất trời choạng vạng.

Một lần trong một thư viện lớn, ông thấy một nhóm sinh viên chúi đầu nghiên cứu, trên bàn cả một đống sách dầy cộm mang tên tác giả là người học trò thân yêu của mình. Ông vừa kiêu hãnh, vừa xúc động, vừa bàng hoàng , ý thức rằng đứa học trò nhỏ ngày nay đã dần dần vuột khỏi tay mình, đã thành một học giả có uy tín.

Ông già nói :

-Câu thơ đẹp quá , nhất là trong cái đêm trăng như đêm nay.

Bắt chước học trò, ông lên tiếng ngâm, giọng sang sảng :

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hoàng hôn nắng mới lên

Vườn ai mượt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió lên lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay…

Và tiếp :

-Hồi nhỏ, có lần thầy ghé thăm cái thành phố ngày xưa tên là Huế, thăm thôn Vỹ nhưng Huế không còn là Huế, thôn Vỹ không còn là thôn Vỹ của Hàn Mặc Tử. Vườn ai mượt quá xanh như ngọc đã trở thành những cao ốc kệch cỡm, những cơ sở sản xuất giầy dép, siêu thị của người Tàu. Những cô thiếu nữ trong chiếc áo dài lả lướt ngày xưa đã trở thành những bà vợ Tàu , vợ Đai Hàn buồn bã. Huế bây giờ mang một cái tên Tàu, giống như những thành phố khác của cái nước ngày xưa gọi là Việt nam. Những lâu đài, cung điện biến thành những khách sạn, những tiệm ăn Tầu. Nơi mình đang đứng, có lẽ ít ai nhớ ngày xưa gọi là đèo Ải Vân

Trong đầu ông già, hình ảnh một thành phố ảm đạm. Nước sông Hương lờ đờ , nhớ những câu hò đối đáp. Cầu Trường Tiền lở lói, vắng những tà áo trắng, những tiếng chuyện trò ríu rít của đám nữ sinh.

Ông già nhiều lần nhức nhối đứng trước những tiệm, những cơ sở mậu dịch làm môi giới tuyển đàn bà cho người Tầu. Những thiếu nữ nghèo, đôi khi còn ở tuổi ô mai, đáng lẽ đang ép hoa, bắt bướm, đứng xếp hang chờ tới lượt cởi quần áo cho khách Tàu sờ mó, nắn bóp, coi soát từ trong ra ngoài trước khi mua. Những tấm bảng quảng cáo chữ Tầu bảo đảm hang hóa nếu không ưng ý có thể đổi hay trả lại. Người ta xuất cảng phụ nữ để lấy ngoại tệ, như người Ái Nhĩ Lan xuất cảng thịt cừu, người Argentine xuất cảng thịt bò. Một cái tát vào mặt mà khó dân tộc nào chấp nhận, nếu còn đôi chút tự trọng. Những người cầm quyền đồng lõa làm chuyện bán đàn bà, đồng bào, chị em, con cái của mình để kiếm tiền, sẽ ngần ngại gì khi bán đảo, bán đất, bán rừng, bán nước, nếu lợi nhuận lớn hơn, mặc dù đã tham ô đầy túi .

Ông già nghĩ tới một tài liệu về người abrorigènes ở Úc Châu. Người da trắng đã tập trung hàng trăm ngàn đàn bà aborigènes, chở đi khắp xứ, cho lập gia đình, hay nô lệ tình dục, với người da trắng. Những đứa con đẻ ra là con lai, không biết gì về dân tộc mình, trở thành xa lạ với nguồn gốc của mình đẻ trở thành công dân hạng nhì trên đất nước của tổ tiên. Người Tầu, vì chính sách hạn chế sinh đẻ, chỉ quý và đôi khi chỉ giữ con trai, thiếu hàng trăm triệu dàn bà. Họ nhập cảng đàn bà Việt, bắt cóc hay lấy phụ nữ Việt tại chỗ. Cả một thế hệ con lai không biết gì về văn hoá Việt, sẽ gia tăng đội ngũ người Tầu vốn đã đông đảo trên đất Việt

Gã thanh niên lục trong cái túi cồng kềnh y vẫn đeo sau lưng ra một cái lều vải, lúi húi dựng lều. Ông già không cần lều ; vẫn ngủ ngoài trời, lấy cỏ làm nệm, phiến đá làm gối. Sương, gió, nóng lạnh, ngoại vật không ảnh hưởng gì tới ông

Gã thanh niên đốt lửa , sửa soạn bữa ăn tối, đúng ra là để pha trà, vì bữa cơm rất đơn giản : cả hai đều ăn chay trường, đã gói sẵn trong túi vải.

Một con nai ngơ ngác từ trong bụi cây bước ra, dương đôi mắt to , đen láy, nhìn ngọn lửa, nhìn ông già, nhìn gã thanh niên , dò dẫm, rồi đi lại ,nằm dưới chân lão trượng.

Ông già vẫn nói con vật, ngay cả những con dữ tợn nhất, nếu nó cảm thấy mình vô hại, cảm thấy cái từ tâm của kẻ đối diện, nó trở thành thân thiện. Và cái từ tâm, nếu chân thực, nó toát ra tự nhiên như một hương thơm, như một hơi thở, ngay cả thú vật cây cỏ cũng cảm nhận được. Cây cỏ không biết, nhưng gã thanh niên đã thấy, nhiều lần,những con cọp, báo, gấu nằm cạnh ông già , ngoan ngoãn như những con mèo con.

Sau bữa cơm thanh đạm, gã thanh niên đưng dậy, vươn vai, đi vài đường quyền. Ông già nhìn, hài lòng, thấy đường võ của học trò đã điêu luyện, đã uyển chuyển, không còn cái cứng rắn, cái cố gắng phô diễn sức mạnh của tuổi trẻ. Gã thanh niên đã biết quên cái bản năng háo thắng, cái bản năng chinh phục, muốn đè bẹp đối phương. Y đã quên thân thể mình. Quên cái tôi. Ông vẫn nói đường võ phải đi nhẹ nhàng , như không muốn xô đẩy không gian chung quanh. Phải biết kính trọng cái quân bình ở trong ta cũng như trong vạn vật.

Trăng lên đỉnh đầu. Ông già trầm ngâm :

-Hồi trẻ, thầy mất hàng chục năm học vẽ, mơ thành hoạ sĩ ; nhưng thấy mình bất lực, không diễn tả nổi cái đẹp của thiên nhiên, cái nhiệm màu của đời sống, thầy bỏ vẽ. Mỗi lần đứng trước cảnh đẹp như thế này, vẫn thấy đôi chút ngậm ngùi.

Gã thanh niên cảm động trước lời tâm sự của ông già; bình thường là một người lạc quan, yêu đời, biết thưởng thức từng giây phút của đời sống. Tưới một bông hoa, tỉa một cành lan, ngắm mấy con cá vàng tung tăng trong bể cá, đọc một trang sách, đón nắng hanh vàng đầu hè hay se se người trước cơn gió lành lạnh cuối thu, mỗi hành động nhỏ bé, tầm thường , đối với ông là một nguồn hạnh phúc.

Ông vẫn nói với học trò đừng chạy đuổi, tìm kiếm hạnh phúc ; nó ở trong ta, nó ở trước mặt, trong mỗi cử chỉ, trong từng hơi thở, trong giây phút đang sống. Càng chạy càng mệt , càng đuổi theo càng mất.





Gã thanh ni ên trở lại câu chuyện thơ phú :

-Trước Hàn Mặc Tử hàng trăm năm, hàng ngàn năm, đã có những người nông dân Việt làm những câu ca dao tuyệt đẹp : Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?

Ông già mỉm cười :

- Có người nói câu ấy, nguyên văn ‘’ Hỡi cô bán nước bên đàng, sao cô lại múc trăng vàng đổ đi ? ‘’ là thơ Bàng Bá Lân, nhưng của ai, nó cũng nói lên cái tâm hồn Việt. Có những thi sĩ như vậy, làm thơ như ca dao. Người nông dân bất cứ nươc nào, làm ruộng chỉ mong cho đươc viêc, cho chóng xong. Cái anh nông dân Việt nam, cực khổ trăm chiều, không được ngày hai bát cơm, anh ta vẫn không quên mình là thi sĩ. Cái thắc mắc của anh ta chắc chắn không có một anh nông dân nào khác trên thế giới bận tâm : sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

-Con nghiên cứu đã nhiều, không thấy người nông dân nước nào có cái tâm hồn ấy. Ngoài ca dao, người dân Việt còn một hình thức diễn tả rất tài tình là tục ngữ

-Nươc nào chẳng có tục ngữ. Đó là cái túi khôn của người dân, những quan sát , những nhận xét về đời sống ghi lại từ đời này qua đời kia.

-Tuc ngữ Việt có hai điểm đặc biệt không đâu có : nó đầy hình ảnh và bao giờ cũng đầy khôi hài tính. Bao giờ cũng là những nhận xét về xã hội hết sức tinh tế, diễn tả bằng những hình ảnh ngộ nghĩnh : như đỉa phải vôi, theo voi ăn bã mía, nằm chờ sung rụng, ăn cơm nhà vác ngà voi, cá nằm trên thớt , gái ngồi phải cọc, lệnh ông không bằng cồng bà, nắm thằng có tóc ai nắm thằng trọc đầu…Những tác phẩm lớn thường có hai đặc điểm : đầy hình ảnh và khôi hài tính . Ngoài tư tưởng, cố nhiên. Không có văn chương Anh nếu không có cái khôi hài đen. Trong văn chương Pháp, ngay cả ở Proust, nhà văn khó nhai vì rất tỉ mỉ dài dòng, vẫn có cái khôi hài kín đáo khiến Proust là Proust .Những bài hát của Jacques Brel, bên cạnh cái xúc động, bao giờ cũng có cái gì tếu tếu. Thơ không có hình ảnh là vè, văn không có hình ảnh là những bản báo cáo hành chánh , những biên bản của thừa phát lại



Ông già gật gù :

-Người Pháp nói : lời nói bay đi, hình ảnh lưu lại. Les paroles passent, les images restent.

-Vâng, đúng vậy. Những người làm nghề quảng cáo thương mại, làm marketing đều biết : một cái spot thành công phải có hai điều kiện : hình ảnh đập vào mắt , bám vào óc và một nét khôi hài khiến người ta mỉm cười. Và tất cả, trong một spot dài 30 giây. Những người nông dân Việt nam đã hiểu điều đó trước mọi ngươi . Không có gì gơi hình và tếu hơn cái cảnh một anh đi vác ngà cho con voi để nói đến một người làm chuyện vô bổ , lo chuyện cho thiên ha , hay cái cảnh một anh nằm dưới gốc sung chờ sung rụng để nói về một người lười biếng.Tất cả tục ngữ Việt nam đều như thế .Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, người ta cũng kiếm được một câu nói lên cái cảnh ngộ của mình , những nhận xét, phê phan về người , về vật : cá mè một lứa, cá lớn nuốt cá bé, nó lú chú nó khôn, trứng đòi khôn hơn vit, theo đóm ăn tàn , ăn cỗ đi trước lội nước đi sau, đánh võ miệng, ếch ngồi đáy giếng, cha ăn mặn con khát nước, con nhà lính tính nhà quan , vẽ đường cho hươu chạy. Chỉ trong vài chữ, cả một nhân sinh quan trong một cuốn phim hoạt họa linh động,têu tếu.

- Ít lời nhiều ý là một đặc tính của Á Đông.Thơ haiku của Nhật…

Gã thanh niên cãi , ngạc nhiên thấy mình cãi lại ông thầy :

-Thơ haiku xúc tich, it lời nhiều ý, nhưng nghè không có chất khôi hài, không có nét châm biếm. Người Nhật nghiêm trang, ít cười cợt. Cái khôi hài ,cái đầu óc đầy hình ảnh của người bình dân Việt nam thật hóm hỉnh, thât bất ngờ , thật lý thú .Và thật hữu hiệu. Không có gì hữu hiệu hơn khả năng khôi hài. Những người có tiếng là đào hoa đều đồng ý : một người đàn bà mỉm cười là một người đàn bà đã bị chinh phục một nửa. Tục ngữ Tây phương thỉnh thoảng cũng có câu gợi hình, nhưng rất hiếm, như khi họ nói ‘’ đổ nước tắm, đừng đổ cả đứa nhỏ trong chậu ‘’. Hay người Phi Châu nói ‘’ một người già chết đi là một thư viện vừa cháy, ‘’, ‘’con cừu có bốn chân nhưng vẫn không thể chạy trên hai ngả đường ‘’. Gợi hình, nhưng vẫn thiếu cái têu tếu.

Ông già lợi dụng cơ hội đề cập một đề tài vẫn lẩn quẩn trong đầu từ nhiều năm nay:

-Nói tới đàn bà, thầy vẫn tự hỏi : bao giờ con nghĩ đến chuyện gia thất . Phải nhớ là thời gian qua nhanh

Gã thanh niên hơi lúng túng :

-Con chưa kiếm ra người hợp ý. Có lẽ con không có cái khiếu làm cho phái đẹp mỉm cười.

Chợt nhận ra vẻ ưu tư của ông già, y trấn an :

-Thầy đừng lo, chuyện phải đến thế nào cũng đến.Thầy vừa khuyên hãy đi từ từ.

Ông già không ngờ cái thuyết đi từ từ quay về ngực mình như một cái boomerang , bèn trở lại đề tài bỏ dở, thoải mái hơn là chuyện đàn bà mà chính ông cũng lơ mơ :

-Tai sao một dân tộc như vậy lại biến mất trên bản đồ thế giới ?

-Theo con nghĩ , vận mệnh của một dân tộc, cũng như vân mệnh của một cá nhân, không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên. Cái may rủi đối với một cá nhân, cái tình cờ của lich sử đối với một dân tộc là một dữ kiện quan trọng, nhưng không bao giờ là một dữ kiện quyết định. Cái hưng vong của một quốc gia là do dân tộc ấy tạo ra. Không có chuyện tình cờ. Nói theo đức Phật, có cái nhân và cái quả.

Ông già không phải là một học giả, lại ít tìm hiểu về đề tài đang bàn, nhưng ông vẫn nghe nói người Việt nam có nhiều đức tính : hiếu học, cần mẫn,chịu khó, tháo vát, và, như gã hoc trò ông vừa nói, dân tộc ấy nhìn đời với nụ cười thường trực trên môi, nụ cười khiến họ chịu đựng nổi trăm ngàn khó khăn, thử thách, như một bùa hộ mệnh. Nụ cười ấy chứng tỏ một nhân sinh quan rất quân bình, ít dân tộc nào đạt đươc.

Ông cũng nghe nói đến cái hy sinh vô bờ bến của người mẹ, người vợ Việt nam, cái chịu đựng gian khổ không giới hạn của người dân Việt..Tại sao dân tộc ấy không có một đời sống mà họ đáng được hưởng ? Tại sao dân tộc ấy đi đến chỗ giải thể ?

Sương bắt đầu xuống lạnh hai bờ vai. Gã thanh niên chất thêm củi , nướng một trái bắp non ; mùi bắp thơm thoang thoảng trong cái thanh tịnh của đêm trăng. Con nai đã ngủ vùi , đầu gối trên đùi ông già.

Ông già nói, độ lượng :

-Dân tộc nào cũng có cái tốt, cái xấu. Cái tốt cái xấu trộn lẫn nhau, tạo ra cá tính của một cá nhân, một cộng đồng . Phải là thánh nhân mới không có thói xấu.Và không có gì buồn tẻ hơn là những ông thánh

-Có những tính xấu vô hại , có tính xấu đưa đến nạn diệt vong. Cái tính xấu ghê rợn của người Việt là cái thói chia rẽ, đố kị nhau. Mỗi người Viêt như tìm thấy

cái vui trong cái thất bại của người đồng hương , cảm thấy cái thú trong viêc phá phách công cuộc chung. Không có hội đoàn nào tồn tại quá ba bẩy hai mươi mố ngày. Không có tổ chức nào không chia hai, chia bốn. Một hội chơi lan, đá dế cũng đánh nhau bể đầu. Trong y học, người ta nói đến trường hợp những người có khuynh hướng tự huỷ, autodestruction, chỉ tìm thấy lẽ sống trong việc tự huỷ hoại mình. Không lẽ có một dân tộc có khuynh hướng tự huỷ ? Một nhu cầu tự sát tập thể ? Như một đàn cá voi rủ nhau tự sát trên bãi biển ?. Cái quốc tính lạ kỳ ấy ăn sâu vào mỗi người Việt , ngay cả ở tầng lớp trí thức, nhất là ở tầng lớp trí thức. Cũng lạ, với người Việt, học vấn không có ảnh hưởng gì đến tư cách của họ, như nước đổ đầu vịt ( gã thanh niên mỉm cười : ‘’nước đổ đầu vịt ‘’ là một câu tục ngữ Việt ) .Một quốc gia làm sao tồn tại được với một giới trí thức bệnh hoạn như vậy.

- Không phải chỉ có người Việt có cái thói phá nhau. Chẳng có người Pháp nào đồng ý với người Pháp nào về một vấn đề gì .Ngay cả người Do thái , chính họ tự nhận : cứ có hai người Do thái ngồi với nhau lá có ba ý kiến …

-Bất đồng ý kiến không phải là điều xấu.Tranh luận đưa tới tiến bộ. Người Việt ngồi với nhau không phải để tranh luận, nhưng để phá nhau . Không một hội đoàn Việt nam nào tồn tại vài tháng .Không có một nhóm người Việt nào làm ăn với nhau được vài năm . Ngay cả những người có cùng một lý tưởng , thiện chí cùng mình , những người cơm nhà ngà voi , ngồi với nhau ba bẩy 21 ngày là cái bản năng tự huỷ ấy đùng đùng kéo đến . Abdel Nasser nói : tôi rất buồn khi thấy một người Ả rạp nói xấu một người Ả Rạp khác. Nếu ông ta là người Việt nam, Nasser sẽ phiền muộn dài dài. Đập phá nhau là một môn thể thao quốc gia của người Việt, toàn dân tích cực tham dự và hăng say tập luyện ; như basket ball với người Mỹ , football với ngưới Ba tây, sumo với người Nhật, taekwondo với người Cao ly.

Ông già chống chế :

-Nhiều sách báo nói đến tính bao dung của người Việt nam, ngay cả với kẻ thù.

Gã thanh niên gậm trái bắp nướng, ăn ngon lành .Y không mời ông già, biết ông già chỉ ăn một ngày hai lần : giữa trưa và tám giờ tối . Và cứ ba ngày là một ngày không ăn một hạt cơm , để cho thân thể nghỉ ngơi .

-Thầy nói đúng. Đó là một dân tộc rất đại lượng, rất bao dung đối với người ngoại chủng, ngay cả đối với kẻ thù. Nươc Việt một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm nô lệ giằc Tây , nhưng khi một ông tướng Tầu chết, họ quên thù oán, lập đền thờ (nghĩa tử là nghĩa tận ). Khi chiến tranh Việt Pháp chấm dứt , họ hết lòng thân thiện với người Pháp , tiếp đón kẻ thù hôm trước như anh em. Không thấy ai đi lùng giết những lính lê dương muốn ở lại . Không thấy có người Việt nào hươi đao chém cổ một người lính Mỹ trước máy truyền hình . Không thấy có người Việt nào ngồi hạch tội người Nhật về những tội ác chiến tranh như bên Tàu. Ông tổng thống nước Mỹ, đi tới nước nào cũng bị la ó , phản đối rầm rộ, không dám thò đầu ra ngoài đường , đến Việt nam dân chúng hồ hởi đổ ra đường chào đón như đi trảy hội. Cả dân miền Bắc , những người đã lãnh hàng triệu trái bom Mỹ trên đầu, lẫn dân miền Nam , những người đã bị Hoa kỳ bỏ rơi không thương tiếc.

Ông già mỉm cười , lạc quan :

-Đó là dấu hiệu một triết lý sống rất cao. Vứt bỏ oán thù, Chúa hay Phật cũng không dạy gì khác

-Phiền một nỗi là là những người đại lương như vậy với người ngoại quốc lại đối xử với nhau một cách cực kỳ tàn tệ, cưc kỳ dã man. Cạn tầu ráo máng. ( Lại một câu tục ngữ Việt, gã thanh niên lẩm bẩm ). Kẻ thắng hành hạ kẻ bại như những con vật .Tôi nhốt anh để anh khỏi lộn xộn, nhưng tôi hành hạ, nhục mạ anh, không phải vì anh là kẻ cựu thù, mà vì anh có cái tội là đồng bào, anh em ruột thịt.



Ngọn lửa lách tách nổ, thơm mùi gỗ thông cháy. Gã thanh niên pha một tách trà, đưa mời ông già. Ông già nhấp một ngụm , hơi nhau mày, nói :

-Nhớ bọc gói trà cho kỹ. Cái giống trà ngon nó khó tính lắm. Hơi một giọt mưa , hơi một ngọn gió là nó giở chứng ngay

Gã thanh niên không quên câu truyện đang bàn, như đã lâu lắm y mới có dịp đề cập một đề tài vẫn luẩn quẩn trong đầu y :

-Con suy nghĩ hoài, không tìm đươc nguyên nhân cái mâu thuẫn lạ kỳ ấy .Tại sao một dân tôc đại lượng như vậy lại thù ghét nhau đến như thế ? Tại sao những con cá voi rủ sau tự sát trên bãi biển ?

Về những con cá voi, ông già đành ngọng, nhưng về cái dân tộc kỳ quặc nọ, ông liều một cách giải thích :

-Có lẽ đó là hậu quả của những cuộc chiến tranh triền miên . Chiến tranh huỷ hoại tất cả, huỷ hoại cả tình người . Lại thêm chính sách chia để trị của kẻ thống trị. Phải nghi kỵ để khỏi mất mạng. Biết bao nhiêu dân tộc, dưới những thử thách một trăm lần ít cay nghiêt hơn, đã biến mất trên bản đồ thế giới. Người Tầu, trong một ngàn năm đô hộ, đã tìm mọi cách chia để trị. Người Pháp khuyến khích dân Việt hút thuốc phiện, rượu chè ; chia nươc Việt ra thành ba , bày ra một trăm thứ ngạch trật, phẩm hàm trong một xã hội vốn đã cực kỳ nhiêu khê, biến mỗi người Việt thành một ông quan, sẵn sàng căm hờn nhau, sẵn sàng giết nhau vì một cái danh hão, một miếng thịt chia không đều. Bỏ được một tệ trạng đâu phải dễ . Hãy nhìn những nước hồi giáo với những hủ tục truyên lại từ 14 thế kỷ

Gã thanh niên ngần ngừ : y ít có thói quen cãi lý với ông thầy mà y kính trọng.



-Nhưng , y nói, người Việt nam là những người có khả năng thích ứng rất nhanh , những tục lệ cũ , nhuộm răng đen , tục đa thê vv.. chỉ vài mươi năm đã biến mất. Nhóm Tư Lực Văn Đoàn đả kích các tệ trạng xã hội An nam, cũng chỉ ít năm sau vấn đề họ nêu ra không còn là thời sự nữa.Thầy có nhớ cái bài thơ của Nguyễn Bính : Hôm qua em đi tỉnh về. Đợi em ở mãi con đê đầu làng ..

Cái gì chứ thơ thì không ai địch nổi ông già . Ông có trí nhớ của một thiếu niên 18 tuổi. Ông đọc vanh vách :

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo dài khuy bấm em làm khổ tôi

Nào đâu cái yếm lụa sồi

Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân

Nào đâu cái áo tứ thân

Cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen ?

Gã thanh niên ngắt lời, trong khi ông già còn cao hứng :

-Con cháu ông Nguyễn Bính, chắc đã rất bỡ ngỡ trước cái thời trang lạ kỳ của những người chỉ cách họ môt thế hệ. Và nếu con cháu nhà thơ có bồ khăn nhung quần lĩnh rộn ràng, chắc họ cũng khổ tâm lắm, nhưng không phải khổ tâm vì cô bạn quá tân thời mà vì quá quê mùa, cổ hủ. Những người Việt di tản ra nước ngoài chỉ vài năm đã hội nhập với đời sống mới. Họ biết cải tiến rất nhanh, nhưng nhất quyết giữ lại cái quốc tính kia. Cái thói thù ghét nhau, cái thói vọng ngoại đã có từ rất lâu. Đoc sử Việt nam , không biết bao nhiêu những cuôc huynh đệ tương tàn , mỗi lần chiến trận ngã ngũ, thế nào ở trang sau cũng có cái màn cả bên thua lẫn bên thắng chạy ra nước ngoài cầu cống . Cái anh phó thường dân Việt nam, không ai hỏi ý kiến anh ta .

Ông già :

-Dù sao dân tộc ấy đã đương đầu với ngoại xâm hàng ngàn năm, tại sao bị giải thể đầu thế kỷ 21 ?

-Nươc Tầu ngày xưa là một cường quốc thưc dân , nhưng trong nước cũng chia năm xẻ bẩy, thập loạn sứ quân , khó giữ vĩnh viễn một thuộc địa . Sang thế kỷ 21 , Trung Hoa trở thành một trong hai nước mạnh nhất thế giới, cả về kinh tế lẫn chính trị. Một đại cường thống nhất , vươn lên như vũ bão. Hàng hoá Tàu tràn ngập thị trường, họ làm chủ về mặt kinh tế .Về văn hoá ,sách vở Tàu tràn ngâp, trên truyền hình quốc gia chỉ có phim ảnh Tầu. Đàn bà , con gái Việt bị gả bán cho người Tàu để tìm đường sống, để lấy tiền đong gạo, để nuôi gia đình . Nhân công Việt nam , nổi tiếng là chịu khó và không đòi hỏi gì , đi tha phương cầu thực, làm nô lệ ở những nước phát triển hơn .Trungquốc cần dầu lửa, cần thị trường , cần nhiên liệu , ngang nhiên chiếm một vài hòn đảo. Không ai phản ứng gì , hay phản ứng đại khái, họ lấn thêm vài cây số biên giới. Dần dần, họ chiếm trọn Việt nam nhẹ nhàng như trở bàn tay.

-Thế giới không phản ứng gì ?

-Khi Trung Quốc còn là một nước nghèo đói, không ai ho he gì khi họ chiếm

Tây tạng; ai dám lên tiếng khi họ đã trở thành một đại cường ?

-Còn người Việt ?

-Họ còn mải chơi môn thể thao quốc gia. Vả lại, đó là một nước đã vong thân trước khi mất lãnh thổ. Khi sách báo, tuyền thanh, truyền hình tràn đầy những sách báo, phim ảnh Tầu, Hàn, dân tộc đó đã đánh mất mình, chỉ còn là một cái xác không hồn. Mất đảo, mất rừng, có hy vọng chiếm lại, nhưng vong thân...

- Văn hóa phải vươn ra, phải tiếp nhận, nếu không sẽ cằn cỗi.

-Thưa đúng vậy. Người ta nói văn hoá như một cái cây, phải bám chặt rễ để vươn ra thở hít thở khí trời. Nhưng khi cái rễ lung lay, hay tệ hơn, khi không còn rễ, càng vươn ra càng mau đổ. Xâm lăng bằng văn hoá, xã hội, cái mà người ta gọi là “ soft power ”, nó ghê rợn hơn cả xâm lăng bằng vũ lực.

Ông già vươn vai , ngả đầu trên phiến đá ,nói với gã học trò, ôn tồn như một lời an ủi :

-Khuya rồi. Ráng ngủ một giấc. Mai phải đi sớm.Thiên hạ chờ mình đúng ngọ.

Ông già nói xong, nhắm mắt ngủ, dễ dàng, ngon lành như một hài nhi.Gã thanh niên biết là sáng hôm sau ông sẽ thức dậy đúng sáu giờ.Muốn dậy giờ nào,ông giàkhông cần báo thức.Ong chí lẩm nhẩm vài lần trong đầu là sáng hôm sau nhỏm dậy đúng giờ,như một cái máy.







Gã thanh niên nằm thao thức.Trăng sáng ,chan hoà, phí phạm, lai láng ngập đất trời . Y không khỏi nghĩ đến cái anh nông dân thi sĩ . Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ? Đẹp quá . Một tâm hồn đẹp như vậy không thể tàn rụi. Cái anh nông dân ấy, từ bốn ngàn năm nay anh ta vẫn sống chết bám lấy đất nước . Bao nhiêu người đã phản bội, anh ta vẫn kiên trì bám giữ ruộng đồng. Y muốn tin rằng cái anh nông dân ấy không biến mất, anh ta vẫn lẩn quẩn đâu đó dưới kia. Y chợp mắt, mơ màng, tưởng như nghe thấy, lẫn với tiếng dế kêu , tiếng gió xào xạc trên ngọn cây, tiếng bước chân ai từ dưới thung lũng vọng lên, rậm rịch lên đường.



Từ Thức

Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

Tìm hiểu một quan niệm nghệ thuật về ngôn từ trong thơ Việt đương đại








Có lẽ cũng không khó khăn lắm để nhận ra nhiều cây bút thơ hiện nay đã không còn thoả mãn với lối viết, với hệ thi pháp đã định hình và dường như đang biến thành lối mòn. Khao khát bứt phá, đổi mới đã khiến nhiều nhà thơ hoài nghi, muốn xem xét lại những định nghĩa tưởng chừng đã xong xuôi, ổn định về thơ. Đâu là những yếu tính của thơ? Câu hỏi mang tính bản thể đó không dẫn đến những câu trả lời thống nhất và thực tế đó cho thấy những tìm tòi thể nghiệm cách tân thơ hiện nay đang đi theo nhiều ngả đường khác nhau. Bài viết này tập trung khảo sát quan niệm nghệ thuật của nhóm nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Hoàng Hưng – nhóm tác giả này đã xác lập một dòng mạch gây nhiều tranh luận trong thơ Việt đương đại. Theo cách gọi của Hoàng Hưng, đó là những nhà thơ theo “dòng Chữ”.

Nhóm tác giả này đã hình thành quan niệm nghệ thuật của mình từ khá sớm – bắt đầu từ những năm 60–70. Song phải đợi đến thời kỳ đổi mới, những quan niệm nghệ thuật đó mới có cơ hội được phát biểu rộng rãi, gây những phản ứng tiếp nhận nhiều chiều và tạo được từ trường ảnh hưởng. Bởi lẽ đó, cần xem đây là một hiện tượng của thơ Việt đương đại. Luận điểm có tính chất nền tảng trong hệ thống quan niệm nghệ thuật của nhóm tác giả này là đưa thơ trở về với bản thể thuần khiết của nó như Trần Dần đã viết: “Thơ vì thơ tuyệt đối? hễ vì bất cứ cái gì khác, dù cao quý mấy, thơ sẽ chẳng còn là thơ?” Xuất phát từ tinh thần vị nghệ thuật như vậy, theo những tác giả trong nhóm, đặc trưng cốt tủy của thơ không phải nằm ở những tính năng xã hội của nó mà ở trong chất liệu ngôn từ. Vì vậy, họ định nghĩa “làm thơ tức là làm chữ”, hay cụ thể hơn, “làm thơ tức là làm tiếng Việt” (Trần Dần), nhà thơ chính là “kẻ phu chữ” (Lê Đạt). “Thơ cổ lai đặt ở tứ lạ, lời hay, hình ảnh đẹp, âm điệu ru hồn. Tôi giản dị đồng nhất thơ vào chữ”. (Trần Dần).

Vậy, trong ý thức nghệ thuật của các tác giả trên, ngôn ngữ thơ – Chữ đã được quan niệm như thế nào? Lê Đạt, trong tiểu luận “Vân chữ” đăng trên phụ san Thơ báo Văn Nghệ [1] , đã trình bày những kiến giải và xác tín nghệ thuật mà ông và những người bạn cùng chí hướng đã tâm niệm từ lâu. Chữ, theo ông giới thuyết, bao gồm hai phần: âm thanh (son) và ý nghĩa (sens); người làm thơ không thể loại bỏ hoàn toàn một trong hai bộ phận cấu thành đó của chữ. Chữ phải đảm nhận hai nhiệm vụ dường như “dị ứng” với nhau: biểu thị (signifier) và hình dung (représenter). Để thực hiện chức năng “biểu thị”, chữ hoạt động với tư cách của một ký hiệu, khi đó, chữ phải trở lên đơn giản, rõ ràng, minh bạch, ý nghĩa của chữ phải là cái đã quen, đã ít nhiều cố định. Trong khi đó, ở địa hạt hình dung, chữ không bị vắt kiệt thành ký hiệu mà tự bản thân nó là một sự vật có diện mạo, âm lượng, sức gợi cảm, ký ức lịch sử của mình và luôn ở trong trạng thái vận động. Nói như Lê Đạt, “mỗi chữ có một chân dung” [2] .

Trong thơ, ngôn từ không đơn giản là công cụ để diễn nghĩa, tải ý tưởng. Sức hấp dẫn muôn thưở của thi ca là ở khả năng khêu gợi, đem đến cho chúng ta cảm giác về sự vật trong toàn thể tính sống động của nó thay vì chỉ biết về sự vật đó như là một ý niệm. Nghĩa là, địa hạt hoạt động chính của ngôn từ thi ca phải là địa hạt hình dung. Ngôn từ thi ca, do đó, phải cưỡng lại quá trình bị biến thành ký hiệu – một qúa trình diễn ra không ngừng đối với ngôn từ trong đời sống giao tiếp hàng ngày. Theo đó, hình thức cảm tính của chữ – bình diện vốn bị xem là thứ yếu, thường xuyên bị tước bỏ vì không mang tính thực dụng phục vụ cho hoạt động giao tiếp thông thường – cần phải được phục nguyên, trả về vị trí tương xứng của nó. Từ nhận thức như vậy, các nhà thơ trong nhóm đã chủ trương xem những yếu tố hình thức cảm tính của ngôn từ như âm vang, đường nét… là vật liệu của thơ. Quan điểm này sẽ dẫn đến những phá cách trong việc cấu trúc bài thơ, câu thơ mà phần sau của bài viết sẽ bàn đến.

Có vẻ như khi đề cao những yếu tố hình thức cảm tính của chữ, các nhà thơ lại tỏ ra coi nhẹ bình diện nghĩa. Khi nhấn mạnh hành động viết thơ như một hành động cưỡng lại quá trình ngôn từ bị ký hiệu hoá, trong hoạt động giao tiếp, phải chăng họ đã đi đến chỗ xem thơ như một hành vi phi tác giao tiếp? Thực ra không phải vậy. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của nhóm tác giả này, chúng tôi nhận thấy chưa bao giờ họ chủ trương thơ không cần nghĩa, thơ là một hành vi phi giao tiếp. Có điều, “nghĩa” của bài thơ ở đây cần phải được nhận thức lại.

Khi Lê Đạt nói “Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải bằng nghĩa tiêu dùng”, “nghĩa tự vị” của nó mà là ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan với câu thơ, bài thơ” [3] và khi ông cả quyết: “Đọc thơ tôi, đừng cố tìm cách hiểu nghĩa, hãy cùng hiểu nghĩa thì hơn” [4] thì “nghĩa” trong quan niệm nghệ thuật của ông không phải là cái đã có sẵn, cái ý nghĩa đã được cố định hoá của ký hiệu. Nó cũng không phải là cái tư tưởng có trước bài thơ, đã hoàn tất trong ý thức tác giả và con chữ chỉ còn nhiệm vụ minh hoạ, tường giải nó mà thôi. Cái nghĩa ấy được tạo nên bởi sự năng sản của chữ, sự cộng hưởng của những thành tố của chữ và giữa các con chữ cũng như mối tương tác giữa nhà thơ – bài thơ – người đọc. Dương Tường diễn giải quan niệm về “nghĩa” của bài thơ, câu thơ: “Có lẽ điều phân biệt giữa các bạn thơ khác và tôi là họ làm việc ngôn ngữ trên chiếu ‘biểu nghĩa’, còn tôi làm việc ngôn ngữ trên chiều ‘năng nghĩa’”. Chiều ‘năng nghĩa’ có thể được hiểu như việc nó chưa định hình và vẫn đang trong quá trình tự hình thành nghĩa…” [5] . Nghĩa của câu thơ, bài thơ như vậy là nghĩa tạo sinh, không hoàn tất, ở trạng thái mở, đang vận động, không mang tính chủ định. Trần Dần tuyên ngôn: “Tôi viết – tức là tôi để con chữ tự mình làm nghĩa”. Chữ trong bài thơ không nhận nghĩa một cách thụ động, không cam phận làm phương tiện biểu đạt tư tưởng mà còn có thể kiến tạo tư tưởng. Cải cách “để con chữ tự mình làm Nghĩa” theo quan điểm của Trần Dần rất đáng suy ngẫm: “Chữ như ám sát sự vật, từ đó đẻ ra Nghĩa mới”. Ý niệm đó cho phép ta liên hệ đến nhận định của Milan Kundera về nghệ thuật hiện đại. Theo Milan Kundera, nghệ thuật hiện đại là cuộc nổi loạn chống lại nguyên tắc bắt chước hiện thực nhân danh những quy luật tự trị của nghệ thuật. Hành vi “ám sát sự vật” ở đây có thể hiểu là sự nổi loạn của chữ để khẳng định giá trị tự thân của mình, không nhất thiết phải quy chiếu về hiện thực, sự vật. Tự nó đủ tư cách làm một hiện thực, một sự vật và “nghĩa” thoát thai từ sự tự do đó. Quan niệm này chi phối sâu sắc thi pháp thơ Trần Dần. Nhiều thi phẩm của ông không nhằm kể hay tả điều gì. Nó buộc người ta phải chăm chú vào chữ, không bận tâm đến những gì ngoài chữ, từ đó chữ làm nảy sinh những khoái cảm, liên tưởng mà cho nó mới đem đến được. Mùa sạch là một ví dụ điển hình.

Những luận điểm nói trên cho thấy dường như nhóm tác giả này mới chỉ chú ý đến “chữ” với tư cách là phương tiện biểu đạt và điều này dẫn đến hệ quả là những nỗ lực cách tân của họ chủ yếu mới được thực hiện ở phương diện từ chương. Nhưng vấn đề ngôn từ, theo chúng tôi nghĩ, đã được các nhà thơ trong nhóm đào sâu hơn thế. Họ đã ý thức khá sâu sắc mối quan hệ giữa đặc trưng của ngôn từ thơ ca với ý thức, với cái tôi nghệ sĩ.

Lê Đạt rất tâm đắc với câu nói của nhà thơ Edmond Jabes: “Chữ bầu lên nhà thơ”. Câu nói có vẻ như xem nhẹ vai trò chủ thể trong sáng tạo thơ ca nhưng không phải vậy. Để khẳng định tư cách nhà thơ, người cầm bút phải tạo được miền chữ của riêng mình, tạo được dấu “vân chữ” của anh ta. Nhưng để có được một miền chữ mang tên mình như vậy, nhà thơ phải thắng được những thói quen của ngôn ngữ. Nếu không, quán tính của ngôn ngữ sẽ dẫn dắt nhà thơ đi theo những lối mòn trong cách biểu đạt và cả trong tư duy. Bởi như A. Benveniste đã khái quát: “Chúng ta tư duy trong một vũ trụ được nhào nặn bởi ngôn ngữ”. Do vậy, thắng được những thói quen trong ngôn ngữ chính là thắng được những thói quen trong tư duy. Từ đó mới thấy những nỗ lực cải tạo, đột phá những cấu trúc, mô hình đã trở nên kiên cố của ngôn ngữ, vượt thoát được những áp lực do thói quen mà ngôn ngữ tạo ra chính là cách con người tự giải phóng cho tư duy. Nói như Lê Đạt: “Cất lời cho chúng ta sự táo bạo để sống một cách khác. Làm thơ là cố gắng cất lời cùng mọi người bước ra khỏi cái tiểu vũ trụ của ngôn ngữ quen thuộc và thường là ít nhiều lỗi thời, hy vọng cấp phát cho cuộc sống một ý nghĩa độc đáo hơn, phong phú hơn” [6] . Viết, xét đến cùng, từ chỗ là sự đổi mới ngôn từ đã trở thành sự đổi mới trong tư duy, là hành động “tháo cũi chân mây” (chữ của Trần Dần), khai phóng tầm nhìn của con người. Nó làm mới chính bản thân con người, như Michel Foucault đã viết: ‘Khi viết, tôi viết trước hết là để thay đổi chính tôi và làm cho tôi không nghĩ những điều giống như trước đó nữa” [7] . Đối với Trần Dần, hành động “viết thơ” thường được định nghĩa như một hành động tự phủ định những lớp ngôn ngữ đã cũ mòn, những quy phạm ngôn từ đóng khuôn tư duy con người. (Mà trong những yếu tố cấu thành quy phạm ngôn từ có áp lực của văn hoá, truyền thống, ý thức hệ có xu hướng kéo suy nghĩ, tư tưởng con người theo những rãnh trượt của nó). Trong “Sổ bụi” của Trần Dần, ta đọc được những tâm niệm của ông về sự viết: “Viết như xoá ngay cái mình vừa đưa ra”, “Viết như thế nào mà từ xoá từ, mệnh đề xóa nhau, câu bác câu, nghĩa phản văn, lưỡng nghĩa đè lưỡng nghĩa”, “Viết? giết một cái gì? đầu tiên là quan niệm viết? rồi luôn đó, một cái khác trong – ngoài mình?”

Quan niệm nghệ thuật về ngôn từ của những nhà thơ theo “dòng chữ” này là sự phát triển đến một mức độ hệ thống, hoàn thiện hơn những tư tưởng mới chỉ manh nha ở các thi sĩ trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập, nhóm Dạ Đài và một phần nào đó ở Nguyễn Đình Thi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp [8] . Với quan niệm nghệ thuật này, các nhà thơ trong nhóm đã tự tách mình ra khỏi dòng chủ lưu của nhà thơ ca đương thời, tiếng nói của họ chỉ tồn tại như một mạch ngầm. Song giờ đây, nếu xoá bỏ định kiến, có thể thấy quan niệm nghệ thuật của nhóm đã hướng vào một phương diện mà thơ Việt còn chưa chú ý đúng mức: xem ngôn từ là đối tượng sáng tạo của thơ ca chứ không đơn giản chỉ là phương tiện chuyển tải. Tinh thần “vị ngôn từ” của các nhà thơ trong nhóm chính là sự phản ứng đối với thái độ thực dụng trong cách đối xử với ngôn từ, xem ngôn từ thi ca chỉ như con thuyền “tải đạo” (nội dung, tư tưởng). Thái độ thực dụng này là hệ quả lịch sử, khi thơ ca cũng được huy động để làm vũ khí, thậm chí chức năng làm vũ khí được đặt lên trên chức năng thẩm mỹ. Các nhà thơ trong nhóm muốn rũ bỏ cái hệ quả của lịch sử đang đè nặng lên ngôn từ của thơ ca, để ngôn từ hiện lên trong vẻ đẹp tự thân của nó.

Có thể nhận thấy sự tương hợp giữa hệ thống quan niệm về ngôn từ của những tác giả này với những khám phá của ngôn ngữ học, lý luận văn học, triết học ngôn ngữ hiện đại về đặc trưng của thơ. Khi các nhà thơ nhấn mạnh vật liệu của thơ chính là ở hình thức cảm tính của chữ, xem chữ là một sự vật chứ không phải là ký hiệu thuần tuý, ta nhận thấy có lẽ họ đã có sự gặp gỡ với quan điểm của các nhà cấu trúc luận về tính thơ: “Nhưng tính thơ thể hiện ra như thế nào? Theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ, chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ định, theo cái cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là những dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà có trọng lượng riêng của chúng” [9] . Khi Trần Dần diễn đạt một cách hình tượng: “Anh cứ thử mó vào một cái dấu phảy văn phạm. Vuốt râu hùm xám còn đỡ sợ hơn.”, nhà thơ cho thấy lao động trên địa hạt chữ đâu chỉ thuần tuý là trò chơi, đó thực chất là cuộc đấu tranh để khẳng định sự hiện diện của cái tôi nghệ sĩ trước áp lực của văn hoá, của thiết chế xã hội, chính trị kết đọng trong ngôn từ. Tư tưởng của nhà thơ ở đây có sự tương ứng với những kiến giải của khoa học nhân văn hiện đại về bản chất xã hội – thẩm mỹ ngôn từ văn học. Nói những điều trên để thấy quan niệm về ngôn từ của những nhà thơ theo dòng chữ được hình thành cơ sở tự ý thức rất cao, có hạt nhân khoa học chứ không phải chỉ là những ý nghĩ cảm tính.

Quan niệm nghệ thuật về ngôn từ nói trên đã chi phối trực tiếp thi pháp của những nhà thơ theo dòng chữ, tất nhiên, thi pháp của mỗi tác giả lại có diện mạo riêng. Khảo sát thi pháp của những tác giả này là một công việc phức tạp và vượt quá khuôn khổ của một tiểu luận. Bài viết này chỉ xin mô tả trên những nét phác thảo đặc điểm thi pháp của một số tác giả, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá bước đầu.

Chủ trương làm thơ theo “chiều năng nghĩa” của con chữ dẫn đến hệ quả là các nhà thơ đặc biệt chú ý khai thác yếu tố ngữ âm trong câu thơ, bài thơ. Âm đi trước nghĩa, chính xác hơn, sự giao thoa, cộng hưởng giữa các con âm sẽ tạo sinh ý nghĩa, cái ý nghĩa vượt thoát khỏi cái khung khổ được đóng đinh cố định của ký hiệu. Từ đó, hiệu quả thẩm mỹ trước hết mà câu thơ, bài thơ muốn đạt được là nhạc tính. Xuất phát từ nhận thức đó, các nhà thơ đã thể nghiệm nhiều phương thức để phát huy những tiềm năng biểu cảm của con âm. Trong đó, thủ pháp đáng chú ý nhất và cũng gây ra nhiều bàn cãi là cách sử dụng những“chữ rỗng”, tức những âm tiết còn chưa thụ nghĩa, các tổ hợp âm tiết nằm ngoài kho từ điển để tạo ra một từ trường cảm giác nhất định.

Trần Dần là người tiên phong thể nghiệm thủ pháp này. Trong thi phẩm Mùa sạch, ông đã tận dụng kho vần dồi dào của tiếng Việt để tạo các từ láy tân kỳ, thậm chí có thể nói là nghịch nhĩ. Những từ láy này trước hết lạ hoá cảm nhận thính giác của người thưởng thức, từ đó, khơi gợi ấn tượng về sự vận động, nhịp điệu bên trong của sự vật. Xin trích một đoạn từ thi phẩm này:

Mây xuân lốp xốp xuân
Ếch xuân ì oạp xuân
Gàu xuân xì xoạp xuân
Ngó xuân mùm mụp xuân
Thai xuân đạp xuân
Tằm xuân doàm doạp dâu xuân

Đến thi phẩm Jờ Joạcx, thể nghiệm của Trần Dần được đẩy đến mức độ táo bạo hơn. Ông mạnh dạn tạo ra những phép chính tả riêng, những cách ký âm riêng để tạo ra giọng nhại cho thi phẩm cũng như để diễn đạt một tâm trạng bị ức chế, dồn nén, mà khuôn khổ tưởng chừng đã đông kết, bị quy phạm hoá chặt chẽ của ngôn từ cũng là một lực ép. Phá chuẩn ngôn từ cũng chính là hành động giải phóng mình ra khỏi hệ thống cưỡng ép ấy. Cách tạo phép chính tả riêng đó của Trần Dần đã ảnh hưởng đến một số tác giả khác như Đặng Đình Hưng, Dương Tường… Kỹ thuật có vẻ lập dị này trong một số trường hợp quả thật đã tạo ra những hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt. Bài “Khoảnh Khăk” của Dương Tường là một ví dụ:

… Khoảnh khăk
le lói
chân mây mày mạy
chợt đỏ ệ k
những câu thơ đồ hộb
ôi chao văn minh đồ hộb

khoảnh khăk
hàng cây tok rũ con jó tôk anatomi hè hè lub lub nũm cau
l ạch ngần xuội luội tr`
sao em không
ờ khoảnh khăk
sao em kh^ sao em kh^ sao em kh^

Cách thức làm biến dạng phép chính tả của Dương Tường – cụ thể ở đây nhà thơ cải tạo sự cấu âm của từ bằng cách dùng các phụ âm tắc để đóng lại âm tiết – có tác dụng nhấn mạnh cảm giác bức bối của con người khi sống trong một thế giới bị toả chiết bởi nền văn minh đồ hộp. Mật độ dày đặc của các phụ âm tắc, đặc biệt là các ký tự bị khuyết nguyên âm trong những câu cuối cùng gợi tả tình thế bi kịch của con người – bị kịch của sự mất lời, mất sự giao cảm giữa con người với con người trong thời đại văn minh cơ giới, đồ vật lên ngôi. Âm hưởng của bài thơ gợi ta nhớ đến những tác phẩm kịch phi lý của E. Ionesco.

Song trong một số thể nghiệm khác của chính những nhà thơ này, phương thức dùng “chữ rỗng” khiến người đọc có cảm tưởng bài thơ bị biến thành một trò chơi âm thanh không hơn. Thực chất, khi lập thuyết, các nhà thơ trong nhóm không chủ trương lấy âm thanh áp đảo và đi đến chỗ triệt tiêu ý nghĩa của ngôn từ thơ ca. Nhưng hứng thú với chiều biểu âm của con chữ ở những tác giả này có khi được đẩy đến mức quá đà, sự kết hợp, tác động lẫn nhau giữa các âm tiết nhiều khi chỉ gợi ra được một chuỗi âm thanh mơ hồ.

“Hồn thi bá lỏng trên trang giấy ngoằn ngoèo ứng cúng chánh biến tri đằng giác. Cõi thượng thừa cưỡi cỗ xe thù thắng một mạt – na kiếp sát sang bên bờ bát nhã linh tinh. Ai sơ thiền lên tam lên tứ đã xuất mộng đẩu tinh lại phóng về vọng tưởng ảo thân ảo giác ảo giang hồ còn dai dẳng, phi phi tưởng tưởng xứ, u uyên tịch mịch, ngát ba thang” (“Phi tưởng” – Hoàng Hưng).

Người ta có thể cảm nhận được gì từ chuỗi âm thanh này? Một âm hưởng phảng phất lời tụng kinh? Một cảm giác mê man trong vô thức? nhưng đằng sau cái nỗ lực muốn thâu tóm dòng chảy vô thức không định hình đó là gì, xuất phát từ sự đè nén của yếu tố nào – người đọc khó lòng nắm bắt, thụ cảm được. Sức ám ảnh bởi độ sâu của bài thơ có lẽ là chưa có.

Lê Đạt cũng có nhiều bài thơ, câu thơ mang âm hưởng đẹp. Đáng lưu ý là hiện tượng gieo vần lưng phổ biến trong thơ ông – hình thức gieo vần theo nghiên cứu của Văn Tâm [10] có lẽ chỉ thấy trong thơ Việt – khiến câu thơ Lê Đạt mang chất dân tộc trong âm hưởng mặc dù cấu trúc lời thơ thì tân kỳ. Song, theo suy nghĩ của chúng tôi, sự phá cách của Lê Đạt tạo ra một kiểu câu thơ mới, mà kiểu câu thơ mới này được hình thành trên cơ sở của những kết hợp mới, lạ về ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ. Phương thức phổ biến mà Lê Đạt sử dụng là tỉnh lược những dấu hiệu liên kết logic hình thức giữa các đơn vị từ trong câu thơ, ly gián những từ ngữ vốn có quan hệ gần gũi với nhau, tổ chức, sắp đặt kề cận những yếu tố từ ngữ vốn ít, thậm chí không có liên hệ gì với nhau. Bằng những thủ pháp đó, nhà thơ phá vỡ tính liên tục của cú pháp câu thơ. Nhưng chính tính chất phi liên tục của cú pháp này lại mở ra một hệ quả: khoảng trống, điểm đứt quãng giữa các con chữ cho phép người đọc tham dự vào quá trình hoàn thành câu thơ bằng việc huy động tưởng tượng, kinh nghiệm của mình liên kết câu thơ lại, lấp đầy những khoảng trắng trong câu thơ. Lê Đạt đã gợi mở một ý niệm mới về câu thơ: câu thơ có thể phát ra nhiều kênh ngữ nghĩa khác nhau từ một lượng ngôn từ hữu hạn. Điều này rất gần với quan niệm “ngôn tận ý bất tận” trong thơ cổ. Ta hãy xét một ví dụ:

Em về trắng đầy cong khung nhớ
(“Bóng chữ” – Lê Đạt)

Đây là một câu thơ đẹp song ý nghĩa của nó lại mơ hồ, khó xác định. Quan hệ về ngữ pháp, ngữ nghĩa giữa các từ trong câu thơ không cụ thể, rõ ràng. Câu thơ có thể được diễn dịch theo logic nhân quả: Em về [mang theo/ cùng với … ] sắc trắng [làm] đầy, cong khung ký ức. Nếu xem cú pháp là sự vận động thì có thể thấy câu thơ trên đã mô tả quá trình tượng hình hoá của nỗi nhớ, từ một ý niệm trừu tượng bỗng trở nên có trọng lực, màu sắc, hình hài … Nhưng nếu thử ngắt nhịp câu thơ khác đi, chẳng hạn: “Em về/ trắng / đầy cong khung nhớ”, câu thơ có lẽ đã mang một sắc thái khác. Chữ “trắng” tách ra đứng một mình như vậy dường như ẩn chứa trong đó nỗi xúc động pha ngỡ ngàng của nhân vật trữ tình, nỗi xúc động từ một ẩn ức được thức dậy. Cố nhiên, câu thơ vẫn còn có những khả năng diễn dịch khác. Ta có thể nói chính thủ pháp tỉnh lược, dồn nén chữ nghĩa, không ràng buộc ngôn từ vào một quan hệ duy nhất đã tạo cho câu thơ một độ mở về nghĩa.

Nhưng đọc Lê Đạt, có thể cảm nhận thấy trong nhiều trường hợp, những cố gắng cải tạo ngôn từ thơ ca của ông là những cách lắt léo để làm ẩn đi hoặc mơ hồ hoá cái được biểu đạt, do đó, không phải không có cơ sở khi người ta cho rằng thơ Lê Đạt đem đến cho độc giả cái hứng thú của người đi giải đố. Các cách thức tỉnh lược, dồn nén chữ nghĩa của nhà thơ vẫn có lúc mang tính chất phô diễn kỹ thuật. Kỹ thuật thơ nếu thiếu sự hoà quyện nhuần nhị với cảm xúc của người viết thì tự nó chưa đủ sức vang vọng lâu dài trong ấn tượng của người đọc, nhất là khi các thao tác kỹ thuật đó lại bị tái lặp. Vì lẽ đó, từ Bóng chữ đến Ngó lời, ngôn ngữ thơ của Lê Đạt phần nào đã bị cũ đi với chính ông.

Khai thác tính thơ từ mặt hình thức cảm tính của con chữ, Trần Dần, Dương Tường chú ý đến một phương diện mà thơ Việt hầu như chưa khai thác: diện mạo, hình dáng của con chữ. Từ đó, các nhà thơ đã thể nghiệm hình thức “thơ ngoài lời”, đặt bình diện ấn tượng thị giác mà con chữ có thể đem lại là bình diện quan trọng nhất trong sự tổ chức bài thơ. Đây là thể loại thơ có sự hoà nhập ở mức độ cao tính thơ và tính hoạ. Thi phẩm Đàn của Dương Tường được chính thức xuất bản năm 2003 cho chúng ta ý niệm cụ thể về loại hình “thơ ngoài lời”.

“Thơ ngoài lời” của Trần Dần, Dương Tường có nhiều nét tương đồng với hình thức “thơ cụ thể” (concrete poetry) vốn không còn lạ lẫm trên thế giới nữa. Có quan niệm cho rằng có thể xếp loại hình thơ này vào một phạm trù rộng hơn là nghệ thuật khái niệm (conceptual art) mà trong lĩnh vực này, hành động sáng tạo còn quan trọng hơn cả kết quả sáng tạo và mục đích cao nhất của hành động sáng tạo là đặt vấn đề, buộc người ta phải nhận thức, xem xét lại những ý niệm vốn có về nghệ thuật. Bản thân tên gọi “thơ ngoài lời” đã khiêu khích những quan niệm đã định hình của người đọc về thơ. Tập Đàn của Dương Tường là thi phẩm chỉ có một chữ“Đàn” nhưng diện mạo của nó lại có nhiều biến thể khác nhau. Thông qua những nét vẽ cách điệu con chữ, tác giả muốn khơi gợi những chiều liên tưởng mà từ “Đàn”có thể mở ra, những ký ức ngôn từ tích đọng trong con chữ. Ví dụ, chữ “Đàn” được cách điệu hoá thành chiếc quạt, gợi người ta nhớ đến bài “Vịnh quạt” của Hồ Xuân Hương, xa hơn nữa, là những ý nghĩa văn hoá – tâm linh của chiếc quạt với tư cách là một biểu tượng. Như vậy, chữ “Đàn” là một liên văn bản, ý nghĩa của thi phẩm được mở ra từ tính chất liên văn bản ấy.

Từ việc mô tả trên những nét phác thảo những thể nghiệm cách tân của các nhà thơ theo dòng chữ nói trên, chúng tôi cho rằng điều quan trọng nhất mà những nhà thơ này đã làm được là họ đã buộc người ta phải lật lại, nhìn nhận lại những ý niệm tưởng chừng đã định hình vững chắc về thơ. Thơ bắt đầu từ ngôn từ, nơi từng con âm, từng nét chữ cũng có thể khơi dậy, nảy sinh ấn tượng thẩm mỹ. Đi sâu vào ngôn từ, nhà thơ cũng có thể nảy sinh, phát kiến những cách thức mới để kiến trúc câu thơ, bài thơ. Những tìm tòi, thể nghiệm của những tác giả này đã góp phần làm phong phú thêm cho diện mạo của thơ Việt đương đại.

Song vì sao những tìm tòi thể nghiệm ngày vẫn còn cách xa với công chúng đến vậy? Ngoài lý do bất cứ một hình thức nào phá vỡ những cảm quan cũ, nhất là cảm quan thẩm mỹ của con người đều không dễ được cảm thụ nhanh chóng đối với số đông, vấn đề, theo chúng tôi, còn nằm ở chỗ khác. Nhiều khi chính chủ trương “vị ngôn từ’ của những tác giả này đã khiến tác phẩm của họ gián cách với cuộc đời, với tất cả những trở trăn, nhức nhối và khát vọng của cõi nhân sinh – cái nhân tố tạo nên sức đồng cảm mãnh liệt của thơ ca. Thực tế cũng cho thấy, ở những tác phẩm quan trọng của các nhà thơ này như Jờ joạcx (Trần Dần), Bến lạ, Ô mai (Đặng Đình Hưng), Mea culpa (Dương Tường)… sự tân kỳ của hình thức thơ có thể làm người đọc thấy lạ, đặc biệt nhưng điều ám ảnh họ, vang vọng lâu dài trong họ lại là những chiêm nghiệm đau đớn, xót xa về phận người ẩn chứa trong câu chữ.

Có thể nói, ta đang được chứng kiến một sự biến động mạnh mẽ trong ngôn ngữ thơ Việt đương đại mà quan niệm nghệ thuật và thực tế sáng tác của những nhà thơ theo “dòng Chữ” nói trên là một trong số những mũi nhọn đột phá. Cơn biến động này cho thấy thơ ca đang muốn thay lớp áo đã cũ của mình, muốn tạo cho mình một diện mạo mới. “Cuộc đi tìm mặt” của thơ ca đương đại chính là nỗ lực tìm kiếm cho mình một thứ ngôn ngữ mới. Hành trình tìm kiếm ngôn ngữ mới bao giờ cũng phức tạp, cam go song vì thế, những nỗ lực đột phá của những nhà thơ có ý thức cách tân lại càng cần phải được tôn trọng, nhìn nhận thoả đáng.

Trần Ngọc Hiếu

Nguồn: Tham luận tại Hội thảo toàn quốc “Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” tại Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội ngày 26.4.2005. In lại trong Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006, trang 368-378.

________________________________________
[1]Lê Đạt: “Vân chữ”, phụ san Thơ số 1, báo Văn Nghệ số Xuân 2003
[2]Lê Đạt, tlđd.
[3]Lê Đạt: “Nhân con ngựa gỗ”, Bóng chữ, NXB Hội nhà văn 1994
[4]Lê Đạt: “Đừng tìm cách hiểu nghĩa thơ” (trả lời phỏng vấn), Báo Giáo dục & Thời đại, số 94, ngày 6/8/2002.
[5]Dương Tường: “Vật liệu của thơ là con âm” (trả lời phỏng vấn), Báo Sinh Viên Việt Nam, số Tết 2005.
[6]Lê Đạt: “Hãy tạo ra những lỗ tai mới”, Báo Văn Nghệ Trẻ số 17, 1997.
[7]Dẫn theo Nguyễn Hưng Quốc: “Đổi mới như một phiêu lưu”. Nguồn: http://www.tienve. org, 2003
[8]Xin trích một đoạn trong “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi để tham khảo: “Người làm thơ chọn chữ và tiếng không những vì nghĩa của nó, cái nghĩa thế nào là thế ấy, đóng lại trong một khung sắt. Điều kỳ diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến chung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy” (Dẫn theo “Các nhà văn nói về văn” – NXB Tác phẩm mới, 1986).
[9]Roman Jakobson: “Thơ là gì?”, Trịnh Bá Đĩnh dịch, in trong Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn học, 2002.
[10]Văn Tâm: “Thể phách thơ Việt Nam – Khát vọng tự do” in trong tạp chí Kiến thức ngày nay, số 360, ngày 10/8/2000.

Thứ Ba, 4 tháng 7, 2017

V ư ợ t q u a t h ờ i - m ặ t - n ạ ?





Truyện ngắn



1*

Đại ca vung tay ra lệnh và hắn cũng là kẻ mẫu mực làm đầu:

-Từ nay, không cần mặt nạ. Đây này…coi, tự tao lột lấy.

Chúng bộ hạ giật mình kinh ngạc. Chưa kịp hiểu ất giáp gì nhưng vừa thấy rõ bộ mặt thật của “chúa thượng”, bọn tôi thần lập tức thi hành đồng loạt. Chúng cố không tỏ vẻ gì khác lạ. Từ lâu, cái lý-luận-không-bao-giờ-phổ-biến “cũng mặt rạch như nhau” đã ngầm gắn kết chúng như keo. Ít ra, nó đang giúp cả bọn “lờ đi” cơn choáng váng. Kết quả có lợi hay không mới là điều đáng kể?

Tự sờ vào “bản mặt lộ thiên”, đại ca minh bạch giáo huấn:

-Nay vàng thau quá rõ, không có chuyện lộn sòng như xưa. Mặt nạ nào cũng chẳng lừa thêm ai được. Xem ra, mọi cách kiểu đều đã “quê cơ”…nhàm chán.

Hắn tiếp tục truyền thụ:

-Bây giờ, tất cả “tự lột” để nâng cấp bản lĩnh. Không riêng gì các chú mày, qua việc nầy tao còn muốn gián tiếp bảo cho ai nấy đều biết: Đã đến lúc chúng ta “ăn hàng” công khai… Tóm lại, từ nay các chú mày “làm hàng” vô tư, không phải cần ngụy trang xóa vết. Kiểu cũ chỉ khiến các băng nhóm kẻ thù cười đểu. Giờ, hễ “cấn khàn” là “tái”. Các chú mày nhớ đủ chưa, hả? Mọi việc còn lại, phần tao…

Đại ca ngừng nói để “thổi kèn” chai uýt ky. Hắn phất tay chỉ đống mặt nạ dưới chân, bạnh mặt nói với lũ bộ hạ đang nín khe, học việc:

-Nghe đây, bất kỳ băng nhóm nào, dù thể hiện sớm nhất quyền lực “phủ sóng” nhưng xem ra vẫn chưa dám “chơi trội” liệng bỏ cả mặt nạ như tao, thủ lĩnh ấy chưa đủ tư cách để ngồi tổng đại ca. Ấy, nâng cấp để hiện đại hóa nghiệp vụ là không thể nào chậm trễ. Chiến lược mới, đến lúc tao cóc cần thứ “đồ nghề” lỗi thời, hèn kém. Nó phiền hà, phí thì giờ và “mất mặt” với những thằng đại ca khác.

-Vâng, thưa đại ca. Thế là từ nay chúng ta hoàn toàn không sợ lộ phải không ạ?

-Thằng ngu. Vấn đề đó quá xưa, cũ rích. Đã bảo ai cũng đã biết tỏng tòng tong…còn lo lộ quái gì, hả? Quyền mưu “nhất tiễn xạ song điêu” của tao để buộc lũ nạn nhân “bó phép” không “khổ nhục kế” chờ thời. Nhưng “vế” nầy cũng chỉ là chuyện “nhí” mà thôi. Quá nhỏ. “Vế” khác kia kìa…

Đại ca tỉ mỉ cắt giấy kiếng bọc xì gà bằng kéo mini mạ vàng tây, hắn ngạo nghễ gắn chếch lên môi. Xoạch một cái, đàn em nâng bật lửa. Nhìn vào làn khói phun ra thơm lựng, đại ca cứ cười gằn không thôi. Hắn lăm lăm mũi xì gà, cứ xỉa mãi vào những đối tượng ẩn hình nào đó:

-Quan trọng hơn trăm lần, là chấm dứt cơ hội băng nhóm khác mượn cớ để “quậy bèo” chơi đểu. Bọn bảo kê, bọn châm lửa các “nạn nhân con mồi” khi lần ra “đường cháy chậm” đến tao… Hừ, có đủ công lực như tao để sẵn sàng chơi ván bài lật ngữa chưa? Chúng nó phải trả lời hoặc “chờn” và lập tức “xếp giáp”… Đấy, thực ra thì kẻ thù nguy hiểm nhất chả mơ hồ xa lạ. Này các chú em, đây mới là cuộc thượng đài “mai hoa thung” đầy thách đố. Nó không có “vé” cho những thằng đại ca “què sách vở”, những thủ lĩnh võ biền chỉ biết liều thân cố mạng, những tên trọc phú “lên giàn” bằng nấc thang tủ két, hoặc bọn “đểu nông” chưa hề làm ruộng lấy một ngày lại “ăn có” toàn đẩy lưng người chăn trâu cắt cỏ. Chúng đều lết đi từ “đầu gối tới ngồi ngai”…Tất cả “hùm bà lằng” y hệt nhau, cùng một “tử huyệt”: Đều ngu dốt gặp thời, “ngáp ruồi” được quyền oai vị lớn. Chúng quá cần quân sư “thổi đít”. Cuối cùng thật nực cười, “họ Tào” nào rồi cũng không thoát khỏi tay “Tư Mã Ý”. Mưu “đoạt vốn” âm thầm treo ngay sau lưng chúng… Ha ha, những “con nọc đình làng” được tắm rửa, ăn cực no, nằm khềnh kêu eng éc để cuối cùng, đợi đến “mùa chọc tiết”.

Dí thật mạnh cho tắt ngấm mẩu xì gà đang hút dở, đại ca nghiến răng đứng bật dậy rời khỏi nệm ghế bành:

-Vì thế, tao đếch ham “lấn lưng” các đường biên giang hồ để chia chác thị phần như cũ. Nó mỏi mệt lôm côm, cóc nhái và rặc lũ kiêu căng xuẩn ngốc…Cú một, không chần chừ, tao phải cất cánh ngay từ đây để “đại bàng nhất thống”…Hừ hừ, chỉ an thân thủ phận, kế “ỷ giác” thôi hả? Chẳng khác gì cứ cong lưng “gom vốn” giúp người ta. Tất cả rồi sẽ dâng nạp, sẽ chẳng còn cái đếch gì ngoài phần thù lao đã nhận…Đù má nó!

Hắn trợn mắt “chơi” một đạp vào ghế bành sau lưng. Ghế bật ngữa. Mặc các đàn em lật đật lo dọn ngay và thay vào cái “hoành tráng” hơn, đại ca cứ “tọa” hẳn lên bàn:

-Đấy, mấy cái “bàn chông bọc nhung” khắc rồng chạm phụng. Ngồi lên để cuối đời đi “tàu suốt” không kèn không trống. Tao hả? Tao đếch mê làm “vỏ chanh vĩ đại”.

Đợi đại ca hạ hỏa, chúng bộ hạ chưa biết làm gì. Một thằng can đảm, vẫn không quên công việc:

-Đại ca “tới” hết chỗ nói. Còn cái “lý thuyết công khai” ra sao dạy đàn em “lận lưng” luôn thể.

Búng tay cái toạch, đại ca tỏ ý hài lòng:

-Lẽ tất nhiên, chú em. Lý thuyết mà không quyền lực, đấy chỉ là bùn lầy tăm tối. Quyền lực như ánh mặt trời chiếu đến đâu, nơi ấy lập tức xoay chiều “đủ bóng”. Hiểu không? Lập tức, ngay cả một bãi phân trâu bốc thối. Có thấy chưa? Đấy…

Hắn ta nheo mắt nhìn vào các đàn em như thôi miên. Đột ngột, đại ca thò tay vào bụng thằng gần nhất rút ra khẩu súng báng ngà. Ném lên bàn như một cục đất, đại ca hỏi trổng:

-Chó lửa chú mầy nổ đạn gì? Nói đi.

Gã cận vệ khúm núm, ánh mắt đầy hãnh diện:

-Vâng, nếu đại ca muốn. Tùy lúc thưa anh, nói chung đạn thì đồng, chì, thuốc mê hay độc dược xi-a-nua có tất…

-Tốt, đó là việc của chú mày. Còn đàn anh nổ đạn khác. Loại chỉ “bắn ngay vào giấy”, kí tên và “xịt đỏ”. Đây nầy…

Hắn rút túi, ném lên bàn cây bút. Cái vật nhỏ lăn lông lốc mấy vòng, tênh hênh bên chó lửa. Lập tức, gã đàn em đến nâng hai tay, đặt lên cao rồi lập tức lui xuống. Đại ca gật gù phán bảo:

-Quyền lực cũng chính là lý thuyết, khi ấy nó sẽ tự giải thích tất cả… Cái quyền lực ở đây, tao muốn nói là để sinh ra pháp luật chứ không phải làm ngược lại…Đừng có “lo bò trắng răng”. Tao lận lưng “lý thuyết tao muốn” chứ không phải các chú mày. Đơn giản đi. Chỉ gọi dạ bảo vâng là đủ. Nhất nhất…



2*

Hôm ấy, chúng đàn em cùng hân hoan đại tiệc, chào mừng một giai đoạn mới vừa kịp lúc ra đời. Giai đoạn mà “Hắc sử biên niên” biệt chú: “Vượt qua thời-mặt-nạ”.

Nửa chừng, giữa cuộc vui trong buổi sáng đầu tiên, trước khi lui gót - để gọi là bề trên quá rành tâm lý dùng người - đại ca buông lệnh “thả giàn 3 ngày vui chơi tại chỗ”.



3*

Xế chiều ngày cuối cùng cuộc “tam nhật đại tiệc”, đại đa số đều đã “lụy xà mâu” nhưng vẫn còn dăm ba tay gượng được. Chúng “hết món thi công” chỉ lè nhè tiếng được tiếng mất bên nhau. “Bãi tưới” ở đây “dán bùa” trăm phần trăm, bây giờ ngổn ngang như trận giặc càn qua.

Một đứa dựa tường, ngồi ôm mặt nạ:

-“Hở gió” rồi. Sao mầy? Riêng tao “nhột nhột” cái mặt mình…

Một thằng khác phá lên cười khật khưỡng:

-Quen vai không bỏ nổi hả? Lệnh lột xuống phải làm, nghe thằng con.

Giọng thứ ba thì thào xen tiếng “bass” ụa mửa:

-Tất cả… chỉ còn trong… kỷ niệm…

Tiếng thứ tư hét:

-Tao “bồi dưỡng” mày thêm câu…kỷ niệm phân vân…từng tứng tưng… phải quên đi hay vẫn còn nhớ mãi?

Giọng thứ năm lừ lừ sau một cú đấm oành vào vách:

-Sao lại “phân vân” hả thằng nào đấy? Xin lệnh đại ca, giải quyết hết phân vân.

Bỗng tất cả im bặt khi nghe hai chữ đại ca. Sau đó mùi khói tỏa ra từ đám cháy góc phòng. Là một gã khác đang thu gom và đốt đi từng mặt nạ… Cuối cùng, hắn ta đứng lên khuyến cáo:

-Không có chuyện quan trọng, đừng tùy tiện nhắc nhở đến đại ca. Chúng mày nghe đây, phiên tao nói. Lột mặt nạ xuống thì là hết chưa nhỉ? Lộ ra cái mặt người. Cái bản mặt cha sinh mẹ đẻ chứ gì? Chưa hết đâu…

Gã đốt mặt nạ điềm nhiên cúi xuống làm bộ dạng cong lưng. Hắn áp sát hai bàn tay xuống sàn:

-Thấy chưa, hả? “Mặt người” lòng thú cũng là thứ “mặt nạ trời sinh”, khỏi phải lột ra đeo vào xoành xoạch… Chúng mày cứ bàn nầy nọ làm gì? “Nhột nhột” cái đéo? Cốt thú nhưng “mặt người” sao lại bảo không còn mang mặt nạ? Loại siêu-mặt-nạ-tự-nhiên vẫn sờ sờ ra đấy… Coi.

Tất cả thao láo mắt trước hoạt cảnh đầy bất ngờ. “Thằng-bốn-chân” thỉnh thoảng lấy một tay bỏ sau mông đít làm đuôi ngúc ngoắc. Hắn, giọng thuyết kinh trên bục giảng:

-Nầy, bố bảo. Con thú tốt để luyện xiếc không thể nào là con thú thường suy tư, động não. Nó phải dừng, không có mom men qua biên giới “bọn người”. Ngoài quán tính vâng lời đã được thuần dưỡng từ “miếng ăn phủ sóng”, năng lượng cao hay thấp của “cốt thú” là ở cơ bắp và móng vuốt…

Thằng-bốn-chân ngừng. Hắn đột ngột gừ lên, há miệng nhe răng và chồm tới. Nghiêng cái đầu chút, ngoạm mạnh vào cần cổ một con mồi tưởng tượng…

Đứng dậy phủi tay tổng kết. Hắn “múa”:

-Ê, đó là bề trên chưa kịp dạy, nhưng tao đây đón ý: Đại ca muốn phán rằng, đã qua thời chúng ta mãi ôm đồm “mặt nạ giả”…Vốn đã sẵn “mặt nạ thật” nhưng từ lâu chưa từng ai chịu biết? Gẫm lại, chỉ thêm phần phiền toái.

Cả bọn ngớ ra, tỉnh người và ngơ ngác. Tất cả đều dè chừng, không còn lắm lời trước mặt “thằng-bốn-chân” vừa phát hiện. Bất ngờ, trong đám vẫn có đứa ngay lập tức “đón gió”. Gã nầy tươi nét mặt lên, hớn hở vỗ tay như trẻ nít:

-Thế mới biết đại ca không cần phải nói nhiều, do có người sẽ giải thích chi li… Rõ ràng hiểu đại ca đến thế là cùng.

Hất mặt nhìn đám đồng bọn đang “trụt lưỡi” ngồi im, gã nầy dõng dạc tán dương thằng-bốn-chân cú một:

-Ô kê, tất cả nghiêm chỉnh ngay. Tao nói nghe chưa, hả? Hãy cụng ly vì tương lai của siêu-mặt-nạ-tự-nhiên. Luôn thể để chúc mừng người có câu kinh điển mới “lên khung”…



4*

Vâng, thằng vừa hô hào cụng ly ấy ngoài cái tài nhanh nhạy như sóc, hắn ta còn có thêm thứ mũi cực thính của loài chó săn sục sạo, cái tai loài mèo, con mắt thâu đêm cú vọ và tất nhiên, kiêm cả não bộ tinh ranh loài chuột nhắt.

Xa xưa… các thiền sư từng dạy truy tìm khuôn-mặt-muôn-thuở-của-thế-nhân. Họ nói về “bản lai diện mục” như một cách ám chỉ “khuôn mặt đích thực, không giả trá”, khuôn mặt sơ khai, xa xôi nhất… Liệu rằng trong cuộc sống ngày nay, khi soi gương hằng ngày - có ai tự hỏi - đã “chính ta” ngay trước mắt hay chưa?



(Vườn tượng – 21/3/2017)

Trần Hạ Tháp