Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

MCT Lá trung giá 450k

Mct lá kim-giá 450k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

MCT Lá trung

Mct lá kim-giá 500k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

Mct lá kim-giá 500k

Mct lá kim-giá 500k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây


Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

Trump sẽ làm chấm dứt quyền lực mềm của nước Mỹ?







Nguồn: Shashi Tharoor, “The End of US Soft Power?” Project Syndicate, 11/11/2016.

Biên dịch: Phạm Thị Thoa | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Chắc chắn, một nạn nhân lớn của việc Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ là quyền lực mềm của Mỹ trên toàn thế giới. Đây là một diễn biến khó – thậm chí có lẽ không thể – đảo ngược, đặc biệt là đối với Trump.

Thông thường, quyền lực chính trị toàn cầu của các nước được đánh giá bằng sức mạnh quân sự: nước nào có quân đội lớn nhất thì có quyền lực lớn nhất. Nhưng logic này không luôn đúng trong thực tế. Mỹ đã thua trong Chiến tranh Việt Nam; Liên Xô thì bị đánh bại ở Afghanistan. Trong những năm đầu ở Iraq, Mỹ đã nhận ra sự thông thái trong câu nói của Talleyrand (thủ tướng đầu tiên của Pháp dưới triều vua Louis XVIII) rằng một điều mà ta không thể làm với lưỡi lê là ngồi lên nó.

Sau đó quyền lực mềm xuất hiện. Thuật ngữ này được giáo sư Joseph S. Nye tại Đại học Harvard đặt ra năm 1990 để lý giải sức ảnh hưởng mà một quốc gia – và cụ thể là Mỹ – giành được, bên ngoài sức mạnh quân đội (hay quyền lực “cứng”). Theo Nye, quyền lực của một đất nước nằm ở “khả năng thay đổi hành vi của các nước khác” để đạt được mục tiêu mà nó muốn, thông qua ép buộc (cây gậy), mua chuộc (củ cà rốt), hoặc thu hút (quyền lực mềm). Ông chỉ ra rằng “nếu có khả năng thu hút người khác, ta có thể tiết kiệm những cây gậy và củ cà rốt.”

Nye lập luận rằng quyền lực mềm của một quốc gia bắt nguồn từ “văn hóa (ở những điểm thu hút các nước khác), các giá trị chính trị (khi quốc gia đó đáp ứng được chúng ở trong nước và quốc tế), và các chính sách đối ngoại (khi chúng được coi là có tính chính danh và có thẩm quyền đạo đức). Nhưng tôi tin rằng quyền lực mềm của mỗi quốc gia cũng được tạo ra từ nhận thức của thế giới về bản chất của đất nước đó: những liên tưởng và thái độ gợi lên khi tên của một đất nước được nhắc đến. Quyền lực cứng được thi hành, còn quyền lực mềm thì được khơi gợi.

Mỹ là nền kinh tế lớn nhất và nền dân chủ lâu đời nhất trên thế giới, một nơi trú ẩn cho người di cư, và là mảnh đất của Giấc mơ Mỹ – hứa hẹn rằng mọi người có thể đều thành công nếu họ làm việc đủ chăm chỉ. Đây cũng là quê hương của Boeing và Intel, Google và Apple, Microsoft và MTV, Holywood và Disneyland, McDonald’s và Starbucks – nói ngắn gọn, một số thương hiệu và ngành công nghiệp dễ nhận biết và có sức ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.

Sức cuốn hút của các tài sản này, và của lối sống Mỹ mà chúng đại diện, đã cho phép nước Mỹ thuyết phục, thay vì bắt ép, những nước khác thông qua chương trình trình nghị sự của mình. Trong ý nghĩa này, quyền lực mềm đóng vai trò vừa thay thế vừa bổ sung cho quyền lực cứng.

Tuy nhiên, cũng có những hạn chế đối với quyền lực mềm của mỗi quốc gia – kể cả của Mỹ. Sau các cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9, đã có một làn sóng thiện chí hướng về Mỹ. Rồi nước này phát động cuộc chiến chống khủng bố, dựa nhiều vào sức mạnh cứng. Các công cụ của sức mạnh này – xâm lược Iraq, giam giữ vô thời hạn “các chiến binh thù địch” và các nghi phạm khác tại nhà tù Guantanamo, vụ bê bối nhà tù Abu Ghraib, các “khu vực đen” của CIA bị tiết lộ, các nhà thầu an ninh tư nhân Mỹ giết hại dân thường Iraq – không còn được công chúng toàn cầu đón nhận.

Các tài sản quyền lực mềm của Mỹ vẫn chưa đủ để bù đắp cho những khiếm khuyết của cách tiếp cận sức mạnh cứng của đất nước này. Những người say mê văn hóa Mỹ không sẵn sàng bỏ qua những hành động vượt quá giới hạn ở Guantanamo. Hệ điều hành Windows của Microsoft không khiến người sử dụng chấp nhận những cuộc tra tấn tiến hành bởi quốc gia phát triển ra nó. Quyền lực mềm của Mỹ đã tụt dốc nhanh chóng, cho thấy cách một quốc gia sử dụng sức mạnh cứng ảnh hưởng như thế nào đến năng lực gây dựng quyền lực mềm của quốc gia đó.

Tình hình trong nước đã nhanh chóng giúp Mỹ vượt qua những bước thụt lùi của chính sách đối ngoại, một phần nhờ vào sự kết nối chưa từng có ngày nay. Trong một thế giới của truyền thông đại chúng trực tuyến, các quốc gia sẽ được đánh giá bởi công chúng toàn cầu vốn bị nhồi nhét không ngừng các tin tức trực tuyến, các video trên smartphone, các tin đồn trên Twitter.

Trong một thời đại công nghệ như vậy, Nye viết, có ba kiểu quốc gia có khả năng giành được quyền lực mềm: “những nước có văn hóa và lý tưởng chủ đạo gần với những chuẩn mực quốc tế thịnh hành (nay nhấn mạnh vào chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa đa nguyên, tự chủ); những nước có nhiều khả năng tiếp cận nhất đến nhiều kênh truyền thông và do đó có nhiều ảnh hưởng hơn lên cách định hình các sự kiện; và những nước có uy tín được củng cố bởi những thành tích trong nước và quốc tế.” Mỹ đã làm khá tốt ở tất cả các mặt này.

Quả thật, văn hóa và các lý tưởng Mỹ đã đặt ra tiêu chuẩn cho các nước khác, và uy tín quốc tế của Mỹ dựa trên những dàn xếp nội bộ của nước này. Vượt qua di sản của chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc kéo dài hàng thế kỷ để bầu lên một vị tổng thống da màu vào năm 2008 và một lần nữa vào 2012, Mỹ dường như đã chứng tỏ khả năng tái tạo và làm mới bản thân của mình.

Việc Trump lên nắm quyền đã phá vỡ hình ảnh này. Nó phơi bày và khuyến khích những xu hướng mà thế giới chưa bao giờ gắn với nước Mỹ: bài ngoại, thù ghét phụ nữ, chủ nghĩa bi quan, và ích kỷ. Một hệ thống hứa hẹn một sân chơi bình đẳng mà ở đó ai cũng có thể đạt được khát vọng của mình đang bị chính các nhà lãnh đạo của nó chỉ trích là đang đè nặng lên những công dân bình thường. Một quốc gia tự tin khuyên bảo các nước khác thực hành dân chủ lại bầu lên một vị tổng thổng đã tuyên bố có thể sẽ không công nhận kết quả nếu ông thất cử.

Nye đã lập luận rằng, trong thời đại thông tin, quyền lực mềm thường được tích lũy ở quốc gia nào có câu chuyện hay hơn. Mỹ từ lâu đã là “vùng đất của những câu chuyện hay hơn.” Nó có một nền báo chí tự do và một xã hội mở; nó chào đón người di cư và người tị nạn; nó khao khát những ý tưởng mới và có sở trường sáng tạo. Tất cả những yếu tố này đã cho Mỹ khả năng vượt trội để viết ra những câu chuyện thuyết phục và hấp dẫn hơn câu chuyện của các đối thủ.

Nhưng câu chuyện về nước Mỹ được kể trong cuộc bầu cử này đã làm suy giảm sâu sắc quyền lực mềm mà Mỹ gợi lên. Sợ hãi đè bẹp hy vọng. Giấc mơ Mỹ biến thành ác mộng của thế giới. Và những ác ma thoát ra từ chiếc hộp Pandora năm 2016 – vang vọng trong những báo cáo trên diện rộng về lời lẽ phân biệt chủng tộc của những người ủng hộ Trump đối với những người da màu ở nước Mỹ – sẽ tiếp tục tự tung tự tác trong nhận thức về mình của đất nước, cũng như làm hoen ố nhận thức của tất cả những người khác. Trong mắt chúng ta, nước Mỹ sẽ không bao giờ trở lại như trước – và nhiệm kỳ của Trump thậm chí còn chưa bắt đầu.

Shashi Tharoor, cựu Phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, cựu Quốc vụ khanh về Phát triển Nguồn nhân lực và Quốc vụ khanh về Ngoại vụ của Ấn Độ, hiện là Nghị sĩ Đảng Quốc đại Ấn Độ và Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về Đối ngoại. Ông là tác giả cuốn Pax Indica: India and the World of the 21st Century.

- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/12/07/trump-se-lam-cham-dut-quyen-luc-mem-cua-nuoc/#sthash.JB2kD8G9.dpuf

MCT lá kim-giá 450k

MCT lá kim-giá 450k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Phán tăng đồ 判僧徒


Thơ » Việt Nam » Lý » Đàm Dĩ Mông





判僧徒


方今僧徒頗與夫相半。自結伴侶,妄立師資,聚類群居,多為穢行。或於戒場精舍公行酒肉,或於禪房凈院私自奸淫。晝伏夜行,有如狐鼠。


敗俗傷教,漸漸成風。此而不禁,久必滋甚。



Phán tăng đồ


Phương kim tăng đồ phả dữ dịch phu tương bán. Từ kế bạn lữ, vọng lập sư tư, tụ loại quần cư, đa vi uế hành. Hoặc ư giới trường tinh xá công hành tửu nhục, hoặc ư thiền phòng tịnh viện tư tự gian dâm. Trú phục dạ hành, hữu như hồ thử.


Bại tục thương giáo, tiệm tiệm thành phong. Thử nhi bất cấm, cửu tất tư thậm.



Trong Việt sử lược còn ghi lại một lời tâu này của ông với vua Lý Cao Tông về việc hạn chế nhà chùa và bắt các sư sãi hoàn tục. Lời tâu này giúp hiểu thêm về những cuộc đấu tranh tư tưởng giữa Phật và Nho trong giai đoạn này.


Nguồn: Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977





Bản dịch của Phạm Tú Châu


Hiện nay, số sư sãi đã gần ngang với số phu dịch. Tự kết bè lũ, lập càn thủ lĩnh, tụ họp thành bầy, làm nhiều việc xấu. Hoặc ở nơi giới trường, tinh xá mà công nhiên rượu thịt; hoặc ở chốn tăng phòng, tịnh viện mà tiêng tự gian dâm. Ngày ẩn tối ra, như phường cào chuột.


Bại hoại phong tục, phương hại giáo lý, dần dần đã thành thói quen. Nay không cấm đi, lâu ngày càng tệ.


Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2016

Sam Hương - giá 650k

Sam Hương - giá 650k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Hông ngọc-giá 500k

Hông ngọc-giá 500k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016

MÓN QUÀ CỦA THƯỢNG ĐẾ












Bóng tối há miệng sổ sàng
thả mù sương bàng bạc
tội lỗi nhởn nhơ bước ra
từ da thịt đàn bà
mùi rơm rạ giục giã
khát thèm
ảo giác
thôi thúc đặt môi hôn
chảy tràn lừa lọc
loài côn trùng rên rỉ
thỏa mãn
cuộc truy hoan
cô độc

Mặt trời bật khóc
rơi những bông hoa tuyết rạng ngời
trên đôi môi người thiếu phụ
đỏ ửng
hừng đông
nụ cười tinh khiết
niềm tin
ấm áp
hương tình tỏa lan
dịu dàng
gọi mời hôn phối
đơn côi

Ông già noel hứng khởi tặng quà
cho những đứa trẻ mới vừa sinh ra




















Văn chương thiếu tính chuyên nghiệ

Lê Hoài Nam

(Tham luận tại Hội nghị nhà văn khu vực phía Bắc, tháng 10 năm 2008)

Khoảng dăm bảy năm trở lại đây, trên các bãi cỏ lăn cỏ lác hoang vu hai bên bờ con sông Ninh Cơ quê tôi, tự dưng mọc lên những cơ sở đóng tàu sông biển, mật độ ngày càng dầy, tính đến cuối năm 2007 đã có tới 40 cơ sở, xí nghiệp. Vào buổi tối nọ, một vị lãnh đạo tỉnh kéo tôi lên mảnh sân thượng tầng ba của một toà nhà ven sông, chỉ tay về phía những "hoa lửa hàn" sáng loà hai bên bờ sông, ông nói với tôi: "Anh thấy đấy, công nghệ đóng tàu sông biển hiện nay là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh ta, nó sẽ làm cho tỉnh ta thịnh vượng, cất cánh." Ông nói thế thì tôi cũng biết thế, chứ tôi chưa yên tâm lắm về sự lạc quan quá sớm của ông. Và quả thật, chỉ chưa đầy một năm sau, nghĩa là vào thời điểm tôi đặt bút viết bài tham luận này, hầu hết các cơ sở sáng loà ánh lửa hàn ấy sập tối om om vì đã ngừng sản xuất, những con tàu đang đóng dở dang giờ nằm trơ dưới nắng mưa như những bộ xương khủng long thời tiền sử. Công nhân thôi việc hàng loạt chuyển đi tìm việc khác. Nhiều cơ sở đã bắt đầu tính đến chuyện bán sắt vụn, giải thể.

Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng trên, có thể phân tích dài dài, nhưng cái căn nguyên cốt lõi nhất, ôm trùm nhất là ngành công nghiệp và thương mại đóng tàu của chúng ta còn thiếu tính chuyên nghiệp. Cái sự thiếu tính chuyên nghiệp được thể hiện ở sự hiểu biết chung về ngành tàu thuỷ trên thế giới, về dự báo nhu cầu thị trường, ở trình độ thiết kế và thi công, ở khả năng cạnh tranh và sự rủi ro có thể gặp v.v...

Văn chương của chúng ta hiện nay, thôi thì cái mặt hay ho của nó chúng ta đã nói nhiều rồi, còn cái mặt dở thì mặt dở nổi cộm nhất, dễ nhìn thấy nhất, ấy là sự thiếu tính chuyên nghiệp. Cái sự thiếu tính chuyên nghiệp nó diễn ra từ thủ đô cho tới các tỉnh, nó có cả trong những hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và cả những cây bút chưa hội viên, song ở các tỉnh hiện trạng này thấy rõ hơn cả. Thực ra, nhờ những cơ may trong lịch sử mà vào các thế kỷ trước ở các tỉnh từng sinh ra và dung dưỡng khá nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi. Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hàn Mặc Tử, kể cả Nam Cao. Chưa bao giờ những người này ngồi ở thủ đô mà viết văn. Họ sinh sống và viết văn trong những cái làng nghèo đồng chiêm (Nguyễn Khuyến, Nam Cao) và ở các thành phố, thị xã tỉnh lẻ (Tú Xương, Hàn Mặc Tử). Nhân vật trong thơ Nguyễn Khuyến, trong truyện ngắn, tiểu thuyết Nam Cao toàn là nhân vật thật hoặc nguyên mẫu người thật sống ở hai cái làng đồng chiêm của hai ông. Nhân vật của Tú Xương cũng rặt người thật ở cái thành phố tỉnh lẻ Nam Ðịnh. Nhưng ở những gì họ viết ra, ta thấy cái tính chuyên nghiệp của ngòi bút rất cao. Tính chuyên nghiệp được thể hiện ở sự am tường cái nghề văn họ đang theo đuổi, ở tầm hiểu biết văn hoá nhân loại và thẩm thấu chiều sâu văn hoá dân tộc, ở khả năng sáng tác phong phú, dồi dào, bút pháp điêu luyện, thể hiện những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, hữu dụng cho cuộc sống, được đông đảo bạn đọc đón nhận.

Nhưng những năm gần đây, hẳn là do cái nhịp sống ở các tỉnh có sự o bế, trì đọng, nhôm nhem nào đó, nó kích cầu cho cái quan niệm xấu đều hơn tốt lỏi - một quan niệm được sinh ra từ môi trường văn hoá tiểu nông - có điều kiện hiện diện, bùng phát, chi phối đời sống văn nghệ. Cái sự xấu đềuđầy tính tự phụ nó sẵn sàng cầm chân những ai đứng cao hơn nó kéo tụt xuống cho bằng hoặc thấp hơn nó. Nó đắc ý, hả hê khi thấy người khác kém cỏi hơn nó, bất hạnh hơn nó. Vì thế, khi cái sự xấu đều lấn sân thì đương nhiên cái sự tốt lỏi khó sống, bị rẻ rúng. Sự sáng tạo trong âm thầm cô đơn, vốn là bản chất của nghề văn, luôn phải dè chừng với thứ văn hoá đám đông xấu đều huyên náo, làm mưa làm gió.

Thử làm một phép so sánh: cách đây khoảng 20-25 năm, một Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) địa phương mỗi năm chỉ in được dăm bảy cuốn sách, chục cuốn là nhiều. Còn bây giờ một năm cái Hội ấy in vài chục đầu sách là chuyện "nhỏ như con thỏ". Vậy ai dám nói văn chương ngày nay mất mùa, chỉ là nói càn! Cách đây 20 -25 năm mỗi năm một Hội VHNT tỉnh chỉ kết nạp dăm bảy người, bây giờ mỗi năm vài ba chục người mà xem chừng đám đông ôm hồ sơ xin vào Hội vẫn còn xếp hàng rồng rắn! Ai dám bảo Hội VHNT các tỉnh bây giờ trì trệ, biến tướng biến chất, chỉ là hạng nói nhảm! Biến tướng biến chất mà người ta lại tha thiết xin gia nhập thế đông đúc à!

Vâng, hội viên đông gấp bội, sách ra nhiều gập bội, chỉ có điều phần lớn cái gọi là tác phẩm văn chương ấy nếu không nhạt nhẽo thì lại giáo điều, hoặc vay mượn của người này người khác một cách lộ liễu, sống sít; thậm chí nó sặc mùi hủ lậu. Nó hủ lậu vì nó phơi ra những điều đã quá nhàm chán, cũ kỹ, mốc meo, tù túng, không còn một chút giá trị dung dưỡng trí tuệ, nâng giấc tinh thần con người. Và đương nhiên nó không còn giữ được vai trò góp phần to lớn vào công tác chính trị tư tưởng của Ðảng như hiện nay một số người vẫn còn tự huyễn hoặc.

Cũng là dễ hiểu, bởi lâu nay ở tỉnh rất hiếm những người viết xuất hiện trong tư thế của một trí thức, theo đúng nghĩa của khái niệm này. Các sinh viên từ tỉnh ra Hà Nội học và tốt nghiệp trường viết văn cũng không thấy trở về chốn cũ nữa. Xung thêm vào làng văn nghệ tỉnh thường chỉ thấy 2 loại người:

Một, đấy là những người không có công ăn việc làm hoặc không biết làm việc gì thì tìm đến với cây bút, bởi vốn liếng bỏ ra mua cây bút rất rẻ, kẻ hành khất cũng có thể mua một lúc vài ba cây. Loại người ít vốn này rất cần xin gia nhập Hội VHNT, để được đầu tư tiền in sách, được nổi danh. Loại người này coi tổ chức Hội như một cái phao cứu sinh của đời mình.

Hai, đấy là những người từng có những cương vị không to thì nhỏ trong guồng máy công chức nhà nước. Nhưng khi còn đương chức, anh ta (chị ta) mải mê phấn đấu cho những tham vọng chẳng liên quan gì đến văn chương cả; chỉ đến khi về hưu, sức khoẻ và tinh thần đều đã suy giảm, lại bị hẫng hụt, cô quạnh, họ mới tìm đến với văn học. Họ quan niệm, khi còn sung sức có quyền có tiền rồi thì khi về già phải kiếm thêm cái danh nữa, cho dù là cái danh hão, mới đáng mặt một kiếp người hạnh phúc viên mãn. Mà cái danh thì Hội VHNT chính là chỗ dễ kiếm nhất.

Cả hai dạng người ấy tìm đến với văn học, có thể có người đã có sẵn một chút năng khiếu trời cho hoặc tích tụ được một chút vốn sống thực tế ở xã hội, nhưng về mặt văn hoá, kiến văn, bút pháp hầu như chưa chuẩn bị được gì. Có người trong đời còn chưa từng đọc một cuốn văn học dịch, không thuộc một câu trong Truyện Kiều, hoàn toàn xa lạ với những khái niệm “hiện sinh”, “hiện thực huyền ảo”…, dù những khái niệm này với thế giới, không còn là mới nữa.

Những năm gần đây, trong hàng ngũ lãnh đạo các Hội VHNT tỉnh, những người không làm văn chương đông dần lên, những người làm văn chương ít dần, nhất là người làm văn chương có tính chuyên nghiệp vào thời điểm này đã trở nên rất hiếm hoi, thì đó lại càng là một môi trường màu mỡ cho đám đông văn chương nghiệp dư bành trướng, sinh sôi.

Viết nghiệp dư, nhưng đã là hội viên của Hội VHNT thì không thể không viết. Viết ào ào. Viết như búa bổ. Viết nhảm, viết nhạt, viết thô thiển, hủ lậu, nhưng vẫn được in. Mỗi Hội VHNT tỉnh đều có một tờ tạp chí, được kinh phí nhà nước hỗ trợ, nếu không in tác phẩm của hội viên thì in của ai? Mà đã in thì coi như những tác phẩm ấy được thừa nhận, chí ít thì cũng trong phạm vi một tỉnh một vùng (cho dù ở khá nhiều tỉnh hiện nay, tờ tạp chí văn nghệ in ra chủ yếu dùng để tặng nhau, mà tặng nhau trong giới, chứ tặng người ngoài giới chưa chắc họ đã có thời gian để đọc).

Dăm bảy năm nay, các Hội VHNT địa phương lại có thêm một nguồn đầu tư gọi là tài trợ sáng tác từ chính phủ, rót qua Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam, rồi cơ quan này có trách nhiệm phân bổ về các tỉnh. Hội nào ít cũng được vài ba trăm triệu; Hội nhiều thì bảy tám trăm triệu một năm. Cứ đều đặn rót về. Cái khoản "lộc nước" này tuy không lớn nhưng nó cũng đủ độ kích thích nguồn cảm hứng sáng tác ghê gớm. Có người sắp đến kỳ tiền rót về mà trong tay mới có dăm cái truyện ngắn, là phải vội vàng tăng tốc viết cho nhanh thêm vài ba cái nữa, in thành tập cho kịp lọt vào danh sách tài trợ. Có người in tập thơ mà non nửa số bài trong tập đã từng in ở các tập năm trước, dĩ nhiên là cũng nhằm mục đích ẵm khoản tiền tài trợ. Một miếng giữa làng hơn một sàng giữa chợ, vạ gì không in. Nhưng chỉ in 500 cuốn, thậm chí 200 hoặc 100 cuốn đủ tặng người thân và làm "chứng chỉ" quyết toán cái món tài trợ. Sách in ra, công chúng lạnh nhạt, trong giới cũng thờ ơ; để xua bớt cái không khí buồn tẻ ấy liền nặn ra cuộc hội thảo, cơ hội ngàn vàng cho các tác giả tự thể hiện mình và tâng bốc nhau. Các bài tâng bốc ấy lại được in "thâm canh" trong tạp chí văn nghệ. Tự lừa phỉnh mình và phỉnh nịnh lẫn nhau cũng là một nhu cầu tinh thần có thật trong văn giới thời nay. Chỉ công chúng độc giả là thua đơn thiệt kép, họ chẳng đón nhận được một chữ nào có giá trị từ những "nhà văn nghệ sĩ" ấy.

Rồi cứ 5 năm một lần, những "nhà" ấy lại được thêm một khoản "lộc nước" nữa, đó là giải thưởng văn học nghệ thuật. Giải thưởng này thường được mang tên một địa danh nổi tiếng hoặc một danh nhân văn hoá, văn học sáng giá. Mỗi lần như thế vài ba chục cuốn sách được trao giải, nếu tính cả các bộ môn khác như hội hoạ, nhiếp ảnh, sân khấu, âm nhạc... thì số "nhà" được giải lên tới bảy tám chục, thậm chí hàng trăm. Tiền giải thưởng chẳng đáng kể gì nhưng được cái tiếng thơm lưu danh thiên cổ!

Cái bằng công nhận giải thưởng thiết kế rất to. Có nơi làm to hơn cả cái bằng khen của chính phủ. Có nơi thiết kế hoa văn cổ kính như cái sắc chỉ vua ban cho kẻ sĩ thời xưa. Chất liệu của bằng là giấy cup-sê cứng, bóng láng, lồng trong khung kính mạ vàng, có thể lưu giữ được hàng trăm năm.

Nhiều lúc tôi cứ vơ vẩn tự hỏi, không hiểu một, hai trăm năm sau, con cháu chúng ta nhìn những tấm bằng giải thưởng rồi dò tìm đọc những tác phẩm được giải ấy, mới vỡ nhẽ ra những thứ được giải ấy toàn là hàng thứ phẩm, nếu không muốn nói là hàng dởm, họ sẽ nghĩ sao về văn chương thời chúng ta đang sống?

Mỗi lần tự hỏi như thế tôi lại bật ra tiếng cười. Miệng bật ra tiếng cười nhưng hai khoé mắt lại lăn ra những giọt lệ.

Khi viết bài này, tôi hoàn toàn không có ý chê bai hay khinh khi cái sự nghiệp dư trong văn chương, bởi có ai cầm bút trở thành nhà văn nhà thơ chuyên nghiệp mà không phải trải qua cái thời đoạn nghiệp dư kia chứ. Nhưng nếu bằng lòng với tính nghiệp dư, đẩy tính nghiệp dư trở thành lực lượng nòng cốt, chủ đạo, thành phổ biến, chi phối đời sống văn học của cả một địa phương, một vùng đất, thì lại là điều đáng lo ngại, là một hiện tượng xã hội rất không bình thường.

Thị trấn Liễu Ðề, tháng 10 năm 2008