Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2016

SỐNG TÙY DUYÊN THUẬN PHÁP


Tác giả: Viên Minh



Hòa Thượng Viên Minh

Thiền không phải là phương pháp vay mượn bên ngoài đem về áp dụngcho riêng mình để mưu cầu một thành quả hay đạt được một lý tưởng ước mơ. Thiền chỉ là thấy ra hiện trạng sự tương giao giữa thân tâm và môi trường sống để ngay đó thấy ra sự thật. Thấy sự thật thì mới biết tùy hoàn cảnh mà tự điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng pháp. Ai đến học Thiền với Thầy cũng mong được truyền một phương pháp thật quy mô bài bản, thật logic, rồi cứ thế mang về mà áp dụng là xong. Nhưng với Thầy, Thiền là thấy ra thực tại, mà thực tại mỗi lúc mỗi mới, chứ không phải cố nhớ lại ngày hôm qua đã áp dụng phương pháp thế nào mà hành có kết quả tốt quá, nên hôm nay cố gắng sao cho đạt được như vậy hoặc tốt hơn. Nếu như thế thì thiền chỉ là lặp lại cái đã qua và mong cầu cái chưa đến!

Các pháp luôn luôn đổi mới, nên nhận thức cũng phải luôn mới mẻ. Bình minh ngày hôm qua khác bình minh ngày hôm nay, cái cây ngày hôm qua cũng khác cái cây ngày hôm nay. Dòng nước chảy qua phút giây trước khác phút giây sau mất rồi.

Tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta và trong cơ thể chúng ta đều đang sống và luôn biến đổi trong từng sát-na - đơn vị nhỏ nhất của tiến trình sinh-diệt. Mọi thứ đều sống động vô cùng. Không có cái gì dừng lại để mình có thể định dạng theo một công thức hay một khuôn mẫu nào được cả.

Thân - Thọ - Tâm - Pháp luôn biến động vô cùng vi tế, sự vận hành của thân tâm nơi sát-na này không còn đúng với sát-na ngay sau đó. Muốn hành thiền bằng cách áp dụng một công thức y khuôn nào đó chẳng khác nào bắt sự sống phải dừng lại để mình cân đo khám xét, như vậy thì có khác gì tự hủy hoại mình!

Thực ra không có cái gọi là thiền như chúng ta nghĩ, hoặc là chỉ có đời sống đang diễn ra theo nguyên lývận hành của chính nó, hoặc là theo ý đồ của cái Ta ảo tưởng mà thôi. Do đó đức Phật dạy chỉ có hai đường, hoặc là sống tùy duyên thuận pháp hoặc là tùy thuận theo vô minh ái dục của bản ngã.

Sự sống bên trong và xung quanh chúng ta đều luôn trôi chảy và đổi mới. Sông Đồng Nai, sáng khác, chiều khác, thủy triều lúc trăng lên, trăng tròn, trăng lặn đều khác. Cho dù cục đá có bất động thì bản thân nó vẫn phụ thuộc vào các duyên sinh của môi trường xung quanh nó.

Thí dụ buổi sáng ngồi buông xả với tâm rỗng lặng trong sáng, chợt nghe tiếng chim hót vang lên rồi mất hút, tiếng ai nói cất lên rồi chìm mất thì đó là tùy duyên mà thấy biết. Tất cả mọi thứ xảy ra đều luôn mới mẻ. Còn khi nghe chim hót hay quá, lắng nghe thêm xem nó còn hót nữa không. Sao lắng nghe hoài không thấy nó hót lại gì cả? Thế là bản ngã tham muốn đã xen vào, muốn tìm kiếm, muốn giữ lại hay sợ mất đi... đã là cái ý lăng xăng tạo tác mất rồi.

Tại sao tâm hồn của chúng ta không đủ mới mẻ để thấy mọi thứ mới mẻ đến rồi đi? Bởi vì chúng tamuốn lập trình, bắt nó phải thế này, phải thế kia, theo công thức này hay khuôn mẫu khác. Pháp thì luônbiến đổi một cách tự nhiên, còn mình muốn thay đổi là vì có chủ ý theo tư kiến tư dục rồi, sao còn tự nhiên được nữa, mà không tự nhiên sao có thể thấy được thực tánh pháp vốn là tự nhiên?

Hãy thử tự quan sát xem khi thuận theo tự nhiên thì hành động thân-khẩu-ý ra làm sao, còn khi hành động theo ý chủ quan thì nó như thế nào. Trong cuộc sống, hoàn cảnh sống xung quanh là hoàn toàn tự nhiên, mặt trời tự nó vẫn mọc và lặn, bốn mùa vẫn thay đổi liên tục theo trình tự như vậy bất kể mình có muốn hay không.

Con người nhỏ bé đang sống trong vũ trụ bao la luôn vận hành theo quy luật tự nhiên lại đòi thay đổi vũ trụ này theo ý mình hoặc muốn nó trở thành của mình. Đó phải chăng là tham vọng quá lớn? Lẽ ra mình nên xem cho kỹ mọi biến đổi của nó như thế nào để tùy theo đó mà sống cho thích hợp, thì mình lại muốn thiên nhiên làm theo ý mình. Lẽ ra cuộc đời giúp chúng ta thay đổi, thì chúng ta lại muốn tự ý thay đổi cuộc đời, nên hậu quả là chỉ chuốc lấy khổ đau.

Bây giờ đang là buổi sáng thì mình muốn phải chi là buổi chiều, đang là bình mình thì lại trông chờhoàng hôn đến, và thế là suốt từ bây giờ cho đến khi hoàng hôn buông xuống, mình chờ đợi trong phiền muộn và đau khổ. Tại sao mình lại không thấy vẻ đẹp của ánh nắng ban mai? Vẻ đẹp của ánh nắng mặt trời đã lên cao, của mặt trời đứng bóng...? Tại sao mình không thấy được những vẻ đẹp khác nhau ấy mà cứ phải chờ hoàng hôn tới mới cam lòng. Hoàng hôn trước sau gì cũng tới, mà tới rồi thì lại đi, tại sao mình phải chờ đợi làm chi cho mệt?

Mình muốn thiên nhiên theo ý mình, vô tình giữa mình và hoàn cảnh sống xung quanh đã xuất hiện mâu thuẫn tâm lý. Mình đã rơi vào cách sống nhị nguyên, tức là chọn ra một cái mình thích, những cái còn lại bỏ hết. Mình không biết rằng sự thực đời sống là sự tương giao toàn diện, mình chỉ chọn lựa một vài cái và cố gắng để đạt được, có biết đâu tất cả những cái mình lựa chọn để theo đuổi đều là ảo tưởng.

Thiền không phải là áp dụng công thức để đạt được bất kỳ điều gì, mà trở về quan sát hoạt động của thân - tâm trong mối tương giao với hoàn cảnh xung quanh để nhận ra đâu là sự vận hành của pháp (tự nhiên) và đâu là sự tạo tác của bản ngã. Thiền là thấy ra sự thật đang diễn ra nơi chính đời sống mỗi người. Trở về quan sát thân - tâm trong những hoạt động thật sự tự nhiên của nó sẽ nhận ra rằng nếu không có ý đồ can thiệp của bản ngã thì cái thân-tâm này cùng với vũ trụ sẽ tự vận hành một cách hoàn toàn tự nhiên và hoàn hảo nhất.

Đa phần những cái chúng ta cố gắng để đạt tới đều là ảo vọng, dù có gán cho nó là Niết-bàn đi nữa. Trong khi đó nếu bây giờ là ban mai thì mình cứ trọn vẹn với ban mai, bây giờ là xế chiều thì mình cứtrọn vẹn với xế chiều thì cả cuộc đời này lúc nào cũng đẹp.

Sự tương giao và mối quan hệ

Chữ Dhamma (pháp) cũng có nghĩa là tự nhiên, hay sự thật hiển nhiên. Đó không phải là quy định docon người đặt ra. Trong tự nhiên chỉ có sự tương giao, trong xã hội mới có mối quan hệ. Mối quan hệ giữa con người do cộng đồng đặt ra tuỳ theo hoàn cảnh, phong tục tập quán ở mỗi địa phương. Vì vậychúng chỉ là qui ước tương đối, nhưng trong cuộc sống nhiều khi chúng ta quá đặt nặng mối quan hệ, coi chúng là bất di bất dịch khiến chúng ta bị trói buộc vào đó.

Sự tương giao luôn mang tính tự nhiên, mình có thể tương giao với vũ trụ bên ngoài qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thí dụ bỗng nhiên tai nghe được tiếng chim hót, mắt thấy ánh bình minh. Nhưng rồi bản ngã phát sinh lên, người này chọn bông hoa này, người kia chọn bông hoa kia nên bất đồng ý kiến với nhau. Vì bất đồng ý kiến, muốn sống chung thì phải thoả thuận với nhau, từ đó xuất hiện mối quan hệ. Mối quan hệ càng chằng chịt chừng nào thì chúng ta càng quên mất sự tương giao chừng ấy. Thực rachúng ta luôn sống trong sự tương giao mà vô tình không cảm nhận được, ngược lại chỉ bận tâm đến mối quan hệ hữu ý, hữu hạn mà thôi.

Các mối quan hệ chỉ là quy ước tạm thời và chúng luôn thay đổi theo vị trí và thời gian. Mối quan hệ vợ - chồng ở thế kỷ 19 khác với mối quan hệ vợ - chồng ở thế kỷ 20, mối quan hệ cha - con ở phương Tây khác với mối quan hệ cha - con ở phương Đông. Còn sự tương giao thì bất kỳ ở đâu cũng giống nhau.

Trong sự tương giao, chúng ta thấy được sự vận chuyển bên trong và bên ngoài hoàn toàn tương ứngvới nhau vô cùng chặt chẽ và không có giới hạn nào cả. Còn ở trong mối quan hệ thì con người lại bị cô lập. Khi thiết lập mối quan hệ, con người kỳ vọng sẽ kết nối được nhiều thứ hơn, nhưng thật ra sự kết hợp nào cũng tiềm ẩn sự đối nghịch. Đối nghịch về mặt cảm giác, cảm xúc, đối nghịch về sở tri, sở đắc, đối nghịch về quyền lợi v.v… Sự đối nghịch này khiến mỗi người trong mối quan hệ dần dần bị cô lập. Lúc đó sống với nhau chỉ dựa trên hợp đồng của mối quan hệ chứ không còn là sự tương giao tự nhiênvô điều kiện nữa. Rõ ràng chỉ có các cá nhân cô lập đang sống ràng buộc với nhau.

Càng thiết lập nhiều mối quan hệ chừng nào, càng cô lập chính mình chừng đó. Phát hiện này nói ra có vẻ lạ lùng và phi lý nhưng sự thực xảy ra đúng như vậy. Đơn giản vì mối quan hệ nào cũng được thiết lập dựa trên một số điều kiện, mà càng đưa ra điều kiện nhiều chừng nào thì càng tự cô lập mình trong chính điều kiện đó chừng nấy, điều này là đương nhiên. Ngược lại quá trình tương giao tự nhiên của sự sống là vô điều kiện.

Ví như nước nóng quá thì tự bốc hơi, hơi nóng tự bay lên cao, gặp lạnh thì tự đông lại thành nước rồi rơi xuống. Nước không muốn phải thế này hay thế kia, không cố ép mình phải nhất định là nước chứ không chịu bốc hơi. Sự tương giao giúp sự sống chuyển vận một cách hài hoà, giao thoa với nhau. Đoá hoa đẹp nở vào mùa xuân chính là nhờ sự trưởng thành và kết tụ lại từ mùa hạ, mùa thu rồi mùa đông từng chút một. Nếu chỉ thích chọn mùa xuân mà loại ba mùa kia đi thì đã tự cô lập chính mình rồi!

Đi trong rừng mà chỉ muốn tìm nghe tiếng chim hót thôi, thì không còn nhận ra được vẻ đẹp của bông hoa ven đường, của cành cây non mới lớn. Vì mải tìm kiếm, mình không biết mình đang bước đi như thế nào, thì có vấp ngã hay đạp nhằm gai là điều đương nhiên thôi. Vì quá muốn thiết lập mối quan hệ, vô tình đã làm mất sự hài hoà tự nhiên vốn có của sự sống.

Vào một ngày nào đó, bản ngã với những ý đồ lăng xăng của nó bỗng nhiên dừng lại, tâm hoàn toànrỗng lặng trong sáng, ngay đó cảm nhận được sự tương giao kỳ lạ của cuộc sống. Khoảnh khắc đó được gọi là "ngộ", khi cái trung tâm bản ngã biến mất, chỉ còn hoà nhập trong sự tương giao vô cùng củavạn pháp.

Trong sự tương giao thì tất cả đều là bạn bè, từ con chó, cái cây, đám mây bay qua trên bầu trời,… Còn khi tôi muốn kết bạn với anh thì ngay đó sự cô lập bắt đầu. Không có mối quan hệ nào thực sự đưa đến hài hoà cả, vì ngay trong mối quan hệ đã tiềm ẩn sự phân cách mất rồi. Đó là quá trình rất rõ ràng mà mỗi người có thể chiêm nghiệm. Vì vậy mình không cần thiền mà chỉ lắng nghe, trải nghiệm, chiêm nghiệm để nhận ra sự tương giao của vạn pháp chứ không phải đi tìm các mối quan hệ mới.

Chúng ta sinh ra cùng sự tương giao với vạn pháp. Em bé mới sinh bắt đầu tiếp xúc với không khí xung quanh, bắt đầu thấy được, nghe được... Trong quá trình mắt thấy, tai nghe ấy bắt đầu nảy sinh ý thíchâm thanh này, ghét âm thanh kia, thích màu sắc này, không thích màu sắc nọ. Từ đó bắt đầu nảy sinh sự cố chấp: “tôi chỉ thích cái này thôi, tôi nhất định phải có được cái này”. Rồi thêm một bước nữa là loại bỏnhững gì mình không thích, lấy về những gì mình thích. Chính chúng ta đã cắt vụn cuộc đời ra thành những mảnh nhỏ. Bây giờ cuộc đời không còn là sự tương giao nữa, chỉ còn sự phân chia manh mún.

Cuộc đời luôn có 2 mặt. Thật kỳ lạ nếu chúng ta lựa chọn cái mình thích thì phải lấy luôn cái mình không thích. Nếu chúng ta loại bỏ cái mình không thích thì cũng phải bỏ luôn cái mình thích. Cuộc đời này vốn không dừng lại ở một chỗ nào cả, nhưng chúng ta lại muốn nó dừng lại ở những cái mình thích. Chúng ta muốn ngăn chặn nó lại để được yên tĩnh, để được hạnh phúc. Có biết đâu những ý đồ ấy vô tình chỉ khiến mình ngày càng bị cô lập giữa cuộc đời mà chuốc lấy khổ đau.

Khi chúng ta muốn được hoàn toàn yên tĩnh liền tự giam mình vào trong phòng kín. Có biết đâu chúng takhông thể cách ly với cuộc đời bằng cách che chắn bên ngoài, vì cuộc đời đã để lại dấu ấn sâu trongtâm trí mình rồi. Những gì mình ghét, những gì mình thích đã chôn sâu vào tiềm thức. Có ngồi một mìnhtrong phòng kín thì tâm vẫn lăng xăng, ồn ào vậy thôi. Sự yên tĩnh thực sự của tâm hồn không phải cố dừng lại mà có, cũng không phải lấy yên tĩnh đối nghịch với sự ồn ào. Đó là sự yên tĩnh tự nhiên xuất hiện khi tâm không còn nắm giữ, cũng không chống lại những gì đang xảy ra, vì nó tương giao trọn vẹnvới tất cả.

Thiền không phải để tìm tòi và đạt được một trạng thái mình ưa thích mà là thái độ có thể định tĩnh sáng suốt trong bất kỳ trạng huống nào. Nếu cố giữ tâm chỉ ở trong trạng thái ưa thích thì nó sẽ chống đối những trạng thái còn lại. Cuộc sống luôn ở trong sự tương giao hài hoà tự nhiên bao gồm cả thân-tâm-cảnh, nó không hề có ý định chống đối chúng ta. Chỉ có cái Ta (ngã) luôn muốn lựa chọn cái nó thíchđồng thời muốn loại bỏ những cái nó không thích, tạo ra thế mâu thuẫn đối kháng giữa hai ý muốn của chính nó mà thành ra đau khổ.

Những mục đích chúng ta theo đuổi chỉ là ảo tưởng do mình đưa ra. Nếu hạnh phúc là sự thoả mãn khi mình đạt được mục đích thì hạnh phúc này thật mong manh. Vì khi thoả mãn hết rồi thì chỉ còn lại bất mãn và mục đích khác lại xuất hiện. Nếu đạt được mục đích là hạnh phúc thì mình đang ở nơi đau khổ, do tâm không hài lòng với những gì đang diễn ra mà không ngừng theo đuổi những mục đích chưa tới.

Chúng ta quá đặt nặng mục đích để đạt đến mà quên mất cái mục đích hiện thực đang có mặt ngay đây và bây giờ. Chúng ta không thể xây ngôi nhà hạnh phúc bằng những viên gạch đau khổ. Ngôi nhà hạnh phúc chỉ có thể xây từ những viên gạch hạnh phúc mà thôi.

Hỏi: Mình cứ sống thuận với những gì đang xảy ra mà không cố gắng cải thiện làm cho nó tốt đẹphơn sao?

Trả lời: Chính những người luôn muốn cải thiện cho mọi thứ tốt hơn là người đau khổ nhất trên đời. Điều này nói ra dường như không hợp lý nhưng đó là sự thật.

Cuộc đời này luôn luôn có hai mặt: thành thì có bại, được thì có mất, hơn thì có thua, vui thì có khổ. Trong lòng Thái Cực thì cũng phải có cả âm lẫn dương, bây giờ chúng ta cứ đòi chỉ có dương hoặc chỉ có âm không thôi thì làm sao được. Dù chọn được cái gì đó mà mình cho là hạnh phúc nhất thì chính là mình đang tự cô lập trong cái tự chọn đó rồi.

Có câu chuyện người thợ đục đá, đang ngồi đục đá đổ mồ hôi, thì anh ta thấy ông vua đi qua được người hầu kẻ hạ sung sướng quá, anh ước, “giá như mình được làm vua thì hay biết bao”. Vừa ước xong ông ta liền được làm vua, đi đâu cũng được người nâng kẻ đỡ thật thoả mãn vô cùng.

Một hôm ông ta đi đường gặp trời nắng quá, người hầu quạt hết sức mà vẫn nóng không chịu nổi, ông ta tự nhủ: “Hoá ra làm vua còn thua làm mặt trời. Giá như mình làm mặt trời thì tốt biết bao”, liền ngay đó ông được làm mặt trời, thoải mái chiếu sáng khắp nơi. Bỗng nhiên mây ở đâu kéo đến che mất ánh sángmặt trời, ông ta lại nghĩ: “Hoá ra mặt trời vẫn còn thua mây”. Thế là ông ta được làm mây, ung dung bay khắp nơi che hết bầu trời. Chợt có cơn gió thổi qua làm mây tan mất, ông lại nghĩ: “Vậy gió mới là mạnh nhất”. Rồi ông ta được làm gió, lấy hết công lực thổi bay tất cả mọi thứ, nhưng khi thổi tới dãy núi đá thì đành chịu thua. Ông ta liền chuyển sang làm núi đá, tự nhủ làm núi đá thì chắc chắn nhất, không còn ai làm gì mình được nữa rồi. Nhưng ngó lại dưới chân núi có anh thợ đục đá đang đục trên thân thể mình. Anh ta lại ước được làm thợ đục đá, thế là anh trở lại làm thợ đục đá như xưa!

Cho nên Đức Phật mới dạy sống không nương tựa, không bám víu bất cứ điều gì ở đời. Còn nương tựa, còn bám víu chính là còn thiết lập mối quan hệ. Một người đã giác ngộ ra sự tương giao thì dù có mối quan hệ cũng không sao. Nhưng một người vì thiết lập mối quan hệ mà quên đi sự tương giao giữa muôn loài vạn vật thì đó là sai lầm rất lớn.

Lục Tổ Huệ Năng đã giác ngộ khi nghe được lời kinh: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Tâm vô trụ ấy nghĩa là mắt không bám víu vào sắc, tai không bám víu vào âm thanh, mũi không bám víu vào mùi, lưỡi không bám víu vào vị, thân không bám víu vào xúc chạm, ý không bám víu vào pháp. Bên thiền tông gọi đó là căn không dính trần là vậy.

Và thực ra quá khứ không đạt được, tương lai không đạt được, hiện tại cũng không đạt được bời vì tất cả đều là dòng chảy vô thường thay đổi liên tục trong từng sát-na. Không thể bám víu vào chỗ nào, vìbám víu vào bất cứ đâu cũng trở thành ao tù, bị cô lập mà rơi vào khổ đau. Niết-bàn là không bám víuchứ không phải bám víu vào Niết-bàn.

Vậy thiền là để sống trọn vẹn với sự vận hành của pháp hay là để cô lập mình vào điều kiện được cho làtốt đẹp nhất? Đó là câu hỏi mỗi người cần phải tự trả lời cho mình.




Thế nào là sống tuỳ duyên thuận pháp?



Cuộc sống luôn thay đổi. Môi trường tự nhiên mỗi lúc một khác: Sáng - trưa - chiều - tối, mặt trăng mọc -mặt trời lặn. Mỗi năm có bốn mùa biến dịch: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Trong mỗi tình huống, mỗi trạng thái của cuộc sống lúc nào cũng có 2 mặt đối lập: thành - bại, được - mất, hơn - thua, vui - khổ, cao - thấp, sang - hèn, v.v… nghĩa là trong họa có phúc, trong âm có dương. Tất cả những hoàn cảnh ấy đều là điều kiện hỗ tương cho sự sống gọi là DUYÊN. Có nhiều loại duyên nhưng chung quy có ba loại chính:



Thứ nhất là duyên tương giao tự nhiên: Duyên dễ thấy nhất là hoàn cảnh, môi trường thiên nhiênhoặc nhân tạo sẵn có xung quanh chúng ta. Từ thời tiết tự nhiên bốn mùa thay đổi, mặt trời, mặt trăng, mưa nắng... cho đến những gì đã có sẵn như ngôi nhà chúng ta đang ở, văn phòng chúng ta đang làm việc, con đường chúng ta đang đi v.v… đều là duyên ảnh hưởng từ bên ngoài.



Thứ hai là duyên do nghiệp quả: Những hậu quả do chính chúng ta tạo ra trong quá khứ đang trở nên những điều kiện tất nhiên trong đời sống hiện tại. Như tình trạng đau bụng là do buổi sáng ăn phải đồ bị hư hỏng. Cũng thế, máu đang chảy trong huyết quản với áp suất như vậy, tim đang đập với tốc độ như vậy, mắt thấy, tai nghe trong tình trạng như vậy, v.v… có vẻ như tự nhiên nhưng thực ra đều có liên quan đến quá trình gieo nhân gặt quả trong đời sống của mỗi người.



Thứ ba là duyên trong mối quan hệ: Khi sống trong cùng một tập thể hoặc cộng đồng xã hội, như gia đình, học đường, công ty, làng xóm v.v... chúng ta luôn có mối quan hệ thân hay sơ với những người khác. Những cuộc gặp gỡ tưởng chừng như tình cờ, kiểu như, “Người ơi gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không” thì trong ý đã muốn thiết lập mối quan hệ rồi. Tuy gặp người thế này, người thế khác, khi thuận, khi nghịch, không ai giống ai, nhưng đều có duyên có nợ với nhau. Người Ấn khẳng định rằng bất kỳ người nào mình gặp trong đời đều là người đáng gặp, thậm chí có người đột nhiên tiếp xúc được với những người trong cõi vô hình – cùng là cư dân trên trái đất – thì đều có duyên với nhaucả.



Chúng ta đang sống trong điều kiện môi trường tự nhiên nào, hoàn cảnh xã hội nào, đang gặp tình huống nào, thân - tâm đang ở trong trạng thái nào, dù tốt hay xấu, thuận hay nghịch, đó đều gọi là duyên. Vậy tùy duyên là gì?



Tùy duyên là tùy vào điều kiện hoàn cảnh đã có sẵn, thí dụ như khi chúng ta đang ở buổi sáng thì tùy duyên buổi sáng, khi ở trong mùa thu thì tuỳ duyên mùa thu, khi đang bệnh thì tuỳ duyên bệnh, khi đang khổ thì tuỳ duyên khổ, khi đang vui thì tùy duyên vui. Tức là gặp hoàn cảnh nào thì tuỳ hoàn cảnh đó mà ứng xử thích hợp, gặp môi trường nào thì tuỳ môi trường đó mà ứng biến thích nghi, ở trong trạng tháinào thì tuỳ vào trạng thái đó mà sống sao cho phù hợp và đúng tốt. Đó gọi là tuỳ duyên.



Còn thuận pháp là sao? Thuận pháp thuộc về nhân, khi một người chê mình, mình nổi sân thì đã khởi lên nhân sân, khi một người khen mình, mình thích tức là khởi lên nhân tham. Khi gặp duyên mình khởi lên một phản ứng chủ quan thì đó là nhân. Nhân có hai loại: thuận pháp và không thuận pháp.



Thuận pháp tức là nhận thức duyên một cách đúng đắn đồng thời có thái độ ứng xử (phản ứng) trong duyên đó một cách tốt đẹp. Nghĩa là khi gặp duyên gì đến thì tùy vào duyên đó mà có nhận thức đúng vàhành vi tốt.



Có người không chịu sống tuỳ duyên mà luôn cố tạo ra điều kiện cho hợp ý mình. Đạo Phật không khuyến khích như vậy, mà dạy nên sống thích ứng với duyên đến tự nhiên hơn là thay đổi hoặc tạo tác thêm duyên tự tạo khác. Duyên chỉ là phụ thuộc bên ngoài, nhân mới là chính yếu bên trong, chỉ thay đổitình trạng duyên mà không biết điều chỉnh thái độ nhân thì chỉ tạo rắc rối thêm thôi. Như hành thiền thì lấy duyên ngay nơi đời sống tại đây và bây giờ mà tu, mà điều chỉnh thái độ nội tâm, vì dù ở trong duyên nào mình cũng phải có thái độ nhận thức đúng mới biểu hiện được hành vi ứng xử tốt. Thay vì phải tìm cho ra trường thiền nào có điều kiện tốt nhất, phải chọn cho được thiền sư và pháp môn nào thích hợpnhất, tức là tìm duyên bên ngoài cho vừa ý mình, thì người thực sự biết tu cứ ngay nơi thực tại thân-tâm-cảnh mà thấy, dù là đang đi ngoài chợ hay đang ở trong chùa, duyên đâu thì cũng tu đúng pháp là được. Vì vậy, ở trong điều kiện nào không quan trọng mà có thái độ nào mới đáng quan tâm.



Nếu cứ muốn tìm duyên cho vừa ý mình thì sẽ mãi mãi lăng xăng không bao giờ tự an được, mà cho dù có tìm được cái an trong điều kiện thì cũng tự cô lập mình trong chính duyên đó, để rồi quên mất sự toàn diện của pháp tự nhiên. Duyên pháp tự nhiên đến đi không theo ý mình, mà theo sự vận hành của nhân quả nghiệp báo. Đúng là: “Đã mang chữ nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”. Đã tạo nghiệp trong quá khứ thì bây giờ phải gánh chịu hậu quả để học ra bài học đáng giá đó chứ sao lại cứ cố tình lẩn tránh. Cuộc sống là vô thường, ai muốn duyên phải thường theo ý mình thì càng đau khổ hơn. Đã học dở thì phải nhận điểm thấp để ngay đó còn học ra cách điều chỉnh việc học hành chứ mong điểm cao thế nào được. Vì vậy, nên sống tuỳ duyên mà ứng chứ không nên mong chờ hay tạo tác thêm duyên để rồi rơi vào vòng lẩn quẩn của nghiệp.



Sống tuỳ duyên tức là pháp đến thế nào thì thấy nó là như vậy, không buông xuôi theo nó mà cũng không đối nghịch lại nó. Người sống được như thế là người có sức mạnh lớn nhất. Vì thành công không làm họ phấn khích, thất bại không làm họ chán nản, hoàn cảnh khó khăn hay dễ dàng cũng không làm họ dao động, gặp khổ không lo sợ, gặp vui không chìm đắm. Cuộc đời dường như được trình hiện để mỗi người có thể nhận diện cả hai mặt của cuộc sống mà học ra bài học của mình. Người nào chỉ chọn lựa mặt này và loại bỏ mặt kia tức là đang trốn tránh học ra sự thật, đang tự cô lập hay tự đào thải mình khỏi cuộc đời.



Sống tuỳ duyên thuận pháp là đối với bất kỳ duyên nào cũng sống thuận pháp. Sống tuỳ duyên thuận pháp cần có hai yếu tố cơ bản: trật tự và nhẫn nại.



1. Trật tự



Sống vô trật tự gây ra bất an, bất an gây ra đau khổ. Một pháp đang hiện hữu trong sự vận hành được xác định bởi 3 yếu tố: thời (thời gian) - vị (không gian) - tính (tính chất của pháp ngay trong thời - vị đó). Vào thời điểm này (thời), mình đang ngồi ở giảng đường đây (vị) và đang thấy dễ chịu thoải mái (tính). Thời (thời gian) luôn luôn trôi chảy, vị (vị trí) cũng luôn luôn chuyển động vì mình đâu có ngồi hoàn toànyên một chỗ, tính chất cũng luôn thay đổi, ngồi lúc đầu thì dễ chịu, nhưng sau một lúc lại thấy mỏi chân, v.v… Vậy cả 3 yếu tố này luôn thay đổi một cách trôi chảy, nhưng dù có biến đổi cách nào thì luôn luôn có thời - vị - tính trong từng sát-na. Đi trật cái thời - vị - tính đó gọi là mất trật tự. Mất trật tự cũng có 3yếu tố:



Mất trật tự về thời



Đang sống trong hiện tại mà lại tiếc nuối về quá khứ tức là mất trật tự vì bị quá khứ chi phối, hoặc mơ ước đến tương lai tức là mất trật tự vì bị tương lai chi phối. Thiền là trở về trọn vẹn trong sáng với sát-nahiện tại nghĩa là sống đúng với chữ thời trong Dịch lý - dù chỉ là một sát-na nhưng vẫn có đầy đủ tínhbiến dịch sinh-trụ-diệt. Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát-na. [1]



Nhưng khi không sống trọn vẹn với từng sát-na hiện tại thì chúng ta đã đánh mất rất nhiều thời gian thực sự sống, mà chỉ là sống trong mộng ảo của quá khứ và tương lai.



Mất trật tự về vị



Khi mất trật tự về thời thì cũng mất trật tự về vị. Khi bị quá khứ hay tương lai chi phối thì đồng thời cũng quên mất vị trí thân-tâm đang ở đây.



Mặt khác, khi chúng ta bị thu hút sự chú ý vào đối tượng bên ngoài thì cũng quên mất vị trí thực của mình, thí dụ quí vị đang nghe thầy nói mà quên cả mình luôn, đầu óc cứ suy nghĩ xem thầy nói có đúng không, sao chưa thấy sách nào nói như vậy v.v... Như vậy là nghe mà không nghe điều thầy muốn nói, vì thầy đang chỉ ra thực tại nơi mỗi người thì lẽ ra nghe thầy tức thấy ra chính mình mới đúng, mới không quên vị trí thực tại thân-tâm-cảnh đang là.



Một thí dụ khác là khi đang đi nhưng tâm không trọn vẹn với từng bước đi, mà lại chỉ nghĩ về đích tới, hoặc bị những việc xảy ra bên ngoài chi phối, chú mục xem một cách quán tính mà quên mất chính mình đang đi.



Trong thiền định (chỉ), khi gắn tâm vào một đối tượng (cảnh) thì cũng dễ dàng quên mất vị trí của thực tạithân tâm đang là. Đối tượng của định là do tưởng sinh: sắc tưởng và vô sắc tưởng. Vì vậy cần phải hết sức cẩn thận với loại tứ thiền bát định này. Chánh định là tâm tĩnh tại ở khắp mọi nơi, tức là luôn luôntrọn vẹn với thực tại thời - vị - tính, thì đó mới là đại định của Phật giáo. Còn nếu thiền định chỉ là quên đi tất cả mọi chuyện và ép tâm an trú trong một trạng thái khả lạc hay bất động nào đó thì chỉ là định thế gian, vẫn còn là kiết sử - sắc ái, vô sắc ái – vẫn còn tự cô lập mình khỏi bản chất đời sống vốn vô cùnguyển chuyển và vi diệu này. Nhầm lẫn giữa tứ thiền bát định thế gian với chánh định quả là một sai lầmto lớn.



Đại định hay chánh định của Phật giáo là trong mọi trường hợp, tình huống hay hoàn cảnh (duyên) tâm đều tĩnh tại, tự tại tức là an, an là không mất trật tự, tức là không đánh mất vị trí của thực tại hiện tiền - như nó đang là. Định này mới đi đôi với trí tuệ, vì đối tượng của trí tuệ chính là thực tánh pháp, mà thực tánh pháp chỉ hiện diện duy nhất trong vị trí đang là của nó mà thôi. Thực tánh tức là “pháp trụ pháp vị” có nghĩa là pháp đúng với vị trí đích thực của nó, chứ không phải là hình ảnh ảo qua tướng do tưởng sinh của thiền định.



Mất trật tự về tính



- Về phương diện trạng thái thì tính hay thực tính pháp là bản nguyên của sự vật như nó là, thực tính của một pháp chính là trạng thái nguyên vẹn, hay tình trạng hiện hữu của pháp đó, chứ không phải cái ngoài nó hay khái niệm về nó, vì đó chỉ là tưởng tượng: Thí dụ khi đang ở trong trạng thái bực bội (cảm thọưu), thay vì cảm nhận trọn vẹn tính chất của cảm xúc đó, thì lại cho nó là không tốt, phải dẹp nó đi hoặcmong ước nó sẽ trở thành tốt đẹp hơn... Ngược lại nếu lúc đó là trạng thái thích thú (cảm thọ hỷ), thay vì cảm nhận trọn vẹn tính chất của cảm xúc này thì lại cho đó là tốt, phải giữ nó lại hoặc mong muốn nó tồn tại lâu dài. Vì vậy chúng ta không ngừng cho là... phải là... sẽ là... hơn thấy trung thực sự vật như nó là. Do đó chỉ thấy được vọng tưởng của mình chứ không thể nào thấy thực tính pháp. Khi ở trong trạng tháicủa một pháp mình không trọn vẹn thấy ra tính bản nguyên của nó mà luôn tự phân chia thành hai, một bên là trạng thái khổ thực đang có, một bên là trạng thái lạc ảo chưa có. Lẽ ra mình phải trở về trọn vẹntrong sáng với cái khổ thực đang có để thấy rõ nó trong từng sát-na sinh diệt thì lại mong cầu một trạng thái lạc ảo ở tương lai. Thế là mất trật tự về tính trong thời-vị-tính của thực tại đang là.



- Về phương diện thái độ thì tính biết nơi mỗi người vốn thanh tịnh, trong sáng và luôn có thể trọn vẹnvới pháp tính tự nhiên trong từng sát-na. Tính biết có khả năng thấy biết tất cả pháp với đầy đủ thể tướng dụng, nhưng cái ngã không nhận ra khả năng sẵn có này mà khởi lên ảo tưởng cho là “ta biết” và đôi khi còn coi tính biết là “tự ngã của ta”. Chính cái “Ta” này mới có phản ứng, chọn lựa lấy hoặc bỏ cái này cái kia theo tư kiến, tư dục hay tà kiến, tham ái của mình.



Thực tính của pháp vốn vô ngã - thuộc chân đế - còn bản ngã chỉ là khái niệm ảo thuộc tục đế. Vì quen sống trong khái niệm tục đế nên quên đi thực tính chân đế của pháp. Khi không trọn vẹn với thực tínhchân đế ngay đó của các pháp mà khởi lên khái niệm ảo về chúng, đồng thời khởi lên cái “Ta” giải quyết, xử lý pháp theo ý đồ của bản ngã. Vậy là vô tình đã quên mất tự tính (sabhāva) chân như (yathābhūtā) mà rơi vào ảo tưởng (saññā vipallāsa).



Cho nên Đức Phật mới dạy tinh tấn - chính niệm - tỉnh giác, tức là trở về trọn vẹn trong sáng với thời-vị-tính đang là nơi thân-thọ-tâm-pháp. Thiền tức là trả lại trật tự tự nhiên của thời-vị-tính nơi tâm và pháp, theo Dịch lý thì gọi đó là "Thời vị trung chính". Thời là ngay bây giờ (trung), vị là ngay tại đây (chính) thì lúc đó tính mới là thực (chân). Vậy đang đứng chỉ có đứng, đang nằm chỉ có nằm, đang nghe chỉ có nghe, đang thấy chỉ có thấy… Đó là lúc thực sự trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại.



Trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại đang là tức là sống tùy duyên thuận pháp. Nói theo Tứ Niệm Xứthì khi đang đi trọn vẹn với đi là tùy duyên, trong sáng với đi là thuận pháp. Nói cụ thể dễ hiểu hơn là khi đang đi mà thận trọng - chú tâm - quan sát mọi diễn biến của động tác đi, chứ không bị phân tâm ở chỗ khác là tùy duyên thuận pháp. Hoặc khi đi tâm hoàn toàn sáng suốt - định tĩnh - trong lành là đang tùy duyên thuận pháp. Cũng có thể nói theo kinh điển thì đó chính là đang đi với đầy đủ Giới - Định - Tuệ hay trọn vẹn Bát Chính Đạo đều giống nhau. Thực ra nguyên lý vẫn là trở về trọn vẹn trong sáng với cái thời - vị - tính tại đây và bây giờ. Nếu duyên thuận đến thì sống thuận pháp là dễ, còn khi duyên nghịch đến thì sống thuận pháp có vẻ khó hơn, do đó muốn chấp nhận nghịch duyên thì phải nhẫn nại.



2. Nhẫn nại



Nhẫn nại ở đây là nhẫn nại với tất cả phiền não như tham, sân, dao động, thụ động, buông lung, phóng dật, ngã mạn v.v... Có câu nói khó hiểu nhưng rất chí lý là "Phiền não tức Bồ Đề". Bồ Đề chính là tính giác rỗng lặng trong sáng sẵn có nơi mỗi người. Vậy sao lại nói phiền não tức Bồ Đề?



Đơn giản là vì phiền não khởi lên để xem tính giác có thấy ra được hay không. Có thể nói phiền não làphương tiện để đánh thức sự sáng suốt và nhạy bén vốn có của tính giác. Tính giác phát hiện được nhiều phiền não chừng nào thì trí tuệ càng thông sáng chừng đó. Nếu bất cứ phiền não nào khởi lên cũng đều được tính giác phát hiện thì đó chính là giác ngộ hoàn toàn. Và có thể nói nếu không có phiền não thì không thể biết được hoạt dụng của Bồ-đề thực chất ra sao. Cho nên không sợ phiền não khởi mà chỉ sợ không giác được đúng thời-vị-tính của nó. Người tu thường gặp phải sai lầm khi tự tạo ra cái mình cho là đúng, thật ra cái mình cho là đúng phần lớn chỉ là ảo tưởng. Người tu chỉ cần phát hiện cái sai, cái ảo tưởng để đừng bị nó sai sử thôi, còn cái đúng chính là pháp thực tánh chân đế tự nhiênkhông ai tạo được. Khi không còn ảo tưởng thì tất cả pháp tự tánh đều trở về nguyên vị của nó. Chínhtinh tấn - chánh niệm - tỉnh giác mới giúp mình kịp thời phát hiện được phiền não mà không bị bỏ sót.



Vậy gặp thuận duyên thì cứ thuận mà không tham đắm là được, gặp nghịch duyên không loại trừ mà nên nhẫn chịu thì tốt hơn. Nhiều người nghĩ rằng để mau giải thoát cần phải khổ hạnh chứ không nên ở trong điều kiện thuận lợi, vì sợ đắm chìm. Tuy nhiên bản chất cuộc sống luôn có hai mặt thuận và nghịch, bỏ mặt này lấy mặt kia là thái độ lệch lạc. Cái gì đến thì đến, cái gì đi thì đi là tốt nhất. Thực ragặp thuận cảnh hay nghịch cảnh đều cần nhẫn nại. Gặp thuận cảnh thì nhẫn nại để không bị đắm chìm. Gặp nghịch cảnh cần nhẫn nại để không sinh đối kháng. Tính nhẫn nại không thể rèn luyện nhờ bất kỳ một phương pháp nào, mà phải ngay khi gặp nghịch cảnh hay thuận cảnh mà nhẫn nại điều chỉnh thái độ nhận thức và hành vi của mình cho thích hợp.



Lúc đầu khi gặp nghịch cảnh thì bản ngã đối kháng liền phản ứng – cương quyết dẹp bỏ nó đi theo thói quen quán tính - nên không tự biết mình. Nhưng khi thường tinh tấn - chánh niệm - tỉnh giác nghiêm túc hơn, tức là luôn trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại mà quan sát những gì xảy ra nơi mình trong yên lặng thì mới dễ dàng phát hiện ra những phản ứng lăng xăng này. Rồi bắt đầu nhận diện sự sinh khởicủa các phiền não ngày càng sớm hơn, và dễ dàng chấp nhận nghịch cảnh hơn. Thì ra chính nghịch cảnh khơi dậy tính nhẫn nại và những phẩm chất cao quí khác vốn đang tiềm ẩn nơi mình.



Nhờ nghịch cảnh giúp mình thấy ra được bản chất vô thường, khổ, vô ngã của vạn pháp mà giữ được cân bằng, không bị chìm đắm. Đến một lúc nào đó khi nhận thức đã chín chắn mình mới thật sự biết tri ân nghịch cảnh. Đồng thời nhận ra sai lầm của mình trước đây đã quá vội vàng dẹp bỏ nó đi một cáchchủ quan.



Rồi cuối cùng khi đã thông suốt mới giác ngộ được rằng thuận hay nghịch đều do cái ngã ảo tưởngdựng ra. Cho nó là thuận thì nó thuận, cho nó là nghịch thì nó nghịch, thực ra chỉ có pháp đến đi ngàn đời vẫn vậy, còn thuận hay nghịch là cái nhãn do mình dán lên. Khi thấy rõ điều này thì mới có thể hoàn toàn sống tùy duyên thuận pháp được.



Người sống hoàn toàn tùy duyên thuận pháp thì cũng sống vô ngã vị tha, vì chỉ còn tính giác hòa đồng trong pháp giới tính mà thôi. Vị Thánh đầu tiên là Tu-đà-hoàn còn gọi là Nhập Lưu tức là bắt đầu sốngthuận theo dòng pháp tính tự nhiên. Vị Tu-đà-hoàn đã giác ngộ ra được thế nào là sống tùy duyên thuận pháp và bắt đầu sống đúng theo cái thấy ấy. Thực ra khi đã hòa vào dòng pháp tính tự nhiên thì đâu còn ai đắc mà có quả vị này, quả vị kia hiểu theo ngôn ngữ tục đế. Tất cả các quả vị chỉ là tên gọi quy ước, Phật nói ra để mọi người có thể thấy trình độ tùy duyên thuận pháp của mình tới đâu thôi.



Có người nói rằng Phật cứu độ chúng sinh, nhưng Phật đã nhập Niết-bàn rồi, không còn ai cứu độ nênchúng sinh vẫn khổ. Thật ra đức Phật không cứu độ mà Ngài chỉ khai thị cho chúng sinh thấy bản chấtthật của cuộc đời là như vậy, nó luôn có hai mặt, không thể chọn mặt này bỏ mặt kia. Nếu cứ loay hoay đi tìm cái mình cho là hạnh phúc thì chỉ gặp toàn là khổ đau. Nhưng chính nhờ những khổ đau ấy mới giúp mình thấy ra bản chất hai mặt của cuộc sống và hoàn toàn chấp nhận sự thật ấy mà giác ngộ giải thoát.



Sống tuỳ duyên thuận pháp như vậy Đức Phật gọi đó là Không, Vô Tướng, Vô Tác, Vô Cầu. Lúc nào cũng sống trọn vẹn với pháp, không khởi lên tà kiến tham ái nên gọi là Không; tâm luôn rỗng lặng trong sáng nên không cần chấp giữ một pháp tướng nào, tướng tự đến đi vô ngại nên gọi là Vô Tướng. Tâmhoàn toàn rộng mở, trọn vẹn với pháp tính tự nhiên, nên không cần phải làm gì để trở thành nữa, đó làVô Tác, Vô Cầu.



Ảo tưởng về bản ngã tạo ra rất nhiều trói buộc. Đức Phật có nói:"Này các tỳ kheo, có cái không sinh,không hữu, không tác, không thành bởi vì nếu không có cái không sinh, không hữu, không tác, không thành thì không thể thực hiện được sự thoát ly khỏi cái sinh, hữu, tác, thành".



Ngay thực tại thân - tâm - cảnh nơi mỗi người luôn có cả hai thứ: một là Không Sinh - Không Hữu - Không Tác - Không Thành và hai là Sinh - Hữu - Tác - Thành. Thiền chính là phát hiện ra khi nào làkhông sinh - không hữu - không tác - không thành, còn khi nào là sinh - hữu - tác - thành.



Thí dụ ngay khi tâm đang rối loạn, mình lại khởi lên ý đồ phải định tâm, đó là sinh, ý niệm này làm xuất hiện ham muốn đạt được (trở thành) định tâm đó là hữu, ham muốn liền khiến mình nỗ lực hành động bằng mọi cách để đưa tới định tâm đó là tác, cuối cùng mình đạt được trạng thái định do mình tạo ra đó là thành. Dù mình có đạt định đi nữa thì tiến trình này vẫn là luân hồi sinh tử vì định này có được từ Sinh - Hữu - Tác - Thành. Ngược lại nếu tâm đang rối loạn mà mình trở về trọn vẹn trong sáng với ngay trạng thái đang rối loạn ấy thì đó chính là Không Sinh - Không Hữu - Không Tác - Không Thành. Đó chính làĐại Định, Đại Tuệ vượt thoát luân hồi sinh tử mà Đức Phật truyền dạy.



Hỏi: Sao tâm con cứ lăng xăng hoài không an. Nó làm con rất phiền não. Làm sao cho tâm được an hả Thầy?



Trả lời: Chính ý muốn làm cho tâm an là "đổ dầu vào lửa", càng làm kéo dài trạng thái bất an của tâm.



Đó là câu chuyện về Huệ Khả và Tổ Đạt Ma. Khi tham kiến Tổ Đạt Ma, Huệ Khả trình:



- Xin ngài an cái tâm cho con

Tổ bảo:

- Đưa cái tâm đây ta an cho

Huệ Khả nhìn lại mình một lúc rồi nói:

- Con không tìm thấy tâm bất an đâu cả.

Tổ liền chỉ thẳng:

- Ta đã an cái tâm của ngươi rồi đó.



Mình cố gắng an cái tâm thì không bao giờ tâm an được cả. Cho dù mình có đạt được trạng thái định thìtrạng thái định ấy chỉ là sự bất an đã bị đóng đinh. Vì vậy cái định này còn khổ hơn sự bất an. Thật ra khibất an mà nhìn thấy rõ được sự bất an ấy với đầy đủ tánh - tướng - thể - dụng của nó thì cả Đại Trí lẫnĐại Định đều xuất hiện. Vì thế mới có câu "phiền não tức Bồ Đề". Nếu mình đè nén sự rối loạn đó đi thì sự bất an chỉ chìm vào trong vô thức, còn mình thì tự "đóng đinh" mình trong một trạng thái bất độngnhất thời nào đó mà mình ưa thích. Cái bất an đã chìm vào vô thức ấy trở thành nghiệp quả mà mình phải gánh chịu, sau này nó sẽ khởi lên còn dữ dội hơn nữa.



Vậy khi tâm mình rối loạn, hãy buông cái ý đồ chống đối nó đi, để nó diễn ra trong yên lặng mà thấy cho rõ, hoàn toàn không xen ý chí kiểm duyệt vào thì cái tâm bất an ấy sẽ lăng xăng một hồi rồi tĩnh lặng trở lại một cách kỳ lạ. Nếu mình không xem cái bất an là kẻ thù, không còn chống đối lại nó, thì nó sẽ giúp tính biết hoàn thành tuệ giác.



Bản thân pháp vốn nhất thể, giống như bàn tay có 2 mặt nhưng cùng một thực thể, chỉ có cái ngã lý trímuốn tách mặt này ra khỏi mặt kia theo tư kiến tư dục của mình. Ngay trong sự đồng nhất và tịch tịnhcủa pháp đang là, cái ngã lý trí khởi lên “tự chẻ đầu chính nó” (Pháp cú 72) rồi tự than là phiền não bất an, chứ chẳng có pháp tính nào bất an cả.



Tâm bất an, rối loạn, cũng có lý do của nó, giống như rối loạn tiêu hóa là do ăn uống bừa bãi vậy. Nếu tâm lúc nào cũng lăng xăng tính toán việc này việc kia, ý tưởng này ý tưởng nọ mà thiếu sự trầm tĩnhtrong sáng thì làm sao mà muốn nó an ngay được. Nhưng nếu ngay khi đang ở trong trạng thái bất anmà tâm vẫn trầm tĩnh sáng suốt biết rõ trạng thái bất an đó, không cố gắng lăng xăng xử lý theo ý mình thì thái độ thấy biết vẫn an. Khi thấy biết an thì trạng thái bất an sẽ tự chấm dứt hoặc chuyển hóa thànhtrạng thái an tĩnh theo luật chuyển hóa tự nhiên của pháp.



Có hai loại bất an: Một là những niệm tưởng lăng xăng có nguồn gốc từ những xung động vô thức (tập khí), những gì mình đã chứa nhóm hay dồn nén vào tiềm thức trong quá khứ bây giờ nó tìm cách khởi lên. Hai là những ý đồ tạo tác hữu thức đang ứng xử trong hiện tại.



Đối với những xung động vô thức liên quan đến những gì đã làm trong quá khứ thì cần có sự nhẫn nại để chúng sinh khởi tự nhiên và lặng lẽ quan sát chúng thì chúng sẽ tự diệt, đồng thời nhờ chúng mà mình mới biết được nhân quá khứ mình đã tạo là gì. Làm như vậy chính là giúp hữu thức hóa những tập khí vô thức ấy hầu giải thoát chúng ra khỏi tình trạng bị dồn nén. Còn đối với những thái độ tạo tác hiện tại thì chỉ cần đủ chánh niệm tỉnh giác để thấy được sự sinh khởi của chúng thì chúng không còn gây tạo nghiệp được nữa.



Hỏi: Thưa thầy, khi mình lập kế hoạch để làm việc này việc nọ chính là mình cố tạo duyên đúng không ạ? Lúc đó làm sao để mình sống tuỳ duyên được ạ?



Trả lời: Kế hoạch lập ra biểu hiện trình độ nhận thức và hành vi của mỗi người, vậy mỗi người có quyền lập kế hoạch gì thì cứ lập. Nhưng quan trọng không phải kế hoạch gì mà trong khi thực hiện kế hoạch đó có khả năng biết mình để tùy cơ ứng biến hay không. Việc luôn quan sát và chiêm nghiệm để học ra được bài học về quá trình diễn biến trong công việc hiện tại và sẵn sàng điều chỉnh lại nhận thức vàhành vi của mình cho thích hợp mới là vấn đề đáng lưu ý.



Lập kế hoạch tức là muốn lập trình công việc của mình trong tương lai. Nếu đó là việc sắp xếp trình tự đương nhiên theo diễn biến công việc thì đó chính là tùy duyên mà sắp xếp. Nhưng nếu người không thấy rõ chính mình trong quá khứ và hiện tại thì làm sao lập được kế hoạch cho tương lai, vì tương lai tùy thuộc vào quá khứ và hiện tại. Và nếu họ có lập kế hoạch thì cũng chỉ dự đoán điều mình chưa biết chắc ở tương lai để tự trấn an mà thôi. Nếu người có khả năng thấy mình trong quá khứ, hiện tại rõ ràng thì đối với họ tương lai dù thế nào họ cũng sẽ biết rõ để tùy cơ ứng biến kịp thời và đúng chỗ. Khả năng tùy duyên ứng biến tốt hơn là lập kế hoạch trước để rồi không ứng phó kịp thời với mọi biến đổi vô thường.



Người có tầm nhìn càng rộng chừng nào thì lập trình càng ít chừng đó, họ có cái nhìn bao quát quá khứ,hiện tại, tương lai và vạn pháp, nên họ chỉ cần sống tuỳ duyên thuận pháp là đủ. Người như vậy thì “tùy cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an” nên đụng đâu ứng đó mà lúc nào cũng hoàn toàn chính xác.



Cái sát-na thời - vị - tính tại đây và bây giờ tuy vô cùng nhỏ bé - gần như không có - nhưng lại hội tụ tất cả yếu tính của hiện tại, quá khứ và tương lai. Nếu không thể trở về tiếp xúc với cái điểm nhỏ bé ấy mà cứ lập trình với thời gian - không gian giả định bề ngoài thì bao giờ mình cũng chỉ là nông cạn. Nhưng chỉ cần sống trọn vẹn được với sát-na thời - vị - tính tại đây và bây giờ thì toàn bộ yếu tính của sự sống đã nằm sẵn trong đó. Lập trình làm cho tâm đi theo một lối mòn định sẵn, không còn hồn nhiên trong sángđể đón nhận mọi sự đến đi đầy ngạc nhiên, mới mẻ và sáng tạo.



Nguyên lý đơn giản là luôn biết trải nghiệm, chiêm nghiệm, học hỏi sự thật mới mẻ và sẵn sàng tùy cơ ứng biến để điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng với thời - vị - tính của pháp. Khi làm một việc, quan trọng không phải kết quả của công việc mà là có thấy ra chính mình trong quá trình mình làm việc đó không. Để có kết quả như ý nhiều khi chỉ cần bỏ tiền ra là mua được. Nhưng thành quả cao quý nhất trong cuộc đời chính là học ra bài học chân lý trong từng sát-na thực tại.

Đừng Sống Trong Ảo Tưởng - Nghe Vậy Mà Không Phải Vậy !





Đức Nguyễn




Tôi thành thật khuyên quý vị nên dùng thời gian nghỉ hưu để vui chơi với gia đình con cháu hoặc đi du lịch, nhất là thời gian ít ỏi còn lại nên về VN thăm thú tất cả những danh lam thắng cảnh của đất nước và thưởng thức những món ăn đặc sản của quê hương vì thời trước còn chiến tranh và đất nước bị phân chia nên chúng ta không thể đi hết được. (ĐN)



Ở hải ngoại nghe những lời tuyên truyền rỉ tai bằng tin tức, hình ảnh, video về tình hình VN hiện nay, quý vị cứ tưởng đâu là:

- Toàn dân trong nước đang sục sôi lòng bất mãn, căm thù nhà cầm quyền trong nước và đang hừng hực chực chờ dịp để nổi dậy lật đổ NNVN!

- Còn chính quyền VN là một lũ tàn ác, một đảng Maifia hung dữ, sát khí đằng đằng lúc nào cũng xem nhân dân là kẻ thù cần phải đàn áp và bốc lột họ tận xương tuỷ.

- Bắt buộc toàn dân phải học lý thuyết CS Mac,Lenin và phải noi theo gương đạo đức Bác Hồ như bên Bắc Hàn, Cuba.

- Công an không bảo vệ dân, không bài trừ tệ nạn xã hội, không gìn giữ an ninh trật tự, chỉ chuyên a tòng với bọn găng đảng, xã hội đen để bốc lột, đàn áp nhân nhân.

- Nhà nước thì chỉ lo tham nhũng, cướp nhà cướp đất của nhân dân làm của riêng, không xây dựng những công trình lợi ích gì cho dân chúng cả, để cho dân chúng VN phải nghèo khổ, đói khát, bệnh tật nằm ngồi la liệt khắp nơi.

- Bọn Tàu phù ra vaò tràn lan đất nứơc VN, không coi NNVN và nhân nhân VN ra gì, có những hành động ngang ngược mà không ai dám làm gì chúng. Cho là NNCS hèn với giặc ác với dân.

- Công an, chính quyền chỉ chuyên lo bắt bớ, đánh đập, bỏ tù những người dân vô tội hiền lành như ma soeur.

- Việt Nam ngày nay, theo như quý vị chống Cộng mô tả, không khác gì nơi chốn địa ngục không bằng.



Nếu những ai không thường xuyên về VN thì nghe mấy ông CCCD tuyên truyền và đồn thổi như thế thì chúng ta tin như đinh đóng cột.

Đã 41 năm rồi, tin tức xấu, tiêu cực bên VN mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm càng gia tăng chồng chất nhiều hơn, lớp sau chồng lên lớp trước không bao giờ thấy giảm. Thế mà cụôc sống cuả ngừơi dân và đất nứơc VN vẫn an ninh, phát triển đều đều, nhiều công ty, hảng xưởng ngoại quốc vào VN đầu tư mỗi ngày mỗi đông và khách du lịch ngoại quốc ra vào VN tấp nập. Người VN đi du lịch nước ngoài cũng nhiều.

Nhà cửa, đường xá, cầu cống, chung cư, khách sạn, nhà hàng, bệnh viện , trường học... mọc lên như nấm suốt chiều dài, dọc ngang khắp đất nước.

Không tin quý vị cứ về VN du lịch tham quan một lần đi, coi có đúng như lời mấy ông Chống Cộng hải ngoại tuyên truyền không? Hay như lời tôi nói.

Một người dân sống bình thường, tôn trọng pháp luật, lo làm ăn sinh sống lương thiện thì không có Công an nào, chính quyền nào gây khó dễ để bắt bớ, đánh đập bỏ tù mình Cả!

Quý vị cứ về VN sẽ thấy cụôc sống cuả người dân trong nước ngày nay có thua gì ngày xưa trước 1975 không? Tôi cam đoan với quý vị là họ tự do, thoải mái, sung sướng và hạnh phúc gấp trăm ngàn lần ngày xưa vì họ được thụ hưỡng đủ mọi thứ văn minh hiện đại tiện ích và nhất là được sống trong bầu không khí an ninh, hoà bình không chiến tranh, khũng bố chết chóc.

Tôi bảo đảm với quý vị là họ không bao giờ nhờ quý vị tranh đấu chống cộng dùm cho họ và họ cũng không bao giờ nghe lời kêu gọi của quý vị để đứng lên làm cuộc cách mạng để lật đỗ NNVN đâu! Quý vị đứng phí công vô ích! Và quý vị cũng đừng sống trong ảo tưởng và mê ngủ nữa!

Tôi không là CS, tôi cũng chả bênh CS, tôi cũng chẳng thiên Cộng, tôi cũng không hề bị CS mua chuộc, quý vị đừng chụp mũ tôi vô ích.

Tôi từng về VN thừơng xuyên, thừơng sống lăn chai, chung đụng, giao thiệp, trò chuyện với đủ hạng ngừơi bên VN, từng trải nghiệm qua cuộc sống ở VN. Tôi hiểu rõ tình hình bên VN. Tôi từng đến tận nơi nghe tận tai, xem tận mắt những nơi ở VN mà quý vị chống Cộng hải ngoại từng đồn thổi như :

- Phố Tàu ở Bình Dương được NNVN nhượng đất cho Tàu, người Việt không được léo hánh tới, chỉ dành cho riêng người Tàu, chỉ dùng nhân dân tệ không dùng tiền VN. Tôi đến tận nơi quan sát chẳng đúng theo lời tuyên truyền đồn thổi, mà nơi đó các nhà đầu tư xây cất để bán lại cho người Hoa ở Bình Dương để họ làm nơi trú ngụ và buôn bán như Phố Đại Hàn ở quận Tân Bình, phố Nhật ở Lê Thánh Tôn Quận 1, phố Tây ở đường Phạm Ngũ Lão, phố Tàu ở Chợ lớn thế thôi. Ai muốn đến đó ăn uống mua sắm thì cứ đến có sao đâu.

- Rồi nào là VC xây bia căm thù ở trước cổng toà lãnh sự Mỹ đường Lê Duẩn (trước là toà Đại Sứ Mỹ). Tôi đến tận nơi xem thì chả thấy cái bia căm thù nào cả mà chỉ thấy cái bia ghi công các anh hùng liệt sĩ của VC đã hy sinh trong cuộc tiến công vào toà Đại Sứ Mỹ dịp Tết Mậu Thân.

- Rồi nào là nếu Việt kiều vào Nghĩa Trang Quân Đội thăm viếng mộ những anh hùng tữ sĩ VNCH thì sẽ bị Công an làm khó dễ khi trở về. Tôi cũng vào đến tận nơi Nghĩa trang để thăm viếng và xây lại mồ mả cho các tử sỉ, có Công an nào theo dõi làm khó dễ gì tôi đâu !

- Rồi nào là ai đi đến gần Chùa Liên Trì thì bị Công An theo dõi bắt bớ, tôi đến nơi đó thấy trước cửa chùa Liên Trì người ta sắp đày bàn ghế để bán cà phê, rượu và các món cho thực khách ngồi nhậu và hóng mát có thấy công an nào đuôỉ xô hay bắt bớ khách ăn nhậu đâu.

- Rồi nào là có anh thanh niên tên Dũng vì mặc quân phục VNCH bị Công An bắt. Tôi thấy thanh niên học sinh nam nử ăn mặc quân phục rằn ri cuả TQLC VNCH đi đầy đường ở Saigon mà có ai bị bắt đâu, tôi liền chụp một số hình ảnh của các em để làm bằng.



Phố Tàu Bình Dương (BBC) - Bia tưởng niệm các chiến sĩ trước Tòa Đại Sứ cũ

Nói tóm lại đa số dân chúng ở VN thường hay than phiền là cán bộ đảng viên tham nhũng, hay làm khó dễ dân. Cảnh sát giao thông tìm cách phạt để đòi tiền mãi lộ.

Nhưng thật ra hai bên dân chúng và nhân viên công quyền đều muốn giải quyết mọi sự việc dưới gầm bàn cho nhanh và lẹ nên cả hai đều đồng thuận chung chi vui vẻ cả làng !

Thét rồi thành thói quen và là một nét văn hoá chung chi không thể nào bỏ được. Tôi nhờ anh làm giùm tôi công việc này xin anh cố gắng giúp tôi, tôi xin đền ơn anh, thế rồi bao thơ trao tay. Công ty nước ngoài vào đầu tư thì nếu chịu chi gọi là tiền huê hồng hay bôi trơn thì trôi qua trót lọt.

Dân chúng VN tuy kêu ca nhưng đụng chuyện thì họ cũng áp dụng phương pháp này, vậy mà rất hiệu nghiệm và nhanh chóng không ngờ!

Câu chuyện này giống như chuyện nhân dân tự vệ hay làm affair thời VNCH kể hoài cũng không hết. (SH - thời đó dân chúng có câu nói còn lưu truyền đến nay: "Chuyện dài nhân dân tự vệ")

Tệ nạn này bất cứ nước nào cũng có, kín đáo hay hở hang, nhiều hoặc ít mà thôi ! Nhất là những nước còn nghèo lương bổng nhân viên công quyền quá kém đây là một sự thật không thể chối cải. Chúng ta phải có cái nhìn khách quan.

Làm cán bộ, công nhân viên chức ít lương, tại sao người ta lại chạy tiền để xin vào. Xin thưa vì lương thì ít mà bổng thì nhiều chỉ đơn giản thế thôi!

Vả lại guồng máy cán bộ, công an, quân đội, công nhân viên chức hiện nay ở VN là ai ? Xin thưa họ là giới trẻ con cái của nhân dân VN thì làm sao họ lật đổ họ được.

Ngày xưa đảo chánh qua, đảo chánh lại thì VNCH vẫn còn nguyên và toàn thể quân nhân, công chức cũng vẫn còn nguyên, chỉ thay đổi cấp lãnh đạo chóp bu mà thôi.

Ngày nay cũng thế cấp lãnh đạo chóp bu tranh giành quyền lực với nhau nhưng trong đất nước VN cũng không có gì thay đổi, vũ như cẩn !

Quý vị chống Cộng đừng hòng lật đổ được cả một guồng máy cuả họ, chỉ họ tự thay đổi hoặc tự chuyễn biến mà thôi!

Tôi đồng tình là NNVN cần phải mạnh, cương quyết, và độc tài thêm một thời gian nữa cho đến khi nào đa số người dân VN có dân trí cao, biết tự giác và tôn trọng pháp luật. Còn không thì đất nứơc sẽ rối loạn như Thai lan, libya, syria, AiCập, Irac...

Còn Phi luật Tân và Mễ Tây Cơ cũng nên cần những ông Tổng Thống độc tài như Duterte, Putin, Tập cẩn Bình mới dẹp tan được tội phạm, nhất là tội phạm mà tuý và giữ cho đất nước được an ninh, trật tự.

Tôi cũng mong làm sao ở Mỹ nầy có ông Trump là Tổng Thống dám nói, dám làm, hảy mạnh dạn lên đừng xìu xìu ển ển, tự do, dân chủ, nhân quyền mỵ dân chán lắm!

Tôi thành thật khuyên Quý vị nên dùng thời gian nghĩ hưu để vui chơi với gia đình con cháu hoặc đi du lịch, nhất là thời gian ít ỏi còn lại nên về VN thăm thú tất cả những danh lam thắng cảnh của đất nước và thưởng thức những món ăn đặc sản của quê hương vì thời trước còn chiến tranh và đất nước bị phân chia nên chúng ta không thể đi hết được.

Đất nước mình mà mình không biết hết thì nuối tiếc và ân hận lắmquý vị ơi! Đợi tiêu diệt hết CS thì mới về thì đó là ảo tưởng và chắc là phải hết đời của quý vị rồi ! Đừng phí thời gian, tuổi tác, sức khỏe và niềm vui cứ ngồi canh me để chửi bới, nói xấu, bươi móc, ruả sả, tức tối CS và những ai không cùng ý nghĩ với mình.



Tôi có rất nhiều bạn bè HO, thời gian qua Mỹ không chịu đi làm, hưởng tiền trợ cấp bệnh tật rồi tham gia vào các hội đoàn chuyên đi biểu tình chống đủ thứ, thích dương cờ đưa mặt ra cho người ta quay phim chụp hình. Bây giờ thấy bạn bè mình ai ai cũng kéo nhau về VN vui chơi, du lịch hàng năm thích quá mà không dám về vì sợ bị CS ghi vào sổ đen. Nếu về thì bị nó tóm hoặc đuổi trở lại Mỹ, đành than thở:

- Phải chi tao biết CS nó cởi mở, phát triễn và tồn tại tới ngày nay và thì tao đéo tranh đấu làm gì. Nhìn đi nhìn lại cuối cùng chỉ có phe mình chống phe ta mà thôi. Anh em, bè bạn một nhà trứơc kia thân thiết, bây giờ bôi mặt chửi bới, mặt sát nhau thậm tệ thật là xấu hổ và mắc cở quá đi! Thật tao rất là ân hận.

Vài hàng tâm tình chia xẻ với quý vị.

Chúc quý vị thân tâm an lạc để tâm mình thật bình thì thế giới cũng bình và tất cả mọi việc theo thời gian rồi cũng sẽ qua đi, chế độ CSVN cũng vậy! không ngoại lệ.

Nếu không tin quý vị cứ chờ xem coi CSVN có bị lật đổ không cho biết

Đức Nguyễn

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

Chuyện còn mất ở quê




Đặng Quỳnh Giang



(TBKTSG) - Tôi xa quê đã 20 năm và năm nào cũng về thăm gia đình, bà con, làng xóm một vài lần. Quê hương bây giờ đã đổi khác so với hai thập kỷ trước - khang trang, tiện nghi và cũng no ấm hơn rất nhiều. Dù vậy, những năm gần đây, ở quê đã hình thành những nếp sống, lối sinh hoạt mới, khiến những lần về của tôi không khỏi lạc lõng và ở đó, có những thứ đã mất đi, khiến lòng không khỏi tiếc nuối, ngậm ngùi.


Thói quen tiệc tùng là cái đáng nói đầu tiên. Đều đặn mỗi tháng, nhiều thì dăm bảy lần, ít cũng một vài bận gia đình tôi nhận được lời mời ăn tiệc. Bây giờ ở quê, người ta có nhiều dịp để làm tiệc lắm. Bên cạnh các lý do “cổ điển” như giỗ chạp, cưới xin, ma chay, mừng thọ, tân gia bây giờ lại có thêm nhiều lý do khác như đậu đại học, rửa xe, lên chức, lên lương, lên bằng, vào biên chế, về thăm quê, nhập ngũ, đi xuất khẩu lao động...


Người quê ra đường gặp ai cũng quen, từ “làng trên xã dưới” nên tần suất tiệc tùng càng dày đặc. Ngày trước, người quê mừng lễ, tiệc bằng nải chuối, cân nếp, con gà, thì giờ đi bằng phong bì, trung bình cũng phải 100.000 đồng cho một tiệc. Xã hội đã phát triển, đời sống được nâng cao, đi tiền vừa sang mà cũng tiện cho gia chủ. Thành thử, tiền mừng tiệc nghiễm nhiên trở thành khoản chi cố định và đang là gánh nặng, nỗi sợ hãi với nhiều gia đình nông thôn. Người “được mời” nhiều nhất trong xóm tôi, có tháng nhận đến 12 cái thiệp.


Hồi trước, người ta mời ăn tiệc vào buổi trưa hoặc tối, sau khi khách đã kết thúc việc công sở, ruộng đồng. Nay thời gian ăn tiệc rất kỳ lạ, tầm 8 đến 10 giờ sáng. Ai được mời thì xem như buổi đó khỏi làm việc, bởi nếu đi làm đồng hoặc đến công sở thì có khi vừa đến nơi đã phải quay về ăn tiệc. Tan tiệc thì đã trưa, đã vậy sau khi uống vài chén rượu, ly bia thì phải về nhà ngủ! Sự vô bổ, tốn kém, phiền toái của những bữa tiệc ở quê đang trở thành một hủ tục trầm kha và ngày càng nở rộ. Nhưng chẳng ai dám tiên phong làm khác bởi họ sợ những phản ứng tiêu cực, sự chê bai của xóm làng. Và rồi, người ta chấp nhận khoát nước theo mưa...


Ngày tôi còn ở quê, xóm làng nhiều cây xanh lắm. Cây cho bóng mát, che mưa bão, chống lũ, cung cấp và nuôi dưỡng bầu không khí trong lành, bình yên. Gần đây, với chương trình “Nông thôn mới”, xã và thôn xóm thực hiện rất nhiều đợt “phát quang”- chặt cành, tỉa ngọn, đốn hạ cây xanh. Rất nhiều cây có hàng trăm năm tuổi, là di sản của bao thế hệ cha ông để lại, có vai trò như hồn cốt làng quê, chứng kiến những thăng trầm, đổi thay hàng đời của cộng đồng đã bị đốn hạ không thương tiếc. Người ta lấy thước ra ngắm, cây nào lòi ra so với vạch đã quy định thì chặt, chặt hết! Đường thôn ngõ xóm bây giờ chỉ toàn bê tông và cột điện và ngày càng vắng tiếng chim hót. Thời tiết thay đổi ngày một khắc nghiệt, khó lường, đặc biệt là ở vùng nằm trong tầm ảnh hưởng nặng nề bởi gió Lào, là rốn của lũ bão, là tâm điểm của rét mướt như quê tôi. Một cây xanh bị đốn hạ đồng nghĩa với việc dân làng mất đi một người bạn chở che mình.


Quê tôi gần như nhà ai cũng có vườn tược rộng rãi, nên cả một thời gian dài, làng tôi cung cấp rau cho cả vùng vì trong vườn nhà ai cũng trồng rau và cây ăn quả. Giờ thì rất ít người trồng, vườn chủ yếu bỏ hoang cho cỏ mọc, cho gà đào bới. Ở nông thôn nhưng rất nhiều gia đình lựa chọn phương án mua rau, mua thực phẩm ở chợ thay vì tự nuôi trồng. Và có một nghịch lý là giá cả của rất nhiều mặt hàng ở quê tôi bây giờ, kể cả rau củ quả, thực phẩm đắt đỏ hơn trên phố.


Đường sá, cảnh quan có thể làm cho bộ mặt của làng quê mới hơn, hiện đại hơn. Nhưng người nông dân sẽ chỉ thực sự “mới” khi có người định hướng, dẫn dắt họ bỏ đi những hủ tục, lối sinh hoạt nhọc mình, tốn kém, phù phiếm hình thức. Và cái “mới” cần được bắt nguồn từ nội lực bên trong, bằng những phương thức sản xuất, canh tác, chăn nuôi tiến bộ và hiệu quả. Đi xa, lòng luôn nhớ và tha thiết về thăm quê. Nhưng về ở dăm bảy ngày lại muốn trở lại thành phố vì cảm giác xa lạ, lạc lõng ngay trên nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Làng xóm, ngõ thôn đang thay da đổi thịt từng ngày theo xu hướng đi lên của xã hội. Dù vậy, làm thế nào để phát triển kinh tế và đời sống người dân, mà vẫn giữ gìn, bảo tồn được các giá trị truyền thống - là cái đã làm nên hồn cốt xóm làng, là một câu hỏi chưa có lời giải đáp.

Văn hóa truyền thống Đông Á: có hay không các giá trị nhân quyền?



Vũ Công Giao

Bực tức trước việc các quốc gia Châu Á đề cao và khẳng định các giá trị nhân quyền trong truyền thống văn hoá của châu lục, gần đây, một số người phương Tây đã chỉ trích rằng, văn hoá truyền thống ở phương Đông nói chung, ở Đông Á nói riêng chủ yếu bao hàm những tư tưởng độc tài, phi dân chủ, tàn bạo mà không hoặc chứa đựng rất ít những giá trị nhân quyền và cái "truyền thống tồi tệ" đó là nguồn gốc sâu xa của những "vi phạm nhân quyền" ở nhiều quốc gia trong khu vực này ngày nay.

Vậy thực sự của vấn đề là như thế nào?

Trước hết, văn hoá truyền thống Đông Á là khái niệm chỉ nền văn hoá của các quốc gia ở khu vực Đông và Đông Nam Châu Á (sau đây gọi chung là Đông Á), mà ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam... có vị trí tiêu biểu. Đó là một phức hợp đa tầng của nhiều trường phái tư tưởng và tôn giáo, tín ngưỡng, tuy nhiên Phật giáo, Nho giáo và Hồi giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất. Vì vậy, khảo sát các giá trị nhân quyền trong văn hoá truyền thống Đông Á, cơ bản phải dựa trên ba trụ cột này.

Xét Phật giáo

Ra đời ở Ấn Độ nhưng Phật giáo có ảnh hưởng rất sâu rộng đến các dân tộc ở Đông Á. Loại trừ những hạn chế của nó, có thể thấy Phật giáo rất coi trọng con người và bảo vệ nhân quyền, thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, Phật giáo chủ trương cấm sát sinh (với mọi động vật). Điều đó đồng nghĩa với việc triệt để bảo vệ quyền sống - một quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế về nhân quyền. Học giả Thái Lan Saneh Chamarik còn cho rằng, việc cấm sát sinh còn thể hiện việc thừa nhận sự bình đẳng về nhân phẩm và các quyền của con người trong đạo Phật.

Thứ hai, Phật giáo khuyên con người sống khoan dung. Trong số 14 điều răn của Đức Phật, có một điều rằng: "Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung”. Trong số 10 điều tâm niệm của Đức Phật, có một điều rằng: "Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ là hèn nhát, mà trả thù thì oán đổi kéo dài". Điều này phù hợp với luật quốc tế về nhân quyền bởi trong đó, khoan dung được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng (Liên hợp quốc đã lấy năm 1995 là Năm quốc tế về sự khoan dung và cũng năm này, UNESCO đã ra một văn kiện có tên là tuyên bố về các nguyên tắc về sự khoan dung). Dù vậy, so sánh với tư tưởng khoan dung của Phật giáo, những quy định có liên quan trong luật quốc tế về nhân quyền còn kém xa về tính quảng đại và độ sâu sắc.

Thứ ba, Phật giáo khuyên con người phải biết thương yêu, giúp đỡ đồng loại (từ bi) để tích cực. Trong số 14 điều răn của Đức Phật, có một điều rằng: "An ủi lớn nhất của đời người là bố thí". Trong số 10 điều tâm niệm của Đức Phật có một điều rằng: "Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có mưu tính". Những điều này cho thấy rằng tư tưởng từ bi trong Phật giáo hết sức sâu sắc Việc quan tâm và bảo vệ những nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong luật quốc tế về nhân quyền trùng hợp, nhưng không thể sâu và rộng bằng tư tưởng từ bi của Phật giáo.

Thứ tư, Phật giáo đặc biệt chú trọng đến đào luyện nhân cách (tu nhân). Trong mười bốn điều răn của Đức Phật, có rất nhiều điều răn về nhân cách, chẳng hạn: "Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá", "Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại", "Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tỵ", "Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu”...Trong mười điều tâm niệm của Đức Phật, ít nhất có hai điều về vấn đề này, đó là: "Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa", "Thấy lợi thì đừng nhúng tay vào, vì nhúng tay vào thì hắc ám tâm trí"...Chủ trương "bát chính đạo" của Phật giáo cũng liên quan đến vấn đề này. Ngoài ra, thuyết "nhân quả" của Phật giáo, cho rằng con người phải tự chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo luật nhân quả, cũng là một yếu tố thúc đẩy việc hoàn thiện nhân cách.

Mặc dù luật quốc tế về nhân quyền ít đề cập trực tiếp đến vấn đề rèn luyện nhân cách, tuy nhiên, rèn luyện nhân cách không hề xa lạ với nhân quyền. Nó chắc chắn là nền tảng sâu xa cho việc thúc đẩy nhân quyền, bởi lẽ chỉ khi có nhân cách tốt đẹp, con người mới ý thức đúng đắn được quyền và nghĩa vụ của bản thân cũng như biết tôn trọng và bảo vệ quyền của người khác.

Thứ năm, Phật giáo khuyên con người kiềm chế (thậm chí tiêu diệt) tham, dục vọng. Quan điểm này phản ánh tâm lý tiêu cực, thoát ly thực tại của Phật giáo, tuy nhiên, ở một góc độ nào đó, nó cũng có tác dụng đào luyện nhân cách, từ đó kiềm chế những vi phạm nhân quyền.

Thứ sáu, Phật giáo khuyến khích việc học tập, mở mang trí tuệ. Trong 14 điều răn của Đức Phật, có hai điều rằng: "Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ và trí tuệ" và "Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết". Dù rằng, sự học ở đây chủ yếu hướng về nhận thức tâm linh, song việc tiếp thu những tư tưởng nhân bản của Phật giáo chắc chắn có ích cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.

Xét nho giáo

Là một học thuyết chính trị, đạo đức xuất phát từ Trung Quốc nhưng Nho giáo có ảnh hưởng hết sức sâu đậm, là đấu kết nối chính tạo ra sự tương đồng trong nền văn hoá của các dân tộc ở khu vực Đông Á.

Tương tự như Phật giáo, bên cạnh những hạn chế, Nho giáo cũng chứa đựng những tư tưởng sâu sắc về nhân quyền, thể hiện ở các khía canh cơ bản sau:

Thứ nhất, Nho giáo đề cao nhân đức (lòng nhân), coi đó là triết lý cốt lõi. Lòng nhân, theo Khổng Tử đó là “yêu thương mọi người” (Luận Ngữ). Có người cho rằng, khái niệm “nhân đạo” mà sau này được sử dụng ở phương Tây và trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền bởi nó cùng dựa trên cơ sở yêu thương mọi người, tuy nhiên trên thực tế “nhân đức” trong Nho giáo có phạm vi rộng và ý nghĩa sâu sắc hơn "nhân đạo" rất nhiều. Nếu như "nhân đạo" chủ yếu mang tính hướng ngoại (yêu thương loài người) thì "nhân đức" mang tính cả hướng ngoại và hướng nội. "Nhân đức" trước hết là kính yêu, chăm sóc cha mẹ và những người thân trong gia đình (hướng nội). Về hướng ngoại, theo Khổng tử, người nhân đức là người mà "... khi tự lập cho mình thì đồng thời giúp người khác tự lập, khi cố gắng để thành công thì đồng thời giúp người khác thành công, là người mà: "những điều mình không muốn thì không làm cho người khác" (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Như thế, có thể thấy, "nhân đạo" chỉ là một thuộc tính trong nội hàm của "nhân đức".

Thứ hai, từ việc đề cao nhân đức, Nho giáo chủ trương "đức trị". Khổng Tử cho rằng, một vị vua tất phải là "cha mẹ của dân", phải hết lòng chăm lo cho hạnh phúc của dân. ông còn cho rằng: "Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể không có hành động tội lỗi, nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng.quy phục..."

Quan điểm về "đức trị" trong Nho giáo có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư cách của vua chúa, quan lại và cách thức cai trị của các triều đại ở các Quốc gia Đông Á trong hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến (dù rằng không phải triều đại nào cũng áp dụng "đức trị" một cách triệt để), bởi lẽ nó đòi hỏi vua chúa, quan lại phải tự sửa đổi, trau dồi đạo đức của bản thân để làm gương cho giáo hoá dân… Cho dù chủ trương "đức trị" của Nho giáo nhằm mục đích cuối cùng là duy trì sự thống trị của vua chúa nhưng xét trong tính lịch sử của nó, quan điểm này vẫn có ý nghĩa to lớn trong việc giữ cho xã hội bình an, bảo vệ và thúc đẩy cuộc sống và các quyền của người dân. Loại trừ vài yếu tố không còn phù hợp, "đức tin” vẫn là một nội dung cất lõi trong hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Thực tế là một lý thuyết tương tự không thấy nảy nở trong các xã hội phương Tây thời phong kiến.

Thứ ba, từ quan điểm về đức trị, Nho giáo đề cao con người, đề cao nhân dân. Khổng Tử cho rằng, trong muôn loài, con người là đáng quý nhất. Mạnh Tử xếp nhân dân cao hơn xã tắc và vua chúa toàn vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Ông thậm chí còn xem "ý dân là ý trời". Theo Mạnh tử: "Yêu thương và bảo vệ nhân dân, bằng cách đó không có sức mạnh nào có thể ngăn một người giành được địa vị đế vương". Nho giáo coi nhân dân là nền tảng của đất nước, nếu nền tảng vững chắc thì đất nước mới thái bình và phát triển, người cai trị giống như con thuyền, nhân dân giống như nước, nước có thề chở thuyền và cũng có thể lật thuyền. Người cai trị có thể giữ được quyền hành khi nào còn vì dân và sẽ bị đào thải khi không còn vì dân... Như vậy, ngay từ rất sớm, Nho giáo đã chủ trương "lấy dân làm gốc".

Cùng với "đức trị", có thể bắt góp tư tưởng "lấy dân làm gốc" trong nền văn hoá của hầu hết các nước trong khu vực Đông Á. Mặc dù tương tự như “đức trị", việc "lấy dân làm gốc" trong Nho giáo cũng nhằm mục đích duy trì sự thống trị của giai cấp phong kiến, tuy nhiên, trong tính lịch sử của nó, tư tưởng này có tác dụng rất tích cực đến việc bảo đảm nhân quyền. Nó là điểm cốt lõi cho phép kiềm chế tính độc đoán của vua chúa và quan lại, tạo điều kiện cho nhân dân được hưởng thụ các quyền và tự do trong một giới hạn nhất định. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" từ lâu vẫn là một nguyên tắc nền tảng trong tổ chức và hoạt động của các nhà nước (chỉ khác về mục đích so với Nho giáo) và đã được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế.

Thứ tư, Nho giáo lấy quần thể làm bản vị, đặt lợi ích của tập thể lên trước lợi ích cá nhân. TheoNho giáo, không có cá nhân trừu tượng mà mỗi cá nhân luôn gắn liền với một tập thể (cộng đồng, dân tộc, gia đình). Tách rời tập thể, không chỉ nhân cách bị mai một mà bản thân cá nhân cũng không thể tồn tại cá nhân tồn tại trong tập thể nên quyền lợi của tập thể cũng là quyền lợi cá nhân. Vì vậy, Nho giáo kêu gọi mọi người tôn trọng và hy sinh lợi ích, thậm chí cả tính mạng cho tập thể và coi đó là một hành động đạo đức cao cả. Tinh thần này thể hiện sinh động nhất trong câu nói của Phạm Trung Ngôn - một nhà Nho đời Tống ởTrungQuốctheo đó, người quân tử là người: "Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ".

Điều cần lưu ý là Nho giáo nhấn mạnh và đặt quyền, lợi ích tập thể lên trước quyền, lợi ích cá nhân nhưng không triệt tiêu quyền và lợi ích cá nhân mà ngược lại, nó tìm cách trung hòa hai loại quyền và lợi ích này theo nguyên tắc: "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Tư tưởng chủ đạo Nho giáo trong vấn đề này là một người càng cống hiến nhiều cho xã hội, cho tập thể thì người ấy sẽ càng được xã hội, tập thể tôn trọng, đề cao giá trị và dành cho nhiều quyền lợi.

Một khía cạnh khác có liên quan là Nho giáo coi trọng nghĩa vụ, coi việc thực hiện nghĩa vụ là tiền đề đạt được quyền lợi. Điều đó thể hiện ngay trong ngũ luân. Trong ngũ luân, nghĩa vụ của các chủ thể được đề cập rất cụ thể (vua phải thương dân, tôi phải trung với vua, cha mẹ phải bao dung với con cái, con cái phải hiếu đễ với cha mẹ, chồng phải ngay thẳng, vợ phải nhẫn nhịn, anh phải đại lượng, em phải kính nhường, bạn bè phải thành thật và tôn trọng lẫn nhau...), trong khi quyền lợi chỉ được hiểu một cách gián tiếp theo nghĩa vụ của chủ thể cũng chính là quyền lợi của chủ thể tương ứng và ngược lại.

Những quan niệm trên khác với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ thống trị trong văn hoá phương Tây nhưng không hề mâu thuẫn với tiến bộ về nhân quyền. Đúng là các văn kiện quốc tế về nhân quyền hiện đại chủ yếu đề cập đến các quyền và tự do của cá nhân mà ít đề cập đến nghĩa vụ của cá nhân và các quyền tập thể, tuy nhiên, cần phải hiểu là bởi chúng được xây dựng nhằm mục đích hạn chế và xoá bỏ tình trạng vi phạm nhân quyền, chứ không phải là những tuyên bố về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ và giữa các loại quyền. Mặt khác, ít đề cập song không có nghĩa là các văn kiện đó phủ nhận nghĩa vụ của cá nhân và các quyền tập thể. Minh chứng là trong điều 29 (khoản l,2) của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) đã nêu rõ: (1) “Mọi người đều có nghĩa vụ với cộng đồng mà trong đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và trọn vẹn. (2) Mỗi người, trong khi hưởng thụ các quyền và tự do cá nhân còn phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng với các quyền và tự do của người khác và những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và sự phồn vinh chung trong một xã hội dân chủ...". Nguyên tắc này sau đó còn được tái đề cập và cụ thể hoá trong điều 17 và 18 của Tuyên ngôn về quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ xác quyền và những quyền và tự do đã được thừa nhận rộng rãi (1998). Đặc biệt, các nước trong lục địa châu Phi đã khẳng định rõ sự gắn kết giữa quyền các cá nhân và quyền tập thể ngay trong tiêu đề của văn kiện quan trọng nhất về nhân quyền của khu vực, đó là Hiến chương về quyền của con người và quyền của các dân tộc (do tổ chức thống nhất Châu Phi thông qua năm 1981).

Như vậy, nhấn mạnh và đặt các quyền tập thể và nghĩa vụ lên trên các quyền và lợi ích cá nhân không hề là một cái gì đó sai lầm, đặc biệt khi việc đó không những không triệt tiêu các quyền cá nhân mà ngược lại, để đảm bảo tất hơn các quyền cá nhân. Trên phương diện nhân quyền, việc đặt yếu tố nào lên trên yếu tố nào thuộc về phạm trù tính đặc thù, bắt nguồn và phụ thuộc vào văn hoá. Về vấn đề này, ngài Tommy Kok, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Singapore tại LHQ, trong một bài báo đăng trên tờ The Strait Times (14/12/1993) đã viết rằng: "Người Á Đông không tin vào hình thức tột cùng của chủ nghĩa cá nhân như nó được diễn ra ở phương Tây. Chúng tôi đồng ý rằng mỗi cá nhân là quan trọng, tuy nhiên, cá nhân đó không thể là một thực thể tách biệt mà là một thành viên của mỗi gia đình, một bộ tộc, cộng đồng, quốc gia và dân tộc.NgườiÁ Đông tin rằng, bất kỳ họ nói hay làm gì, họ phải nhớ đến quyền lợi của những người khác. Không giống với xã hội phương Tây, nơi mà một cá nhân đặt những quyền lợi của mình cao hơn của người khác, trong xã hội ChâuÁ, cá nhân thường cố gắng cân bằng quyền lợi của mình với quyền lợi của những người khác hay gia đình và xã hội...". Lời phát biểu trên có thể coi là một câu trả lời ngắn gọn và xác đáng đối với những chỉ trích của phương Tây về cái gọi là "sự phủ nhận các quyền cá nhân" trong văn hoá truyền thống và hiện tại của các nước Đông Á.

Thứ năm, Nho giáo đề cao sự hoà hợp và tôn ti trật tự. Về sự hoà hợp, Khổng Tử cho rằng: " Khi thực hiện nguyên tắc chính trực, sự hoà hợp là quý" (hoà vi quý), và khuyên mọi người "hãy đối xử với người khác như đối xử với chính mình". Theo Mạnh tử: "Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hoà".TuânTử cho rằng: "Hoà hợp là đạo của vũ trụ. Bản thân nguyên tắc kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân cũng phản ánh quan điểm về sự hoà hợp trong Nho giáo...”.

Như vậy, sự hoà hợp có vị trí nổi bật trong tư tưởng Nho giáo. Trên thực tế, nó là sự mở rộng của tư tưởng đề cao con người và quyền con người của Nho giáo. Bởi con người là cao quý nên mọi người cần phải đối xử với nhau trên tình thân thiện, yêu thương, tôn trọng phẩm giá và các quyền của nhau, giải quyết các mối quan hệ trên tinh thần hiểu biết, cảm thông và tôn trọng lẫn nhau. Quan điểm này có thể liên hệ với các nguyên tắc khoan dung, cùng chung trong hoà bình, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau trong luật quốc tế về nhân quyền hiện đại, tuy nhiên, nó rộng và sâu sắc hơn các nguyên tắc này, bởi lẽ sự hoà hợp trong Nho giáo mang tính toàn điện, không chỉ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, mà còn giữa con người với tự nhiên.

Một xã hội có tôn ti trật tự là mục tiêu của Nho giáo. Để tạo lập một xã hội như vậy, chuẩn mực hành vi của mỗi cá nhân được Nho giáo đề cập rất cụ thể, rõ ràng trong ngũ luân, tam cương và ngũ thường, theo đó, ứng với mỗi một vị trí trong xã hội, con người cần phải có những cách thức cư xử nhất định.

Một xã hội có tôn ti trật tự ảnh hưởng như thế nào đến nhân quyền? Không ai có thể phủ nhận là xét ở góc độchung, đó là một trong những yếu tố nền tảng để đảm bảo nhân quyền. Luận điểm này đã được chứng minh trong thực tiễn cũng như được thừa nhận trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền. Vấn đề là hình thức và tính chất của mỗi dạng tôn ti trật tự.

Cho dù có điểm hạn chế thể hiện sự phận biệt đối xử (về đẳng cấp và giới), nhưng ý tưởng về một xã hội có tôn ti trật tự của Nho giáo vẫn chứa đựng những ý nghĩa tích cực với nhân quyền. Trước hết, nó bảo đảm cho xã hội ổn định, qua đó mọi người có thể hưởng thái bình. Mặt khác, sự phân biệt đối xử về đẳng cấp và giới trong Nho giáo, nếu xét mối quan hệ với các tư tưởng về đức trị, "lấy dân làm gốc", đề cao tập thể, sự hòa hợp và nghĩa vụ thì sẽ thấy nó không tồi tệ như một số người phương Tây giàu trí tưởng tượng nhưng thiếu tư duy biện chứng từng miêu tả. Trong xã hội đó, mặc dù đứng trên nhân dân, nhưng vua chúa luôn phải tu dưỡng đạo đức để giáo hoá nhân dân, xứng đáng là "phụ mẫu của dân”, mặc dù vợ phải phục tùng chồng, nhưng chồng cũng phải luôn cố gắng để trở thành một trụ cột cho vợ cả về vật chất và tình cảm... Như vậy, do tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với những tư tưởng tất đẹp khác, ý tưởng về tôn ti trật tự xã hội của Nho giáo tỏ ra sâu sắc và tiến bộ hơn rất nhiều so với trật tự độc đoán của nền quân chủ phương Tây truyền thống.

Quan niệm về xã hội có tôn ti trật tự của Nho giáo có đồng nghĩa với sự tôn sùng quyền lực như một số người phương Tây nhận định hay không? Trên thực tế, văn hoá truyền thống Đông Á không "ưu ái" quyền lực bằng văn hoá phương Tây truyền thống, do những người nắm quyền lực trong các xã hội Đông á luôn bị chế ước bởi các phạm trù đạo đức, ấy dân làm gốc", nghĩa vụ... trong khi đó, suốt thời kỳ Trung cổ ở phương Tây, quyền lực của giáo hội và vua chúa là tuyệt đối. Cái trật tự khắc nghiệt và tuyệt đối đó bắt đầu bị phá vỡ kể từ khi ban hành bản Đại hiến chương Anh (1215), vậy nhưng, xét bản chất, các quyền của nghị viện Anh nêu ra trong văn bản này (và Bộ luật về quyền) cũng chỉ dành cho một nhúm quý tộc và nhà giàu, còn dân thường hầu như không được hưởng. Một dẫn chứng là vào thế kỷ XVIII, ở nước Anh có 4 trường luật đào tạo những người ra làm quan, nhưng chỉ con cái những nhà quý tộc mới được ghi tên vào học. Trong khi đó, tại Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước Đông Á khác từ khi có chế độ khoa cử, bất cứ ai cũng đều có thể ra thi để làm quan. Thêm vào đó, trong các xã hội Đông Á thời phong kiến, thần dân nếu oan ức có thể chặn xe của vua quan để đưa đơn kiện cáo hoặc đến công đường đánh trống xin phân xử... những điều này ở xã hội phương Tây truyền thống không thấy đề cập.

Xét Hồi giáo

Đông Á là điểm cuối của “dải cầu vồng Hồi giáo" vắt qua toàn bộ bán cầu Bắc tính từ Marốc ở phía Tây đến quần đảo Inđônêxia phía Đông. Ngoài Inđônêxia, nước có số tín đồ Hồi giáo đông nhất thế giới hiện nay, khu vực này còn có Malaysia, Brunây và một số nước khác có tỷ lệ tín đồ Hồi giáo đông đảo.

Hồi giáo từ lâu đã bị một số người phương Tây coi là một tôn giáo phản nhân quyền. Họ chê trách tôn giáo này ở vô số điều, từ những hình phạt khắc nghiệt theo luật charia, sự phân biệt đối xử với phụ nữ, tính "hiếu chiến", khủng bố, thiếu dân chủ… cho đến cả tục cắt cơ quan sinh dục của phụ nữ. Nhưng khách quan mà xét, Hồi giáo có đáng phải chịu sự chỉ trích như vậy hay không?

Trước hết, nói về vấn đề bình đẳng giới, đúng là phụ nữ phải chịu những hạn chế khá khắt khe trong một xã hội Hồi giáo, nhưng địa vị của phụ nữ trong xã hội phương Tây trong truyền thống cũng tồi tệ chẳng kém. Cần nhớ rằng, Bộ luật dân sự Napôlêông, một biểu tưởng của nền pháp luật phương Tây, lúc đầu còn không thừa nhận phụ nữ là con người và có những nước phương Tây cho đến giữa thế kỷ XX vẫn chưa thừa nhận các quyền chính trị của phụ nữ. Một ví dụ khác, đúng là luật Hồi giáo cho phép đàn ông lấy tối đa bốn vợ mà chỉ cho phụ nữ lấy một chồng nhưng trong các xã hội truyền thống ở phương Tây, cả đến khi giai cấp tư sản lên nắm quyền, chế độ đa thê đâu đã được xoá bỏ? Xét ở một góc độ nhất định, tình trạng của phụ nữ ở các xã hội phương Tây còn bi thảm hơn các xã hội Hồi giáo bởi có sự dung túng cho tệ ngoại tình và nạn mại dâm, trong khi ở các xã hội Hồi giáo, những tệ nạn này bị cấm triệt để. Điều đó rõ ràng có lợi cho việc bảo vệ nhân phẩm của phụ nữ. Riêng về tục cắt bỏ cơ quan sinh dục nữ, nó không hề được quy định cả trong kinh Kôran lẫn luật charia. Đó đơn giản chỉ là một thủ tục tồn tại nhiều trong các cộng đồng Hồi giáo, chứ không liên quan đến giáo luật hoặc giáo lý của tôn giáo này.

Xét các yếu tố khác như "hiếu chiến", khủng bố, thiếu dân chủ...về cơ bản, cũng xuất phát từ những suy nghĩ mang tính định kiến và phiến điện của một số người ở phương Tây chứ hoàn toàn không phải là bản chất của Hồi giáo. Rất nhiều học giả về Hồi giáo đã chứng minh rõ điều này. Ví dụ, Jacques Rolieet, một nhà thần học theo Thiên chúa giáo đã khẳng định trong cuốn Tôn giáo và chính trị của ông là: "...đạo Hồi không chứa đựng bạo lực...Nếu tôi không nhầm thì kinh Kô-ran quy định rất rõ rằng người Hồi giáo nên tôn trọng người Cơ đốc giáo và người Do thái để họ không chống đối các luật của đạo Hồi". S.S.Husain, trong tác phẩm Đạo Hồi và nhân quyền viết: "NgườiHồi giáo tin rằng, tự do không hạn chế của một người sẽ dẫn đến tước đoạt tự do của người khác. Nhân quyền là kết quả của nghĩa vụ hơn là tiền đề của nghĩa vụ. Tín đồ Hồi giáo có nghĩa vụ với thánh A la và các loài vật trên trái đất, trong đó có các đồng loại của họ. Đổi lại, họ sẽ được A la trao cho quyền con người và tự do. Học giảHammudahAbdalati, trong tác phẩm Học thuyết Hồi giáo cho biết: " TheoHồi giáo, mỗi cá nhân có trách nhiệm đối với hạnh phúc và sự thịnh vượng của xã hội mà người đó trong. Với tư cách là thành viên của xã hội hoặc của một đất nước, mỗi cá nhân phải đặt những quyền lợi của mình sao cho phù hợp với quyền lợi của đa số, miễn là quyền lợi của đa số không trái với luật của thánh A la".

Những điều trên chứng tỏ Hồi giáo chủ trương cân bằng mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quyền và nghĩa vụ. Điều này trái với văn hoá phương Tây nhưng tương tự quan điểm của Nho giáo và phù hợp với luật quốc tế về nhân quyền. ông Mazaffar, Chủ tịch Quỹ vì một thế giới công bằng Malaysia (FWF), trong một bài viết trên Tạp chí Foreign Broadcast Monitor số 301 năm 1994 đã khẳng định: "Quan niệm về sự cân bằng, không còn nghi ngờ gì nữa, là một quan niệm rất quan trọng trong Đạo Hồi... Điều quan trọng là phải duy trì được sự cân bằng hài hòa giữa các cá nhân và cộng đồng, giữa trật tự và tự do”.

Tuyên ngôn quyền con người của thế giới Hồi giáo (Tuyên ngôn Cairô, năm 1990) đã khẳng định, các quyền và tự do cơ bản cũng là một phần của học thuyết Hồi giáo. Không ai có quyền tước đoạt toàn bộ hay một phần các quyền tự do của người khác, đó là luật lệ của thánh A la và luật lệ đó mang tính quyền lực nghiêm khắc. Bản tuyên ngôn còn liệt kê các quyền con người như: quyền bình đẳng, quyền sống, quyền được bảo đảm an ninh cá nhân, quyền được đối xử nhân đạo trong thời chiến, quyền được kết hôn, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, quyền của trẻ em, quyền được tỵ nạn, quyền có việc làm, quyền sở hữu tài sản và quyền có mức sống thích đáng... và nêu rồ rằng, các quyền và tự do nói tới ở trên xuất phát từ và chỉ giải thích trên cơ sở học thuyết Hồi giáo.

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bên cạnh những điểm vũ công Giao hạn chế lịch sử, cả Phật giáo, Nho giáo, Hồi giáo - những trường phái tư tưởng chính ảnh hưởng đến văn hoá truyền thống của các nước vùng Đông Á đều chứa đựng những tư tưởng sâu sắc về nhân quyền. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, những tư tưởng đó đã hòa quyện trong tâm lý, ý thức của các dân tộc vùng Đông Á, tạo nên những giá trị truyền thống về nhân quyền của các dân tộc trong khu vực này mà hiện vẫn được các dân tộc trong khu vực kế thừa và phát triển cũng như đã thừa nhận trong luật nhân quyền quốc tế.

Vậy tại sao một số người phương Tây lại định kiến với văn hoá truyền thống của các nước Đông Á như vậy? Sự định kiến sâu sắc đến nỗi khiến cho Samuel Huntington, trong cuốn Cuộc xung đột giữa các nền văn minh, đã dự đoán, thế kỷ XXI sẽ diễn ra cuộc xung đột giữa văn minh phương Tây (dựa trên nền tảng Thiên chúa giáo) với văn minh phương Đông (dựa trên nền tảng Phật giáo, Hồi giáo và Nho giáo). Nhưng cũng chính Huntington trong cuốn sách này đã giải thích nguyên nhân của sự việc khi viết rằng: "ở cấp độ cơ bản, các quan mềm của phương Tây khác xa với những quan niệm phổ biến tại các nền văn minh khác. Những ý tưởng của phương Tây về chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, tính hợp hiến, những quyền con người, sự bình đẳng, tự do, pháp quyền, dân chủ, thị trường tự do, sự tách biệt giữa các giáo hội và nhà nước, thường ít gây được tiếng vang trong các nền văn hoá của những nước theo Đạo Hồi, Nho giáo, Nhật Bản, các xã hội của người Hindu, các nước theo Phật giáo và Chính thống giáo", chính vì vậy: "Các nỗ lực của phương Tây nhằm quảng bá các ý tưởng này làm nảy sinh một phản ứng chống lại chủ nghĩa đế quốc về nhân quyền" và một sự tái khẳng định các giá trị bản địa. Và học giả này kết luận: "Niềm tin của phương Tây về khả năng phổ cập nền văn hoá của họ có ba sai lầm: Nó giả dối, vô đạo đức, nguy hiểm. Có lẽ phải thừa nhận rằng mọi sự can thiệp của phương Tây vào công việc cửa các nền văn minh khác là nhân tố nguy hiểm nhất gây mất ổn định”.

Có lẽ không cần bình luận gì thêm trong vấn đề này, bởi lẽ những nhận định của học giả phương Tây kể trên đã là quá đủ. Chỉ xin nhắc lại một câu nói của ông Tổng Thư ký LHQ Kofi Anna trong Thông điệp nhân ngày nhân quyền thế giới năm 1997 để thay cho lời kết: "Nhân quyền là biểu hiện của truyền thống khoan dung. Trong tất cả các tôn giáo và các nền văn hoá, nó là cơ sở của hoà bình và tiến bộ. Nhân quyền là giá trị chungcủa mọi nền văn hoá..."

Nguyễn Hoàng Đức - kẻ mộng du giữa đời thường



Nhà văn Sương Nguyệt Minh

Nguyễn Hoàng Đức có hai con người trong ông: Một thông minh, sắc sảo, hùng biện, tranh luận gắt chói đến tận cùng lý tính, với sống đời sống thường nhật rất đỗi thật thà, xuề xòa, hồn nhiên cảm tính. Hai, là kẻ mộng du, ảo tưởng khoác sau lưng nặng trĩu hành trang nguyên lý sang trọng sục sôi phiêu du đến những khoảng không “chân chẳng bén đất cật chẳng bén trời”. Tôi nghĩ: Chính cái chân trời của lý tính luôn ngự trị trong tư duy và cõi mộng tưởng kỳ vĩ của ông cộng với mặc cảm thân phận không được công nhận danh tính đã làm nên cái đặc sắc mang tên Dị nhân Nguyễn Hoàng Đức – kẻ mộng du giữa đời thường.

1. “Nhà triết học số 1 châu Á?”
Ngườita kể rằng: Nguyễn Hoàng Đức được ở bên Đức cha Nguyễn Văn Thuận (một trong nhữngngười được đề cử bầu Giáo hoàng) 4 năm. Qua 4 năm, ông Đức từ một cán bộ an ninh trở thành con chiên ngoan đạo của Chúa, được Chúa giao trọng trách khai sáng đám văn nghệ sĩ u mê. Ông Đức bỏ việc nhà nước, bỏ hết cả mọi danh hiệu hư vinh… chỉ làm mỗi một việc học tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc các trước tác Triết học,Thần học, Văn chương – Nghệ thuật và… viết. Từ dạo ấy, ông không còn là con người bình thường nữa. Ông nhìn mọi người bằng con mắt thương cảm như một bề trên nhìn chúng sinh đang lầm than, u mê cần phải khai sáng bằng Triết học, Thần học. Trong ông có một kho tàng tri thức của nhân loại được tích hợp từ các vĩ nhân: Aristotle, Descartes, Kant, Hegel, Nietzsche… và Kinh Thánh…Ông luôn lấy các vĩ nhân làm chuẩn và bỗng dưng thấy cái đám nhà văn Việt Nam thấp bé, mỏng manh, lọ mọ.

Tôi gặp Nguyễn Hoàng Đức lần đầu trong Trại viết tiểu thuyết Hội Nhà Văn cuối năm 2007 ở Quảng Bá, dù trước đó đã từng đọc nhiều triết luận văn chương của ông ở Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt và những bài luận về đàn bà về tình yêu ở báo Phụ nữ và chuyên san “Hạnh phúc gia đình”.




Hôm ấy, tôi bỡ ngỡ, lạ lùng đến mức cảm thấy ông “đột ngột xuất hiện như một niềm kinh ngạc” giữa đời thường. Trong bữa cơm, tôi chứng kiến một trận thư hùng có một không hai về triết học giữa Nguyễn Hoàng Đức và nhà thơ Đỗ Minh Tuấn. Ông Đức xuất kho nhà triết học Aristote thì ông Tuấn dẫn ra Nietzsche. Ông Tuấn lôi Khổng Tử, Mạnh Tử dậy thì ông Đức bác luôn phương Đông không có triết học, còn tư tưởng thì lìu tìu không tính, rồi ông khai quật Descartes, Kant, Hegel…

Không khí tranh luận bỏng gắt hừng hực bốc hơi, Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang tuyên bố: Ở Việt Nam không có đối thủ triết học để tranh luận cùng ông; có nghĩa là ông đẩy nhà thơ Đỗ Minh Tuấn xuống hàng sau ông và sau bao nhiêu bậc thì ông không nói rõ. Bữa ấy, tôi chêmvào: “Giáo sư Trần Văn Giàu nói rằng: Bản thân mình và đồng nghiệp chỉ là người nghiên cứu, giảng dạy triết học, ở Việt Nam chỉ duy nhất có Trần Đức Thảo là nhà triết học mà thôi”. Tôi dẫn ra các tác phẩm của Trần Đức Thảo tiên sinh như: “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật bịên chứng” và “Nghiên cứu nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức” được phương Tây công nhận đánh giá là kiệt xuất và đưa vào Từ điển triết học thế giới. Nguyễn Hoàng Đức liền lôi phắt chuyên luận triết văn “Ý hướngtính văn chương” dầy 640 trang của mình ra bảo: “Tôi đập nát bét. Tôi đập nát bét”. Sợ quá! Chẳng hiểu ông đập bét tôi hay đập nát nhà triết học Trần ĐứcThảo? Nghĩ nhanh mới biết mình dại, và tôi ân hận, lẽ ra cứu bữa cơm rượu ngon chỉ bằng cách dẫn các nhà triết học cổ đại Socrate, Platon…tầm nhân loại thì may ra “Nhà triết học số 1 châu Á” mang tên Nguyễn Hoàng Đức mới đối thoại.

Hôm đó, ông hùng biện phân tích“Ý hướng tính văn chương” bao gồm 6 chương. Ông đi từ bản tính sáng tạo của con người qua chân lý, đến Thượng Đế, rồi hạ xuống con người, đến siêu hình học, và văn chương cứu rỗi con người, đến phương tiện của tư duy và văn chương – chính là chữ nghĩa. Ông bảo vệ đến cùng luận điểm: ở Việt Nam ông không có đối thủ triết học, dù cơm có nguội, canh có lạnh thì mặc kệ canh cơm. Khi căng khi chùng, có lúc lớn tiếng đến mức các mâm bên cạnh tối tăm mặt mũi như gặp bom B52 trút xuống Hà Nội mùa đông đỏ lửa năm 1972. Ai cũng thấy kì lạ, dường như gác đũa, há hốc miệng nghe và rồi ù tai chẳng hiểu ông nói gì, và mình thu nhận được kiến thức gì trong cái mớ triết học mênh mông của ông. Ngay cả khi ấy, tôicũng nhận ra một nỗi buồn cô quạnh của ông khi ông nói mãi, giải thích mãi mà cái đám chúng sinh người trần mắt thịt chúng tôi không chịu hiểu ra, không nhìn thấy một Hy mã lạp sơn triết học đang ngồi lù lù trước mặt. Từ lúc đó, tôi cũngkhông gắp thức ăn được nữa, chỉ làm mỗi việc… châm tửu hầu ông mải mê thăng đồng chia cắt, định giá, so sánh văn hóa Đông - Tây và sắp đặt nền triết học thế giới một cách rất lành mạnh, đáng yêu, chân thành và nồng nhiệt.



2. Dâng hiến văn chương - nghệ thuật…cái gì cũng nhất.
Nguyễn Hoàng Đức coi thường ra mặt và chê ỏng chê eo nền thơ Việt Nam: “Thơ Việt có thể nói có đến 80% là giành cho các cụ già, tổ hưu, hay giám đốc đã làm xong công việc kiếm quyền kiếm tiền, giờ quay sang kiếm tí danh thơ”. Ông bảo: “Thơ Việt là lời hát ru à ơi của những hàm răng móm.” Ông mắng các nhà thơ: “Họ không có lý tưởng tự do, bình đẳng bác ái lại chui ra từ tem phiếu. Hơn 90% là vô thần! Tri thức công nông binh về tráng men văn hóa ở trạm cấp cứu Nguyễn Du, còn lại là các cụ tổ hưu đã hết sắc hương!” Ông không coi thơ Đường là hay, toàn là những bài tả cảnh tả tình, khá hơn thì nói được cái chí của người quân tử, và đặc biệt toàn những bài lẻ tẻ, ngắn tũn; không thể gọi là những binh đoàn chữ mà tác giả là thống tướng cầm cây gậy chỉ huy. Thơ với ông phảilà trường ca Illiad, và Odyssey của Homer, hay Thần khúc của Dante dài 100 khổ, gồm 14 226 câu thơ. Và ông đã đạt được những điều đó bằng tinh thần sục sôi,không mệt mỏi của mình. Nói có sách mách có chứng, Nguyễn Hoàng Đức nhễ nhại khuân ra xếp cả đống thơ, và chứng minh quyển nào cũng dạt dào tư tưởng: Kẻ hành hương từ đời đến thơ là trường ca mỹ học dài nhất thế giới. Trường ca Đợi... chuyến đò đã lỡ tất nhiên cũng là một bài thơ tình dài nhất thế giới.Điệu kèn cô đơn là tập thơ mang thông điệp tự do tư tưởng… dài nhất thế giới. Thế giới cũng chưa có Trường ca Thần học nào dài hơn Trường ca Thần học “Ngước lên cao” của ông.

Thơmới cũng chẳng là cái đinh trong mắt ông: “chỉ là một cảm xúc vừa phải” và ông gạt sang một bên. Còn đại thi hào Nguyễn Du thì ông cho là đạo văn của ThanhTâm Tài Nhân. “Không có “Đoạn trường tân thanh” thì có Truyện kiều không?” Ông hỏi tôi và ông truy bức tôi phải trả lời ngay: có hay không? và không được kèm theo chữ… nhưng. Vì theo ông câu trả lời rất dễ, cái cần thiết không chỉ trình độ mà còn phải có bản lĩnh to lớn nhất. Theo ông, nhà thơ là phải có nhiều bài, nhiều câu nhiều tập và phải biết viết Trường ca. Không biết viết trường ca coi như chỉ là nhà thơ hạng hai, cũng như nhà văn như Sương Nguyệt Minh chưa in tiểu thuyết thì trong mắt ông cũng chỉ đáng là nhà văn hạng hai hạng ba. Ông bảo: Một câu thơ hay, một bài thơ hay cũng chỉ là túp lều xinh xắn. Trường ca mới là lâu đài đá xanh uy nghi, hùng dũng.

NguyễnHoàng Đức chê văn xuôi Việt không có tư tưởng. Ông bảo: “Tắt đèn, Số đỏ, Chí Phèo, đều là những tác phẩm cóchuyện gay cấn.” Ông đọc Nguyễn HuyThiệp gần hết, nhưng Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu thì chưa. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh thì ông mới đọc mấy chục trang. Còn tôi, ông hạ mình “ban phước lành” đọc cho một truyện ngắn Dị Hương đã là quá may mắn; tất nhiên đó làviệc làm bất bình thường đối với ông. Tôi bảo: Ông là “nhà lý luận phê bình hàng đầu thế giới” không đọc tác phẩm mà dám cả gan định giá nền văn học hiện đạiViệt Nam. Ông nói tỉnh bơ, chân thành, không có ý cao ngạo: “Nhìn cánh én là biết cả mùa xuân”.

NguyễnHoàng Đức viết một chuyên luận về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, và theo ông: Sau khi in chuyên luận ấy thì Nguyễn Huy Thiệp xệp như con dán, ông coi như làm xong nhiệm vụ vinh quang thay thời gian là lấp đất chôn xong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Ông Thiệp không còn lý do gì tồn tại trong tư duy của “nhà lý luận văn học hàng đầu thế giới” mang tên Nguyễn Hoàng Đức. Theo Nguyễn Hoàng Đức, ông đã giải huyền thoại Nguyễn Huy Thiệp và ông cũng quả quyết: “Sau bài của tôi, bữa tiệc của Nguyễn Huy Thiệp chỉ còn là bữa ăn tươi”. Tôi bảo: “Truyện ngắn ôngThiệp vẫn in đều đều, còn cái tiểu luận của ông đòi xóa sổ hộ khẩu văn chương ông Thiệp, thì chẳng ai nhớ và chẳng ai in”. Nguyễn Hoàng Đức bảo: “Không phải bây giờ mà sau này lịch sử văn học phải ghi công tôi đã xóa sạch văn chương Nguyễn Huy Thiệp, Trần Đăng Khoa và cả nền văn học mậu dịch tem phiếu”.

Nguyễn Hoàng Đức luôn bảo người tranh luận đề xuất một nhà lý luận giỏi nhất Việt Nam để ông thách đấu. Đưa ra người nào ông cũng bác thẳng thừng, coi họ là lọ mọ, lìu tìu. Ông bảo: “Gọi là có máu mặt như Trần Mạnh Hảo và Đông La hùng hổ ở đâu, chứ gặp tôi, tôi lừ mắt một cái là cóm róm ngay. Tung hoành ngang dọc gì cũng chỉ từ vĩ tuyến 17 trở vào, chớ dại có vượt sông bến Hải ra bắc”. Lúc nào ông cũng ngong ngóng mong Trần Mạnh Hảo, Đông La chạm đến ông là ông vác trùyra xới. Ở lĩnh vực triết học, đến như Trần Đức Thảo còn dưới cơ ông thì không còn ai đáng để ông đối thoại. Trong “Ký ức lộn xộn về nhà Triết học số 1 châu Á”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết: “Một lần gặp Trần Mạnh Hảo, nhà phê bình mà theo Nguyễn Hoàng Đức là nhà phê bình “cả vú lấp miệng em” nhất Việt Nam, Nguyễn Hoàng Đức chỉ tay vào mặt Trần Mạnh Hảo, tuyên bố: “Nếu ông bước vào sới triết học thì tôichỉ đập một nhát là nát bét đầu ngay”. Tôi đem chuyện này hỏi Nguyễn Hoàng Đức, ông gật đầu xác nhận với tinh thần bừng bừng thách đấu.

NguyễnHoàng Đức chê Mạc Ngôn không xứng đáng đoạt Giải thưởng Nobel và ông viết hẳn một bài dù chưa hề đọc Mạc Ngôn. Theo ông, Mạc Ngôn được Giải thưởng là do Trung Quốc chạy giải. Cả quốc gia chạy giải thưởng Nobel cho Mạc Ngôn. Vì Trung Quốc chưa hề có triết học, chưa hề có tư tưởng, văn chương thiếu hai điều đó thì văn chương không lớn. Nhìn hạt cát biết sa mạc, mùa xuân văn học Trung Quốc đã đì đẹt như thế thì cánh én Mạc Ngôn cũng không bay qua Vạn lý Trường Thành đến với tưtưởng nhân văn nhân loại.

Trongtư duy của Nguyễn Hoàng Đức, thước đo giá trị văn chương nghệ thuật trước hết là phải dầy dặn, đồ sộ. Sách in là phải có gáy dầy, sách đóng ghim mỏng tang dù hay, ông cũng không thèm để mắt. Hấp dẫn dở hay thế nào tính sau, cứ phải dầy, cứ phải dài, cứ phải đồ sộ đã. Sau đó là tư tưởng, không có tư tưởng chỉ là thứ bèo bọt mua vui ở chốn hề chèo. Gia tài văn học của Nguyễn Hoàng Đức khá đồ sộ, chỉ tính cuốn tiểu thuyết Xứ lưu đầy hơn 2000 trang, tiểu thuyết Ngưỡng cửa làm người 4000 trang chưa in, và sẽ rất khó in; nhưng ông đã nhận phần tiểu thuyết dầy nhất, dài nhất Việt Nam.

Có thể nói: Sang nhất, dầy nhất, dài nhất…, cái gì cũng nhất… cũng là nét đặc sắc mang tên dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



3. Cô đơn con người, cô đơn thi sĩ.
Nguyễn Hoàng Đức mắc một căn bệnh kỳ lạ, những ngày động trời, từ trường trái đất mạnh lên là máu tươi cứ tứa ra lỗ chân lông. Khi ấy, ông đau đớn vô cùng, cả đêm thức trắng không ngủ. Triết học, thần học, trường ca dài nhất thế giới… rủ đi hết, đêm đêm ông lặng lẽ ngồi vo những nắm bông trắng thấm máu trên cơ thể mình thả vào thùng rác. Chỉ một ngày sau, thùng rác đã đầy có ngọn bông máu đỏ. Khoảng một tuần thì khỏi, để rồi mỗi khi động trời ông lại chịu khổ nạn một chu kỳ mới. Hết ứa máu, da ông bắt đầu đóng vảy… như vảy rồng, sáng ngủ dậy vảy rụng đầy ga trắng những miếng á sừng hình dạng kích thước khác nhau, vun lại được cả nắm. Ông không đi bệnh viện, ởnhà cũng không uống thuốc và chưa bao giờ ông có ý định tìm thầy thuốc hay đến bệnh viện chữa cho mình. Tôi ái ngại bảo:

“Ông phải đi viện điều trị. Để mãi thế này khổ lắm.”

Ông lắc đầu, quả quyết, khôngmảy may đắn đo:

“Cái khổ của tôi không phải là cái khổ bình thường, mà là cái khổ tuẫn nạn! Tôi đang chịu sự hành xác vì Chúa”.

Nguyễn Hoàng Đức đã là con chiên của Chúa hơn hai mươi năm nay. Không tuần nào ông bỏ sót đi lễ nhà thờ. Ở Trại sáng tác vănhọc Sầm Sơn, cuối chiều thứ 7 nào ông cũng gác bút, đi bộ đến nhà thờ quỳ lạy trước Chúa và nghe cha xứ giảng giáo lý. Lòng tin Chúa vững chắc đến mức ông tin Chúa sáng thế ra thế giới khổ đau này và nói điều gì, ông cũng bảo là “ý Chúa”. Trong tiềm thức kì bí mầu nhiệm, ông tin mình là một con chiên được Chúa yêu thương, chỉ có điều Chúa đang còn thử thách, thử thách cũng chính là hành trình được Chúa đưa ông đến đài vinh quang. Và ông tin, một ngày đẹp trời nào đó, ông sẽ khỏi bệnh, ông sẽ được Giải thưởng văn học Nobel. Chúa lòng lành nhìn thấu mọi sự cõi con chiên, Chúa sẽ không bỏ sót ông. Ngày đó không còn xa nữa, hoặc xa lắm cũng chỉ đến lúc cái thế hệ bạn văn, bạn đọc hôm nay tận vong,thay bằng một thứ bạn đọc, bạn văn khác thì mới hiểu nổi tư tưởng của ông. Vì vậy,ông ngồi viết những trang triết luận, những trang văn thơ trong những ngày máu tứa đầy mình một cách sục sôi, mà an lành.

Nguyễn Hoàng Đức luôn nói ông cô đơn nhất trong mọi nỗi, mọi người cô đơn. Ông bảo tôi: “Ông có cô đơn bên người thân, hay thất tình, hay cô đơn ngay chính trong ngôi nhà của mình thì vẫn chỉ là nỗi buồn nhỏ bé, lặt vặt, ông vẫn còn người để mà thấy, mà nhìn, mà nghe tiếng người”. Nguyễn Hoàng Đức cũng cô đơn trong thường nhật. Hơn 20 năm rồiông sống đơn lẻ một mình. Một mình một tượng Chúa. Một mình một nhà. Một mình một bếp. Một mình một cây đàn piano. Một mình… Cái gì cũng một… để cần mẫn viết nhữngtrước tác khổng lồ cho nhân loại. Chỉ riêng bát đũa là không một mình, bởi thỉnhthoảng ông đãi khách ở nhà. Thời bao cấp đói rách hàn vi, tết đến, điện đóm phập phù lúc có lúc không, ông chỉ đủ tiền mua một cây nến thắp đêm giao thừa, ônghiu hắt buồn cũng như ngọn nến liu riu thương ông mà cháy chậm lại chờ trời sáng. Năm sau, đời sống khá hơn, đêm giao thừa, Nguyễn Hoàng Đức thắp 7 ngọn nến cháy sáng nhảy nhót reo vui, ông cảm thấy mình đang ngồi trước bản đại giao hưởng ánh sáng, nhưng vẫn một mình, hào quang của giao hưởng không át nổi nỗi đơn độctrĩu nặng của người đàn ông bất lực trước hôn nhân.

Khác với người thường chúng sinh như tôi, ông còn một nỗi cô đơn rợp ngợp của kiếp người mang tên: Nỗi côđơn thời đại. Nghĩa thực dễ nhìn thấy là ông vào ra cả ngày đêm, cả tuần, cảnăm không có ai ở bên, đến ăn cũng một mình, ngủ cũng một mình, giao thừa cũng một mình. Võ võ. Đơn độc. Không đảng, đoàn, không hội, nhóm, không làm ở cơ quan nào, sống tự do và viết để sống. Nghĩa ảo là cả dân tộc này, cả thế giới này không ai hiểu được nỗi niềm, tình cảm, suy nghĩ, trí tuệ, tầm vóc khổng lồ của ông. Và đặc biệt, không ai hiểu hết giá trị triết học, thần học, văn thơ… của ông. Ông mang tâm trạng của người: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất. Không có chi bè bạn nối cùng ta”.

Ông luôn luôn cảm thấy mìnhkhông được công nhận, luôn luôn thiệt thòi, luôn luôn đứng ở hành lang. Ông viếtnhiều nhưng được in quá ít, như muối bỏ biển. Ông luôn cảm thấy văn tài bị vùi rập, bị dìm hàng; nhưng ông tin một ngày mai người đời không bỏ rơi ông. Chẳng lẽ ba bộ tiểu thuyết dầy gần 1 vạn trang, với những trường ca dài nhất thế giới phải chờ đến khi ông về với Chúa mới được loại người tối tăm chợt nhận ra và hân hoan đón nhận? Tôi nói với Nguyễn Hoàng Đức rằng: “Ông chót sinh ra bấtphùng thời. Chúng tôi tối tăm chưa nhận ra cái hay và vẻ đẹp kỳ vĩ tác phẩm của ông thì chính chúng tôi mới có khuyết điểm, mới thiệt thòi, chứ không phải làông”. Tuy nhiên, xuất bản tư nhân đang lấn át xuất bản nhà nước (mậu dịch quốc doanh như ông nói) vẫn không mặn mà với tác phẩm Nguyễn Hoàng Đức? Bạn đọc thích đọc các bài tranh luận trên internet của ông hơn là tìm đọc sách chuyên luận triết học, thần học và tác phẩm văn chương của ông. Song ông không lấy đó làm buồn. Số ít mới là số quý. Một nhà văn đọc tác phẩm của ông còn quý giá gấpnhiều lần hàng vạn người đọc ất ơ.

Nguyễn Hoàng Đức đọc “Sông Đông êm đềm” của nhà văn Solokhov.Rồi rút ra chân lý: “Thử so sánh, chúng ta thấy, mỗi người đàn ông xứ họ khi rakhỏi nhà đều nhảy lên lưng ngựa, khi hành động, ứng xử, hay tranh luận ngườita đều thể hiện sự trưởng thành, tính mã hiệp của mình”. Ông buồn vì xứ mình người ta ra đường lại nhảy lên lưngtrâu, trâu thì không thể so với ngựa về sự trưởng thành và mã hiệp. Vì thế, có người xa lánh ông, đến tranh luận người ta cũng lảng tránh, không tranh luận với ông, hoặc tranh luận thì “ăn gian”, nước đôi lập lờ, đuối lý thì đánh bài chuồn. Ông buồn. Ông đòi hỏi sự rõ ràng, minh bạch trong tranh luận, không ấm ớ hội tề. Ông đòi người đối thọai “Hãy chứng minh đi!” Cũng như ai đó nói cướp lời, ông bảo:“Tôi xin ông 1 phút”. Nói xong, ông bảo: “Giờ, đến lượt ông. Cho hẳn 10 phút.”

Ông luôn thách đố bất kỳ ai đặt câu hỏi khó nhất thế giới để ông trả lời. Nhưng, cho đến hiện nay, vẫn chưa cóngười đủ tầm tư tưởng và triết học đặt ra câu hỏi thử thách trí tuệ ông. Ông thèm có một sới văn chương cho ông so găng, ông khát một diễn đàn triết học để ông tranh luận. Có đêm mất ngủ, ông muốn dựng nhà triết học Trần Đức Thảo dậy để hỏi:“Từ điển các nhà triết học” đồ sộ dày 2715 trang tiếng Pháp, khổ lớn, giới thiệu thân thế, sự nghiệp các nhà triết học danh tiếng của nhân loại từ thời cổ đại đến nay. Có những tên tuổi lớn chỉ được dành cho dăm ba dòng, tệ hơn nữa là tôi - Nhà triết học số 1 châu Á Nguyễn Hoàng Đức thì không được chữ nào ở đó.Nhưng ông - Trần Đức Thảo lại được giới thiệu tới ba trang. Vì sao?” Ơ hay! Ông hỏi thì phải hỏi Bernard và Dorothee Rousset với Ban biên tập quyển sách vĩ đại ấy, chứ sao lại hỏi nhà Triết học Trần Đức Thảo đang dong chơi ở cõi Niết Bàn từnăm 1993!

Tranh luận với Nguyễn Hoàng Đức rất mệt. Đang ở vấn đề A thì ông lấy ví dụ ở mệnh đề B để chứng minh, đang ở mệnh đề B thì ông lấy dẫn chứng ở hệ quả C để giải thích. Ai không tinh ý sẽ bị ông dẫn dắt vào trận đồ bát quái, không có lối ra. Cuộc tranh luận nào, ông cũng là người nói câu cuối cùng. Hầu hết, người ta bỏ cuộc. Bỏ cuộc vì mệt quá, không lại với ông trường thanh đại sức. Bỏ cuộc vì không lý lẽ đấu lại với Đức. Bỏ vì Đức thừa thời gian chỉ để tranh luận, viết bài về một vấn đề triền miên hết thángnày qua năm khác. Bỏ vì… tức giận. Nhưng, bỏ thì bỏ vẫn cứ không ghét hay coi thường ông. Vắng ông là cuộc nhậu mất vui, lại nhớ, lại cầm điện thoại í ới mời ông ra làm… “món nhậu”. Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc bia rượu, món ăn trở thành thứ yếu, “món nhậu Nguyễn Hoàng Đức” mới là quan trọng và hấp dẫn.

Nguyễn Hoàng Đức có cái đàn piano cũ nhất Việt Nam, thảng hoặc ông lật nắp đàn lên ngắm, ông có cảm giácnhư đang nhìn trộm công chúa tắm. Đây là cảm hứng của các vĩ nhân cô đơn chơi đàn như một tâm sự, giống Khổng Minh trong Tam Quốc diễn nghĩa mỗi lần chơi đànthì mơ hồ cảm giác như có người nào đang lấp ló nghe trộm. Nguyễn Hoàng Đức yêucái đàn piano như yêu một người đẹp hoàn mỹ. Không ít lần, bần thần vuốt cácphím đen trắng, ông cảm giác được sự minh định phải trái, trắng đen rõ ràng, không mập mờ, giống như con đường chân lý. Ông gõ vào phím trắng là gõ vào tự nhiên, gõ vào đá, gỗ, sắt… Ông gõ vào phím đen bán âm là là gõ vào cái sự nhân tạo, chỉ do con người làm nên, tựa như gõ vào trí tuệ và trái tim để lay động sáng tạo ra văn chương nghệ thuật.

Nguyễn Hoàng Đức chơi đàn thường ngày, ngày nào cũng dành ít nhất là một tiếng đồng hồ ngồi dạo các ngón tay trên phím đàn piano. Cái đàn piano này ông mua từ thủơ hàn vi nghèo khó. Dạo ấy,ông đi phiên dịch cho dầu khí, được ít tiền, thay vì mua được cái nhà cấp 4 diện tích 30m2 thì ông mua đàn. Cũng là cách chia sẻ nỗi lòng khi không còn bầu bạnđược cùng ai thì gửi tâm sự vào âm nhạc. Chiếc đàn sẽ là người bạn thủ thỉ tâm tình cùng ông. Ông đạp cái xe đạp tòng tọc chở người nghệ nhân lên giây đàn giỏi nhất miền Bắc đi mua piano. Người chủ đàn trố mắt ngạc nhiên nhìn hai gã gầy gò, hốc hác và chiếc xe đạp bó lốp. Không ngã giá một câu, ông gọi hai bác cửu vạn mang đến cái võng và cây luồng, đằng trước buộc lên gác ba ga xe đạp, đằng sau buộc lên phốc tăng một cái xe đạp nữa. Dùng dằng vài tiếng đồng hồ rồi cũng võng cái đàn piano về đến nhà. Hai bác thợ cửu vạn nhận tiền công, còn được ôngchiêu đãi một bản nhạc “Phiên chợ Ba tư” trước khi ra về. Dọc đường bác nọ hỏi bác kia trả lời: “Mày nghe nhạc có thấy thích không?” “Không! Nhức đầu lắm. Cứnhư phèng la đám ma. Nể mà ngồi nghe cho hết bài”.

Nguyễn Hoàng Đức là kẻ dấn thân nghệ thuật. Dù nghèo, đi xe đạp ọc ạch bó lốp, nhưng cứ 6 tháng một lần ông mời nghệ nhân giỏi nhất miền Bắc đến tận nhà “lên giây đàn”. Những thanh đồng trong đàn piano được cân chỉnh chính xác, thanh âm chuẩn mới làm ông có cảm xúcngồi vào đàn. Dạo ấy, ông mới tập đàn, lúc bật bông, lúc như gõ phèng la. Thờibao cấp, mọi người đói, mặt xanh vêu vao, người ta đổ xô trên đường kiếm ăn,Nguyễn Hoàng Đức cũng kiếm ăn, nhưng bằng cách viết báo ngồi ở nhà. Nhọc mệt,thư giãn là lại mở nắp đàn piano tập. Hàng xóm lúc đầu tò mò, trẻ con sang xem,ông ân cần gần gũi tiếp khách, còn cho bọn trẻ nhấn ngón tay mấy cái, thanh âm phát ra, chúng cười ré lên sung sướng. Sau thì tiếng đàn cũng làm phiền họ. Đilàm suốt ngày, chiều tối muốn được thảnh thơi yên tĩnh thì lại bị tiếng đàn hàng xóm tra tấn. Bán rau dưa, cà muối, cá khô suốt ngày phơi mặt bị khói hondaxịt cay mắt… lại bị tiếng đàn của ông hành hạ. Nhiều người lặng lẽ bán nhà chuyển đi nơi khác. Gan dạ thi gan với tiếng đàn của ông nhất là một gã Tổng giám đốclắm tiền nhiều bạc không chịu chuyển nhà. Gã nghe nhạc qua loa thùng ầm ầm vẫnquen tai, nhưng cứ mỗi lần tiếng đàn piano vang lên bản nhạc “Đồng quê” dù lànhỏ nhẹ dìu dặt, gã vẫn cảm thấy như thanh âm xuyên qua tường, xoáy vào tai gã nhứcbuốt đến mức không chịu nổi. Gã sai con mở to loa thùng phóng nhạc rốc hiện đại sang phía nhà Nguyễn Hoàng Đức, chống trả lại cuộc xâm lăng của âm nhạc cổ điển.Mặc, ông không hề hay biết vẫn cứ đắm say mê mải với những tiếng nước chảy rócrách, tiếng vó ngựa dồn dập và những thanh âm cuồn cuộn như mây vần vũ, như bão giông cuồn cuộn… trong cô đơn, không chia sẻ cùng ai. Cuối cùng, gã Tổng giám đốc trọc phú cũng phải mua nhà chuyển đi nơi khác. Mới hay, sống chung đã rất khó,cùng hệ mỹ học thưởng thức cái đẹp lại càng khó hơn.

Có một chuyện thật 100%, khiông chưa mua đàn piano, cô bé nhà bên thường sang chơi thân mật chú cháu đến mức bá vai bá cổ, nhưng khi cứ chiều về, tiếng đàn vang lên trong khoảng không giancăn nhà chật hẹp lọt ra ngoài là cô bé xa lánh, dần dần không bén mảng đến chơi nhà ông nữa. Ông nghĩ rằng: Tiếng đàn đã làm ông sang trọng hẳn lên và cô bé cảm thấy thân phận mình nhỏ nhoi, mặc cảm nên khép mình, lùi xa rồi tránh hẳn. Tôi lại đồ rằng, ông chơi những bản nhạc tình yêu trữ tình lãng mạn nồng nàn như làlời tỏ tình, như là lời mời gọi khao khát khác giới… khiến cô gái mới lớn xaoxuyến e lệ lùi xa. Thêm một câu chuyện nữa 100%, gã thanh niên tóc dài lõa xõa bên nhà ông, tục tằn, chuyên nói tục với ông, nhưng từ khi cây đàn piano ngự trong nhà ông thì gã đằm tính lại, nói năng nhã nhặn và hết xả ra những lời thô lỗ.

Bây giờ, ông là tay pianist nghiệp dư cự phách nhất Việt Nam,chứ không phải gã gõ thùng tôn như thời mới tập đàn. Bây giờ, quây quần quanh nhà ông là những người hàng xóm tốt bụng, yêu nhạc, cứ vài ngày ông bị mệt hoặc đi chơi xa, vắng tiếng đàn là họ lại nhớ nhung, gọi vóng sang: “Chơi đàn đi, ông Đức ơi!”




4. Nghi lễ tình yêu.

Nhà triết học số 1 châu Ámang tên Nguyễn Hoàng Đức yêu không dễ. Năm nay, ông đã gần sáu mươi tuổi,nhưng các nàng tuổi 40 rất khó lọt qua mắt ông để mở cánh cửa tình yêu nặng nhưcùm gỗ lim của ông, dù có là hoa hậu quý bà vừa sống đơn thân hay cô gái quá lứa nhỡ thì chưa một lần làm vợ. Vậy thì các bóng hồng tươi xanh tuổi 18 trở xuống mới là cái đích để ông ngắm? Không! “Trẻ ranh” nũng nịu suốt ngày, ông bảo: ở cái tuổi tri thiên mệnh, ông không thể vừa viết những trang triết luận bay bổng về anh hùng mỹ học, vừa dỗ người tình ăn socola; vừa đọc trường ca thần học đầutiên của nhân loại “Ngước lên cao”, vừa thay tã lót cho con. Mẫu hình lý tưởng tình yêu của ông là những cô sinh viên tươi trẻ, nới rộng thêm là các mỹ nữ đơn thân trên dưới tuổi 30, nhưng giới hạn không vượt quá tuổi 35. Tuổi là vậy, nhưng người tình của ông còn phải hiểu biếtthần học, triết học, yêu thích nhạc giao hưởng, biết chơi đàn piano càng tốt vàphải hiểu được công việc lao động văn chương nhọc nhằn cô độc của ông, ít rakhi ông đọc bài thơ vừa mới sáng tác thì lắng tai nghe chăm chú như nuốt từng lời, chứ thờ ơ là nàng đã giết chết cảm xúc sáng tạo của chồng, có nghĩa là hai tâm hồn vênh váo không đồng điệu. Yêu đương cái nỗi gì!

Bạn bè khuyên Nguyễn Hoàng Đứcđừng dây vào cảnh “cha già con cọc”, yêu nhau là đủ, hoặc kết hôn nghĩa chồng vợ tao khang là đủ, họ khuyên ông đừng đẻ con. Đẻ con, sẽ làm nhà triết học lấn bấn vào chuyện sữa bột tã lót bú mớm thì thơ không cất cánh, và tốn thời gian vàonhững việc tầm thường, được đứa con xinh xắn mà mất một cuốn thần học để đời, hay cuốn luận mỹ học tầm nhân loại. Ngược lại, Nguyễn Hoàng Đức coi ái tình phải cay nồng, bỏng gắt như phở có hạt tiêu và ớt, phải bê bết ngàu sủi tinh dịch và nước bọt hôn nhau. Tình yêu hôn nhân phải ngổn ngang, bề bộn tã lót, nhôm nhoam cứt đái và tiếng cười tiếng khóc trẻ con mới đã. Ông là triết học đại tài tầm châu Á, ông rất muốn yêu lấy vợ sinh con với ý nghĩa truyền giống tốt, giốngtinh hoa, giống thiên tài. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, ông vẫn chưa tìm được người phụ nữ của mình để gieo giống. Hỡi những người phụ nữ xinh đẹp vĩ đại! Sao lại bỏ dở một cơ hội vàng ngàn năm có một? Hãy hành động đi! Hãy đến với ông hoàng của văn học Việt, hãy đến với “nhà triết học số 1 châu Á” đi, kẻo các nàng sẽ rơi vào không gian u uất ân hận và tiếc nuối suốt đời.

Một lần tôi hỏi ông:

“Ông già rồi. Sao cứ chịu cảnh ế ẩm đời trai hiu hắt thế?”

Ông ngẫm nghĩ một lát, và thở dài:

“Tôi đã là ông hoàng của vănhọc Việt Nam, hoặc giả chỉ là cái bóng của ông hoàng thì cũng có nghĩa là tôi sẽcó cả ngàn cung tần mỹ nữ. Nhưng, tôi không muốn ái tình nhôm nhoam với hết người này đến người khác. Tôi chỉ chưa tìm được hoàng hậu của lòng tôi. Bởi vì Chúa đang thử thách tôi.”

Nguyễn Hoàng Đức là con ngườidư trí tuệ, thừa tài hoa, nhưng thiếu đào hoa. Ông đẹp trai, mũi cao to và gương mặt đẹp như nhà triết học Hy lạp cổ đại chúng ta thường thấy hiện diện đâu đó ở tranh tượng trong bảo tàng nghệ thuật. Ông cũng thuộc hàng nam tính, trí tuệ tài năng. Cái gì ông cũng hơn đám đàn ông bạn bè. Nhưng, ông không một cánh đào hoa. Các bạn ông đào hoa như rộn rã như máy gặt đập liên hợp, tình yêu cuồn cuộn như thác lũ. Còn ông như con cá trên cánh đồng khô cạn hớp hớp từng giọtsương tình yêu nhỏ xuống từ mái gianh nghèo. Nhưng ông vẫn cam chịu, không một mảnh tình vắt vai. Ông tin một niềm tin vững chắc và hi vọng rằng: Chúa đang sỉ nhục ái tình của ông, và khi Chúa sỉ nhục đến tận cùng con đường đào hoa của ông thì Ngài sẽ mở lòng, giải phóng cho ông khỏi cuộc hành xác chịu nạn thiếu hụt ái tình. Lúc đó, người đẹp bất ngờ xuất hiện như cổ tích, cánh cửa ái tình mở toang ra. Ông sẽ rực rỡ trong ánh hào quang hạnh phúc với người tình và hôn nhân chóng vánh, ông sẽ gieo giống vào hoàng hậu của lòng ông. Nhân loại sẽ đón chờ cuộc tình vĩ đại cũng y như đón chờ hạt giống triết học ông gieo xuống thế gian trở thành đứa con bất tử như sự bất tử của ông. Đó là niềm tin thành thật.

Dù vậy, tôi vẫn nghĩ: Người con gái nào chấp nhận yêu, lấy ông làm chồng sẽ là người phụ nữ vĩ đại nhất hành tinh, nàng hi sinh không phải vì hoàng đế văn chương khổng lồ Nguyễn Hoàng Đức mà chính là nàng hy sinh đời nàng cho một kẻ mộng tưởng đi giữa đời thường– một nhân vật văn học tương lai của nhân loại.

Nguyễn Hoàng Đức quan niệm: Từ tình yêu đến hôn nhân là phải có lộ trình, và vì tình yêu thiêng liêng chứkhông trần tục như tình dục, nên phải có nghi lễ. Cái nghi lễ của ông là câu chuyện thế này xin hầu bạn đọc:

Bạn bè thấy ông đơn thân, tìm hoài vẫn không đứng đầu đứng số, thương lắm vun quén nhiều nhưng chẳng hiểu sao mười cô gái đến thì chục cô đi. Bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ, giáo viên, nhà thơ, nội trợ… đủ cả, nhưng Nguyễn Hoàng Đức vẫn thân đơn bóng chiếc. Tôi cũng nhiệt tình giới thiệu một cô bạn vong niên 28 tuổi xanh là kế toán một công ty, rất say phim truyện tình yêu truyền hình dài tập của Hàn Quốc, đã bắt đầu vào thời đằm thắm. Tôi bảo ông: “Giới thiệu xong là tôi tìm kế “tẩu vi thượng sách” nhường lại không gian huyền ảo cho hai người tự do tìm hiểu. Lần này con cá to. Chớ để sểnh.”Ông Đức hân hoan, sướng lắm! Ông có mặt ở nhân gian nhìn ánh mặt trời trước nàng 23 năm. Có hề chi, nàng đã nghe danh chàng từ lâu, và lòng rất mến mộ.

Tôi đưa nàng đến nhà ông.

Quá bất ngờ! Chúng tôi choáng ngợp bởi không gian huyền ảo lung linh của hàng chục ngọn nến cháy sáng giữaban ngày. Tượng Đức Chúa Jêsus Christ đóng đinh trên cây thánh giá, ảnh Mẹ Maria,các loại ảnh và lịch Thiên chúa giáo, các tượng bán thân Nguyễn Hoàng Đức kích cỡ bằng người thực, và sách triết học, thần học trong tủ với báo chí chất ngổn ngang chung quanh. Tất nhiên còn có cả hoa tươi và cây đàn piano cổ kính phủ chiếc khăn màu hổ phách in hoa văn cách điệu có nguồn gốc từ xứ xở Ba Tư tạo nên không gian dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



Họ chào nhau khá thoải mái, cởi mở và xem ra ông cũng rất thích nàng. Tôi hào hứng:

“Xin giới thiệu với em! Anh Nguyễn Hoàng Đức đây là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà truyện ngắn, nhà biên kịch, nhà báo, “nhà lý luận phê bình văn nghệ hàng đầu thế giới…”

Gương mặt ông sáng bừng, nhưng dường như tôi chưa làm hết phận sự, ông hân hoan, trân trọng tự giới thiệu tiếp:

“Anh còn là nhà triết học, nhà thần học, nhà mỹ học…”

“Đúng đúng! Em thấy không, Nguyễn Hoàng Đức của chúng ta có duyên nhé, lại rất nam tính, đến anh là đàn ông mà còn mê…”.

Ông Đức cười tủm tỉm rất đángyêu bảo:

“Em đừng nghe Sương Nguyệt Minh. Hắn “dìm hàng” đấy.”

Đột nhiên ông tăng âm lượng giọng nói và hùng biện:

“Thước đo đàn ông là cái đầu triết học thông thái, em ạ. Chứ ông Minh khen anh nam tính là cổ vũ cho khả năng giỏi chuyện giường chiếu…, tình dục. Anh… không chấp”.

Đôi mắt cô bạn gái hơi bối rối,e thẹn. Tôi đưa mắt như muốn bảo Đức: “Ông dịu dàng, âu yếm một chút cho tôi nhờ.Hôm nay, việc trọng đại là… tình yêu, chứ không phải là triết học, thần học”.Nhưng, Đức không để ý đến cái nhìn của tôi, ông đứng phắt dậy, hùng dũng đi đến tủ sách lôi cuốn “Hiện tượng học tinh thần”của Hegel in bằng tiếng Pháp dầy gần 2000 trang và cuốn “Ý hướng tính văn chương” của ông, dầy như viên gạch vồ đặt ra bàn,nói với cô gái mới quen:

“Em thấy không. Đàn ông là phải trí tuệ, khen anh nam tính có họa bằng chê ngầm anh cơ bắp. Con người thằng đànông hơn nhau ở chỗ đẳng cấp trí tuệ, em ạ”.

Tôi nói:

“Ông ơi! Pascal bảo: Con ngườichỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên.”

Ông Đức bảo:

“Nhà triết học Pascal cũngnói: Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ. Ông Pascal còntriết luận: Nếu cái mũi của Cleopatra dài thêm một chút thì cục diện thế giới sẽthay đổi…”

Gay rồi. Tôi đã vô tình thò bàn tay vào suối nguồn triết học của ông. Nguyễn Hoàng Đức giải thích ẩn dụ“cái mũi của Cleopatra”, ông phân tích tính từ “dài”, ông chứng minh “cục diện thế giới sẽ thay đổi”…Chết mất thôi! Hết triết học Pascal sang Hegel đếnNietzsche rồi quay về “Ý hướng tính vănchương”…

Tôi ngồi bên thò tay giật giật vạt áo ý nhắc nhở ông quay về chủ để tiếp bạn gái. Ông gạt tay tôi bảo với côgái:

“Anh Sương Nguyệt Minh là chúa… “dìm hàng” em ạ.”

Rồi Đức quay phắt lại bảo tôi:

“Bây giờ đến lượt ông nói đi.Cho ông nói về triết học… 30 phút đấy. Không nói được ấy gì. Chết chưa!”

“Ừ. Chết. Tôi đang chết đứ đừđây. Hôm nay là ngày của ông nói chứ không phải tôi.”

Tôi ghé tai Đức thì thào rằngtrọng tâm buổi gặp gỡ hôm nay là cô bạn gái, còn triết văn để hôm khác. Mặt ôngthộn ra, cười gượng gạo rất đang yêu. Tôi kiếm cớ chuồn và hẹn sẽ quay lạitrong thời gian ngắn nhất.

Đúng là Pascal rất có lý khi nhận ra "Con tim có những lý lẽ mà nhiều khi lý trí không thể hiểu nổi". Khoảng gần một giờ sau, tôi chưa kịp quay trở lại nhà Nguyễn Hoàng Đức thì cô bạn gái điện thoại:

“Anh Minh à. Em về rồi.”

Tôi sửng sốt:

“Chết thật! Sao về sớm thếem? Anh nói trước rồi mà. Cái việc tỏ tình thì Đức tồ lắm”.

“Em hết chịu nổi rồi, anhơi!”

“Là sao?”

“Ảnh ấy bảo: Hôm nay, em là khách quý đặc biệt, anh phải đón bằng nghi lễ đặc biệt. Em bảo: Anh đã thắp 28 ngọn nến giữa ban ngày làm nghi lễ đón em rồi. Anh ấy bảo: Đó chỉ mà nghi lễ giáo đầu. Bây giờ mới là nghi lễ chính thức. Nói rồi, anh ấy bước đến cây đàn piano, bảo: Anh sẽ dâng hiến em bản nhạc Sotana The moonlight của Beethoven…”

Tôi cướp lời người đẹp:

“Có phải trước khi đàn, ông ấy phân tích chương một giai điệu chậm rãi, tha thiết như lời than vãn, đánh thức hồi ức tình cảm dịu dàng êm như ánh trăng tan nhẹ trên mặt hồ mênh mông lặng sóng không?”

“Vâng!”

“Rồi ông ấy nói về chương hai ánh trăng chảy mải miết theo dòng sông dài bất tận, báo hiệu một điều khủng khiếp dữ dội sắp xảy ra không?”

“Vâng! Rồi anh ấy phân tích chương cuối ánh trăng tan vỡ trên mặt sóng giông tố, khơi gợi cảm xúc mãnhliệt, dữ dội như con người đang quay cuồng, vật lộn với bão giông đại hồng thủy, với nỗi buồn đau nhưng không tuyệt vọng…”

“Ôi trơ…ời!” - Tôi hét vào ống nghe.

“Đàn xong bản “Sonata Ánh trăng” thì 12h trưa, anh ấy không dừng lại mà dâng hiến cho em tiếp bản nhạc giao hưởng “Định mệnh”.

“Bảngiao hưởng ấy bốn chương đấy. Chơi hết thì… chết đói a?”

“Vâng!Vì thế mà em phải viết mảnh giấy chào rồi kẹp vào quyển triết học “Hiện tượng học tinh thần” của nhà triết học Hegel gì đó, rồi ra về khi anh ấy còn…đang mê mải đàn”.

“Ôigiời ơi là giời!”

Tôichỉ còn biết kêu lên thảng thốt, đầy bất lực vừa giận vừa thương ông. Quên cả ngườiđẹp đang đói bụng ở bên, qua phím đàn piano, ông thả hồn vào “Sotana Ánh trăng”để tỏ tình, nhưng ông mải miết đắm đuối theo dòng chảy âm thanh từ “Ánh trăng”sang “Định mệnh”. Định mệnh thì yêu đương cái nỗi gì!



5. Triết lý mang tên Nguyễn Hoàng Đức.

Nguyễn Hoàng Đức là một con người vừa đơn giản vừa phức tạp.

Sau cái dạo gặp nhau đầu tiênở Quảng bá, bẵng đi một tháng, Nguyễn Hòang Đức gọi điện thoại cho tôi mời đếnnhà riêng ăn tiệc. Hóa ra, “gần nhà xa ngõ”, mười năm chúng tôi ở gần nhau chưađầy 200m mà chưa một lần chạm mặt nhau.

Tôi rụt rè gõ cửa.

Rụt rè là bởi tôi đã nghe ngườita kể về những về những cuộc đón khách kỳ lạ của ông: cuộc linh thiêng, cuộc lộnglẫy, cuộc thần bí và cả những cuộc cười ra nước mắt. Ông gọi với ra, bảo tôi chờ tí. Thì ra, ông đang ghim cà vạt và nghiêng ngó trước gương. Ông mở cửa. Choántrước mặt tôi là một người đàn ông cao lớn lịch thiệp, đóng comple màu be ra dáng chính khách, nhưng cái đầu là của nhà triết học với vầng trán rộng, mũi to và cao, mái tóc hơi dài chải bồng về phía sau. Tôi ngỡ ngàng, nhìn thân mình tôi cao nghều với quần lửng, đi dép lê, mặc áo thun, tay cầm chai rượu quốc lủi Phát Diệm nút lá chuối.

“Ôi! Trịnh trọng quá. Ông vừa đi đâu về hả?” - Tôi ngơ ngác hỏi.

“Không! Tôi vừa sắp tiệc đãi ông”.

“Vẽ. Có hai người mà…”

“Ừ, nhưng ông là khách quý, lần đầu đến nhà nên tôi đãi yến tiệc triều đình...sang nhất.”

Sang nhất! Ôi. Lần đầu trong đời được làm vua.

Ăn cũng phải sang nhất. Ông coi món ăn Việt là lìu tìu, không có món nào ra hồn, không có quốc hồn quốc túy về ăn uống. Ở Nga có rượu Vốt ca, ở Ba Lan có rượu cỏ, ở Pháp có vang booc đô, ở Nhật có sakê…; ở Việt nam thì… quốc lủi, mà rượu làng Vân, rượu Phát Diệm, rượu Bầu Đá, rượu Sán Lùng… cứ lọan lên chẳng có loại nào đại diện cho quốc gia. Còn ăn uống thì rau luộc, thịt luộc, luộc cả con lợn…, chỉ có luộc với chấm. Chả lẽ lại đem mắm tôm,hay dưa khú làm quốc yến?

Tương tự, đàn bầu ngũ cungcũng không thể thi thố với đàn piano của thiên hạ. Ông rất dị ứng với những gìtranh tre nứa lá như sáo, nhị, hồ. Với ông, tất cả phải kì vĩ, hoành tráng,mênh mông, lộng lẫy và… đặc biệt. Đặc biệt như cây đàn ghi ta phải là loại gỗthông mọc trên triền đá chịu khô hạn, bị gió bão, mưa tuyết đánh tơi bời…thìlàm bầu đàn, cần đàn mới tốt, không bị cong vênh, âm thanh chuẩn bốn mùa xuân hạthu đông.

Triết lý “Thành La Mã khôngxây trong một đêm” luôn chỉ đạo tư duy và hành động Nguyễn Hòang Đức. Vănchương thì trước hết phải lấy số lượng làm đầu. Một câu thơ hay, một bài thơ hay… không tính là nhà thơ. Một tập thơ hay mà không có gáy đóng ghim ông cũngcho là mỏng manh yếu ớt lìu tìu. Đã là nhà thơ phải viết trường ca, đã là nhà văn phải có tiểu thuyết, không phải 1 cuốn mà nhiều cuốn, phải lấy thước mét đểđo. Văn thơ phải có tư tưởng chứ kể và tả chỉ là mua vui giải trí, mỹ học thấpbé lọ mọ tăm tối như túp lều tranh tre nứa lá… không chấp. Ông hiên ngang đi giữađường thơ vác cây thập giá triết học, đeo túi cỏ thần học đến lâu đài văn chương kì vĩ bằng đá xanh, bỏ qua mọi ngôi nhà tranh, nhà gỗ chỉ một trận hỏahoạn là thành tro.

Trongcon mắt Nguyễn Hoàng Đức, người Phương Tây nhất là dân du mục đi khỏi nhà là nhảylên mình ngựa nên tính tình phóng khoáng, mã hiệp. Bây giờ, ông đi ra khỏi nhà, không nhẩy lên mình ngựa mà nhẩy lên…ô tô. Ông Đức mua ô tô và đãi bạn (còn gọilà khao) bằng cách mời tôi ngồi lên để ông chở đi 1 vòng quanh nội thành Hà Nội.Ông cảm thấy tự tin vô cùng, bảo: “Từ nay tôi hết lọ mọ rồi, ông ạ”. Tôi phấnchấn chia vui: “Tôi không nghĩ thế, mà đã tính đến cái chuyện ông lấy được vợ từcái xe ô tô này”. Triết lý của ông là: từ cái xe đạp lên xe máy, dù là xedyland hơn 200 triệu đồng thì cũng chỉ là xe hai bánh, chẳng khác gì nhau.Nhưng, xe ô tô, dù là xe cỏ mua rẻ 14 triệu đồng ngang với đồng nát thì vẫn làxe ô tô, nó sang hơn vì nó có… 4 bánh, và bỏ tay lái nó vẫn đứng, chứ xe máy,xe đạp bỏ tay ra là… đổ kềnh.

Nguyễn Hoàng Đức dù là một “triết gia vĩ đại”, một “nhà văn khổng lồ”, một “anh hùng mỹhọc” vác thập giá đi chinh phục đám văn nhân lìu tìu chúng tôi thì ông vẫn phải sống như một con người bình thường. Có nghĩa là: ông phải ăn uống, phải mặc, phảiđi lại, phải mưu sinh. Hàng tuần, ông viết 1 bài báo cho báo Phụ nữ… đủ sốngcho cả tuần, nhưng thiếu tiền đổ xăng, ông lại phải viết 1 bài nữa cho báokhác. Cứ ngừng viết là ông ngừng có tiền tiêu vì ông không có lương. Ông là vĩ nhân, là người theo Thiên Chúa giáo, trước lúc ăn phải làm lễ trịnh trọng. Khicao sang thật cao sang, khi xuề xòa thật xuề xòa đáng yêu. Ông ăn salat Nga, thị thun khói, thịt cừu chiên, thịt ngỗng trời quay, uống rượu mạnh Chivas hũ sàng21 năm…, nhưng ông cũng xài được đồ ăn Việt thứ gì ăn cũng thấy ngon: Lòng lợn mắm tôm. Thịt chó. Chân gà nướng. Đậu phụ luộc…Khi ăn món ăn Tây, ông trịnh trọngkính cẩn làm nghi lễ thưởng thức văn hóa ẩm thực. Khi ăn đồ ăn Việt ông chỉ coilà… nạp năng lượng, đánh no bụng để đủ sức hành trình sáng tạo.

Nhàthơ Đỗ Minh Tuấn gọi Nguyễn Hoàng Đức là: “Anh hề triết học, chàng Đông-ki-sốt văn chương” có lẽ khôngsai. Tôi đã đọc đi đọc lại những dòng chữ ông Tuấn viết: “Đức còn khoe khi Nguyễn Huy Thiệp mời Đức đến nhà dự khánh thành bứctượng Phật của Hồng Hưng, Đức được ngồi mâm giữa cùng các bậc cao nhân như Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến và Hồng Hưng. Đức tự hào: “Thiệp là chủ nhàmà cũng không ngồi mâm giữa. Tôi còn trẻ măng, chưa là gì cả mà đã được ngồingang ngửa với Hoàng Ngọc Hiến…”. Đó là cái triết lý mang tên Nguyễn HoàngĐức: “Tôi phải là người như thế nào thì mớiđược… như thế”. Cũng như ông khoe với tôi: “Ông Minh đã được Hữu Thỉnh gọilà thầy chưa?” “Chưa! Tôi chẳng là gì để ông Thỉnh gọi là thầy”. Ông Đức lôitập thơ Hữu Thỉnh có lời đề tặng: “TròHữu Thỉnh thân tặng thầy Nguyễn Hoàng Đức”, rồi ông bảo: “Tôi phải là người như thế nào thì Hữu Thỉnhmới gọi là thầy chứ.” Vâng! Thưa bạn đọc! Chả là có dạo Nguyễn Hoàng Đứcmột tuần hai buổi đến nhà riêng dạy nhà thơ Hữu Thỉnh học Anh ngữ.

Nhàthơ Nguyễn Quang Thiều có lấy cho ông Đức một vé mời đi dự Ngày thơ quốc tế ởIndonexia. Ông về tặng tôi một cái bấm móng tay và khoe:

“Cảhội trường như chết lặng nghe tôi đọc Trường ca thần học “Ngước lên cao” bằngtiếng Anh, ông ạ”.

“Còngì nữa?” – Tôi hỏi và mừng cho ông.

“Ởsảnh đường có đặt chiếc đàn piano. Không có nhà thơ nào dám mó vào, ông ạ.”

“Gìnữa?”

“Cảsảnh đường như chết lặng nghe tôi đàn piano, ông ạ”

“Còngì nữa?”

“Tôi phải là người như thế nào thì mới được như thế chứ.”

Nguyễn Hoàng Đức có một khát vọng cháy bỏng là được đọc thơ ở chốn đông người như Maiacopxkiđọc Trường ca Lê nin trên Quảng trường Đỏ nước Nga. Ông vẫn chờ đợi một ngàynào đó, và ông hi vọng đứng trên bục vinh quang ở Quảng trường Ba Đình, hay Sânvận động Mỹ Đình đọc Trường ca mỹ học “Kẻ hành hương từ đời đến thơ”. Chờ đếnngày Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang đứng ở quảng trường lâu quá, bạn bè thương,các ông họa sĩ Lê Thiết Cương, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bèn tổ chức cho ôngthực hiện khát vọng đáng yêu của mình. Rượu vang Chi lê và rượu mạnh Chivastrong không gian mỹ học đặc sắc tại galery họa sỹ Lê Thiết Cương, ông đắm đuối,da diết thăng đồng cùng trường ca Thần học “Ngước lên cao”. Hôm sau, ông hỏitôi cảm nhận về buổi đọc thơ, tôi bảo: “Mọi người rất vui. Ông Thiều, ông Cươngđã dành cho ông một món quà quý giá. Ông phải là người như thế nào thì mới đượcnhư thế chứ!” Nguyễn Hoàng Đức cười, nụ cười thỏa mãn chảy dài trên mặt.

Nhà văn Nguyễn Đình Chính đọc xong truyện ngắn “Công lý và trái tim di trú” củaNguyễn Hoàng Đức, ngạo nghễ nói trước mặt cả đám nhà văn ở Trại viết: “Văn chương các ông quanh quẩn chỉ là cái cổng làng, con trâu với bến nước, bụi tre.Còn lâu mới có hòn đảo cô đơn và mặt trời công lý như thằng Nguyễn Hoàng Đứcnhé.” Lạ thay! Chẳng có ai tự ái. Chỉ có người thì lặng im, và kẻ cười ruồi.

Nhà thơ Lương Tử Đức nói về ông: “Nguyễn Hoàng Đức đã dấn thân và cô đơn trên con đường lý trí để thực hiện sứ mệnh của bản thân mình chochân lý sáng tạo văn học nghệ thuật.”

Một lần tôi bảo Nguyễn Hoàng Đức:

“Ông ạ. Ông rất nhiều “nhà”: Nhà triết học, nhà thần học, nhà văn…Ai phong cho ông hay tự ông nhận? Ai gọi ông là “Nhà lý luận phê bình văn họchàng đầu thế giới?”

“Chính ông! Ông đã phong cho tôi. Còn Nguyễn Quang Thiều viết trênVietimes khẳng định tôi là “Nhà triết học số 1 châu Á”.

“Tôi phong ông là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”hay không thì tôi không còn nhớ. Nhưng, tôi nhớ như in, bài viết “Nguyễn HoàngĐức – Nhà triết học số 1 Châu Á?” có dấu hỏi (?) ở sau cùng tít bài. Như vậy,người ta còn nghi ngờ, đặt dấu hỏi là ông có thực như vinh danh không, chứ đãkhẳng định đâu.”

ÔngĐức bảo:

“Ngay cái việc manh nha đặt dấu hỏi về tôi thì tôi cũng phải như thế nào, người tamới đặt dấu hỏi chứ. Ông có biết nhà văn Cao Hạnh - Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt không?”

“Có.Tôi chơi thân với anh ấy.”

“So với các Tổng biên tập các tạp chí Văn nghệ các tỉnh thành, ông Cao Hạnh thếnào?”

“Ôi. Ông lại bắt tôi định giá ư? Ừ thì ông Cao Hạnh cũng là một tay Tổng biên tậpcứng cựa”

“Đấy! Ông Cao Hạnh cũng phong tôi là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”nhé. Tôi phải là người như thế nào thì một ông Tổng biên tập mà ông khen, mới phong “thánh” cho tôi chứ. Cũng như tôi phải là người như thế nào thì cỡ NguyễnĐình Chính, Nguyễn Quang Thiều, Lê Thiết Cương. Đỗ Minh Tuấn, Lương Tử Đức, vàông với nhiều người khác khen và viết bài… khen chứ”.

Nguyễn Hoàng Đức nói có lý quá. Dường như, ông là kẻ nhà văn duy nhất ở Việt Nam luôn luôn tự định giá, tự sắp đặt vị trí của mình ở làng văn, vị trí của mình trongxã hội. Kể ra thì cũng là một đức tính tự tin đáng yêu, dám sống và chịu tráchnhiệm với những gì mình sống, mình khẳng định, mình phát ngôn.

Nguyễn Hoàng Đức là một kẻ liên tài. Viết xong chuyên luận “Hành trình tâm linh nhânloại”, ông tự phong thánh cho mình là “Nhà Thần học”. Tuy vậy, ông không hề đố kị trong đời thường và văn chương. Ông hết lời ngợi ca Ngô Bảo Châu được Giảithưởng Fields về Toán học. Ông viết: “Với thành công được quốc tế công nhận, GS. Châu hoàn toàn xứng đáng là một bậc thầy củadân tộc. Vì vậy khi muốn tham vấn ông, hơn thế là một chút muốn đối thoại, thấphơn là chia sẻ hay trao đổi, chúng ta nên tự biết mình là đang kiến diện một bậcthầy. Và buộc phải tôn trọng ông như một bậc thầy. Ông là một đẳng cấp cao,không thể như cành lá bên đường ta cứ muốn hái là với. Có một phương ngôn rằng“Văn hóa cao nhất là biết chấp nhận người khác”. Đúng vậy,chấp nhận người khác là biết vượt qua đố kỵ, đặc biệt là đố kỵ hiền tài. Vì thếkhi ta biết đặt người khác và chính bản thân mình vào đúng chỗ đó là một khảnăng văn hóa.”

Thêm một triết lý mang tên NguyễnHoàng Đức, ai là thầy ông đồng nghĩa với là thầy của cả dân tộc. Ông đang coigiáo sư Ngô Bảo Châu là thầy, dù giáo sư chưa một lần dạy ông nửa chữ. NguyễnHoàng Đức cũng có những khuyết điểm, sai lầm bởi những điều cả tin, tự tin, huyễntưởng; nhưng tôi tin rằng: ngay cả những sai lầm của ông cũng là sai lầm tự tinchân thành.

Có phải Nguyễn Hoàng Đức là nhà triết học số một Châu Á? Có phải ông là nhà thần học, nhà mỹ học, nhà tiểuthuyết, nhà truyện ngắn, nhà thơ, nhà viết kịch tầm cỡ nhân loại? Có phải đặc biệt ông là “Nhà Lý luận Phê bình hàng đầu thế giới” không có đối thủ tranh luận?Người ta tự vấn như thế và mỗi người đi tìm lời đáp cho riêng mình; cũng có lúcngười này hỏi và người khác trả lời, đôi khi có kẻ cười khẩy và lảng tránh.

Mặc, Nguyễn Hoàng Đức vẫn đang vác cái thánh giá nguyên lý đi chinh phục nhân gian và mong chờ đến ngàyChúa lòng lành không bỏ rơi ông. Ông có niềm tin của ông, một niềm tin thánh thiện, ngây thơ chân thành tiếp thêm cho ông sức mạnh sục sôi viết trong nhữngtuần máu ứa đầy mình mẩy, nhưng chính cái niềm tin kỳ vĩ ấy cũng dắt ông vào cõi mộng du, và đôi khi mù màu bởi những đám mây ngũ sắc che mất đôi mắt vừamang cái nhìn soi chiếu của vĩ nhân vừa mang ánh sáng của người trần mắt thịt.Nguyễn Hoàng Đức sẽ cứ mãi mãi cô đơn và sáng tạo trong cõi mộng du của mình,và người đời vẫn cứ vừa thương, vừa giận, vừa cười ông, để rồi một ngày không buồnkhông vui, đột ngột nhận ra: Ôi! Vắng dị nhân Nguyễn Hoàng Đức thì văn chươngvà cuộc sống… mới nhạt nhẽo làm sao!

Vĩ thanh:

Tôi viết bài này xong, in ra giấy đưa tận tay Nguyễn Hoàng Đức. Ông đọc chăm chú và cầm bút sửa cả lỗi morat. Tôi im lặng trong tâm trạng chờ đón cơn nóng nẩy tức giận, trách móc hoặc lạnh lùng quẳng vào sọt rác, nhưng ông mừng ra mặt bảo:

“Chết chưa! Từ trước đến nay, chưa bao giờ ông chịu công nhận tôi. Bài này coi như lá cờ trắng báo hiệu sự thất trận, ông là người cuối cùng đầu hàng tôi và đầu hàng trong oanh liệt. Chân lý bao giờ cũng chiến thắng nhá”.

Tôi dở cười dở mếu, chỉ còn biết nói:

“Ừ, chân lý bao giờ cũng chiến thắng”.