Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016

Tiếng hú trên đỉnh cô phong



MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH


Không Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.

Nguyên tác bài thơ Ngôn hoài



Tương truyền, Không Lộ, Giác Hải và Đạo Hạnh là bạn đồng tu; họ thường vân du đây đó, dùng pháp thuật lạ lùng, kêu gió, gọi mưa, dùng nước phép chữa bệnh, tùy duyên hóa độ chúng sanh. Tài năng và đức độ của họ đều được vua phong tặng chức vụ Quốc Sư, tuy nhiên, cả ba đều không màng danh lợi, chuộng nếp sống quê mùa, thanh bần giản dị làm vui (an bần lạc đạo)! Về già, Không Lộ về quê lập chùa, thâu nhận đệ tử và giáo hóa chúng đồ.
Ngoài hành trạng nổi bật như thế, Không Lộ còn để lại hai bài thơ nổi tiếng, tứ lời giản dị, văn phong thanh cao, thiền ý thâm sâu rất có giá trị văn học và thiền học.
Bài thơ thứ nhất: 

“Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thùy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tình lai tuyết mãn thuyền!” 

Tạm dịch: 

“Trời nước xanh xanh, muôn dặm liền
Làng dâu lạnh giá, khói đông miên
Ông chài say ngủ, không ai gọi
Trưa trợt, mây quang, tuyết ngập thuyền!”

Bài thơ Ngư nhàn này, ai cũng bảo đây là một điển hình thi pháp của nghệ thuật thiền tông. Nó không nói bằng những thuật ngữ Phật học dành cho lý trí suy nghiệm, không nói bằng tư duy khái niệm mệt mề khô rỗng - mà nói bằng tư duy hình tượng -những hình ảnh khói sương, những nét chấm phá trời, nước, mây thủy mặc. Đây là ngôn ngữ của những cảm xúc giác quan! Muôn dặm sông xanh tiếp muôn dặm trời xanh, thôn làng lạnh giá chìm trong làn khói nửa thực, nửa hư. Giữa trời nước mênh mông ấy, ông chài ngủ say tít trên chiếc thuyền câu, không ai lay gọi được. Trời đã quá trưa, quang tạnh, tuyết rơi ngập thuyền... Người và vật dường như cùng hòa với nhau làm một? Cái ta bé mọn, nhỏ nhoi với những lo âu, phiền muộn của cuộc đời chợt như mất tích, mù tăm giữa vũ trụ bao la? Trời đất người đều tịnh định, hòa đồng, nhất thể? Hay là tác giả muốn khơi mở thế giới vong ngã, vong pháp - chỉ còn sự sống vô biên thầm lặng dịch hóa đến muôn cùng?
Tuy nhiên, bài thơ này, ta còn nghe hơi hướm nhàn của Lão Trang, ta còn đọc ra tư tưởng trời đất người hòa nhập - tam tài thiên địa nhân - của Nho triết, tương tự bóng dáng đại ngã nhất nguyên của Bà-la-môn giáo! 

Và bài thơ thứ hai sau đây - Ngôn hoài - mới chính là trọng tâm khảo sát của chúng ta: 

“Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”

Tạm dịch: 

“Thế đất rắn rồng chọn được nơi
Tình quê chan chứa suốt ngày vui
Có khi chót vót đầu non quạnh
Một tiếng cười vang lạnh cả trời!” 

Hoặc: 

“Rắn rồng, chọn đất dễ ưa
Tình quê vui thú sớm trưa chẳng rời
Có khi đứng chót non vời
Cất dài tiếng hú, đất trời lạnh băng!”

Về mặt văn bản học, các nhà nghiên cứu cho rằng, bài thơ này, Không Lộ đã lấy ý từ bài thơ của Thứ sử Lý Cao làm tặng Dược Sơn, Duy Nghiễm, nhân đêm kia, thiền sư kinh hành trên núi cao, chợt thấy mây vẹt, trăng tỏ - bèn cất tiếng cười dài vang xa đến 90 dặm Đông Phong Dương: 

“Tuyển đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Nguyệt hạ, phi vân tiếu nhất thanh!” 

Tạm dịch: 

“Được nơi thanh vắng thú quê
Quanh năm đưa đón chưa hề biết hay!
Chợt khi lên thẳng non tây
Mây tan, trăng tỏ - vỗ tay cười dài!”

Nếu so sánh hai văn bản – thì đúng là Không Lộ của chúng ta đã tá văn, nếu như không muốn nói là đạo văn của Lý Cao! Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt có 28 chữ mà Không Lộ đã vay của Lý Cao hết 14 chữ: đắc, cư, dã tình, chung, hữu thời trực thướng cô phong đỉnh, nhất thanh! Do vậy, có nhà nghiên cứu đã loại bài thơ này ra khỏi các tuyển tập văn học sử. Họ có lý. Tuy nhiên, ta hãy cùng nhau khảo sát, xem thử có phát kiến gì mới mẻ để khả dĩ biện hộ cho thiền sư Không Lộ hay chăng?

Trong văn học, thiền học Việt kể từ thời Lý, các vị thiền sư thường hay mượn lời, mượn ý của các thiền đức, cao tăng đời trước để dạy môn sinh. Ví như vua Trần Thái Tông có nói rằng: “Mỗi lần nêu lên là mỗi lần mới”. Tức là lặp lại mà vẫn sinh động, hiện tiền; vẫn là ánh nắng tinh khôi, vẫn là giọt sương trong vắt sáng nay trên đầu cây ngọn cỏ! Ánh nắng, giọt sương có bao giờ cũ? Đất trời cũng bắt chước, cũng lập lại như vậy ru? Có lẽ vị vua khai tổ triều Trần, có một đời sống giới định tuệ nghiêm túc - thật sự thấy như vậy chăng? Trước đó nữa, Lý Giác và Pháp Thuận cùng vui cảnh, vui tình, xướng họa bài thơ Nga nga – hóa ra chỉ sửa mấy chữ bài thơ của Lạc Tân Vương làm lúc 10 tuổi! Gần hơn, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Truyện Kiều của Nguyễn Du - đều không mượn của người ta cả hay sao? Đây chính là loại hình văn học phổ biến ở trong các nước đồng văn, được gọi là hiện tượng tập cổ quen thuộc của các tác gia đông phương. Chúng đâu chỉ đơn thuần là giao lưu văn hóa. Các thiền sư nhờ học vấn thâm uyên – nên chỉ cần mượn một nhóm từ, một cụm từ hoặc luyến láy, chuyển đảo một vài tứ của cổ thi, thiền ngữ, thiền thoại, niệm, tụng gì đó – là có thể mở ra cả một trời liên tưởng về ngữ nghĩa hoặc hình tượng văn học, thiền học. Những cảm xúc nghệ thuật, do vậy, chúng có thể tương thuộc, tương đồng, đào sâu thêm, nới rộng ra, làm cho chúng mới mẻ hơn mà thôi vậy.

Trở lại với bài thơ Ngôn hoài.
Trạch đắc long xà địa khả cư...
( Rắn rồng chọn đất dễ ưa...)

Câu thơ đầu, trước đây có một số nhà nghiên cứu bảo là vị thiền sư này lựa tìm được một chỗ đất hợp với phong thuỷ - do hai chữ long xà! Xin thưa, tả thanh long, hữu bạch hổ; rồng xanh mà dài, hổ trắng mà cao mới là thế đất hợp với phong thủy - chứ không hề có xà nào ở đây cả! Phong thủy là các lực, các từ, các khí của ngoại giới thiên nhiên, chúng tương quan, tương tác với nhau mà ảnh hưởng, liên hệ đến con người là tiểu vũ trụ. Nói cách khác, phong thủy là các định luật tự nhiên của trời đất tác động đến sông núi, mùa tiết, muôn sinh và thảo mộc. Ở đây, nói đến phong thủy tác động đến nơi ở của con người: Ai thuận thiên (thuận với các định luật vũ trụ)thì còn, ai nghịch thiên thì mất! (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong). Đối với khoa thiên văn, địa lý thì phong thủy quan trọng như vậy đấy. Nhưng đối với nhà Phật, nhà Thiền - chúng chỉ là ngoại duyên (thuận duyên, trợ duyên hoặc ngại duyên, chướng duyên) mà thôi. Duyên cũng có hai là nội duyên và ngoại duyên (theo Abhidharma – trong và ngoài tương tác có cả thảy 24 duyên). Duyên bên ngoàikhông quan trọng bằng duyên bên trong. Ngay cái duyên bên trong này cũng không quan trọng bằng nhân bên trong. Nói khái lược như vậy để biết rằng, người tu Phật, tu Thiền dẫu xem ngoại duyên là có thật – nhưng họ vẫn xem trọng nội nhân, nội duyên hơn. Bởi vì chính nội nhân, nội duyên này mới là cái gốc, cái bản căn, chúngduyên hệ với ngoại duyên mới sinh ra hữu vi, vô vi, khổ lạc, tham sân, si tuệ, trí bi, mê ngộ, sinh tử, Niết-bàn... Biết phong thủy, có thể mượn phong thủy – nhưng chưa bao giờ con cái nhà Phật xem phong thủy là yếu tố tích cực có thể quyết định số mạng, vận mạng con người (Định mệnh thuyết của Khổng Nho - cái tơ cái tóc cũng do trời định; tuy nhiên, nếu hiểu thiên - thiên lý, thiên mệnh - là những luật tắc của vũ trụ thì nó lại khác). Là một vị thiền sư uyên thâm, thông tuệ, chẳng lẽ nào nhữngbuồn vui, khổ lạc, trược thanh, mê ngộ của chính mình – Không Lộ lại nương nhờ vào cuộc đất do phong thủy (ngoại duyên) quyết định? Hóa ra, có lẽ do cả một thời đại chuộng huyền thuật, phép lạ - phong thủy lại đóng một vai trò quan trọng với mọi nhà, nên Không Lộ chỉ nói cười vui với thiên hạ rằng là, tui cũng tìm được cái chỗ đất có thể ở được, nó cũng có long, có xà như ai vậy. Xà – chính là nụ cười mỉm (vi tiếu), nụ cười nhỏ nhẻ của bậc thông đạt - do đã kinh qua tất cả thế trí, không nhạo báng ai mà chỉ muốn hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (hòa với ánh sáng, cùng với bụi bặm - Lão) một chút mà chơi thôi.

Câu thơ thứ hai:

Dã tình chung nhật lạc vô dư...
(Tình quê vui thú sớm trưa chẳng rời...)
Người ta cũng đã bàn luận khá nhiều về hai chữ dã tình. Ai cũng biết dã tình là tình quê. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy (Văn hóa Việt Nam..., tr. 203, Nxb VHTT, 2005) có nói, các bản dịch đều dịch là tình quê, dạ quê là không thích hợp. Đại lược, theo anh, chữ dã tình phải liên hệ với liên văn bản từ bài thơ của Lý Cao, đó là hai chữ “u cư”mới đúng: Trạch đắc u cư hiệp dã tình. Theo với sự liên tưởng ấy, dã tình phải là nơi u cư, nhưng u cư này không phải là nơi ở ẩn của những Nho gia bất đắc chí. Tôi đồng ý với anh Thúy - cả Nguyễn Khắc Phi - khi đã lựa chọn nghĩa u cư là tính ưa ẩn dật nhàn tản, cộng thêm với tính chất phóng khoáng theo cả hai nghĩa của Từ nguyên. Phát kiến ấy thật là tuyệt, đã giải mã được ngữ nghĩa mới lạ để mở mắt cho những học giả dốt mà ưa nói chữ. Đồng thời, mở hé được cánh cửa tâm linh, để cho những anh chàng trí thức một cục, một hòn, chủ quan, phiến diện bình giảng rằng là,kết hợp giữa niềm vui về hạnh phúc trần thế...; rằng là tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt với đất nước nông nghiệp thường được bắt đầu từ nguồn vui “thú quê” chung đó!? (Văn 10, NXB Giáo dục, 1991). Ở đây, tại văn cảnh này, ngữ cảnh này, tôi muốn tiếp với anh Thúy để nói thêm rằng, tính ưa ẩn dật nhàn tản, phóng khoáng kia cũng vẫn là của Khổng, của Lão chứ chưa phải là của Phật, của Thiền! Muốn nắm hết tâm yếu thiền - thiền Đông độ, thiền Zen hoặc cả thiền Vipassanā nguyên thủy - thì ẩn dật, nhàn tản, phóng khoáng đều chưa phải là thiền duyệt, niềm vui thầm lặng nội tâm (lạc về thiền, lạc về quả) của thiền gia! Ẩn dật là còn ngại trú xứ, ngại hồng trần! Nhàn tản là còn ngại công việc, ngại bận rộn. Phóng khoáng là còn ngại buộc ràng, ngại luật nghi!
Các vị thiền sư là những bậc đạt ngộ, do kinh nghiệm tâm linh tu chứng, họ thường vô ngại trước mọi chướng duyên. Ví dụ, có vị vô ngại trước vô thường biến đổi của cuộc đời: “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy” (Gẫm chuyện thịnh suy không sợ hãi - Vạn Hạnh). Có vị, càng chướng ngại chừng nào thì tâm tuệ càng sáng trong, càng cao đẹp chừng ấy: “Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, liên phát lô trung thấp vị can” (Trên non ngọc đốt màu thêm nhuận, sen nở trong lò sắc chẳng phai - Ngộ Ấn).Có vị không cần hỏi gì cả, chỉ tin vào nắm tay quyền biến phương tiện của mình: “Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ, thùy tri phàm thánh dữ tây đông” (Trước mắt, nắm tay dùng việc lớn, biết chi phàm thánh với tây đông - Khánh Hỷ). Những tư tưởng lớn, tâm tuệ lớn như thế ấy, trong thiền học Việt , kể không hết đâu. Tuy nhiên, có lẽ, câu nói sau đây của một vị thiền sư đương đại, nó gần với văn mạch luận chứng của chúng ta: “Tự do là ung dung trong ràng buộc, hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau”(Viên Minh).

Vậy, Không Lộ là một vị thiền sư có định, có thần thông, có tuệ - không lý nào lại còn ngại lắm chuyện tầm thường như thế. Có lẽ, do người ta chưa giải mã được câu thơ thứ hai này, nó nằm nơi chỗ “dã tình” và “lạc vô dư”. Nó là hai nghĩa đối sánh trong câu, bổ túc cho nhau để làm nên một tâm tuệ vẹn toàn. Dã tình là tình quê mùa thảo dã, tình thế gian, lạc vô dư là niềm vui vượt ngoài trần tục, niềm vui siêu thế. Vô dư – cái từ huyền mật, bí hiểm - mà từ xưa đến nay chưa ai diễn nghĩa đúng nên cứ rơi vào những niềm vui dung tục, tầm thường. Vô dư là thuật ngữ của Phật học (Hữu dư Niết-bàn, Vô dư Niết-bàn), có nghĩa là không còn dư sót bất kỳ một lậu hoặc phiền não nào dù thô hay tế - chỉ cái tâm, cái tuệ của bậc giải thoát! Lạc vô dư - chữ lạcnày cũng không phải là khổ-lạc tương quan đối đãi nhau - mà phải là cái lạc siêu thế, ly thoát khổ-lạc (dukkha) tại thế. Nó tại thế gian mà vẫn xuất thế gian – đúng như câu kinh: Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch bồ đề, cáp như tầm thố giác. Tạm diễn nghĩa: Phật pháp ở thế gian, không thể rời thế gian để tầm cầu giác ngộ; ra khỏi thế gian mà tìm kiếm bồ-đề thì chẳng khác gì đi tìm sừng thỏ! Người học Phật có căn bản giáo pháp ai cũng hiểu điều tôi vừa nói.

Có nắm bắt được ngữ nghĩa tinh mật ấy, chúng ta mới với tới được câu thơ thứ ba, vì nó chính là sức bật của lạc vô dư ở câu hai:

Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh...
(Có khi đứng chót non vời...)
Hữu thời - có thời - nhưng thời nào? Chính là thời của lạc vô dư, nó không còn hạn cuộc vào thời gian tại thế sinh diệt nữa. Chính ở đây mới hiển lộ được nghĩa của động từ trực thướng: Lên thẳng ngay, lên thẳng ngay tức khắc. Dưới núi trên núi là một. Bờ này bờ kia là tức khắc ở đây và bây giờ. Nó không còn lệ thuộc thời gian vật lý hay thời gian tâm lý phạm trù. Đây chính là sát-na kỳ ngộ chói lòa vĩnh cửu, mà người ta hay nói văn chương bóng bẩy rằng là cố quận, rằng là thiên thu... gì gì đó cũng được ráo trọi. Chính sự bừng nở ấy, trực thướng ấy, giây khắc ấy mới hội ngộ được với đỉnh cô liêu, đỉnh cô phong, đỉnh tuệ giác bất động tịch mịch của chính mình. Đúng như câu thơ của một thiền sư thi sĩ lãng đãng nào đó: “Bây giờ ta lại gặp ta; thiên thu, cố quận thiệt là hoát nhiên”.
Cảm hứng trầm hùng của tâm linh siêu thoát, do nhân và duyên ở ba câu đầu nên có lẽ, câu thứ tư, nó đọng lại, nó nén chặt lại - dồn tụ nội lực mà bùng vỡ ra:
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư!
(Cất dài tiếng hú đất trời lạnh băng!) 

Trường khiếu nhất thanh - một tiếng cười dài, một tiếng hét dài, một tiếng hú dài - mọi người thường dịch như thế. Và có lẽ họ dịch đúng, vì chính ở tại đỉnh cô phong ấy, tiếng cười của sự giác ngộ, của siêu thoát ấy mới làm lạnh cả hư không mênh mông, rộng lớn, dao động cả vũ trụ càn khôn! Tuy nhiên, khi viết đến ngang đây, một trực giác tâm linh xẹt đến, tôi bèn đi lục tra tất cả các từ, tự điển hiện có trong tay – thì chữ khiếu, ngoài nghĩa kêu lên, hô lên, la hét lên, lỗ hổng (như cửu khiếu), còn có nghĩa là năng lực hiểu biết, năng lực hiểu biết từ chỗ nào đó nó thoát ra. Tự dưng, tôi nổi cả da gà, lẽ nào nó vi diệu đến thế, bất khả tư nghị đến thế! Tôi rất dè dặt, thận trọng - cả chủ quan nữa - mà nói rằng, tại sao một vài ngữ nghĩa nằm ẩn trong một bài thơ đã ngàn năm qua, lại chưa ai phát hiện?

Tôi bần thần dã dượi. Kinh khiếp quá. Bài thơ Ngôn hoài vậy là khó có thể dịch bằng hiển ngữ rạch ròi. Cảm nhận thầm lặng. Cảm nhận và không thốt nên lời. Vì rằng đây là tiếng hú, tiếng cười trên đỉnh cô phong, đỉnh cô liêu của tuệ giác! Tiếng hú, tiếng cười ở biên cõi này vốn không có người hú, người cười! Chỉ có năng lực của sự giác ngộ tự nó bùng vỡ thành băng giá làm đông lạnh cả thiên nhiên ngoại vật. Có thể tạm dịch lơi khơi như thế này được chăng?

“Rắn rồng chọn đất dễ ưa,
Niềm quê lạc đạo sớm trưa nhẹ lòng,
Có khi chót vót cô phong,
Cười dài một tiếng hư không lạnh mình!”

Bây giờ, sau khi đi qua những tầng lớp ngữ nghĩa của bài thơ Ngôn hoài – ta mới thấy rõ, bài thơ của Thứ sử Lý Cao, do ngại chuyện đưa đón tầm thường (vô tống diệc vô nghinh) nên tìm được chỗ ẩn cư (trạch đắc u cư) có tình quê, có thú quê (dã tình); rồi có khi lên đỉnh núi cao (cô phong đỉnh), thấy mây vẹt, trăng tỏ (nguyệt hạ, phi vân) bèn cất lên một tiếng cười (tiếu nhất thanh)! Hai câu đầu có cốt cách xử sĩ thanh cao của Nho hay Lão. Tuy nhiên, câu hai không có đủ nội lực để đẩy lên câu ba như bài Ngôn hoài. Nên cô phong đỉnh ở đây không phải là không gian tâm linh của tuệ giác. Điều ấy càng rõ nghĩa hơn ở câu tư: Mây vẹt, trăng tỏ (vô minh tan, minh hiện), sau đó mới là tiếng cười của sự giác ngộ! Cấu trúc bài thơ này lỏng lẻo ngữ nghĩa, không chặt chẽ nhân quả bằng bài Ngôn hoài - có thể sử dụng kiến thức vỏ não cũng làm được! Nguyễn Đình Chú có vẻ chê tiếng cười của Dược Sơn -Duy Nghiễm: “Tiếng cười dài dưới trăng mây kia, tuy có hấp dẫn, nhưng dù sao chỉ là tiếng cười cao đạo của một con người đã không thích gì mấy sự hòa nhập trần gian...!” (KTNN,Số 147, 8-1994)
Vậy thì xin các nhà nghiên cứu văn học, văn học sử hãy trả lại nguyên vị giá trị tót vời của bài thơ Ngôn hoài – nó xứng đáng đại biểu cho văn học, thiền học không chỉ ở thời Lý mà cả cho cả mọi thời! Nghi ngờ tá văn, đạo văn là có tội. Lại càng có tội hơn khi giảng dạy văn học mà phân tích, bình luận áp đặt, chủ quan, không tới, đôi chỗ chứng tỏ kiến thức nông cạn của người viết:

Trong Văn 10, Nxb Giáo dục, 1991 của một vị giáo sư mà Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy không muốn nêu tên, có phán: “Sự kết hợp giữa niềm vui về hạnh phúc trần thế với khát vọng hòa nhập với vũ trụ bao la. Thứ nhất, là tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt với đất nước nông nghiệp thường được bắt đầu từ nguồn vui “thú quê” chung đó. Thứ hai, là khát vọng vươn tới trời đất vũ trụ bao la như một nhu cầu nhân văn cao đẹp. Nhà sư đang vui nỗi vui trần thế, bỗng nhiên lên đỉnh núi cao trơ trọi, kêu vang một tiếng làm lạnh cả bầu trời. Ở đây đã trèo lên là trèo lên thẳng một mạch, không chút rụt rè. Đã lên cao là lên cao không lưng chừng. Và một tiếng kêu vang đủ làm cho cả vũ trụ bao la kia kinh ngạc đến rùng mình ớn lạnh.” (trích lại, Văn hóa Việt ... của Đỗ Lai Thúy, Nxb VHTT, tr. 202). 

Khá hơn một chút, Trần Đình Sử - có vẻ như đã nói gần gần đúng, rằng là: “...Nêu ý nghĩa biểu trưng của bài thơ “Lên thẳng” là hình ảnh của đốn ngộ, xảy ra trong chốc lát, như ánh chớp. “Đỉnh núi cao trơ trọi” đây thuần túy là ẩn dụ chỉ thế giới không vô. “Thái hư” là thế giới của nhà Phật mà chỉ kẻ đắc đạo mới có thể đạt đến. Và “cất tiếng kêu dài làm lạnh cõi thái hư ấy là dấu hiệu hòa nhập giữa ta và thế giới, thế giới và ta.” (Trích lại, tr.182, VHPG... của Nguyễn Công Lý, Nxb ĐHQG, TP/HCM). Cái gọi là không vô ấy, không phải đơn giản, dễ hiểu đâu (Có rất nhiều cái không: ngoan không, hư vô, không đối đãi với có, không của ý niệm, không của tâm, không của cảnh, không của vô, không của không, không trụ xứ, không vô biên, thức không, không có gì cả, không của phi tưởng; mười mấy cái không ấy đều không phải làkhông tánh (Suñyatā)- vì duyên khởi, vì vô ngã nên không - của Nikāya hoặc của Kim cương Bát-nhã - thấy được cái không này mới có tuệ giác); và còn cái thái hưkia – hư không rộng lớn – thì nhà Phật đắc nó mà làm gì! Còn sự hòa nhập giữa ta và thế giới cũng có phải là của Phật đâu! (xem dưới). Một chỗ khác thì Trần Đình Sử lại bình giảng khá lạ lùng: “...Thú quê là thú quê thật, leo núi là leo núi thật, cả bài như một bức tranh tả thực và tư thế hiên ngang chinh phục vũ trụ được hiểu khá rõ...” (Trích lại, Văn hóa Việt Nam... của Đỗ Lai Thúy, tr. 202, Nxb VHTT, 2005). Hèn gì, mà trong Văn học Lý Trần, người ta đã dịch chữ trực thướng là leo lên, trèo lên, xông lên, xông thẳng lên... như đi đánh giặc!? Oan uổng quá! Biết bao nhiêu thế hệ học sinh đã không thể hiểu được sức mạnh tâm linh của cha ông nội hàm trong dòng văn hóa dân tộc – là do các bậc thầy giáo, các ông Nghè, ông Cống, các nhà nghiên cứu văn học – đã không tự trang bị đủ cho mình những kiến thức cần thiết.

Có người nói từa tựa như đúng lắm, kêu lắm, cao siêu lắm, nhưng chỉ chứng tỏ kiến thức khuyết lõm của mình: “...Để hòa đồng và vui suốt ngày với thiên nhiên là hình ảnh con người mang khát vọng hòa nhập và chế ngự thiên nhiên... Là một tiếng kêu sảng khoái của một tâm hồn khoáng đạt với tư tưởng phá chấp triệt để và tinh thần thoải mái tột cùng, chứ không thể là của một người suốt ngày gõ mõ tụng kinh, câu nệ và tín điều một cách cứng nhắc khô khan. Tiếng kêu đó chính là sự trực cảm tâm linh, là trạng thái chứng ngộ của thiền sư. Cũng nhờ trực ngộ mà con người hòa nhập vào đại ngã vũ trụ. (Đoạn văn trên là của Nguyễn Công Lý trích của Nguyễn Công Lý trong VHPG, Sđd, tr.182-183). Lời bình giảng ấy thật là tệ hại, phàm phu tục tử hết chỗ nói. Vui suốt ngày với thiên nhiên không phải là tâm tuệ của một bậc thiền sư đạt ngộ! Khát vọng là những tâm và tâm sở si uế và trần tục! Giác ngộ, giải thoát của nhà Phật không bao giờ có tham vọng chế ngự thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên như tây phương khoa học trục vật! (trên thì hòa đồng mà dưới là chế ngự!).Tiếng kêu sảng khoái - chắc là tiếng kêu trong phòng the! Lạc của thiền duyệt không phải là “tinh thần thoải mái tột cùng” như một cảm giác dung tục, tầm thường như thế! (Nói thêm: Đạo Phật chung chung, thời nào cũng vậy, giáo phái nào cũng vậy - có thể có chăng câu nệ và tín điều? Câu nệ là câu nệ gì? Câu nệ hình thức lễ nghi – cái dĩ lễ chế tâm cần thiết để thu thúc bản năng? Và tín điều? Xin thưa, Đạo Phật không có tín điều, đừng nhầm lẫn Đạo Phật với các tôn giáo hữu thần, mặc khải!) Còn nữa, “con người hòa nhập vào đại ngã vũ trụ” (tiểu ngã, Atman – hòa nhập đại ngã, phạm thể - Mahātman, Brāhman) là tư tưởng của Bà-la-môn giáo chứ không phải của Phật! (Chưa nói đến luận văn tiến sĩ, Sđd của tác giả này, có thể có trên trăm chỗ hiểu sai về Phật, về thiền một cách trầm trọng - mặc dầu có hằng chục GS, PGS... khen ngợi).

Dầu sao, có điều an ủi, là không phải ai cũng thế; Nhà thơ Chế Lan Viên có đôi mắt xanh, có nội lực văn hóa thâm hậu đã thấy được sức mạnh tâm linh tỏa ra từ bài thơ này, tiếng hú này - trong dòng mạch văn hóa, tiếp khí, tiếp lực, un đúc sức mạnh cho dân tộc - nên đã cô đọng, gãy gọn, rất ấn tượng, rất hạo nhiên: “Không có tiếng kêu dài này thì không có chiến thắng Bạch Đằng!” (Trích lại, Văn học Phật giáo... củaNguyễn Công Lý, Nxb Đại học Quốc gia TP-HCM, tr, 182). 

Để nói lên lời kết:

Vì tiếng cười, tiếng hú của thiền sư Không Lộ nó cao diệu, mênh mông, ngoài biên tế, phạm trù, vượt không thời gian, chẳng ở nơi cái vỏ của ngôn ngữ khái niệm; làtiếng vọng dài của tuệ giác bên kia bờ - nên tôi xin mượn câu kết của Bát-nhã tâm kinh để nói điều không thể nói: Gate, gate, paragate, parasamgate; Bodhi-svāha! (Vượt qua, vượt qua, cứ vượt qua, hãy vượt qua một cách trọn vẹn; chào mừng sự bùng vỡ của tuệ giác!).
Tiếng hú từ ngàn năm trước ấy - chính là sự bùng vỡ của tuệ giác - đã bay qua sông dài, biển rộng, sử lịch, thời đại, văn học, thiền học, khổ đế của trần gian - cho đến hôm nay, tôi vẫn còn bị chấn động, bồi hồi và nghe buốt lạnh cả từng con chữ!
Am Mây Tía
Tiết đông lạnh, 2007
M.Đ.T.T.A


(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)


---------------------------
* Bài viết này được lấy cảm hứng từ bài tiểu luận: “Không Lộ thiền sư - người làm lạnh vũ trụ” của Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy trong Văn hóa Việt ... Nxb Văn hóa Thông tin, 2005.



Bí mật của thiền định




Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại học Duke ở North Carolina đã tuyên bố rằng:"Bây giờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc"


Chưa bao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lại được các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đề cập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter các báo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả những khám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởng từ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều mà trước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là những cảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành.
Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại học Duke ở North Carolina đã tuyên bố rằng:"Bây giờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc".

Năm 1967, giáo sư Herbert Benson ở đại học Y Harvard đã tiến hành nghiên cứu trên 36 người thiền định và thấy rằng khi ngồi thiền họ dùng lượng oxy ít hơn bình thường 17%, giảm 3 nhịp tim/phút và tăng sóng theta ở não - hệt như trạng thái trước ngủ - trong khi toàn não vẫn tỉnh táo. 7 năm sau, tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs, Đại học Harvard, qua ghi sóng não đã phát hiện ra rằng những người thiền có thể sản ra rất nhiều sóng theta và có thể phong tỏa phần não trước vốn nhận và xử lý cảm giác, ngoài ra họ cũng giảm thiểu hoạt động ở phần thùy đỉnh não, nơi phụ trách các cảm giác về không gian - thời gian. Bằng cách "tắt" thùy đỉnh não, người ta có thể mất cảm giác về giới hạn và thấy vũ trụ "trở thành một".
Cuộc nghiên cứu khác gần đây của Paul Ekman thuộc Trung tâm Y học, Viện đại học California, San Francisco, gợi ý rằng thiền định và quán chiếu có thể chế phục được nhân hạnh đào (amygdale), một vùng não lưu trữ những ký ức sợ hãi. Ekman khám phá ra rằng những thiền sư cao cấp khó bị chấn kích, bất an, hoảng hốt hay nổi giận như những người thường khác. Tuyến thượng thận, mơi tiết ra Adrrenalin, điền khiển nhịp tim trong các trường hợp sợ hãi, hoảng hốt gần như được các Thiền sư khống chế hoàn toàn. Ông tuyên bố trong một báo cáo trong tạp chí Nhà Khoa học mới (New Scientist) rằng: "Lập thuyết hữu lý nhất là có cái gì đó nơi hành thiền của Phật giáo đã dẫn đến một nguồn an lạc mà tất cả chúng ta đều mưu cầu".
Các nhà khoa học đều tin chắc rằng Thiền định hoàn toàn có khả năng "rửa" lại não, giải tỏa các khu vực căng thẳng vì máu ở trong tình trạng ách tắc. Các trào lưu Thiền định ở Mỹ đều tin rằng Thiền định có thể chữa được được các bệnh tim mạch, stress, ung thư, thậm chí cả AISD và đã có trường hợp thay thế cho Viagra! Những điều này thật ra không phải quá cường điệu, mọi hoạt động của cơ thể, mọi bệnh tật xét ra cho cùng đều xuất phát từ bộ não. Một bộ não khỏe mạnh chắc chắn sẽ có một cơ thể khỏe mạnh.

Thử lý giải những điều này trên cơ sở những điều đã biết và dựa trên các kinh sách về Thiền định trong Phật giáo chúng ta thấy; bộ não con người có 100 tỷ tế bào thần kinh. Mỗi tế bào thần kinh qua những đường dẫn truyền lại có quan hệ với 50 ngàn tế bào thần kinh khác. Điều này dễ hiểu sự hoạt động phức tạp trong việc xử lý các khối lượng thông tin khổng lồ của bộ não. Thế nhưng điều này cũng cho chúng ta hiểu câu nói mà nhà Phật hay nói: "Một niệm mà sinh thì trùng trùng duyên khởi". Một tế bào thần kinh hoạt động, tức khắc sự lan truyền diễn ra như trong phản ứng hạt nhân! Các ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ, sự tư duy hình thành. Các bạn hãy thử ngồi năm phút lúc rảnh rỗi và đếm xem trong chừng đó thời gian mình đã nghĩ về bao nhiêu điều! Thường là không ít hơn 10 chuyện nghĩ khác nhau!
Thật kỳ lạ, ngoài những lúc tập trung làm việc, thì ra chúng ta sử dụng bộ não rất nhiều vào những chuyện vớ vẫn không đầu không cuối một cách chẳng để làm gì .
Tuy vậy đó là điều bình thường của người khỏe mạnh. Ở người bị bệnh tâm thần thì ý nghĩ của họ có thể chỉ có một nhưng họ không thể dừng nó lại được, nó cứ phát triển một cách bùng nổ và đến mức độ nào đó thì người bệnh sống với các ý nghĩ ấy, các ý nghĩ đều trở thành thật, và chúng ta gọi họ bị bịnh điên. Những người trong trạng thái stress, cũng không dứt ra được các tình cảm mà họ rơi vào. Điều này kéo dài sẽ đưa đến những hiệu ứng tiêu cực trên toàn cơ thể. Có người thì bị tim mạch, người thì đau dạ dày, người thì mất ngủ, suy nhược thần kinh, cơ thể...
Như vậy là người khỏe mạnh bình thường đều đã biết rằng các ý nghĩ là không có thật và không nên theo. Chúng ta đều biết dừng lại sau khi "chạy" theo nó một đoạn. Điều này tuy bình thường nhưng các thiền sư thì bảo đó là vọng tưởng. Cách gọi này không phải là không có lý ở góc độ vô bổ, vô nghĩa. Các phương pháp thiền định đều tìm cách chặn các niệm không cho nó khởi lên ngay từ gốc. Có phương pháp thì hướng sự tập trung suy nghĩ vào chuyện khác như đếm hơi thở, theo dõi cơ thể trên từng centimét vuông một, hoặc theo dõi một cách khách quan suy nghĩ của mình không lơi lỏng, nghĩ cái gì là biết mình đang nghĩ cái đó; .. Tất thảy đều một mục đích làm sự hoạt động của bộ não con người lắng xuống, yên tĩnh lại, dần dần đạt đến sự rỗng không.

Điều này hoàn toàn không dễ nếu không nói là vô cùng khó. Theo bản năng, bộ não chúng ta không chịu tĩnh lặng, ngay cả khi đang ngủ. Trong kinh Phật chúng ta đọc thấy câu "Chư Phật ngủ không mơ bao giờ!". Điều này cho thấy bậc giác ngộ đã hoàn toàn đạt đến một trạng thái hoạt động khác của bộ não và điều này thì rõ ràng khoa học chưa biết đến..

Nhà Thiền có câu chuyện như sau: Hương Nghiêm thông hiểu thiên kinh vạn quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm Quy Sơn đến và nói: "Anh thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôi biết, anh từ đâu mà có?". Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi đến cùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có. Không tự trả lời được ông tìm đến Quy Sơn và cầu khẩn: "Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời nói này". Quy Sơn bảo: "Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này ngươi sẽ oán ta". Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất. Một ngày kia sau mười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành và nhặt lấy quăng vào một bụi trúc. Miểng sành chạm phải một cây trúc khô và ngân lên một tiếng ngân đặc biệt. Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu được ông từ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà có. Ông quỳ xuống, lạy về phía Quy Sơn và bảo: "Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếu ngày ấy thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu này".

Triết học hiện đại, triết học phương Tây thì tiếp cận các quy luật, các thuộc tính của vật chất, của vũ trụ của sự sống... thông qua các khái niệm. Triết học phương Đông nói chung và Phật giáo nói riêng, không làm như vậy, các khái niệm luôn là vật cản, là tri chướng, không cho con người có thể mang cả trí tuệ cũng như thể xác của họ thâm nhập vào các quy luật có tính toàn vũ trụ. Khi giác ngộ thì mỗi tế bào cũng thấm đẫm cái quy luật được chứng đắc ấy.. Tôn giáo nào cũng vậy, cái mục tiêu cuối cùng luôn là động lực khiến các tín đồ theo và phấn đấu. Ở Phật giáo đó là giác ngộ, là Niết Bàn.

Thêm một kiến giải nữa về giác ngộ là thêm một hạt muối thả vào biển. Tuy vậy, vẫn không phải là không có cách. Chúng ta hãy thử giả định rằng chúng ta đã giác ngộ, chúng ta đã tuệ thông với nhiều phép thần thông tuyệt diệu, tai có thể nghe ngàn dặm, mắt có thể nhìn qua núi non biển cả, thân hình có thể đi mây về gió, tỏa sáng hào quang, tinh thần thông suốt không bị bất cứ một trở ngại nào, tạo hóa làm gì cũng có thể hiểu được, ông Thượng Đế, nếu có, thì ngồi uống trà với ổng mà không một chút e ngại .v.v... thì lúc ấy, cơ thể ta sẽ như thế nào? Bởi vì các phép thần thông ấy khó biết, khó giải bày, bởi vì cái đời sống tinh thần ấy hầu như không thể hiểu được, không thể kiểm chứng, không thể xác nhận nên chúng ta sẽ tìm hiểu ở một góc độ khác là xem lúc ấy cơ thể ta sẽ như thế nào.
Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều rằng nó sẽ không giống với cái cơ thể ta trước đó. Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều là ta sẽ chẳng có bệnh tật gì cả? Thật vô duyên khi một bậc giác ngộ mà bị huyết áp, lớn tim, ho lao hoặc ung thư. Có thể có một số bệnh ngoại khoa cấp tính như gãy xương, ruột thừa, hoặc bệnh kiết lỵ do ngộ độc nấm độc mà Đức Thế Tôn đã mắc phải... còn ngoài ra cơ thể ta là một sự khỏe mạnh đến trong suốt. Bệnh gì không biết chứ bệnh do tâm thần sinh ra như huyết áp, tim mạch, stress, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, suy nhược, đau khớp, đái đường... sẽ không bao giờ mắc phải. Người đã mắc phải, thì nếu giác ngộ xong bệnh này cũng sẽ biến mất.

Chắc chắn là như vậy rồi. Chúng ta hãy hình dung, những bệnh trên xuất hiện do căng thẳng, lo nghĩ mà có. Người giác ngộ thế nào không biết chứ chắc chắn đó là người không còn biết sợ, biết lo nữa. Cuộc sống của họ là một sự ân sủng của tạo hóa ban cho trong từng giây, từng phút, thì hỏi làm sao huyết áp tăng cho được? Bệnh huyết áp là bệnh tây y bảo không chữa được. Chúng ta chưa có bằng chứng nhưng với những gì biết được chúng ta có thể chắc chắn rằng người giác ngộ không bao giờ tăng huyết áp. Các bác sĩ tim mạch hẳn cũng đồng ý điều này.. Và kể từ đó ta sẽ có những giấc ngủ luôn thật ngon, đặc biệt là không bao giờ mộng mị. Ngài A-nan khi kể về những giấc mơ của mình cho Phật nghe Phật cũng bảo rằng chư Phật ngủ chẳng mơ bao giờ. Không có bất cứ một giấc mơ nào dầu tốt hoặc xấu, dầu lành hoặc ác xuất hiện trong giấc ngủ người giác ngộ.

Đây là cái phần nhô lên nhỏ nhoi của tảng băng trôi; cái phần lớn nhất, quan trọng nhất, tinh hoa nhất của nó vẫn chìm dưới nước chưa được biết đến. Chỉ với một chút có thể nhận thấy này chúng ta đã có thể tin rằng nó rất thật..

Với giả định này chúng ta có thể tạm tin rằng người trong một chốc giác ngộ sẽ tự nhận thấy những chuyển biến kỳ lạ chưa từng biết đến xảy ra trong cơ thể mình. Nó rõ ràng như ngài Huệ Khả nói, "Nó thường biết rõ ràng, ngôn từ nói không tới!". Nó thấy được sờ sờ như ngài Huệ Năng nói "Ai dè....", nó cũng tràn đầy xúc cảm như ngài Bạt Tụy đã đi không vững, húc đầu vào cột nhà mấy lần, về đến nhà khóc suốt ba đêm ba ngày vì nó. Thiền sư Vô Môn Huệ Khai sau sáu năm miên mật, một ngày nọ khi nghe tiếng trống báo giờ cơm trưa sư hoát nhiên đại ngộ và ứng khẩu bài kệ sau: 

Trời quang mây tạnh sấm dậy vang lừng.
Mọi vật trên đất, mắt bỗng thấy hết. 
hồng nghìn tía cúi đầu làm lễ.
 Núi Tu-di cũng nhảy múa vui mừng. 

Sư được Thiền Sư Nguyệt Lâm ấn chứng. Khi mà mô tả cái khác biệt của mình trong giây phút trước và giây phút sau bằng những hình ảnh như thế, sấm dậy vang lừng, núi Tu di cũng nhảy múa, thì ta biết đó là những cảm giác rất cụ thể rõ ràng như thấy trước mắt, sờ bằng tay, hoàn toàn không có một chút nào của tâm thức. Nó không giống như Archimede hoặc Newton reo lên sung sướng nhưng rất dễ đột tử vì vỡ tim hoặc tai biến mạch máu não, người giác ngộ thì khác hoàn toàn.

Và ở cái trạng thái này thì sự vô minh hay giác ngộ, niết bàn hay địa ngục, thánh hay phàm, ma hay Phật, sân si hay buông xả, ngã hay vô ngã, thế giới vật chất là thường hay vô thường... nào có gì quan trọng! Mỗi phút giây là mỗi ân sủng mà tạo hóa đã ban cho. Các phép thần thông cũng đâu có gì là quan trọng bởi bản thân họ là một thần thông tuyệt diệu nhất. Trong trạng thái tĩnh lặng, yên vui ấy tai ta sẽ nghe tất cả âm thanh kỳ diệu của tạo hóa, từ tiếng chim hót đến điệu nhạc disco inh tai nhức óc, từ tiếng của chồi cây đang vươn lên đến âm thanh của các vì tinh tú xa xôi. 

Năm 761 vua Túc Tông nhà Đường thỉnh Huệ Trung đến kinh đô phong làm Quốc sư. Suốt trong lần yến kiến vua đã hỏi ông nhiều câu, tuy nhiên ông không hề nhìn vua lấy một lần. Vua giận mới bảo: "Trẫm là Thiên Tử nước Đại Đường, sao thầy không một lần hạ cố nhìn đến trẫm?". Huệ Trung trả lời: "Bệ hạ có nhìn thấy hư không trên kia chăng?". "Có". "Hư không có nháy mắt với bệ hạ không?". Cái tâm thế hoàn toàn không thuộc về ý thức nhưng biết rõ là mình đồng với vũ trụ, hòa với cỏ cây rất thật ấy, khoa học hiện đại, tâm lý học hiện đại hoàn toàn chưa biết đến.
Có thật vậy không, không biết, chỉ có một điều chắc chắn là ta sẽ nghe rõ nhất những tiếng nói từ trong của cơ thể ta. Chính đây là bí ẩn của các bậc giác ngộ. Gần như tất cả đều biết giây phút mình ra đi và tất cả đều bình thản đón nhận. Nói như vậy là đã hơi xa cách, ở trạng thái này thì cái chết và cái sống không hề có phân biệt. Hay một điều là nó không cần đến một chút nào của ý thức để xác tín điều đó. Chúng ta, người đời vẫn hay nói về sự thanh thản khi chết, chuẩn bị cho cái chết, xem cái chết tựa lông hồng, thế nhưng xem cái chết như đang sống mà không cần đến một chút ý thức nào thì chỉ có ở người giác ngộ .

Tóm lại, đó vẫn là chuyện... như là chúng ta xem phim khủng long! Tất cả dựa trên một ít "xương cốt" hóa thạch để lại chứ khủng long sống thế nào, kêu rống thế nào thì chẳng ai biết. Các nhà khoa học đang tìm cách tái sinh nó. Giác ngộ cũng vậy, các Phật tử đều đang chờ Di Lặc xuất hiện mặc dầu tinh thần Phật giáo không xem điều đó làm trọng.

Hình như đã đến lúc con người bắt đầu hiểu được giá trị của mặt bên kia trong hoạt động của bộ não, mặt tĩnh lặng, không hoạt động nhưng lại vô cùng tỉnh thức. Con người đã nghĩ ra hằng trăm phương pháp thể dục cho cơ thể, thế nhưng một phương pháp thể dục cho tinh thần thì hầu như chưa ai nghĩ đến. May sao con người đã có phương pháp thiền định từ hơn 2500 năm trước, tuy bị lãng quên hoặc ngộ nhận nhiều điều nhưng cuối cùng chắc chắn nó sẽ có những đóng góp tích cực cho cuộc sống và văn minh nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này.


http://www.phatgiaonguyenthuy.com/news-2133/Bi-mat-cua-thien-dinh.html

đêm của quỷ



Ngu Yên








Chạng vạng mang theo âm khí làm lạnh đường xuống xóm thị xã tây đà.

Quán X, đêm nay dành riêng cho quỷ, vì quỷ và người không chơi với nhau.

Kinh sách tưởng rằng người sợ quỷ.

Thật ra, quỷ rất sợ người.

Địa chỉ ae0da, cộng thành aa, bỏ ed, còn 0.

Con số tiêu biểu lòng tự tôn của các oan hồn nghệ sĩ. Lúc sống, ai cũng dành đứng đầu. Thấy không? chỉ một hàng ngang dài vô tận, vì khộng ai chịu đứng sau. Dù vậy, chẳng mấy ai toại nguyện, thành thử, hầu hết, chết oan.

Người chết không thành quỷ, chỉ giải thoát con quỷ sẵn có bên trong. Con quỷ bất tử, sinh ra từ mặt trái con người.

Trước quán treo bảng:

" Đêm nay không mở cửa đón khách thường xuyên. Sinh hoạt đặc nhiệm Nhóm Văn Nghệ Sĩ Quỷ."

Người qua đường nghe tiếng hủy hoại của giông bão bên trong.



Hẹn 6 giờ, 8 giờ bắt đầu, đến trễ, 9 giờ xin lỗi.

Chủ đề: " Ăn tủy văn hóa, uống máu nghệ thuật"

Chương trình liệt kê:

Trị liệu thi ca tiểu đường.

Đề phòng tiểu thuyết cao mỡ.

Chữa bệnh truyện ngắn cao máu.

Trụ sinh chống tiểu luận ho lao.

Giải phẫu triết lý ung thư.

Nhạc chọn lọc tương lai. Nhạc chưa sáng tác.

Diễn văn của quỷ, không quan trọng nội dung, vì không chết, cần gì bất tử.

Người đã chết, thơ văn nghệ thuật tư tưởng không thể hồi sinh.

Muốn sống lại, quỷ phải chết lần nữa.

Ưu điểm nhất của quỷ là đen thui giống nhau. Khi không thể phân biệt mặt mũi, không cần so đo tài năng, không cần tranh đấu danh vọng.

Quan trọng nhất của quỷ là tình yêu, vì quỷ dâm dục hơn người. Dâm dục bất tử và không bị nuôi con.

Quỷ có thời giờ vô hạn để tối tác. Vì vậy, đêm văn nghệ của quỷ, đầy tối tạo. Quỷ sợ sáng.

Đề tài thảo luận sau cùng: "Làm Sao Quỷ Có Thể Chết?" Đã chán làm người, nay chán làm quỷ, nhưng không chết.

Sống đời đời là hinh phạt khủng khiếp, cho dù là ai, kể cả Thượng Đế.

Trong hình ảnh đó, tác phẩm bất tử là xác ướp. Tự sầu khổ vì bị chưng bày, tra khảo, vay mượn. Chính nó cũng muốn chết, cho yên thân.

Tác giả bất tử là quỷ.

Hội thảo sôi nổi. Chưa có giải pháp, đã hết giờ. Mặt trời rục rịch đội mồ đi lên.

Hẹn lần tới sẽ tranh cãi tiếp.

Trước khi chia tay,

Mỗi con quỷ móc trái tim, đặt xuống bàn, rồi trịnh trọng nâng lên, "dzô", tất cả cùng nuốt vào. Trông hùng hồn, sảng khoái. Cử chỉ lương thiện nhất của quỷ.

Nhưng quỷ làm gì có tim.

Tim của người.



Ngu Yên

Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2016

Vạn Phúc Mai- gía 1,2 triệu

Vạn Phúc Mai- gía 1,2 triệu -ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



Nguồn Gốc Chữ Quốc ngữ





Huỳnh Ái Tông

Đại Cương.

Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm ( 1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.

Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ :

* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
* Thời kỳ xây dựng năm 1651.
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867.

Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo Đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin).

Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao – Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Đào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch’nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch’nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha.

Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học ” Madre de Dieux ” (Mẹ Đức Chúa Trời).

Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.
Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ

I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ

Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.

Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).

Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.

Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:

1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592.

2) Cuốn tự điển La – Bồ – Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595)

Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.

Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn :

* Giai đoạn phiên âm.
* Giai đoạn cấu tạo câu.

1.- Giai đoạn phiên âm.

Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

” Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian “.

Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ?

Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng : ” Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? “ Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : ” Muon bau dau Christiam chiam ? “ ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?).

Đây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong.

Phiên âm : Nghĩa
Anam : An Nam
Tunchim : Đông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Đã đến lúc
Dàdèn lùt : Đã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có
…….
Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Đã ăn nữa,
Da, an, het : Đã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua
Chiuna : Chúa

Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau :

An nam : An Nam
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh

Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm :

Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ

Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :

Ainão : Hải Nam
Tunquim, Tunquin : Đông Kinh

Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:

Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Đề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt

Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm :

Digcham : Dinh Chàm
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa

Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:

Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng

Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d’Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ :

Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)

Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :

Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)

Danh từ Ông Nghè :

Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)

2.- Giai Đoạn Cấu Tạo Câu.

a.- Sự đóng góp của Gasparo d’Amiral

Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm 1632 với những phiên âm của Gasparo d’Amiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d’Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Đào Nha – Annam cũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển tự vị “An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh ”

Để hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của Gasparo d’Amiral đối với Đắc Lộ.

Gasparo d’Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết học, Thần Học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Đào Nha.

Năm 1623, Gasparo d’Amiral đến Áo Môn, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật) đến Đàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh mục Đắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631 Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long).

Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Áo Môn, như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm.

Đến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa – Áo Môn, Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối vào ngày 23-12-1645.

Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparo d’Amiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: ” Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China ” ( Bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như sau:

Tun kim : Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Đàng tlão : Đàng Trong
Đàng ngoày : Đàng Ngoài
Đàng tlên : Đàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Đức laõ : Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Đức vương : Đức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Đô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Đàng
Bên đoũ đa : Bên Đống Đa
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Đinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Đô Đốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Đức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sang phú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam

Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: ” Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China ” (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Đào Nha. Gồm có một số phiên âm sau đây :

Sãy : Sãi
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ an
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Đàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Đông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)

Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ :

Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay :
Các âm â ghi ă (hàng nấm)
———– ê – e (huyẹn, hién)
———– y – i (thầi)
———– o – õ (bõy)
——— âu – ăii (hầu)

Các phụ âm : ng ghi ũ (oũ)
—————– ch – yc (bạyc)

Các dấu giọng : ? ghi ~ (cữa nam, phũ)
——————- ~ – ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)

Tuy nhiên Gasparo d’Amiral cũng ghi được các âm như ngày nay :

a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)

Có đủ dấu giọng:

không dấu (nam, đô)
� (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)

Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định … Do đó chúng ta thấy Gasparo d’Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparo d’Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.

b.- Sự đóng góp của Linh mục Đắc Lộ.

Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Để hiểu rõ vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyền giáo của Đắc Lộ.

Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin, tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin II de Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng.

Đắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612, học tập chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du Quirinal, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang Đông Nam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày 04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Độ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623, ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tại Đà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáo sĩ Nhật.

Đắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de Fontes (đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Đắc Lộ học tiếng Việt với Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời Đàng Trong về Áo Môn, ngày 19-3-1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang ( Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long, thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Đàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ, Đắc Lộ trở về Áo Môn.

Từ năm 1630 đến năm 1640, Đắc Lộ dạy thần học ở học viện thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Đàng Trong làm Bề Trên, thay thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây cho đến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trục xuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học, ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam.

Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Đắc Lộ làm Bề Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Đầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5 tháng 11 năm 1660.

Giai đoạn trước, giáo sĩ Đắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy, ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.

Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: ” Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 ” ( Lịch sử Đàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.

Các chữ phiên âm trong quyển một.

Tung : Đông
kin : kinh
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô ( Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Đồng (tên)

Các chữ phiên âm trong quyển hai

Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Đàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : bố chính
Rum : Rum
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre

Tài liệu năm 1644, Đắc Lộ viết bằng Bồ văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: ” Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no 26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos ” ( Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu phiên âm :

Ounghebo, Oũnghebo : Ông Nghè Bộ

Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy : Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.

Tài liệu năm 1647, Đắc Lộ viết bằng La văn tại Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề : ” Alexandre Rhodes è Societate jesu terra marique decẽ annorũ Itinerarium ” ( Cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới biển của Đắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau:

Ciam : Chàm
Ranran : Ran ran
Ké han : Kẻ Hàn
On ghe bo : Ông nghè Bộ
ke cham : kẻ Chàm
halam : Hà Lan
Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm
ben da : Bến đá
Qui nhin : Qui Nhơn
Nam binh : Nam Bình
Bao bom : Bầu vom
Quan Ghia : Quảng Nghĩa
Nuoc man : Nước Mặn
bau beo : Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia : Quảng Nghĩa
Baubom : Bầu Vom
bochinh : Bố chính
Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ

Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d’Amiral và Đắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau :

1) Linh mục Gasparo d’Amiral phiên âm có tự dạng gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Đắc Lộ, thử so sánh :

Tài liệu Gasparo d’Amiral 1632 : Tài liệu Đắc Lộ 1636

—————– Thanh đô vương ——– thanh đô
—————– Nhà ti ——————— gna ti
—————– Nhà hién —————– gna hien
—————– Nghệ ăn, nghệ an —— Gne an
—————– Bố chính —————– bochin

2) Gasparo d’Amiral phân biệt được một số dấu giọng như đã vạch ra ở phần trước, trong khi Đắc Lộ lại ít dùng dấu giọng.

3) Ngay trong cách phiên âm của Đắc Lộ, tài liệu sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d’Amiral phiên âm tài liệu năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632.

Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d’Amiral gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Đắc Lộ cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyền giáo tại Việt Nam, chắc chắn Đắc Lộ có xem qua bảng tường trình nầy.

Từ năm 1638-1645 Gasparo d’Amiral ở tại Áo Môn, như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến 20-12-1645 Đắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạy tiếng Việt, còn Gasparo d’Amiral đã soạn quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó cho ta thấy chắc chắn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo d’Amiral về lãnh vực tiếng Việt.

Tài liệu Đắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar, chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.

c.- Sự đóng góp của Linh mục Antonio Barbosa

Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de Sonza, Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông được cử đến truyền giáo ở Đàng Trong và đến tháng 4 năm 1636, ông có đến Đàng Ngoài truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647.

Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu Quốc ngữ nào, nhưng Đắc Lộ đã cho biết : ” Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d’Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d’Amiral làm cuốn Annamiticum – Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum – Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y.” ( 4 )

d.- Sự đóng góp của người Việt

Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữ hình thành cũng nằm trong mục đích chánh là phương tiện truyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng Tên ở Việt Nam. Bên cạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiều thì ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antonio soạn hai quyển tự điển của họ, điều đó tuy không có chứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép chúng ta tin như vậy.

Ngoài ra trong thời kỳ nầy còn có tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mô thức rửa tội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Học tại Áo Môn năm 1645

Tài liệu nầy là một bản La văn do các linh mục Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mục Sebastião de Jonaya, nhan đề: ” Cirra formam Baptismi Annamico Idiomate prolatam’ ( Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam). Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:

” Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ão câi trâm cũ nghi bậi – tôy là An re Sen cũ nghi bậi – tôy là Ben tò vẫn triền cũ nghi bậi – tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghi bậi – tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi – tôy là Gi-ro-ni-mo cũ nghi bậi – tôy là I-na sô cũ nghi bậi – tôy là tho-me cũ nghi bậi – tôy là Gi-le cũ nghi bậi – tôy là lu-i-si cũ nghi bậi – tôy là Phi-lip cũ nghi bậi – tôy là Do-minh cũ nghi bậi – tôy là An-ton cũ nghi bậi – tôy là Giu ão cũ nghi bậi ” ( nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói : nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giu an Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy – Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy – Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy – Tôi là Phê rô Văn Nhất cũng nghĩ vậy – Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy – Tôi là Gi-rô-i-mô cũng nghĩ vậy – Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy – Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy – Tôi là Phi líp cũng nghĩ vậy – Tôi là Đô Minh cũng nghĩ vậy – Tôi là An ton cũng nghĩ vậy – Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).

Như thế, chúng ta thấy rõ đây là một bản văn Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhận mô thức rửa tội năm 1645 của các linh mục Dòng Tên và đây là tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Qua so sánh, chúng ta có thể thấy rằng chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ khởi đầu từ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ kế tiếp.

Tưởng cũng nên nhắc lại, từ khi khởi đầu phiên âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ, không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo đoàn truyền giáo Dòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữ Nhật, để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng như Việt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều có chữ Quốc ngữ biến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biết chữ Nôm, đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữ Hán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm lại càng khó hơn, chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết của Nhật cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo của họ được dễ dàng hơn.

*
II. Thời Kỳ Xây Dựng
Khái Quát.

Theo tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum của Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn nầy bắt đầu từ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d’Amiral khi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum – Annamaticum và Annamiticum – Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khám phá.

Các nhà nghiên cứu cho rằng hai quyển tự điển vừa kể, có thể đã bị thất lạc do các cuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn qua Manila khoảng năm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thu các tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm 1770 đem về Madrid, nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2 quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở Madrid cũng không tìm thấy chúng.

Linh mục Thanh Lãng có cho biết tại Tòa Thánh La Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục Philipphé Bỉnh sao lục, không đề tên tác giả, đó là quyển : Dictionarium Annamiticum – Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23 dầy 288 trang và Dictionarium Lusitanum – Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324 trang.

Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại Hải Dương năm 1759, vào chủng viện năm 1775. Được phong Thầy Cả sau khi mãn khóa học.

Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hội và sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ văn, La Tinh, Nôm và Quốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm ” Truyện An-nam Đàng ngoài chí Đàng trão “. Ông mất tại Lisbonne năm 1832.

Căn cứ vào công trình của Philipphé Bỉnh, vào những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúng ta có thể đi đến kết luận là quyển Dictionarium Annamiticum – Lusitanum của Gasparo d’Amiral và Dictionarium Lusitanium – Annamiticum của Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà Philipphé Bỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyển tự điển, nó cũng chứng tỏ rằng Linh mục Đắc Lộ đã mang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có lẽ trước tiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đã dựa vào đó soạn và in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, nên 2 quyển tự điển kia không cần thiết phải in nữa.

Chọn năm 1651 là năm đánh dấu sự hoàn tất công trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằm mục đích làm phương tiện truyền giáo của các giáo sĩ Tây Phương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum được in mà còn có quyển ” Cathéchismus ” (Phép giảng tám ngày), cũng được in trong năm nầy.
Thời kỳ soạn thảo quyển tự điển An Nam – Bồ Đào Nha – LaTinh

Cho đến nay, chưa có tài liệu nào công bố thời gian và địa điểm Đắc Lộ đã soạn quyển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum. Theo đoạn văn trích dịch ở trên, chúng ta biết rằng Đắc Lộ soạn quyển tự điển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparo d’Amiral và Antonio Barbosa.

Nhưng công trình của 2 linh mục nầy không được in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian biên soạn hay hoàn tất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác định thời gian Linh mục Đắc Lộ soạn quyển tự điển của ông. Đặt ra vấn đề nầy để xác nhận thời điểm, trong những giai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Theo vết chân của Đắc Lộ, chúng ta biết ông có thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm 1630-1640 là thời gian ông dạy thần học ở Học viện thần học tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mục Antonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Đào Nha – An Nam, vì thời gian 1620-1642 ông đang truyền giáo Đàng Trong rồi Đàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục Antonio học hỏi tiếng Việt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn để dưỡng bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biên soạn và hoàn tất quyển tự điển của mình trước tháng 12 năm 1645.

Còn Linh mục Gasparo d’Amiral sau thời gian ở Đàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môn giữ chức Viện trưởng Viện thần học kiêm Phó Giám Tỉnh Nhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã phối hợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tất quyển tự điển An Nam – Bồ Đào Nha.

Tóm lại các quyển tự điển An Nam Bồ Đào Nha và Bồ Đào Nha An Nam được soạn trong khoảng 1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục Gasparo bị đắm tàu chết đuối và trước đó ít hôm, Linh mục Đắc Lộ đã rời Áo Môn trở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời gian từ 3-7-1645 đến 20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục Đắc Lộ, Gasparo d’Amiral và Antonio Barbosa đều có mặt tại Thần Học Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết định giao cho Đắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà in của Bộ Truyền giáo ở La Mã để in, cho nên ngày nay bản gốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn, Manilia hay Tây Ban Nha.

Linh mục Đắc Lộ rời Áo Môn ngày 20-12-1645, và đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầy ông bắt đầu soạn quyển Tự điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ở Việt Nam được dễ dàng hơn. Ý ấy đã được các Hồng y chấp thuận như ông đã ghi ở bài tựa quyển Tự điển.

Vậy thời điểm Đắc Lộ soạn quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm 1645- 1649, và ngày 5-2-1651 quyển nầy được Linh mục F. Piccolomineus Bề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản. Và sau đó quyển Cathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 – 1651, cuốn nầy được Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả cho phép xuất bản ngày 8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo, nên trong phiên họp các Hồng Y và giáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà in của Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanh chóng in cho xong quyển Cathéchismus.
Nội Dung Quyển Dictionarium Annamaticum et Latinum

Quyển sách nầy trừ lời tựa, nó được chia thành ba phần chính:
Phần I. Linguae Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio ( tức là phần Ngữ Pháp Việt Nam được soạn bằng La văn gồm 31 trang, chia thành 8 chương:

Chương I .- De literis et syllabis quibus hase lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt)
Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu)
Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
Chương IV.- De Pronominibus (Đại danh từ)
Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Đại danh từ khác)
Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến)
Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)
Phần II. Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina declaratione.

Phần nầy không đánh số trang, chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả 900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để một vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫu tự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự b)

Mỗi chữ Việt được giải nghĩa theo thứ tự chữ Bồ rồi mới đến chữ La tinh.
Phần III. Index Latini sermonis.
Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.

Sau khi biết khái quát về quyển tự điển nầy, chúng ta có những nhận định sau đây :

* Công trình điển chế Việt ngữ của Đắc Lộ chẳng những đã hệ thống hóa phương pháp ghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác phẩm căn bản, để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể như ngày nay.

* Dù sao thì công trình của Đắc Lộ cũng chỉ nhằm giúp những người biết chữ La tinh hay Bồ Đào Nha học Việt ngữ, Đắc Lộ không có công trình nào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho người Việt, cũng vì thế mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữ Quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ và một ít giáo dân mà thôi.

* Cho đến khi quyển ” Chuyện Đời Xưa “ của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn còn ghi ở lời Tựa “… cùng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen. “ Điều nầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đích giúp cho người ngoại quốc học tiếng Việt.

* Ngày nay một số tự điển nhằm mục đích giảng giải, phần đầu của tự điển có phần tóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh Việt, Việt Anh Tiêu Chuẩn Tự Điển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũng giống như hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điển Việt – Bồ – La của Đắc Lộ.
Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Khác.
Quyển Cathéchismus

Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus ( Phép Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn lại ngày nay, nó cũng là bản văn được nhiều người biết đến, đấy là công trình của Đắc Lộ, tuy chỉ nhằm mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một chứng liệu quý giá để xác định một bản văn hoàn toàn dùng Quốc ngữ.

Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo. Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột bên trái là chữ la tinh và cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang, không có lời tựa.

Sách không chia từng chương, mà chia thành ngày học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọi tên là ” Phép giảng tám ngày “ , phân chia như sau :

– Ngày thứ nhất : Đạo thánh đức Chúa Trời.
– Ngày thứ hai : Đức Chúa Trời.
– Ngày thứ ba : Đức thợ cả
– Ngày thứ tư : Những đạo vạy
– Ngày thứ năm : Một đức chúa Trời ba ngôi – Đức chúa Trời ra đời cứu thế.
– Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả.
– Ngày thứ bảy : Con chiên lành.
– Ngày thứ tám : Một bậc thang lên Thiên đàng.

Sách không chia ra các tiểu mục, trong khi sao lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyên tắc để chia ra các tiểu mục. Chẳng hạn như Ngày thứ tư : Những đạo vạy :

* Con cháu ông Adam.
* Ông Noe và lụt cả
* Tháp Babel
* Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy
* Đạo bụt : giáo ngoài và giáo trong
* Đạo lão
* Đạo Nho : Việc thờ ông Khổng.
* Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta
* Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
* Linh hồn ta chẳng hay chết.

Quyển Cathéchismus là một quyển sách Quốc ngữ được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầu cho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại Việt Nam.
Các Tài Liệu Viết Tay

Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ở La Mã còn có 2 tài liệu viết tay của 2 người Việt, đó là Igesico Văn Tín và Bento Thiện.

Tài liệu của Igesico Văn Tín là một lá thư viết ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi, mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng do những chi tiết trong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻ Vó, gửi cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dung thư, đại ý nói về các hoạt động truyền giáo tại kẻ Vó ( Đàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini ( 5 )

Còn tài liệu của Bento Thiện gồm có một bức thư viết tay, viết năm 1659 và một tập tài liệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã. Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư, ông có ghi ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.

Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhất của bức thư nầy, có ghi dòng chữ Bồ ” Ao Pe Philipe Marino ” ( Gửi cho cha Philipe Marino – Marini), dòng thứ hai ghi bằng chữ La Tinh ” Pax Christi ” ( Bằng an chúa Ky-tô), từ dòng thứ ba trở đi là chữ Quốc ngữ.( 6)

Nội dung bức thư nầy, ông nói về tình hình truyền giáo tại Đàng Ngoài, cùng những lời ca ngợi của chính Bento Thiện cũng như của những giáo dân đã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục Marini.

Ngoài ra Bento Thiện cũng có đề cập tới việc Marini nhờ ông viết một số tài liệu về Việt Nam, ông cho biết đã làm xong ” hai vở “ ( 7 ), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ chuyển tới cho Marini.

Còn về tập tài liệu (hai vở) ( 8 ), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có : Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy tóm lược nhưng cũng khá đầy đủ, phần nầy gồm có 6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang cùng khổ giấy, nội dung gồm có : Ghi chép phong tục, tổ chức quan lại, thi cử, tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện, châu, động, xã, thôn ở Đàng Ngoài và phần cuối cùng là tín ngưỡng.

Những tài liệu nầy có chụp hình và in lại trong quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 của Linh mục Đỗ Quang Chính, nói chung thì chữ Quốc ngữ viết vào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là có tự dạng giống như ngày nay.

Qua những lời lẽ viết trong thư của Văn Tín và Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễn đạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được suông sẻ, dữ kiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa của người viết kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sử Việt Nam … chẳng qua chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến, chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng, trong sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.
Thời kỳ của Pièrre Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.
Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (1741-1799)

Ông là Giám mục d’Adran, người Pháp thuộc dòng Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatman gần Pondichéry (Ấn Độ), ông có nghiên cứu về Khổng Mạnh và có soạn bộ tự vị Việt – La tinh (Dictionarium Annamatica – Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố của hội Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.
J. L. Tabert (1794-1840).

Giám mục Tabert cũng thuộc dòng Thừa sai, ông có ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị : Dictionarium Annamatico – Latinum và Dictionarium Latino – Annamaticum, theo các nhà nghiên cứu như Adrien Launay, Linh mục Lepold Cadière đều cho rằng Tabert đã dựa vào công trình của d’Adran để soạn thảo. Quyển Dictionarium Annamatico – Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng) được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm 1838.

Đến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ : trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vận cản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự dạng ngày nay.

Nói chung đến thời kỳ nầy, chữ Quốc ngữ đã hoàn bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữ trong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của Linh mục Tabert và chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốc ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống như tình trạng trước kia, nó chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáo dân người Việt.

Phải đợi đến năm 1866, năm quyển ” Chuyện Đời Xưa “ của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến với mục đích truyền bá cho người Việt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp ban hành Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôn trong khắp cõi Nam Kỳ, phải thông hiểu chữ Quốc ngữ, nó đánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chính thức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi được dùng làm văn tự chính thức trên vùng đất thuộc địa của Pháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời gian trên hai thế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.
Kết Luận

Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ, để truyền bá đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ thành công cụ cai trị. Người miền Nam sống trên dải đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng, cho nên những người yêu nước, người bình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thần ấy được ghi lại trong Ca dao:

Khuyên anh về học lấy chữ Nhu, ( 9 )
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc Lộ, là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ Tây phương vàngười Việt Nam.

Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.

Huỳnh Ái Tông
Memoiry Day 2000

Source : Hậu Giang

****

(1). Chữ Nôm là mượn âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.

(2). Christofora Borri đến Đàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pina đến lập cơ sở ở Nước Mặn, ông rời Đàng Trong năm 1621 về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.

(3). Borri, Relation della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regno della Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesima Compania, Roma, 1631 ( Sự liên hệ về giáo đoàn mới của các linh mục Dòng Tên, ghi bởi linh mục Christoforo Borri người Milan thuộc giáo đoàn nầy).

(4). Võ Long Tê, Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965 trang 192-193.

(5). Đỗ Quang Chính Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn 1972, trang 92-98.

(6). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107

(7). Bento Thiện gọi là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vận Âu- Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị nạn đắm tàu, nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nên tuy 2 nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy, tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở La Mã.

(8). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109 và phụ lục.

(9). Chữ Nhu là âm Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán