Thứ Tư, 7 tháng 9, 2016

Ông Trịnh Xuân Thanh gửi đơn xin ra khỏi Đảng?



Tác giả: Quang Minh Nhật




TIN LIÊN QUAN

Bộ Nội vụ vẫn chưa báo cáo vụ ông Trịnh Xuân Thanh

Tổng bí thư: Vụ Trịnh Xuân Thanh ‘còn liên quan người khác’

Khẩn trương điều tra vụ thua lỗ 3.300 tỉ đồng liên quan ông Trịnh Xuân Thanh

Trước đó, vào chiều 4.9, trong cuộc gọi bất ngờ lần đầu tiên, sau khi trình bày nhiều nội dung có tính chất “giải trình” những vấn đề liên quan đến mình như báo chí thông tin thời gian qua, ông Thanh cho biết đã làm đơn xin ra khỏi Đảng và đã gửi đến các cơ quan chức năng ở T.Ư cũng như Tỉnh ủy Hậu Giang.
Cụ thể, ông Thanh khẳng định giữa tháng 7.2016 ông đã ký đơn gửi Thường trực Tỉnh ủy xin ra khỏi Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015 – 2020 do bản thân không còn làm Phó chủ tịch UBND tỉnh nữa “nên giữ chức vụ Tỉnh ủy viên là không cần thiết”. Đến ngày 29.8 ông cũng đã ký đơn gửi Thường trực Tỉnh ủy Hậu Giang xin ra khỏi Đảng.


Tuy nhiên, trả lời Thanh Niên, ông Trần Công Chánh, Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang cho biết đến thời điểm này Thường trực Tỉnh ủy vẫn chưa nhận được bất cứ đơn nào của cá nhân ông Trịnh Xuân Thanh. Vụ việc ông Thanh các cơ quan ở T.Ư đang xử lý theo quy định. Ông Bùi Văn Sáu, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hậu Giang, cũng xác nhận đến thời điểm này chưa nhận bất cứ thông tin gì liên quan đến việc ông Thanh xin ra khỏi Đảng.


Trong khi đó, ông Thanh xin phép nghỉ 1 tháng để điều trị bệnh và đã hết phép vào ngày 3.9 nhưng vẫn chưa trở lại làm việc. Thường trực Tỉnh ủy cũng đã có báo cáo gửi T.Ư về việc không thể liên lạc được với ông Thanh. Chủ động gọi phóng viên Báo Thanh Niênnhưng khi được hỏi đang ở đâu ông Thanh cũng không tiết lộ, mà chỉ cho biết là đang tập trung chữa bệnh gout.
TIN LIÊN QUAN

Hé lộ về ‘quỹ đen trăm tỉ’ thời ông Trịnh Xuân Thanh
Kết quả kiểm tra cho biết, trong giai đoạn PVC-ME dưới thời ông Trịnh Xuân Thanh đã lập ‘quỹ đen trăm tỉ’ để sử dụng vào việc tiếp khách, biếu xén hoặc đi ‘đối ngoại’.
—————
http://thanhnien.vn/thoi-su/ong-trinh-xuan-thanh-het-phep-van-khong-di-lam-viec-741749.html

Bà Châu Thị Thu Nga khai chi 30 tỉ đồng để ứng cử ĐBQH?




Tác giả: Thái Sơn

.



Tiếp tục điều tra đối với bà Châu Thị Thu Nga
Đề nghị truy tố nguyên đại biểu Quốc hội Châu Thị Thu Nga

Trả lời Thanh Niên ngày 6.9, thiếu tướng Nguyễn Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và tham nhũng (C46), Bộ Công an cho biết đang tiếp tục điều tra giai đoạn 2 vụ án Châu Thị Thu Nga cùng đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng nhà đất (Housing Group) và dự án B5 Cầu Diễn, Q.Bắc Từ Liêm, TP.Hà Nội.
Trước đó vào cuối tháng 4.2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã hoàn tất kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đến Viện KSND tối cao đề nghị truy tố 7 bị can trong vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong số này bị can Châu Thị Thu Nga, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 13, Chủ tịch HĐQT Housing Group được xác định là chủ mưu.


Theo kết luận điều tra, từ năm 2008 đến nay, dự án xây dựng khu nhà CT5 và HH2 tại B5 Cầu Diễn, Hà Nội chưa được UBND TP.Hà Nội phê duyệt điều chỉnh quy hoạch, chưa cấp giấy phép xây dựng, nhưng bà Nga đã cấu kết với một số cán bộ trong công ty tự lập mô hình, ký hiệu, vị trí, diện tích các căn hộ rồi sử dụng để ký 752 hợp đồng góp vốn và thu 377 tỉ đồng của nhà đầu tư, đến nay không có khả năng chi trả.

Sau khi có kết luận điều tra trên, Viện KSND tối cao đã có văn bản yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra làm rõ 6 nội dung trong vụ án. Đến ngày 25.8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã hoàn tất các nội dung điều tra bổ sung, đồng thời vẫn bảo lưu quan điểm đề nghị truy tố 7 bị can đã nêu trong kết luận lần trước. Một trong những nội dung đáng chú ý là khoản tiền hơn 157 tỉ đồng mà bà Nga khai dùng để “chạy” dự án, chi tiền mặt cho các cá nhân và đối tác nhưng không có tài liệu gì chứng minh, không ký nhận chứng từ, những người nhận tiền theo lời khai của bà Nga đã phủ nhận. Cơ quan cảnh sát điều tra đã cho đối chất nhưng chưa đủ cơ sở làm rõ.

Theo kết luận điều tra, trong khoản tiền 377 tỉ đồng đã thu của nhà đầu tư, bà Nga và đồng phạm đã dùng hơn 28 tỉ đồng trả lại cho một số nhà đầu tư rút vốn, số còn lại là gần 349 tỉ đồng. Bà Nga khai nhận đã sử dụng 85 tỉ đồng trả cho các đơn vị ký hợp đồng một số hạng mục tại dự án B5 Cầu Diễn như thuê đo đạc bản đồ hiện trạng, thuê thiết kế bản vẽ, khoan khảo sát địa chất công trình…; Chi 54 tỉ đồng cho ông Nguyễn Xuân Quý (đã chết), chi 12 tỉ đồng cho Lê Hồng Cương, là 2 nguyên phó tổng giám đốc của Housing Group; chi 30 tỉ đồng cho ông Nguyễn Văn Tuẫn, nguyên Giám đốc Công ty HAIC; chi 300.000 USD (tương đương hơn 6 tỉ đồng) cho một doanh nghiệp bất động sản nhằm mục đích xin được điều chỉnh quy hoạch tại khu đất B5 Cầu Diễn…

Đáng chú ý, bà Nga còn khai nhận đã chi khoảng 1,5 triệu USD (tương đương 30 tỉ đồng) cho một doanh nghiệp về vàng bạc tại TP.Hà Nội để nhờ lo các thủ tục cho bà Nga được ứng cử đại biểu Quốc hội khóa 13 nhưng vị doanh nghiệp này cũng phủ nhận.
————
http://thanhnien.vn/thoi-su/dieu-tra-giai-doan-2-vu-lua-dao-chan-dong-o-housing-group-741753.html

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2016

Nguyệt quới lá rí- giá 500k



Nguyệt quới lá rí- giá 500k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Đôi ta chút nghĩa đèo bòng. . .


Đôi ta chút nghĩa đèo bòng. . .


Tác giả: Đào Dục Tú

.Cho dù vắng bóng trong đời sống ngôn ngữ hiện đại song không hiểu sao hai chữ đèo bòng thuần Việt người viết lại thấy có sức biểu cảm đồng thời có tuổi thọ cao đến vậy,chí ít là hai trăm năm có lẻ,kể từ khi truyện Kiều với Cung oán ngâm ra đời ! Có lẽ bởi tượng hình đeo-đèo,bòng-bồng phản ánh sinh động hoạt động thường nhật của con người được “hoán dụ” sang chuyện quan hệ lứa đôi,quan hệ vợ chồng duyên nợ ở đời chăng ?

—————-

 
Tranh dân gian tả cảnh Kiều gặp Thúc Sinh. Nguồn: Trên mạng

. Sau một thời gian “cặp đôi” êm ái xuân tình với chàng Thúc Sinh, một mối tình bắt đầu từ lầu xanh nghiêng ngả chốn ăn chơi của chàng Thúc con nhà giầu có “trăm nghìn đổ một trận cười như không”, nàng Kiều cảm thấy cần thuyết phục chồng về “vấn an” vợ cả Hoạn Thư. Cảnh chia tay bịn rịn đến cả bờ liễu ven đường : “ sông Tần một dải xanh xanh-loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan”. Nàng nói với chàng “ đôi ta chút nghĩa đèo bòng”. Người viết tự dưng thấy thích hai từ cổ thuần Việt nôm na “đèo bòng”. Sau khi đọc lời chú giải của cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu lại càng thích hơn. Với tinh thần cẩn trọng có thừa,cụ giải thích “ hai chữ đèo bòng có khi là tiếng cổ, trong bản của ông Hồ Đắc Hàm chua rằng “… là nói thương yêu quá sức, bận bịu quấn quýt lấy nhau. . .”



Từ cổ “đèo bòng” đưa người viết tới việc đọc lại Cung Oán Ngâm của cụ Nguyễn Gia Thiều nhớ láng máng có câu rất thích “ đa mang chi nữa đèo bòng-vui gì thế sự mà mong nhân tình”. Cụ học giả Lê Văn Hòe cẩn trọng,chu đáo chú giải rành rọt như sau : “ Nếu là văn xuôi ,thì câu này phải viết “ đa mang chi nữa mà đèo bòng. . .” Đa mang là đeo đẳng,đam mê. Đèo bòng là mang đèo thêm vào người. Tiếng đèo bòng ngụ ý nói về tình duyên vợ chồng. Ca dao có câu “ có lòng thì giã ơn lòng-xa xôi lắm lắm chả đèo bòng được đâu”. Đèo bòng đây là đèo bòng trần duyên.

.Trong “Cung oán ngâm” còn có một câu thơ nữa “kìa điểu thú là loài vạn vật-dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng”. Học giả Lê Văn Hòe giải thích rõ “ điểu là loài chim tức vật có cánh. Thú là loài muông tức vật có bốn chân. . . Vô tri đây phải giảng là không biết lẽ phải trái, không biết cái lẽ của việc làm, hành động thuần theo bản năng. Cũng bắt đây là trời bắt buộc. . . Loài vật không biết gì mà trời cũng bắt phải có việc trống mái. . .Qua diễn giảng của hai bậc học giả túc nho nổi tiếng vào đầu thế kỷ hai mươi , xin hiểu đèo bòng là từ Việt cổ chỉ tình duyên trai gái,tình nghĩa vợ chồng,tình yêu lứa đôi muôn thủa say mê cùng nhiêu khê đa đoan buồn khổ !

Nghĩ thoáng, hay chữ đèo là biến âm từ “đeo”. “bòng” biến âm từ “bồng” ? Đeo thêm vào người, bồng bế thêm trên tay một cách mê đắm,có khi quá mức chính là cái nghĩa của từ cổ đèo bòng chăng. Người viết tự coi đó là giả thiết về sự biến âm xẩy ra phổ biến trong ngôn ngữ Việt Kiểu biến âm đại loại như “mái”,”nái”. . . là biến âm của “cái”- giống cái Nên mới có gà mái, lợn nái. . . Hay vái là biến âm của . . . “bái” từ gốc Hán Việt-nghĩa là lễ. Vân vân

Thời hiện đại, từ cổ “đèo bòng” vắng bóng trong ngôn ngữ viết. Có chăng rất thưa vắng,đôi khi thấy các cụ cao tuổi ,nhất là các cụ bà tầm tám mươi chin mươi nơi thôn dã có sử dụng từ này. Người viết đã từng nghe thân mẫu cách đây mười mấy năm hồi người còn tại thế đưa ra lời bình luận về một người họ xa “ Gớm cái con ấy rách giời rơi xuống. . . Chống con thế mà còn dan díu đèo bòng . . . người dưng !” Cho dù vắng bóng trong đời sống ngôn ngữ hiện đại song không hiểu sao hai chữ đèo bòng thuần Việt người viết lại thấy có sức biểu cảm đồng thời có tuổi thọ cao đến vậy,chí ít là hai trăm năm có lẻ,kể từ khi truyện Kiều với Cung oán ngâm ra đời ! Có lẽ bởi tượng hình đeo-đèo,bòng-bồng phản ánh sinh động hoạt động thường nhật của con người được “hoán dụ” sang chuyện quan hệ lứa đôi,quan hệ vợ chồng duyên nợ ở đời chăng ?. Và tự dưng người viết thấy hai tiếng, hai chữ “đèo bòng” gần gụi với người Việt, dù chỉ là một từ cổ . . . ngày xưa . / .

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt





Trần Gia Ninh


Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia
ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.

Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.



Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?


Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.


Bách Việt là ai và ở đâu?

Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.


Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).


Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.


Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.


Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.


Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú, Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.


Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán


Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.


Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương(Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.




Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.


Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).

Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán


Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…


Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.


Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.


Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.


Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.


Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.


Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.


Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20“Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.


Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.


Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?


Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.

* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.

* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!

Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:

* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.

* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.

Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:

* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.

* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.

* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).


Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.


1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.

2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.

3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.

Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.

Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.

Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.

Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…

Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1

CHÚ DẪN


1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml
越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?” http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html


2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵 âm đọc giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.


3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑, 且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。


#4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html
The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina


5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)


6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.


7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.


8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.


9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).


10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ 雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.


11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.


12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói đóng khố cởi trần).
13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。” Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.


14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).


#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.


16 叶榆水


17岱依人


18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi, thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.


19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.


20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.


21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo sách cổ nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!


22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書 thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.


23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.


24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).


25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.


#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán, thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên


27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? - http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.


28 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.

* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=9983

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

Chuổi ngọc -giá 150k

Chuổi ngọc -giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Hồng Ngọc bể gỗ- giá 350k


Hồng Ngọc bể gỗ- giá 350k-ĐT 0974548883. STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


TRANH THỦ THỜI GIAN, SỐNG TRONG HIỆN TẠI





HT Thích Thánh Nghiêm





Dưới áp lực công việc, con người càng biết tận dụng, tranh thủ thời gian trong từng giây phút, cũng nhờ thế mà người hiện đại càng ý thức, càng quý trọng thời gian.



Nhưng trong tình hình bất ổn của cuộc sống hiện nay, những tình huống bất ngờ xảy ra ngày càng nhiều hơn. Với sự phiền nhiễu của những nhân tố bên trong và bên ngoài, thời gian bị chia cắt thành nhiều phần nhỏ vụn, vô hình chung đã khiến cho chúng ta cảm thấy áp lực ngày càng lớn.



Cuộc sống của con người hiện đại hoàn toàn khác với cuộc sống của con người 200, 300 năm trước. Con người trước đây có quan niệm về thời gian rất đơn giản, đầu óc họ cũng chất phác. Người có học vấn thì trong đầu họ chứa đầy Tứ Thư Ngũ Kinh, lịch sử cổ đại, những người ít học biết nhiều nhất cũng chỉ vài ba chuyện nhỏ nhặt xảy ra lúc đó, sống đến vài chục tuổi họ đã cảm thấy trưởng thành. Nhưng đối với con người hiện đại, lúc nào cũng cảm thấy thời gian quá ít ỏi, bởi các phương tiện truyền thông hiện đại rất đa dạng, như báo chí, truyền hình, mạng… Những sự việc lớn nhỏ xảy ra mỗi ngày trên trái đất đều có thể được biết trong thời gian ngắn. Những sự kiện mới không ngừng tăng lên, các hiện tượng xảy ra cũng không ít, mãi mãi không thể xem hết, học hết. Con người có cảm giác môi trường càng ngày càng nhỏ dần, tầng lớp mà chúng ta được tiếp xúc ngày càng phức tạp, nhưng thời gian thì không bao giờ khống chế được.



Ngoài ra, sự bùng nổ thông tin đã khiến đầu óc chúng ta chứa đầy những loại người, sự vật, sự việc khác nhau. Chúng ta luôn có cảm giác không thể nắm bắt, tiếp nhận hết thông tin. Vốn tri thức ngày càng phong phú, năng lực quan sát ngày càng nhạy bén, có thể đưa ra những phán đoán chính xác, nhưng đôi khi đó chỉ là vẻ ngoài chứ thực chất không hẳn đã vậy. Vì có những thông tin không liên quan, không giúp ích gì, ngược lại còn gây nhiễu, khiến chúng ta do dự, nghi hoặc, không biết nên quyết định thế nào, làm chúng ta lãng phí thêm nhiều thời gian quý báu, đặc biệt là việc giải quyết những vấn đề của bản thân, ví dụ như việc chọn nghề, thậm chí cả việc chọn đối tượng giao tiếp. Chúng ta đều là người trong cuộc nên luôn mê muội, khó đưa ra sự lựa chọn thích hợp. Trước tình huống khẩn cấp, chúng ta càng mất phương hướng, nhiều lúc chỉ nhờ vào vận may của mình.



Vì vậy, trong việc sử dụng thời gian, chúng ta còn phải học nhiều điều, dường như ai cũng bận rộn, mọi người không chỉ thấy thân thể mình bận rộn, đầu óc cũng bận đến nỗi không thể gỡ nổi, trong trường hợp như thế thời gian đương nhiên không bao giờ đủ với họ.



Tôi từng đưa ra một quan niệm: “Người bận rộn là người có nhiều thời gian nhất”. Cũng có thể nói vì thời gian có hạn, nên chúng ta cần biết sử dụng thời gian sao cho hiệu quả nhất, không nên lãng phí thời gian. Dù đó là việc tranh thủ thời gian từng giây, từng phút trong một ngày cũng cần phải sử dụng một cách hiệu quả.



Ví dụ, khi chúng ta bị kẹt xe, chiếc xe bị lọt giữa một hàng xe không thể di chuyển được, trường hợp đó cần tranh thủ thời gian thế nào? Lúc đó đầu óc của bạn vẫn có những khoảng không gian có thể tranh thủ được. Dù sao thì bạn cũng đã bị kẹt vào trong hàng trăm ngàn chiếc xe khác, nóng vội cũng vô ích, vậy hãy tận dụng thời gian để thư giãn cơ thể mình, để cho đầu óc được nghỉ ngơi. Nếu không suy nghĩ như thế, bạn không những cảm thấy lo lắng, tệ hại hơn có thể cáu gắt, điều đó thật không đáng? Đã kẹt xe thì hãy biết tận dụng thời gian đó để đầu óc nghỉ ngơi.



Thiền dạy chúng ta cần phải sống ngay trong giây phút hiện tại, gánh vác trách nhiệm cũng có thể là một cách giải thích khác về cách quản lý thời gian. “Gấp gáp” chính là thời gian hiệu quả nhất, cần giữ gìn đầu óc tỉnh táo, hãy biết hưởng thụ nó, thưởng thức nó, sử dụng nó, đó là điều hợp lý nhất. Chẳng hạn, khi ăn cơm, hãy tập trung vào việc ăn cơm, không nên nghĩ đến chuyện khác, khi đọc sách, đầu óc không nên để các tình tiết trong bộ phim dài tập ảnh hưởng đến. Tương tự, nói chuyện với người khác, cần chú ý đến những lời họ nói, không nên phân tâm nghĩ đến bộ phim vừa mới xem. Nếu không, cùng một câu chuyện được nói hai ba lần bạn vẫn không nghe rõ. Hơn nữa, việc yêu cầu họ nhắc lại không những lãng phí thời gian của hai bên mà còn thể hiện bạn là người không tôn trọng, không lịch sự với họ.



Cho dù cần phải biết tranh thủ thời gian, vẫn cần phải có thời gian để nghỉ ngơi. Chỉ có vậy, chúng ta mới cảm thấy thời gian đầy đủ, cuộc sống vui vẻ, ý nghĩa hơn.



Trích từ sách:
Tu Trong Công Việc
HT. Thích Thánh Nghiêm | Thích Quang Định dịch

Hồng ngọc- giá 350k

Hồng ngọc- giá 350k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2016

Nghĩa và từ nguyên của MOONG



An Chi·


Từ ngày 16-6-2016, một số phương tiện truyền thông có đưa tin với hàng tít “Vỡ bờ moong khai thác titan ở Bình Thuận”. Từ “moong” trong cái tít này đã làm cho một số bạn đọc bỡ ngỡ vì vừa không hiểu nghĩa và càng không biết được xuất xứ của nó, thậm chí còn thắc mắc rằng không biết nó có thật sự tồn tại hay không.
“Moong” là một từ có thật và cũng xuất hiện với một tần số đủ để ta có thể tìm thấy nó một cách không khó khăn gì lắm. Sau đây là một số dẫn chứng :
1.–“Theo con đường xoáy ấy, xe xuống chở đất đá lên đưa ra bãi thải và xe chở than lên đưa về khu sàng tuyển. Cái lòng phễu khổng lồ ấy người ta gọi là hố moong.” (Nguyễn Thị Mai, “Trong lòng moong Cao Sơn”, Biên Phòng, 8-11-2011).
2.– “Xóm chúng tôi nằm trong lòng moong nên trong nhiều năm qua phải hứng chịu cảnh tượng chưa từng xảy ra […………] Các anh thấy đấy, mảnh vườn này thành ‘đất chết’ vì không có nước do mạch nước ngầm chảy hết ra lòng moong.” (Duy Tuấn - Thăng Long, “Sống dở chết dở tại mỏ sắt lớn nhất ĐNA – Bài 5: Sóng ngầm nơi moong mỏ”, Vietnamnet, 9-12-2011).
3.–“Moong than Cao Sơn như chiếc chảo khổng lồ, đến nỗi, từ bờ moong nhìn xuống, những chiếc xe trọng tải gần 100 tấn bò lồm ngồm như những chú …cua!” (Nhân Văn, “Chuyện lạ ở moong Cao Sơn”, Vinacomin, 08-10-2012).
4.–“Một ngày cuối năm, lên moong than Hà Tu, tôi vẫn thấy quang cảnh sản xuất quen thuộc như những ngày thường hồi đầu năm.” (Minh Hoa, “Tháng ‘củ mật’ ở moong than Hà Tu”,Vinacomin, 21-1-2014).
5.–“ [….] cả một đời ông lận đận với moong sâu […] Về kỹ thuật, ông là người kỹ tính, người ta gặp ông có khi đi chán dưới lòng moong, tưởng rằng ông sẽ về! Vậy mà [….]” (Phóng sự “Bóng người ở lại giữa moong sâu”, báo Quảng Ninh, 23-1-2010).
6.–“Đây là mô đất lau sậy um tùm, nằm sát con đường nội bộ dẫn từ moong H10 (moong than đang khai thác của Công ty Than Mông Dương) về bãi than giáp ranh với đầu băng tải của Nhà máy nhiệt điện Mông Dương.” (Trọng Phú, “Rút ruột mỏ than Mông Dương - Bài 1: Một đêm, hàng ngàn tấn than bị trộm”, Pháp luật, 31-10-2013).
7.–“[……] nhờ có nghị lực thép, những người thợ mỏ đã vượt qua tất cả để hôm nay trên công trường rộn ràng tiếng xe, tiếng máy, hàng trăm tấn quặng sắt nằm sừng sững giữa lòng moong...” (Phan Thế Cải, “Từ lòng moong lên mặt đất”, Nhân dân điện tử, 10-7-2011).
8.–“Bên dưới là những lòng moong đang tiếp tục bị khoét sâu vào lòng núi [……]” (Phan A, “Cận cảnh hoang tàn tại một mỏ than lộ thiên”, Đại kỷ nguyên, 9-1-2016).
Cứ như trên thì “moong” hiển nhiên là một từ có thật nên cũng đã được Từ điển tiếng Việt(2007) của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên thu nhận và giảng là “khẩu ngữ, ít dùng : đáy mỏ”. Nhưng tiếc rằng điều chú thích của quyển từ điển này thì lại rất sai vì từ “moong” chẳng những không thuộc về khẩu ngữ mà còn là một thuật ngữ của ngành khai khoáng nữa. “Quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong khai thác mỏ lộ thiên” của Bộ Công Thương gồm có 12 chương mà chương 1 là “Quy định chung” với Điều 2 là “Giải thích từ ngữ”; tại điều này, mục 18 được ghi với chú thích bằng tiếng Anh trong ngoặc đơn như sau: “18. Moong (pit) : Là đáy mỏ, phần thấp nhất của đáy mỏ được bao khép kín bởi bờ mỏ xung quanh.” Cứ như trên thì “moong” là một thuật ngữ đã được giải thích rất rõ ràng. Chẳng những thế nó còn được chính thức vận dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày một cách hoàn toàn đúng với nội hàm đã nêu trong bản “Quy định”, như đã thấy với 8 dẫn chứng ở trên. Vậy làm sao có thể nói nó là khẩu ngữ?
Nhưng từ “moong” này do đâu mà ra? Sự tra cứu của chúng tôi cho phép khẳng định rằng nó là một sản phẩm ra đời từ sự khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, trong đó có việc khai thác mỏ, đặc biệt là Mỏ than Hòn Gai, mà Pháp gọi là “Mines de charbon de Hongay”. Nói đến “mine” thì phải nói đến “gisement”. Ta cứ tìm trên mạng thì có thể thấy hai từ này thường “cặp bồ” với nhau. “Gisement” được Le grand Robert định nghĩa là “Disposition des couches de minéraux dans le sous-sol […] Par extension. Masse minérale importante, propre à l’exploitation”, nghĩa là “Cách sắp xếp các lớp khoáng sản trong tầng đất cái […] Nghĩa rộng. Khối khoáng sản quan trọng, thích hợp với việc khai thác.” Chính âm tiết “-ment” của “gisement” đã được phiên âm sang tiếng Việt kiểu bình dân thành “moong”. Hiện tượng này không có gì lạ : nó cũng giống như chuyện người Việt Miền Nam đã phiên âm “ciment” thành “xi-moong”, như có thể thấy trong nhan đề “Vôi đá xanh, vôi chịu nước và xi-moong. Cách làm đá giả” trên tạp chí Khoa Học số 59 (1-12-1933). Ca dao Miền Nam có câu:
“Chợ Sài Gòn cẩn đá, chợ Rạch Giá cẩn xi-moong
Giã em ở lại vuông tròn
Anh về xứ sở không còn ra vô.
” Trẻ con Miền Nam hồi nửa đầu thế kỷ XX không lạ gì với hai tiếng “xi-moong” này vì những viên bi mà họ chơi thời đó thường làm bằng xi-măng (về sau mới có bi thuỷ tinh ngũ sắc). Đó là những “cục đạn xi-moong”. Vậy “-ment” của “gisement” đi vào tiếng Việt thành “moong” không phải là chuyện không thể xảy ra. Còn chuyện “gise-” bị tỉnh lược thì chỉ là hệ quả của việc rút ngắn khi phiên âm : – adjudant > ách (thượng sĩ, ông quản), – aiguille > ghi (thiết bị dùng để chuyển đường ray tàu hoả), – alcool > cồn, – aluminium > nhôm, – portefeuille > bóp (ban đầu là bóp-phơi), – pourboire > (tiền) boa, – copier > cóp, – correcteur > cò (người sửa mo-rát), – commissaire > cò (cảnh sát trưởng), – essence > xăng, – effet > phê, – [en] arrière > de ( = lùi), v. v..
Tóm lại, “moong” là một từ Việt gốc Pháp, bắt nguồn ở từ “gisement”, có nghĩa là “vỉa [khoáng sản, đất đá, v.v.]”. Ngoài nguyên từ (etymon) này ra, chúng tôi không thấy có bất cứ từ nào khác có thể là ứng viên thích hợp. Dĩ nhiên là nếu có vị thức giả nào chỉ ra một nguyên từ khác có sức thuyết phục mạnh hơn thì chúng tôi sẽ vô cùng cám ơn.