Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

Đạo Phật trong văn học dân gian Việt Nam




Nguyễn Dư

Kèm nhèm quốc ngữ, lang sa
Nôm na mờ tỏ, nhẩn nha kiếm tìm…
Mời các bạn dạo chơi vườn hoa Văn học dân gian Việt Nam, cùng đi tìm đạo Phật trong đời sống của người xưa.

***

I-Đạo Phật trong tục ngữ, ca dao.

Thời nào cũng vậy, mối lo lớn nhất của dân ta là "miếng cơm, manh áo" hàng ngày. 

Có thực mới vực được đạo
Đói ăn vụng, túng làm càn
Có miếng ăn, no bụng rồi mới nói đến chuyện tôn giáo, tín ngưỡng xa vời.
No nên Bụt, đói nên ma
Dân gian Việt Nam có ông Bụt (tiếng Phạn là Bu-Đa, tiếng Hán là Phật). Ông Bụt hiền lành, độ lượng, giúp đỡ mọi người. Có cơm ăn áo mặc mới hi vọng trở thành người tốt như Bụt. Đói rét thì dễ trở thành lưu manh, bất lương.
Trong thôn xóm, ai ăn ở hiền lành, không chửi bới, đâm chém nhau thì được khen làHiền như Bụt.
Tôn ti trật tự của xã hội phong kiến được đạo Khổng an bài. Trên là nhà vua, dưới vua là các quan, dưới các quan là toàn dân.
Quan lại là những người chuyên dùi mài kinh sử, thi đỗ.
Đỗ cao thì được làm quan to. Một người làm quan cả họ được nhờ. Cuộc sống bắt đầu khấm khá.
Ai đi thi không đỗ thì tiếp tục dùi mài thêm. Thêm mãi vẫn không được thì đành phải bỏ dở, quay ra sống với cái vốn chữ nghĩa của mình. Làm thầy đám dân quê. Thầy bói, thầy thuốc hay thầy cúng.
Quyền lực của vua không có giới hạn. Cho sống được sống, bắt chết phải chết. Tất cả đất nước là của vua! Tất cả… trừ ngôi chùa của làng.
Đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt
Vua làm gì kệ vua nhưng không được đụng đến ngôi chùa thờ Phật của dân làng.
Ngoài ngôi chùa ra, phong cảnh xung quanh là của tất cả mọi người. Chả ai mang được phong cảnh về làm của riêng. Của vua hay của bất cứ ai thì cũng như nhau.
Phong cảnh là của Bụt.
Tả cảnh chùa Hương, Chu Mạnh Trinh cũng bắt đầu bằng Bầu trời cảnh Bụt…
Ông Bụt phù hộ, cứu giúp tất cả mọi người. Cái gì của Bụt cũng được coi như là của tất cả mọi người
Ông Bụt còn được dân gian đồng hoá với ông tiên trong truyện cổ tích.
Thời kì chiến tranh, loạn lạc thì xã hội đảo điên.
Sách Thánh Tông di thảo có Truyện hai Phật cãi nhau:
Sau trận lụt, tại ngôi chùa kia có hai tượng Phật bằng đất và bằng gỗ tranh cãi, chê trách nhau. Thấy vậy Phật Thích Ca tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo, bước ra mắng cả hai chỉ biết giữ cái hình hài bằng gỗ đất, ngồi hưởng rượu thịt của dân chúng(1).
Phật Thích Ca say rượu, mắng Phật đất, Phật gỗ. Đạo Phật lảo đảo nhiều lắm rồi.
Xã hội Hỗn quân hỗn quan. Quan lại, nhà chùa không còn nghiêm túc như trước kia.
Dân làng coi thường sư tăng. Gần chùa gọi Bụt bằng anh.
Bây giờ người ta rủ nhau…
Vào chùa trải chiếu ra ngồi,
Tay đàn, miệng lí, chúng tôi lên chùa
Chùa là nơi thờ Phật, nay trở thành chốn hẹn hò, vui chơi, đàn hát. Chùa bây giờ thờ thêm nhiều vị khác để chiều lòng khách thập phương:
Lên chùa lạy Phật Thích Ca
Lạy ông Tam Thế vua cha Ngọc Hoàng…
Người ta phê bình, chỉ trích bóng gió…
Ăn trộm ăn cướp, thành Phật thành tiên
Đi chùa đi chiền, bán thân bất toại
Người ta xì xào khuyên nhau Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Phải đề phòng hạng người Khẩu Phật, tâm xà.
Nhưng, thời kì đen tối nhất, bế tắc nhất của đạo Phật là thời Pháp thuộc.
Trước kia, đạo Phật chỉ bị đạo Khổng, đạo Lão lấn át. Bây giờ, cả ba đạo Phật, Khổng, Lão đều bị đạo Thiên Chúa tìm cách đẩy ra bên lề xã hội. Đạo Phật bị lâm vào cảnh Ba thằng đánh một, chả chột cũng què.
Có rất nhiều bài ca chế giễu đức hạnh của nhà sư:
Mồng một sư lên chơi chùa
Có cô yếm đỏ bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trụi đầu.
Không có lửa, sao có khói! (dịch câu Il n’y a pas de fumée sans feu). Bụt trên toà gà nào dám mổ mắt!
Trẻ con cũng a dua theo người lớn, ê a:
- Nam mô Bồ tát, bồ hòn
Ông sư bà vãi cuộn tròn với nhau
Nhiều câu hát mới, thời thượng được tung ra:
- Lỗ miệng thì nói Na mô
Trong lòng thì đựng ba bồ dao găm
(Rút gọn lại thành Miệng Nam mô, bụng bồ dao găm)
Dao găm là poignard của lính Pháp. Poignard được đựng trong một chiếc gaine bằng da, luồn vào thắt lưng quần. Găm là biến âm của gaine. Oger gọi là dao lưng (dao đeo luồn vào thắt lưng quần) (2).
Vũ Ngọc Phan sưu tầm được mấy câu có “tư tưởng chống mê tín của nhân dân"
Con chim ăn quả bồ nu
Ai làm nên nỗi, thầy tu đeo xiềng?
- Thầy tu ăn nói cà riềng,
Em thưa quan cả đóng xiềng thầy tu(3).
Nước ta không có quả bồ nu. Chỉ có Nu (phương ngữ miền Trung) là màu nâu. Cà riềng(phương ngữ miền Nam) là nói lai nhai, lần khân vẻ như muốn gây chuyện (4).
(Cà riềng có thể là biến âm của caresser của tiếng Pháp. Caresser là mân mê, mơn trớn, tán tỉnh ngon ngọt).
Bài dân ca của miền Trung hay miền Nam kể chuyện một thầy tu đi tán gái, bị xiềngchân. Tán gái bị phạt nặng như vậy sao? Thầy tu là ai? Bồ nu là quả gì? Khó trả lời.
Rất may, sách 6 truyện - thơ nôm đầu thế kỷ XX , chương Quốc phong đệ nhất thi, được khắc in năm 1930, tại Hà Nội, cũng kể chuyện này (bằng chữ nôm):
Con chim ăn quả bồ nâu
Ai làm nên nỗi thầy tu mang xiềng
Thầy tu ăn nói nhà riêng
Em thưa quan lớn đóng xiềng thầy tu(5)
Bồ nu bây giờ là bồ nâu. Cà riềng là nhà riêng.
Bồ nâu và nhà riêng… cũng hơi khó hiểu. Tác giả muốn nói gì?
Phải nhờ… chữ nôm giải thích giùm!
1) Chữ Bồ (bồ nâu) viết giống chữ Bồ của tên nước Bồ Đào Nha.
Bác sĩ Hocquard kể rằng năm 1884 ông tới thăm linh mục Girod tại địa phận truyền giáo Nam Định. Thời đó, Bắc kì không có rượu đỏ (ngày nay gọi là rượu vang, rượu chát). Nho thì chỉ có nho mọc hoang, quả chua, mùi vị không ra gì. Hàng năm, có người gửi rượu đỏ từ Hồng Kông sang để linh mục dùng làm lễ (vin de messe).
Tại Kẻ Sở, giám mục Puginier có cho trồng thử lúa mì và nho mang giống từ Âu châu sang. Lúa mì mọc khá tốt nhưng nho thì chỉ cho ra toàn quả tồi (6).
Chữ Hán gọi quả nho là bồ hay bồ đào (Đào Duy Anh, Thiều Chửu).
Quả nho, rượu nho (rượu đỏ) đã được các nhà truyền giáo và lái buôn người Bồ Đào Nha mang vào nước Tàu và được đặt tên là bồ hay bồ đào (quả của nước Bồ Đào Nha) chăng?
Nhưng, trong bài thơ Lương Châu từ của Vương Hàn (thời Đường, thế kỉ VIII-IX) đã có câu Bồ-đào mỹ tửu dạ quang bôi (Rượu bồ rót chén dạ quang). Nguyễn Hiến Lê chú thích "rượu bồ-đào là rượu nho, chỉ Tây-vực mới có" (7). Nếu câu thơ đúng là của Vương Hàn thì quả bồ đãcó từ trước khi người Bồ Đào Nha đến nước Tàu.
Quả bồ thời Đường và quả bồ thời Pháp thuộc là một hay khác nhau nhưng trùng tên?
Dù sao thì văn học dân gian Việt Nam cũng đã bắt chước Tàu, gọi quả nho là quả bồ. Quả bồ nâu (hay bồ nu) là quả nho màu nâu (màu đỏ sậm ngả sang tím đen).
2) Thầy tu mang xiềng.
Thời Pháp thuộc, người tu theo đạo Thiên Chúa (Gia Tô, Cơ Đốc) được gọi là thầy dòng. Tu theo đạo Phật là thầy tu hay nhà sư. "Tu" theo đạo Lão biến thể là thầy pháp, thầy cúng v.v.
Xiềng hay xích là biến âm của chaîne của tiếng Pháp. Thầy tu mang xiềng là một nhà sư bị phạt, bị xích chân, thời Pháp thuộc.
3) Ăn nói nhà riêng.
Nhà sư bị phạt vì tội gì? Tội Ăn nói nhà riêng. Tội gì mà lạ vậy?
Thời Pháp, đạo Thiên Chúa được ưu đãi. Nhà cầm quyền chịu sự chi phối của nhà thờ.
Nhà thờ Thiên Chúa giáo được các con chiên gọi là nhà chung (nhà của chung mọi người). Chống đối, làm ngược lại nhà chung là nhà riêng. Chơi chữ khá thâm thuý.
Nếu nhà thờ (nhà chung) được xã hội đương thời xem như tượng trưng cho cái hay, cái đúng thì đương nhiên nhà riêng (trái ngược với nhà chung) phải bị xem là tượng trưng cho cái dở, cái sai.
Nhà sư phạm tội ăn nói sai, chống đối lại nhà thờ, bị phạt đóng xiềng.
Thời Pháp cai trị, không có quan lớn nào dám đụng vào thầy dòng, nhà chung. Em thưa quan lớn đóng xiềng thầy tu, chắc chắn thầy tu này là một nhà sư.
Bài ca của miền Trung hay miền Nam gieo vần (nu, tu) hay hơn bài của miền Bắc. Ý nghĩa hai bài hơi khác nhau. Một đằng nhà sư phạm tội tán gái, một đằng phạm tội chống đối đạo Thiên Chúa. Tuỳ hoàn cảnh, cô gái là dân thường hay là "chỉ điểm" cho Pháp!
Tôn ti trật tự cũ của Việt Nam bị thực dân Pháp xoá bỏ.
Nhiều người bỏ đạo Phật, bỏ thờ cúng ông bà, rửa tội theo đạo Thiên Chúa. Người ta kháo nhau Theo đạo có gạo mà ăn. Tuy vậy, cũng có người dám lên tiếng Khóc sư khóc cụ, phê bình cả đạo Phật lẫn đạo Thiên Chúa bằng"Bài văn tế của một chú tiểu và một nhà thày khóc điếu nhà sư và cụ đạo chết đuối vì bị đắm đò". Tác giả mỉa mai nhà sư và cố đạo đi cứu vớt linh hồn người khác nhưng không cứu được chính mình (8).
Có người phỉ báng thô bạo đạo Phật, đạo Thiên Chúa:
Sư ông đăng đàn, vãi ra kia, tiểu ra đấy
Cố đạo rửa tội, cha đằng trước, sờ đằng sau
Có người chán nản, chê trách bọn vọng ngoại, chạy theo Pháp:
Bụt chùa nhà không thiêng, đi cầu Thích Ca ngoài đường.
Bụt là Phật. Thích Ca cũng là Phật. Nhưng chê Phật của làng mình không thiêng, không "hay" bằng Phật của bọn "ngoài đường". Câu nói rất tế nhị. Bụt là Phật của dân gian. Thích Ca là Phật của giới trí thức.
Dân gian chê bọn Múa rìu qua mắt thợ là bọn Giảng kinh cho Thích Ca. Câu này bắt chước câu Bảo hoàng hơn vua (Plus royaliste que le roi của Pháp).

***II- Đạo Phật trong truyện dân gian.

Đức Phật thường hiện thành ông Bụt.
Bụt hiện lên giúp đỡ cô Tấm hiền lành mỗi khi cô bị mẹ con cô Cám độc ác, nham hiểm, tìm cách hãm hại. Kết cuộc là Tấm được vua lấy làm vợ. Mẹ con Cám phải đền tội. Cái thiện thắng cái ác.
Bụt giúp con người chống lại quỷ dữ. Bụt khuyên dạy con người ngày Tết trồng cây nêu, vẽ cung tên để xua đuổi quỷ.
Đầu thế kỉ XX, nhiều truyện Tàu (Tây du kí, Tam quốc chí, Thuỷ hử…) được dịch sang chữ quốc ngữ.
Truyện Tây du kí của Ngô Thừa Ân kể lại chuyến đi Ấn Độ thỉnh kinh Phật đầy vất vả của nhà sư Huyền Trang, đời Đường. Từ một sự kiện lịch sử có thật Ngô Thừa Ân đã tưởng tượng, thêu dệt thành một truyện phong thần, phù phép của đám đệ tử của Phật, Lão, Ngọc Hoàng, thần tiên, ma quỷ.
Đọc Tây du kí ai cũng phục tài chú khỉ Tôn Ngộ Không đi mây về gió, biến hoá như thần. Lúc thì đại náo thiên cung, khi thì khuất phục ma vương. Ai cũng nhớ vanh vách các chiến công của Tôn Ngộ Không, quên cả mục đích của thầy Đường Tăng là đi thỉnh kinh Phật.
Ngoài ra, còn có truyện Phật bà Quan Âm Thị Kính, Phật bà Quan Âm Nam Hải và Phật bà Quan Âm Hương Sơn được lưu hành, phổ biến tại nước ta.
Xin tóm tắt sự tích 3 bà Phật Quan Âm.

1- Phật bà Quan Âm Thị Kính
Bà Thị Kính là con gái nhà họ Mãng ở nước Cao Li, được cha mẹ gả cho Thiện Sĩ.
Một hôm, Thiện Sĩ đọc sách, thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may vá bên cạnh, thấy cằm chồng có sợi râu mọc ngược, bà cầm dao định cắt. Bất ngờ Thiện Sĩ thức giấc. Tưởng vợ muốn hại mình, Thiện Sĩ hoảng hốt kêu la cầu cứu.
Thị Kính bị bố Thiện Sĩ trả lại cho Mãng ông.
Bà buồn khổ, cải dạng đàn ông, bỏ nhà đi tu. Được đặt pháp danh là Kính Tâm.
Gần chùa có ả Thị Mầu tính tình lẳng lơ. Từ ngày thấy mặt tiểu Kính Tâm, Thị Mầu đem lòng yêu mến và tìm cách quyến rũ nhưng không được.
Thị Mầu tằng tịu với tên đầy tớ, rồi có chửa. Bị dân làng bắt vạ, Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm. Kính Tâm bị dân làng đánh đập. Sư cụ phải đứng ra xin.
Sư cụ đuổi Kính Tâm ra ở dưới mái tam quan.
Đẻ con ra, Thị Mầu mang đứa bé đến chùa bắt Kính Tâm nuôi.
Vài năm sau, Kính Tâm chết. Lúc khâm liệm, mọi người bàng hoàng thấy chú tiểu Kính Tâm là con gái. Tất cả các nỗi oan của bà Thị Kính được minh giải.
Bà Thị Kính đắc đạo, trở thành Phật bà Quan Âm Thị Kính.
Truyện Quan Âm Thị Kính rất gần đời sống trần tục, không có điều gì huyền bí.
Dân gian đã gói ghém ý nghĩa của truyện bằng thành ngữ Oan Thị Kính.
Một số chùa nước ta thờ tượng Quan Âm tống tử, tạc hình bà Thị Kính bế đứa bé (con Thị Mầu), bên cạnh có con vẹt (Thiện Sĩ).
Ai là tác giả văn bản nôm truyện Quan Âm Thị Kính? Có người cho rằng truyện đã được một tác giả khuyết danh của thế kỉ XVIII soạn. Nhưng theo Hoa Bằng thì truyện Quan Âm Thị Kính đã được Nguyễn Cấp soạn vào giai đoạn đầu thế kỉ XIX, thời Minh Mệnh (9).
Ngày nay có vài bản Truyện Quan Âm Thị Kính được lưu truyền. Trong số này có bản được Thiều Chửu chú giải công phu theo giáo lí nhà Phật (10).
Truyện có mấy câu thơ được truyền tụng:
- Sông kia còn có kẻ dò,
Lòng người ai dễ mà đo cho cùng
(Lời cha Thiện Sĩ trách Thị Kính, được sửa đổi thành câu ca dao quen thuộc:
Sông sâu còn có kẻ dò
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng)
- Dẫu xây chín bậc phù đồ,
Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
(Tiểu Kính Tâm trả lời sư cụ lúc nhận nuôi con Thị Mầu. Câu nói chứng tỏ trò tu hành đã vượt xa thầy).
Bên cạnh Phật bà Quan Âm Thị Kính dân ta còn thờ Phật bà Quan Âm Nam Hải và Phật bà Quan Âm Hương Sơn.

2- Phật bà Quan Âm Nam Hải
Bà tên là Diệu Thiện, con vua Diệu Trang, nước Hưng Lâm.
Năm Diệu Thiện 16 tuổi, vua cha muốn bà lấy chồng để có người truyền ngôi. Nhưng bà nhất định không chịu. Muốn được đi tu.
Nhà vua đành phải chấp thuận cho Diệu Thiện ra tu tại chùa Bạch Tước. Hi vọng rằng sau một thời gian sống cực nhọc, bà sẽ xin trở về cung điện. Và cuối cùng sẽ chịu lấy chồng.
Không ngờ Diệu Thiện quyết chí ở lại chùa tu hành.
Vua cha tức giận, sai người đốt chùa. Bắt Diệu Thiện về cung, ép lấy chồng. Nhưng bà vẫn khăng khăng từ chối.
Vua hạ lệnh đem Diệu Thiện ra chém. Đao vừa giơ lên thì bị gãy đôi. Vua sai người thắt cổ bà. Trong lúc mê man bất tỉnh, hồn bà được một con hổ cõng tới Tùng Lâm. Diệu Thiện được dẫn đi thăm viếng Thập điện dưới địa ngục.
Lúc tỉnh lại Diệu Thiện được Phật khuyên đến tu tại núi Phổ Đà, cù lao Hương đảo, ngoài Nam Hải.
Sau ngày hại Diệu Thiện, vua Diệu Trang mắc bệnh, sai người đi tìm danh y. Diệu Thiện giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bệnh cho vua, bảo phải đến Phổ Đà xin mắt và tay người về làm thuốc.
Vua sai Triệu Chấn, Lưu Khâm đến Phổ Đà. Diệu Thiện hiến mắt và tay.
Vua khỏi bệnh, cùng hoàng hậu đến Phổ Đà tạ ơn.
Được Diệu Thiện khuyên giải, vua Diệu Trang quyết định bỏ ngai vàng, cùng hoàng hậu đi tu.
Diệu Thiện đắc đạo, trở thành Phật bà Quan Âm Nam Hải.
Truyện Quan Âm Nam Hải của Tàu pha trộn nhiều tình tiết quái dị, hoang tưởng.
Phật bà Quan Âm Nam Hải được giới buôn bán bằng đường biển tôn thờ.

3- Phật bà Quan Âm Hương SơnTruyện Quan Âm Nam Hải được Kiều Oánh Mậu (đỗ phó bảng khoa Tự Đức Canh Thìn, 1880), phóng tác thành truyện Hương Sơn Quan Thế Âm(11).
Hai truyện có nội dung giống nhau. Cùng kể sự tích Diệu Thiện, con vua Diệu Trang, nước Hưng Lâm. Nhưng Kiều Oánh Mậu đã thay đổi vài chi tiết:
- Truyện Hương Sơn Quan Thế Âm xảy ra dưới thời nhà Trần tại nước ta.
- Lúc bị thắt cổ, mê man bất tỉnh, hồn Diệu Thiện được hổ cõng tới chùa Hương Tích(chùa Hương), tại Hương Sơn của nước ta.
- Diệu Thiện tu 9 năm tại chùa Hương Tích, nơi có đặc sản rau sắng:
Trà mai càng nhắp càng thanh
Càng canh rau sắng càng lành càng ngon
Bà đắc đạo, thành Phật Quan Âm Hương Sơn.
Quan Âm Nam Hải của cư dân biển đảo đã được Kiều Oánh Mậu Việt hoá thành Quan Âm Hương Sơn của cư dân đồng bằng.
Là một nhà khoa bảng nhưng Kiều Oánh Mậu lại quan niệm rằng:
Xưa nay tiên, Phật, thánh, hiền
Dẫu cho khốn nạn truân triên chẳng rời
Chữ rằng tam giáo nhất nguyên
Thích Ca, Khổng, Lão thánh hiền đời xưa.
Có lẽ vì vậy mà ông đã chấp nhận cả những điều mê tín dị đoan của đạo Lão biến thể.
Rốt cuộc, dân gian nước ta có 3 bà Phật Quan Âm. Bà Thị Kính người Cao Li, bà Diệu Thiện người Tàu và bà Diệu Thiện người Việt gốc Hoa.

***

III- Đạo Phật trong tranh dân gian.

Bên cạnh 3 bà Phật Quan Âm, dân ta còn thờ thêm 3 bà Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn.
Người ngoại đạo dễ lẫn lộn các bà.
Sách Imagerie populaire vietnamienne (Tranh dân gian Việt Nam) của Maurice Durand (12) có 2 tấm tranh vẽ truyện Hương Sơn Quan Thế Âm.
1) Tấm thứ nhất vẽ Diệu Thiện đang quét chùa Bạch Tước (tr. 442). Cổng chùa có câu đối bằng chữ quốc ngữ:
Dồng (rồng) thì phun nước
Hầm (hùm) thời bổ củi
Tranh vẽ diễn tả mấy câu thơ trong truyện:
Nào là giẩy quét cửa nhà
Nào là gánh nước, nào là hái rau
Rồng thời phun nước tùng khi
Hùm thời bổ củi, chim thời nhặt rau
Durand gán nhầm tranh này cho truyện Quan Âm Nam Hải.
(Tranh Quan Âm Nam Hải (tr. 443) vẽ Triệu Chấn, Lưu Khâm đến Phổ Đà xin mắt và tay để làm thuốc chữa bệnh cho vua Diệu Trang. Tranh có câu thơ nôm:
Mắt, tay làm thuốc làm thang
Để về cứu bệnh vua Trang tức thì
Truyện Hương Sơn Quan Thế Âm không có tên Triệu Chấn, Lưu Khâm).
2) Tấm thứ nhì vẽ Diệu Thiện tu tại chùa Hương Tích (tr. 178). Bà ngồi toà sen, có Kim Đồng, Ngọc Nữ (hay Thiện Tài, Long Nữ) đứng hầu hai bên. Cổng chùa có câu:
Hiêu (hươu) thời dưng hoa
Hạc thời tiến quả
Maurice Durand đã nhầm lẫn, chú thích sai tấm tranh thứ nhì này. Ông nhầm Phật bà Hương Sơn thành Mẫu Thượng Ngàn (Déesse de la Forêt) của đồng bóng.
Ở một chỗ khác (tr. 180) Maurice Durand lại nhầm (Phật bà) Quan Âm thành Mẫu Thượng Thiên (Déesse Céleste).
Có một mẹo giúp người xem tranh dân gian khỏi bị nhầm lẫn:
Thông thường thì tranh thờ của ta vẽ các Mẫu ngồi võng đào hay ngai vàng. Chỉ có các vị Phật mới ngự toà sen. Đôi khi toà sen được thay bằng chữ Vạn viết trên ngực.
Nếu tranh vẽ một vị ngồi toà sen thì chắc chắn vị đó không phải là Mẫu của đồng bóng.
Tranh Oger (chỉ có nét đen) có tấm Quan Âm tống tử và nhiều tấm vẽ các sinh hoạt của dân gian có nhà sư tham dự như Nhà sư rước nước (sửa soạn hội làng), nhà sư làm lễ phá ngục (lễ Trung Nguyên, Xá tội vong nhân), nhà sư làm lễ cát đoạn (lễ Kì Yên) v.v.

*Xin ngừng.
Khoan đã… Ngày nay, dân gian nghĩ gì về đạo Phật? Dạ, không biết! Không dám bàn. Chỉ thấy nước ta bây giờ xây nhiều chùa sặc sỡ, đắp nhiều tượng cao to. Đứng gần ngửa cổ nhìn cũng không thấy hết mặt Phật. Có tượng bị sập đổ ngay trong lúc đang xây đắp.


Nguyễn Dư


Tư liệu tham khảo:

(1) - Thánh Tông di thảo, Văn Học, 2001, tr.17- 20.

(2) - Henri Oger, Technique du peuple annamite, Hà Nội, 1909.

(3) - Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ và dân ca Việt Nam, Sử Học, in lần thứ tư, 1961, tr. 247.

(4) - Đặng Thanh Hoà, Từ điển Phương ngữ tiếng Việt, Đà Nẵng, 2005.

(5) - 6 truyện - thơ nôm đầu thế kỷ XX, Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, 2006, tr. 73.

(6) - Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr.316, 358.

(7) - Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung quốc, q 2, Nguyễn Hiến Lê, 1955, tr.208.

(8) - Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, Mặc Lâm, 1969, quyển II, tr. 219.

(9) - Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, KHXH, 1976, tr.151.

(10) - Truyện Quán Âm Thị Kính, Thiều Chửu chú giải, An Tiêm, 1995.

(11) - Kiều Oánh Mậu, Hương Sơn Quan Thế Âm chân kinh tân dịch, 1909, bản chép tay của thư viện đại học Yale, Hoa Kì.

* Xin có lời cám ơn chủ nhân Quán ven đường Huỳnh Chiếu Đẳng đãcho mọi người sử dụng kho sách của quán.

(12) - Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne,

École française d’Extrême-Orient, 2011, tr. 422, 443, 178, 180.

Trí thức salon?




 Lê Thị Liên Hoan 



.Ngày hôm nay, tôi thấy ở ta, lại có một loại thành phần mới, mang tên mới là trí thức salon.

.Họ salon ở kiểu gì? Kiểu mới nhìn qua thì hiện đại. Họ bằng cấp đầy mình, và kinh ngạc thay đều là bằng thật. Rồi sao nữa? Rồi họ dùng bằng cấp này làm cơ sở để… lấy thêm bằng cấp kia.————



  

Nghĩa là, họ học suốt đời, và suốt đời tham gia các hội nghị này, các diễn đàn nọ, các khóa chuyên sâu khác. Ở đâu? Ở mọi nơi. Nhưng phần lớn ở… Tây mới “khiếp”.

Trong các hội thảo như thế, họ cũng chẳng phát biểu gì, mặc dù ai nói họ nghe cũng hiểu. Rồi họ đi từ hội thảo trở về, lập tức bắt tay vào công việc chuẩn bị cho hội thảo khác, vậy thôi. Họ trở thành một loại salon có học.

Cho nên, tôi mới giật mình khi thống kê, biết rằng ở ta có rất nhiều tiến sĩ. Nhưng những gì mà các tiến sĩ ấy làm lại khó biết vô cùng. Bởi lý do chúng vô cùng ít ỏi.




Hoá ra, nếu như có con đà điểu rúc đầu vào cát, thì cũng có con người rúc đầu vào khoa học, để làm một thứ duy nhất: trốn tránh cuộc đời.

Sẽ có người nói, trốn tránh không phải thói quen của người trí thức. Vâng, khi người ta trí thức thực sự. Còn ở đây, như tôi đã nói, người ta trí thức salon. Người ta có bằng cấp, thì với một niềm vui duy nhất là cho người khác ngắm và nhân thể tự ngắm mình.

Xã hội có biết điều này không? Xã hội ở bên Tây thì biết. Đã “chìm đắm” trong đại dương khoa học từ lâu, bên ấy người ta rất quen với các loại… bèo!

Chẳng hạn, nếu bạn ở các nước đó, bạn xưng là tiến sĩ, thì thiên hạ sẽ nhìn bạn với hai con mắt: một là kính nể, hai là nghi ngờ. Lý do họ nghi ngờ? Vì công chúng thừa biết những anh tốt nghiệp đại học không việc làm, chả có cách nào khác tiếp tục học thêm, và rồi cũng có đủ thứ bằng này nọ.

Chính vì vậy, ở bên ấy, khi phỏng vấn, người ta không thích đề cập đến bằng cấp, mà đến những việc đã làm. Đã từ lâu, những xã hội văn minh hiểu rằng khoa học cần phải được ứng dụng. Mất tính ứng dụng, kiến thức chỉ còn là một mớ trưng bày, và để… ngồi lên.

Nhưng trong xã hội ta, nơi khoa học chưa phát triển ở bậc cao, ánh hào quang của nó vẫn còn lấp lánh, thì vẫn nhiều anh nhanh chóng lợi dụng điều này.

Các anh đó tranh thủ biến kiến thức thành một thứ đệm hoặc chăn bông êm ái. Để ngủ ngon và để khỏi làm gì. Từ lúc nào, họ biến mình thành một thứ salon thực sự, họ vừa là ghế vừa là kẻ… ngự lên.

Chả lẽ, không ai phát hiện ra chuyện đó? Có chứ. Nhưng tâm lý người ta hay tha thứ. Bởi salon có nhiều kiểu không tiện lắm, nhưng vẫn cần có để cho sang!

-http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tri_thuc_salon.html

Từ 1-7, quan tham hạ cánh đừng mơ an toàn




Cù Tất Dũng (Ban Nội chính Trung ương)


.
——–

Ngày 1-7-2016, Bộ luật hình sự năm 2015 sẽ có hiệu lực với một số quy định mới thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tham nhũng, rõ nhất là việc các “quan tham” sẽ không còn được “hạ cánh an toàn”.


Trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm hai tội vào các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là: tội tham ô tài sản (theo khoản 3 và khoản 4, điều 353) và tội nhận hối lộ (theo khoản 3 và khoản 4, điều 354).

“Quan tham” sẽ 
không còn ung dung
Với điều luật đã được bổ sung thêm này, người phạm tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ nếu thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng sẽ không được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.



Nghĩa là đối với tội phạm này, bất kỳ thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể xử lý hình sự, kể cả khi người phạm tội đã về hưu, nghỉ việc.

Đây là một quy định mới, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tham nhũng. Thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp chỉ sau khi về hưu mới phát hiện được sai phạm.

Trước đây, người có sai phạm thường cho rằng mình đã “hạ cánh an toàn”, đến lúc về hưu mới bung tài sản ra thì không ai làm gì được mình.

Khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực, những quan tham đã “hạ cánh” đang ung dung, nhởn nhơ ngồi hưởng thụ sau khi đã tham nhũng sẽ phải giật mình, sẽ như “ngồi trên đống lửa” với nỗi lo các “tay chân” của mình tố giác hành vi tham nhũng trước đây.

Quy định này cũng sẽ làm cho những người đang muốn thực hiện hành vi tham nhũng e sợ cho tương lai sau này của mình là đến khi đang an hưởng tuổi già, khi sức yếu mà vẫn phải ra đứng trước vành móng ngựa, để rồi họ không dám nghĩ, dám làm những hành vi mà xã hội gọi là “quốc nạn”, là “giặc nội xâm”.

Nói khác đi, việc một cá nhân về hưu hay dù ở cương vị nào, cao đến mấy mà vi phạm pháp luật cũng bị trừng trị nghiêm khắc sẽ đánh động, làm thức tỉnh những người khác để ngăn họ phạm tội.

Ông Cù Tất Dũng – Ảnh: T.G.


Thu hồi tối đa tài sản tham nhũng

Trong Bộ luật hình sự 2015 cũng có điều khoản khuyến khích người phạm tội tham nhũng bị án tử hình khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho Nhà nước.

Điều 40, khoản 3, mục C của bộ luật này quy định: người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Điều luật này đã được thông qua với tỉ lệ tán thành chưa đến 70% và như vậy là có đến hơn 30% số đại biểu Quốc hội không tán thành.

Bên cạnh đó, dư luận xã hội cũng còn băn khoăn với việc những kẻ tham nhũng vẫn giữ lại được 25% số tài sản chiếm đoạt được cho người thân thụ hưởng mà vẫn không mất mạng.

Tuy nhiên, mục đích mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra trong cuộc chiến chống tham nhũng là phải xử lý nghiêm kẻ tham nhũng, đồng thời phải thu hồi tối đa tài sản tham nhũng để trả lại nguồn lực cho đất nước phát triển.

Cuộc chiến chống tham nhũng bị coi là thất bại khi không thu hồi được tài sản tham nhũng. Chúng ta không nên xem việc chống tham nhũng chỉ như một biện pháp mang tính hình sự nhằm trừng trị người phạm tội.

Nếu tử hình để mất đi hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng của Nhà nước, của nhân dân thì chi bằng chúng ta tạo cơ hội để tội phạm tham nhũng có khả năng tự cứu bản thân khỏi án tử hình.

Việc giảm bớt án tử hình cũng phù hợp với truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, phù hợp với xu thế chung của thế giới và thể hiện được rằng xã hội ta đang văn minh hơn khi biết quý mạng sống của con người, ngay cả khi người đó đã gây tội ác.

Một xã hội văn minh sẽ dẫn đến các vấn nạn như tham nhũng, hối lộ, giết người, cướp của giảm dần. Còn về 1/4 số tiền tham nhũng còn lại, liệu vợ, chồng, con cái của những kẻ tham nhũng có ung dung hưởng lạc được không khi mà người thân của họ phải trả giá bằng mức án chung thân trong các trại giam?


Khuyến khích tố giác tội phạm
Bộ luật cũng quy định những người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, nhận hối lộ có sự hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn sẽ có cơ hội giúp thoát khỏi án tử hình.

Điều này sẽ khuyến khích được người phạm tội tố giác tội phạm tham nhũng vì thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy nhiều bị can, bị cáo thực hiện hành vi tham ô tài sản và nhận hối lộ không chỉ có một mình mà theo chỉ đạo, điều hành tập thể lãnh đạo đơn vị và có cả sự chỉ đạo của lãnh đạo ở cấp cao hơn.

http://tuoitre.vn/tin/ban-doc/20160627/tu-17-quan-tham-ha-canh-dung-mo-an-toan/1125412.html

Hàng về Vĩnh Phúc ( Kiên)


Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2016

Lời kêu gọi của nhạc sĩ TCS trên đài phát thanh SG ngày 30-4-1975



0:00

Sự tích miếu Phạm Nhan


Đại Việt.

Miếu thờ Phạm Nhan nay chỉ còn lại dấu tích trên núi Thổ Cu, thôn Cầu Quan, xã Tân Dân. 


Người xưa, nhất là phụ nữ, rất sợ bị Phạm Nhan làm hại, bởi thế mà họ đã nghĩ ra không ít cách khác nhau để trừ Phạm Nhan. Nhưng Phạm Nhan là ai? Sách Công dư tiệp ký (quyển 3) của Tiến sỹ Vũ Phương Đề chép rằng:
“Miếu Phạm Nhan ở xã An Bài, huyện Đông Triều, nằm ngay bên bờ sông Thanh Lương. Tục truyền, thần của miếu này người họ Nguyễn tên là Linh. Cha của thần vốn người Quảng Đông (Trung Quốc), di cư sang nước ta, cư ngụ ở xã An Bài, lấy vợ ở đó và sinh được người con trai, đặt tên là Bá Linh. Lớn lên, Bá Linh lại về Trung Quốc, thi đỗ Tiến sỹ và làm quan cho nhà Nguyên. Y có biết chút ít phép thuật phù thủy nên được phép vào trong cung đình để chữa bệnh. Nào dè vào đó, y thông dâm với bọn cung nữ, bị khép vào tội phải chết. Khi y sắp sửa bị đem ra hành hình thì nhà Nguyên xua quân sang xâm lược nước ta, y liền xin được làm kẻ hướng đạo cho quân Nguyên để lập công chuộc tội. Nhà Nguyên chấp thuận. Nhưng rồi vì bị đại bại ở trận Bạch Đằng, Bá Linh cùng bọn Ô Mã Nhi... đều bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bắt sống. Bá Linh lại một lần nữa, bị khép vào tội phải hành hình. Lần này, y xin được về chết ở quê mẹ, vì thế Hưng Đạo Đại Vương cho đem hắn về chém tại xã An Bài rồi quăng xác xuống sông. Bấy giờ, có hai người đánh cá ở khúc sông này, kéo lưới lên, chẳng được cá mà được... cái đầu của Bá Linh, hoảng sợ, họ bèn cùng nhau khấn thầm rằng:
Nếu hồn ông có thiêng thì xin phù hộ cho chúng tôi đánh được nhiều cá, xong, chúng tôi sẽ xin mai táng hẳn hoi.
Họ vừa khấn xong thì lạ thay, kéo mẻ lưới nào cũng được rất nhiều cá, vì thế họ bèn đem đầu Bá Linh lên táng trên bờ sông. Từ đấy về sau, mỗi lần ra chợ bán cá, đi qua chỗ mai táng đầu Bá Linh, họ đều chỉ tay vào đó mà nói:
Mời bác cùng đi chơi cho vui.
Riết rồi thành thói quen, hồn ma Bá Linh cùng nhập bọn mà đi với họ, người đương thời gọi đó l�Tam hồn. Tam hồn phải thói hay chòng ghẹo phụ nữ. Hễ thích chòng ghẹo ai, họ chỉ cần đưa tay về phía người đó rồi gọi tên Bá Linh, người ấy nhất định sẽ bị ma ám ngay, vì thế, người trong vùng ấy phải lập miếu để thờ. Lại nói chuyện Bá Linh, trước khi bị đem chém, hắn có cầu xin Hưng Đạo Đại Vương rằng:
Tôi nay đã bị tội chém đầu, vậy trước khi chết, xin cho tôi được ăn một món lạ nào đó.
Hưng Đạo Đại Vương cả giận, mắng rằng:
Cho mày ăn máu của đàn bà đẻ ấy.
Bởi thế mà sau khi chết, hồn ma của y thường đi khắp nơi để tìm hút máu đàn bà, ai mắc phải đều bị bệnh liên miên, thuốc thang mấy cũng vô ích. Bệnh ấy gọi là bệnh Phạm Nhan. Ai mà sớm đoán biết được rằng mình mắc bệnh Phạm Nhan thì phải tới ngay đền thờ Vạn Kiếp (hay đền thờ Kiếp Bạc, nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn), đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ có sẵn ở đó, về nhà, thừa lúc người bệnh không để ý, lấy trải cho họ nằm, đồng thời xin thêm một ít chân nhang đem đốt thành than và hòa vào nước cho uống thì mọi chứng bệnh đều tiêu tan hết. Việc này nếu để bệnh nhân biết là không hiệu nghiệm. Điều đáng nói là chỉ những ai thực sự bị bệnh Phạm Nhan, dùng thuốc này mới nhân đó mà được khỏi hết mọi bệnh, bằng không thì chẳng ích gì. Thiên hạ tin như vậy nên cứ lũ lượt kéo nhau đến đó để đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ, chẳng lúc nào ngơi. Có người đem chiếu về, chưa kịp thay mà người bệnh đã khỏi. Đại để, sự ứng nghiệm là như thế”.
Lời bàn: Trong chỗ lênh đênh sông nước dặm dài, duyên kỳ ngộ giữa các thương nhân với những người con gái khác xứ cũng là sự thường, cho nên, Bá Linh có mặt giữa cõi đời cũng chẳng có gì là lạ cả. Giận thay, Bá Linh lại là… Bá Linh, trên thì đắc tội với đấng cao xanh, dưới thì đại ác với đất tổ của mẹ, sống một đời mà bị khinh ghét những muôn đời!
Để cứu lấy mạng sống của mình, kẻ thất đức thường bất chấp sinh linh của người khác. Nhưng, như Bá Linh kia, dám vì cứu lấy mạng sống của mình mà dẫn quân xâm lăng về dày xéo lên đất quê mẹ, tức là trong đại tội còn có thêm đại tội nữa, thì làm sao mà cầu được dung tha? Hắn đòi chết ở quê mẹ, tưởng thế là hay, dè đâu lại nhục đến muôn lần sự nhục.
Kẻ bi tử hình thường được ăn bữa ăn ngon cuối cùng, được nói lời trăn trối cuối cùng. Bá Linh bị chém, lòng những nghĩ rằng mình bất quá cũng chỉ là tên tử tù nên mới đòi ăn như vậy. Khốn khiếp thay! Hắn bị giết là bởi chẳng có cách trừng trị nào lớn hơn sự giết, chớ như hắn, làm sao mà có thể gọi là một tên tử tù như bao kẻ tử tù? Đấng đạo đức như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mà cũng buộc phải nói lời như ông đã nói, bởi vì có cách nói nào tương xứng với nhân cách của Bá Linh đâu. Đến món ăn khủng khiếp ấy, Bá Linh cũng không dễ để có được nên hắn lại làm càn để kiếm mà ăn.
Dân lập ra đền thờ Phạm Nhan chẳng phải để thờ Phạm Nhan mà là để nhắc nhở với muôn đời rằng, nếu không muốn sống cho đàng hoàng thì hãy coi chừng, hồn Bá Linh trong miếu Phạm Nhan còn đó, thối tha hơn mọi sự thối tha. Một mảnh chiếu cũ trong đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đủ để xua hết mọi nỗi lo sợ và bệnh tật, nếp nghĩ ấy, niềm tin ấy… đáng kính biết ngần nào.
Mỗi thời có một cách giáo dục rất khác nhau. Hương khói của ngàn xưa nào phải chỉ giản đơn là chuyện hương khói. La đà giữa những nơi thờ tự, chừng như hương khói cũng từng góp phần không nhỏ vào việc đề cao và tôn vinh cái tốt đẹp, khinh ghét và lên án cái xấu xa. Quả có vậy mà.


Nguyễn Khắc Thuần

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=78&NewsId=122577