Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Lord Acton – : Quyền lực làm con người tha hóa





Quyền lực làm con người tha hóa. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối” – Lord Acton.

Tác giả Powell
Phạm Nguyên Trường (dịch)

Powell là biên tập viên của Laissez Faire Books và là cộng tác viên cao cấp của Cato Institute. Ông từng viết cho The New York Times, The Wall Street Journal, Barron’s, American Heritage và hơn ba chục tòa soạn báo khác.



Ít người nhận thức được những mối nguy hiểm của quyền lực chính trị rõ ràng như Lord Acton. Ông hiểu rằng những người nắm quyền thường đặt quyền lợi của chính họ cao hơn tất cả và sẽ làm tất cả mọi việc nhằm giữ được quyền lực. Họ thường xuyên nói dối. Họ vu cáo những người cạnh tranh. Họ chiếm đoạt tài sản tư nhân. Họ phá hủy của cải. Đôi khi họ còn giết người, thậm chí tàn sát nhiều người.Trong những bài viết và bài giảng của mình, Acton chống lại xu hướng tập thể của thời đại mình và tuyên bố rằng quyền lực chính trị là cội nguồn của cái ác, vô phương cứu chữa. Ông gọi chủ nghĩa xã hội “là kẻ thù tệ hại nhất mà tự do từng gặp từ trước đến nay”.

Đôi khi Acton đạt được đỉnh cao của thuật hùng biện, đấy khi ông khẳng định rằng tự do cá nhân là tiêu chuẩn đạo đức để phán xét các chính phủ. Ông tin “rằng tự do là đỉnh cao nhất… tự do hầu như, nếu chưa nói là hoàn toàn, là biểu hiện, phần thưởng và động cơ trong quá trình đi lên của dân tộc… Dân tộc thù nghịch với sở hữu tư nhân là dân tộc không có thành tố quan trọng nhất của tự do… Tự do không phải là phương tiện để đạt tới mục đích chính trị cao nhất. Tự do chính là mục đích chính trị cao nhất”.

Mặc dù Acton ngày càng cô đơn, ông được người ta ngưỡng mộ vì kiến thức siêu phàm về lịch sử. Ông truyền cho thế giới nói tiếng Anh quan niệm khắt khe – các học giả Đức thế kỉ XIX là những người đi tiên phong – trong việc nghiên cứu lịch sử, càng tìm hiểu được nhiều nguồn sử liệu ban đầu thì càng tốt. Ngôi nhà của ông ở Cannes (Pháp) có hơn 3.000 đầu sách và bản thảo; ngôi nhà ở Tegernsee (Bavaria) có khoảng 4.000; và ngôi nhà ở Aldenham (Shropshire, Anh) có gần 60.000 đầu sách và bản thảo. Ông đánh dấu hàng ngàn đoạn mà ông coi là quan trọng. Năm 1873 ông được trường Đại học Munich trao tặng danh hiệu Tiến sĩ triết học, năm 1889 ông được Đại học Cambridge trao tặng danh hiệu Tiến sĩ luật và năm 1890 ông được Đại học Oxford trao tặng danh hiệu Tiến sĩ luật dân sự – nhưng ông chưa bao giờ có bằng cấp gì, thậm chí không có cả bằng tốt nghiệp phổ thông.

Chắc chắn là, Acton không nắm được nhiều vấn đề. Khoa học không phải là mối bận tâm của ông. Mặc dù lo lắng cho người nghèo, nhưng ông coi những người theo phái tự do chủ nghĩa ở Manchester quan tâm tới việc nâng cao đời sống là những người duy vật không đáng để ý. Ông biết rất ít về lịch sử kinh tế, tức là môn học nói cho ta biết người dân bình thường làm ăn sinh sống như thế nào. Ông bị tiêm nhiễm tư tưởng cho rằng thị trường làm cho người giàu ngày càng giàu thêm, trong khi người nghèo ngày càng nghèo hơn, trong khi thực tế thị trường tự do – ví dụ, cuộc Cách mạng công nghiệp thời ông – đã cứu hàng triệu khỏi bị chết đói.


Chân dung Lord Acton.

Acton trông như thế nào? Những bức ảnh được công bố đều cho thấy ông có một bộ râu dài. Ông có đôi mắt màu xanh, sắc sảo, trán cao. “Ông là người cao trung bình và về già ông đẫy ra”, nhà viết tiểu sử David Matthew nói. “Ông ấy là người hoạt ngôn nổi tiếng, nhưng khi nói về mô hình Đức thì bao giờ ông cũng dẫn ra nhiều sự kiện và tài liệu tham khảo. . . ông rất thích đi bộ, băng qua những sườn đồi thấp vùng núi Bavaria hoặc lang thang trên sườn dốc vùng núi hướng ra biển ở Alpes Maritimes (Pháp)”.

Acton truyền cho người nghe niềm đam mê cực kì to lớn. “Giọng ông có sức hút như nam châm”, một sinh viên từng nghe ông giảng bài ở Cambridge nói. “Chưa bao giờ một thanh niên trẻ có sức thuyết phục trong mỗi lời nói như Lord Acton từng thể hiện. Nó khống chế toàn bộ đối tượng, dường như ôm trọn đối tượng trong ngọn lửa hừng hực của nó. Và ngọn lửa nuôi dưỡng mỗi lời nói đó là vô cùng vô tận, chí ít là những người có mặt cảm thấy như thế. Trên hết, có lẽ chính niềm tin này đã tạo cho những bài giảng của Lord Acton sức hấp dẫn và sức sống. Ông nói từng câu như thể ông đang cảm thấy nó, treo nó lên một cách nhẹ nhàng và thốt ra với sự thận trọng nhất định. Tình cảm của ông được truyền cho cử tọa, họ như nuốt lấy từng lời”.

Hoàn cảnh gia đình

John Emerich Edward Dalberg-Acton sinh ngày 10 tháng 1 năm 1834, ở Naples. Mẹ ông, bà Marie Pelline de Dalberg được sinh ra trong một gia đình Công giáo ở Bavaria, thuộc dòng dõi quý tộc Pháp. Cha ông, Ferdinand Richard Edward Acton, là một nhà quý tộc người Anh. Bố của Acton mất khi ông vừa tròn ba tuổi, và khi ông lên sáu thì mẹ ông tái giá với Lord Leveson, ông này sau được phong là Earl of Granville, một đảng viên tự do (Whig) Anh có nhiều ảnh hưởng và từng giữ chức bộ trưởng ngoại giao trong nội các theo đường lối tự do của John Russell và William Ewart Gladstone.

Acton được giáo dục chủ yếu như một tín đồ Công giáo – ở Saint Nicholas (Pháp), St. Mary’s, Oscott (Anh), Đại học Edinburgh (Scotland), ông học ở đây hai năm, và đại học Munich (Bavaria), ông tới đây sau khi không được ban giám hiệu Cambridge và Oxford chấp nhận vì là người Công giáo.

Johann Ignaz von Dollinger, một trong các nhà sử học lỗi lạc nhất của Châu Âu là người thày quan trọng nhất của Acton. Chẳng bao lâu sau khi Acton đến Munich vào tháng 6 năm 1850, ông bắt đầu rèn luyện để trở thành nhà sử học. “Con ăn sáng lúc 8 giờ”, ông viết cho bố dượng, “sau đó học tiếng Đức hai giờ – một giờ đọc Plutarch và một giờ đọc Tacitus. Giáo sư đặt ra tỷ lệ như thế. Con và giáo sư ăn cơm trưa trước 2 giờ chiều một chút, đây là lần đầu tiên con gặp ông trong ngày. Lúc 3 giờ thì thày dạy tiếng Đức tới. Từ 4 giời đến 7 giờ tối con được tự do – con đọc lịch sử hiện đại trong khoảng một tiếng đồng hồ – và đọc lịch sử cổ đại trong một tiếng đồng hồ ngay trước bữa ăn tối. Con uống trà lúc 8 giờ tối, rồi nghiên cứu văn học Anh và sáng tác đến khoảng 10 giờ thì đi ngủ”.

Acton và Dollinger đã đi du lịch ở Áo, Anh, Đức, Thụy Sĩ, đã đến các thư viện và nhà sách. Họ tiến hành phân tích các bản thảo, gặp gỡ các nhà thơ, nhà sử học, nhà khoa học và chính khách.

Sư khiếm khuyết của ông thể hiện rõ trong những nhận xét của ông về nước Mĩ mà ông đã cùng với bố dượng tới thăm vào tháng 6 năm 1853. Là một nhà quý tộc, ông tỏ ra bàng quan vì cách hành xử thô lậu và quá chú ý tới những vấn đề thực tế.Ông không nhận thức được năng lực vô cùng to lớn của ngành thương mại Mĩ khi ông viết về New York: “Không thể nhìn thấy thành phố vì nó quá bằng phẳng và xung quanh đầy tàu thuyền”.



Khi Acton bắt đầu học với Dollinger, ông đã bị Thomas Babington Macaulay – một nhà sử học theo phái tự do có tài hùng biện, đang đấu tranh cho tự do và tiến bộ – lôi cuốn. Acton tự mô tả là “cậu học trò người Anh thô lậu, say sưa nền chính trị của Đảng tự do”. Nhưng Dollinger giằng Acton ra khỏi Macaulay, và chàng trai trẻ đã trở thành người hâm mộ Edmund Burke, người trước đây từng phản đối cuộc Cách mạng Pháp. Trong khi học với Dollinger, Acton còn nghe các bài giảng của các nhà sử học vĩ đại người Đức, Leopold von Ranke, môt người luôn luôn nhấn mạnh rằng vai trò của một nhà sử học là giải thích chứ không phải là phán xét quá khứ.




Chủ nghĩa bảo thủ thời gian đầu

Những người đã biết những bài phát biểu hùng hồn nổi tiếng của Acton nhằm chống lại chế độ độc tài sẽ phải giật mình khi biết rằng hồi đầu ông là người theo trường phái bảo thủ.

Ví dụ, khác với những người theo phái tự do ở Manchester như Richard Cobden và John Bright, cùng với đa số người Anh khác, Acton đứng về phía các bang miền Nam trong cuộc nội chiến Mỹ. “Không thể dựa trên cở sở tôn giáo để thông cảm với việc cấm tuyệt đối chế độ nô lệ, cũng không thể dựa trên cơ sở chính trị để chia sẻ quan điểm của chủ nghĩa bãi nô”, ông viết như thế trong tiểu luận nhan đề “Những nguyên nhân chính trị của cách mạng Mỹ” (1861). Năm năm sau, trong một bài giảng về cuộc Nội chiến, Acton nhận xét rằng chế độ nô lệ “đã là một công cụ đầy sức mạnh không chỉ để làm điều ác mà còn để làm điều thiện là giữ trật tự thế giới. . . . bằng cách đánh thức, một mặt, sự hy sinh và mặt kia, lòng từ bi”. Acton từng nói với một người bạn: “Tôi đã tan nát cõi lòng khi nghe tin tướng Lee đầu hàng”.


Điều làm nhiều người ngạc nhiên là Lord Acton ủng hộ Liên Minh Miền Nam trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861 tới 1865).

Trong tác phẩm “Thuyết Tin lành về ngược đãi” (1862), ông từ chối lên án cuộc đàn áp trên mọi lĩnh vực. Dường như ông bảo vệ những nhà cầm quyền Công giáo, những người tuyên bố rằng khủng bố là biện pháp gắn kết xã hội duy nhất. Ông cho rằng người theo đạo Tin Lành, như John Calvin, là những người xấu hơn vì họ khủng bố nhân dân là nhằm dập tắt những quan điểm trái ngược với họ. Trong chỗ riêng tư, Acton nói thẳng hơn: “Nói khủng bố là sai, nói trắng ra, trước hết, tôi cho là không đúng. . .”

Tuy nhiên, Dollinger và Acton đã trở thành những người phê bình thẳng thắn thái độ bất dung của Công giáo. Đối tượng của họ lúc đó là những người theo phái ủng hộ quyền lực tuyệt đối của Giáo hoàng (Ultramontanes), tức là những người tìm cách đàn áp tự do trí tuệ. Dollinger và Acton đã bàn về chính sách của Vatican, đặc biệt là sau khi Giáo Hoàng Pius IX ban hành Bản Cáo Trạng Những Sai Lầm (Syllabus of Errors) khét tiếng (1864), cáo buộc chủ nghĩa tự do cổ điển là dị giáo, trong đó có tư tưởng “Đức Thánh Cha ở Rome có thể và phải chấp nhận, và đồng ý với tiến bộ, tự do và nền văn minh”.

Acton đã có đóng góp vào việc xuất bản một loạt tờ tạp chí Công giáo với nhiệm vụ là giúp tự do hóa Nhà thờ: Tờ Rambler ra hai tháng một lần (1858-1862), tờ Home and Foreign Review (1862-1864) ra hàng quý và tờ Chronicle ra hàng tuần (1867-1868). Những nỗ lực này đã bị thất bại vào năm 1870, đấy là khi Hội đồng Vatican tuyên bố rằng Giáo Hoàng có uy quyền tuyệt đối, không thể sai lầm về tín điều của Giáo Hội. Bởi vì Dollinger là một thày tu, việc ông chấp nhận điều này làm cho ông bị rút phép thông công. Acton, chỉ là giáo dân bình thường, không bị yêu cầu chính thức thừa nhận các nghị định của Hội đồng Vatican, và ông vẫn ở trong Giáo Hội.

Cũng trong thời gian này, Acton viết một tiểu luận có tính tiên tri nhất của ông, nhan đề Quốc tịch (1862), một lời báo động sớm về chế độ toàn trị: “Bất cứ khi nào một đối tượng xác định duy nhất được đưa lên thành mục đích tối thượng của nhà nước, dù đấy có là quyền lợi của một giai cấp, sự an toàn hay sức mạnh của quốc gia, hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất, hay ủng hộ bất kỳ tư tưởng tư biện nào thì cùng với thời gian, nhà nước chắc chắn sẽ trở thành độc đoán. Để có tự do, chỉ cần hạn chế quyền lực công, vì tự do là cái duy nhất làm lợi cho tất cả mọi người như nhau và không tạo ra phe đối lập”.

Năm 1865, ở tuổi 31, Acton kết hôn với người em họ, nữ Bá tước Marie Anna Ludmilla Euphrosyne Arco-Valley. Cô dâu vừa tròn 24 tuổi, là con của Bá tước Johann Maximilian Arco-Valley. Bá tước là người giới thiệu Dollinger với Acton, vì vậy Acton và nữ bá tước trẻ tuổi đã biết nhau ngay từ khi ông bắt đầu học tập ở Bavaria. Dường như nữ Bác tước cũng chia sẻ mối quan tâm của chồng về tôn giáo và lịch sử. Họ sinh được sáu người con, bốn người sống đến tuổi trưởng thành. Trong các bữa ăn, Acton thường nói tiếng Đức với vợ, nói tiếng Ý với mẹ vợ, tiếng Pháp với chị dâu, tiếng Anh với các con và có thể nói một ngôn ngữ châu Âu khác với khách.

Tôn giáo luôn luôn nằm trong tâm trí Acton, và ông trở thành người cứng rắn hơn Dollinger, ông tuyên bố rằng các nhà sử học phải lên án cái ác. Tháng 2 năm 1879, ông đoạn tuyệt với Dollinger sau khi vị giáo sư lùi về quan điểm cho rằng vai trò của nhà sử học chỉ là giải thích sự kiện, thậm chí nếu điều đó có nghĩa là không bàn về những tội ác khủng khiếp. Acton khẳng định rằng những hành động tội ác, như giết người, bao giờ cũng là tội ác. Ông viết về Tòa án dị giáo như sau: “Tòa thánh đã gây ra những vụ giết người và tàn sát hàng loạt với quy mô lớn nhất và mức độ tàn bạo và phi nhân nhất. Họ không chỉ là những kẻ sát nhân hàng loạt, mà họ còn đưa nguyên tắc sát nhân thành luật của Giáo Hội Kitô giáo và điều kiện cho sự cứu rỗi”.

Acton than thở: “Trong quan niệm đạo đức nền tảng của mình tôi hoàn toàn cô đơn”. Ông tâm sự với người bạn của mình là Charlotte Blennerhassett như sau: “Hãy để tôi cố gắng nói càng ngắn càng tốt và không cần lập luận với bạn rằng trên thực tế cái đó rất đơn giản, rõ ràng, và không phải là câu chuyện thú vị. Đấy là câu chuyện về người đàn ông bắt đầu cuộc sống với niềm tin rằng mình là người Công giáo chân thành và người theo phái tự do chân thành; do đó ông ta từ bỏ tất cả những thứ không tương thích với tự do trong đạo Công giáo và tất cả mọi thứ không tương thích với Công giáo trong chính trị. . . . Vì vậy, tôi là một trong số những người ít suy nghĩ về những cái đang là, mà suy nghĩ nhiều về những thứ nên là, những người hi sinh thực tế vì lý tưởng, hi sinh quyền lợi vì nghĩa vụ, hi sinh quyền lực vì đạo đức”.

Trong những năm 1870, Acton không chỉ bị sốc về trí tuệ mà còn trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc sống. Số là, phần lớn tu nhập của ông là từ đất nông nghiệp do cha mẹ để lại, nhưng thu nhập từ trang trại lại giảm trong giai đoạn suy thoái kéo dài. Năm 1883, ông phải bán một số tài sản. Ông phải cho thuê bất động sản ở Aldenham. Tuy nhiên, ông cũng đã tìm việc làm được trả lương cao.

Acton và Gladstone

Nhờ ông bố dượng mà Acton trở thành nghị viên trong khoảng 6 năm, kể từ năm 1859 và đã gặp Gladstone ở đây. Galdstone làm thủ tướng tới ba nhiệm kì. Năm 1869, tức là ba năm sau khi Acton thất cử, Gladstone phong cho Acton chức Nam tước và ông có chân trong Viện Nguyên Lão, nhưng trong suốt thời gian ở trong quốc hội, ông chưa bao giờ tham gia tranh luận. Acton coi Gladstone là người lãnh đạo tinh thần vĩ đại và thường lặng lẽ ủng hộ ông này. Hai người đều say mê thảo luận về lịch sử và tôn giáo.

Trong những bài phê bình, Acton trách linh mục Anh giáo là Mandell Creighton, tác giả cuốn Lịch sử Giáo hoàng trong thời kỳ Cải cách, là không lên án các Giáo hoàng thời Trung Cổ – những người khởi xướng Tòa Án Dị Giáo. Nhưng Acton và Creighton đã trao đổi với nhau một cách chân tình, và Actons đã viết những dòng khó quên nhất vào ngày 05 tháng 4 năm 1887:


“Tôi không thể chấp nhận quy tắc của ông rằng chúng ta phải đánh giá Giáo hoàng và nhà vua khác với đánh gía những người khác, với một giả định có lợi cho họ là họ không có gì sai. Nếu có bất kỳ giả định nào thì đó phải là sử dụng biện pháp khác nhằm chống lại những người nắm giữ quyền lực, biện pháp tăng khi quyền lực tăng. Không chịu trách nhiệm trước pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Quyền lực dẫn đến tha hóa, quyền lực tuyệt đối tha hóa tuyệt đối”.

Acton là người Công giáo mộ đạo, và ông đã đưa quan điểm của mình đi xa đến mức trách cứ bạn là Gladstone, khi ông này viết bài mà ông cho là chưa xứng tầm nhằm bảo vệ Kitô giáo trước cuộc tấn công của những tiểu thuyết gia nổi tiếng. Acton nhận xét rằng những người không có tín ngưỡng đáng bị coi là đã gây ra cuộc chiến dẫn đến kết quả là Giáo Hội Kitô đã trở thành “tổ chức bất dung, chuyên chế và tàn ác kinh khủng như thế”.



Việc học tập không mệt mỏi của ông thì sao? Acton theo đuổi tư tưởng từ cuốn này sang quyển sách khác, để rồi sau đó thì bỏ. Ông đã nghiên cứu về lịch sử các Giáo hoàng, lịch sử những cuốn sách bị Giáo Hội Công Giáo cấm, lịch sử nước Anh thời James II và lịch sử Hiến pháp Mĩ. Ông đã nghĩ tới cuốn lịch sử phổ quát, chủ đề của nó sẽ là quyền tự do của con người. Nó đã trở thành giấc mơ của ông về lịch sử của tự do.

Tác giả James Bryce nhớ lại, Acton “nói như một người đầy cảm hứng, dường như đang phát biểu trên đỉnh núi cao trong không trung, ông nhìn thấy ở bên dưới con đường tiến bộ của nhân loại quanh co khúc khuỷu từ thời tiền sử tối tăm đến thời hiện đại sáng sủa hơn, nhưng vẫn còn thất thường và đôi khi bị gián đoạn. Khả năng hùng biện của ông thật là tuyệt vời, nhưng hơn cả tài hùng biện là tầm nhìn xuyên thấu, giúp – thông qua tất cả các sự kiện và các thời đại – nhận ra trò chơi của những lực lượng tinh thần, khi thì sáng tạo, khi thì phá hủy, luôn luôn chuyển hóa, tạo ra và tái tạo các thiết chế và trao cho linh hồn của nhân loại những hình thức hoạt động không ngừng thay đổi của mình. Dường như toàn bộ lịch sử đột nhiên lóe lên trước luồng ánh sáng mặt trời rực rỡ”.



Lịch sử của tự do


Acton gói gọn một phần của chủ đề yêu thích của mình trong hai bài giảng nhan đề: “Lịch sử của Tự do trong thời Cổ đại” (The History of Freedom in Antiquity) và “Lịch sử của Tự do trong thời Kitô giáo” (The History of Freedom in Christianity), cũng như trong bài điểm cuốn Dân chủ ở châu Âu của Sir Erskine May (1878 ). Ông đã tìm được nguồn gốc của tự do trong các học thuyết của người Hebrew cổ về “luật cao hơn” áp dụng cho tất cả mọi người, thậm chí cả những người cai trị. Ông giải thích cách thức – chỉ có ở phương Tây – mà các tôn giáo cạnh tranh với nhau đã tạo ra cơ hội cho các cá nhân vươn tới tự do. Ông nói về con đường đưa đến chế độ dân chủ ở các thị trấn thương mại. Ông nói về những học thuyết cấp tiến, theo đó, các cá nhân có thể nổi loạn khi nhà cầm quyền tiếm đoạt quyền lực một cách bất hợp pháp. Ông ghi lại theo trình tự thời gian những cuộc chiến đấu anh hùng nhằm chống lại các bạo chúa”.

Những bài tiểu luận này có rất nhiều nhận xét đáng ghi nhớ. Ví dụ:


“[Tự do] là quả ngọt của nền văn minh đã chín muồi . . . Trong tất cả các thời đại sự, tiến bộ của nó thường bị những kẻ thù tự nhiên của nó, bị sự dốt nát và mê tín dị đoan, bị ham muốn chinh phục và thích nhàn nhã, tham đắm quyền lực của kẻ mạnh và tham ăn của người nghèo cản trở. . . . Trong tất cả các giai đoạn, những người bạn chân thành của tự do bao giờ cũng hiếm, và nó chiến thắng là nhờ thiểu số, mà thắng bằng cách liên kết với những phụ tá có mục đích khác với mục đích của những người yêu chuộng tự do; và hiệp hội này luôn luôn nằm trong vòng nguy hiểm, đôi khi là tai họa nữa. . . . Bài kiểm tra chắc chắn nhất mà chúng ta dùng để đánh giá xem đất nước có thực sự tự do hay không là mức độ an toàn mà những nhóm thiểu số được hưởng….”

Tại sao ở Mĩ tự do lại được bảo đảm hơn hầu hết các nơi khác? “Tự do”, Acton viết cho Mary, con gái của Gladstone, “phụ thuộc phân chia quyền lực. Chế độ dân chủ có xu hướng dẫn tới tập trung quyền lực… Thể chế liên bang là biện pháp kiểm soát sự tập trung và tập quyền khả dĩ duy nhất”.

Đáng tiếc là Acton không chú tâm vào dự án lớn nào. Những tập giấy tờ đồ sộ mà ông để lại thậm chí không có bản phác thảo về lịch sử của tự do. Ông chưa khởi thảo. Ông để lại khoảng 500 hộp màu đen và những cuốn vở, chủ yếu là những đoạn lộn xộn từ những tác phẩm khác nhau. Nhiều tài liệu bàn về những ý tưởng trừu tượng chứ không phải là sự kiện lịch sử. Sau này, sử gia E.L. Woodward nhận xét rằng cuốn lịch sử về tự do của Acton đã có thể là “cuốn sách vĩ đại nhất không bao giờ được viết ra”.

Năm 1895, nhà sử học John Seeley ở Đại học Cambridge chết và thủ tướng Rosebery phải bổ nhiệm vị giáo sư Hoàng gia mới về lịch sử hiện đại. Mặc dù Acton chưa từng dạy học bao giờ, người ta đã đề nghị ông vì kiến thức, lòng trung thành đối với tự do và ông đang cần tiền. Và vì vậy mà Acton, người không được nhận vào học ở Cambridge, lại được bổ nhiệm vào vị trí đầy uy tín ở trường này.

Trong bài giảng nhân ngày nhậm chức nổi tiếng, ông nhấn mạnh rằng cần đánh giá các chính trị gia như những người bình thường: “Tôi khuyên các bạn không bao giờ được làm mất giá tiêu chuẩn đạo đức hoặc hạ thấp các tiêu chuẩn về tính chính trực, mà phải phán xét những người khác bằng những câu châm ngôn mà bạn dùng để hành xử trong cuộc sống của chính mình và không để ai hay lý do gì thoát khỏi hình phạt vĩnh cửu mà lịch sử có quyền trừng phạt những kẻ làm sai”.



“Lịch sử,” ông nói tiếp, “dạy rằng sai và đúng là khác nhau. Ý kiến thay đổi, phong tục thay đổi, tín điều xuất hiện rồi biến mất, nhưng luật đạo đức thì được viết trên những tấm biển còn mãi với thời gian”.

“Nguyên tắc của nền chính trị đúng đắn cũng là những nguyên tắc của đạo đức được mở rộng ra, hiện nay tôi không chấp nhận, cũng như sẽ mãi mãi không bao giờ chấp nhận nguyên tắc nào khác”.

Ttong những năm làm việc cuối cùng ở Cambridge, Acton chỉ giảng có hai loạt bài – về lịch sử hiện đại và về Cách mạng Pháp – nhưng các đồng nghiệp rất kính trọng ông. Nhà sử học George Macaulay Trevelyan nhớ lại:

Kiến thức, trải nghiệm và quan điểm của ông mang đặc trưng của người châu Âu lục địa, nhưng chủ nghĩa tự do Anh lại là phần quan trọng trong triết học của ông. Ông đã tạo được ấn tượng sâu sắc trong cái xã hội phần nào có tính tỉnh lẻ của chúng tôi. Những giáo sư thuộc đủ các lĩnh vực thường tụ tập lại để nghe những bài giảng bí hiểm, có thể làm người ta bối rối, nhưng rất ấn tượng của ông. Ông đã có vầng trán của Plato và phong cách của một nhà hiền triết và là một người vĩ đại. Nhiều tư tưởng của chúng ta cũng là tư tưởng của ông, nhưng tư tưởng của ông đã được rút ra từ những nguồn khác và từ kinh nghiệm rộng lớn hơn. Những điều ông nói bao giờ cũng thú vị, nhưng đôi khi có vẻ kì lạ. Tôi nhớ, ví dụ, ông nói với tôi rằng các quốc gia được xây dựng trên sự thống nhất của một chủng tộc duy nhất, như nước Ý và nước Đức hiện đại, sẽ là mối nguy cho tự do; lúc đó tôi không hiểu ông nói gì, nhưng bây giờ thì hiểu!

Ông nhận chức Professorial Fellowship ở Đại học Trinity, thời gian đầu ông sống trong phòng của mình ở Nevile’s Court. Lúc nào ông cũng ở đó, sẵn sàng tiếp bất cứ nhà sử học nào của Cambridge, từ [Frederic] Maitland hay [William] Cunningham đến những sinh viên chưa tốt nghiệp khiêm tốn nhất, sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai với kho tàng kiến thức sâu sắc của mình. Ông ngồi sau bàn làm việc, khuất sau một mê cung các kệ sách cao mà ông dùng để xếp các cuốn sách lịch sử, mỗi cuốn lại có những mảnh giấy dán thò ra ngoài để đánh dấu những đoạn quan trọng.

Ông rất ân cần đối với tôi. Tôi nhớ lần hai người đi cùng nhau và cái chỗ trên đường Madingley, nơi ông nói với tôi rằng đừng bao giờ tin những người đánh giá thấp ông chú tôi [Thomas Babington Macaulay], vì mặc dù ông có những sai lầm như thế, nhưng nói chung ông vẫn là người vĩ đại nhất trong số các nhà sử học.

Từ khi Acton công nhận rằng ông sẽ không bao giờ viết lịch sử về tự do, ông đồng ý biên tập một loạt cuốn sách tập hợp đóng góp của nhiều người cầm bút đáng kính. Bộ Lịch Sử Hiện Đại do Cambridge ấn hành ra đời như thế đấy, bộ sách này đã rút cạn sức lực của ông.

Acton bị cao huyết áp và tháng 4 năm 1901, sau khi biên tập được hai tập đầu, ông bị đột quỵ và bị liệt. Ông về hưu và sống trong ngôi nhà ở Tegernsee, Bavaria. Ông qua đời ngày 19 tháng 6 năm 1902. Ông được chôn trong sân nhà thờ gần đó.

Di sản của Acton

Sai khi Acton qua đời, thư viện với 60.000 cuốn sách của ông ở Aldenham – bộ sưu tập chính của ông về đề tài tự do – được một doanh nhân người Mĩ trong lĩnh vực sắt thép là Andrew Carnegie mua và tặng cho John Morley, một trong những người theo phái tự do cổ điển cuối cùng của Mĩ. Đến lượt mình, Morley lại tặng những cuốn sách này cho Cambridge với mong ước rằng chúng sẽ được lưu trữ cùng nhau.

Trong mấy năm sau đó, hai giảng ciên của Cambridge là John Neville Figgis và Reginald Vere Lawrence thu thập những công trình quan trọng nhất của Acton và kết quả là những tác phẩm với nhan đề Những bài giảng về lịch sử hiện đại (1906), Lịch sử của tự do và những tiểu luận khác (1907), Những tiểu luận và công trình nghiên cứu sử học (1908), Những bài giảng về Cách mạng Pháp (1910), sau đó là Tuyển tập thư từ của Lord Acton (1917).

Nhưng ông bị người đời lãng quên vì những người gọi là “tiến bộ”, những người ủng hộ chính sách kinh tế mới, những người xã hội chủ nghĩa và cộng sản, phát xít, quốc xã và những người theo phái tập thể khác nắm được quyền lực chính trị khổng lồ, quyền lực này đã hi sinh tự do nhân danh điều thiện.


Các trường phái chính trị tập thể và tiếm quyền như của Karl Marx quá thịnh hành trong thời kỳ đó khiến các lý thuyết của Lord Acton rơi vào quên lãng.

Sau đó là số người chết: gần 10 triệu người trong Thế chiến I, 50 triệu người trong Thế chiến II, cộng với hàng chục triệu người bị Stalin ở Nga và Mao ở Trung Quốc – những tên sát nhân lớn nhất trong lịch sử – sát hại. Hàng trăm triệu người nữa là thần dân của những quốc gia đầy sức mạnh, những người thu thuế ở đó thu 40%, 50%, 60% hoặc hơn khoản tiền mà khó khăn lắm họ mới kiếm được.

Trong khi xảy ra những vụ thảm sát do những người theo chủ nghĩa tập thể gây ra, đã có một số người nhớ đến lời cảnh báo của Acton về sự khủng khiếp của quyền lực chính trị và lời kêu gọi tôn trọng quyền tự do nhân bản của ông. “Dường như chúng ta những người có vinh dự là hiểu ông, trong khi những người đương thời với ông thì không. Ông là người của thời nay, hơn là của thời ông. Ông là một trong những người đương thời vĩ đại nhất của chúng ta”, nhà sử học Gertrude Himmelfarb nhận xét như thế./.

Án tử hình – Chúng ta lấy quyền gì để tước đoạt mạng sống người khác?





Tôi đã luôn có điều muốn nói về nền tư pháp hình sự hiện tại của chúng ta. Bối cảnh bây giờ đã khác nhiều so với 40 năm trước đây. Năm 1972, có 300 ngàn phạm nhân trong các trại tù trên khắp cả nước. Ngày nay, con số này đã tăng lên 2.3 triệu. Nước Mỹ hiện đang có tỷ lệ phạt tù cao nhất thế giới. Chúng ta còn có 7 triệu người đang tại ngoại thuộc diện cải tạo không giam giữ hoặc được đặc xá.

Theo quan sát của tôi, việc phạt tù trên diện rộng đã làm cho xã hội chúng ta thay đổi tận cốt lõi. Trong những cộng đồng dân cư nghèo, cộng đồng của những người da màu, một cảm giác tuyệt vọng và bế tắc, vốn là hệ quả của tình trạng trên, đang vây lấy những con người ở đây. Cứ mỗi ba nam thanh niên da màu tuổi từ 18 đến 30, có một người lại đi tù, đang trong diện quản chế hoặc được cho về trước hạn tù. Còn ở những khu vực thành thị dọc ngang đất nước như Los Angeles, Philadelphia, Baltimore hay Washington, tỷ lệ thanh niên da màu rơi vào vòng lao lý cũng lên đến 50 đến 60 phần trăm.

Hệ thống của chúng ta không chỉ được thiết kế nên với những lỗ hổng làm biến dạng nền tư pháp vì lý do chủng tộc, mà chúng còn liên quan đến khoảng cách giàu nghèo. Chúng ta hiện có một hệ thống tư pháp đang đối đãi tốt với những người có tội nhưng có tiền, và tệ với những ai ít tiền nhưng vô tội. Tài lực, chứ không phải trách nhiệm pháp lý, mới là thứ quyết định kết quả. Nhưng mặc cho thực tế này, chúng ta vẫn cảm thấy rất thoải mái với nó. Văn hóa chính trị cảm tính do nỗi sợ hãi và sự thù hằn dẫn dắt đã khiến chúng ta tin rằng đó không phải là vấn đề của mình. Chúng ta đã tự mình tách rời khỏi thực trạng.

Như một số tiểu bang khác, bang Alabama nơi tôi sống sẽ tước vĩnh viễn quyền đi bầu của bạn nếu bạn đã từng bị kết án hình sự. Hiện tại, 34 phần trăm đàn ông da màu ở Alabama đã vĩnh viễn mất quyền bỏ phiếu của mình. Chúng tôi dự đoán trong vòng 10 năm nữa số lượng người bị tước quyền đi bầu sẽ vẫn ở mức cao kể từ khi Đạo luật Bầu cử được thông qua. Nhưng mặc cho thực tế này, mọi thứ chỉ là một sự im lặng đến hoang mang.

Tôi là luật sư bảo vệ quyền lợi cho trẻ vị thành niên. Nhiều thân chủ của tôi có tuổi đời còn rất trẻ. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất trên thế giới áp dụng mức án chung thân cho một đứa trẻ 13 tuổi. Ở đất nước này, chúng ta có án chung thân không được ân xá dành cho những đứa trẻ. Thậm chí chúng ta còn truy tố ra tòa những đứa trẻ nữa. Quốc gia duy nhất trên thế giới.

Thân chủ của tôi còn là những tử tù. Tôi cho rằng những tranh cãi xung quanh vấn đề án tử hình rất thú vị. Từ trước đến nay, chúng ta đã được định hướng để nghĩ câu hỏi cần phải xem xét là: một người có đáng phải chết vì tội họ đã gây ra hay không? Hẳn nhiên đó là một câu hỏi rất hợp lý. Nhưng vẫn còn một cách suy nghĩ khác xuất phát từ việc chúng ta là ai trong tư cách con người. Thay vì hỏi có đáng để một người phạm tội nhận lãnh cái chết hay không, điều mà chúng ta cần suy nghĩ là: chúng ta lấy quyền gì để tước đoạt mạng sống người khác?


Luật sư Bryan Stevenson trong cuộc họp báo ngay sau khi giúp được thân chủ của mình, Anthony Ray Hinton, thoát được bản án tử hình oan sai ngày 3/4 vừa qua ở Mỹ, sau gần 30 năm chờ đợi. Ảnh: EJI

Án tử hình ở Mỹ luôn có dấu vết của oan sai. Cứ mỗi 9 người nhận án tử thì có một người được giải oan và phóng thích. Một trên chín – đó quả thật là một tỷ lệ sai sót rất đáng kinh ngạc. Trong khi đó, sẽ không đời nào chúng ta dám bước lên máy bay nếu cứ mỗi 9 chiếc cất cánh lại có một chiếc bị rơi. Dẫu vậy, bằng cách nào đó chúng ta vẫn tách mình khỏi thực tế này. Đó không phải là vấn đề của chúng ta, càng không phải gánh nặng để lao tâm khổ tứ.

Một dạo tôi có dịp được làm diễn giả tại một hội thảo về án tử hình ở Đức. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ khi một trong những học giả ở đó đã chia sẻ sau phần trình bày của tôi: “Anh biết đấy, tôi đã thấy rất buồn trong lúc nghe anh nói. Ở Đức chúng tôi không còn án tử hình. Và tất nhiên chúng tôi sẽ không bao giờ đưa vào áp dụng lại hình phạt ấy”. Không khí khán phòng chợt chùng xuống, thế rồi một người phụ nữ đứng lên nói: “Với quá khứ vẫn còn ám ảnh, chúng tôi không thể nào lặp lại việc giết người hàng loạt như trước đây. Sẽ rất vô lương tâm nếu hành động đó vẫn được duy trì, cho dù là với mục đích khác”. Câu nói của bà đã cho tôi nhiều suy nghĩ. Sẽ ra sao nếu nước Đức vẫn còn giữ án tử hình, và phần đông trong số những người bị hành quyết là người Do Thái? Đó là một viễn cảnh mà lương tri chúng ta không thể chịu được.

Tuy vậy, ngay trên đất nước này, ở những bang miền Nam lâu đời, những người tù bị kết tội vẫn đối mặt với án tử hình. Ở các bang này, nếu nạn nhân là người da trắng, khả năng người phạm tội phải nhận án tử cao gấp 11 lần so với khi nạn nhân là một người da màu, và cao gấp 22 lần nếu bị cáo là người da màu còn nạn nhân là da trắng. Đây cũng là những bang mà dưới lòng đất người ta tìm thấy thi thể những người da đen từng bị hành quyết. Dẫu vậy, chúng ta vẫn cảm thấy không liên quan.

Còn có một thực tế khác đang tồn tại ở đất nước chúng ta. Chúng ta không muốn nói về những bất cập đang hiện hữu. Chúng ta cũng không muốn nhắc lại lịch sử. Chính vì vậy, chúng ta không thật sự hiểu những gì đã xảy ra trong quá khứ, để rồi không thấy rằng chúng đang lặp lại ở hiện tại. Chúng ta vẫn luôn đối đầu nhau, vẫn luôn tạo ra những mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thấy thật khó để nói khi động đến chủ đề chủng tộc. Tôi tin sở dĩ như vậy là bởi chúng ta chưa sẵn lòng bước vào tiến trình hòa giải và chấp nhận sự thật. Ở Nam Phi, người ta biết sẽ không thể chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc (apartheid) nếu không thật sự bắt đầu tiến trình hòa giải và nhìn nhận thực tế. Ở Rwanda, ngay khi cả đất nước phải trải qua nạn diệt chủng, họ cũng đã làm việc tương tự. Nhưng ở đất nước này, chúng ta vẫn chưa làm điều đó.

Khi còn là một anh chàng luật sư mới vào nghề, tôi đã có vinh dự được gặp Rosa Parks. Bà vẫn thường lui tới Montgomery. Mỗi lần như vậy, bà đi cùng hai người bạn thân của mình là Johnnie Carr, người đứng sau phong trào tẩy chay xe buýt ở Montgomery – một phụ nữ Mỹ gốc Phi rất đỗi tuyệt vời – và Virginia Durr, người có chồng là Clifford Durr, luật sư đại diện cho tiến sĩ Martin Luther King. Ba người bọn họ thường tụ lại chuyện trò mỗi lần gặp nhau.

Thi thoảng cô Carr lại gọi cho tôi và bảo: “Bryan này, cô Parks sắp đến chơi đấy. Bọn cô đã hẹn nhau rồi. Cháu có muốn đến chỗ bọn cô không?” Tôi nói: “Dạ vâng, cháu muốn ạ”. Thế rồi bà hỏi: “Vậy thì cháu định làm gì khi đến đây?” Tôi trả lời: “Cháu sẽ nghe các cô nói chuyện”. Và tôi đã đến chỗ họ để lắng nghe những chủ đề đã truyền cảm hứng và động lực cho tôi.

Một lần nọ, tôi đến nghe ba người họ nói chuyện. Vài tiếng sau, cô Parks quay sang tôi nói: “Bryan này, bây giờ cháu kể về tổ chức Equal Justice Initiative của cháu đi. Cho cô biết cháu đang làm gì nào”. Và thế là tôi bắt đầu bài diễn thuyết của mình không ngừng nghỉ.

“Dạ thưa, bọn cháu đang cố thách thức sự bất công. Bọn cháu đang giúp đỡ những người đã bị kết án oan sai. Bọn cháu cố gắng đối diện với nạn kì thị và phân biệt đối xử đang diễn ra trong hệ thống tư pháp và hành chính. Bọn cháu mong muốn sẽ chấm dứt việc kết án chung thân không được ân xá đối với trẻ em, và cả án tử hình nữa. Bọn cháu cũng đang cố làm giảm xuống số người bị đi tù, vì bọn cháu muốn chấm dứt tình trạng kết án tù ồ ạt”.

Khi tôi kết thúc, bà ấy đã nhìn tôi rồi nói: “Mmm mmm mmm, cháu sẽ phải vất vả lắm đấy”. Lúc ấy cô Carr cũng tham gia vào, bà khẽ chạm má tôi và bảo: “Vì thế nên cháu phải thật kiên cường đấy nhé!”

Và tôi nghĩ tất cả chúng ta đều cần cái dũng khí đó. Chúng ta cần tìm ra cách để đối diện với những thách thức và khó khăn đang gây nên đau khổ cho đồng loại. Bởi lẽ xét cho cùng, loài người chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau, vào mỗi cá thể trong một tập thể. Khi làm công việc của mình, có những điều rất đơn giản mà tôi đã học được. Tôi nghiệm ra mọi người trên hành tinh này, cho dù đã làm chuyện tồi tệ đến cỡ nào, đều không chỉ được định nghĩa bởi duy nhất điều đó. Tôi tin nó đúng với tất cả chúng ta. Nếu một người nói dối bạn, cô ta không chỉ được định nghĩa là một kẻ dối trá. Nếu một người lấy đi thứ không phải tài sản của họ, anh ta không chỉ là một tên trộm. Và thậm chí nếu đã cướp đi sinh mạng ai đó, bạn cũng không chỉ là một hung thủ giết người. Chính bởi vì mỗi người chúng ta đều có một nhân phẩm, và nó cần được pháp luật tôn trọng.

Tôi tin rằng dẫu có hào nhoáng, hấp dẫn, đẹp đẽ, sáng tạo hay tiến bộ đến đâu, cuối cùng thì công nghệ, sự phát triển hay hàm lượng tri thức không phải là tiêu chí chung cuộc để đánh giá một xã hội. Chúng ta đánh giá phẩm chất một xã hội không phải trên cách mà nó đối đãi với người giàu, người có thế lực và có đặc quyền, mà dựa trên cách những người nghèo, người bị kết tội và người tù được đối xử ra sao. Chỉ khi đó chúng ta mới bắt đầu có cái nhìn sâu sắc về xã hội của chúng ta.

Triết lý đạo đức thì có rất nhiều, nhưng lịch sử nhân loại cho thấy điểm chung nằm ở niềm tin vào công lý. Chúng ta không thể trở thành một con người hoàn chỉnh chừng nào chúng ta vẫn chưa quan tâm đến nhân quyền và nhân phẩm của mình và người khác. Bởi sự tồn tại của tất cả chúng ta gắn chặt với sự tồn tại của từng cá nhân. Tôi tin các bạn ở đây đều hiểu điều đó, vì vậy hôm nay đến với TED, tôi muốn nói với các bạn rằng, hãy tiếp tục kiên cường cho đến khi chúng ta đạt được mục tiêu.

Xin cảm ơn rất nhiều.



Lược dịch và tổng hợp từ:
TED Talk: “We Need to Talk about an Injustice”
Bryan Stevenson: ‘America’s Mandela’

Chiến thắng đầu tiên trong vụ kiện Biển Đông: Việt Nam – người hùng thầm lặng?





Bên trong Peace Palace tại Hague, đồng thời cũng là trụ sở của Tòa Án Công Lý Quốc Tế, nơi diễn ra phiên xét xử vụ việc. Ảnh: PCA


Đoàn Nhã An - Từ cách đánh giá Tuyên bố chung Trung Quốc – ASEAN 2002 cho đến vai trò của Việt Nam trong vụ kiện, có rất nhiều điểm thú vị trong Quyết định về thẩm quyền của Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế đối với tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc tại Biển Đông (Biển Luzon theo cách gọi của Philippines và biển Hoa Nam theo cách gọi của Trung Quốc).

1) “Thẩm Quyền” của Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế là gì?

Thẩm quyền (jurisdiction) của tòa án là điều kiện đầu tiên và căn bản nhất cần phải có trong mỗi vụ kiện. Giải thích một cách đơn giản và trực tiếp, tòa án chỉ có thể thụ lý hồ sơ và giải quyết những tranh chấp của các bên nếu tòa án đó có thẩm quyền. Thẩm quyền của tòa án được phân biệt làm 2 loại: Thẩm quyền về nhân thân (personal jurisdiction) và Thẩm quyền vụ việc (subject-matter jurisdiction). Trong mỗi hồ sơ vụ án, tòa án nơi nhận đơn phải có đủ cả hai thẩm quyền để có thể nghe thẩm và đưa ra phán quyết.

Thẩm quyền về nhân thân (personal jurisdiction) cho phép tòa án xét xử các đơn kiện khi các bên, đặc biệt là bị đơn, có sự ràng buộc về nhân thân dưới thẩm quyền mà tòa án đó có được. Ví dụ cho thẩm quyền về nhân thân là trong các vụ kiện tranh chấp tài sản, khi cả hai bên nguyên đơn và bị đơn đều là công dân hay thường trú nhân của một quốc gia, thì tòa án của quốc gia ấy có thẩm quyền thụ lý các hồ sơ tranh chấp và tiến hành thủ tục xét xử với cả hai.

Thẩm quyền vụ việc (subject-matter jurisdiction) cho phép tòa án xét xử những vụ việc mà tính pháp lý của nó nằm trong thẩm quyền của tòa án đó. Ví dụ cho thẩm quyền về tính pháp lý của sự việc chúng ta có thể xem xét đến, rằng cũng trong các vụ kiện về tranh chấp tài sản, khi những điều luật của quốc gia mà các tài sản hiện đang nằm trong lãnh thổ quốc gia đó, có nêu rõ về quyền lợi của các cá nhân hay pháp nhân, cũng như quyền sở hữu đối với các loại tài sản, thì tòa án của quốc gia ấy sẽ có thẩm quyền xử lý hồ sơ chiếu theo những điều luật hiện hành.

Khi một tòa án cho rằng họ không có thẩm quyền để xử lý một hồ sơ thì tòa bắt buộc phải đưa ra quyết định hủy bỏ vụ việc. Đó là lý do vì sao, trong cuộc chiến pháp lý giữa Philippines và Trung Quốc, Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế (Permanent Court of Arbitration) đã phải có những buổi xử án vào các ngày 7, 8, và 13 tháng 7 năm 2015 tại Hague chỉ để nghe tranh biện hai bên về một vấn đề pháp lý duy nhất, đó là “thẩm quyền” của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong việc thụ lý vụ án này.

2) Bắt buộc phải có một phiên xét xử quyết định thẩm quyền bất kể quan điểm của Trung Quốc
Sở dĩ Tòa Trọng Tài Thường Trực đã đưa ra phán quyết trước tiên về “thẩm quyền” là vì tòa án này đã xem xét đến nội dung của văn bản mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào ngày 7 tháng 12 năm 2014. Văn bản có tiêu đề: Văn bản nêu rõ quan điểm của Nhà Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về vấn đề thẩm quyền (của Toà Án) trong sự việc Trọng tài Phân xử về vùng biển Nam Trung Hoa đã được đề đơn bởi Cộng Hòa Phi Luật Tân (Position Paper of the Government of the People’s Republic of China on the Matter of Jurisdiction in the South China Sea Arbitration Initiated by the Republic of Philippines) từ Bộ Ngoại Giao Trung Quốc.

Chính phủ Trung Quốc luôn nói rõ là việc họ đưa ra văn bản ngày 7 tháng 12 năm 2014 về vấn đề tranh chấp ở biển Đông không đồng nghĩa với việc Trung Quốc cho phép Tòa Trọng Tài dùng điều đó làm cơ sở pháp lý để có thể xem như Trung Quốc đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ tranh chấp này. Điều này nhất quán với luồng quan điểm từ trước đến nay của chính phủ Trung Quốc đối với việc Philippines đơn phương nộp hồ sơ đòi hỏi Tòa Trọng Tài Thường Trực thụ lý và đưa ra phán quyết về một số tranh chấp trong vùng biển South China Sea (Nam Trung Hoa). Đó là, Trung Quốc luôn nêu rõ chính phủ nước họ sẽ không bao giờ chấp nhận thẩm quyền của Tòa Trọng Tài hay tham gia trong vụ việc Philippines đơn phương nộp hồ sơ tại tòa trọng tài.

Tuy nhiên, theo Công Uớc Quốc Tế về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea), gọi tắt là UNCLOS, một tòa trọng tài được lập ra theo các điều khoản của công ước này bắt buộc phải đưa ra phán quyết về việc họ có thẩm quyền để thụ lý một vụ tranh chấp truớc hết và trên nhất, cho dù có một bên không tham gia hoặc không chính thức phản đối thẩm quyền của tòa. Do đó, Tòa Trọng Tài Thường Trực đã xem văn bản ngày 7 tháng 12 năm 2014 của chính phủ Trung Quốc là một đơn yêu cầu (a plea) xem xét về thẩm quyền của Tòa Trọng Tài để đưa ra quyết định mở tòa thẩm án ngày 7, 8, và 13 tháng 7 năm 2015 cho vấn đề pháp lý này.

Ngày 29 tháng 10 năm 2015, Toà Trọng Tài Thường Trực đã có thông cáo báo chí về phán quyết đồng thuận của tòa sau các phiên xử trong tháng 7, 2015. Một cách vắn tắt, Tòa Trọng Tài Thường Trực phán quyết họ có thẩm quyền thụ lý và đưa ra phán xét về hồ sơ chính phủ Philippines nộp kiện Trung Quốc dựa theo các điều khoản của UNCLOS.

3) Không phải tranh chấp chủ quyền mà là tranh chấp về cách áp dụng và diễn giải UNCLOS
Trước hết, Tòa Trọng Tài Thường Trực – một tòa được thành lập dựa theo Điều phụ lục số 7 (Annex 7) của UNCLOS – trong phán quyết đưa ra ngày 29 tháng 10, năm 2015 tại Hague, đã nêu rõ họ có thẩm quyền với cả hai chính phủ Philippines và Trung Quốc vì cả hai nước này đều là thành viên của công ước UNCLOS và do đó đều bị ràng buộc bởi các điều khoản về giải quyết các tranh chấp dưới công ước đã được ký kết. Việc Trung Quốc không đồng ý tham gia hay đưa ra phản đối chính thức cũng không thể tước đoạt thẩm quyền của Tòa Trọng Tài. Ngoài ra, việc Philippines đơn phương nộp đơn lên Tòa Trọng Tài cũng không bị xem là hành vi lạm dụng thủ tục pháp lý (abuse of process). (Xin xem thêm Thông Cáo Báo Chí ngày 29 tháng 10, năm 2015, trang 1, đoạn 4).[1] Đây chính là lập luận dựa trên cơ sở của thẩm quyền về nhân thân (personal jurisdiction) bởi vì thẩm quyền mà tòa án có được trong trường hợp này là do các bên đã tham gia ký kết vào cùng một công ước Quốc Tế, ở đây là UNCLOS, trước đó. Và vì thế, họ đã chấp nhận và đồng ý tuân thủ càng điều luật của công ước đó, kể cả việc chấp nhận thẩm quyền và chịu sự phán xét của Tòa Trọng Tài.

Tòa Trọng Tài cũng đưa ra phán quyết dựa trên cơ sở thẩm quyền về tính pháp lý của sự việc (subject-matter jurisdiction). Theo đó, tòa đã bác các lập luận không chấp nhận thẩm quyền của Tòa Trọng Tài từ phía Trung Quốc. Trước hết, Trung Quốc nêu ra vấn đề tranh chấp ở biển Đông không nằm trong những điều khoản của UNCLOS vì đó là những tranh chấp về chủ quyền (sovereignty) của các hòn đảo ở biển Nam Trung Hoa (South China Sea), và như thế, Trung Quốc cho rằng Tòa Trọng Tài không có thẩm quyền để giải quyết tính pháp lý của sự việc. Tiếp đến, Trung Quốc lập luận thêm là những tranh chấp này thực ra cũng chỉ là việc phân định biên giới hải phận giữa các quốc gia và được miễn trừ khỏi thẩm quyền của Tòa Trọng Tài dựa theo một bản tuyên bố của Trung Quốc năm 2006. Bác bỏ các lập luận của Trung Quốc, Tòa Trọng Tài tuyên phán những vấn đề pháp lý của vụ kiện này thực chất chính là những tranh chấp giữa hai quốc gia về việc diễn giải và thực thi UNCLOS và do đó, tính pháp lý của vụ việc thuộc về thẩm quyền của Tòa Trọng Tài.

4) Việt Nam – người hùng thầm lặng?
Một trong những yếu tố có thể ngăn cản Tòa Trọng Tài thực hiện thẩm quyền thụ lý đơn kiện từ chính phủ Philippines chính là khi phán quyết của tòa có thể gây ảnh hưởng đến quyền lợi của một nước thứ ba có liên quan đến vùng biển tranh chấp. Nước thứ ba đó được xem là một bên liên quan bắt buộc của vụ kiện (indispensable third-party) và quyền lợi của quốc gia đó phải được mang ra xem xét. Ở đây, Việt Nam là một nước đã tuyên bố chủ quyền đối với 1 số đảo trong vùng biển tranh chấp và trên mặt lý luận, có thể được xem là một bên thứ ba có liên quan bắt buộc đến vụ kiện. Tuy nhiên, Tòa Trọng Tài cho rằng vì đơn kiện của Philippines không đòi hỏi tòa phải phán quyết về chủ quyền quốc gia trong vùng biển tranh chấp, thế nên quyền lợi của các quốc gia thứ ba như Việt Nam sẽ không bị ảnh hưởng bởi phán quyết của Tòa Trọng Tài.

Hơn thế nữa, tòa cũng ghi nhận rằng vào ngày 11 tháng 12 năm 2014 (5 ngày sau khi Hoa Kỳ đưa ra báo cáo về việc Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc có thể vi phạm UNCLOS),[2] Bộ Ngoại Giao của chính phủ Việt Nam đã nộp một bản tuyên bố đến Tòa Trọng Tài, trong đó ghi rõ chính phủ Việt Nam “không có bất kỳ nghi ngờ gì về việc Tòa Trọng Tài có thẩm quyền trong những thủ tục pháp lý của vụ kiện này”. Từ đó cho thấy tuyên bố gửi đến Tòa Trọng Tài từ chính phủ Việt Nam ngày 11 tháng 12 năm 2014 đã góp phần vào việc Tòa Trọng Tài đưa ra phán quyết là tòa có đầy đủ thẩm quyền pháp lý để xử lý vụ kiện vì nó đã giúp giải quyết triệt để lập luận về yếu tố bên thứ ba có liên quan bắt buộc (indispensable third-party).

5) Tuyên bố chung Trung Quốc-ASEAN 2002 không có giá trị pháp lý

Trong việc tuyên bố tòa có thẩm quyền để đưa ra phán quyết về vụ án tranh chấp trong vùng biển South China Sea giữa Philippines và Trung Quốc, tòa cũng đã xem xét những lập luận khác từ phía Trung Quốc như việc họ đã từng đưa ra tuyên bố chung (China-ASEAN Declaration) vào năm 2002 cho việc giải quyết các tranh chấp với các nước thuộc khối ASEAN trong vùng biển South China Sea bằng thủ tục đàm phán trước khi phải dùng đến Tòa Trọng Tài theo UNCLOS. Tòa Trọng Tài cho rằng tuyên bố China-ASEAN năm 2002 là một thông cáo chính trị, hoàn toàn không có giá trị pháp lý, cũng như không có các quy chế cụ thể để thực thi hòa giải và không có quy định ngăn cản các bên tìm kiếm các giải pháp khác.

Tòa Trọng Tài cũng cho rằng những cam kết khác giữa Philippines và Trung Quốc cũng không thể ngăn cản Philippines chọn dùng Tòa Trọng Tài để tìm kiếm sự tài phán cho những tranh chấp trong vùng biển South China Sea. Hơn thế, Tòa Trọng Tài cũng phán quyết rằng Philippines trên thực tế đã thực hiện hết các quy định về trao đổi quan điểm pháp lý để tìm kiếm một phương pháp hòa giải cho vụ tranh chấp với Trung Quốc cũng như đã có nỗ lực hòa giải theo luật UNCLOS cũng như theo luật Quốc Tế nói chung.

6) Những giới hạn và ngoại lệ trong việc xác định Thẩm quyền dựa trên UNCLOS

Thẩm quyền của Tòa Trọng Tài không phải là vô hạn. Theo Điều 297 và 298 của UNCLOs, có những giới hạn (limitations) và ngoại lệ (exceptions) cho việc xác định thẩm quyền của Tòa Trọng Tài. Tóm tắt nội dung phán quyết, Tòa Trọng Tài cho phép họ có thẩm quyền để đưa ra phán quyết cho 7 trong 15 vấn đề pháp lý mà phía Philippines đã đệ đơn vào ngày 22 tháng Giêng năm 2013. Ngoài ra, về 7 vấn đề pháp lý còn lại, thẩm quyền của Tòa Trọng Tài cần phải được đưa ra song song với phán quyết của tòa về lập luận phải trái về pháp lý (legal merits) nhằm xem xét những điều khoản về các giới hạn và ngoại lệ của UNCLOS có cần phải được áp dụng hay không. Do đó, tòa sẽ công bố phiên xử tiếp theo về lập luận phải trái của các vấn đề pháp lý (legal merits) trong những ngày sắp tới. Tòa cũng yêu cầu phía Phillipines xem xét làm rõ và thu hẹp lại vấn đề pháp lý còn lại của 1 trong số 15 đã nộp trong đơn kiện. Phán quyết cuối cùng cho vụ kiện này dự kiến là sẽ được đưa ra vào tháng 6 năm 2016.

Đoàn Nhã An

Nguồn: Luật Khoa TC

Chuyện ”người điên” Phạm Đình Nguyên mua thị trấn Mỹ







Ông Phạm Đình Nguyên – chủ nhân thị trấn cà phê Việt PhinDeli trên đất Mỹ.

Ông Phạm Đình Nguyên – chủ nhân của thương hiệu cà phê “PhinDeli làm nước Mỹ tỉnh giấc” đã chia sẻ như vậy trước 500 doanh nghiệp tham dự diễn đàn “Xây dựng thương hiệu dẫn đầu” do Học viện thương hiệu và truyền thông Sage tổ chức ngày 14/10 tại Hà Nội.


Sinh sống ở Sài Gòn, không phải ở Mỹ cũng không liên quan gì đến nước Mỹ, doanh nhân 41 tuổi Phạm Đình Nguyên đã gây chấn động giới truyền thông trong nước và quốc tế vào năm 2012 bằng việc trở thành người Việt đầu tiên mua một thị trấn của nước Mỹ có tên Buford với giá xấp xỉ 1 triệu USD, và trở thành thị trưởng của thị trấn này.

Ông Nguyên nói: “Khi đó chính tôi cũng không biết mình mua Buford để làm gì. Người ta đồn rằng, tôi sẽ làm một thị trấn bánh phở, kẻ thì nói tôi sẽ làm một thị trấn massage… Còn tôi lại nghĩ mình phải làm một sản phẩm gì mang quốc hồn, quốc túy lại phải được tiêu thụ lớn nhất, phổ biến nhất tại Mỹ và cà phê chính là sản phẩm được chọn. Vì Việt Nam là nước duy nhất pha cà phê bằng phin nên cái tên Phin đã ra đời, còn cái tên Deli còn lại là “nửa việt nửa Mỹ”.

Sau khi chọn kinh doanh cà phê, ông Nguyên đã táo bạo đổi tên thị trấn Buford có lịch sử 147 năm của Mỹ thành thị trấn cà phê Việt PhinDeli, chuyên bán các sản phẩm cà phê Việt Nam. “Khỏi nói tôi đã làm người dân Mỹ nổi giận như thế nào khi tôi đổi tên thị trấn của họ. Tôi nhận được rất nhiều “comment” hăm dọa kiểu như “tôi đang lau súng chờ ông đến đây!” khi đó”, ông Nguyên kể lại.

“Tôi lúc đó như đang đi trên sợi dây cần giữ thăng bằng nên không được phép ngả về bên nào. Trong ngày lễ diễn ra sự kiện đổi tên tôi còn mua cả bảo hiểm và không dấu được sự hồi hộp vì tại Mỹ ai cũng có súng nên nếu tôi bị bắn thì “chết là chắc”. Truyền thông Mỹ cùng người dân Mỹ đến dự sự kiện rất đông và may là hôm đó không có tiếng súng nào hết!” – ông Nguyên cười nói.

PhinDeli chính thức ra đời từ đó và đã gặt hái không ít thành công trên đất Mỹ với sản phẩm truyền thống là cà phê rang xay, rồi tiếp theo là cà phê hòa tan, cà phê uống liền… Ông Nguyên chia sẻ: “Không phải sự táo bạo nào cũng mang lại kết quả. Nhưng nếu không làm bạn mãi mãi không biết mình làm được gì. Mua thị trấn Mỹ Buford là sự táo bạo rất cần như thế”.


Phạm Đình Nguyên cùng thương hiệu Phindeli trên chuyến du lịch nhanh vào vũ trụ ngày 28/9/2013 tại San Jose, Hoa Kỳ.

Theo vị thị trưởng thị trấn Buford (nay là PhinDeli), PhinDeli chính là câu chuyện của khát vọng, táo bạo và lo âu nhưng gộp lại tất cả nó là một câu chuyện đẹp về giấc mơ cà phê Việt trên đất Mỹ. “Cuối cùng tôi vẫn muốn chia sẻ với các bạn là các doanh nghiệp Việt Nam rằng, nên thử nghiệm ý tưởng sớm. Một là thất bại cho nhanh (để bắt đầu cái mới) và hai là triển khai nhanh để thành công lớn. Chần chừ cũng là đồng nghĩa với thất bại” – ông Phạm Đình Nguyên nói.

Cuối cùng điều ông Nguyên muốn đúc kết chính là: “Không có thương hiệu nào giống thương hiệu nào, không có cách thức chung xây dựng thương hiệu. Hãy tạo cho mình con đường đi riêng, tạo cho mình một cuộc chơi mới để đến được với đại dương xanh”.

Theo danviet.vn

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

Cần ứng xử có văn hóa với thiên nhiên





Nằm ven bờ Biển Đông quanh năm cuồn cuộn sóng, đất nước ta đã và đang phải đương đầu với những cơn cuồng nộ của thiên nhiên nhằm trả thù hành vi dại dột của con người triền miên phá hủy môi trường sống của chính mình.
Những nguy cơ của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang trực tiếp tác động vào cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta. Đối diện với hiểm họa đó, ở phương Tây, sinh thái học từ một lĩnh vực triết lý trở thành một phong trào xã hội nhằm tái lập cuộc đối thoại giữa con người, xã hội với thiên nhiên mà thời đại công nghiệp đã phũ phàng vứt bỏ. Triết lý ấy lập luận rằng người, thiên nhiên và các sinh vật chỉ là những hình thái sống khác nhau mà thôi.

Một vị đại biểu của triết lý này, Michel Serres, quan niệm rằng: “Ta đánh mất vũ trụ(…). Ta biến tất cả sự vật thành hàng hóa…Vũ trụ (…) tự cống hiến nó cho chúng ta. Sẽ có sự bất công, sẽ có sự bất quân bình nếu ta nhận sự cống hiến đó một cách miễn phí, không trả lại cái gì cả. Sự công bằng buộc chung ta phải trả, ít nhất là ngang mức ta nhận, nghĩa là vừa đủ”.

Phát triển hướng tư duy đó, Aldo Leopold tiếp tục đưa ra một quan điểm đạo đức “Một việc là tốt, là thiện, nếu có khuynh hướng bảo tồn sự toàn vẹn, sự vững chắc và vẻ đẹp của cộng đồng sinh thái. Một việc là xấu, là ác, nếu trái lại!”

Lévi Strauss còn mạnh mẽ hơn, triệt để hơn khi ông phê bình gay gắt triết lý về chủ thể đã biến con người thành chúa tể thống trị một cõi riêng, giam con người trong lãnh địa văn minh của mình, tách biệt khỏi thiên nhiên vì thiên nhiên bị xem như “không có văn hóa”. Chỉ con người là có văn hóa, vì thế con người tách mình khỏi thiên nhiên. Cái luận đề đó hình thành đổng thời với quá trình đô thị hóa ở châu Âu, song song với đà phát triển văn minh công nghiệp đã cắt đứt con người thành thị ra khỏi giới tự nhiên. Kết quả, con người đã hủy diệt tất cả những gì không phải là chính mình, bắt đầu từ thiên nhiên ấy.

Nếu phương Tây phải tốn hai mươi thế kỷ để bắt đầu nhìn thấy và quyết liệt cảnh báo thì ở phương Đông, vấn đề ấy đã được đặt ra từ rất lâu, với ứng xử quen thuộc:Tương thân, tương ái, tương kính với thiên nhiên. Quan điểm ấy là xuyên suốt, chủ đạo trong triết học nhà Phật: “Cây cỏ, đất đá, đồi núi, tất cả yếu tố của vũ trụ đều có Phật tính”. Và rồi, văn hóa dân gian Việt Nam cũng biểu đạt triết lý ấy, nhưng giản đơn hơn: “Người ta là hoa của đất”.

Ở Việt Nam, còn vô khối câu ca dao cổ biểu tả sự gắn bó giữa con người với tự nhiên, chẳng hạn một chuyện tình: “Trèo lên cây bưởi hái hoa. Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay. Ba đồng một mớ trầu cay. Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không. Bây giờ em đã có chồng. Như chim vào lồng, như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Chim vào lồng biết thuở nào ra?”. Miễn cho lời bình về nỗi đắng cay uất ức trong lòng cô gái trước sự “tiếc lắm thay” nhạt hều của chàng trai, chỉ xin được nói về thiên nhiên ngập tràn trong tình yêu của đôi trai gái ấy:

Nào hoa bưởi, hoa tầm xuân, nào cây cà, cây bưởi, nào con chim, con cá… Cho dù có nỗi đau quằn quại của chim đã bị nhốt trong lồng, cá đã bị móc vào lưỡi câu oan nghiệt, câu chuyện lứa đôi kia vẫn ngạt ngào mùi hương hoa bưởi, vẫn “xanh biếc” màu xanh của “nụ tầm xuân” mới nở. Mà nào có gì cao xa đâu, cũng chẳng hề biết đến cuộc tranh luận về “triết lý chủ thể” và “triết lý về sự sống” [cho dù là cực kỳ cần thiết và phải biết trân trọng], đây là khung cảnh hết sức gần gũi và quen thuộc của cuộc sống làng quê đã từng xao động tâm hồn của mỗi chúng ta.

Thật ra, không tranh luận, nhưng nếu nói đến triết lý thì đây cũng là một triết lý tiềm ẩn trong tâm thức Việt đó là chữ “Hòa”. “Hòa” trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, hòa trong chính mình. Đây là một đặc trưng của tính cách phương Đông thể hiện trong lối sống và văn hóa Việt Nam. Triết lý ấy biểu hiện một nếp tư duy thiên về tổng hợp, kết hợp hơn là phân tích chia cắt, thiên về liên tục hơn là gián đoạn, thiên về tinh thần hơn là vật chất.

Đó là những gì ta cảm nhận từ lời mẹ dạy cho con, bà truyền cho cháu qua lời ru, qua cách ứng xử giữa đời thường. Sự cảm nhận ấy đã truyền đạt một cách dung dị hồn dân tộc trong cuộc sống, trong không khí để thở, trong gầu nước giếng mát để uống, trong mùi thơm của bát cơm gạo mới, vị ngọt của trái chín cây, mùi hương của hoa trong đêm… Đời này qua đời khác kết nối những cảm nhận ấy lại như một thứ “gien” di truyền, chìm sâu trong tâm thức của con người vốn đã sinh ra, hít thở khí trời, uống dòng nước mát, ăn bát cơm thơm trên đồng đất quê hương.

Trân trọng giữ gìn, chăm chút cảnh sắc thiên nhiên quanh ta, một gốc cây, một ngọn cỏ, một nhành hoa, một ngọn lá… là cả một ứng xử văn hóa. Ứng xử ấy cần trở thành một thói quen, một tập quán để định hình một lối sống, một cách sống. Trong cái xô bồ của cuộc sống hiện tại, phải thấy cho ra cái chữ “hòa” ấy trong cội nguồn văn hóa Việt Nam.

Thấy ra để làm gì? Để tự hào về ông cha mình, tự hào về dân tộc mình, đồng thời cũng thấy được những khiếm khuyết mà càng thêm day dứt vì chúng ta đã không thực hiện tốt lời răn dạy của ông cha. Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Quyển III, Kỷ Nhà Lý, triều Lý Nhân Tông, chép rằng: “Năm Bính Ngọ [1126] “Mùa xuân, tháng giêng mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội (giam) ở phủ Đô hộ. Cấm dân chúng mùa xuân không được chặt cây”. Bình về điều cấm này, giáo sư Cao Huy Thuần viết: “Luật của cây cối là: xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn. Xuân sinh: hãy nhìn một lộc non vừa nhú lên trong mùa xuân, bao nhiêu là hạnh phúc, bao nhiêu là sức sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình sự sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình mùa xuân. Chưa bao giờ chân lý, thiện và mỹ được nâng cao đến mức ấy”.

“Được nâng cao đến mức ấy” tự bao giờ? Thưa rằng: từ cách đây gần 900 năm, non một thiên niên kỷ! Thì ra, trong sâu thẳm của triết lý nhân sinh, tư duy của loài người bắt gặp nhau ở những điểm tiệm cận trên vòng xoáy trôn ốc của tiến trình phát triển. Ông cha ta từ xa xưa đã có những phương cách bảo vệ môi trường sinh thái hữu hiệu, phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế. Đây là mức độ có thể đo đếm được qua những chặng đường thời gian. Nhưng sự nông sâu trong triết lý, trong nguồn mạch của tư duy thì không dễ gì đo đếm một cách thô thiển và vụng dại được! Chính từ đây, từ cái mẫu số chung của thời đại mà suy ngẫm về sựbắt gặp và nối liền nguồn mạch của tư duy hiện đại với sâu thẳm cội nguồn của triết lý đã dẫn dắt, tạo dựng, bảo vệ và phát triển non sông gấm vóc ông cha bao đời để lại cho thế hệ chúng ta hôm nay.

Với quá trình đô thị hóa một cách xô bồ thiếu sự cẩn trọng cần thiết, rồi chuyện “công nghiệp hóa” tràn lan chưa có sự nghiêm túc và thật sự khoa học trong tính toán, lại “hiện đại hóa” nóng vội, bộc lộ sự thiếu hiểu biết, đã vô tình biến đất nước mình thành bãi thải công nghiệp, thành phòng thí nghiệm cho những “dự án” hàm hồ mà cái giá phải trả là rất đắt. Để rồi dòng người từ nông thôn hối hả chuyển vào đô thị gây nên sự quá tải ngày càng trầm trọng về cơ sở hạ tầng, về chất lượng văn hóa của cuộc sống. Xót xa nhất là dần dà nông thôn trở thành nơi không ai muốn ở, nông nghiệp đang là ngành ít ai muốn đầu tư, nền văn hóa làng, cội nguồn của bản sắc văn hóa Việt Nam đang bị mai một, những giá trị truyền thống bị phôi pha, các thế hệ tương lai sẽ bỏ rơi nông thôn.

Tuy nhiên, với một nền tảng văn hiến được xây cất trên một triết lý “người ta là hoa của đất”, nếu biết định hình một chiến lược phát triển đất nước coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển, thì sẽ tìm ra được một cách đi đúng, tránh những xô bồ chứa nhiều hiểm họa như hiện nay. Văn hóa chính là chìa khóa mở ra cánh cửa cho những giải pháp về kinh tế, xã hội trong sự phát triển của đất nước.

Để có thể là “chìa khóa”, phải thấy được văn hóa là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống nhân sinh được phản chiếu ở cả bề nổi và bề chìm. Dưới tầng nước mặt, văn hóa được phân chia theo những tầng khác nhau, thường tiềm ẩn, kỳ bí vô cùng và tưởng chừng như vô thức. Ở độ sâu này, có một sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Chính sự tiềm ẩn và tưởng như là vô thức này nằm chìm trong đời sống của dân tộc, làm nên bản lĩnh và cốt cách, tạo nên sức mạnh cho dân tộc ấy. Chính vì lẽ đó, vun đắp văn hóa không thể làm theo cách ăn xổi ở thì kiểu “mì ăn liền”. Văn hóa được hình thành theo quy luật thẩm thấu dài lâu.

Để vun đắp một nền văn hóa ứng xử với tự nhiên, phải biết “thăm dò cái gốc của nó, lại phải tưới tắm cái ngọn của nó, mở rộng cái nguồn của nó, lại phải buông lơi cái dòng của nó” như lời bàn của Nguyễn Văn Siêu, danh sĩ nổi tiếng Việt Nam cách đây gần hai thế kỷ. Muốn làm được việc này, phải có thời gian, đổng thời cần sự kiên tâm nhất định của những người làm công tác tuyên truyền, giáo dục.

<Theo congdanvietnam2

Ân tình






Khi trong tim mặt trời đã tắt
Chung quanh ta chỉ có giao mùa
Lối đi về đâu còn hiện hữu
Nơi ta ngồi rộng lớn mênh mông
Có thể với em chỉ là nấm đất
Nhưng với ta là vạn nẻo ân tình...

Con bê vàng






Sùng bái con bê vàng (tranh Nicolas Poussin)

Cao Huy Thuần

Thánh kinh kể:

Moïse lên núi để gặp Thượng đế vì quần chúng tin rằng ông là trung gian giữa Thượng đế và dân Do Thái. Ông hẹn sẽ trở về trong vòng 40 ngày. Bốn mươi ngày và bốn mươi đêm không ăn uống, ông nghe Thượng đế đọc và khắc trên phiến đá những huấn lệnh nhằm tổ chức đời sống của bộ lạc mà ông là người lãnh đạo. Quá 40 ngày không thấy Moïse xuống núi, quần chúng tụ họp xung quanh Aaron và nói: “Xin tạo ra một vị thần để dẫn chúng ta đi, vì ta không biết chuyện gì đã xảy ra cho Moïse, người đã lãnh đạo chúng ta ra khỏi Ai Cập”. Aaron trả lời: “Hãy lột khuyên vàng ra khỏi tai của vợ các ngươi, con trai các ngươi, con gái các ngươi, và mang đến đây cho ta”.

Tức khắc, quần chúng lột khuyên vàng ra khỏi tai và mang đến cho Aaron. Aaron nhận khuyên, ném vào khuôn đúc, tạo ra một con bê. Quần chúng reo lên: “Israël! Thần của ta đây rồi, thần của ta đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai Cập!” Aaron bèn thiết một bàn thờ trước con bê, rồi lớn tiếng loan báo: “Ngày mai, sẽ làm lễ vinh danh Đấng Vĩnh Hằng”. Ngày hôm sau, từ sáng sớm, quần chúng đã hiến súc vật để tế thần. Sau đó họ ngồi ăn uống rồi đứng dậy tiêu khiển.

Đấng Vĩnh Hằng nói với Moïse: “Hãy xuống núi vì dân chúng mà ngươi đã dẫn ra khỏi Ai Cập đang hành động rất xấu. Chúng đã đi ngược với con đường mà Ta đã chỉ dẫn. Chúng đã tạo ra một con bê từ kim loại chảy ra. Chúng đã quỳ lạy trước nó và đã dâng tế vật mà nói rằng: “Israël, đây là vị thần của ta, đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai Cập!” Rồi Đấng Vĩnh Hằng nói thêm: “Ta thấy dân tộc ấy là một dân tộc phản loạn. Và bây giờ, hãy xem ta hành động: giận dữ của ta sẽ bốc lửa trên chúng. Nhưng ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc cường thịnh”.

Rồi Moïse cầu khẩn Đấng Vĩnh Hằng, Thượng đế của ông, hãy thương xót. Ông nói: “Kính Đấng Vĩnh Hằng, tại sao giận dữ của Ngài bốc cháy trên dân tộc của Ngài mà Ngài đã dẫn ra khỏi Ai Cập bằng sức mạnh ghê gớm như vậy? Tại sao dân Ai Cập nói rằng chính Thượng đế của họ đã dùng ác ý để đẩy dân Do Thái ra khỏi xứ sở của họ, làm cho dân Do Thái chết trong vùng núi non, xóa sạch chúng ta ra khỏi trái đất? Xin Ngài hãy nguôi giận và đừng đem đau khổ đến cho dân tộc của Ngài”. Lúc đó, Đấng Vĩnh Hằng mới thôi.

Moïse xuống núi trở về, tay cầm hai phiến đá khắc Liên Minh giữa Thượng đế và dân tộc Do Thái. Từ xa, ông đã nghe tiếng hát. Đến gần, ông chợt thấy con bê và nhiều người vừa ca hát vừa nhảy múa. Nổi giận lôi đình, ông ném hai tảng đá xuống đất, đá vỡ ra từng mảnh dưới chân núi. Ông nắm con bê, vứt vào lửa, đốt nó chảy thành bụi, rải tro trên sông, rồi bắt các người Do Thái uống nước ấy. Rồi ông hỏi Aaron: “Dân chúng này đã làm gì cho ông mà ông dẫn họ vào một tội lỗi tày đình như thế?” Aaron đáp: “Xin ông bớt giận. Chính ông biết rằng dân tộc này có khuynh hướng làm bậy. Họ nói với tôi: Hãy tạo ra một vị thần để dẫn chúng tôi, vì Moïse, người đã đưa chúng ta ra khỏi Ai Cập, không biết bây giờ đang ở nơi nào. Vì vậy, tôi nói với họ: Ai có vàng hãy tháo vàng ra! Họ đem vàng đến cho tôi, tôi đun vào lửa cho chảy ra, rồi đúc nên con bê này”.

Moïse thấy dân chúng bừng bừng khoái trá. Aaron cứ để mặc họ bày tỏ lòng khinh bỉ đối với kẻ thù của họ. Moïse đứng trước cổng trại, la lớn: “Ai đứng về phe Đấng Vĩnh Hằng hãy đến với ta!” Tất cả mọi người trong bộ lạc Lévi tiến đến phía Moïse. Moïse nói với họ: “Đây là lệnh của Đấng Vĩnh Hằng, Thượng đế của Israël: Tất cả sẵn sàng tuốt kiếm bên hông! Xông vào trại, lục soát khắp trại này đến trại khác, mỗi người phải giết, nếu cần, anh em, bạn bè, bà con thân cận!” Các người Lévi vâng lệnh, ngày hôm ấy chừng ba ngàn người bị giết chết. Moïse nói với dân Lévi: “Mỗi người chiến đấu chống lại chính con cái, anh em của mình. Các ngươi hôm nay đã phụng sự Đấng Vĩnh Hằng và hôm nay Ngài ban phúc cho các ngươi”.

Chuyện con bê vàng này trong Thánh Kinh, tất nhiên tín đồ phương Tây đều biết. Con bê vàng là ngụy đạo, tà đạo, dị giáo. Trước đây, ý nghĩa của nó là như vậy. Với thời gian, cụm từ “con bê vàng” thay đổi ý nghĩa: nó được dùng để chỉ các ông thần mới, các chúa tể mới, tranh ngôi Thượng đế với Thượng đế của tôn giáo. Quyền lực chính trị chẳng hạn được họ gọi là con bê vàng. Chủ nghĩa chính trị bắt tuyệt đối phục tòng cũng là con bê vàng. Nhưng bây giờ, sau khi chủ nghĩa sụp đổ cùng với một bức màn sắt và một bức tường chia đôi, có một con bê vàng ghê gớm thay thế, lấn Thượng đế trên bàn thờ: cái tên của nó là Tiền. Tiền vàng, tiền bạc, tiền giấy, tiền vô hình luân chuyển ngày đêm trong ngân hàng. Có tiền mua tiên cũng được. Không chừng mua được cả Thượng đế. Kinh tế càng tạo ra của cải vật chất, Thượng đế vật chất có cái tên là Tiền ấy đẩy Thượng đế tâm linh vào bóng tối trong chính các nước mà trước đây Ngài đã tuyệt đối ngự trị. Ai là Thượng đế ngày nay? Kinh tế hay tôn giáo?

Thật ra, tiến trình đã bắt đầu từ thế kỷ 19 khi một ông đại triết gia tuyên ngôn: “Con người bắt đầu khác con thú ngay khi bắt đầu sản xuất các phương thức sinh sống”. Mà thật vậy, để sống, con người tiền sử cần phải ăn, phải mặc, giải quyết các nhu cầu đầu tiên trước khi tưởng tượng ra các vị thần. Có thể nghĩ rằng phương thức sản xuất ảnh hưởng trên các tín ngưỡng hơn là ngược lại. Khi con người chỉ mới biết hái trái cây để ăn, chắc hẳn họ không có các vị thần giống như khi họ đã biết săn bắn, và từ đó các thần cũng thay đổi bộ mặt trong các xã hội từ du mục qua canh nông, từ xã hội phong kiến qua xã hội kỹ nghệ, xã hội tin học. Thế nhưng, làm sao cắt nghĩa thực tế này: Tuy rằng ngày nay phương thức sản xuất toàn cầu hóa lan tỏa khắp nơi, tuy rằng nếp sống, phong tục, cách suy nghĩ tiến dần đến tình trạng đồng nhất hóa, tuy vậy, tín ngưỡng vẫn mỗi nơi mỗi khác? Thậm chí, tuy dầu hỏa ở đâu cũng là dầu hỏa, tuy tài năng sử dụng tin học ở đâu cũng ngang nhau, trong cùng tín đồ Allah như nhau, sunnites và chiites giết nhau chí chóe?

Tại sao không những tôn giáo vẫn cứ tồn tại mà lại còn gây gổ chiến tranh không đội trời chung? Tại sao kinh tế không phải là Thượng đế? Tại vậy thôi: con người đâu phải chỉ sống vì miếng ăn? Từ khi con người biết họp nhau để săn bắn, xã hội đã thành hình, người này trao đổi, liên kết với người nọ, tất cả chia sẻ với nhau một đời sống chung, tuy rằng mỗi cá nhân có đời sống riêng. Mà làm sao có thể sống chung với nhau được nếu không có một ý muốn chung sống, nếu không thấy một ý nghĩa gì cao hơn, rộng hơn, sâu hơn vượt lên trên các đời sống riêng? Tín ngưỡng đem lại ý nghĩa, và vì vậy tôn giáo có thể đến sau phương thức sản xuất nhưng không thể thiếu vắng.

Hiển nhiên, kinh tế đem lại phồn thịnh, phồn thịnh xóa dần nghèo đói, nhân loại bớt khổ, an vui hơn. Nhưng phồn thịnh mà thôi không đủ để tạo ra văn minh, chắc gì nâng cao văn hóa, chắc gì mang lại hạnh phúc cho con người? Dù rách áo đói cơm, dù thừa thải bạc tiền, người nào cũng có một câu hỏi trong đầu về cuộc sống và nhất là về cái chết. Do câu hỏi chết sẽ đi đâu mà Ai Cập có kim tự tháp, Tần Thủy Hoàng để lại cả một đại quân bằng đất nung. Thì cũng vậy, kẻ rách đói nhất đời cũng lôi ông trời ra mà hỏi sinh ra tôi làm chi để khổ cực thế này. Đế vương cũng khổ, ăn mày cũng khổ. Câu hỏi về cái khổ mênh mông của con người, ngai vàng không trả lời được, áo cơm không trả lời được. Thì phải cầu viện đến tín ngưỡng! Mà tín ngưỡng là câu trả lời của tập thể, của môi trường trong đó họ sống chung. Vị thần họ tìm đến là vị thần chung. Tôn giáo không sản sinh ra phương tiện sản xuất nhưng tôn giáo vượt lên trên mọi phương tiện sản xuất.

Nói ra những điều này không có gì mới lạ, chỉ là đầu năm nhắc lại chuyện cũ. Nhưng cũng nên nói vì kinh tế hầu như là chuyện duy nhất để thu hút mọi quan tâm, để đánh giá mọi tiến bộ ngày nay, tất cả mọi chuyện khác đều dẹp vào thứ yếu. Có nhiều người lại đem chuyện ta để ví với chuyện Tàu: kinh tế là con mèo toàn năng. Không phải đâu, kinh tế chưa phải là Thượng đế của họ; Thượng đế để họ thờ phụng thế cho tôn giáo là tự hào dân tộc của họ, là dân tộc chủ nghĩa. Đối với họ, kinh tế chỉ là con bê vàng. Họ không chút nào lầm lẫn đâu, xin đừng bắt chước, xin đừng đặt con bê vàng lên bàn thờ.

Trong hỗn mang của xã hội ngày nay, giữa cái trống không tư tưởng trong đó chúng ta quờ quạng như người đi đêm trước hiểm họa Bắc phương, hãy có một tự hào Việt Nam để dẫn đường như một tôn giáo chung. Hãy có một lý tưởng chung, một ý nghĩa sống chung, một phương hướng để đi tới. Hãy biết đâu là con bê vàng, đâu là Thượng đế. Trong đời sống chính trị ngày nay của dân tộc Việt Nam, Thượng đế chỉ có thể là dân chủ mà thôi. Sự thật ấy ai cũng biết, trăm người như một. Hãy xem nó như một tín ngưỡng dân sự chung để sống chết với nó. Sự thật ngày nay, xin đừng lấy tay che mắt: Thượng đế không phải là kinh tế, lại càng không phải là chủ nghĩa. Chủ nghĩa chỉ là con bê vàng.

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

TƯỞNG NIỆM 7 NĂM CỐ THỦ TƯỚNG BẠCH MAO VÕ VĂN KIỆT -(Tư liệu tham khảo)




Lời Phi Lộ: Đông Dương Thời Báo kính dâng tặng Ngài Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Ngài Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, một vài cảm quan về nước Mỹ, để quý Ngài hiểu Chế độ cai trị và dân chủ trong độc đảng Tư Bản Mỹ và cấp lãnh đạo chính sách và nhà nước Mỹ ( quan thầy ), xem quân cán chính VNCH là lũ người Việt gian tay sai của Mỹ , thế mà Ngài Võ Văn Kiệt lại viết về lũ người này như sau: “…. sống trong chế độ củ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài là những người yêu nước….”
(http://dongduongthoibao.net/view.php?storyid=131)



* Nhà bình bút phiếm luận và nhà nghiên cứu sử Mĩ nỗi tiếng, đã có những bài viết viết phiếm luận và tham luận trên các đại nhật báo New York Times, Los Angeles Times.v.v…là ông Gore Vidal đã được đài BBC phỏng vấn trong mục Tư Duy Thế Kỷ ngày 9/12/2000 đã cho thính giả biết như sau: “…Nước Mĩ và đảng Cộng Hòa thiếu người hay sao mà chọn ông Bush Con ….Nước Mĩ sống dưới chế độ độc đảng là Tập đoàn Tư Bản và Công An trị ….Tư bản Mĩ như là General Electric chế tạo từ cây kim, bỏng đèn, động cơ phản lực, xe tăng….cho đến vệ tinh phóng lên vũ trụ …Mọi người dân Mĩ đều bị Công An thống trị dưới sự chỉ đạo của tập đoàn Tư Bản….Từ Tổng thống cho đến Nghị viên thành phố là những Thằng Hề, nhuộm tóc xanh, đỏ, vàng, tím ..v.v…nhảy múa trên bục nghị trường khi được đắc cử….Hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa chỉ là hai cánh cửa mở ra của độc đảng Tư Bản cho chúng nhảy múa diễn tuồng mà thôi….”


* Bộ trưởng Quốc phòng Rumfield thời còn làm dân biểu đã phỉ nhổ VNCH là “ Chính quyền miền Nam ‘VNCH’ là chính quyền bù nhìn ”….

* Tổng thống Bush Con phỉ nhổ bọn người “ ăn hại đái nát VNCH của hai triều đại Việt gian Cần lao Công giáo Diệm-Thiệu và khối giáo dân Việt gian ngu nghiện đạo chỉ có 5% dân nắm toàn bộ quyền lực Hành pháp, Tư pháp và Quốc hội VNCH, làm tay sai cho thực dân đế quốc Vatican-Mĩ ”. Thật vậy, trong cuộc phỏng vấn của ông O’Reilly ngày 28 tháng 9 năm 2004, với TT Bush đã đặt câu hỏi: ‘ The South Vietnamese didn’t fight for their freedom which is why they didn’t have it today ” ( Người miền Nam VN đã không tranh đấu cho tự do vì thế ngày nay họ không có tự do ). TT Bush đã trả lời: “ Yes ” ( Đúng )



* Giáo sư F. Murray, trường báo chí Annenberg đại học USC đã xúc phạm đến quân lực VNCH, bằng một bài báo đăng trên tờ Los Angeles Times nói rằng quân lực này nổi tiếng"hiếp dâm và ăn cướp... " ( Nhật báo Viễn Đông, thứ Năm, tháng 10 năm 2002 )


BELIEVE IT OR NOT
VÕ VĂN KIỆT ĐẶT LẠI TÊN ĐƯỜNG
VÀ TƯỢNG DE RHODES TẠI T.P. HỒ CHÍ MINH


 

Vào đầu tháng 4, năm 2005, hệ thống truyền thống báo chí, Internet và phát thanh Việt gian phản quốc hải ngoại phổ biến lá thư của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt ( có cả VOA, BBC, RFI, RFA…..những đài này do ngân sách nhà nước Mỹ-Pháp-Anh tài trợ dưới dạng NED = CIA ), nhất là đài Á Châu Tự Do (RFA) do thông ngôn Pétrus Key Nguyễn Ngọc Bích, trưởng ban chương trình tiếng Việt phổ biến đầu tiên ồn ào và liên tục cho đến khi nào tạo nổi loạn cách mạng đen do Ngài cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt móm mém 90 tuổi lãnh đạo, do Mỹ chỉ đạo?, đã thành công vài biến lọan ngụy danh cách mạng nhung, hồng, cam, vàng….một vài nước trong Liên Bang Nga,…



“ Thư cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính Trị đảng CSVN ”, vào ngày 11 tháng 1 năm 2005, nhân Đại hội Đảng lần thứ X, và được CHÚNG ngợi khen Ngài, giác ngộ tư tưởng “Quốc gia”, có nghĩa là Ngài đã và đang mạnh dạng kích động và tiến bước tham gia những phong trào phản động do những Việt gian phản quốc Hoàng Minh Chính, Trần Khuê, Nguyễn Thanh Giang…đã và đang nổi loạn trong nước. Trên hai triệu đảng viên CSVN rất khâm phục hiển lộ tâm chất cách mạng qua những đề nghị trong thư của Ngài cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt lắm lắm như là:

Đảng giữ vai trò hạt nhân trong lãnh đạo chứ không phải nhất thiết là người đứng đầu….. Đại biểu dự Đại hội có quyền(?) nêu các vấn đề mới và có quyền yêu cầu họp tiếp …” Ngài có biết là Ngài đang phá thối, xé nát nội quy, cương lĩnh đường hướng và tổ chức Đảng trên 70 năm nay không?….

….tổ chức thảo luận dân chủ và tự do tư tưởng trong các phiên họp toàn thể của Đại hội …thảo luận dân chủ và công khai trong toàn dân….Ngài LÚ rồi hay sao? đây là Đại hội đảng CSVN, chứ không phải là đại hội Quốc dân, để có tranh luận, thảo luận dân chủ, tự do tư tưởng và công khai trong toàn dân, mà mục đích toàn thể đảng viên đại biểu tham dự Đại hội nhất trí hợp thức hoá chính sách và đường hướng của Đảng mà thôi. Ngài cũng đã biết vụ Năm Cam còn mua được tướng Công an. Ngài có tiên liệu không? đế quốc Mỹ dư sức mua đa số đại biểu đảng viên phá thối đại hội Đảng trở thành họp chợ Khánh Hội và có thể mua được Thủ tướng, Quốc hội.… Ngài có trên 60 năm tuổi đảng và tham gia kháng chiến chống Pháp đánh Mỹ, Ngài thấy tổ chức Đảng như thế đó, sao Ngài không ra hồi chánh với Mỹ-Ngụy ,để Ngài thực hiện nền tự do dân chủ nô lệ và tham giaChính quyền bù nhìn miền Nam VNCH. …Cho đến khi Ngài được đảng CSVN giao quyền lực tột cùng làm Thủ tướng hai nhiệm kỳ, đứng đầu cơ quan hành chánh, Ngài không thực hiện dân chủ, trái lại Ngài phạm tội độc quyền, độc tài và áp đặt một vài cơ quan trực thuộc Ngài, bao che Võ hoàng gia dựa vào cường quyền và làm điều phi pháp…

Xin mạn phép đề nghị với Ngài, là vài tháng Ngài phải cải trang thăm dò lòng dân Sàigon đối với Ngài và Võ hoàng gia. Hy vọng Ngài sẽ ngộ để rồi kiên trì và trung thành tuyệt đối chỉ có một và chỉ một Đảng CSVN lãnh đạo Việt Nam giữ vững nền độc lập, thống nhất, chủ quyền, an ninh, hòa bình, xóa đói giảm nghèo, phát triển… và sẽ là Con Rồng Á Châu mà thôi. Và sẽ cứu Võ Hoàng Gia, đã và đang được Đảng ban phát nhiều ân sủng, đặc quyền đặc lợi có cuộc sống đế vương, thoát nạn tắm máu, tịch thâu toàn bộ ngân khố Võ hoàng gia và lưu đày vùng kinh tế mới , nếu đảng CSVN sụp đổ, kinh qua Ngụy quân, Ngụy quyền VNCH sau Đại Thắng Mùa Xuân 75 …..Ngài đứng đầu và chỉ đạo Cơ Quan Hành Chánh, thế mà Ngài lại vi phạm nguyên tắc sơ đẳng hành chánh do đâu vậy? xin đơn cử lời than cán bộ công nhân viên của Ngài như sau:

…Tôi không ngờ, Ngài Thủ tướng Võ Văn Kiệt dám làm qua mặt Đảng và nhất là Ngài vi phạm nguyên tắc sơ đẳng hành chánh, mà Ngài đứng đầu ngành Hành Chánh Nhà Nước. Tôi (NQT), chỉ ngờ thôi, có lẻ Ngài đã cấu kết ngoại bang, không thể nào tin được. Vào năm 1993?, sau nhiều lần Ngài công du Âu châu về. Hôm đó bốn anh em chúng tôi trong uỷ ban đặt tên đường thành phố Hồ Chí Minh đang làm việc, thì có anh Công Văn của Ngài Thủ tướng đưa vào mãnh giấy lộn nhỏ, và nói rằng “ Thủ tướng yêu cầu các đồng chí phải đổi tên đường liệt sĩ cách mạng Thái Văn Lung thành đường tên Alexandre De Rhodes (cố đạo gián điệp) gấp …Chúng tôi hỏi, như thế đồng chí có Văn thư hay Công văn của Thủ tướng không? để chúng tôi dễ dàng hơn…, xin lỗi các đồng chí, không có ạ! chỉ có mãnh giấy này thôi, mong các đồng chí thi hành….Chúng tôi quá ngao ngán “Ông nội chúng tôi có sống lại không dám phản đối Ngài Võ Văn Kiệt và thi hành”

Toàn dân và trên hai triệu đảng viên CSVN, trường kỳ kháng chiến và quyết tâm đánh đuổi thực dân đế quốc Pháp-Mỹ đô hộ Việt Nam trên 100 năm, cho đến khi vĩ nhân Hồ Chí Minh và đảng CSVN, thống nhất toàn dân lãnh đạo kháng chiến kiên cường và hoàn thành chiến thắng vinh quang vĩ đại nhất cho Dân tộc Việt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ngài Võ Văn Kiệt là một thành viên cấp lãnh đạo đảng CSVN, tham gia Nam Bộ Kháng Chiến đánh Pháp chống Mỹ, từ lúc còn trai trẻ nhiệt huyết, lý tưởng yêu nước, yêu dân, hy sinh tính mạng, có những lúc chém vè và ăn củ chuối, cách ly gia đình, trường kỳ kháng chiến và không biết chết lúc nào dưới đạn bom , đại pháo và mưa bom rãi thảm B52 của đế quốc Mỹ, nhất lòng đánh cho Mỹ cút Diệm-Thiệu nhào, dành thống nhất, độc lập, chủ quyền cho tổ quốc và vẻ vang dân Việt với những Chiến thắng Điện Biên 54, Điện Biên Trên Không 72, Điện Biên Đại Thắng Mùa Xuân 75, Điện Biên Tàu-Đặng 79….Ngài hy sinh cuộc sống và sinh mạng tham gia cách mạng kháng chiến đánh Pháp, chống Mỹ và bọn Việt gian Lính tập Công giáo… chính quyền Ngô Đình Diệm lê máy (chém) quần thảo khắp miền Nam… ( Võ Văn Kiệt “Tư lệnh” vùng đất thép, Tuổi trẻ online, 28/4/05). Ngài chỉ mơ ước làm sao đất nước độc lập, chủ quyền, thống nhất, sạch bóng ngoại nhân đô hộ và tận diệt Việt gian Công giáo bán nước. Ngài sẽ vui sướng với cuộc sống an bần lạc đạo nhìn thấy nhân dân thoát xiềng nô lệ, có cuộc sống thanh bình an lạc và hạnh phúc. Cho nên, Ngài tham gia kháng chiến với tấm lòng hy sinh quên mình vì nhân dân sống khổ đau ách đô hộ thực dân đế quốc Pháp-Mỹ, không có mơ tưởng dự phóng sau khi kháng chiến thành công, Ngài sẽ có quyền lực tột cùng như là: Thành ủy TP.HCM và Thủ Tướng lãnh đạo Việt Nam….

Đọc cuốn Mậu Thân Sàigon, do nhà Xuất Bản Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh – 1988, bài viết Nhật Ký Mậu Thân ( tr36 – tr 44 ) của Trần Bạch Đằng chỉ huy phócủaNgài, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương II, đặc trách mũi tiến công Tây Nam Sàigon với những mục tiêu trong kế hoặch là: Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Bộ Tư lệnh hải quân, Tổng nha cảnh sát, kho xăng Nhà Bè và một phần sân bay Tân Sơn Nhất.(tr 5)

Đợt I, Mậu Thân Sàigon 68, cho dù không thành công Mỹ cút Thiệu-Kỳ nhào, nhưng là khởi điểm của Đại Thắng Mùa Xuân 75, là tạo cho đế quốc Mỹ hoảng sợ và cảm nhận chiến bại tháo chạy, đưa đến thống tướng Westmoreland tư lệnh chiến trường Việt Nam bị bãi chức và Tổng thống Johnson không ra tranh cử nhiệm kỳ II.

Đợt I, từ ngày mồng một Tết (30-1-68), cho đến ngày mông bảy Tết (5-2-68)…lực lượng vũ trang trong nội thành rút ra ven đô….mãi hằng tuần lễ sau mới cơ bản ra khỏi thành phố….dẫn theo vợ chồng Luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Nguyễn Văn Kiệt, anh Lê Hiếu Đằng …Cái khâu cuối cùng quan trọng nhất Nam Bến Lức, xã Bình Chánh, là gặp linh mục Nguyễn Ngọc Lan, giáo sư Châu Tâm Luân ( CG), Cao Hoài Hà (CG), nhà văn Thiếu Sơn (CG), các giáo sư Nguyễn Văn Chi (CG), Lê Văn Chí (CG)...chuyển toàn bộ sở chỉ huy II “chém vè” an toàn về cục R ( tr 36 – tr 44 ).

Chính những ông linh mục Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá Cần,… Nguyễn Đình Đầu, dân biểu Nguyễn Văn Binh ( cháu của tên Đại Việt Gian Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình?* ) ….và ngay cả Tổng Tự Vệ Bùi Chu-Phát Diệm, linh mục Việt gian Hoàng Quỳnh…cũng tham gia cách mạng, đi vào mật khu, chiến khu, Lá Mặt Lá Trái, để cứu nguyGiáo hội Công Giáo Việt Gian giờ 25 và chui sâu trèo cao sau này, mà CHÚNG biết Mỹ chiến bại tháo chạy đã tạo vài cơ sở hoạt động nội thành, và dưỡng thương,* còn nếu Mỹ bỏ ý định thua cuộc thì những cơ sở, kể cả nhà thờ cho trú quân, dưỡng thương, quân báo nội thành …sẽ là những cái bẫy bắt tóm gọn VC cho Mỹ-Ngụy, mà ngày nào năm xưa linh mục Cao Văn Luận quân ủy đảng Cần Lao Công Giáo….và một số linh mục Lá Mặt Lá Trái biết chế độ Diệm suy tàn, khổ nhục kế phản Ngô và tham gia đấu tranh Phật giáo 63, chống tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm cứu nguy Giáo hội, để xâm nhập chui sâu trèo cao vào Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng 63, cuối cùng đã lật được thế cờ sống lại chế độ Cần Lao Công Giáo Diệm Không Diệm.


Ngài biết rất rõ về Giáo Hội Công Giáo Việt Gian là luôn luôn hợp tác, tay sai thực dân đế quốc Pháp-Mỹ và phản quốc, CHÚNG chỉ có một và chỉ một tổ quốc là La Mã (Vatican). Thời niên thiếu, Ngài đã nhìn thấy đoàn quân Lê Dương thực dân Pháp và đoàn Lính Tập Công Giáo Việt Gian, tàn hại nhân dân trong những lần CHÚNG hành quân càn quét, lùng và diệt, đã đánh động dòng máu Đinh, Lê, Lý, Trần ….Văn Thân Cần Vương bùng sôi trong huyết quản chàng trai Nam bộ Vĩnh Long, tham gia trường kỳ kháng chiến và Tập kết ( những kháng chiến quân Nam bộ, tập kết ra Bắc, được Hồ Chí Minh và đảng CSVN, dành cho có cuộc sống ưu đải ). Thề quyết hy sinh đánh Pháp, chống Mỹ và diệt Việt gian Lính tập Công giáo …dày xéo quê hương.


Một vài tháng trước ngày 30 tháng 4 năm 2005, toàn dân Việt trong nước và hải ngoại nô nức chuẩn bị đón mừng kỷ niệm 30 năm Đại Thắng Mùa Xuân 75. Trong khi đó những thế lực phản động Việt gian hải ngoại, nhất là tại Mỹ, dưới sự chỉ đạo của tập đoàn Mafia Việt gian Công giáo Suy Tàn ( đón đọc Sự Suy Thoái Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại Và Trong Nước, ĐDTB ) được sự ủy nhiệm của thực dân đế quốc bá quyền xâm lược Mỹ-Pháp-Anh-Úc cố tạo khấy động và kích động nổi loạn cách mạng đen Việt Nam, qua truyền thông báo chí, Internet và phát thanh, trong đó có VOA, BBC, RFI và RFI…do ngân sách nhà nước Mỹ-Anh-Pháp-Úc tài trợ dưới dạng NED = CIA, cũng tổ chức tưởng niệm 30 năm Chiến Bại Tháo Chạy Theo Đế Quốc gọi là Quốc Hận Mất Nước ( nước nhà thì độc lập, thống nhất, chủ quyền và sạch bóng ngoại nhân đô hộ….)

Trong suốt 30 năm Việt gian Công giáo cam chịu khổ nhục kế để chui sâu trèo cao mà ngày nay có thể CHÚNG móc nối được tổ chức Ngài Võ Văn Kiệt và tạo dựng được Tạ Tốn Võ Văn Kiệt? mà trong tháng 4/2005, Ngài không ngần ngại thăm dò đảng CSVN, sẽ có biện pháp gì đối với những phát biểu của Ngài qua một số bài trên các trang web, mà trước đây đàn em của Ngài, ông Lê Văn Nuôi là thành viên Công Giáo Tiến Hành*, chui sâu trèo cao đến chức Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, trên tờ báo Xuân Tuổi Trẻ năm 2001, đã thăm dò thử lửa nội lực đảng CSVN có còn như trong thời kháng chiến chống thực dân đế quốc Pháp-Mỹ không? bằng cách diễn tuồng thăm dò dư luận ( Poll ) để xóa hào quang vĩ nhân nhân loại Hồ Chí Minh (39%), không được dân Việt ngưỡng mộ bằng ma đạo siêu tư bản Bill Gate (89%) bị Âu Châu bắt bồi thường gần 2 tỷ dollars về tội tranh thương bất chính.

Báo Tuổi Trẻ & Online ( cơ quan chính thức văn hóa tư tưởng của Ngài Võ Văn Kiệt? ), tuần báo Quốc tế và bức thư “ Thư cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính Trị đảng CSVN ”, ngày 11 tháng1 năm 2005, đăng trên trang web đài Á Châu Tự Do ( RFA ), ngày 4 tháng 3 năm 2005 ( 2005-03-04 ), các tờ báo đảng Việt gian Công giáo và một số tờ báo LÁ CẢI sống bằng nghề chống cộng và một số trang web … Nội dung bức thư có vài đoạn phản đông cũng được ghi lại trên một số bài viết như là: Tuổi 30 và Những Đòi Hỏi Mới Của Thời Cuộc được phân tích dưới đây.

Xin Ngài lượng thứ, có những đôi dòng cảm nhận về Ngài giống giống một nhân vật trong bộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung đó là

Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn là một nhân tài tuyệt thế võ công trong truyện kiếm hiệp Cô Gái Đồ Long của Kim Dung, tự phế bỏ tuyệt thế võ công,trốn ở ốc đảo và chờ chết cho những ai tham vọng cướp đoạt Đồ Long Đao. Cũng như Ngài là Bạch Mao Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, có tấm lòng kiên trì và tài trí đấu tranh cách mạng đánh Pháp, chống Mỹ, diệt Việt gian Công giáo và một thời nắm quyền lực tột cùng lãnh đạo Việt Nam và Võ hoàng gia có cuộc sống đế vương. Thế mà Ngài lại phủ nhận thành quả hy sinh cách mạng của Ngài, là Ngài mong muốn khép lại quá khứ và ca ngợi Việt gian, tay sai, bù nhìn VNCH* ….sống trong chế độ củ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài là những người yêu nước …

Đã được Thượng tướng Lê Ngọc Hiền phủ bác “ ….Nhưng như thế không có nghĩa là ta lãng quên lịch sử, lãng quên tất cả những gì đã diễn ra, lãng quên những người đã hy sinh xương máu làm nên chiến thắng vĩ đại để có cuộc sống hôm nay…Lịch sử có giá trị khách quan , bền vững, có sự công bằng của nó. Không ai, không thế lực nào có thể xuyên tạc, bóp méo.” bài trả lời phỏng vấn từ tuần báo Quốc Tế của Ngài Võ Văn Kiệt “ Những Đòi Hỏi Mới Của Thời Cuộc ”…và “ TUỔI 30”

Ngài mơ tưởng rằng với số tuổi gần 90 tuổi, Ngài hợp tác với bọn Việt gian và đế quốc Mỹ, có cơ may tạo cách mạng đen, sẽ được CHÚNG cho làm Tổng thống và Võ hoàng gia vẫn còn quyền lực để làm những điều phi pháp như hiện nay. Ngài có LÚ không? Ngài đã viết tội ác tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm là Thánh tổ Việt gian Công giáo như thế này “… chính quyền Ngô Đình Diệm lê máy (chém) quần thảo khắp miềnNam…” ( Võ Văn Kiệt “Tư lệnh” vùng đất thép, Tuổi trẻ online, 28/4/05). CHÚNG đã dành cho Ngài và Võ hoàng gia một vé tàu lên thiên đàng xử dị giáo giàn hỏa và bó đuốc trong tình yêu thương của Chúa Nhân Lành nếu nhà nước Việt Nam sụp đỗ, không nhân đạo như đảng và nhà nước cách mạng, kinh qua Ngụy quân Ngụy quyền sau ngày 30/4/1975 ( trích kể một vài câu chuyện của một số ngụy quân hồ hởi kể công thành quả đóng góp cách mạng diễn tuồng như Ngài, đã bị xử bắn tại chợ ngày 30/4/75, ở phần ghi chú ).

Xin thưa cùng Ngài, những gì Ngài và Võ hoàng gia đã và đang làm đều được ghi báo từng chi tiết ở Bộ Công An. Nhưng với luật chơi và công lao cách mạng của Ngài, Ngài và Võ hoàng gia vẫn đựợc đảng và nhà nước ưu đãi đặc quyền đặc lợi có cuộc sống đế vương như hiện nay cho dù vài năm nữa Ngài được CHÚA gọi về, mong Ngài đừng “sợ” mà cách đây mấy năm, khi hay tin Ngài Lê Đức Anh bị tai biến mạch máu não, Võ hoàng hậu lo âu đã vội đưa Ngài vào bệnh viện khám tổng quát…với điều kiện kinh doanh đầu tư chân chính và tuân hành pháp luật như mọi công dân Việt đang sinh sống tại Việt Nam ….

Bây giờ, xin mạn phép phân tích những đoạn Ngài trả lời phỏng vấn tư tuần báo Quốc Tế ( 31/3/05 ) “ Những Đòi Hỏi Đổi Mới Của Thời Cuộc ” và bài viết “ Tuổi 30 ”.

Suy nghỉ của tôi…làm sao để không còn những nhà lãnh đạo phải trưởng thành từ chiến tranh…Chiến tranh đã qua cách đây ba chục năm…chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp….có nghĩa là tôi mong chiến tranh thật sự thuộc về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại

Thật lòng không Ngài? lúc Ngài 70 tuổi, lên làm Thủ tướng là nhà lãnh đạo trưởng thành từ chiến tranh với quyền lực tột cùng, sao Ngài không từ nhiệm chức ấy giao cho thế hệ 25 - 30 tuổi, chẳng hạn như đàn em thân tín Lê Văn Nuôi, nghe đâu có đấu đá và Ngài đại thắng. Cở Lê Văn Nuôi hay ít tuổi hơn không trưởng thành từ chiến tranh thì làm sao có đủ bản lĩnh đối đầu và đánh bại đế quốc Mỹ, cuộc chiến Việt Nam II từ năm 1976 đến 1996. Hiện nay cho đến năm 2025, thành phần lãnh đạo Việt Nam vẫn phải trưởng thành từ chiến tranh chống Mỹ cứu nước, và cần học những kinh nghiệm lãnh đạo trong thờiđổi mới bền vững không có tăng tốc, ( dục tốc bất đạt ), kinh qua Liên sô của ông Ngốc-Mà-Chết ( Góoc Ba Chóp ) từ những lão thành cách mạng như Ngài, thì hy vọng đánh bại ý đồ đế quốc Mỹ xâm lăng Việt Nam III bởi Diễn Biến Hòa Bình sẽ tạo nổi loạn ngụy danh cách mạng đen…

Trong lúc Ngài: “…Nói như thế có nghĩa là tôi mong chiến tranh thật sự thuộc về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại….”. Thưa Ngài, quá khứ mà Ngài đã tham dự là một quá khứ vĩ đại nhất của thế kỷ 20, vẻ vang dân Việt, quân sử thế giới và lịch sử thế giới của các quốc gia trên thế giới kể cả đế quốc Mỹ cũng bái phục dân Việt, đã đánh bại đế quốc Mỹ hùng mạnh nhất địa cầu này, bởi sức người, ý chí quyết tâm của toàn dân với nắm cơm vắc và muối đã làm nên trang sử hào hùng nhất của nhân loại đã được Tướng John Abizaid, Tư lệnh Mỹ ở Iraq, sau khi đi thị sát Iraq ba ngày đã tuyên bố:“…Ở Việt Nam, sự nổi dậy mang tính chất toàn quốc. Đối phương mô tả đó là cuộc tổng nổi dậy và quả thật là thế….BBC, ngày 15/2/05 ” .



Trong khi đó suốt 30 năm, ở hải ngoại Việt gian Công giáo chỉ có “cái mõm C” ồn ào làm nghề chống cộng nào là giải thể CSVN tức khắc và tận diệt người đảng viên cuối cùng….và hà hiếp đa số Việt kiều thầm lặng muốn yên thân để lo cuộc sống trả BILLS…với bao nhiêu khổ đau đang chờ họ nào là nhà tù* ( ở Mỹ làm cái gì cũng có thể vào tù bạn ạ! ), trộm cướp, đĩ điếm và Công An Tri ….tại Mỹ. Một quá khứ dơ dáy, bỉ ổi, vô liêm sĩ và phản bội tổ quốc làm tay sai Việt gian, Lính tập Công giáo và chính quyền bù nhìn VNCH. CHÚNG không muốn khép lại quá khứ dơ bẩn ấy, mà lại còn to mồm “C” vinh danh chính quyền bù nhìn VNCH* và QĐVNCH anh hùng thiện chiến đánh đâu thắng đó, chiến thắng vĩ đại cuối cùng của CHÚNG là vất bỏ quân phục mình trần,vũ khí, đơn vị và bám vào phương tiện quan thầy chiến bại đế quốc Mỹ cùng tháo chạy , đã được Giáo sư F. Murray, trường báo chí Annenberg đại học USC đã xúc phạm đến quân lực VNCH của CHÚNG bằng một bài báo đăng trên tờ Los Angeles Times nói rằng quân lực này nổi tiếng "hiếp dâm và ăn cướp... " ( Nhật báo Viễn Đông, thứ Năm, tháng 10 năm 2002 )

Ngài Võ Văn Kiệt, “ thiền sư ngộ đạo lục hòa” đáng kính yêu và tôn quý, Ngài đã kêu gọi một cộng đồng hòa hợp…”khép lại” như sau: “…..Sau 30 năm qua, tôi nghỉ mọi người VN chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và VN sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hòa hợp” …Ngài nói thật lòng ư? hay là Ngài ngây thơ chính trị hay là Ngài âm mưu gì đây ru ngủ nhân dân mất đề cao cảnh giác âm mưu thực dân đế quốc da trắng Mỹ-Âu Châu đã và đang xủ dụng Việt gian Công giáo, Việt gian Tin lành ( Tin Ác ) và một số sư Việt gian CCCĐ* Huyền Quang, Quảng Độ….bám vào danh tướng của cái xác ma GHPGVNTN I&II, qua Diễn Biến Hòa Bình mà Ngài đã đấu trí hay móc nối tạo phản loạn Tây Nguyên, trong hai nhiệm kỳ Thủ tướng với những biến dộng nỗi loạn nhà thờ Vinh Sơn, dòng Đồng Công Thủ Đức tại TP. HCM, Trà Cổ ở Bà Rịa, Việt Bắc của tên Đèo Văn Long, nỗi lên đòi tự trị thành lập quốc gia lấy Tin lành giáo làm quốc giáo vào năm 1999 và Tây Nguyên vào những năm 2001 – 2004,

Không biết Ngài dựa vào đâu? Ngài xác quyết: “….không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa,….”. Hãy nhìn những ông bí thư thứ nhất của tòa Lãnh sự và Đại sứ quán thực dân đế quốc bá quyền Mỹ vẫn mơ màng như là quan Thái thú miền Nam VN ngày nào năm xưa, đứng chung với những thân nhân phạm nhân trước tòa án tuyên xử những tên phạm nhân đại Việt gian phản quốc Hoàng Minh Chính, Nguyễn Đăng Quế, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê, Phạm Hồng Sơn, Phạm Quế Dương, Lê Chí Quang, Dương Thu Hương, Nguyễn Vũ Bình, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự…đi thăm những phạm nhân Việt gian Quảng Độ, Huyền Quang, Nguyễn Văn Lý…đang thụ án quản thúc tại gia và đi thăm quan nổi loạn Tây Nguyên …tạo cho những phạm nhân Việt gian mơ tưởng rằng được Mỹ nhận làm tay sai Việt gian…đó là Diễn Biến Hòa Bình, xía vào nội trị Việt Nam.Đã được cái ông thông ngôn Petrús Key Nguyễn Ngọc Bích đài Á Châu Tự Do (RFA) nhận trợ cấp lương trên $75,000/a year, từ ngân sách NED = CIA, chuyên nghề móc nối phỏng vấn những tên đại Việt gian phạm nhân này, tên khùng sĩ đại Việt gian Nguyễn Gia Kiểng, tên Việt gian đào tỵ Bất Tín Bùi Tín và anh của Việt gian Nguyễn Đăng Quế …

Nhà nước và Đảng đã ban phát cho lũ Việt gian tháo chạy theo đế quốc Mỹ bằng nhiều cách. Trong giao thời thống nhất 30 tháng 4 năm 1975, Ngụy quân và Ngụy quyền con đường đào thoát là bỏ đơn vi, cởi bỏ quân phục, vũ khí….mình trần chỉ còn quần lót theo quan thầy Mỹ tháo chạy. Đến giai đoạn ổn định an ninh hoàn toàn đất nước với chiến thắng VIỆT NAM II, từ năm 1976 đến 1996, tận diệt toàn bộ lực lượng Mỹ gài lại bởichiến lược kháng chiến giả và diễn đàn dân chủ của Steven Young vào năm 1990 tại TP. Hồ Chí Minh, tạo Vượt Biên và tống xuất người Tàu về Trung quốc vào thập niên 80 và cho ra đi có trật tự di dân kinh tế HO & ODP. Cuối cùng Nhà nước và Đảng đặc xá không còn dùng từ Ngụy quân và Ngụy Quyền, mà là khúc ruột ngàn dặm hay kiều bàoViệt nước ngoài và được về thăm Việt Nam, để chữa trị bênh tâm thần điên điên khùng khùng…..

Đảng và nhà nước tạo không khí hòa hợp và khoan dung như thế đó. Nhưng CHÚNG vẫn mơ tưởng được đế quốc Mỹ nhận làm tay sai Việt gian bằng cách chống Cộng bằng mõm “C” là giải thể đảng CSVN tức khắc từ gần 30 năm nay, thề quyết giết sạch đảng viên CSVN cuối cùng và nhất là Ngài Sáu Dân và Võ hoàng gia được CHÚNG dự phóng rất ưu đãi hơn 20 năm, đưa vào căn nhà thiên đàng chứa toàn loại kiến ăn thịt người thuộc rừng nhiệt đới ( Amazon ), vui hưởng những năm tháng còn lại, khi đảng CSVN sụp đổ và Việt Nam bị đế quốc Mỹ-Vatican tái đô hộ do Ngài mơ tưởng phản quốc và phản đảng sẽ được trở thành Tổng thống móm mém ảo vọng……

Đại Thắng Mùa Xuân 75, chiến thắng vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ 20 và vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng dành độc lập, thống nhất đất nước, đánh đuổi ngoại xâm...hay những cuộc cách mạng ….của các quốc gia trên thế giới là phải trả giá cho chiến thắng bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát (trên 3 triệu dân quân cách mạng và dân, vài trăm ngàn Ngụy quân và Ngụy Quyền và hàng triệu dân quân và dân bị thương tật bởi bom đạn và chất độc da cam, cùng với trên 58 ngàn quân xâm lược Mỹ thương vong, trên 100 ngàn cựu quân nhân Mỹ tự tử bởi hội chứng chiến tranh Việt Nam và vài trăm ngàn thương phế binh.....). Chiến thắng đó là niềm vui đại khối dân tộc Việt, tại sao Ngài lại bảo rằng “…nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát…” , chỉ vì một thiểu số Việt gian trong đó có họ hàng của Ngài, buồn đau và nhiều mất mát quyền lợi và quyền lực làm Việt gian cho thực dân dân đế quốc Mỹ-Pháp mà thôi. Không những thế CHÚNG vẫn còn mơ tưởng thực dân đế quốc Mỹ, tiếp tục cho làm Việt gian qua Diễn Biến Hòa Bình từ ngày đất nước thống nhất.

Hai nhiệm kỳ Thủ tướng của Ngài cho đến hiện nay. Nhà nước và đảng CSVN luôn luôn mở rộng khoan dung, đặc xá và xoa dịu vết thương đau tội đồ Việt gian của CHÚNG, nhưng CHÚNG không hối cải, mà lại tiếp tục Việt gian đánh phá tổ quốc làm vết thương tiếp tục rỉ máu qua Diễn Biến Hòa Bình để đế quốc Mỹ, xía vào nội trị Việt Nam và áp lực ngoại thương…mà theo Ngài, bây giờ việc cần làm tiếp là gì? như sau:“ …Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này,vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi* cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục rỉ máu”

Ngài đã nghỉ ra phương án để lành vết thương này phải có sự tham gia của mọi người Việt?. Sao Ngài không dùng từ hòa hợp hòa giải và đa nguyên đa đảng của tên đại Việt gian Nguyễn Gia Kiểng …mà chỉ nói “ khoan dung và hòa hợp” kỳ thế?. Chỉ có toàn dân và một chỉ một đảng CSVN nắm quyền lãnh đạo đất nước mà thôi. Ngài có biết một số di dân Việt gian hải ngoại là khối tạp nhạp đa nguyên bầy nhầy và dân chủ Mafia, chỉ có cái MÕM “C” , mà lại luôn luôn quyết giải thể và tàn sát đảng CSVN, và không bao giờ không bao giờ hòa hợp hòa giải, thế mà Ngài: “ Đây là một vấn đề lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chúng ta tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hòa hợp. Sau 30-4-75, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sàigon, vừa xuống thang máy bay đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc nói: ‘ Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai’. Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người VN cảm nhận được điều đó.”



Trước những tháng ngày Đại Thắng Mùa Xuân 75, Ngài là thành phần lãnh đạo Xứ Ủy Nam Kỳ, trong đó có Quân khu 9. Ngài biết rất rõ quân khu 9 đã binh vận Tư lệnh Vùng IV Ngụy Quân VNCH Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam như thế nào?.và Ngài cũng đã biết Việt gian Công giáo đã được thực dân Pháp bật đèn cho biết Pháp sẽ trở lại VN thay Mỹ bỏ chạy và được Trung Quốc liên kết hợp tác không?...

Ngài cũng biết rõ chế độ bù nhìn miền Nam VNCH là chế độ Cần Lao Công Giáo Diệm Không Diệm, với số giáo dân vào khoảng 7% dân số miền Nam, ước độ 1.260.000 giáo dân ( một triệu hai trăm sáu mươi ngàn ) của khoảng 18 triệu dân miền Nam vào ngày 30 – 4- 1975, trong khi đó số tín đồ Cao Đài trên 2 triệu , và Phật Giáo Hòa Hảo trên 2 triệu là những chiến lũy thành đồng vách sắt chống lại truyền bá đạo Việt gian Công giáo vào miền Nam ( Đông và Tây Nam Bộ). Thế mà, Đô trưởng Sàigon là bác sĩ Văn Văn Của, em rễ của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan phóng đại số giáo dân vào thời tướng Kỳ nắm quyền lực trước Mậu Thân 68, vào khoảng 2 triệu giáo dân. ( có lẻ bác sĩ Văn Văn Của gom lai số giáo dân miền Bắc cho cả nước thì có thể tin được )

Với số giáo dân chừng ấy, dưới 1,3 triệu giáo dân ( suốt 21 năm từ 1954 – 1975 ), mà nắm 2/3 Quốc hội và chính quyền bù nhìn VNCH, thao túng miền Nam, do Mỹ ủy nhiệm làm tay sai, phản quốc để chiếm đoạt tài sản miền Nam gởi về nhà nước Mafia Vatican.

Trước đó 2/3 Dân biểu và Nghị sĩ Việt gian Công giáo bù nhìn VNCH, chống và ngăn chận Đại tướng Dương Văn Minh nắm lại quyền lực nếu có bầu cử dân chủ, mà tuyệt đại đa số dân miền Nam từ Bến Hải đến Cà Mâu rất kính mến và ủng hộ.

Thế là toàn bộ 2/3 Dân biểu và Nghị sĩ này, chuyển ngãm đứng đàng sau tướng Minh theo lệnh quan thầy Pháp,Lá Mặt Lá Trái và Chui Sâu Trèo Cao do thủ lĩnh Chủ tịch Công giáo Tiến Hành, chủ tịch Hạ Viện VNCH đại Việt gian Nguyễn Văn Huyền lăng xăng đứng phó tổng thống, cùng số Việt gian cài lại ( Công Giáo Tiến Hành trong đó có ông Lê Văn Nuôi ) gồm có: Ngô Công Đức, Lý Qúy Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Binh, Nguyễn Đình Đầu,….bao vây chung quanh tướng Minh, hy vọng có biến chuyển mới theo kế hoặch Pháp vạch sẵn. Nhưng đã bị tướng Minh nhìn rõ thực chất của đám tàn quân VNCH và kinh qua bản chất Việt gian Công giáo sau Cách Mạng 63, tướng Minh đã tâm sự nỗi lòng với tướng Nguyễn Khoa Nam như sau:

…Đất nước chúng ta đã hơn 1000 năm đô hộ giặc Tàu, và 100 năm đô hộ giặc Tây…. ông cha ta đã trường kỳ kháng chiến dành độc lập chủ quyền VN và kiên cường bảo vệ tổ quốc mà bao lần Tàu xâm lăng và chiến bại bởi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần và Nguyễn Quang Trung…. thời Cận đại thì có Văn Thân Cần Vương, cho đến khi Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân kiên cường trường kỳ kháng chiến đánh thắng Pháp , đáng lý thống nhất đất nước vào năm 1954, nhưng Mỹ nhảy vào thay (đá) Pháp thống trị miền Nam ( hợp ý với Trung Quốc là không muốn VN thống nhất ), để thử nghiệm chủ thuyết Chiến Tranh Lạnh và trút đổ vũ khí tồn kho thế chiến II, trên đầu dân Việt, kéo dài gần 21 năm, giết hại trên 3 triệu dân Việt cùng với di họa Chất Độc Da Cam. Nhưng cuối cùng Mỹ đã chiến bại mà theo tôi được biết Mỹ có ý định bỏ chạy từ khi căn cứ Khe Sanh sống dưới, trên 10 ngàn đạn mưa pháo hằng ngày, suốt trên một tháng, cùng theo đó Tổng Công Kích Mậu Thân 68….và có những ngày, có vài trăm binh sĩ Mỹ tử thương…có lẻ anh Nam cũng biết những người bạn thân và sĩ quan đi tu nghiệp quân sự các phân ngành tại Mỹ đều có được số bạn Mỹ học cùng khóa khuyên ở lại Mỹ, đừng về Việt Nam…mong anh Nam là đất nước cơ may ngàn năm mới có ngày thống nhất… dân Nam và tài sản thoát nạn mưa pháo….toàn bộ QĐVNCH đã tan hàng từ lâu…không những thế số tướng lãnh hưu trí được tôi kêu gọi trở lại nắm quyền thay số tướng tá bỏ chạy, thì họ lại lợi dụng chức vụ tạm thời để bỏ chạy mà thôi ….Nếu chúng ta vội tin Pháp và Trung Quốc như kế hoặch đã đinh…và giữ được miền Nam thì đất nước cũng bị lệ thuộc…. và nhất là Trung Quốc có chịu rút quân về không? sau khi chiếm Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc…chắc chắn chúng ở lại…..thế thì đất nước lại bị đô hộ giặc Tàu-Tây có thể trên 1000 năm, bao lâu nữa con cháu ta dành lại độc lập, chủ quyền Việt Nam, anh Nam?...chúng ta sẽ có đại tội với tổ quốc và dân tộc … con cháu chúng ta đã bị đồng hóa thành dân Tàu?....Chúng ta chờ xem đất nước thống nhất, hy vong nhà nước CHXHCNVN và đảng CSVN đối xử dân miền Nam chúng ta không đến nỗi gì...nhưng dù sao còn hơn bị đô hộ Tàu-Tây phải không anh Nam?... mong anh nhất trí cùng tôi là anh sẽ ra lệnh quân đoàn anh buông súng, tan hàng về quê, mà trong vòng vài ngày nữa tôi sẽ tuyên bố đầu hàng để cứu dân, binh sĩ và mừng đất nước thống nhất….tôi hiểu tâm trạng và nỗi lòng của anh … nhưng vì quyền lợi tối thượng dân tộc…binh đoàn chúng ta đã tan hàng và sẽ chiến bại….. sức chúng ta chẳng còn có gì ngay cả siêu cường hùng mạnh số một cũng chiến bại và tháo chạy….” ( trích đoạn tài liệu đặc biệt của anh K trao cho vào năm 2004, tại T.P. Hồ Chí Minh, hy vọng một số dự kiện tài liệu này sẽ có trong cuốn Hồi Ký Đại Tướng Dương Văn Minh )

Để thẩm định mức độ chuẩn xác của tài liệu anh K. Thì đây là phần ghi tóm lược chương trình đặc biệt Phỏng Vấn Hội Thoại nhân ngày Quốc Hận Mất Nước 30 – 4 – 75 ( nước nhà thống nhất, độc lập, chủ quyền không bị ngoại bang thống trị và đô hộ Tàu-Nga-Pháp Mỹ…thế mà CHÚNG điên khùng gọi là mất nước ) của đài Sàigon Houston do chủ đài ông Dương Phục vào ngày thứ hai 25 tháng 4 năm 2005, diễn giả phỏng vấn hôm nay là chuẩn tướng Mạch Vân Trường cho biết như sau:

….chuẩn tướng Mạch Vân Trường tư lệnh sư đoàn 21, sau những trận đụng độ một số sư đoàn thiện chiến Bắc Việt…. đã rút về tử thủ căn cứ không quân Trà Nóc…quân số còn lại vào khoảng trên 10 ngàn hay 12 ngàn binh sĩ….đang bay thị xác mặt trận ….thì được thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam điện khẩn gọi về Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV, nhận lệnh….tướng Trường bay vội về Bộ Tư Lệnh…gặp chuẩn tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó qua vài điều tâm sự… đi lên ngay văn phòng tướng Nam… được thiếu tướng gọi về không biết tôi phải làm gì đây?...sau vài phút trao đổi về tình hình đơn vị và tinh thần sĩ quan và binh sĩ sư đoàn 21…tinh thần chiến đấu cao, hiện nay bảo vệ căn cứ không quân Trà Nóc quyết tử chiến với Cộng quân….sau đôi lời tâm sự và với nỗi đau khổ trên khuôn mặt uất ức và chán nản….thiếu tướng Nam có đôi lời nhắn nhủ với tôi là khi trở lại sư đoàn, yêu cầu tất cả buông súng, tan hàng trở về nhà lo cuộc sống mới….tướng Trường vội hỏi tướng Nam, như thế kế hoặch như đã định chúng ta hủy bỏ hay sao thiếu tướng?....chúng ta đã có Pháp trợ lực tư thủ miền Tây vững mạnh…sau đó kéo về giải cứu thủ đô Sàigon…thêm vào Trung Quốc sẽ kéo đại quân đánh chiếm vào Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc, buột đại quân CSBV phải rút về chống đỡ ….và cuối cùng QĐVNCH chúng ta chiếm lai từ Cà Mâu đến Bến Hải, diệt tan quân CSBV, coi như chúng ta đại thắng thiếu tướng ạ!....anh cứ nghe theo lệnh tôi mà thi hành buông súng, tan hàng về quê…một số sư đoàn vùng IV bị xóa sổ và chỉ còn là những đám tàn quân, chỉ có sư đoàn anh còn tạm đủ quân số cố thủ bao lâu….và nhất là dân chúng sẽ như thế nào mà anh đã thị sát dân tình Cần thơ đã rõ lắm thật tội nghiệp…còn kế hoặch như chúng ta đã dự định không thực hiện được ….anh nhớ rằng tổ tiên ta đã hy sinh hơn 1000 năm trường kỳ kháng chiến đánh đuổi Tàu đô hộ, để có đất nước VN ngày hôm nay…..với kế hoặch này chỉ có lợi cho Tàu chiếm VN và không rút quân về thì chúng ta mang tội với tổ quốc và dân tộc… và đến khi nào con cháu chúng ta đánh đuổi Tàu ra khỏi đất nước đây, vài ngàn năm sau ư!....mong anh ra lệnh buông súng, tan hàng về quê… chừng một lúc sau thì có một số vị đại diện tham mưu tư lệnh quân khu 9 đến gặp thiếu tướng Nam, để cùng hợp tác thi hành kế hoặch buông súng, tan hàng về quê…thiếu tướng Nam có đề nghị bên kia vì trời tối, tạm thời án binh bất động để chờ sáng mai thực hiện ….thưa thiếu tướng nếu CS gian manh thì sao? ...thì chuẩn tướng làm theo ý chuẩn tướng ….thêm vào đó thân hào nhân sĩ thị xã Cần Thơ cũng đã đến than khóc và quỳ lại thiếu tướng Nam cứu dân thoát nạn mưa pháo vài ngày trước đây…. Sáng hôm sau tôi đến từ giả thiếu tướng Nam… tôi thấy thiếu tướng Nam gục chết….tôi chạy qua phòng tướng Lê Văn Hưng cũng gục chết với liều thuốc độc cực mạnh….” ( mong ông Dương Phục ghi lại và phổ biến khúc đoạn về kế hoặch Pháp và Trung Quốc móc nối và tướng Nam chỉ chọn con đường buông súng và tan hàng về quê …., đã làm ông Dương Phục kinh ngạc biến cố lịch sử này và bái phục trí nhớ tướng Trường quá tốt )


Thật ra Đại tướng Minh cũng muốn Quân đội VNCH đo sức với đại quân thiện chiến CSBV, bằng cách rút về tử thủ miền Tây như kế hoặch đã định. Nhưng tướng Minh nhận được nhiều tin Quân báo và Tình báo gởi về liên tục là một số sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn …kể cả hai sư đoàn thiện chiến Dù và Thủy Quân Lục Chiến từ từ chiến bại, bỏ chạy tan hàng, cướp của giết người, hảm hiếp, vất bỏ quân phục vũ khí và cướp tàu dân ở các bến cảng trốn chạy ra hạm đội 7…. chỉ còn lại một số tiểu đoàn hay đại đội không rõ tình hình vẫn còn tử thủ chiến đấu trong tuyệt vọng. Như trên, một số tướng tá hưu trí được phục chức và trao binh quyền thì CHÚNG lợi dụng phương tiện suy tàn của quân đội để gia đình chúng trốn chạy, đáng ghê tởm là ông tướng Vĩnh Lộc quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QĐVNCH.

Trong tài liệu này, tướng Minh cho biết thêm như sau: “…Tôi cảm nhận hầu như khối Công giáo bao vây quanh tôi chặt chẻ dưới sự chỉ đạo của tòa Tổng Giám Mục, mà những năm tháng trước đây quyết ngăn chận và quyết diệt tôi trở lại quyền lực nếu có bầu cử trong sạch và dân chủ…..không những thế những tín hiệu của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, cho biết HĐGMCGVN và giáo dân quyết tâm ủng hộ Đại tướng về miền Tây, tái phối trí và tử thủ như kế hoặch đã định…..Pháp-Trung Quốc đã từng thương nghị với Đại tướng…giáo dân chúng tôi đã được Ngài Merillon đại sứ Pháp và Ngài Khâm sứ, khuyên bảo hợp tác với Đại tướng và tạo hỗn loạn sau khi Sàigon thất thủ….

….Sự tử thủ như kế hoặch đã định chỉ làm cho dân chúng miền Nam, khổ đau trong chiến loạn, nhất là thủ đô Sàigon và Cần Thơ….sẽ ngập trong biển máu , mà trước đây thân hào nhân sĩ Cần Thơ đã quỳ lạy van xin thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam buông súng tan hàng về quê….đại tội với tổ quốc và dân tộc rước thực dân Pháp trở lại đô hộ Việt Nam và Công giáo Việt Nam sẽ tái lập cai trị độc hại hơn Công giáo Diệm-Thiệu tại miền Nam….miền Bắc thì Trung Quốc sẽ chiếm đóng….Tôi hoảng sợ lắm, vì không khác gì tướng Nguyễn Khánh sau khi chỉnh lý Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng 63, Công giáo vây phủ Khánh cho đến khi nắm trọn quyền lực thì đưa Khánh lưu đày biệt xứ….chẳng qua sau khi cách mạng 63 thành công, Tôi và HĐQNCM vì nhân hậu đã không giải giới và tống vào tù toàn bộ quân cán chính Cần Lao Công Giáo Ngô Đình Diệm, mà hậu quả sau này đã tạo nhiều biến loạn, để cuối cùng chúng vực dậy chế độ Cần Lao Công Giáo Diệm Không Diệm Nguyễn Văn Thiệu….trong giai đoạn giao thời chưa ổn định an ninh tổ quốc và cấm vận của Mỹ, lãnh đạo nhà nước CHXHCNVN rất sáng suốt cho toàn bộ quân cán chính VNCH vào trại Cải Tạo Học Tập và cùng toàn dân ăn BoBo ( tôi không oán hận nhà nước làm việc này, kinh qua tôi và HĐQNCM 63 đã sai lầm vì nhân hậu đàn bà )…đưa đến hai lần chiến thắng quân Trung Quốc vào năm 1979…


..Để lại những dòng lịch sử cho con cháu sau này…tôi đã có cảm nghỉ muốn góp ý với nhà nước vào những năm tháng dân Việt vượt biên…. cơ hội may ngàn năm để triệt hậu hoạn phản loạn sau này là nhà nước nên tống xuất toàn bộ linh mục và giáo dân Việt cho ra biển Đông, ngụy tạo Đức Mẹ Di Cư Qua Mỹ mà ngày nào năm xưa Mỹ đã ngụy tạo Đức Mẹ Di Cư Vào Nam….tạo khủng bố giả với các linh mục và sau đó cung cấp cho linh mục và giáo dân phương tiện Vượt Biên… tôi tin rằng Công giáo biết Pháp-Mỹ sẽ trở lại bang giao và ngoại thương với Việt Nam ….Công giáo là đại họa cho đất nước từ ngày đạo này cùng thực dân Pháp xâm lăng Việt Nam….kinh qua sau khi tôi bị Nguyễn Khánh chỉnh lý….
Nổi loạn nhà thờ Vinh Sơn ở T.P Hồ Chí Minh, Dòng Đồng Công ở Thủ Đức, Trà Cổ ở Bà Rịa…và chôn dấu vũ khí vài địa điểm…..tôi quyết định buông súng dầu hàng trước sức mạnh toàn dân quyết tâm dành độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước….VNCH và QĐVNCH chẳng còn gì, chỉ là đám tàn quân mà tướng tá chỉ huy bỏ đơn vị, chạy thoát thân theo Mỹ….thảm cảnh dân chúng vô tội sẽ chết thảm dưới đạn pháo tôi không thể cam tâm…đành lòng chấp nhận buông súng đầu hàng cứu dân….mang nỗi nhục Bại Tướng hay Hàng Tướng gì cùng được, lịch sử sẽ ghi chép Công hay Tội của tôi…. Nhưng tôi, vui sướng là dân lành không còn bị chết dưới bom đạn, thống nhất đất nước, và sạch bóng thực dân đế quốc trên quê hương Việt Nam….”


Thưa Ngài Võ Văn Kiệt, vào thời điểm đó Ngài ở trong thành phần lãnh đạo Xứ Ủy Nam Kỳ và “ tư lệnh” vùng đất thép….được điều động về hoạt động Khu ủy Gia Định và hợp nhất Khu ủy Sàigon-Gia Định, hình thành tam giác sắt. Ngài hiểu rõ từng chi tiết nguồn tình báo, quân báo nội thành Sàigon-Gia Định …”…Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Minh chính là kết quả của hoạt động tích cực của lực lượng thứ ba, lực lượng những người đấu tranh trong lòng chế độ Sàigon …” Ngài ngụy ngôn, ngụy danh lực lượng thứ ba, thật ra là lực lượng Công giáo Việt Nam Lá Mặt Lá Trái, bao vây chung quanh tướng Minh lúc đó, đã được tướng Minh vạch rõ âm mưu, tiếp tay thực dân Pháp trở lại thay Mỹ đô hộ Việt Nam lần nữa theo tài liệu ở trên, và giúp Mỹ tháo chạy hợp pháp mà thôi, và hầu như thành phần lực lượng thứ ba này đã và đang làm cố vấn hậu trường cho Ngài?. Tướng Minh buông súng và đầu hàng khi nhìn QĐVNCH, chẳng còn gì, chỉ là đám tàn quân chiến bại và uất hận những cấp chỉ huy tướng tá tham tàn bất tài bỏ chạy trước, nhờ thế cứu được dân tránh được biển máu dưới mưa pháo.

Đã được Thượng tướng Lê Ngọc Hiền trả lời Ngài như sau: “…Tôi xin khẳng định Dương Văn Minh chỉ là con bài của Mỹ hòng tranh thủ giải pháp thỏa hiệp. Anh em bộ đội và quần chúng nhân dân rất bất bình ý kiến này….Sàigon giữ được nguyên vẹn hoàn toàn không có chút gì vai trò của Dương Văn Minh…Tôi cho rằng ý kiến này có ác ý, coi Dương Văn Minh là “cơ sở” của công tác địch vận , qua đó phủ nhận toàn bộ hy sinh xương máu của đồng bào, đồng chí, đồng đội trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như ngay trong chiến dịch cuối cùng, quyết định là chiến dịch Hồ Chí Minh…” ( QĐND Cuối Tuần, ngày 28/4/75 )


Ngài Võ Văn Kiệt ơi! Ngài hối tiếc nếu giá như đổi mới sớm hơn không phải trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985. Ngài quá LÚ rồi! đế quốc Mỹ quá tàn bạo trả thù chiến bại bằng cách Cấm Vận suốt từ 1975-1994, Trung Quốc áp lực kinh viện và chiến bại hai lần kéo đại quân xâm lăng Việt Nam vào năm 1979, và Sô Viết đang trên đường Sô Viết Tan Hoang bởi ông Ngốc-Mà-Chết ( Góoc-Ba-Chóp ) và ông Đi -Ăn-Xin ( Boris Yelsin ). Cho nên quân cán chính nhà nước Việt Nam, đảng viên CS cùng toàn dân và tù cải tạo VNCH chỉ có ăn BoBo xuyên suốt nhiều năm trời kiên cường bảo vệ chủ quyền và thống nhất đất nước, có muốn đổi mới kinh tế sớm hơn thế nào đây hả Ngài?

Tuy thế cũng là cái may cho đất nước Việt Nam , bởi chính sách bạo tàn sai lầm Cấm Vận của Mỹ gần 20 năm và áp lực của Trung Quốc. Việt Nam tống xuất người Hoa khắp nước ra biển Đông và về Trung Quốc, và nhất là chiến thắng VIỆT NAM II tận diệt các cuộc nỗi loạn nhà thờ Vinh Sơn, dòng Đồng công Thủ Đức, Trà Cổ ở Bà Rịa Vũng Tàu,….và diệt trọn những tổ chức Mỹ gài lại bằng kháng chiến giả và Diễn Đàn Dân Chủ Tự Do tại T.P. HCM của Steven Young và Nguyễn Đình Huy, năm 1990.

Sau chiến thắng hai lần đại quân Trung Quốc, các quốc gia Đông Nam Á thấy Việt Nam có tiềm năng kinh tế và khả năng ngăn chận ý đồ xâm lăng thống trị Á Châu của Trung Quốc, thêm vào đó Nhật và Âu Châu bất chấp lệnh cấm vận của Mỹ đã giao thương với Việt Nam từ năm 1988. Từ đó đảng CSVN đề ra chính sách đổi mới Kinh Tế Thị Trườnglà phát triển kinh tế bền vững và thận trọng.

Đất nước ta có nền kinh tế lạc hậu què quặc nhất thế giới bởi chiến tranh. Cho nên bước đi kinh tế phải lúc thúc bền vững, không nên nhanh chân và tăng tốc ( dục tốc bất đạt ), kinh qua Sô Viết Tan Hoang thế mà Ngài: “….Nhưng nhìn lại quá trình kể từ khi kết thúc chiến tranh thì tôi thấy tiệc Gía như đổi mới sớm hơn thì chúng ta có thể đã không trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985….Nếu chúng ta không tự khắc phục lực cản, không phát huy được nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài để có được mức tăng trưởng hai con số trong những năm tới thì khoảng cách của sự tụt hậu so với khu vực….chúng ta phải nhanh chân….”.

Đọc bài viết TUỔI 30, Ngài đã đổi dọng hay đã trở lại đạo và cải tạo tư tưởng rồi, y như là giáo dân Công giáo gốc hơn hẳn Ngài Trương Tấn Sang, cũng một thời là Thành ủy TP HCM, trong thư gởi Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, về vụ ông Nguyễn Văn Thuận ( không gọi là TGM Thuận ), gọi là cụ Nguyễn Văn Bình, không có như Ngài quên mình trong vâng phục y là giáo dân đạo gốc “ đức tổng giám mục NVB” hay “ cố đức tổng giám mục NVB”. Ngài ạ! Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình là tên đại Viêt gian, đã từng kêu gọi Mỹ tiếp tục oanh tạc cày nát từng tất đất miền Bắc, giết sạch dân chúng miền Bắc trong đó có Võ hoàng gia được đảng và nhà nước CSVN bao bọc an toàn, để Ác nhân Nguyễn Văn Bình lên Thiên đàng, đã kêu gọi như sau: “ TGM Nguyễn Văn Bình ở Sàigon, được mọi quan sát viên Tây phương xem là người ôn hoà nhất trong số những nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, mới đây đã chấm dứt yên lặng khi tuyên bố chống lại việc Mỹ ngưng oanh tạc miền Bắc “( báo Le Monde ngày 22 – 10- 1968 )
Không những thế Ngài đã viết ra những lời phân biệt để minh định kháng chiến Việt Minh ( CS ) là phản loạn đánh Pháp chống Mỹ, nhằm vinh danh Việt gian “Quốc Gia”, phản quốc, tay sai thực Pháp-Mỹ, mà suốt cuộc đời Ngài đánh Pháp chống Mỹ gọi những người “quốc gia” là Việt gian, Ngụy quân, Ngụy quyền như sau: “…khi giữ cương vị bí thư Thành ủy TP HCM…..Một lần cố đức tổng giám mục đến thăm các cháu thiếu nhi vui chơi trong vườn Tao Đàn, tôi nói với cụ: “ Nhìn những cháu bé đang chơi với nhau ấy, làm sao có thể phân biệt được cháu nào có đạo, cháu nào không, cháu nào là “ quốc gia ”, cháu nào là con cháu cộng sản?....” ( Ngài quên mất gọi là cháu ngoan Bác Hồ )
Thưa Ngài nội lực Đảng CSVN có tí chao đảo thôi, bởi một số đảng viên phản đảng, LÚ và hưu trí mơ màng tưởng rằng hợp tác với Việt gian Công giáo Suy tàn và mong được Mỹ chấp nhận làm tay sai để tạo biến loạn cách mạng đen, không khác gì vào thập niên 80 hình thành những tổ chức kháng chiến giả

Hy vọng Ngài, tỉnh ngộ là trung kiên và góp ý xây dựng Đảng vững manh. Chỉ có một và chỉ một đảng CSVN lãnh đạo đất nước Việt Nam như độc đảng tập đoàn tư bản Mỹ lãnh đạo nước Mỹ. Ngài không có sống trong cộng đồng di dân kinh tế Việt tại Mỹ thì ắt hiểu cộng đồng đa nguyên, đa đảng, đa hội vô tổ chức bầy nhầy, dơ dáy chỉ có cái MÕM “C” và dân chủ Mafia mà thôi

Làm sao có dân chủ trong đảng chính trị, mà chỉ có thi hành và học tập cương lĩnh, điều lệ và nội quy đảng phải không Ngài? muốn được thu nhận trở thành đảng viên CSVN phải qua bao nhiêu thử thách cam go lắm, không như các đảng phái Việt gian miền Nam và hải ngoại bầy nhầy dơ dáy này. Được thâu nhận làm đảng viên CSVN chắc chắn không có tư tưởng dân chủ trong đảng, mà chỉ thi hành và học tập đường hướng chính trị do Đảng đề ra từ cấp chi bộ, phân bô, khu bộ …trung ương. Lần đầu tiên nhân loại được nghe Belive It or Not, hiện tượng đảng viên sinh hoạt đảng phái chính trị là có dân chủ trong đảng chính trị được Ngài Võ Văn Kiệt có trên 60 tuổi đảng sáng tạo tuyệt vời.....

Đông Dương Thời Báo
ngày 30/5/05



* Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông Thiếu tá trưởng ty an ninh quân đội tỉnh Sađéc, hồ hởi kể công với cách mạng, đã từng cứu rất nhiều cán bộ CS, trước ngày ra pháp trường trốn thoát về rừng là nhờ móc nối với CS phải chạy kiếm số tiền chuộc hàng triệu đồng VNCH đưa cho ông ta. Thành tích tham gia cách mạng của ông ta đã được cách mạng trả ơn bằng những phát súng ân tình trước phố chợ Sađec. Ngài Võ Văn Kiệt và những ai đã và đang phản đảng có còn nhớ Ngụy quân và Ngụy quyền sau ngày thống nhất 30 tháng 4 năm 75?. Cũng xin nhắc thêm những ai có chén cơm làm văn hóa, truyền thông báo chí hiện nay và mọi phân ngành sẽ.,,,sẽ như thế nào? khi nhà nước và đảng CSVN sụp đỗ ….xin quý Ngài bỏ vài phút giây hình dung ngày đẹp trời đó…

* Nguyễn Văn Binh là trung tá quận trưởng Gò Vấp, đắc cử dân biểu thời Thiệu và đi đâu mồm loa mép giải là cháu của tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, cũng như Ngô Công Đức cũng tự nhận là cháu TGM Bình

* Toàn bộ Công giáo Tiến Hành: Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Binh, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Nguyễn Đình Đầu ....là cố vấn hậu trường cho Ngài Võ Văn Kiệt.

* Tổng Tự Vệ Bùi Chu - Phát Diệm linh mục Hoàng Quỳnh, tham gia cách mạng vào mật khu và chiến khu chống Mỹ cứu nước, được Đảng và Nhà nước CHXHCNVN, hiểu thấu con người này, nên đã ân tình đưa vào Thiên Đàn Khám Chí Hòa an dưỡng thành tích cách mạng, khác phòng luật sư Đào Văn ( có bà chị là phu nhân tướng Song Hào, không bảo lãnh được em vì lý tưởng và hào khí cách mạng toàn dân lúc đó )....Linh mục Hoàng Quỳnh một thời oanh oanh liệt liệt càng quét, thủ tiêu, uống máu Việt Minh (CS) và dân Lương trong những lần tấn công cướp của vào các làng xã dân Lương, trước khi chết chỉ thèm ăn một đùi gà, nhưng Ý CHÚA chỉ cho chết thèm .




*


Trăn Trở Của Giuse “Võ Văn Kiệt” Đúc Tượng Và Dựng Tượng De Rhodes Tại Hà Nội

Trong thư, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng cho biết ý tưởng về việc dựng tượng đài tri ân cụ Alexandre de Rhodes ngay tại thủ đô của nước VN được chính cố thủ tướng Võ Văn Kiệt trăn trở nhiều năm sau khi ông rời chính trường nghỉ hưu, rồi chính ông khởi xướng, đôn đốc thực hiện....

* Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt?



Võ Văn Kiệt đã thành công đặt lại tên đường Alexandre De Rhodes, trong nhiệm kỳ làm Thủ tướng, và trước khi về hầu chân “C” trên nước Thiên đàn hằng sống, Võ Văn Kiệt đã trăn trở làm thế nào để đúc một bức tượng Alexandre De Rhodes và đặt tại Thủ đô Hà Nội nhân ngày Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Thế nà, Võ Văn Kiệt, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng và nhà sử học Dương Trung Quốc ngồi với nhau mà bàn về việc tạc tượng De Rhodes, mà ông tin chắc tượng sẽ được đặt nhân ngày Đại lễ này, với quyền lực vẫn còn mạnh và rất nhiều đàn em tay chân đầy quyền lực trong Đảng và nhà nước, buột Đảng và nhà nước CHXHCNVN phải đặt tượng và nhân cơ hội tiến lên giải tán đảng CSVN, như Đi-Ăn Xin [Boris Yeltsin] đã làm.

May thay cho đất nước và tổ quốc Việt Nam là Võ Văn Kiệt, được “C” yêu thương gọi về Hưởng Nhan Thánh Chúa vào ngày 11/6/2008, không thì Đảng phải thanh trừng hoặc tử hình để dẹp loạn DBHB trước ngày Đại lễ 1000 năm Thăng Long, do Kiệt và bè lũ phản Đảng [là phản quốc], phản dân hại nước….nổi loan

Nay có bức tượng Alexandre De Rhodes – Hàn Thuyên quyện bên nhau [nếu Ngài Hàn Thuyên sống dậy, ngài rất đau khổ tột cùng, là ngài đứng bên cạnh tên cố đạo gián điếp De Rhodes xúi Pháp xâm lăng], vào ngày 23/2/2009 tại trí giao lộ giữa đường Lê Duẩn và Phạm Ngọc Thạch,....


VỀ ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Theo Nguyên Tổng Bí thư Ban C


chấp hành T.Ư Ðảng Đỗ Mười, ngày nay, có không ít người dao động, phai nhạt lý tưởng cách mạng, với nhiều dạng biểu hiện khác nhau: có người ngượng ngùng khi nói "chủ nghĩa xã hội" hoặc khi nói"định hướng xã hội chủ nghĩa; có ngườinói một đằng làm một nẻo; thậm chí có người biện hộ, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản, trong khi phản bác, bôi nhọ và gieo rắc nghi ngờ về chủ nghĩa xã hội... Nguyên nhân dẫn đến sự dao động này có nhiều và rất phức tạp.....



BÚT CHIẾN: CỰU THƯỢNG TƯỚNG LÊ NGỌC HIỄN VÀ CỰU THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT :....

Chiến tranh đã qua 30 năm. Những đồi cây bị bom đạn phá trụi, xám xịt, đã xanh trở lại. Các cao ốc, biệt thự đã dần thay thế những ngôi nhà đổ nát. Một thế hệ sau chiến tranh đã trưởng thành. Khép lại quá khứ, xây dựng tương lai, đoàn kết dân tộc để hàn gắn vết thương chiến tranh là điều mà chúng ta luôn hướng tới. Nhưng như thế không có nghĩa ta lãng quên lịch sử, lãng quên tất cả những gì đã diễn ra, lãng quên những người đã hy sinh xương máu làm nên chiến thắng vĩ đại để có cuộc sống hôm nay....

ĐOÀN THẬP TỰ QUÂN ĐINH XUÂN HẢI TÁI SANH TRÊN LÃNH THỔ KHU ỦY VÕ VĂN KIỆT Hồng


Y Sepe viếng GH KiTo tại VN vừa về, hàng loạt sự kiện chớm nở xẩy ra thử thách phản ứng của chính phủ VN, trong đó, chùa Hiển Quang nằm trong giáo xứ Vinh Sơn bị đốt, tuy thiệt hại vật chất trên dướI 200 triệu, không đáng kể, nhưng di chứng tệ hại về tinh thần và tình cảm giữa hai tôn giáo anh em có thể bị phương hại....


Không Phải Ngài LÊ DUẨN Mà Là Sáu Dân VÕ VĂN KIỆT Giải Nghiệp THẦY:

.....Nhóm này có trách nhiệm gì không trong quyết định ngang nhiên vô hệ thống, phi hành chánh của Võ văn Kiệt trong việc đổi tên đường liệt sĩ Thái văn Lung thành đường Alexandre de Rhodes, một cố đạo gián điệp của Pháp? Nhóm này có trách nhiệm gì khi mới đây, Võ văn Kiệt lên tiếng ca tụng GM Lê hữu Từ lãnh chúa khu tự trị Bùi Phát, kẻ từng dùng tiền bạc súng đạn của Pháp chống lại Việt Minh. Đám tàn dư này có dính líu đến mức nào trong quyết định của Võ văn Kiệt-Đỗ trung Hiếu trình xin trung ương bắt nhốt Thầy Thiện Minh?...

Nếu Nhà Nước CHXHCNVN Và Đảng CSVN Sụp Đổ....Ba Triệu Đảng Viên CSVN Sẽ Ra Sao? :...."Nhà Cách Mạng Fidel Castro, vào năm 1991, đã tuyên bố: "...Chúng ta không nhân nhượng kẻ thù, dù theo hệ thống độc đảng hay kinh tế tập trung, bởi vì khi bạn nhượng bộ một bước , thì họ sẽ đòi tất cả và cuối cùng họ đòi cái đầu bạn " ( U.S. News & World Report 24/6/1991, Chu Văn Trình dịch )



ĐẠI HỘI ĐẢNG KHÓA X & TẠ TỐN BẠCH MAO VÕ VĂN KIỆT ÔNG LÀ AI?

Chỉ còn vài tháng nữa, đất nước ta như có Hội Nghị Diên Hồng Trong Thế Kỷ 21, đó là Đại Hội Đảng Lần Thứ X,quyết tâm đánh tan ý đồ xâm lược Việt Nam III của đế quốc Mỹ qua Diễn Biến Hòa Bình( nhà Trần ba lần đánh bại đại quân Nguyên Mông tiến chiếm nước ta ). Đời Trần nhân dân ta có Hịch Đại Vương Trần Hưng Đạođánh thắng quân Nguyên Mông, thì thế kỷ 21, nhân dân ta và đảng CSVN, có Hịch Tổng Luận Tư Tưởng “ Về Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Xây Dựng Đất Nước Ta Hiện Nay ”,...