Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

10 lý do bất ngờ và thú vị khiến bạn muốn đọc sách ngay


1. Đó là việc duy nhất trên đời này có thể đảm bảo rằng bạn sẽ không hối hận: thử Google cụm từ “hối hận vì đọc sách” đi, bạn sẽ nhận được 0 kết quả.

 

2. Sách mang đến cho bạn thứ còn quan trọng hơn cả kiến thức, đó là trí tưởng tượng: Kiến thức thì duy trì thế giới nhưng trí tưởng tượng mới là thứ tạo nên thế giới và thay đổi thế giới. Kiến thức thì có giới hạn còn trí tưởng tượng thì không.

3. Rất nhiều những cuốn sách đã thay đổi cuộc đời người khác và sẽ có một cuốn sách thay đổi cuộc đời bạn, hãy tìm ra nó: Sở dĩ bạn chưa thích đọc sách vì chưa tìm được đúng cuốn sách mình cần. Nhất định sẽ có cuốn sách dù cho không thay đổi được cuộc đời bạn thì ít nhất cũng thay đổi được nhận thức, suy nghĩ và tư duy của bạn. Mà bạn nhớ không “thay đổi tư duy, thay đổi vận mệnh”

4. Sách là thứ rẻ tiền nhất khiến cho bản thân bạn trở nên đáng giá: thử so sánh với những thứ đồ như trang phục, trang sức, đồ công nghệ, xe cộ… hay bất cứ thứ gì bạn muốn sở hữu đi. Sách là thứ rẻ tiền nhất để mua nhưng lại là thứ hiệu quả nhất khiến cho cái đầu bạn bớt nghèo.

5. Sách giết mọi khoảng thời gian trống vô nghĩa giúp cuộc sống của bạn ý nghĩa hơn: Lãng phí thời gian mà không làm được gì là lý do khiến mọi người buồn chán và thất vọng. Sách sẽ khiến cho mọi thời gian trống của bạn đều trở nên ý nghĩa: khi chờ đợi, khi di chuyển hay thậm chí cả khi đi toilet cũng không bị lãng phí nữa.


6. Hãy luôn mang theo một cuốn sách theo bên mình, bạn sẽ không đơn độc: Kể cả khi bạn đi bất kì đâu, bất kì lúc nào, với bất cứ ai. Dù cho bạn ở một mình hay trong đám đông. Hãy cứ mang theo một cuốn sách. Nó sẽ luôn bên bạn cho tới khi bạn rời bỏ nó. Còn thứ gì chung tình hơn thế nữa?

7. Hơi khó tin nhưng sách sẽ giúp bạn trở nên thân thiện, dễ gần hơn: Bởi vì hỏi một ai đó “bạn đang đọc sách gì vậy” thì dễ dàng hơn rất nhiều lần để hỏi “bạn đang làm gì cái điện thoại vậy?”

Những người đọc sách thường rất thân thiện và thích chia sẻ, nên nếu bạn thấy ai đó đang đọc sách, hãy lại gần và hỏi “bạn đang đọc sách gì vậy?” Và muốn câu hỏi trở nên chất lượng hơn thì chính bạn cũng nên là người đọc trước đã.

8. Kho báu dễ dàng gầy dựng và truyền lại cho các thế hệ sau: So với một sự nghiệp lớn để cho con cháu thì tủ sách là việc vô cùng dễ dàng.
Hãy chú trọng việc truyền giao tình yêu kiến thức cho con cái bởi vì ai đó đã nói “Nếu con tôi tài giỏi, nó sẽ tự kiếm đc những gì nó cần. Nếu nó ngu thì tôi để lại bao nhiêu nó cũng sẽ làm mất hết bấy nhiêu. Vậy tôi để lại tài sản cho nó làm gì?”

9. Đó là việc đơn giản, dễ thực hiện nhất… trong tất cả những việc nên làm: K tin thử so sánh với việc tập thể thao, nuôi động vật, nấu ăn, chơi nhạc cụ, từ bỏ chất gây nghiện… mà xem. Để đọc sách, bạn chỉ cần biết chữ là đủ.

10. Người bình thường chỉ sống 1 cuộc đời. Khi bạn đọc sách bạn có thể sống rất nhiều cuộc đời trong cùng một đời người. Và không còn gì tuyệt hơn việc được sống rất nhiều cuộc đời trong cùng một đời không đúng sao?

Ngoài ra:
– Sách là cánh cửa thần kì đưa bạn đến những thế giới khác, những nơi bạn k nghĩ có tồn tại trên đời
– Sách khiến cho một người xấu cũng trở nên đẹp hơn, thiện cảm hơn
– Là con đường ngắn nhất để kết nối với những bộ óc vĩ đại
– Nếu bạn đang tìm kiếm thứ gì đó nhưng k biết là gì và cũng k biết tìm ở đâu, hãy thử đọc sách. Hãy lật tung những trang sách, rồi bạn sẽ thấy thứ bạn muốn thấy và tìm ra thứ bạn cần tìm. Vì sách chứa gần hết câu trả lời của mọi câu hỏi.

Sau cuối, cho dù tôi có đưa thêm n hay n+1 lý do nữa thì cũng chỉ có 1 lý do thần thánh duy nhất khiến bạn không/chưa đọc sách: đó là LƯỜI.
Lười là bệnh nan y khó chữa. Loại bệnh tàn phá hiện tại và cản trở tương lai. Nếu bạn không tự chữa thì không ai giúp bạn được đâu!

Nguồn: Phi Tuyết

10 LOẠI CÂY CẢNH GIẢI ĐỘC KHÍ TRONG NHÀ




Những loại cây cảnh dưới đây không chỉ làm đẹp, mà còn làm tươi mới không khí trong phòng, nhờ tác dụng "lọc" bỏ những hơi độc như benzen, formaldehyde..

Chúng cũng nhả ra các hóa chất lành mạnh, làm sạch lại không khí. Nếu bạn muốn cải thiện điều kiện sống trong nhà, nên trồng những "chiếc máy hút bụi" tự nhiên sau:

1. Hoa cúc



Trong khi hầu hết các loại cây cảnh có tác dụng lọc sạch không khí không phải là cây có hoa, thì hoa cúc là một ngoại lệ.Chúng có tác dụng tốt nhất trong việc loại bỏ benzen - hóa chất dùng trong nhiều loại bột giặt, hồ dán, nhựa, sơn. Loài hoa này cần ánh mặt trời, vì thế hãy đặt chúng gần cửa sổ. Cũng vì là cây có hoa, nên nó không thể sống quanh năm như các loại cây cảnh trong nhà khác.

2. Hoa đồng tiền



Là biểu tượng của mùa xuân. Chúng cũng rất hữu ích trong việc lọc khí benzen - thường có mặt trong nhiều loại sơn. Vì thế, nếu bạn vừa sơn lại phòng, nên đặt một chậu hoa đồng tiền để loại bỏ các hạt benzen lơ lửng trong không khí.

3. Hoa đỗ quyên



Trong khi hoa đồng tiền là lựa chọn cho mùa xuân, thì đỗ quyên có thể là lựa chọn tốt nhất cho mùa thu, vì chúng thích hợp với nhiệt độ mát mẻ. Chúng hấp thụ chủ yếu formaldehyde - tìm thấy trong nhiều loại vật liệu dán tường, lớp cách nhiệt. Vì thế, hoa đỗ quyên là lựa chọn tốt cho gian bếp.

4. Nha đam



Nha đam nổi tiếng nhất với khả năng làm lành vết thương. Gel trong lá cây này có thể làm dịu vết bỏng, vết cắt, vết côn trùng đốt và các dạng kích ứng da khác. Nhưng nó còn có tác dụng làm sạch không khí. Nha đam dễ dàng hấp thu benzen và formaldehyde. Cây mọc tốt khi có nắng, vì vậy hãy để nơi cửa sổ có nắng chiếu tới.

5. Cây nhện



Lá cây có khả năng hấp thu mạnh mẽ benzen, formaldehyde, CO và xylene - một hóa chất sử dụng nhiều trong công nghiệp da và cao su. Cây chịu được khắc nghiệt, thích hợp với bạn nào không có nhiều thời gian chăm sóc.

6. Cây lưỡi hổ



Cây lưỡi hổ rất quen thuộc, và thực sự sẽ gây ngộ độc nếu bạn ăn vào. Ngược lại, nó cũng có tác dụng giải độc, vì lọc được các khí như formaldehyde. Cây dễ sống, do vậy phù hợp với người ít có thời gian chăm sóc. Vì formaldehyde bay hơi chủ yếu từ các sản phẩm vệ sinh cá nhân, nên cây lưỡi hổ sẽ có hiệu quả nhất khi đặt trong nhà tắm.

7. Vạn niên thanh



Cây không cần nhiều ánh sáng mặt trời, mà lá vẫn có thể xanh ngay cả khi bạn đặt trong bóng râm. Vì thế, cây phù hợp để đặt ở phòng không có nhiều ánh sáng. Nó hấp thụ formaldehyde rất tốt.

8. Cây thường xuân



Mặc dù loài cây này lọc được formaldehyde, nó cũng có thể làm sạch không khí có mùi xú uế. Cây cần ánh sáng, vì thế nên đặt ở cửa sổ của nhà tắm.

9. Cây cọ cảnh





Cây lọc được cả benzen và formaldehyde cũng như trichloroethylene - hóa chất dùng trong quá trình giặt khô. Vì thế, nó thích hợp để đặt trong phòng giặt khô, hoặc phòng có nhiều đồ có thể giải phóng formaldehyde, chẳng hạn phòng ngủ hoặc phòng khách.

10. Cây huệ bình (lan Ý)



Loài cây này đứng đầu bảng trong danh sách các loài cây lọc sạch không khí của cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA). Không chỉ hấp thụ formaldehyde, benzen và trichloroethylene, nó còn hấp thụ cả xylene và toluene - hóa chất tìm thấy trong dầu hỏa. Cây sống được trong bóng râm và chỉ cần tưới nước tuần một lần, vì thế là lựa chọn tốt cho những người không có thời gian. Vì hấp thụ được nhiều hóa chất, nên nó có thể đặt ở bất cứ đâu trong nhà.

tuyết


Nguyễn xuân Thiệp





tuyết rơi

một người ngồi vẽ. những chiếc lá bàng

từ ký ức. ấu thời

chờ ngày nắng ửng



tuyết đổ

trên những bờ tường

người đi tìm những ngọn nến. của mùa thu đông cũ

đốt lên

trong căn nhà. hư

bóng ai về. đứng khóc



tuyết phủ

người lầm lũi đi

gọi thầm

tên ai

chiều. quạnh

xám. đường trơn. không ánh lửa



tuyết trắng

một con quạ đứng kêu

trên đỉnh ngọn sồi già

sao mùa xuân chưa trở lại



sao mùa xuân chưa trở lại

những bông daffodils. vàng. của tôi

giờ ở đâu

tình tôi

thơ tôi

giờ ở đâu

Văn hóa “tán”



 Lê Thị Liên Hoan



  


Thôi cũng chả sao. Suy cho cùng, bất cứ món gì, có văn hóa cũng hơn là không có. Ngay đến hắt xì hơi hay ngáp, người văn hóa cũng thực hiện sang trọng, lịch sự và dễ thương hơn kẻ tầm thường. Nhưng cũng chả biết có phải do “quán triệt” điều đó một cách sâu sâu quá hay không nhiều ông hay nhiều bà, không phải loại tầm thường đâu nhé, có tên có tuổi và có địa chỉ hẳn hoi, tán về văn hóa, hay nói cách khác gọi là văn hóa đủ thứ trên đời. Gọi là đủ thứ bởi tôi tin rằng, dù văn hóa có phong phú và mở rộng tới đâu thì cũng chả thể nào bất cứ cái gì cũng gọi tên thành văn hóa được. Văn hóa phải có học hành, có tuyển chọn, có chắt lọc và phải giúp ích cho đời.

Nhưng các vị học giả vĩ đại và.. tỉ mẩn kia không khi nào lại tin như thế. Họ có biệt tài và có khả năng nhìn thấy văn hóa ở khắp nơi, ở chỗ họ ăn, họ làm việc, chỗ họ đi lại, ngồi hoặc… nằm!

Chả tin thì các bạn cứ thử giở mọi tờ báo xuân những dịp đầu năm. Báo xuân, đấy là cơ hội, là thời điểm, là dịp tuyệt vời để các nhà phát minh văn hóa bộc lộ khả năng mãnh liệt của mình.



Cứ theo các nhà học giả báo xuân, thì vô địch về văn hóa là phở. Đấy là món ăn chả biết bao nhiêu lần được các nhà học giả lẫn học thuật tán dương. Đã có “bánh chưng” là vụ Nguyễn Tuân, phở đương nhiên trở thành hoàng đế của văn hóa ẩm thực.

Sau đó tới… người vạn thứ trên đời, các nhà học giả cứ như phù thủy, chạm tay hay chạm bát vào món nào, món đó biến thành văn hóa ngay tắp lự.

Ông thì kêu mùi hoa sữa là tâm hồn Hà Nội, ông lại quả quyết hoa sấu mới đúng. Bà thì viết về cái lạnh se lòng, bác thì miêu tả tiếng leng keng của… xe xích lô. Chú thì xúc động về tiếng ve sầu, em lại say sưa với mảng tường rêu. Thậm chí đến những hàng nước chè vừa chật chội, vừa đáng ngờ về vệ sinh bày ngổn ngang trên vỉa hè cũng được các vị kêu rằng đặc trưng, nứt riêng đầy văn hóa.

Tóm lại, vào dịp đầu năm, mở báo ra ai cũng phải giật mình sao lại may mắn thế, hạnh phúc thế vì chung quanh đầy văn hóa từ trong ngõ đến tận trong nhà, chỉ tiếc rằng mình không phát hiện ra.

Ôi, tôi thì tôi ngờ lắm. Tôi nghi lắm. Tôi cảm giác nhiều thứ, nhiều món các vị “tán” trên báo nếu không phải văn hóa thì cũng chưa phải, chẳng qua là các vị cứ gọi thế cho sang.

Văn hóa gì một mảng tường rêu? Văn hóa gì các chị ngồi xổm bên hàng nước chè chén ở đầu thế kỷ XXI, bàn đủ thứ chuyện bằng mồm.

Không có món nào mà các nhà phát minh văn hóa để xổng. Nhất là những gì dân dã, chân quê. Một nhánh hoa mùi, một giọt nước mái tranh, một tiếng cú kêu, một mùi khói bếp… đều bị các vị tóm lấy, nhào nặn và gọi bằng đủ thứ tên âu yếm.

Lạ nhỉ, sao văn hóa dày đặc như thế mà cuộc sống vẫn cơ bản, nhọc nhằn, ứng xử với nhau vẫn chưa cao. Sao đâu cũng là nét đặc trưng, nét riêng biệt mà khách du lịch đến ta vẫn không bằng đến chỗ khác?

Văn hóa chắc chắn phải rèn luyện, phải học hành và phải tuyển chọn chứ không thể trở nên đủ mọi thứ vớ vẩn hoặc nửa vớ vẩn mà các vị chuyên gia “tán” cứ liên tiếp phát minh.

Tôi tin một cách ngây ngô, dại khờ như thế đấy. Chắc tôi văn hóa loại xoàng!

—————–

http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/van_hoa_tan.html

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Giê-su qua cái nhìn của người Phật Tử






G.S. André Bareau (*)
Người dịch: Lại Như Bằng

“Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử”: đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, vì hình thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, vì sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những “cái nhìn về Giê-su” rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.

Trước khi tìm hiểu người Phật tử thực sự nghĩ sao, tôi thiết nghĩ cần phải xét xem, căn cứ theo giáo lý cơ bản của kinh điển nguyên thủy, đã được ghi chép lại từ hơn 20 thế kỷ nay, người Phật tử sẽ phải nghĩ thế nào về người sáng lập đạo Ki-tô.

Như quý vị đã rõ, đạo Phật là một đạo có đặc điểm, rất khó hiểu cho người phương tây chúng ta, là không những từ chối không chấp nhận một Thượng Đế độc nhất, thường hằng, quyền phép vô biên, tạo hóa mọi sự vật, chủ tể mọi loài trong vũ trụ, mà còn không chấp nhận một cá thể thường hằng tương đương với cái mà chúng ta gọi là linh hồn. Chính vì phủ nhận nguyên tắc một cá thể thường hằng mà người Phật tử không thể chấp nhận một Đấng Tạo Hóa như người phương tây chúng ta vẫn quan niệm.

Cần nói cho rõ: Đạo Phật chưa bao giờ phủ nhận sự hiện hữu của các thần linh, trái lại nữa là khác, theo đạo Phật có hằng hà sa số các vị trời, hàng triệu thần tiên đủ loại, lớn nhỏ, thiên thần cũng như địa thần; có những vị thù thắng vi diệu, thân toàn ánh sáng sống bằng lạc thọ, có những vị thân thể thô thiển hơn nhưng người trần không thấy nổi, tất cả đều quyền phép oai vũ hơn người trần rất nhiều. Các vị trời và thần này, dù oai linh quyền phép đến đâu đi nữa cũng vẫn bị hạn chế trong thời gian sống và trong quyền phép của mình. Mỗi vị sinh ra bằng hóa hiện ra giữa các vị trời, sống rất lâu, hàng tỷ năm (người Ấn Độ thường vẫn hay phóng đại khi phải vận dụng trí tưởng tượng vốn rất phong phú), sống sung sướng an lành, không đau đớn, không phiền não lo âu, không bịnh tật, không chết chóc như các loài hữu tình khác, là loài người hay không phải là loài người. Nhưng đời sống này dĩ nhiên sẽ phải có kết thúc, cũng như mọi sự mọi vật đã có bắt đầu, đã được sanh ra. Một ngày kia, vị trời này sẽ mất đi, bỗng nhiên biến đi, không đau đớn lo âu, và sẽ tái sinh như bất cứ một hữu tình nào khác, vào cõi trời, hoặc cõi người, hoặc cõi súc sinh, hoặc cõi ngạ quỷ, tùy theo nghiệp quá khứ của vị đó. Vốn không thường hằng, vốn được sinh ra và mất đi như các hữu tình khác, dĩ nhiên vị trời này không thể là đấng tạo ra vũ trụ và những loài sinh sống trong đó. Quyền phép dù rộng lớn đến đâu đi nữa nhưng vẫn có giới hạn, vị trời này không thể là chủ tể mọi loài, mọi sự, mọi vật.

Không chấp nhận một Đấng Tạo Hóa, theo quan niệm chúng ta thường có bên phương tây Ki-tô giáo, người Phật tử dĩ nhiên không thể chấp nhận tính thiên khải của Giê-su. Đối với họ, dựa theo lịch sử, Giê-su chỉ là một con người. Tuy nhiên, với tất cả những đức tính hiển nhiên của ngài, chắc chắn sau đó ngài đã sinh vào cõi trời dựa theo luật nhân quả, do sự “chín mùi” của các thiện nghiệp của ngài. Tóm lại, dưới con mắt của đạo Phật, con người Giê-su, sau khi chết, chắc đã trở thành một vị trời, nghĩa là một loại siêu nhân của một đẳng cấp nào đó, biểu hiện bởi những tính chất, những quyền phép, với đời sống lâu dài, với sinh hoạt đặc biệt; sinh hoạt này có thể là sự quán chiếu chân lý (contemplation de la vérité) hay chỉ là quán trí tiếp cận chân lý (méditation d’approche), hay chỉ là hưởng thụ lạc thú của thiên giới dưới mọi hình thức khác nhau, có dục tính hay không dục tính, hoặc kiểm xét sinh hoạt của loài người. Khi vị Giê-su trở thành trời chết đi thì, trong một tương lai xa hay gần, tùy theo địa vị hiện tại của ngài trên cõi trời, ngài sẽ tái sinh lại, cũng như vô số lần khác trong quá khứ. Chắc ngài sẽ sanh lại cõi trời hay cõi người tùy theo các đức tính và các thiện nghiệp của ngài, ngài sẽ không bị thu hút vào những cõi xấu xa như những kẻ tham ác, những loài súc sinh, ngạ quỷ. Nói cách khác, trong đời sống tương lai, Giê-su có thể còn giữ được tính trời của mình, theo ý nghĩa của đạo Phật, hay sinh vào cõi người , và trong trường hợp này sẽ hành động như một vị Cứu tinh (Messie), trong giới hạn mà đạo Phật đã định cho vai trò này. Như vậy, đạo Phật không phủ nhận tính trời của Giê-su, tính trời được hiểu theo một ý nghĩa nào đó, cũng như không phủ nhận tính người của ngài; tuy nhiên hai tính này không thể tồn tại cùng một lúc mà phải kế tiếp nhau.

Nếu con người Giê-su sanh ra cách đây ngót hai mươi thế kỷ đã trở thành một vị trời, người Phật tử có thể dễ dàng chấp nhận chuyện này, thì, cũng như mọi vị trời khác, ngài rất đáng được kính trọng, đáng được tôn sùng, vì vô số thiện nghiệp của ngài trong các đời sống trước; tính trời của các vị chứng minh cho những thiện nghiệp của các vị trong các kiếp trước. Hơn nữa, nghi lễ của đạo Ki-tô không đòi hỏi sát sanh, cũng giống như nghi lễ đạo Phật, vì sát sanh để cúng tế là phạm vào một trong những giới cấm cơ bản chung cho cả hai đạo, người Phật tử không thể chê trách gì tín đồ Ki-tô khi những người này tôn thờ Thầy của họ, Chúa của họ. Còn hơn thế nữa, không gì ngăn cản người Phật tử tôn sùng Giê-su cũng như tôn sùng các vị thần linh khác xuất xứ từ Ấn Độ Giáo; trong nhiều chùa ta thường gặp đền thờ các vị thần này.

Thật vậy, ngược với đạo Ki-tô, sinh ra trong những điều kiện hoàn toàn khác, đạo Phật không những chưa bao giờ phủ nhận sự hiện hữu hoặc phủ nhận tính trời của vô số vị trời của Ấn Độ cổ xưa, hay của các xứ mà đạo Phật truyền tới, mà đạo Phật cũng không hạ thấp các vị trời đó xuống hàng những loài quỷ, xấu xa và tàn bạo, hiện thân của mọi điều xấu. Ngược lại, đạo Phật đã thu nhập tất cả những vị này, kể cả những vị vốn rất hung dữ cũng được mau chóng chuyển hóa. Còn hơn thế nữa, đạo Phật đã nâng các vị thần này lên hàng mẫu mực cho Phật tử cư sĩ, nhưng không thể là mẫu cho hàng tăng sĩ vì đời sống quá sung sướng của cõi trời khiến các vị trời không thể thành tu sĩ khổ hạnh, không thể trì hành các giới luật nghiêm túc và khắc khổ, con đường duy nhất đưa đến giải thoát, Niết-bàn.

Trong thiên giới phong phú và phức tạp được đạo Phật công nhận, rất hiếm có những vị trời còn giữ tính dữ dằn hoặc là căm thù đối với loài người. Nếu có, thường chỉ là những vị địa tiên thuộc những tầng thấp nhất, những vị tiểu thần của một thôn xóm nào đó, hay là Mâra, thần chết, đối thủ chính và dai dẳng của đức Phật, vì ngài dạy cho muôn loài phương pháp để thoát khỏi sự chết, hay đúng hơn những sự chết kế tiếp nhau, hệ quả của những sự tái sinh. Thật ra, Mâra là một hình ảnh có tính biểu tượng, chỉ được dùng trong đạo Phật, và theo truyền thuyết thì thường thường lố bịch hơn là ghê gớm, ngay cả lúc vị thần này xua đoàn quân quỷ do nó sanh ra để tấn công đức Phật và đức Phật đã xua tan chúng chỉ bằng một ý niệm của ngài.

Những vị trời, ngoại trừ một vài vị rất hiếm, đều là những hữu thể hiền hoà xứng đáng được tôn kính; theo giáo lý nhà Phật thì đây là một chuyện rất dễ hiểu, vì nếu các ngài hưởng được hạnh phúc của cõi trời là vì các ngài thừa hưởng quả báo của vô số thiện nghiệp trong những đời trước. Trở lại đề tài của chúng ta, nếu con người Giê-su đã trở thành một vị trời, và đứng trên quan niệm Phật giáo thì chuyện này rất đáng tin, ngài xứng đáng được mọi người tôn kính, không những chỉ tín đồ đạo Ki-tô, mà cả những người Phật tử và những người theo đạo khác cũng vậy.

Con người Giê-su trở thành một vị trời do đó được kính trọng, phải chăng điều này có nghĩa là giáo lý của ngài dạy cách đây hai ngàn năm cũng phải được trọng vọng như vậy? Nói cách khác, với người Phật tử, giáo lý của Giê-su, đạo Ki-tô, có đáng được trọng vọng bằng những thiện nghiệp của ngài không? Chắc chắn là đáng trong chừng mực mà giáo lý của ngài phù hợp với lời dạy của Đấng Thế Tôn, nghĩa là có ích lợi cho con người, giúp con người tiến bộ trên con đường giải thoát hay ít ra giúp tái sinh trong cõi trời hay cõi người chứ không bị rơi vào những cõi xấu xa khác. Trái lại, cũng không đáng, vì giáo lý của Giê-su không dẫn con người tới Niết-bàn, hay đúng hơn khiến con người ngừng lại dọc đường, chỉ dẫn đến tái sinh nơi thiên đàng của một vị trời trong một thời gian có giới hạn, dù giới hạn này có dài lâu đến đâu đi nữa, và làm cho con người lầm tưởng rằng sẽ được ở đó vĩnh viễn. Tóm lại, giáo lý của Giê-su chỉ dành cho cư sĩ, những người muốn có một đời sống tương lai càng sung sướng, càng lâu dài càng tốt, trong khi giáo lý của đức Phật nhắm những tu sĩ, những người, sau khi thấu rõ tính chất vô thường, sự giới hạn trong không gian và thời gian, của vạn vật, kể cả hạnh phúc trong cõi trời, không vừa lòng với hạnh phúc đó, quyết định đạt đến Niết-bàn, chấm dứt mọi tái sinh, dù trong cõi nào đi nữa.

Hệ luân lý Giê-su truyền dạy cho tín đồ ngài hầu như in hệt hệ luân lý đức Phật dạy cho Phật tử. Không những cả đôi bên đều ngăn cấm làm điều ác, lớn hay nhỏ, như giết người, trộm cắp, tà hạnh, hưởng thụ, dối trá, phóng dật, v.v…, mà cả đôi bên cũng đều luôn luôn khuyên bảo tín đồ mình nuôi dưỡng và thể hiện những đức tính như lòng nhân ái, lòng từ bi, tính kiên trì, lòng từ thiện, lòng khoan dung mỗi khi bị xúc phạm, … Cả hai đều thấy rõ là sự thể hiện hệ luân lý chung này chỉ là bước đầu, rất cần thiết nhưng không đầy đủ, trên con đường dài đưa đến mục tiêu tối hậu do các vị sáng lập đạo giáo vạch ra cho tín đồ của mình, thiên đàng cho người theo đạo Ki-tô, Niết-bàn cho Phật tử. Tóm lại, cùng truyền dạy một hệ luân lý chung như là bước đầu cơ bản, Giê-su và đức Phật lúc đầu dẫn đắt tín đồ của mình trên cùng một con đường, một con đường dài và khó khăn cho nhiều người nhưng không thể tránh khỏi để chuẩn bị cho chặng đường sau, cho một đời sống đạo hạnh, tu luyện tâm linh để đạt đến một quả vị nào đó.

Ngoài những điểm tương đồng kể trên, giáo lý của Giê-su và giáo lý của đức Phật khác biệt nhau rất xa. Với đức Phật, giáo lý của Giê-su sai lạc, không đúng với sự thật, không đúng với những Thánh đế mà tu sĩ Gotama đã “giác ngộ.” Như vậy, giáo lý đạo Ki-tô, dù với hệ luân lý cao đẹp, là dẫn dắt tín đồ mình sanh vào một cõi trời, nhưng lại ngăn chận không cho tiến xa hơn, tới sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, đạt đến Niết-bàn, vì làm cho tín đồ mình hiểu sai lầm rằng hạnh phúc trên cõi trời là mục đích cao cả nhất. Đối với người Phật tử, Giê-su đáng tôn kính vì đã dẫn dắt, bằng hệ luân lý của ngài, con người đến cõi sung sướng, nhưng ngài cũng không hoàn hảo vì đã truyền cho tín đồ một đạo lý sai lạc. Giáo lý này sai lạc vì nó dựa lên lòng tin nơi một vị trời độc nhất, thường hằng và tạo hóa mọi vật, tin vào một linh hồn vĩnh cửu, ẩn trong mỗi con người. Nó sai lạc vì nó không chấp nhận lẽ vô thường, lẽ vô ngã, do đó đưa đến phiền não khổ đau, của mỗi hữu tình. Nó còn sai lạc vì nó khuyên dạy tín đồ phát triển lòng sùng bái vị trời của họ và lòng thương yêu những con người khác, cả hai tính này đều có cơ sở là tham ái, trong khi đức Phật khuyên dạy phải xa lìa tham ái dưới mọi hình thức vì nó là một chướng ngại quan trọng trên con đường giải thoát, ngài khuyên dạy phải phá chấp một cách triệt để, và trong tuyệt đối, không chấp chước cả đến những đức tính cao cả nhất, như lòng nhân ái, lòng từ bi, lòng từ thiện, lòng khoan dung.
Như vậy, đối với Phật tử, Giê-su là một con người đáng kính trọng, tôn sùng, là một vị thánh nhân và chắc đã trở thành trời sau khi là một con người, cách đây ngót hai mươi thế kỷ. Tuy vậy ngài vẫn thua kém đức Phật, dù đức Phật vẫn còn là người trong kiếp sống cuối cùng, trong khi Giê-su có lẽ đã thành trời trong đời sống đó. Thật ra, dưới con mắt những người Phật tử, tôn sư của họ, dù vẫn còn sống trong cõi người, đã tự nâng mình lên cao hơn mọi vị trời, đã “giác ngộ” Chân như, tìm ra con đường đưa đến Niết-bàn, điều mà không một vị trời nào có thể làm nổi chính vì tính trời của họ. Thật vậy, hạnh phúc vô hạn của các vị trời khiến các ngài không thấu rõ được phiền não khổ đau tiềm ẩn trong mỗi hữu tình, dù có mang hình thái nào đi nữa. Chính sự chứng ngộ khổ đau này, đối với người Phật tử, là bước đầu trên con đường rất dài và rất khó khăn đưa đến sự giải thoái khỏi vòng luân hồi.

Sau khi đã tìm hiểu cái nhìn mà người Phật tử lẽ ra phải có về Giê-su, dựa trên giáo lý cơ bản mà người Phật tử đã học hỏi và tin theo, chúng ta xét trong tựhc tế họ nghĩ sao về Giê-su, lần này ta dựa trên những lời nói của chính họ.

Muốn như vậy, tôi dã dựa vào bốn trong những người cộng tác xuất sắc nhất của tôi, mỗi vị có một sự hiểu biết thấu đáo về quan niệm của những người Phật tử, trên mỗi khía cạnh khác nhau. Thượng tọa Thích Thiện Châu, Tiến sĩ Văn chương, vốn là một vị tôn đức của Phật giáo Việt nam. Ông Mohan Wijayaratna, sinh ra trong một gia đình song giáo, Ki-tô và Phật, sắp trình luận án Tiến sĩ về một số khía cạnh của Phật giáo Tích lan và cũng đã từng viết nhiều bài báo rất đáng chú ý, một trong những bài này nói về đề tài chúng ta bàn đến hôm nay, dưới con mắt người Tích lan. Đức Cha Eugène Denis, Tiến sĩ Văn chương và nghiên cứu viên tại Viện Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia (CNRS), sống tại Thái Lan từ hơn ba mươi năm nay và đang nghiên cứu đạo Phật xứ này. Ông Paul Magnin, nghiên cứu viên tại Viện Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia (CNRS), đã từng sống lâu năm tại các xứ Viễn đông, nhất là tại Đài Loan, chuyên nghiên cứu về đạo Phật Trung quốc. Tôi cũng phải nói đến quyển sách quý báu do đồng nghiệp và cũng là bạn thân của tôi, Giáo sư Jacques Gernet, xuất bản cách đây hai năm tại nhà xuất bản Gallimard dưới tựa đề “Trung quốc và đạo Ki-tô, tác động và phản ứng” (Chine et christianisme, ation et réaction); tác phẩm này cho ta biết và hiểu quan niệm của người Trung quốc, người Phật tử hay người theo đạo khác, về đạo Ki-tô và về Giê-su trong những thế kỷ XVII và XVIII.

Lẽ ra, trong chừng mực nào đó, ta phải gắn bó sự tìm hiểu cái nhìn của người Phật tử về Giê-su với cái nhìn của họ về đạo Ki-tô. Nhưng vấn đề này tự nó cũng rất phức tạp khiến ta không có thì giờ bàn tới bữa nay.

Cái nhìn của Phật tử về Giê-su thay đổi tùy thời điểm lịch sử, tùy xứ, tùy tông phái. Nhưng ngày nay nó có xu hướng trở nên đồng nhất.

Người Trung quốc vào thế kỷ XVII và XVIII có một cái nhìn nghiêm khắc nhất, tuy nhiên rất khó mà phân định đâu là phần của đạo Phật, đâu là phần của đạo Khổng hay đạo Lão. Với người trung Quốc, Giê-su chỉ là một người, bị kết án tử hình vì làm loạn, làm xáo trộn trật tự xã hội, điều tối kỵ đối với truyền thống Á đông. Cái chết khổ nhục của Giê-su, bị hành hình trên cây Thập ác như một tên tội phạm, sự đau đớn phải trải qua, theo người Phật tử, chỉ là kết quả của ác nghiệp trong quá khứ, nghiệp càng ác, quả báo càng nặng. Thuyết nghiệp báo khiến một số Phật tử nghĩ rằng đời trước Giê-su đã giết người. Hơn nữa, không dủ sức thoát khỏi cực hình, tự cứu thoát bằng phép tắc nhiệm mầu thì làm sao Giê-su có thể cứu người khác? Nếu Giê-su là Thượng đế tối cao, khi ngài đầu thai làm người, đất trời không ai cai quản, kết quả sẽ khủng khiếp vô cùng. Còn nếu ngài giáng sinh từ Thượng đế thì ngài thua đức Phật xa, vì chẳng cần ai giúp sức, dù là thần thánh hay gì gì đi nữa, đức Phật tự mình đã tìm ra giáo lý giải thoát và tự lấy quyết định truyền bá giáo lý này. Dù sao đi nữa, nếu Giê-su là một vị trời, ngài chỉ có thể là một vị trời như muôn ngàn vị khác, chịu theo quy luật nghiêm khắc của quả báo tái sinh, và do đó thấp hơn đức Phật, người đã ra ngoài vòng sanh tử luân hồi. Sự kiện Giê-su giáng sinh chẳng có gì đáng chú tâm, vì thực ra, nó chỉ là một hiện tượng mà người Phật tử coi là tương đối và tùy theo điều kiện mà sanh ra, trong dòng sanh tử luân hồi vô thường của thế giới. Hơn nữa, sự giáng sinh này mâu thuẫn với tính chúa-ba-ngôi mà giáo lý Ki-tô gán cho ngài. Còn các phép lạ của Giê-su chẳng thấm vào đâu so với các oai phép Phật đã tung ra, bao trùm cả vũ trụ vô thủy vô chung, bao gồm hằng hà sa số thế giới.

Thời nay, những mâu thuẫn cũ giữa hai đạo đã giảm bớt, cái nhìn của Phật tử về Giê-su cũng nhẹ nhàng hơn. Dĩ nhiên, người Phật tử không nhìn nhận, không thể nhìn nhận Giê-su là vị Cứu thế, hay là Đấng Tạo Hóa, thường hằng và tối thắng, vì những danh hiệu này đối với Phật tử hoàn toàn vô nghĩa, hay chỉ định những ảo vọng do vô minh tạo ra. Dĩ nhiên, người Phật tử cũng không thể đặt Giê-su cao hơn đức Phật, như một nhà truyền giáo nọ đã vụng về cố gắng chứng minh rằng đức Phật là kẻ đi trước chuẩn bị cho Giê-su xuất hiện. Và dĩ nhiên, người Phật tử không chấp nhận có sự phục sinh của Giê-su, vì khái niệm phục sinh không có trong giáo lý đạo Phật, cũng như không có trong giáo lý Ấn độ hay đạo Jaĩna. Sự tái sinh sau khi chết hoàn toàn khác với sự phục sinh của đạo Ki-tô.

Ngoài những giới hạn kể trên, giới hạn suy ra dựa vào lời dạy của đức Phật, hầu như mọi người Phật tử thời nay đều có thiện cảm với Giê-su. Họ cảm mến ngài, kính phục nữa, nhưng không phải vì vậy mà họ mảy may có ý cải đạo theo đạo Ki-tô. Họ sẵn sàng nêu lên những điểm tương đồng giữa Giê-su và đức Phật: Một đời sống trong sạch, được hướng dẫn bởi một hệ luân lý cao cả, vô vị lợi, thấm nhuần bởi lòng nhân ái, lòng từ bi, lòng từ thiện, lòng khoan dung, cho đến hy sinh cả tính mạng của chính mình. Theo họ, cả Giê-su lẫn đức Phật đều đáng kính, cả hai đều là những vị thánh nhân hiền đức như nhau.

Thượng tọa Thích Thiện Châu có đưa thêm vài ý khá lý thú, dựa trên giáo lý Đạo Phật Phát Triển (Mahayana), một phong trào canh tân trong đạo Phật cách đây hai mươi thế kỷ; đạo Phật Việt Nam bắt nguồn từ đó, cũng như rất nhiều hình thái khác của đạo Phật tại Viễn đông và Trung đông. Giáo lý Ba Thân Phật cho phép ta hiểu tính chất của Giê-su rõ hơn là giáo lý nguyên thủy, hiện còn thịnh hành tại Tích Lan và Đông Nam Á. Giáo lý Phát Triển quan niệm là đức Thế tôn có ba thân: Hóa thân hay ứng thân, người thường thấy được, với thân này Phật đã sanh ra, sống một đời sống bình thường của mọi người rồi chết đi; Báo thân, ngài dùng thân này để hiện ra giữa các vị Bồ-tát, tức là những vị xả thân cứu đời để thành Phật trong một thời gian rất xa nữa; và Pháp thân, là thật thể của các pháp trong vũ trụ, thân như thật và vĩnh cửu, các hữu tình đều có thân này, nhờ thế mà trong tương lai, có thể rất xa, tất cả đều có thể thành Phật. Ta có thể áp dụng Lý Ba Thân này vào trường hợp Giê-su để giải thích tính chất vừa trời vừa người của ngài, giải thích cách nào ngài vừa ở đời cứu nhân độ thế, vừa ngự trị trên ngôi tối thượng tuyệt đối. Thân thứ nhất có thể coi là thân mà mọi người bình thường trông thấy, là thân của Giê-su lịch sử, đã sanh ra, truyền đạo, đau khổ và chết đi trên cây Thập ác. Thân thứ hai là báo thân huyền diệu mà ba đệ tử Pierre, Jean và Jacques đã chiêm ngưỡng trên núi. Thân thứ ba là thân trời, người thường không thể nghĩ bàn, thân Cha trong quan niệm Ba Ngôi của đạo Ki-tô. Cách so sánh này, giữa hai giáo chủ, giúp cho người Phật tử hiểu biết dễ dàng hơn về Chúa cứu thế và Kinh thánh, và kính trọng ngài hơn. Thượng tọa Thích Thiện Châu đưa ra một hình ảnh tuyệt đẹp: “Ta có thể yêu mến sự tinh khiết của hoa sen, và cùng lúc thưởng thức cái đẹp của hoa huệ và hoa hồng.”(*)

Vị tăng sĩ Việt Nam nêu ra một điểm gần gũi nữa, giữa đạo Ki-tô và tông Tịnh độ, một tông phái ở Viễn đông khá quan trọng chỉ tôn thờ Phật A Di Đà, hay “Vô lượng quang Phật”, một vị Phật trước đây đã nguyện đón về đất “Tịnh Độ” tất cả hữu tình niệm danh hiệu ngài. Phật A Di Đà có một vị cộng tác nổi tiếng nhất trong các hàng Bồ tát, đó là Bồ tát Quan Thế Âm, đại từ đại bi, luôn luôn sẵn sàng hiện ra cứu giúp những kẻ hoạn nạn và đã từ chối không thành Phật chừng nào tất cả hữu tình chưa đạt Niết bàn. Hình ảnh Quan Thế Âm rất gần với hình ảnh Giê-su, do đó những người tu theo Đạo Phật Phát Triển, nhất là tông Tịnh độ, có thể tôn kính Giê-su như một vị Bồ tát. Đạo Phật Phát Triển cho rằng các vị Phật tương lai này, ngoài những đức tính như lòng từ bi, trí tuệ, lòng nhân ái, lòng nhẫn nại, v.v… còn “giỏi về phương tiện” để cứu vớt hữu tình, làm những phép lạ, do đó Phật tử các tông phái Phát Triển chấp nhận dễ dàng là Giê-su thực sự có phép lạ.

Tuy nhiên, Thượng tọa Thích Thiện Châu nói thêm, Phật tử thuộc các tông phái Phát Triển [với quan niệm tôn kính về Giê-su như đã nói ở trên] không tránh khỏi ngỡ ngàng trước những lời cuối cùng có lẽ Giê-su đã thốt ra trên cây Thập ác: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao lại bỏ rơi con?.”

Như vậy, trong các tôn giáo lớn, đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất, về mặt giáo lý cũng như phương cách hành đạo, nhưng, ngược lại, cũng là đạo biết đánh giá cao nhất giá trị tâm linh của đạo Ki-tô. Điều đó càng đúng vào thời đại này, khi mà đạo Ki-tô đã từ bỏ thái độ thù địch cố hữu của mình với mọi tín ngưỡng khác để chấp nhận rằng các đạo giáo đó không phải là âm mưu của quỷ dữ, mà là những cố gắng nhiều khi rất đáng quý nhằm xoa dịu phiền não khổ đau của con người bằng cách hiến dâng họ những hy vọng vào một ngày mai xán lạn hơn. Những quan hệ thường thường rất nồng hậu giữa Phật tử và tín đồ Ki-tô, và nhất là giữa những người đại diện của các cộng đồng đôi bên tại trung Á và đông Á, là những khích lệ lớn và có nhiều ý nghĩa. Trong các kết quả đáng chú ý nhất, phải kể cái nhìn kính trọng và có thiện cảm của đa số người Phật tử thời nay với con người Giê-su, dù là Phật tử xứ nào đi nữa, hay thuộc tông phái nào đi nữa.

(*)Bài thuyết trình của G.S. André Bareau (Giáo sư Collège de France) tại Trung Tâm Văn Hóa Tin Lành dòng Luther, Paris, ngày 11 Tháng 12 năm 1984.

Lời người dịch: Muốn biết rõ tư tưởng của Hòa thượng Thích Thiện Châu về vấn đề này, nên tìm đọc tài liệu bằng tiếng Pháp “Approche du bouddhisme et du christianisme” của HT Thích Thiện Châu
Ngoài ra, vào những thời điểm đó (1980-1990) người theo đạo Ca-tô tại Pháp cũng có nhiều suy nghĩ về vấn đề này. Tìm đọc Tập san Lumière et Vie số 193, tháng 8-1989 (Lyon), đặc biệt với bài của Linh mục Pierre de Béthune: “Le dialogue chrétien-bouddhiste, une expérience spirituelle”.

NGUYÊN TẮC VÀNG KHI TRỒNG CÂY PHONG THỦY





Trong thuật phong thủy nhà ở, lựa chọn loại cây trồng hợp phong thủy ngoài việc cung cấp khoảng không gian xanh cho ngôi nhà còn giúp gia đình bạn khỏe mạnh và hòa thuận hơn.

Theo phong thủy học, không phải bất cứ loại cây nào cũng có thể trưng bày trong không gian sống nhà bạn. Có một số những loại cây sẽ mang lại sinh khí, may mắn cho gia chủ nhưng cũng có một số loại cây lại mang tới những điều không may mắn. Do vậy, việc lựa chọn loại cây trước khi đưa ra quyết định trồng chúng trong nhà bạn phải cân nhắc kỹ lưỡng.



Trồng cây xanh làm không gian sống sinh động hơn.

Chẳng hạn như, các loài cây có lá nhỏ và dài hoặc mọc quá um tùm thường khiến gia đình nảy sinh mâu thuẫn, có thể gây tranh cãi, và sức khỏe. ảnh hưởng không tốt tới cuộc sống gia đình và sức khỏe. Bên cạnh đó, những loại cây có tán lá rộng, tròn và đầy đặn hoặc các loài hoa hay các loại cây có màu lá đậm sẽ tượng trưng cho tiền tài, giàu sang và mang đến nhiều may mắn.



Cây có tán lá rộng được trồng trong phòng khách.

Trên thực tế, những cây thân leo thiên về âm tính, mặc dù hiệu quả trang trí rất tốt nhưng nếu mọc quá xanh tốt sẽ khiến không gian sống của bạn ẩm ướt, ảnh hưởng tớt sức khỏe. Vì thế bạn nên kiểm soát chúng nếu mọc trong vườn nhà.



Dây leo thường mọc dày và nhanh tạo thành vòm cổng xinh xắn.

Cây xanh cung cấp oxi cho không gian sống của bạn nhưng nếu bạn trồng quá nhiều thì không khí ẩm ướt và có khi rất nhiều sinh vật ký sinh hoặc côn trung gây hại ẩn náu trong đó gây ảnh hưởng đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình.



Cây dây leo trang trí đã mọc quá dày và rối mắt.

Ngoài ra, mật độ cây trồng quá dày cũng che lấp ánh sáng vào phòng khiến dương khí bị che đi, ảnh hưởng đến vận may, sự thịnh vượng của gia chủ. Vì thế, khi lựa chọn cây xanh để trồng bạn nên dành chút thời gian để chăm sóc, cắt tỉa, không để cho chúng phát triển tự do vì nếu để như thế chúng sẽ phá hủy nguồn khí tốt tồn tại quanh nhà bạn.



Trồng nhiều cây quanh nhà phải thường xuyên chăm sóc cắt tỉa.

Bên cạnh đó, việc lựa chọn các loại cây và vị trí đạt cũng rất quan trọng. Theo quy tắc truyền thống về ngũ hành bạn có thể dựa vào đặc tính của cây trồng, tính cách con người và môi trường sống để bố trí các loại cây khác nhau ở vị trí phù hợp tạo ra hiệu quả về phong thủy. Cây cối không chỉ làm ngôi nhà thêm xanh mà còn mang lại nhiều may mắn nếu bài trí đúng theo phong thủy nhà ở.

Hồ nước, bể cá hay hòn non bộ trước nhà còn là điểm tụ thủy và tiểu cảnh rất thú vị nếu khéo léo sắp xếp. Cây cối xanh tươi là nơi sinh khí cư ngụ, do vậy sắp xếp hài hòa giữa cây xanh và mặt nước trong nhà chính là giải pháp hữu hiệu và thân thiện với môi trường, giúp cải tạo tích cực khí hậu nơi đó.



Cây xanh hài hòa với mặt nước giúp môi trường trở nên thân thiện hơn.

Phong thủy phòng khách có liên quan mật thiết đến sự hài hòa của vân mệnh và tương lai của gia đình cũng như các mốt quan hệ bên ngoài. Cây hợp phong thủy phòng khách thường là những loại cây hoa nhỏ. Kê các chậu cây lớn tại phòng khách vừa làm không gian chật chội vừa là nơi trú ngụ của muỗi và các côn trùng.



Cây cảnh nhỏ đặt trên bàn là yếu tố không nên thiếu cho phòng khách nhà bạn.

Theo phong thủy, các loài cây như hoa lan, trúc quân tử, anh thảo,… là các loài cây mang đến may mắn và tài lộc. Tuy nhiên bạn không cần phải trồng quá nhiều loại cây trang trí mà chỉ trồng rải rác nhấn nhá nét đẹp ở những nơi cửa sổ, ban công, trên bàn hay cạnh ti vi.

Trồng cây trong phòng ngủ cũng có lợi cho sự nghỉ ngơi và giấc ngủ, hoa lan quân tử có tác dụng thư giãn tinh thần, những loại họa có mùi thơm nhẹ mang lại cảm giác dễ ngủ. Tuy vậy, bạn cũng chỉ nên trồng một cây hoa hay chậu hoa nho nhỏ trong phòng ngủ.

Trên đây là những nguyên tắc quan trọng mà chúng tôi đã chia sẻ để giúp bạn trồng cây theo phong thủy nhà ở, mang lại sức khỏe và hạnh phúc cho gia đình.

Đặc Tính Lãng Mạn Trong Những Năm Đầu Của Cuộc Kháng Chiến Chống Pháp (1946-1954) và Thi Ca Việt Nam Thời Chiến




Phạm Cao Dương



Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết chóc, với gian lao, khổ ải, với tàn phá, hủy diệt, ... mà lại nói tới lãng mạn, hay dù hẹp hơn, tới thi ca lãng mạn là một điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể tưởng tượng được. Nhưng đối với những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc chiến ba mươi năm vừa qua, đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn hoi mà người tìm hiểu khó có thể chối cãi. Nó hoàn toàn đúng ít ra là cho ba năm đầu của cuộc chiến nếu ta tính từ cuối năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới thực sự bùng nổ trên toàn quốc Việt Nam đến năm 1949 là năm Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản của ông làm chủ được Trung Hoa Lục Địa, Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra Đài Loan, biên giới Việt Trung trở thành biên giới giữa hai nước Cộng Sản Á Châu và Quốc Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập, mở đầu cho một giai đoạn mới cho cuộc chiến. Đây chính là ba năm cuối cùng của nửa đầu của thế kỷ hai mươi, ba năm đầu của thời kỳ độc lập hay tranh đấu giành độc lập dưới hình thức này hay hình thức khác, sau một thời gian dài sống dưới sự cai trị của người Pháp. Đây ba năm đẹp nhất của lịch sử chiến tranh của người Việt trong thế kỷ hai mươi, trước khi mọi chuyện đều thay đổi và thay đổi một cách bi thảm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Câu hỏi được đặt ra là do đâu mà đặc tính lãng mạn này đã có thể tồn tại và lãng mạn đã được thể hiện ra sao trong thi ca của thời này?

 Lãng mạn trong thời gian này đã trở thành rất phổ biến trong sinh hoạt của giới thanh niên như là sự tiếp nối phong trào lãng mạn của những năm cuối của thập niên ba mươi và những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi

Ở thời điểm ba mươi của thế kỷ hai mươi người ta nói tới ý muốn thoát ly khỏi cuộc đời nhàm chán, dù cho là chẳng biết để đi đâu trong khi cách mạng hãy còn là một ý niệm mơ hồ và chế độ đô hộ của người Pháp có vẻ mỗi ngày một vững hơn. Sang đầu thập niên bốn mươi tất cả đã đổi khác. Lý do là sự bại trận của người Pháp ở ngay chính nước Pháp và sự thắng thế của quân đội Nhật và sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nếu vào cuối thập niên ba mươi người ta nói tới chuyện

Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang

hay ngồi trước lò sưởi trong một ngày mưa gió, hút thuốc lá, thở khói lên trần... thì vào đầu thập niên bốn mươi, ngưới ta lại sính hát Hòn Vọng Phu của Lê Thương hay tìm hiểu và ngâm những đoạn thơ và vẽ những cảnh diễn tả buổi chia ly tuyệt đẹp và vô cùng lãng mạn trong Chinh Phụ Ngâm:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.


Mọi người dường như chờ đợi và sẵn sàng để làm công việc này.

Khi chiến tranh toàn quốc bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946, tinh thần lãng mạn qua ý niệm thoát ly để đi làm cách mạng từ mơ hồ đến chỗ gần như bế tắc đã được thay thế bằng một thứ lãng mạn yêu nước cụ thể hơn. Người ta sẵn sàng từ bỏ gia đình, từ bỏ quê hương, ruộng vườn để ra đi và ra đi mà không ai trách cứ. Nhiều thanh niên đã hăng hái xung phong gia nhập Vệ Quốc Đoàn, nhiều người không được nhận vì thiếu sức khỏe đã khóc khi phải trở về nhà. Người ta đã ra di để cứu quốc một cách ngây thơ, tự nhiên, đơn giản, không cần biết ai là người lãnh đạo, nói như Phạm Duy ở một chỗ nào đó trong hồi ký của ông.

Trước đó, khi các mặt trận mới chỉ diễn ra ở các thành phố, các lực lượng Tự Vệ Thành đã thu hút một số lớn thanh thiếu niên nam nữ thuộc đủ mọi thành phần từ các sinh viên, học sinh đến những người làm nghề lao động.

Các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao qua những buổi cắm trại hay du ngoạn đã đưa giới trẻ đến chỗ có dịp thoát ra khỏi cuộc sống chật hẹp nhàm chán ở các thành phố hay các phủ hay huyện lỵ của thời bấy giờ để có thể vào rừng, lên núi, ra các miền quê hay bờ biển sống gần với thiên nhiên, tiếp xúc với dân quê hay người miền núi hơn, đồng thời thăm viếng các thắng cảnh hay các di tích lịch sử của đất nước mà trước đó họ chỉ có dịp tiếp xúc qua sách vở hay trong lớp học. Lãng mạn tính thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu thương quê hương, đất nước và đồng bào cũng như cái đẹp của quê hương, đất nước, và của những người dân quê hay miền núi, công lao xây dựng và bảo vệ đất nước của người xưa... của một thế hệ người Việt mới đã nẩy nở trong bối cảnh này.

Những năm đầu của thập niên bốn mươi cũng là thời gian xuất hiện của nhiều bài ca mang nặng tình cảm bình thường của con người cùng tình yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là những bài ca lịch sử. Bắt đầu những bài ca này được phổ biến ở thành thị, sau đã tràn về thôn quê do những cuộc tản cư thời phi cơ Mỹ ném bom các cơ sở của quân đội Nhật hay trong các cuộc cắm trại hay du khảo của các phong trào Hướng Đạo hay thanh niên.

Thi ca lãng mạn thời chiến

Bây giờ nói tới thi ca thời chiến, đúng hơn thi ca lãng mạn thời chiến hay đúng hơn nữa, thi ca lãng mạn trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của người Việt trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, thời quân đội kháng chiến còn được gọi là Vệ Quốc Đoàn, chưa bị đổi tên là Quân Đội Nhân Dân, những năm tôi nghĩ đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của người Việt trong thế kỷ hai mươi, bất kể là do ai lãnh đạo, trước khi mọi chuyện thay đổi. Còn nếu so sánh với cả lịch sử của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là một trong những thời gian đẹp nhất như chính những người tham dự đương thời đã miêu tả như:

Ở thời nhà Trần:

Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong

................
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên Phong

(Thơ Trần Nhân Tông, Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch)

và thời kháng chiến chống Pháp:

Buông tay gầu vui lại thuở bình Mông
Thơ Yên Thao, Nhà Tôi

Nếu người lính già của thời nhà Trần cứ thỉnh thoảng ngồi kể chuyện của thời Nguyên Phong thì những người đã từng là lính hay đã từng sống hay tham dự vào những sinh hoạt ở thời chống Pháp từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1950 cũng không bao giờ quên được những ngày kháng chiến của mình dù là sau này họ sống ở vùng Tề hay ở hậu phương, ở trong Nam hay ở ngoài Bắc, ở trong nước hay ở hải ngoại, dù là họ tiếp tục được sống trong vinh quang hay bị bỏ quên ở một góc phố hay ở một làng thôn hẻo lánh nào đó.

Có điều văn thơ của họ đã được phổ biến mỗi ngày một rộng, từ hình thức những bài chép tay nằm dưới đáy ba lô của những người lính Vệ Quốc Đoàn hay những cán bộ còn nặng đầu óc tiểu tư sản ở ngay chính thời chúng mới được làm, đến những bản in trong các sách vở, những bản phổ nhạc ở miền Nam hay được đưa lên sân khấu ở Hải Ngoại. Nhưng tên tuổi của Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Yên Thao, Hữu Loan... đã được người ta nhắc tới.

Những tác phẩm như Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên Kia Sông Đuống, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đồng Chí, Bao Giờ Trở Lại, Làng Tôi, Màu Tím Hoa Sim... của các tác giả này đã được nhiều người thuộc lòng dù là thuộc một vài đoạn, một vài dòng hay một đôi câu hay ít ra là có thể nhận ra được vì đã được nghe ngâm, nghe hát vào một dịp nào đó trong đời mình, kể cả những người chưa từng được nghe, được học về cuộc kháng chiến chống Pháp của thời cha ông họ.

Nhận xét về các tác giả này, người ta thấy đa số họ là những tên tuổi mới và hầu hết đều rất trẻ. Tất nhiên là rất trẻ cho thời kỳ các tác phẩm của họ được sáng tác. Đa số năm sinh của họ là vào đầu hay giữa thập niên hai mươi, tuổi của những người đã đóng vai trò chính trong cuộc cướp chính quyền của Việt Minh vào tháng 8 năm 1945. Họ cũng là những người có học, đã từng là cựu học sinh các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long.... Điều này cũng có nghĩa là họ đã có dịp tiếp xúc với văn hóa tây phương, trong đó có văn chương lãng mạn Pháp.

Nhưng quan trọng hơn hết họ là những nhà thơ có thực tài, có cảm giác rất bén nhậy với những nhận định tinh vi và đã được sống trong thời kỳ sôi sục nhất của lịch sử dân tộc. Riêng Quang Dũng còn là một người rất tài hoa, phóng khoáng. Cái lãng mạn của họ do đó không phải chỉ khác hơn mà còn phức tạp hơn cái lãng mạn của những nhà thơ lớp trước. Lãng mạn của họ là lãng mạn kết hợp bởi không riêng tình yêu nam nữ mà luôn cả tình yêu gia đình, đặc biệt là tình yêu dành cho người mẹ, người vợ, cho đứa con còn bú, cho xóm làng, bờ sông, ruộng vườn, hình ảnh quê hương thuở còn thanh bình... và đương nhiên cả cuộc kháng chiến với những đồng đội, với đơn vị, với núi rừng, với bệnh hoạn, với cái chết kề bên, với những xóm làng đã đi qua... Chính vì vậy mà có nhà nghiên cứu chỉ xếp Hữu Loan và Quang Dũng vào loại những tác giả lãng mạn, còn các tác giả khác vào loại tranh đấu hay tuyên truyền cho kháng chiến dù là ở một mức cao về nghệ thuật.

Có điều dù xếp thơ của họ vào loại nào đi chăng nữa, người ta phải cũng phải công nhận rằng những thi ca này đã phát xuất một cách tự nhiên, từ tâm hồn của mỗi tác giả. . Chính vì thế mà mỗi người có một phong cách riêng tùy theo bản chất và hoàn cảnh của mình. Ngôn từ họ dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, trong sáng, dễ dàng khiến cho người nghe, người đọc không đến nỗi phải cố gắng, phải căng óc ra để tìm hiểu. Âm điệu cũng vậy. Đa số những bài mọi người ưa thích đều là thơ tự do, nhưng dòng thơ rất tự nhiên, trôi chảy, nhẹ nhàng từ đó lôi cuốn người đọc khác với nhiều bài làm theo cùng thể về sau này.

Trong giới hạn của một bài báo, người viết không thể đi sâu vào từng tác phẩm, từng tác giả mà chỉ đề cập tới hai tác giả chính, được nhiều người ưa thích là Hoàng Cầm và Quang Dũng.

Hoàng Cầm và Quang Dũng, hai người cùng một tuổi, một người sinh ở Bắc Ninh, quê hương của dân ca miền Bắc, một người ở làng Phùng, một làng được người ta biết tới là vừa chăm chỉ làm ăn, vừa ham mê du hí, nói theo Trần Lê Văn, tác giả của một tuyển tập về Quang Dũng. Hai người cùng có trình độ học vấn cao ở thời bấy giờ và cùng dự tính vào nghề dạy học. Nhưng trong khi Hoàng Cầm ở lại với nghề trước khi tham gia kháng chiến thì Quang Dũng, mặc dầu đã ra trường sư phạm nhưng lại bỏ nghề, đi đánh đàn, kéo nhị cho một gánh hát, chỉ làm thày giáo dạy kèm để được đi đây, đi đó, kể cả lên Yên Báy làm ký ga, sau mới về Hà Nội, tham gia cách mạng rồi kháng chiến và kháng chiến thực sự trong đoàn quân Tây Tiến.

Sự khác biệt trong đời sống của hai người đã ảnh hưởng lớn tới thi ca. Thơ của Hoàng Cầm phát xuất từ quần chúng, từ đoàn thể, lấy quần chúng, đoàn thể làm đối tượng nên có lời lẽ bình dị, dễ dàng, lôi cuốn, hấp dẫn, khi thì mạnh mẽ, khi thì sôi nổi, khi thì nỉ non, kể lể, tha thiết..., điển hình là ba bài bài Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa và Bên Kia Sông Đuống. Cả ba đều là thơ ca tụng kháng chiến và cổ võ cho kháng chiến nhưng ca tụng và cổ võ với một nghệ thuật cao, một phong thái tự nhiên vững vàng, không sống sượng
Cả ba bài đều lấy đám đông hay người của đám đông làm khởi điểm với những bối cảnh, những tình tiết của đám đông hay những con người của đám đông, đám đông làm công việc chiến đấu để bảo vệ quê hương với những hình ảnh quen thuộc của quê hương được nêu lên trong truyện kể. Bài Đêm Liên Hoan theo Phạm Duy được làm để thay thế cho một vở kịch thơ mà Hoàng Cầm muốn dựng, hướng vào các Vệ Quốc Quân nhưng vì đội văn nghệ của ông có rất ít người nên cuối cùng ông chỉ có thể làm một bài thơ cho một hay hai người ngâm trên một sân khấu ngoài trời mà thôi. Chính vì thế ta không lấy làm lạ là khi trình bày bài thơ này người ta không thể chỉ có ngâm, chỉ có dùng lời nói để diễn tả mà thôi mà còn phải kèm theo những cử chỉ, những điệu bộ và kèm ngay khi ngâm mấy câu đầu:

Đêm liên hoan đầu người nhấp nhô như sóng biển ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn...






Hoàng Cầm





Phạm Duy



Cũng theo Phạm Duy, Phạm Duy đã cùng Hoàng Cầm diễn ngâm rất nhiều lần trước hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân với những lời lẽ vô cùng tha thiết và đầy hào khí như:

Trong tiểu đội của anh
Những ai còn ai mất?
Không ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi!
Người sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ vững nghìn thu một giống nòi!
Dù ta thịt nát xương rơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam!


Tâm Sự Đêm Giao Thừa kể chuyện người lính nghèo có vợ mới sinh con. Vì nghèo và đang chiến đấu ở chiến trường nên anh lính và cũng có thể chính tác giả không có gì để gửi về cho vợ con ăn Tết. Còn nếu có thì chỉ là ráng lập công để sớm được về. Trong khi đó thì người vợ ở nhà sinh sống bằng bán hàng ở một quán nhỏ, cuối năm ế khách, thiếu ăn, không đủ sữa cho con bú. Người lính tưởng tượng ra cảnh vợ mình đang đói ăn, không có sữa cho con bú, nhưng nghe tin chồng thắng trận thì vui mừng quá, máu bỗng chảy mạnh trong huyết quản, sữa bỗng căng trên đầu vú và đứa con được bú một bữa no trong niềm vui lớn của cả dân tộc.

Ta hãy đọc những đoạn chính của Tâm Sự Đêm Giao Thừa:

Đêm nay hết một năm
Phải gác tới giao thừa
Quê hương chừng rét lắm
Lất phất mấy hàng mưa
Tôi có người vợ nghèo
Đời vất vả gieo neo
Từ khi chồng đi lính
Nhà tranh bóng hắt hiu
Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ
Tóc rối, thân gầy, quán vắng teo.


Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói, con cùng đói
Khóc thét lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa
Ngực lép con nhai đã rã rời...


với bốn câu kết luận:


À ơi! Cha con ăn Tết lập công
Cho sữa mẹ chảy một giòng nghìn thu
Cha đem cái chết quân thù
Làm nên cuộc sống bây giờ của con


Trong bài Bên Kia Sông Đuống Hoàng Cầm dùng lối kể chuyện để giải buồn cho người yêu. Ông đã dùng tất cả những hình ảnh tươi đẹp, hiền lành của quê hương thời thanh bình trước kia và mơ ước một ngày cùng người yêu trở về.

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì



Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

......

rồi Hoàng Cầm kể tiếp những hình ảnh hiền hòa dễ thương của cuộc sống ở quê hương ông như lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ, áo the đen, cô hàng xén răng đen, những cô nàng cắn chỉ môi trầu, những em bé xột xoạt quân nâu... mà chiến tranh đã làm tan hoang phiêu bạt, để cùng người yêu mơ ước một ngày về:

Bao giờ về bên kia Sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.





Quang Dũng



Thơ của Quang Dũng khác hẳn.

Quang Dũng không làm thơ hướng vào đám đông, để tuyên truyền, để cổ võ cho kháng chiến, để thúc đẩy mọi người hy sinh cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Ông làm thơ cho ông hay chia sẻ với bạn bè của riêng ông. Ông nhìn mọi chuyện qua con mắt riêng của ông, trình bày những cảm nhận của riêng ông, của một con người vừa tài hoa, vừa phóng khoáng, độc lập, không chịu sống gò bó, mà trước kia ông đã có dịp thể hiện qua hành động không ở lại với nghề dạy học sau khi đã tốt nghiệp trường sư phạm để đi theo một gánh hát kéo đàn nhị hay lên Yên Bái làm thư ký nhà ga.

Phong thái của ông đã hiện rõ nét trong thơ ông. Đi kháng chiến, theo đơn vị vượt biên giới sang Lào, trải qua nhiều gian lao, vất vả, hiểm nguy, bệnh tật, chết chóc... Nhưng qua thơ của ông tất cả đã trở thành nhẹ nhàng, rất lãng mạn, rất đẹp và rất thơ, không vướng vào những hạt sạn của tuyên truyền.

Ông viết:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Hiu hắt cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống...

hay

Chiêu chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người...

hay:

Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.


Những hình ảnh thật hào hùng khó kiếm được ở những nhà thơ khác đương thời. Cần để ý đoàn quân không mọc tóc không phải là đoàn quân trọc đầu vì theo kỷ luật của quân đội mà là bị sốt rét nặng mà những ai đã từng sống ở miền Bắc trong thời gian tản cư về các miền quê hay miền núi đều có kinh nghiệm.






Bản chép tay rất xưa cũ bài Tây Tiến



Với cái chết, Quang Dũng cũng nhìn với phong thái tương tự, một phong thái bình thản, có thể nói là hồn nhiên của trẻ thơ bởi vì đi lính là đương nhiên người ta phải chấp nhận tất cả dù là gian lao, nguy hiểm, chết chóc, dù là đi lính cho một mục tiêu vô cùng đẹp đẽ, vô cùng lý tưởng như Hoàng Cầm và các nhà thơ khác diễn tả. Nhưng Quang Dũng đã đạt tới một trình độ cao hơn. Ông cảm nhận được sự mong manh của cuộc sống ngoài chiến trận. Một phút trước người ta còn tồn tại, phút sau đã trở thành hư vô. Ông đã chấp nhận sự mong manh đó như người ta chấp nhận trò chơi hồi còn nhỏ. Chán, mệt thì không chơi nữa, không thèm chơi nữa, lúc khác sẽ chơi lại.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

hay

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

hay:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.


Thực sự thì ở đây chết là chết không có chiếu mà chôn.

Những câu thơ kể trên được trích từ bài Tây Tiến của Quang Dũng. Nhưng đó không phải là những câu hay nhất vì trong bài này câu nào cũng hay, cũng xúc tích, cũng gợi nên những cảm xúc sâu xa ở người đọc. Xen vào những câu này, là những câu đầy tình cảm, mang nặng bản chất hào hoa, tiểu tư sản thành thị. Đêm trằn trọc không ngủ được trên đường hành quân, Quang Dũng viết:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

hay ở một bài thơ khác, bài Đôi Bờ:

Khói thuốc khơi dòng thương nhớ xưa
Đêm đêm Sông Đáy lạnh đôi bờ.
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ.


hay trong Đôi mắt Người Sơn Tây:

Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương.

Ngay cả đối với những sinh hoạt mà các văn nghệ sĩ đương thời thường gặp hay tham gia trong những năm này ở vùng kháng chiến như các đêm liên hoan chẳng hạn, khác với Hoàng Cầm, Quang Dũng cũng tham dự nhưng tham dự như là một khách phong lưu, tài tử. Ông không gọi là liên hoan, tiếng thời thượng, ai cũng dùng. Ông dùng hai hai chữ đuốc hoa và kèm theo hai chữ xiêm áo của văn chương lãng mạn cổ điển:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.


và còn nhiều nữa nhưng bài đã quá dài, viết thêm nữa e làm loãng những gì người viết muốn viết hay muốn nói. Xin để cho người đọc suy nghĩ, tìm tòi tiếp.

Kết luận: Khi tham gia đoàn quân Tây Tiến vào năm 1947, một đoàn quân được nói để bảo vệ miền Thượng Lào và biên giới Việt Lào nhưng rất có thể chỉ là để thanh toán những thành phần tiểu tư sản trí thức còn lại của Trung Đoàn Thủ Đô và của Tự Vệ Thành Hà Nội sau khi họ đã làm tròn nhiệm vụ vì ai cũng biết chiến đấu ở các miền rừng núi đoàn quân này không thể nào so sánh được quân đội chính qui của Võ Nguyên Giáp mà để lại ở miền đồng thì nguy hiểm, Quang Dũng làm đại đội trưởng. Cuộc đời binh nghiệp của ông đã không lên cao được hơn nữa, có thể là vì gốc gác của ông cũng như bản chất con người nghệ sĩ phóng khoáng của ông.

Sau này khi về Hà Nội, ông đã được thấy những cảnh bi thảm của vợ con những tử sĩ của thời chiến và đã ghi lại trong bài Đường Chiều Thứ Bảy với những câu như sau:

Tôi đã gặp
Nhiều người vợ trẻ
Đàn ông đã ngã trên chiến trường
Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến
Xót xa thương khóc bao ngày
Chiều thứ bảy hôm nay
Họ đi bên người chồng mới lấy
Và những đứa con
Bước còn bỡ ngỡ
Bên người cha mới hôm qua.
Ai biết được bây giờ
Tâm sự của những người
Ngậm ngùi cất kỹ ảnh chồng
Vào đáy hộp nữ trang
Bến nước đi thêm một bước nữa.

Bài thơ tả chân nhưng cũng có thể mang tính chất biểu tượng. Nó nói lên sự thê thảm, thật là thê thảm của những người được gọi là thắng trận, thê thảm như chính cuộc đời của tác giả, của Hữu Loan, của Nguyễn Hữu Đang và của nhiều người khác... , những người nửa đường đứt gánh. Có điều vì những ngày theo kháng chiến của họ đẹp quá, nên thơ quá nên họ luôn luôn tiếc nuối, bỏ không được, giữ không xong. 

Phạm Cao Dương

Chiều Cuối Đông



Hà Thiên Sơn



Ta cột ngựa bên hàng mận hậu
Chiều đã xuôi về phía chân đồi
Bếp lửa hồng em còn đó đơn côi
Mùi bắp nướng bờ môi tình tứ.

Ta bắt gặp mắt người thiếu nữ
Thoáng u buồn lữ thứ chưa phôi
Chiều cuối đông hoang dấu chân người
Vách đá dựng bên đồi cỏ úa.

Ta với em kề bên bếp lửa
Giọt rượu nồng một nửa chuyền tay
Sỏi đá hồn nhiên nép dưới đế giày
Cũng muốn được một ngày lấp lánh.

Trời về chiều núi rừng thấm lạnh
Em cho ta sức mạnh kẻ xa bầy
Có điều gì chưa uống đã say
Ngựa mỏi gối cuối ngày gõ móng.

Ở Hay Về ? (*)

Trịnh Y Thư

 

 Lâu ngày gặp lại người bạn văn, chưa kịp hỏi han nhau về sức khoẻ, đời sống, viết lách, có tác phẩm nào vừa mới ra mắt độc giả không, anh đã cho tôi cái tin làm tôi khá chưng hửng. Anh bảo tôi anh đang chuẩn bị về sống nốt quãng đời còn lại tại quê hương. Mọi chuyện suôn sẻ và chỉ vài hôm nữa anh lên đường. Anh cũng bảo tôi chỉ có cách đó anh mới tiếp tục viết được, anh thấy đời sống ở nước ngoài càng ngày càng mất ý nghĩa, càng vô vị đối với anh, anh không còn thấy điều gì ràng buộc anh ở ngoài này nữa. Nói chung, anh đã chán cuộc sống xa xứ sau gần ba mươi lăm năm và ở tuổi sắp về chiều anh muốn quay về cố hương, bản quán. Tôi tỏ ý vui mừng cho anh và bên tách cà phê tôi ngồi nghe anh nói về những hoạch định cho tương lai của anh khi trở về quê mẹ. Ở hay về? Đó là câu hỏi ít nhiều vẫn quay quắt trong tâm trí nhiều người chứ không riêng gì tôi. Tình cảm nhớ thương đau đáu của con người đối với nơi chốn mình sinh ra bao giờ cũng sâu đậm, khôn quên. Thời gian, không gian nào cũng thế. Như loài cá hồi, cá trích, khi sinh sống có thể bơi lội nhẩn nha kiếm ăn giữa biển khơi ngoài nghìn dặm, nhưng khi hạn kì đến thì bằng mọi cách và mọi giá, bất chấp gian nan, dù là lao vào chỗ chết, vẫn vượt trùng dương để về lại thượng nguồn nước ngọt nơi chúng sinh ra. Hơn nữa, chuyện hội nhập vào một xã hội Hậu Kĩ nghệ, hằng ngày va chạm với máy móc nhiều hơn là con người, là điều khó xảy ra một cách toàn vẹn đối với nhiều trí thức thấm đẫm dòng suối mẹ ngọt ngào của văn hoá quê hương, một nền văn hoá có truyền thống lâu đời với tất cả những cái đẹp thâm thuý, sâu sắc của nó. Ý thức trở về không hẳn chỉ bị vây hãm, bó rọ giữa những sự việc tủn mủn, vặt vãnh của đời sống. Nó là thái độ của con người đi tìm lại lai lịch, bản nguyên của chính mình (dù con người đó đã mấp mé ở ngưỡng cửa “thất thập cổ lai hi” như anh bạn văn vong niên của tôi). Lẽ đương nhiên, tôi tôn trọng quyết định của anh bạn tôi. Đấy là quyền của anh. Với anh, nó là chính đáng, nó có những lí do của riêng nó. Có thể sẽ có những quá âm chính trị dấy lên ồn ào quanh việc anh trở về bởi anh là nhà văn có tiếng trong cộng đồng, nhưng quá âm chính trị, như mọi câu chuyện thời sự khác, có tính nhất thời; nó đến, gây kinh động ồn ào rồi âm thầm lặng lẽ cuốn gói biến đi; tác phẩm để lại mới là điều quan trọng lâu dài, nó là lí do tồn tại, raison d'être, đối với nhà văn. Nhưng cũng có thể chẳng có gì xảy ra bởi người ta đã nói hết hơi sau việc trở về của nhạc sĩ Phạm Duy cách đây ít lâu. Nói cho cùng, chuyện trở về nước sinh sống bây giờ xảy ra “hà rầm”, thậm chí, bà vợ cũ nổi tiếng của một cựu Phó Tổng thống cũng về mở tiệm phở kinh doanh kiếm tiền. Để kiếm sống, người cạy cục xin đi, kẻ tất tả chạy về. Trong thế giới ngày càng thu nhỏ, co cụm, tất cả chẳng có gì đáng nói, và chẳng ai có thể nhân danh lí tưởng này nọ hoặc những điều cao cả, thậm chí đạo lí, để lên án người thực tâm muốn trở về với thiện ý bao dung, nhân ái. Điều đáng nói là câu hỏi : Việc trở về của một nhà văn tác động gì lên ý thức và thái độ hắn trong văn chương? Liệu hắn sẽ là người viết khác khi hắn trở về bản quán nơi hắn sinh ra sau thời gian dài sinh sống ở nước ngoài? Môi trường sinh sống; thổ ngơi chính trị; động hình xã hội; nhận thức chủ quan đối với người và việc; cảm quan và khí hậu nghệ thuật nói chung vốn ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên cảm nhận và thái độ tiếp nhận của người đọc; quy luật kinh tế thành văn cũng như bất thành văn; sự tự do của ngòi bút do áp lực chính trị lẫn kinh tế; và có lẽ quan trọng hơn cả, hắn có cảm thấy hắn vẫn là kẻ lạ ngay trên chính quê hương mình hay không. Tất cả là những yếu tố khách quan lẫn chủ quan định đoạt cho sự thành bại trong việc trở về. Xem ra sự trở về của nhà văn - khác với sự trở về để mở tiệm phở - là khá phức tạp, ngoại trừ trường hợp nhà văn về cũng để mở tiệm phở cạnh tranh với cựu Phó Tổng thống phu nhân. Ngày nay có khá nhiều nhà thơ, nhà văn Việt Nam trở về, nhưng tôi không rõ họ hài lòng hay thất vọng với quyết định ấy của mình, một quyết định mà tôi nghĩ không dễ dàng chút nào, bởi ngay cả nhiều nhà văn thành danh trên thế giới, sau một thời gian dài sống lưu vong, khi điều kiện trên quê cũ đổi khác theo chiều hướng thuận lợi, vẫn thường gặp ít nhiều khó khăn trong quyết định trở về. Nếu cần, tôi có thể đưa ra dăm ba trường hợp các nhà văn này. Trước hết phải kể đến Aleksandr Solzhenitsyn. Năm 1974 ông bị nhà nước Sô- viết tước bỏ quốc tịch Nga và trục xuất ra khỏi nước, nhưng sau gần hai thập kỉ sống ở nước ngoài (phần lớn trên một sơn trại thuộc bang Vermont, nước Mĩ), ông trở về. Ít ai ngạc nhiên hoặc thắc mắc chuyện ông trở về. Ông là người nặng lòng với quê hương và dân tộc. Sau khi chế độ Cộng sản Sô-viết sụp đổ, ông không có lí do gì không trở về. Hơn nữa, ông chán ghét cuộc sống Tây phương. Cánh hữu dùng ông như công cụ tuyên truyền cho chủ thuyết chống Cộng của họ; còn cánh tả thì lên án ông là người có tinh thần quốc gia cực đoan và nệ giáo (Chính Thống Nga). Văn hoá Tây phương vốn nghiêng nặng về mặt đại chúng, mang nhiều sắc thái tiêu thụ, cũng khiến ông cảm thấy bức bối, xa cách. Sau khi hồi hương, mặc dù được mọi người, kể cả Tổng thống Vladimir Putin, kính nể và trọng vọng, ông vẫn có cảm tưởng là kẻ đứng ngoài cuộc. Ông cho đăng vài truyện ngắn trên báo chí nhưng giới trẻ đã có con đường đi của họ và họ xếp ông lại như món đồ cổ đem trưng bày trong bảo tàng viện. Kì thực, trước đấy, ông đã làm tròn sứ mệnh và nhiệm vụ cực kì khó khăn của một nhà văn sống giữa kỉ nguyên của bạo lực điên khùng, với quê hương ông và với cả thế giới. Việc ông trở về giống như đoạn kết có hậu của vở bi kịch dài và đã nói hết những điều cần nói. Người thứ hai tôi muốn nhắc đến là nhà viết tiểu thuyết người Tiệp Milan Kundera. Bảy năm sau biến cố “Mùa Xuân Praha” năm 1968, ông chọn cuộc sống lưu vong ở Pháp. Sau cuộc “Cách Mạng Nhung” - một cuộc cách mạng lãnh đạo bởi giới văn nghệ sĩ và trí thức Tiệp mà người lên làm Tổng thống sau đó chính là bạn thân của ông, nhà viết kịch Václav Havel - thể chế dân chủ tái lập trên quê hương ông, nhưng ông không trở về sống hẳn trong nước mà chỉ về thăm viếng như người khách. Dân Tiệp (tương tự dân Việt mình) xem nhà văn là kẻ sĩ của thời đại. Họ ngước lên nhìn nhà văn như ngọn đuốc soi đường. Trong mắt họ nhà văn là lương tâm dân tộc, là chứng nhân của Lịch sử, là kĩ sư tâm hồn, trong khi ông đặt trọng tâm của tiểu thuyết vào tính nghệ thuật khai phá theo con đường kế thừa chung của tiểu thuyết châu Âu từ thời Rabelais, Cervantes… Ông xem Lịch sử chỉ như tấm phông cho tiểu thuyết. Câu nói nổi tiếng của ông, “Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu hạ sử gia” có lẽ nói lên điều này rõ rệt nhất. Bởi thế ông không có độc giả trong nước. Đó là điều nghịch lí khá oái oăm cho một nhà văn: được cả thế giới hâm mộ nhưng chính dân tộc mình thì quay lưng lại. Thờ ơ. Quên lãng. Thậm chí có kẻ không xem ông là người Tiệp. Tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, cuốn Đời nhẹ khôn kham, mãi đến năm 2006 mới thấy xuất bản ở Cộng hoà Czech trong khi cả thế giới đã đọc từ lâu. Ngày nay độc giả của Kundera là thế giới chứ không phải người Tiệp. Và mặc dù không ai có thể nghi ngờ lòng ái quốc của ông, tôi nghĩ đấy là lí do chính khiến ông thấy không cần thiết phải trở về. “Hình phạt bi thảm nhất cho người cầm bút là phải sống lưu vong.” Nhà thơ lừng lẫy của nước Nga Yevgeny Yevtushenko có lần bảo thế. Ông ví người cầm bút sống ngoài quê hương mình như kẻ đánh đu trên cao mà không có lưới đỡ bên dưới. Cái lưới bảo hiểm ấy chính là đất nước, xóm làng, sông biển, núi đồi nơi mình sinh trưởng và những con người cùng chủng tộc, ngôn ngữ, tập quán, văn hoá chung quanh. Yevtushenko là một trong những nhà thơ kì vĩ nhất của văn học Nga vào nửa sau thế kỉ XX. Ông nổi tiếng nhờ những bài thơ đầy chất “lửa”, như bài Babe Yar viết dưới thời Sô-viết. Thơ ông đi sâu vào đại chúng Nga bởi nó có tính trình diễn, dễ tác động lòng người, gây cảm xúc mạnh lên một dân tộc yêu chuộng thơ ca. Nhưng khác với những nhà văn, nhà thơ phản kháng khác thời đó (như Joseph Brodsky), ông không chọn đời sống lưu vong. Tuy vậy, sau khi chế độ Sô-viết sụp đổ toàn diện thì người ta thấy ông dọn nhà sang bang Oklahoma, Mĩ quốc, nhận một chân dạy học nhàn nhã tại đó. Tại sao? Xã hội Nga hậu Cộng sản hết thử thách và hứng khởi cho ông làm thơ rồi chăng? Chẳng lẽ nhà thơ chỉ sáng tác được khi chính mắt chứng kiến bạo lực và bất công? Hay ông nhận thấy mình đã hoàn tất nhiệm vụ của một nhà thơ và ông lặng lẽ rút lui khỏi khán trường? Từ lâu, tôi không theo dõi nhà thơ này nữa nên nhận định của tôi có lẽ là không đúng đắn. Nhưng, cũng từ lâu, người ta không ngớt thắc mắc, đúng hơn, tranh cãi kịch liệt về con người cũng như thái độ sống của ông. Người thứ tư tôi nghĩ đến là Cao Hành Kiện. Từ năm 1988 cho đến ngày nay, ông sống lưu vong ở Pháp quốc. Ông là nhà văn đầu tiên của Trung quốc được trao tặng giải Nobel văn chương (năm 2000), một vinh dự không nhỏ cho nền văn học Trung văn đương đại. Thế nhưng, nhà nước Trung quốc trước sau duy trì thái độ thù nghịch đối với ông. Báo chí Hoa lục gọi ông là một nhà văn dở tệ và không tiếc lời bỉ báng chuyện ông được giải Nobel. Không cần nói nhiều, Cao Hành Kiện vẫn sinh sống ở Paris chứ không xách va li quay về quê cũ, mặc dù Trung quốc ngày nay đang trên đà phát triển vũ bão tiến lên thành siêu cường kinh tế và quân sự trên thế giới. Còn nhiều trường hợp khác nữa. Brandys, Gombrowicz, Brodsky... Gần như tất cả hoặc là nạn nhân hoặc không chấp nhận sống dưới những thể chế toàn trị của khối Cộng sản Đông Âu, nhưng không phải ai cũng xách va li xếp hàng lũ lượt nối đuôi nhau bước lên phi cơ trở về quê cũ sau khi các thế lực chính trị ấy suy tàn. Có sự nghịch lí nào ở đây chăng? Quả tình tôi không nghĩ thế. Ngọn suối nguồn cho sự sáng tạo của người nghệ sĩ thường bắt rễ rất sớm, từ những năm tháng của tuổi ấu thơ hoặc thời tráng niên mới trưởng thành. Sau khi lớn khôn, trải nghiệm sống và kiến thức của người nghệ sĩ có thể là phong phú, già dặn hơn trước nhiều, nhưng nền tảng cho sự sáng tạo của hắn vẫn nằm nơi tiềm thức, kí ức, tập quán và ngôn từ của tuổi ấu thơ. Bởi thế, dứt bỏ ra khỏi nền tảng ấy để thâm nhập vào một khí quyển mới, hoàn toàn xa lạ, đòi hỏi hắn phải vận dụng những nỗ lực phi thường mà không phải ai cũng có khả năng làm được. Thế rồi, sau một thời gian dài sinh sống nơi nước ngoài, cái đau hoài hương trong lòng người nghệ sĩ dần dà phai nhạt để nhường chỗ cho cái đau của sự lạ hoá. Sự việc biến thiên theo chiều nghịch đảo : cái thân quen biến thành cái xa lạ và ngược lại. Trở về thăm viếng nơi mình sinh trưởng sau một thời gian dài xa cách, gần như ai cũng cảm thấy nỗi đau này. Nó lạ lùng một cách tàn bạo. Dù cố gắng cách mấy người ta vẫn không thể tự đánh lừa được cảm giác xa lạ, lạc lõng, tách rời. Mảnh đất nơi mình sinh ra biến thành nơi chốn mới, không còn là của mình nữa. Lịch sử của mảnh đất đó không có chỗ đứng cho mình, nó tàn nhẫn gạt mình ra ngoài lề. Lằn ranh biên giới giữa nhớ và quên như bị xoá sạch, không còn cái gì đáng nhớ, sự lãng quên như bị sai khiến bởi vô thức. Kí ức vẫn còn đấy trong bộ nhớ nhưng nó như bị ảo hoá, trở nên không thực. Sự lạ hoá này cũng thật là tàn bạo bởi cùng lúc nó để hiển lộ khía cạnh hiện sinh của thế giới con người : con người là sinh vật không có bản nguyên, căn tính của hắn không là cái gì bất di dịch. Hắn bị ném ra ngoài thế gian này mà không hề biết tại sao. Hắn như nhà phi hành đi bộ ngoài không gian bị đứt dây buộc với phi thuyền mẹ và cứ thế dật dờ trôi giạt mãi về khoảng không gian huyền tẫn mịt mù. Trịnh Y Thư -------------------------------- (*) từ Tạp bút “Chỉ Là Đồ Chơi”, cùng tác giả, tạp chí Hợp Lưu (Hoa Kỳ) xuất bản

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

Hòn đá xấu xí





Trước của nhà tôi có một hòn đá xù xì. Nó đen sì nằm sấp như một con trâu, chẳng ai để ý đến nó. Mỗi mùa gặt hái, phơi rơm rạ trước cổng, bà tôi lại bảo: “Hòn đá vướng quá, phải vần nó đi mới được!”




Nghe bà nói vậy, bác tôi đang làm nhà muốn lấy hòn đá đó làm tường, nhưng khổ nỗi nó chẳng ra hình thù gì, không bằng phẳng cũng không góc cạnh, dùng búa đục đẽo thì tốn sức quá, thành ra hòn đá vẫn nằm chỗ cũ. Ngay cả bác thợ đá đến làm cho gia đình cái cối đá, bà tôi bảo ông ấy lấy quách hòn đá đi, ông ấy cũng ngắm nghía rồi lắc đầu.

Không ai đoái hoài, hòn đá xù xì vẫn nằm trơ ra đó. Nằm phơi nắng mưa lặng lẽ, bóng râm cũng không che được nó, hoa cũng không mọc được trên mình nó. Chỉ có cỏ dại và dây leo bao phủ lên nó. Bọn trẻ chúng tôi ghét nó tợn, đã cùng hè nhau vần đó đi nhưng không sao xê dịch được. Chỉ còn biết bực mình, mắng mỏ nó và cứ để hòn đá xù xì xấu xí nằm chết dí ở đó.

Ai cũng chê hòn đá vô dụng và xấu xí đến mức không thể xấu xí hơn được nữa. Chỉ duy nhất có nhà thiên văn tình cờ đi qua nhìn thấy nó thì lập tức bị nó cuốn hút. Ông dừng lại tìm tòi điều gì đó rồi sau đó có một tốp người kéo đến khám khám phá phá, sau đó kết luận đó là hòn đá rơi từ vũ trụ xuống đã vài ba trăm năm.

Nghe vậy, bọn trẻ chúng tôi tròn mắt ngạc nhiên. Hòn đá vừa xấu xí vừa lì lợm tai quái này hóa ra từ trời cao rơi xuống. Và theo như nhà thiên văn thì nó từng đã vá trời, từng tỏa nhiệt và tỏa sáng cho bầu trời và dĩ nhiên là cả mặt đất. Tổ tiên chúng ta có lẽ đã nhìn thấy nó và nó đã từng đem lại ánh sáng cho tổ tiên ta. Bà tôi thì bảo: “Chẳng thể nào nhận ra được, hòn đá thật không bình thường, ngay cả xây tường cũng không xây được, bậc lên xuống cũng chẳng thể lát được!”. Nhà thiên văn cười cười đáp lời bà: “Nó xấu xí quá mà!”. Bà lại hưởng ứng: “Phải, nó xấu xí đến mức không thể xấu xí hơn!”. Nhà thiên văn lại nói: “Nhưng đó chính là cái đẹp của nó. Nó đã lấy xấu làm đẹp!”. Bà tôi lấy làm ngạc nhiên: “Lấy xấu mà làm đẹp ư?”. Nhà thiên văn chậm rãi nói: “Đúng, với hòn đá này, xấu đến tận cùng chính là đẹp đến tận cùng. Chính vì thế nó không phải là thứ để xây tường hay lát bậc lên xuống, cũng không thể chạm trổ hay để giặt quần áo. Nó không phải là thứ để làm trò ấy, cho nên thường bị người đời dè bỉu chê bai”.

Nghe nhà thiên văn nói, bà tôi đỏ mặt ngồi im. Tôi cũng đỏ mặt. Tôi cảm thấy xấu hổ và cũng lờ mờ cảm thấy sự lạ thường lớn lao của hòn đá. Sự lớn lao đến mức vĩ đại ở chỗ, hòn đá đã âm thầm chịu đựng mọi sự chê bai và âm thầm bướng bỉnh là chính nó.

Sau đó không bao lâu, hòn đá đựơc nhà thiên văn và nhóm cộng sự đưa xe ô-tô đến đón đi. Thầy Đề (rút gọn)

GIẢ BÌNH AO (Trung Quốc)