Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

Biệt khúc




Tìm nhau chi nữa, anh?
Tháng Mười cơn mưa vụng
Mùa thu vàng hoa cúc
Bầy sẻ trốn rong chơi.

Gọi nhau chi nữa, anh?
Vườn xưa giờ thăm thẳm

Chiếc lá nằm co quắp
Đếm từng mùa biệt ly.


Nhắn nhau chi nữa, anh?
Biển bạc đầu giá lạnh
Sóng trùng trùng ngăn cách
Ngắt nghẹn lời trăm năm.

Biệt nhau chi nữa, anh?
Môi đắng cười ngô nghê
Mắt buồn thôi ngấn lệ
Cơn đau nào chới với...

Đừng tìm nhau, anh ơi
Giá băng đã xuân thì
Để mùa xưa yên nghỉ
Trên đỉnh đời hoang mê.

Tìm nhau chi nữa, anh?


10/2015
Sẻ
Đoản khúc cuối cho người.

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

N ÉT Đ Ẹ P T I Ế N G V I Ệ T Khẩu âm gốc - Tiếng Việt chuẩn




“Tôi nói tiếng ba miền (phần cuối)”
Lê Bá Vận


Tiếng Việt được gần 90 triệu người nói, đứng hàng thứ 12 trên thế giới gồm khoảng bảy ngàn ngôn ngữ khác nhau. Các nhà ngôn ngữ học xếp tiếng Việt vào nhánh Mon-Kmer thuộc ngôn ngữ Austro- Asiatic (Đông Nam Á). ‘Mon’ là vùng Pegu của Miến Điện.


Có 3 loại từ ngữ trong tiếng Việt : 1) chữ nôm. 2) chữ nho. 3) chữ Pháp/Anh.
Tiếng nôm ví dụ : cha mẹ, trời đất, mưa gió, làm ruộng… là tiếng cùng chung dòng họ với tiếng nói các nước ĐNÁ : Kmer, Chàm, Lào, Thái, Nùng, H’mong, Bahnar, Rhade, Malay, Indonesia…ví dụ từ ngữ”chó”(Việt), là ‘chó’ (Miên, Lào,Thái), ‘chío’ (Mường). Văn phạm Kmer giống văn phạm Việt Nam.
Chữ nho. Là tiếng Hán-Việt, mượn của Trung Quốc, ví dụ “bình đẳng, bác ái”, có thể viết ra bằng chữ Hán, song đọc theo lối Việt nam. Chữ nho đã thành Việt hóa, có quốc tịch Việt, đặc biệt các từ trừu tượng. Song le văn phạm Hán và Việt khác nhau cơ bản về vị trí tính từ và danh từ. Ta nói ‘ngựa trắng’, ‘bay cao’ người Hoa nói ‘bạch mã’, ‘cao phi’. Hiện nay tiếng Việt đang du nhập thêm nhiều tiếng Hán Việt mới cho nhu cầu từ ngữ chính trị, nhân văn, xã hội…Nếu dùng có chọn lọc thì điều này là tốt.
Tiếng Pháp/Anh khoảng một thế kỷ nay, không nhiều, vài trăm chữ, xem như đang hưởng qui chế thường trú : xà phòng, ga ra, tennis, cà rem… Việt nam ngày càng cần thêm từ ngữ về khoa học kỹ thuật mượn từ các nước tiên tiến Âu Mỹ.


Tiếng Việt đơn âm, không đổi dạng, do đó được xem thua kém các ngôn ngữ khác đa âm, về phương diện tạo từ ngữ mới cũng như văn phạm kém chặt chẽ! Bù lại, có rất nhiều ‘âm’ và ‘thanh’, tiếng Việt đã phát huy được các thế mạnh riêng biệt để tạo những nét đẹp của nó, như sau :
-Sự phong phú các từ kép.
-Sự linh động về văn phạm.
-Tính họa vần của ngôn ngữ.


*Sự phong phú các từ kép.

Ta thường nói: xanh lè, đỏ lòm, trắng xóa, tím ngắt, vàng khè…
Riêng ‘trắng’ có 20 loại, trắng bạch/ bệch/ bóc/ bong/ bốp/ dã/ đục/ hếu/ lốp/ muốt/ ngà/ngần/ ngồn ngộn/nõn /nuột/ phau/tinh/ toát/trẻo/xóa. Ngoài màu sắc lại có các từ ngữ kép: trắng án, trắng chân, trắng đen, trắng mắt, trắng răng, trắng tay, trong trắng, trắng trớt.
Thí dụ trên cho thấy các từ kép thành lập chỉ đơn giản viết kề trực tiếp các ‘từ’, mỗi ‘từ’ trong từ kép đứng riêng có thể vô nghĩa.
a-Tính từ, phó từ: xun xoe, khệnh khạng, ba lăng nhăng, hốc hác, lộn tùng phèo…
b-Danh từ : xe ngựa, tủ lạnh, áo ấm, ống nghe, máy ảnh …Có 75 từ kép về “xe”, 67 về “máy”v.v… (Từ điển Việt-Anh, Viện Ngôn ngữ học,1999).
c-Động từ : ăn năn, làm tới, áp đặt, mày mò, máy mó…Có 108 từ kép về “ăn”, 103 về “nói’, 102 về “làm”, 16 về “chơi”v.v… cũng theo Từ điển trên. Nhiều từ kép chỉ có thể chuyển Anh ngữ bằng giải thích, như ăn vã ( ăn không cơm), nói leo, chơi trèo…


Các từ kép Việt nam thiên hình vạn trạng, phong phú hình ảnh, màu sắc, tình huống. Chúng tương đương với từ ngữ đa âm, nhất là đã có ý kiến mạnhdạn viết chúng liền nhau : chắpvá, bépxép, sungsướng, máybay…Các từ kép được thành lập dễ vì tiếng Việt rất ưa nói gọn, nói tắt và văn phạm lại cho phép mà không gây hiểu lầm nghĩa. Ví dụ: máy lạnh, máy dệt, hiệu ảnh, xe thơ …người Hoa nói: lãnh khí cơ, chức bố cơ, chiếu tướng quán, bưu chính xa…tuy nhiên ‘băng tương, tín tương, y quỹ’… là ‘tủ lạnh, hộp thơ, tủ áo’.
Mặt khác chúng ta lại có thể tạo nhiều từ ngữ mới từ số còn tồn kho trong ngữ vựng :
Ví dụ : nam, nàm, nám, nảm, nãm, nạm , 3 từ ngữ nàm, nảm, nãm chưa được dùng.
Xoe, xòe, xóe, xỏe, xõe, xọe, 5 từ ngữ chưa được dùng.
Xun, xùn, xún, xủn, xũn, xụn, tất cả 6 từ ngữ chưa được dùng.
Các từ kép lắm khi gây tranh luận thú vị để tìm hiểu ý nghĩa, nguồn gốc.
-‘Bánh tét’, nhiều người cho rằng ‘tét’ là do ‘tết’ đọc trại ra. Song lại có người nghĩ rằng sành ăn thì không dùng dao cắt mà dùng sợi lạt buộc bánh, khoanh tròn tét bánh ra.
-‘Vợ chồng’, được giải thích gợi ý hình ảnh động tác dưới ‘bợ’ trên ‘chồng’. Song không nên gán cho người Việt xưa thiện lương những dâm ý này. Các dân tộc khác cũng vậy. Chữ ‘vợ’ không do chữ ‘bợ’ mà ra. Chữ ‘chồng’ có 2 nghĩa: người chồng và chồng chất, 2 nghĩa không liên quan gì đến nhau.
-‘Chợ búa’, trong chợ bán búa?, lại còn hóc búa, hắc búa, búa xua...! Có ý kiến ‘búa’ trong ‘chợ búa’ không phải là kềm búa mà chỉ là một tiếng đệm vô nghĩa cũng như ta nói ‘bếp núc’, ‘đồng áng’, ‘góa bụa’...là những từ kép.
- ‘Vẫn còn xuân’, trong bài “Cô gái xuân” câu đầu là “Em như cô gái vẫn còn xuân”, lẽ ra phải nói “mới vào xuân”??


*Sự linh động về văn phạm.

Ở đầu bài tôi viết : “Tiếng Việt được gần 90 triệu người nói, đứng hàng thứ 12 trên thế giới gồm khoảng bảy ngàn ngôn ngữ khác nhau”. Như vậy văn phạm không chặt chẽ, có thể hiểu hoặc tiếng Việt hoặc trên thế giới gồm 7000 ngôn ngữ khác nhau. Phải viết ‘và gồm’ hoặc ‘mà gồm’. Một ví dụ khác “Đâu cần thanh niên có. Đâu khó có thanh niên”. Có thể hiểu ‘ở đâu cần, ở đâu khó thì có thanh niên’ hoặc ‘không cần, không khó có thanh niên’. Do đó nghĩa của câu tùy nội dung. Thêm một ví dụ: “Trường hợp ông có rất nhiều”. Nghiêm túc thì phải nói: “Trường hợp như ông có rất nhiều”.
Tiếng Việt được nói bởi gần 90 triệu người, có đặc điểm hay nói tắt cho gọn nhẹ, rất dễ bị bắt bẻ về văn phạm lỏng lẻo nhất là khi viết câu dài gồm nhiều mệnh đề. Thời Pháp thuộc xưa học trò làm luận trong bài năng dùng “thì là mà của bởi” để giúp văn phạm chặt chẽ giống văn Pháp thì lại bị thầy giáo chê văn nặng, viết văn tây và khuyên viết văn câu ngắn. Nói vậy chứ hiện nay rất nhiều người viết nhẹ nhàng, linh hoạt văn phạm, chỉ chặt chẽ khi cần thiết.


Thực vậy nét đẹp trong văn phạm Việt nam là nằm trong sự linh động, mềm dẻo.
Hãy so nghĩa câu: “Sao không bảo nó đến” và các câu hoán từ: “đến sao không bảo nó”, “bảo nó đến sao không”, “nó đến sao không bảo” v.v…thì biết tiếng Việt nói xuôi ngược dọc ngang gì cũng xong mà vẫn đúng văn phạm, cho ta cảm tưởng xem một người làm xiếc uốn éo bẻ gập tay chân đầu cổ, thân hình mềm như con bún, khó tưởng tượng.Tiếng Việt là mềm dẻo như vậy.
Điển hình là những bài thơ thuận nghịch độc mà dưới đây là một:
Cảnh xuân

“Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời,
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi.
Hoa cài giậu trúc cành xuân biếc,
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi.
Qua lại khách chờ sông lặng sóng,
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người.
Xa gần tiếng hát đàn trầm bổng,
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.

Vô danh.
Bài này có 8 cách đọc: đọc ngược xuôi, cắt đầu xén đuôi mà vẫn hay, vẫn mượt mà: 1-đọc xuôi. 2-ngược. 3-xuôi, bỏ 2 chữ đầu. 4-ngược, bỏ 2 chữ cuối. 5-ngược, bỏ 3 chữ đầu. 6-xuôi, bỏ 3 chữ cuối. 7- xuôi, bỏ 4 chữ đầu. 8-ngược, bỏ 4 chữ cuối.
Bài thơ đối đáp giữa Nguyễn Trãi và Thị Lộ cũng tiêu biểu:
Vấn: Cô ở đâu mà bán chiếu gon? Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn, Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi, Đã có chồng chưa, được mấy con? Đáp: Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon. Cớ chi ông hỏi hết hay còn,
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ, Chồng còn chưa có hỏi chi con.
Ba chữ cuối “hỏi chi con” có 2 nghĩa”: ‘hỏi chi về con’ hoặc ‘hỏi chi hở con’; cả 2 nghĩa văn phạm Việt nam rất linh động đều chấp nhận. Nếu là tiếng Pháp hoặc Anh thì mỗi ý nói mỗi cách, cố chuyển nguyên văn từng chữ là nói tiếng ‘bồi’, lỗi nặng văn phạm.


Nói lái cũng thể hiện sự mềm dẻo của tiếng Việt. Nói lái ngụ ý xỏ xiên, trào phúng mà lắm khi tục tỉu: tranh đấu/trâu đánh/tránh đâu, chôm đồ nhà, chà đồ nhôm, cậu nhứt cậu? và câu nói lái của Trạng Quỳnh ghẹo một bà chúa “nắng cực cho nên phải đá bèo”. Nói lái đã tạo ra nhiều giai thoại trong văn chương. Tôi có lần muốn đặt bút hiệu, cách đây cũng vài chục năm. Tên tôi là “Vận” tức là ‘vân+dấu nặng’, tức là “Vân Trọng” hoặc “Trọng Vân” nghe rất hay, song vì nói lái thành “Trận Vong” nên đành thôi, bằng không chắc chết trận từ lâu. ‘Có kiêng, có lành’. Hiện nay tôi có khi đơn giản lấy biệt hiệu là “Van le”.
Tiếng Việt cũng có khi tưởng như tự mâu thuẫn, song lại có cái lý của nó, ‘ý tại ngôn ngoại’, ví dụ “đánh thắng quân địch” (ta thắng) đồng nghĩa với “đánh bại quân địch” (địch bại)’; “áo ấm” (giúp ấm) đồng nghĩa với “áo rét” (chống lạnh); “nín thinh” (nín tiếng) đồng nghĩa với “làm thinh” (làm sự nín tiếng). Có người nói “làm thinh” thực ra là “hàm thanh”, ‘hàm’ là chữ Hán có nghĩa là ‘ngậm’ (im hơi ngậm tiếng); cũng là một lối giải thích nhưng chắc không phải; 2 phụ âm ‘l’ và ‘h’ không có liên hệ thân quyến gì; “trên búa dưới đe” (ở trên có búa, ở dưới có đe) đồng nghĩa với “trên đe dưới búa” ( nằm trên đe, dưới búa); “mày ngu hơn nó”và “mày ngu thua nó” đồng nghĩa (mày ngu hơn nó/ mày ngu và thua nó); “ nhẹ thêm…,giảm thêm..., mất thêm...”, đồng nghĩa với “nhẹ bớt…, giảm bớt…, mất bớt…”.


*Tính họa vần trong ngôn ngữ.

Ngoài thi ca, tiếng Việt còn ưa lối nói có vần, được thể hiện rõ nét trong sự hình thành các thành ngữ, tục ngữ phản ánh mọi khía cạnh trong cuộc sống hàng ngày. Trong số 12 ngàn thành ngữ-tục ngữ tuyển chọn, có 400 bắt đầu là ‘từ’ “ăn”, 220 “có”, 180 “làm”, 80 “người”, 70 “được” v.v…(Thành ngữ-tục ngữ Việt Nam, Thùy Linh biên sọan, Nhà xuất bản Lao Động-Xã Hội 2007). Thâm thúy và phong phú chúng là kho báu của văn hóa dân tộc. Thành ngữ là một phần câu chưa diễn đạt một ý trọn vẹn, tục ngữ là một câu hoàn chỉnh. Chúng được cấu trúc theo 3 thể loại: 1-tự lập. 2- dùng từ kép. 3- dùng vần
1*Thành ngữ - tục ngữ tự lập: Cá mè một lứa, Dầu sôi lửa bỏng, Đỏ mặt tía tai, Gan cóc tía, Kinh hồn bạt vía, Lo sốt vó, Sát khí đằng đằng, Đánh đu với tinh, Đỉa đeo chân hạc, Già néo đứt dây, Giơ đầu chịu báng, Lạt mềm buộc chặt, Lấy thịt đè người, Muỗi đốt chân voi, Ngang như cua, nhát như cáy, Ngựa quen đường cũ chạy về, Tránh voi chẳng xấu mặt nào, Trèo cao ngã đau, Tức nước vỡ bờ, Vạch lá tìm sâu…
2*Thành ngữ - tục ngữ dùng từ kép : ví dụ từ kép là “ăn mặc” sẽ cho thành/tục ngữ “ăn Bắc mặc Kinh”, từ kép “bụng dạ” sẽ cho “bụng làm dạ chịu”, ăn bờ ngủ bụi, ba hồn bảy vía, bồ trong bịch ngoài, cũ người mới ta, dao to búa lớn, đầu voi đuôi chuột, được ăn thua chịu, gả đi bán lại, giơ nanh giơ vuốt, ơn cả nghĩa dày, tre già măng mọc, vợ đẻ con đau, xa thươnggần chán…hoặc : còn nước còn tát (dùng từ lặp).
3*Thành ngữ dùng vần: Ăn quen bén màu, cận đâu xâu đó, có mới nới cũ, có tật giật mình, được làm vua thua làm giặc, được voi đòi tiên, giả dại qua ải, làm ả ngả mặt lên, năng nhặt chặt bị, ngủ ngày cày đêm, nói phải củ cải cũng nghe, nói trước bước không qua, nước sông công lính, ông ăn chả bà ăn nem, quyền giả vạ thật, thằng dại làm hại thằng khôn, theo sướng bướng khổ, thuận sống chống chết, tướng mất sĩ như đĩ mất váy, vợ chồng cũ không rủ cũng tới, xôi hỏng bỏng không, yêu con chị vị con em…

*Nhận xét một số đặc điểm:

a-các biến ý: “Ăn cho/chưa no lo cho/chưa tới” và “Ăn cho no đo cho thẳng. ”Bắt được tay day được trán”/( day được cánh, Huế). “Chờ được vạ má đã sưng” và “Chờ mạ má sưng”, tiếng Huế.
“Nói gần mần xa”, “Sức đến mô xô đến đó… là của Huế, Bình Trị Thiên. ” Cũng như “gian thâm lậm mạt” hoặc lầm mạt.
b-thêm thắt: “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Thêm vào “Miệng không vành bóp méo như chơi/nhiều nơi” (miền Nam).
Tôi có khi cũng tấp tểnh thêm thắt : ”Giảng kinh cho Thích ca”, tôi thêm: “dạy hỏi ngã cho người Bắc” hoặc “ Tránh ô mồ gặp ô mả”. Thêm “Tránh sóng cả gặp đá ngầm”. “Con dài cái rộng, con động cái/cây yên” để chỉ cách xử dụng các loại từ ‘cái’ và ‘con’…Miễn sao, tức tình tức cảnh, nói cho có vần.
c-đối chiếu tục ngữ Hoa : Nhiều tục ngữ Việt nam lấy ý từ tục ngữ Trung Quốc và ưa nói theo vần: ‘Chiết quăng tri y’/gãy tay hay thuốc. ‘Cương tắc thổ nhu tắc nhự’ (cứng nhả mềm nuốt) mềm nắn rắn buông. ‘Hữu chí cánh thành’/ có chí thì nên. ‘Lực bất tòng tâm’/ Ý hay tay vụng. ‘Phúc sào vô hoàn noãn’/ lật ổ đổ trứng. ‘Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai’/ phúc không hai tai chẳng một. “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”/ Có duyên ngàn dặm vẫn gặp mặt. Không duyên trước mắt lại chẳng ngờ. “Tại gia thiên nhật hảo. Xuất lộ bán thời nan”/ sẩy nhà ra thất ngiệp. “Trung ngôn nghịch nhĩ”/ nói thật mất lòng.Tục ngữ Trung quốc nói theo vần không nhiều vd. “Nhập gia tùy tục đáo giang tùy khúc”/ vào nhà giữ tục, vào sông theo khúc . “Nhứt nghệ tinh nhứt thân vinh”/ nghề tinh thì thân vinh. “Y bệnh bất y mệnh”/ chữa bệnh không chữa được mệnh.
Tục ngữ Pháp, Anh: “À bon chat, bon rat” (Pháp)/ mèo giỏi có chuột hay, vỏ quit dày có móng tay nhọn, ‘cao nhân tất hữu cao nhân trị’ . “Haste makes waste”(Mỹ)/ dục tốc bất đạt, ưa nhanh thành hỏng. Tuy nhiên tục ngữ Pháp Anh ít khi nói theo vần:”Le chat parti, les souris dansent” (Pháp: mèo vắng nhà, chuột nhảy múa)/ chủ vắng nhà gà bươi bếp; “Familarity breads contempt” (Anh Mỹ)/ quen quá hóa nhờn.
Tục ngữ ghi chép đúc kết kinh ngiệm khôn ngoan của nhân loại trong cuộc sống hàng ngày do đó tương tự cho mọi quốc gia là điều đương nhiên. Các tục ngữ: “Thiện trác giả bất thương” (Tàu, thợ đẽo gỗ giỏi thì tay không bị thương), “C’est en forgeant qu’on devient forgeron” (Pháp, rèn mãi thì thành thợ rèn), “Practice makes perfect” (Mỹ, làm mãi thì thuần thục), “Trăm hay không bằng tay quen”, “khéo tay do hay làm”, (Việt) đều nói lên cùng một ý là phải tập tành. Nếu đặt theo vần thì tục ngữ nhiều ít mang tính chất thơ và giúp dễ nhớ. Thành ngữ, tục ngữ Việt nam trong cấu tạo mang tính chất này, là một nét đẹp của tiếng Việt.
d-ý nghĩa: một số tục ngữ có nhiều nghĩa bóng, tùy tình huống mà dùng:
“Bắt cóc bỏ dĩa” có các nghĩa: 1) làm gấp gấp, không tính toán trước. Ngụ ý là gấp gáp, lật đật, hấp tấp, ngồi không yên một chỗ, nhảy qua nhảy lại, di chuyển hoài. (Bùi Minh Đức, Từ điển tiếng Huế, 2009, tr 106). 2) thay thế nhân sự hoặc phương án không bằng trước, vào phút chót vì bất khả kháng “giao thoa chắp mối tơ thừa cậy em” (Kiều). 3) việc làm không kết quả hoặc kết quả thu được không bền. 4) cũng có tục ngữ “làm như nhái bò đĩa”. 5)nhận xét: tính con cóc là khoan thai, ưa ngồi xổm (squatter) “con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó (trầm ngâm), con cóc nhảy đi” (Thơ con cóc). 6) các nghĩa khác??
“Bói ra ma quét nhà ra rác” có các nghĩa : 1)nhìn kỹ thì khi nào cũng thấy có khuyết điểm. (BMĐ, TĐTH 2009, tr153). 2) chuyện tất nhiên xẩy, bói thì tất nhiên ra ma (cũng như) quét nhà thì tất nhiên ra rác, ‘đĩ khóc tù van’, “số cô có vợ có chồng, sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai”. 3) không nên tin vào bói toán nhất là khi đau ốm (thuốc tra ma cúng), bói ra ma không có nghĩa “nhân vô thập toàn”.
“Cha lú chú khun” có các nghĩa : 1)cha dại có chú khôn ngoan bày vẽ (BMĐ, TĐTH 2009, tr270). 2) nghĩa rộng, lời khuyên cảnh giác, thế nào đối phương cũng có người đứng đàng sau mưu sĩ thầy dùi. (‘chú’ có nghĩa chung, không bắt buộc là ông chú thực sự).
“Tránh/ chạy trời không khỏi nắng” có các nghĩa: 1) không tránh khỏi (Đi xe không đèn thế
nào cũng bị phạt, tránh trời không khỏi nắng). (Nói văn hoa). (BMĐ, TĐTH 2009, tr1812). 2) cụ thể là nhận công việc hoặc chịu hoàn cảnh không mấy thích thú mà tưởng đã thoát “chém cha cái số ba đào, gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” (Kiều).
Những tục ngữ “Tránh đó gặp đăng”, “Tránh/ ghét của nào trời trao của ấy”, “Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, “Tránh/ chạy trời không khỏi nắng”, “Đi đêm lắm có ngày gặp ma” v.v… đều hàm ý không tránh khỏi trong những hoàn cảnh và mức độ khác nhau.“Đi đêm lắm có ngày gặp ma”, rủi ro do mình tự tạo, song đi xe không đèn là ban đêm, tránh nắng là ban ngày.
“Ăn vóc học hay” có các nghĩa: 1)ăn nhiều học nhiều (Bùi Minh Đức, ‘Chữ Nghĩa Tiếng Huế’ 2008, tr115). 2) lời khuyên, nhờ ăn có sức vóc, (cũng như) nhờ học biết điều hay. Hoặc giả “ăn óc học hay” vì các bà mẹ muốn con học mau giỏi. Ta có lối hay nói đùa theo vần, đau tim ăn trái sim, đau phổi ăn trái ổi, đau thận ăn quả mận hết bệnh. Còn đau bao tử? cử ăn chua (chanh).
“ Có thực mới vực được đạo” có các nghĩa: 1) có ăn mới lăn được đạo. 2) viễn vông phí công thuyết giảng.
e-Các thành ngữ sành điệu. Đây là một tập tranh biếm họa, minh họa cho các thành ngữ của giới trẻ hôm nay, được tác giả cuốn sách gọi là “các thành ngữ sành điệu”. Những thành ngữ được sản xuất theo lối nói có vần này nhiều khi rất chướng, khó nghe với những người chưa quen, nhưng hiện nay lại rất thịnh hành trong nước, đặc biệt giới trẻ coi là thời thượng. Tác giả cuốn sách là anh Nguyễn Thành Phụng - một họa sĩ trẻ sinh năm 1986 tại Hà Nội. Cuốn sách chứa đựng 115 ‘thành ngữ” có vần, ví dụ “đau khổ như con hổ”, “sát thủ đầu mưng mủ”, “tự nhiên như thằng điên”, “nhỏ như con thỏ” v.v…mỗi thành ngữ tác giả vẽ một bức tranh minh họa, không cần dùng lời giải thích. Tin cho biết Nhà Xuất bản Mỹ thuật ra lệnh thu hồi quyển “Sát thủ đầu mưng mủ”, trong lúc trên thị trường vẫn bày bán tràn ngập cuốn sách này (LTS, Thời Báo ,Toronto 12/11/2011).
g-dịch thuật thi văn: “Cô tô thành ngoại Hàn sơn tự. Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” Thuyền ai đậu bến Cô tô. Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn sơn. Tản Đà đã dịch 2 câu Đường thi ra thành thơ lục bát, hoàn toàn của Việt nam mà đặc điểm là mỗi câu đều họa vần câu trước. Thơ lục bát cũng sản sinh thơ lục bát gián thất.
“À vaincre sans péril on triomphe sans gloire”(Le Cid, Pháp), thắng không khó chẳng có vinh quang. Thi văn ở đâu cũng nhiều họa vần, nhưng ở thi văn Việt lại càng nhiều hơn.


*Khẩu âm gốc - Thuyết hỏi ngã. 

Nước Việt nam hẹp nhưng dài, khẩu âm tức là tiếng nói, giọng nói khác nhau theo vùng. Có 3 khẩu âm chính tương ứng ba miền bắc trung nam. Xét sâu hơn lại có thể chia ra thành 5 khẩu âm chính: 1-giọng Bắc bao gồm cả Thanh hóa. 2-giọng Nghệ Tĩnh. 3- giọng Bình Trị Thiên, từ đèo Ngang đến đèo Hải vân. 4-giọng Quảng từ đèo Hải vân đến đèo Cả. 5-giọng Nam từ đèo Cả đến mũi Cà mau.
Có phần chắc chắn có một khẩu âm nguyên thủy duy nhất được tổ tiên người Việt nói từ nhiều ngàn năm trước, không ngoài 5 khẩu âm kể trên? Và nếu vậy thì đó là khẩu âm nào? Tôi nghĩ ta có thể căn cứ vào sự biến chuyển “thanh âm” trong ngôn ngữ để có câu trả lời.
Tiếng Việt đơn âm, phát âm cung điệu trầm bổng theo 6 ‘thanh’ (làm thành thang âm), được viết theo ký hiệu các dấu:
không, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng.
Tôi nghĩ khẩu âm Nghệ Tĩnh là khẩu âm gốc của tiếng Việt, xưa được nói trên toàn quốc. Trong 6 ‘thanh’ người Nghệ Tĩnh chỉ nói 3 thanh /không/, /huyền/ và /nặng/. Ba thanh còn lại /sắc/, hỏi/, /ngã/ đều phát âm hướng về dấu /nặng/, đọc giống dấu nặng.
Lấy ví dụ về người Nghệ Tĩnh phát âm các dấu hỏi ngã thành dấu ‘nặng’: Cha mắng con: ”Đồ hư sáng đến giờ đã đánh vợ năm cái và đánh mẹ hai cái rồi.(Thuyền buôn bát đĩa. Nghi Lộc, Nghệ an, đánh vỡ, đánh mẻ, nhặt trên internet 2011). Ví dụ về dấu ‘sắc’ : “Thưa đồng chị, trược cọ hộ”, một dân quân địa phương dẫn đường trong rừng, báo cáo với viên tiểu đội trưởng (người Bắc) làm người này giật mình tưởng rằng đàng trước có hổ (cọp). Người dẫn đường muốn nói “Thưa đồng chí, trước có hố” (chuyện nghe kể lại 2009). Có điều để ý nghe thì ở thành thị, âm ‘dấu’ sắc tuy đọc theo dấu nặng, song thỉnh thoảng cũng có vẻ muốn trồi lên, bớt hướng về dấu nặng. Tiếng Nghệ Tĩnh trầm, âm thấp, ngâm thơ đặc biệt truyền cảm, thí dụ ngâm Kiều, các đoạn Kiều tỉ tê nhờ em thay thế kết duyên với Kim Trọng. Chẳng trách cụ Nguyện Du người Hà Tĩnh đã viết được truyện Kiều áng thơ bất hủ.
Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, tiếng Việt ở Nghệ Tĩnh là miền cực nam xa xôi, biệt lập vẫn giữ như cũ, nhưng ở miền Bắc do tiếp xúc trực tiếp lâu dài với ngôn ngữ, văn hóa Trung quốc thống trị, khẩu âm Nghệ Tĩnh từ lâu của nhân dân chịu ảnh hưởng nặng, làm một cuộc cách mạng thay da đổi thịt, gột bớt những âm thấp, trở nên sắc sảo có trầm có bổng như giọng Hoa để biến thành giọng Bắc hiện tại. Hai thanh /dấu sắc/ và /dấu ngã/ được phát âm nâng cao lên một bát âm. Đồng thời tương tự Trung quốc, người miền Bắc cũng bắt chước phát âm /tr/ thành /ch/ và /s/ thành /x/. Các từ ngữ Hán Việt xuất hiện nhiều. Đó là quá trình hình thành giọng Bắc từ khẩu âm Nghệ Tĩnh nguyên thủy, diễn ra suốt thời kỳ đô hộ Tàu, ban đầu ngập ngừng bỡ ngỡ từng lúc, về sau thành thục thường trực. Thanh hóa nằm kề Nghệ Tĩnh nhưng tiếp giáp các tỉnh miền Bắc nên giọng nói được thanh hóa, na ná giống Bắc.


Từ đầu thế kỷ 14, năm 1306 vua Chàm Chế Mân dâng 2 châu Ô Lý để xin cưới công chúa Huyền Trân em gái vua Trần Anh Tôn. Đến năm 1469 đời vua Lê Thánh Tông thì Thuận Hóa là tỉnh cuối của nước, nằm về phía Bắc đèo Hải vân. Trong gần 2 thế kỷ đã hình thành khẩu âm Bình Trị Thiên, cơ bản là khẩu âm Nghệ Tĩnh sát kề, nhưng giữ những cải tiến về phát âm cao 2 thanh dấu ‘sắc’ và ‘ngã’ do ảnh hưởng của nhiều người miền Bắc vào sinh sống, đặc biệt từ năm 1558 khi Nguyễn Hoàng là chúa Tiên được cử vào trấn đóng Thuận Hóa thì người Thanh Hóa cùng tỉnh vào theo rất đông. Tiếng Bình Trị Thiên lại thêm một cải tiến mới là phát âm đưa nốt thanh ‘dấu hỏi’ còn lại lên cao, đồng thời người Huế lại biến các phụ âm /t/ thành /c/ và /n/ thành /ng/ ở cuối ‘từ’. Các cải tiến này là không thể đảo ngược và được dùng từ Bình Trị Thiên vào đến Cà Mau, miền Nam. Nhiều người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 cũng đã dần dà phát âm một số ‘từ’ mang dấu ‘hỏi’ lên cao đặc biệt các ‘từ’ /ở/, /để/ rất năng gặp. Họ cũng phát âm dấu ‘nặng’ nhẹ bớt.
Vua Lê ThánhTông tiếp tục chinh phạt Chiêm thành mở rộng thêm bờ cõi, và từ năm 1474 đưa các phạm nhân tới Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn để tăng dân. Có thể tiếng Quảng được hình thành từ lúc ấy. Dân Bắc Ninh, Thanh Hóa lại theo đường biển đi tập thể ghe thuyền vào các xứ Quảng lập nghiệp cả gia đình. Đà nẵng chỉ cách Thừa Thiên-Huế một đèo Hải Vân, xưa đi bộ qua đèo phải từ sáng sớm đến chiều, mà khí hậu và giọng nói Huế, Quảng đã khác hẳn. Tiếng Quảng có khuynh hướng đọc nguyên âm /ă/ thành /e/.
Giọng Nam bộ hình thành từ thế kỷ 17 khi các chúa Nguyễn lập nghiệp đàng trong 1558- 1775. Giọng Nam giống giọng Quảng nhưng điều chỉnh phát âm các nguyên âm đúng hơn. Giọng Nam sửa giũa lại giọng Quảng cũng như giọng Huế mài giũa lại giọng Nghệ Tĩnh, Bình Trị. Hiện tại có thể xem giọng Nam là ổn định.


*Tiếng Việt chuẩn.

Hiện tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam. Nhưng tiếng Việt miền nào trong nước được cho là chuẩn? Chúng ta sẽ xét vấn đề qua 3 tiêu chuẩn: a- số lượng người xử dụng. b-số lượng tác phẩm được viết. c-sự tiến hóa của mỗi thứ tiếng. Chúng ta lại chia tiếng Việt thành 3 nhóm lớn: 1-tiếng Hà nội gồm toàn miền Bắc và Thanh Hóa. 2-tiếng Huế gồm Nghệ Tĩnh Bình Trị Thiên mà từ ngữ là chung và giọng nói cơ bản giống nhau. 3- tiếng Sài gòn gồm toàn miền Nam và miền Trung từ đèo Hải vân trở vào (tiếng Quảng), từ ngữ và khẩu âm nói chung tương tự.
*a- Số lượng người xử dụng. Dân số miền Bắc cho đến Thanh Hóa có thể ít hơn dân số miền Nam từ Quảng Nam trở vào, tuy nhiên số người nói tiếng Bắc ở miền Bắc có thể lên đến 99%. Ở miền Nam số người nói tiếng Nam chắc chỉ 70% ở các thành thị? Số người nói tiếng Huế còn ít nhưng trong tương lai nếu chiếm được đa số thì những từ ngữ “mô tê răng ri rứa…” lại là những từ ngữ chuẩn của tiếng Việt.
*b-Số lượng tác phẩm viết, thước đo văn hóa. Chữ quốc ngữ được xử dụng ở miền Nam cũng 40 năm trước, khi ởTrung và Bắc đang còn thi cử chữ Hán. Trong thời gian đó số lượng báo chí, thi văn, tiểu thuyết, khảo cứu, từ điển được viết nhiều, và ngôn ngữ miền Nam thiên về dùng chữ nôm: thầy cãi, sách mẹo, đờn cò/gáo đờn kìm, hộp quẹt, cô năm, anh ba, Huỳnh kim Tiếng, Phan văn Hùm, Nguyễn văn Khỏe/ Được/ Của/ Giỏi/ Trỗi/ Nở/ Sang/ Giàu …cũng như nhiều địa danh: Bà rịa, Thốt nốt, nhiều từ kép mới : xà nẹo, hà rầm, dang ca, bù trất...Thi ca Nam bộ vừa văn chương vừa bình dân:
“Đờn kêu ơi hỡi Lý Thông. Ăn ở hai lòng bạc ngỡi lắm thay”.
Trong vòng 20 năm sau cho đến 1945, số lượng tác phẩm viết ở Nam và Bắc có thể tương đương? Từ 1945 đến 1975 miền Bắc sáng tác ít và một chiều, nhưng ở miền Nam phong phú trăm hoa đua nở, trong đó công lao đóng góp của các nhà văn miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 là lớn. Hiện tại ở miền Bắc chỉ có các nhà văn Bắc, ở miền Nam thì có đủ Nam Bắc Trung. Ở hải ngoại số lượng tác phẩm do tác giả người miền Nam viết nhiều vượt hẳn, cũng có thể vì người miền Nam chạy trốn ra ngoại quốc năm 1975 nhiều hơn. Người Huế viết nhiều nhưng không thể sánh Nam Bắc.
*c-Sự tiến hóa ngôn ngữ. Tiếng Bắc đã hình thành từ tiếng Nghệ Tĩnh trong thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc. Sự tiến hóa này tối thiểu cũng mất hai trăm năm. Ngày nay người Nghệ Tĩnh chuyện trò với người Bắc, hai giọng nghe hòa hợp không lạc điệu như giọng Huế đối với giọng Bắc. Giọng Huế cũng hình thành từ giọng Nghệ Tĩnh bằng cách tô lục chuốt hồng thêm và đứng biệt lập. Tổ tiên ta vào Nam đã bốn trăm năm và giọng Nam được hình thành có lẽ trong vòng một hai trăm năm. Chỉ trong thời gian đó mà các tiếng Nghệ Tĩnh, Huế, Quảng lẫn tiếng Bắc, đã tan biến mất và hòa lẫn với nhau tạo thành một khẩu âm mới là giọng Nam khác hẳn, với những điệu hát, câu hò, tiếng ca vọng cổ phản ánh sự bao la bát ngát mà trước đó không nơi nào có, của ruộng đồng sông nước đồng bằng sông Cửu Long.
“ Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, buôn bán ham lời chèo chống mỏi mê”.
Nói chung, giọng Nam vì thoát thai từ đủ các giọng do đó dễ hòa điệu với tất cả nhất là với giọng Bắc.
Giọng Nam trong quá trình hình thành đã giữ lại các nét đẹp nhất cuả tiếng Việt. Đó là một lợi điểm. Có thể nào giọng Nam là điểm cuối của sự tiến hóa ngôn ngữ Việt?


Có một thời, trước 1954 và ngay cả trước 1975 nhiều người bắc trung nam đều cho rằng tiếng Bắc là chuẩn nhất. Tôi ra Hà nội học trong thập niên 1950 mãi cho đến ngày chia đôi đất nước năm 1954 mới vào Nam, cũng nhận thấy người Hà nội, giọng Hà nội thanh lịch xứng đáng chốn ngàn năm văn vật. Qua năm 1975 người ngoài Bắc vào Nam đã không còn nói tiếng Bắc hồi nào. Hiện tại thì những người dân Hà nội chính gốc di cư vào Nam năm 1954 nhường chỗ cho dân ngoại tỉnh nhập cư, đã than phiền giọng Hà nội nay biến chất quá nhiều, mất trọn sự thanh lịch năm xưa! Giọng Sài gòn thì không thay đổi.


Tiếng nôm là tiếng gốc của ngôn ngữ Việt Nam, giọng Nghệ Tĩnh là khẩu âm nguyên thủy của người Việt Nam.
Tuy vậy theo trên, hiện tại ta chưa thể dứt khoát kết luận tiếng nói miền nào, từ ngữ miền nào là hay, là chuẩn nhất. Nhân dân Việt Nam xử dụng các từ ngữ chung cho ba miền, cọng thêm một số nào đó từ ngữ địa phương, nói nhiều khẩu âm, mỗi khẩu âm có những khuyết điểm sai trái về phát âm nhưng đồng thời có nhiều ưu điểm tạo nên cái hay độc đáo riêng. Tiếng Hà nội thì sắc sảo điêu luyện, Nghệ Tĩnh thì chân phương trung thực ( phát âm đúng các phụ âm và nguyên âm), Huế nhu hòa kín đáo, Quảng sắc bén bộc trực (Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co…), Nam thoáng, khoáng đạt; thổ âm các vùng hẻo lánh, thôn quê thì chơn chất, thuần hậu. Tiếng Việt đa dạng trong đồng nhất và có nhiều nét đẹp. Tôi nghĩ đó là điều chúng ta trân trọng, tự hào và cố sức bảo trì.

Đọc thơ Võ Văn Luyến – Người câu bóng mình

khalychamtoi rat it viet bai Nhan dinh Tac pham (khong viet phe binh) chot nho VVL mot trong nhung nguoi Ban tho dat Quang Tri, khi toi di "giang ho" da ghe tham xu so nay.
Đọc thơ Võ Văn Luyến – Người câu bóng mình

Điều quan trọng với từng cá thể, không chỉ ở con người thuộc vào hàng đẳng cấp cao nhất trong “thập loại chúng sinh” nói chung. Có đúng sự sống là trên tất cả? Một khi đã trưởng thành về mặt lý trí và tâm thức, con người thiết lập ra một tương quan vững chãi và sáng tạo. Con người đang hành động là để nhân danh cái tôi trong mọi nỗ lực ý thức. Động cơ thúc đẩy tình cảm của con người đích thực là những động cơ nào? Khó mà trả lời thuyết phục. Có thể (ta) đã và đang nhìn thấy được những lực hấp dẫn và xô đẩy, những yêu thương, hờn giận, những lên cơn, đờ đẫn… là trầm hệ trong sự khám phá muôn thuở trên bề mặt quả cầu đất này.

Võ Văn Luyến – người câu bóng mình đã tìm thấy cái cô đơn diễm phúc đang nhìn sự an bài có trật tự, thi nhân cảm thấy cuộc đời này là một thảm kịch chứ không phải là một thế giới xô bồ hỗn loạn. Ngôn từ thi ca vốn rất giàu nhân tính, đó là một nét chung mà người viết ra những câu thơ luôn rung cảm theo nhịp đập của trái tim: “người đàn ông giết mình bằng thời gian/ bằng những hạt hồng cầu mê ngủ/ bằng những con chữ U chạy nhanh như gió/ úp ngược chiều trái tim.” (Người câu bóng mình – trang 5).

Có cần diễn tả nhu cầu cảm thông và bất khả cảm thông? Mặc nhiên bút pháp thật thân tình của tiến trình sáng tạo luôn phơi bày màu sắc quê hương toàn diện và hiện thực bất biến, những hình ảnh đã hòa hợp vào tâm hồn thi nhân. Một khuynh hướng tự do khai triển không vượt quá giới hạn văn chương thẩm mỹ, và ngược lại không bị giam cầm trong những phổ quyết nhất định của kiếp con người: “Mấy mùa sim hẹn tôi về/ Nắng day dưa nhớ, mưa mê mải tìm … “Mấy mùa trăng lạc ca dao/ Cỏ hoa chúm chím môi đào dạ thưa…” hay là một phản tỉnh vỗ về?: “Nẻo vui phố cưới cơn mê/ Chiều xa ngồi vớt câu thề trôi sông…”(Khúc trầm-Gửi miền sương ngọt – trang 11&12).

Có một thứ ánh sáng tinh tuyền xuyên thủng vòm trời tiên thiên của linh hồn thi nhân. Chính vì vậy, nó xác định và tập hợp những gì được gọi là phức số định mệnh , để rồi hòa nhập vào ý thức thượng đẳng: “Khi những sợi mưa tơ giăng trước nhà/ Những nụ xuân nói điều chi rất khẽ…” một khi sự vận dụng của trí tuệ hiện thể: “Tuổi chín mươi ngày gần tháng xa/ Đong mưa nắng ủ mầm hạt nhớ/ Đêm ngắn hơn chiêm bao/ Tự tình mẹ với ngọn đèn trăn trở”… (Mẹ ơi xuân đến rồi kìa – trang 13&14).

Thi nhân không thể trầm mình vào lòng một vũ trụ với trí tưởng tượng khôi hài. Vì sao? Bởi lẽ sự sáng tạo sẽ hình thành một kích độ khởi diễn cường điệu trong từ chương thi ca giả tạo. Làm thế nào để tìm cách diễn tả được bối cảnh thiên nhiên thực tại? Không cần phải toan tính sắp xếp… thiên nhiên luôn tồn tại và thật gần với con người. Chỉ có những tinh thần phá chấp mới thể hiện rõ cái thiên chức khảo sát và tạo ra thứ ngôn ngữ rực rỡ sắc màu: “Những con chim mang mùa đông đi biệt/ Hàng cây tự tình tay gối gió đêm/ Mắt lá thẳm câu thơ chừng canh tết/ Tuổi khói sương cúi vai mẹ rưng thềm”…(Xuân thức – trang 18&19).

Con người dùng ngôn từ hoặc hình ảnh… để khám phá ra một thế giới siêu việt. Đó chính là mối tương quan mật thiết của nhiều văn-nghệ sĩ, mọi sự cố gắng để được hòa mình với trật tự thiên nhiên bất di bất dịch, có thể hy sinh cả một đời người và nghĩ cái chết là để trở về đại ngã. Sự cấu tạo ngôn từ đều phải được thanh lọc, một khi tâm hồn hết vẩn đục ánh lên sáng ngời: “Dòng sông tự mình rõ nắng mưa ấm lạnh, mặc rối nhiễu giông gió mây vần, mặc sáng tối vây quanh, mặc suối khe dự cuộc chia phần…Dòng sông ơn biển thẳm non cao, ơn chí bền tình sâu đất lặng, ơn tuổi thơ thuyền giấy, ơn con chuồn chuồn tin cậy, ơn tóc xỏa mái nhì mái đẩy, ơn đôi bờ bồi lở sinh thành” (Tâm thức xuân – trang 22).

Nghệ thuật đã được khẳng định, là cảm giác của trường tượng trưng nhưng đem kết tinh lại theo một tinh thần nghiêm khắc, có thể sẽ đạt đến mức lấy sự trầm tư mà thấu triệt nội tâm và ngoại giới: “Khe Sanh giọt sương không tan/ Long lanh dưới tán lá rợp/ Tôi có bốn mươi tám giờ tơ nõn diệp lục/ Nhói giấc mơ trốn tìm” Sao lại chỉ bốn mươi tám giờ. VVL có đúng là một thi nhân cô đơn hay đã tràn đầy hạnh phúc? Một lối viết trải nguồn tâm sự: …“Khe Sanh đập nhịp chập chùng/ Câu thơ ướm tà áo mỏng/ Ngựa hí nhà ai khớp móng/ Kiệu vàng rước một đơn côi” (Khe Sanh mắt chớp – trang 26).

“Ta ngồi đó chờ đợi, không chờ đợi gì cả, chờ đợi vô thể, chờ đợi không chờ đợi – Nietzsche và tiếng nói heo hút của Heidegger …” (Im lặng Hố Thẳm – Phạm Công Thiện dịch). Thi ca xuất phát từ xúc cảm chủ quan trong sự sáng tạo tâm tư, thi nhân luôn vượt lên trên đời sống thực dụng. Tất cả những hiện thể chỉ là cái cớ để thử thách khả năng chính (ta) khi chạm vào ngôn ngữ: “Những núi đồi cỏ xanh ngậm sương/ Có gì đăm chiêu trong mắt ngựa chiến/ Kinh thành sau lưng lửa trời binh biến/ Cháy tâm can . Rạn vỡ đêm dày”…(Sự minh triết trong thành Tân Sở - trang27&28)

Trong khoảng khắc đi tìm vĩnh cửu, thi nhân dừng bước chân để chiêm nghiệm sự mầu nhiệm của đất trời và vẻ vô thường của đời sống, nhưng với niềm tin cùng những rung cảm thì đời sống biến thành sự thật vĩnh tồn: “Biển gọi anh về/ Con sóng trắng miên man ngực bể…Những mắt đèn chong thức vào khuya/ Bóng đổ dài trên cát… Về đây nghe gió ngân vô hồi/ Hạt muối quên có mình làm chứng/ Con tàu quên đếm tuổi đi ngày tháng… (Biển xưng tụng – trang 32&33).

(Khi tiếp xúc có thì cảm thụ có, khi tiếp xúc không thì cảm thụ không”. Đó là nói về tiến trình của sự thay đổi phù hợp với các tác dụng tức thời. Câu hỏi: “ai tiếp xúc, ai cảm thụ” nếu đặt ra sẽ không hợp lý vì cho dù sự suy tưởng theo cách quy giản đến vô tận thì cái “ai” làm chủ thể này vẫn không thể xác định được… lời giảng do Gotama Siddhatha). Một sự tái tạo tư tưởng mãnh liệt, những gì thấp hèn “rất ký sinh” nó được chuyển thể thành thứ chất liệu từ chương tinh túy: “Những con rận lạc nhau trong rừng tóc hoa râm/ Trăm năm ngàn năm trước vẫn còn ngơ ngác…Những con rận yêu nhau có theo mùa không nhỉ/ Có hờn ghen khi tranh chấp bạn tình?…Tôi rỗng không chốn hoang đường nắng đổ/ Ngọn gió nào cũng thổi phía xa xôi. (Gió thổi phía hoang đường – trang 36&37).

Quá khứ sẽ tái hiện lại khi (ta) hoài niệm hay trong giấc mơ… chính là sự mạc khải làm cho văn-nghệ sĩ hiểu rằng đời sống có cái gì rất đáng sống, cho dù tiềm thế đang ngủ vùi dưới lớp bụi thời gian, nhưng nó sẽ được thể hiện trong tâm trí của con người: “Bọc trong hạt cát trắng tinh/ Từ tâm soi tỏ dáng hình quê hương/ Nắng mưa dầu dãi vô thường/ Cao sâu chín chữ tạ ơn sinh thành” (Tạ ơn sinh thành – trang 42).

Võ Văn Luyến cấu tạo nét chân thực ở bên trên thực tại đời sống, thi nhân đã làm nổi bật yếu tính đời sống. Không thể tìm thấy nỗi bất bình với mọi người và bất bình với cái tôi. Niềm tự hào chính mình trong sự yên lặng và trong sự cô đơn của bóng đêm: “Khi không tự hành hạ mình mất ngủ/ Khi không lũ chó sủa đêm chọc tức…Khi không thấy triết lý kỳ nhông đổi màu đáng sợ/ Khi không kẻ quỵt nợ tình chui vào mặt nạ…Khi không muốn làm ăn mày sang trọng/ Khi không viết những câu thơ vô hồn. (Lan man đêm mất ngủ - trang 66).

Có biết bao người chống lại hoặc tìm phương cách thoát ly ra ngoài hiện tại. Có phải đó là thái độ trú ẩn vào tháp ngà? Chỉ là sắc thái mong manh của tâm tình! Văn-nghệ sĩ là những con người thật sư tự do, họ cố đi sâu vào ẩn mật tiềm tàng: “Ửng trên ngọn nắng không mùa/ Bỗng dưng cơn gió năm xưa xanh màu/ Từ hồn mục rã thương đau/ Ta như mới thấy cây sầu trổ bông. (Hóa hiện – trang 82). Thì hãy cứ giam mình vào mê lộ cô đơn lúc bấy giờ (ta) đã hoàn tất những gì thuộc về ước vọng: “Trời thả một chiếc lá vàng/ Thế là mặt đất nguyện làm mùa thu/ Em đi từ buổi sương mù/ Chiêm bao tôi gặp lời ru vọng buồn.” (Vọng – trang 83).

Văn-nghệ sĩ là người mãi đi tìm những hình thái và câu chữ Đẹp để làm một phương tiện tri thức. Tất nhiên là để tra vấn cái chưa từng biết được ý nghĩa của đời sống. Khi tác phẩm hiện hữu thì nó trở thành: mệnh đề tuyệt đối với khả năng tri thức… “ Với Thi ca, quan hệ với chúng ta như là một kinh nghiệm, nghĩa là một cái gì phải được sống qua. Chúng ta coi đó là một trong những hình thức tối thượng… Vì vậy ta không nên lấy làm ngạc nhiên rằng tình yêu và thi ca hiện thân với chúng ta, hai khuôn mặt cùng chung một thực tại… - Octavio Paz Lozano”.

Người câu bóng mình Nxb Hội nhà văn – 2011 (gồm 67 bài thơ). Những câu thơ tiêu biểu tôi trích ra trong bài viết, là để cảm nhận nghệ thuật thơ Võ Văn Luyến một người “mần” thơ của đất Quảng Trị.

thành phố Tây Ninh - cuối mùa xuân 2014

nha tho Vo Van Luyen

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2015

Để có một nền giáo dục - khoa học hiện đại, cần một nền văn hóa khai phóng

Để có một nền giáo dục - khoa học hiện đại, cần một nền văn hóa khai phóng


Giáo sư Phạm Xuân Yêm, theo nét vẽ của Hoàng Tường.

Nhân Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đang nhóm họp để bàn về công tác giáo dục, khoa học, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với giáo sư về các lĩnh vực này. Chúng tôi quan niệm, để tiếp cận và nhận thức vấn đề một cách khách quan, có thể, và cần lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau để có những kết luận và quyết định sáng suốt nhất. Với tinh thần đó, chúng tôi giới thiệu cùng bạn đọc nội dung cuộc trao đổi này.


Tiến sĩ Quốc gia Đại học Paris, nguyên Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học (ngành Vật Lý lý thuyết), làm việc tại Đại học Pierre & Marie Curie, Paris, giáo sư Phạm Xuân Yêm là một trí thức luôn quan tâm đến văn hóa, giáo dục và khoa học của nước nhà.




Phóng viên:Thưa giáo sư, khoa học, giáo dục cũng là những bộ phận, những thành tố cấu thành của một nền văn hóa, song trong nhận thức thông thường, bề ngoài, theo cơ cấu hành chính thì đó là ba ngành, ba lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Khoa học, giáo dục, văn hóa là ba chân kiềng tạo nên trí tuệ và phẩm chất, tư cách của một cộng đồng, một dân tộc. Là một nhà khoa học, đồng thời là nhà giáo, người am hiểu và quan tâm nhiều đến đời sống văn hóa, nền văn hóa của đất nước, lại làm việc ở Paris – một trung tâm văn hóa lớn của thế giới, xin đề nghị giáo sư phân tích mối liên hệ hữu cơ của ba nhân tố này trong tổng thể một nền văn hóa? Yếu tố nào có vai trò tiên phong, định hướng sự vận động của nền văn hóa? Và yếu tố nào đóng vai trò động lực, chi phối sự vận động của nền văn hóa, của xã hội?


Giáo sư Phạm Xuân Yêm : Đúng như cách đặt vấn đề của quý Tạp chí, thực sự có mối liên hệ hữu cơ giữa ba nhân tố (khoa học, giáo dục, văn hóa) trong tổng thể một nền văn hiến, tôi thiển nghĩ chúng theo một tuần tự trước sau. Bằng cách đảo ngược vấn đề như một cách tiếp cận, theo chân nhà Phật và cũng là phương pháp thường được khai thác trong khoa học, tôi mạn phép dùng chữ Vô như vô văn hóa, vô giáo dục mà không cần dài dòng vì chúng ta đều cảm nhận rất rõ ràng chúng là gì trong muôn vàn khía cạnh phong phú của cuộc sống. Trái lại, ít ai dùng chữ vô khoa học, nó hẹp hơn và chỉ hàm nghĩa thiếu logic, thiếu thuyết phục bằng lý luận và thực


Văn hoá theo tôi hiểu là cả một tiến trình để đạt tới chân thiện mỹ, nó bàng bạc bao trùm mọi suy tư, hành động, ngôn từ, giao tiếp của con người cho đáng là người. Văn hóa chỉ có thể thăng hoa khi được xây dựng trên một nền tảng giáo dục cởi mở, không độc tôn, theo những tiêu chuẩn phổ quát tiến bộ của thế giới để dẫn đường người học trở nên công dân trung thực, đạo đức, có kiến thức đủ khả năng tự lập để suy xét và hành động; sau đó trong Giáo dục thì yếu tố Khoa học (với cả hai chân là Nhân văn và Tự nhiên) đóng vai trò hải đăng.


Sau đây tôi chỉ giới hạn đến yếu tố Khoa học tự nhiên. Nó không phải ngẫu nhiên mà có như ngày nay chúng ta biết. Khoa học được xem là khai sinh tại Hy Lạp cổ đại 2600 năm trước, nhưng rồi từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên nó phải nhường chỗ cho những quan tâm đạo đức, siêu hình, thần học, tôn giáo; chúng chi phối độc tôn cả văn hóa lẫn tư duy. Hơn ngàn năm sau (750 – 1100) là thời đại khoa học mang dấu ấn Hồi giáo vàng son rồi tàn lụi, kéo dài triền miên để vào thế kỷ 17 với Galilei, Kepler, Descartes, Newton, khoa học mới bức phá thoát khỏi các sợi dây trói buộc nó. Nó luôn luôn phải trả giá đắt cho những cuộc bức phá của mình. Từ đó Khoa học trở thành có tính khai minh, ảnh hưởng lan tỏa vào phong trào khai sáng ở thế kỷ 18 trên toàn lục địa Âu châu.


Từ thế kỷ 18 qua thế kỷ 19, khoa học đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, và được thể chế hóa vào các trường đại học, viện nghiên cứu, hàn lâm. Khoa học có giá trị ngày càng phổ quát. Giáo dục, Văn hóa và cả Kinh tế chịu ảnh hưởng ngày càng nhiều của khoa học. Khoa học đã dần dần thay đổi thế giới quan Trung cổ từ Âu sang Á. Đầu thế kỷ 19, với sự ra đời của đại học nghiên cứu Đức (Humboldt), khoa học được đưa vào trung tâm của giáo dục đại học, lấy nghiên cứu khoa học làm nòng cốt hoạt động. Chân lý không còn là bất biến, cái cấm kỵ, mà là “cái mãi mãi phải đi tìm”. Đại học do đó phải có tự do, tự chủ để nghiên cứu và giảng dạy, Khoa học phát triển ngày càng mạnh mẽ.


Quyền lực tôn giáo mạnh mẽ và cũng tàn bạo biết bao nhiêu nhưng cuối cùng đã không ngăn chặn được sự phát triển khoa học của thời đại. Sự xuất hiện và phát triển khoa học đã có một tác dụng thâm nhập toàn khắp vào thế giới quan của con người và giúp con người nhận biết quyền lực nào đáng được tin hay không. Khoa học tự nó có hệ thống giá trị đạo đức của nó, có nguồn gốc trong sự cởi mở đối với các ý tưởng mới, và sự nghi ngờ trước những gì không được kiểm chứng bởi thực nghiệm và lý tính, tôn trọng cuộc truy vấn có lương tâm những chân lý mới, có tính chăm chút, cẩn trọng và hoàn hảo. “Trong các bông hoa đạo đức của khoa học thì không nghi ngờ tính trung thực là bông hoa cao cả nhất” như Max Planck, người khai sáng thuyết lượng tử, viết.


Chính thể nào không am hiểu sự phát triển lành mạnh của khoa học sẽ tụt hậu. Ở đâu không tôn trọng chân lý, mà lại bè phái, ở đó gian dối phát triển tràn lan. Khoa học là “sức mạnh đại diện” trên trường quốc tế. Quốc gia nào có khoa học phát triển lên đỉnh cao là có uy tín lớn trên trường quốc tế.


Có thể lấy dẫn chứng từ lịch sử dân tộc Việt Nam? Và có thể dẫn chứng từ các nước khác, nước Pháp chẳng hạn?


Điểm son của triết lý giáo dục tiến bộ trên thế giới là sự bao dung, tôn trọng và bàn cãi tự do những tư tưởng, triết lý, chính kiến, tín ngưỡng khác nhau, chúng bổ túc cho nhau. Tư duy độc lập, phê phán, phản biện, tự vấn không ngừng là những yếu tố quyết định của một nền giáo dục tiến bộ và phổ quát. Không thể áp đặt độc tôn bất kỳ một hệ tư tưởng chính trị, tôn giáo, triết học nào đó lên sự nghiệp giáo dục đào tạo con người. Nó kìm hãm tư duy sáng tạo, đẩy lùi nền văn hóa và phát triển xã hội.


Triết lý giáo dục ở Pháp dựa trên hai nền tảng: nhà trường thế tục và cộng hòa. Nhà nước tôn trọng và trung lập đối với mọi tín ngưỡng, chính kiến, tư tưởng, nhân sinh quan, triết học. Nhà trường là nơi hòa trộn mọi thành phần, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc, giai cấp xã hội, lý lịch của học sinh.


Ta thấy rõ sự khác biệt so với thời phong kiến hàng ngàn năm bên Đông Á mà học thuyết cửa Khổng sân Trình đã độc tôn thống trị tư duy thần dân. Cũng như Cơ đốc giáo với giả thuyết địa tâm sai lầm bên Âu châu đã đưa Giordano Bruno lên dàn hỏa thiêu và Galileo Galilei phải quỳ gối tự chối bỏ tác phẩm đặt nền tảng cho Vật lý và Thiên văn hiện đại. Điển hình gần đây hơn là thời Stalin đã dùng quyền lực chính trị để áp đặt lý thuyết về di truyền của Lysenko, gây tai hại trầm trọng cho nền khoa học của Liên Xô vào giữa thế kỷ 20 vậy. Cũng vậy, giáo điều phát xít Đức đã đẩy lùi nền khoa học Âu châu trong bao năm, làm những tài năng phải di tản sang Mỹ châu. Gần đây hơn là thời đen tối của chủ nghĩa Mao bên Trung Quốc, của Taliban bên Afghanistan. Ở Việt Nam, vụ Nhân văn - Giai phẩm thời 1956 - 1958, dù muốn hay không đã ảnh hưởng đến văn hóa, đạo đức, giáo dục, thậm chí khoa học kéo dài cả hàng thế hệ.


Việt Nam chưa có nền khoa học xứng đáng với tiềm năng. Vài con én không làm nổi mùa xuân nên đất nước mãi yếu kém. Nhà khoa học chân chính, lương thiện hiện nay có đồng lương không đủ sống cho gia đình. Làm sao có khoa học phát triển mạnh mẽ được. Nhà khoa học chưa phải lúc nào cũng thuận lợi nói lên sự thật, thì làm sao phục vụ quốc gia hữu hiệu được? Việt Nam là một phản thí dụ của Hàn Quốc gần Việt Nam nhất trong bối cảnh lịch sử cận đại: Thể chế kinh tế - chính trị chậm cải cách đổi mới, tính phi-trung thực, tinh thần bè phái, lợi ích cục bộ, không tôn trọng tiếng nói nhân dân và trí thức, thích nghe một chiều, không ngước nhìn thế giới để học và tự biên tự diễn, những cái đó giết chết văn hoá, khoa học và giáo dục.


Thăng trầm trong lịch sử của các nền văn hiến, đặc biệt Ai Cập, và của khoa học nói riêng cứ đeo đuổi tôi hoài.


Về văn hóa, giáo dục và khoa học Việt Nam hiện nay đang có những nhận định khác nhau. Một xu hướng có vẻ nổi trội là cho rằng văn hóa - giáo dục - khoa học của chúng ta đang có nhiều sa sút, khủng hoảng và tụt hậu so với thế giới, thậm chí có mặt so với chính mình, nhất là về giáo dục. Về giáo dục chẳng hạn, hình như là tư duy giáo dục còn lạc hậu hơn Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ trước hay hồi chính phủ Trần Trọng Kim với cải cách giáo dục của Hoàng Xuân Hãn và các cộng sự. Giáo sư có bình luận gì về những nhận định này? Và giáo sư có nhận định riêng của mình không?


Đúng quá đi chứ. Nếu làm mất đi tính khách quan, trung thực của khoa học, thì làm sao có thể xây dựng được văn hóa, khoa học, giáo dục lành mạnh? Điều kiện tiên quyết là phải trả lại sự khách quan cho xã hội. Đó là tính khoa học, tính trung thực, tính công bằng. Cá nhân tôi có những kỷ niệm vô cùng quý giá đối với nền giáo dục của thời kháng chiến giành độc lập (1946 -1954) với các thầy Hoàng Ngọc Phách, Đinh Gia Khánh, Hà Sĩ Hồ… ở trường Trung học cơ sở Hàn Thuyên từ Bắc Ninh di tản dần tới Thái Nguyên, đêm đêm học hành dưới đèn dầu hỏa, thầy trò thương yêu nhau như một đại gia đình vì cùng chia sẻ một niềm tin trong sáng là độc lập, tự do, hạnh phúc. Chương trình giáo dục lúc đó chủ yếu chỉ là sự kéo dài chương trình Hoàng Xuân Hãn.Ngày nay khi giáo dục đi lạc ra ngoài con đường chung của thế giới, như GS Hoàng Tụy nhận định, thì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh ngày càng xa lắc.



Trung thực là một yếu tố quan trọng đầu tiên cho
một nền giáo dục nghiêm chỉnh. Ảnh Minh họa


Thế nào là một nền giáo dục hay một nền khoa học hiện đại hay là các tiêu chí của một nền giáo dục - khoa học hiện đại?


Khách quan, định hướng theo khoa học, không giáo điều, không quan liêu. Mọi người cần phải được tôn trọng, và được trọng dụng theo tài năng chứ không theo tiêu chuẩn chính trị, tôn giáo, nguồn gốc gia đình, bè phái lợi ích cục bộ. Giáo dục cần phải khoa học, khai phóng, dân chủ, nhân văn, cởi mở với thế giới, không đóng kín, học hỏi thế giới, phi-ý thức hệ, phi - chính trị hóa.


Để có một nền giáo dục - khoa học hiện đại, cần một nền tảng văn hóa như thế nào?


Một nền văn hóa khai phóng, nghĩa là cởi mở với cái mới, tôn trọng chân lý, tôn trọng sự đa dạng của ý kiến kể cả chính kiến, quý trọng cái tiến bộ, phải biết cái gì cũ, lạc hậu cần phải bỏ và thay vào đó bằng cái mới, không ngừng đi tìm học hỏi ở các dân tộc khác. Cần nhìn nhận hoạt động dân chủ, thảo luận thẳng thắn. Tôn trọng nhân tài xứng đáng, vai trò trọng yếu của lực lượng khoa học, công nghệ.


Phải chăng một nền/hệ thống giáo dục hay một nền khoa học sẽ tạo những giá trị văn hóa của mình?


Đồng ý hoàn toàn, chỉ xin thay … chữ hay bằng chữ và, giáo dục và một nền khoa học…


Giáo dục và khoa học của các quốc gia/dân tộc có một nền tảng chung là tri thức. Phân biệt các nền văn hóa là nhờ sự khác biệt truyền thống/bản sắc. Theo giáo sư thì giáo dục và khoa học đòi hỏi những phẩm chất chung nào? Tại sao?


Mỗi quốc gia đều có truyền thống/ bản sắc. Hãy xem tấm gương Nhật Bản, Hàn Quốc. Họ hiện đại hóa đất nước nhưng có mất mát truyền thống/ bản sắc của họ đâu? Còn Việt Nam với đường lối chính trị hiện thời có phù hợp với bản sắc và văn hóa dân tộc không?


Theo tôi, đường lối chính trị tất nhiên liên quan và tác động đến chính sách văn hóa, ảnh hưởng đến sự vận động và bản sắc văn hóa. Tuy nhiên, các thể chế chính trị dựa trên nền tảng các học thuyết chính trị khác nhau đều có thể có chính sách phù hợp để bảo tồn và làm sâu sắc hơn, phong phú hơn truyền thống và bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Việt Nam không là ngoại lệ. Xin giáo sư trở lại những phẩm chất chung của giáo dục và khoa học?


Tính trung thực, niềm say mê, sự cần cù chăm chỉ, khắc nghiệt với chính mình, quyết tâm lao động, không sờn khó khăn của từng cá nhân có lẽ là những phẩm chất chung đòi hỏi bởi một nền giáo dục và nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh.


Trong lịch sử, và cả trong thế giới hiện đại, cả văn hóa, giáo dục và khoa học, nếu muốn phát triển phải phụ thuộc vào sự tiến bộ của cách thức tổ chức và quản trị xã hội. Một xã hội nếu giải phóng và phát huy được tiềm năng sáng tạo sẽ phát triển được giáo dục và khoa học, sẽ có một nền văn hóa tiến bộ và có nhiều giá trị ưu việt. Nhìn vào thực tiễn của đất nước hiện nay, theo giáo sư thì vấn đề nào, điều kiện nào có ý nghĩa quyết định để phát huy được những phẩm chất tốt đẹp về trí tuệ và tinh thần, cả nguồn lực vật chất nữa nhằm khắc phục tình trạng sa sút, lạc hậu của nền giáo dục, non yếu của nền khoa học và sự suy thoái của văn hóa?


Mỗi quốc gia muốn phát triển thành công, cần phải có một loại khai sáng nhất định từ những nhà lãnh đạo của các tổ chức và quản lý xã hội, càng cao càng phải có ý thức và trách nhiệm lớn hơn đối với lịch sử, điều dĩ nhiên trong một xã hội công bằng dân chủ. Các nhà lãnh đạo trước nhất phải là những nhà chính trị có tinh thần khai sáng, hiểu biết văn hoá thế giới, có tầm nhìn, hiểu biết giá trị của giáo dục, khoa học, của con người, của tính chính trực, của công bằng, của sự tôn trọng nhân cách, của những quyền tự do cơ bản, như quyền phát biểu, quyền nghiên cứu chân lý và phổ biến. Nhà nước cần tạo điều kiện để cùng với nhân dân tạo ra tri thức cần thiết cho sự phát triển đất nước, và trị vì trên cơ sở đó, chứ không phải áp đặt. Cứ nhìn sự khác biệt như mặt trăng mặt trời giữa hai cách thức tổ chức xã hội của Bắc và Nam Triều Tiên.


Đất nước nào xây dựng thành công đều có một triết lý của khai sáng: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Trung Quốc, trong chừng mực nào đó, cũng có một loại khai sáng. Họ đã thành công. Họ hiểu quy luật của sự vận hành của khoa học trong xã hội, và đã tạo điều kiện về văn hoá, giáo dục, cơ chế để cho khoa học, công nghệ phát triển. Việt Nam còn lúng túng, chưa tìm ra một loại khai sáng cho mình, đổi mới thế nào, cách mạng công nghiệp là gì, và làm sao để khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển. Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI cho thấy sự bế tắc trong việc thực hiện cuộc đổi mới toàn diện giáo dục-đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách đã được đề ra từ 16 năm trước.



GS Phạm Xuân Yêm (thứ ba từ phải) cùng gia đình.



Trên thế giới có những trường hợp tương tự, có những đặc điểm lịch sử và văn hóa gần với chúng ta mà/và họ đã giải quyết thành công để phát triển về văn hóa, giáo dục và khoa học?


Hãy xem Nhật Bản từ thế kỷ 19 thời Minh Trị Duy Tân. Mới hơn là Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và nhất là Hồng Kông. Tại sao Việt Nam không học được gì hay của những quốc gia này? Việt Nam đang sống giữa vùng đất có nhiều thần kỳ kinh tế hơn tất cả nơi khác, sao VN không học được để cất cánh theo? Cải cách thể chế là quan trọng nhất, là chìa khóa để giải quyết thành công sự phát triển văn hóa, giáo dục và khoa học, tuy không thể một sớm một chiều, nhưng sẽ là tụ điểm của mọi thành phần dân tộc.


Chúng ta có thể tham khảo và học tập được những gì ở các quốc gia - dân tộc, các nền văn hóa đó?


Hãy xem văn hoá đọc sách và giáo dục của họ. Việt Nam chưa tỏ ra biết học, muốn học, cứ coi mỗi cuốn sách xuất bản chỉ có chừng một, hai ngàn bản thì thấy rõ. Hãy xem khoảng cách giữa Việt Nam và những quốc gia phát triển khu vực ngày càng xa ra, chứ không thu hẹp lại. Học chính sách chọn nhân tài, đãi ngộ nhân tài, tinh thần công minh chính trực, rất khoa học của họ từ trên xuống dưới. Ở Việt Nam không phải như thế. Tiêu chuẩn chọn người không phải do tài năng, mà phần lớn do tham nhũng, quan hệ.


Cách tham khảo, học tập họ nên như thế nào để có hiệu quả nhất, vừa phát triển được và vừa bảo vệ được truyền thống và bản sắc của mình?


Câu này phải đặt ra cho những nhà lãnh đạo. Thế giới hiện nay muốn học cái gì cũng được, miễn là có quyết tâm. Hãy xem các quốc gia trong khu vực, họ phát triển thành rồng, nhưng có ai nói họ mất bản sắc, hay không có bản sắc? Các bài học không thiếu. Nhật Bản cũng từng học khắp nơi ở phương Tây, từng học của Trung Hoa một ngàn năm trước, rồi lại học của phương Tây, ai chê Nhật Bản mất bản sắc? Họ giữ được truyền thống Khổng giáo còn hơn quốc gia từng là nôi của Khổng giáo là Trung Hoa. Trung Hoa đã phá nát các giá trị đạo đức của Khổng giáo, chứ không phải Nhật Bản đổi mới.


Sự sám hối của tổng thống U Thein Sein xứ Myanmar và sự hòa giải với anh thư Aung San Suu Kyi bởi quyền lợi tối cao của đất nước mà giải thưởng Phật hoàng Trần Nhân Tông vinh danh hai vị vừa rồi ở Boston là một bài học quý báu cho tất cả chúng ta.


Trân trọng cảm ơn giáo sư về cuộc trao đổi này!


Phan Thắng (thực hiện)
(Theo Văn hóa Nghệ An)

LÍ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ĐÃ CHẾT




Nguyễn Vũ Hiệp


Trong vòng 200 năm trở lại đây, nhân loại đã liên tục chứng kiến cái chết của những lí tưởng chính trị.

Lí tưởng quân chủ đã chết, lí tưởng dân tộc đã chết, lí tưởng cộng sản đã chết, và lí tưởng dân chủ sắp chết. Hết lần này đến lần khác, con người đặt cược vào lí tưởng chính trị toàn bộ của cải, sinh mạng và hạnh phúc của mình cùng người thân. Hết lần này đến lần khác, người ta thua sạch canh bạc ấy trong nỗi thất vọng tràn trề. Họ tin lí tưởng sẽ mang lại hòa bình, nhưng lí tưởng chỉ thúc đẩy chém giết. Họ tin lí tưởng sẽ mang lại thịnh vượng, nhưng lí tưởng chỉ kéo dài đói khổ. Họ tin lí tưởng sẽ thúc đẩy nhân đạo, nhưng mọi thảm kịch nhân đạo trong vòng hai thế kỉ đều có một lí tưởng cao đẹp để nhân danh.

Dù dưới thể chế nào đi nữa, mỗi lần người lãnh đạo nhắc đến lí tưởng chính trị, thể chế ấy lại tiến thêm một bước đến độc đoán chuyên quyền.

Dù là dân tộc nào, mỗi lần dân chúng phát biểu lí tưởng chính trị một cách đồng thanh, dân tộc lại sắp mất hòa bình vì người dân mất lí trí.

Mọi lí tưởng chính trị đều từng là những kẻ giết người hàng loạt. Nhân danh lí tưởng về một xã hội bình đẳng và nhân ái, phần nghèo hơn của nhiều xã hội đã cầm súng giết những phần ít nghèo hơn. Nhân danh lí tưởng về một dân tộc Đức mạnh mẽ và không khuất phục, những người Đức lí tưởng đã treo cổ những người Đức không lí tưởng, cho đến khi cả dân tộc kiệt quệ và bị chiếm đóng suốt một thời gian dài. Nhân danh lí tưởng về quyền con người tối cao, quân đội Mỹ đã tước bỏ quyền sống của hàng triệu người, và biến hàng tỉ người khác thành những nô lệ tình nguyện trong trật tự dollar Mỹ. Nhân danh tất cả những lí tưởng này, người Việt Nam đã và đang giam nhau trong vũng lầy hiện tại.

Dù bênh vực lí tưởng chính trị bằng bao nhiêu lí thuyết, ta cũng phải thừa nhận rằng chưa có lí tưởng chính trị nào trở thành hiện thực, trong khi mọi lí tưởng chính trị đều bị những kẻ lừa đảo dùng làm mồi nhử đám đông.

Đâu là nguyên nhân của thực tế này?

Trước tiên, cần nhớ rằng mọi lí tưởng chính trị đều gắn liền với một lí thuyết chính trị. Trong khi đó, mọi lí thuyết đều đặt nền tảng trên những khái niệm tưởng tượng và những giả định không thể chứng minh. Chẳng hạn, cả “dân tộc”, “giai cấp vô sản” lẫn “nhân quyền” đều là những tập thể chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của con người. Ai có thể định nghĩa dân tộc Pháp nếu nhìn vào cấu tạo nhân chủng, văn hóa và dòng lịch sử rất phức tạp của nước Pháp? Dân tộc Phillipines là gì, ngoài một sản phẩm tưởng tượng của kẻ ngoại xâm? Giai cấp vô sản – tập hợp những người công nhân không sở hữu phương tiện sản xuất, là thành phần cư dân chính trong xã hội tư bản và tồn tại bền vững trong trật tự tư bản – có đang thực sự tồn tại ngoài đời? Và nhân quyền bất khả xâm phạm có thật không, khi trong suốt dòng lịch sử của loài người, chưa từng có con người nào được đảm bảo những quyền đó? Khi mà cho đến ngày nay, người ta vẫn phải biện bạch rằng đó là những quyền mà con người được Chúa ban tặng? Khi mà trong thực tế, chúng chỉ là sản phẩm tưởng tượng trong những bản hợp đồng được kí bởi đám chính khách đang tìm kiếm trật tự quyền lực hậu Thế chiến II?

Mọi lập luận của lí thuyết chính trị đều đặt nền tảng trên những khái niệm tưởng tượng và giả định không thể chứng minh. Và những giả định này lại đến từ những ám ảnh và đam mê mà con người theo đuổi một cách vô thức. Bởi vậy, có thể nói rằng mọi lí tưởng chính trị đều đặt nền tảng trên ảo tưởng, cùng niềm tin rằng mình không ảo tưởng. Lí thuyết càng dài, khái niệm càng nhiều, lập luận càng phức tạp thì lí tưởng càng xa rời hiện thực đang diễn ra.

Thứ hai, càng có nhiều lí tưởng, con người càng có ít tính người. Một nền tảng quan trọng của tính người là khả năng giao tiếp và đồng cảm với đồng loại. Khi theo đuổi lí tưởng chính trị, con người bị khiếm khuyết khả năng ấy. Càng bị lí thuyết chính trị ám ảnh đầu óc và ngôn ngữ, khả năng giao tiếp bình thường và trôi chảy càng kém đi. Càng tôn sùng lí tưởng chính trị, người ta càng bị định kiến chính trị che mắt và bịt lỗ tai. Thay vì đồng cảm với những người xung quanh, họ chỉ muốn đồng hóa mọi người vào lí tưởng mà họ theo đuổi.

Vì vậy, cả “người cộng sản”, “người dân tộc” lẫn “người dân chủ” đều thiếu thông minh và thiếu nhân tính. Lớp mặt nạ mĩ từ đeo trên mặt họ càng dày, thì nhân tính của họ càng vơi. Lượng lí thuyết trong đầu họ càng đậm đặc, thì họ càng khó cảm nhận thực tế đang diễn ra ngoài đời.

Tuy nhiên, người hoạt động chính trị vẫn cần hiểu lí thuyết.

Và cần hiểu nhiều hệ lí thuyết, thay vì chỉ một.

Nhờ thế, mới đỡ bị lừa bởi những người cuồng lí tưởng, mà vẫn có khả năng giao tiếp và đồng cảm với họ khi nhu cầu công việc đặt ra.

Khi thông thạo nhiều hệ lí thuyết cùng lúc, ta cũng có được khả năng nhìn vấn đề từ nhiều khía cạnh, qua cái nhìn của nhiều nhóm lợi ích khác biệt, để tìm giải pháp tối ưu cho vấn đề.

Thứ Hai, 12 tháng 10, 2015

Thơ “dở”


Hermann Hesse : (2 tháng 7 năm 1877Calw, Đức9 tháng 8 năm 1962Montagnola, Thụy Sĩ) là một nhà thơ, nhà vănhọa sĩ người Đức. Năm 1946 ông được tặng Giải GoetheGiải Nobel Văn học.

Hermann Hesse (1877 - 1962)

Tôi có cảm giác một trong số những bài thơ “dở” này lại không dở chút nào, nó mang một thứ mùi hương trong mình, chính những điểm yếu, những khiếm khuyết lồ lộ của nó lại gây ấn tượng, độc đáo, thân mật và duyên dáng; và tôi nhận ra một tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ từng có thời làm mê hoặc lòng người giờ đã trở nên nhợt nhạt và xơ cứng.

Tôi nhớ hồi khoảng 10 tuổi, có một lần ở trường, chúng tôi được đọc một bài thơ mà nhan đề của nó, nếu tôi nhớ đúng, là “Cậu con trai nhỏ bé của Speckbacher”. Bài thơ kể về một cậu bé quả cảm, người đã tham gia vào một trận chiến đấu, xông pha giữa cơn mưa đạn để nhặt đạn dược về cho nghĩa quân và trở thành một anh hùng nổi tiếng. Cả lớp chúng tôi ai cũng hào hứng với bài thơ và khi thầy giáo hỏi chúng tôi một cách hơi châm biếm: “Các trò nghĩ đây là một bài thơ hay sao?”, chúng tôi đều gào lên phấn khích: “Dạ, đúng ạ!” Nhưng ông thầy lại lắc đầu, mỉm cười và nói: “Không, đó là một bài thơ dở.” Thầy tôi đã đúng, theo một cách nào đó. Theo những quy phạm và thị hiếu của thời đại, đây không phải là bài thơ hay. Nó thiếu sự chân thực, tinh tế, nó thiếu sự tự nhiên, nó là một tác phẩm có phần thô sơ. Song bài thơ lại đem lại cho những cậu bé chúng tôi những rúng động mãnh liệt.

Mười năm sau, khi tôi chừng 20 tuổi, tôi có thể đọc bất kỳ bài thơ nào trên thế giới và tự quyết định nó là bài thơ hay hay dở. Đó là việc đơn giản nhất trên đời. Tất cả những gì người ta cần làm là liếc vào trang sách, đọc mấy dòng thơ rõ tiếng một chút - vậy là xong việc.

Một phần ba thập niên nữa lại tiếp tục trôi qua, số bài thơ tôi đã đọc lên đến hàng trăm và một lần nữa tôi lại ở trong tình thế không phán quyết được một bài thơ cụ thể nào đó là hay hay dở. Giờ đây tôi nhận được rất nhiều bài thơ, phần lớn được viết bởi những người còn trẻ, họ muốn tôi cho biết những bài thơ của họ hay hay dở và giúp cho họ được các nhà xuất bản nhận lời in. Và các nhà thơ trẻ bao giờ cũng ngạc nhiên và thất vọng khi nhận thấy nhà thơ già Hesse, người được xem là đã học hỏi bằng kinh nghiệm, lại chẳng đúc kết được gì từ kinh nghiệm của mình mà chỉ lật qua từng trang bản thảo như một động thái vô nghĩa, ông ta còn chẳng đủ can đảm để phán quyết xem những bài thơ của họ là xuất sắc hay vô giá trị. Điều mà ở tuổi 20 tôi có thể làm được hoàn toàn tự tin chỉ trong hai phút giờ lại là việc khó khăn đối với tôi. Có lẽ tôi không nên nói đó là việc khó, mà phải nói đó là việc bất khả. (Thứ mà chúng ta gọi là “kinh nghiệm” là một vấn đề gây bối rối. Khi ta còn trẻ, ta mặc nhiên xem nó là thứ đến một cách tự động. Song vấn đề không giản đơn như thế. Có những người có khả năng đạt đến sự thấu suốt từ kinh nghiệm; họ có kinh nghiệm từ khi là học trò; họ sinh ra đã có tư chất của một kẻ nhiều kinh nghiệm – và có những người khác, trong đó có cả tôi, những người có thể 40 hay 60 tuổi, thậm chí sống đến trăm tuổi nhưng rốt cục lại trở về cát bụi mà chẳng hề học được hay hiểu được cái thứ “kinh nghiệm” này là gì).

Sự tự tin tôi có khi đánh giá các bài thơ lúc mình 20 tuổi có duyên do thực tế: tôi dành tình cảm mãnh liệt và đặc quyền cho một số bài thơ, một số nhà thơ đến độ ngay lập tức, một cách rất bản năng, tôi so sánh mọi bài thơ, nhà thơ khác với những bài thơ ấy, những nhà thơ ấy. Nếu một bài thơ nào đó giống với những bài thơ trong nhóm yêu thích của tôi, đấy là bài thơ hay. Còn ngược lại, tôi sẽ không thấy nó có phẩm chất đáng kể nào.

Vẫn có một số thi sĩ mà tôi đặc biệt yêu quý, một số người trong đó là những thi sĩ mà tôi đã mến mộ từ hồi mình 20 tuổi. Nhưng giờ đây, dường như tôi lại có phần ngờ vực hơn những bài thơ có vẻ giống như tác phẩm của những nhà thơ ngày trước mình yêu thích.

Lúc này tôi không định bàn về các nhà thơ và thơ ca nói chung; tôi chỉ muốn nói đôi lời về thứ thơ “dở” – tức là về những bài thơ mà hầu như bất cứ ai, ngoài trừ chính nhà thơ, sẽ xếp chúng ngay vào cùng với những thứ văn vẻ tầm thường, vớ vẩn, những lối viết trước đó không ai viết thế.

Nhưng quả thật giờ đây, tôi lại thường xuyên cảm thấy một bài thơ mà mọi người đều cho là dở lại đem đến cho tôi những khoái cảm thực sự, tôi dường như có xu hướng chấp nhận nó, thậm chí ca ngợi nó, trong khi đó những bài thơ hay, kể cả những bài thơ hay nhất, lại thường không rung lên trong tôi một âm vang đáp lại nào. Tôi có cảm giác một trong số những bài thơ “dở” này lại không dở chút nào, nó mang một thứ mùi hương trong mình, chính những điểm yếu, những khiếm khuyết lồ lộ của nó lại gây ấn tượng, độc đáo, thân mật và duyên dáng; và tôi nhận ra một tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ từng có thời làm mê hoặc lòng người giờ đã trở nên nhợt nhạt và xơ cứng.

Tôi có thể thấy nhiều nhà thơ trẻ của chúng ta cũng có kinh nghiệm tương tự. Về nguyên tắc, họ đã tránh viết những bài thơ “hay”. Khi một nhà thơ trẻ trong số này bỗng dưng hoài niệm quá khứ - Werfel là một thí dụ - anh ta bỗng quên đi bản ngã của mình và bắt đầu dàn trải những lời thơ hoa mỹ theo phong cách cổ điển xưa cũ thì chính điều ấy lại đem đến cho độc giả của nhà thơ một cảm giác khó chịu rất lạ. Những nhà thơ còn rất trẻ của chúng ta, những người chưa bao giờ bị cuốn vào những lỗi lầm như thế, đã đi đến kết luận rằng: thế gian này đã có đủ những bài thơ đẹp, rằng họ không được sinh ra và được đặt trên hành tinh này chỉ để tạo ra mấy dòng thơ xinh xẻo hơn, để tiếp tục trò chơi kiên nhẫn mà cha ông của họ đã bắt đầu. Họ hoàn toàn đúng và những bài thơ của họ thường có sức hấp dẫn, sự hưng phấn giống như những gì tôi nhận thấy từ những bài thơ “dở” mà tôi đã nói đến.

Và lý do chẳng phải tìm ở đâu xa. Thoạt đầu, một bài thơ là một thứ gì đó rất đơn giản và bộc phát. Nó là một sự thoát ra, một tiếng gọi, một tiếng gào, một hơi thở dài, một chuyển động, nhờ đó, tâm hồn tìm được sự giải tỏa hoặc nhận ra một xung lực thúc đẩy. Ở chức năng đầu tiên, nguyên thủy, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng này, chẳng ai có quyền phê phán một bài thơ. Thứ cảm hứng đó chẳng nói với ai khác ngoài chính bản thân nhà thơ: đó là tiếng khóc, là sự mộng mơ, là động thái mang tính bản năng của nhà thơ. Đôi khi bài thơ dường như không chỉ thỏa mãn sự giải phóng cảm xúc của nhà thơ. Một số bài thơ còn kích thích, truyền cảm hứng đến những người bên cạnh nhà thơ. Những bài thơ ấy là những bài thơ hay. Có lẽ điều này xảy ra khi nhà thơ biểu đạt được một điều gì đó chung cho cả loài người, điều cũng có thể đến với những người khác. Song tôi không chắc lắm.

Chính tại đây, chúng ta bị mắc kẹt trong một cái vòng luẩn quẩn không may. Vì những bài thơ “đẹp” khiến tác giả nổi tiếng nên sẽ có rất nhiều những bài thơ khác được viết ra với một tham vọng không gì khác hơn là trở nên “đẹp”, tác giả của chúng không có ý niệm gì về tính sáng tạo, vẻ ban sơ, sự hồn nhiên mà thiêng liêng của bài thơ. Những bài thơ ấy không còn là những giấc mơ hay tiếng khóc của một tâm hồn, sự bùng vỡ của nỗi đau hay niềm hoan lạc, những hình ảnh của những ước muốn thầm thì hay những công thức thần bí, những động thái của một nhà hiền triết hay điệu bộ của một gã điên – không, chúng chỉ còn là miếng thịt thơm ngon dành cho khách hàng là công chúng. Chúng được viết ra để thu về lời lãi từ việc cung cấp cho công chúng sự vui thích, sự chỉ dẫn hay những cái gì khác nữa mà công chúng thèm khát. Và những bài thơ như thế thường được hoan nghênh đón nhận. Nhưng có những ngày mà thế giới đúng đắn kia trở nên nhàm chán quá đỗi đối với tôi, khi tôi muốn phá cũi xổ lồng, muốn đốt đền, tôi mới phát hiện được rằng tất cả những bài thơ “đẹp”, thậm chí kể cả những điển phạm thiêng liêng, đều như thể đã từng bị kiểm duyệt, bị thiến hoạn, chúng trở nên ba phải, nhạt nhẽo, héo hắt như một bà cô già. Vào những ngày ấy, tôi thích những bài thơ dở hơn. Càng tệ bao nhiêu, chúng lại càng làm tôi vui thú bấy nhiêu.

Nhưng chẳng bao lâu sẽ đến cái ngày mà những bài thơ dở cũng trở nên đơn điệu. Việc đọc những bài thơ dở chỉ là một khoái cảm lướt qua. Và sau cùng, đọc những bài thơ dở thì có gì tốt? Tại sao bạn không tự viết những bài thơ dở? Làm việc đó đi, độc giả, và cả bạn nữa sẽ nhận ra việc sáng tác những bài thơ dở là một khoái thú hấp dẫn hơn nhiều so với việc đọc những bài thơ đẹp nhất từng được viết nên.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Hermann Hesse, “Bad Poetry”, bản Anh ngữ của Roy Temple House, Poetry, Vol.70, No.4 (Jul., 1947), p.202-5.

Cái Mới: nhận diện và song thoại




Nhã Thuyên -Inrasara



Nhà văn cần biết tự phản tỉnh



1. Song thoại với cái mới nối tiếp/khác biệt như thế nào với Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo? Chủ đề, tinh thần, hay những từ khoá cơ bản trong quan điểm tiếp cận của anh là gì?

Inrasara: Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo là một hụt hẫng của suy tư nền tảng và toàn diện về vấn đề trung tâm/ngoại vi của văn chương Việt hôm nay.Song thoại với cái mới làm đầy đủ nó. Song thoại lật mở mọi khía cạnh phân biệt đối xử đó: văn học dân tộc thiểu số/đa số, nam/nữ, trung ương/địa phương, chính lưu/ngoài luồng, trong nước/hải ngoại, Đông Nam Á/thế giới… Có quá nhiều phân biệt, nhưng tôi nhận ra đó là sự phân biệt giả tạo xuất phát từ mặc cảm giả tạo. Cần phải đánh sập mặc cảm đó.



2. Cái mới mà anh muốn “song thoại” cụ thể là gì? Anh có nghĩ nếu chỉ là những cái tên (mà chưa minh giải) e rằng đôi/nhiều khi chỉ là những cái mới bề ngoài mà thôi?

Inrasara: Cụ thể đấy chứ! Đó là thơ dân tộc thiểu số, thơ Chăm, thơ nữ quyền luận, hậu hiện đại, nhóm Mở Miệng, nhóm Ngựa Trời, sáng tác của các nhà văn hải ngoại… Tôi thấy chúng mang cảm thức mới-khác hay nảy ra từ một nền văn hoá khác, qua lối biểu hiện mới bằng các thủ pháp mới. Tôi song thoại với chúng, sòng phẳng. Còn cái cũ không cần và tôi không có nhu cầu song thoại với nó. Nó đã “khẳng định” mình trong quá khứ xa và gần. Hệ mĩ học của nó cũng đã được lưu kho. Cả cái có vẻ mới cũng thế.

Mỗi mảng đề tài được tiếp cận bằng nhiều lối khác nhau và, có thể nói, thể hiện qua hình thức hoàn toàn khác nhau. Khi thì bằng hình thức đối thoại trực tiếp (“Khai mở bế tắc sáng tạo”) hay đối thoại giả tưởng (“Góp nhặt sỏi đá”), hoặc nhận diện từng khuôn mặt (“Thơ dân tộc thiểu số, tờ một hướng nhìn động”) hay từng cụm tác giả (“Thơ nữ trong hành trình cắt đuối hậu tố ‘nữ’”) từ đó đưa ra nhận định mang tính khái quát. Mỗi cái mới có khi được minh định chặt chẽ như một tiểu luận khoa học (“Sẽ không có cuộc cách mạng thơ trong tương lai gần”, “Văn chương Đông Nam Á trong tâm thế hậu thuộc địa”), cũng lắm lúc nó có mặt như được bài báo (“Còn ai đọc thơ, hôm nay?”, “Bế tắc trong sáng tạo”) hay một tản văn đầy ngẫu hứng (“Sáng tác văn chương Chăm hôm nay”). Có khi nó công phá như thanh đoản kiếm với đường chọc ngắn và dứt khoát (“Văn chương trẻ Sài Gòn ở đâu?”), nhưng lắm lúc cần đến tầm bao quát rộng lớn cả sự lí giải mang tính lí thuyết dông dài (“Hậu hiện đại và thơ hậu hiện đại Việt”). Nghĩa là linh hoạt, như thể một sáng tạo khác vậy.



3. Anh có nghĩ rằng sự hào hứng rộn ràng của anh với Hậu hiện đại sẽ biến nó thành một “từ rỗng” (khi nó chưa ứng với tác phẩm/tầm đọc), một thứ công cụ, đặc biệt là công cụ tuyên truyền (không phải tuyên truyền chính trị mà tuyên truyền cho chính nó)? Hậu hiện đại, trong nhiều trường hợp là một thứ vỏ nguỵ tạo dễ dãi với một số tác phẩm khoác áo cái mới. Và những hào hứng quá sẽ “lộng giả thành chân”…

Inrasara: Đúng! Nhưng hãy gạt sang bên tầm [đón đợi của người] đọc, bởi người viết không trách nhiệm về khoản này. Riêng tác phẩm: đâu phải cái mới nào cũng “hay”. Tôi đã làm cuộc sàng lọc kì khu mới có được những tác phẩm sáng giá. Bởi chính tác phẩm [hậu hiện đại] nói lên cảm thức nông hay sâu, sự vận dụng thủ pháp nhuần nhị hay thô thiển của nhà thơ hậu hiện đại. Và cả tài năng nữa chứ. Nhưng làm sao người đọc có thể thấy như thế, nếu nhà phê bình né tránh chúng, và nhất là tâm lí hãi sợ, dị ứng của các thế lực đủ dạng luôn ngăn chúng có mặt sòng phẳng và công bằng? Hãy đưa chúng ra ánh sáng, cho những gì là “thứ vỏ nguỵ tạo” lộ mặt. Khi đó chính chúng sẽ “tự huỷ” mà không cần bất kì cấm đoán hay trù dập nào!



4. Anh đã bao giờ “tự nhìn lại” những đánh giá của mình với các hiện tượng văn chương anh đã hào hứng? Thực tế có rất nhiều nguy cơ ảo tưởng: Ảo tưởng về một cộng đồng văn chương toàn cầu hoá, ảo tưởng về cách tân, v.v…?
Inrasara:
Tôi luôn “tự nhìn lại”, nên chưa bao giờ ảo tưởng về cái gì đó bất kì. Nhà văn hậu hiện đại thường trực mang trong mình ý thức phản tỉnh, tự thức (self-conciousness), nếu không thế, anh/chị ta sẽ chết với ảo tưởng tự sản sinh mang vác suốt hành trình. Nhưng chết với ảo tưởng về cái mới không oanh liệt hơn ngồi lì lại với cái cũ sao?



5. Vậy điều gì làm anh chú ý nhất ở thơ ca? Ngôn ngữ hay “thái độ xã hội” của nó, hay…?

Inrasara: Đây là câu hỏi đòi hỏi một kiến giải rất rộng. Tôi tạm trưng dụng câu nói nổi tiếng của Heidegger: “Ngôn ngữ là ngôi nhà an cư của Tính thể. Thi sĩ và tư tưởng gia là kẻ canh giữ ngôi nhà ấy”. Khi được ngôn ngữ kêu gọi cư ngụ tại nhà, thi sĩ canh thức ngôn ngữ. Mọi thái độ, cử chỉ, lời nói, hành động của con người đều xuất phát từ trung tâm phi trung tâm đó. Lúc ấy, Thi sĩ là Ngôn ngữ là Tư tưởng là Hành động. Không còn phân biệt đâu là thái độ hay ngôn ngữ nữa.



6. Anh có nói rằng nhà văn Việt Nam chưa bao giờ giỏi lập ngôn hay lập thuyết. Vậy phát ngôn của anh có thể gọi là…?

Inrasara: Trả lời phỏng vấn là đáp ứng lại câu hỏi trước đó. Từ câu hỏi “nhà văn chúng ta chỉ giỏi lập ngôn chứ chưa bao giờ lập thuyết nổi” mới bật ra đáp ứng đó. Việt Nam [và rất nhiều dân tộc khác] không có truyền thống sản sinh triết học hay mĩ học, là chuyện không bàn. Càng không có vấn đề, nếu ta khiêm cung học tập thiên hạ. Phiền nỗi là ta mang phức cảm khá lạ: vừa lớn tiếng phản bác đồng thời len lén học lóm sau lưng! Về phần tôi, tất cả “phát ngôn” chỉ là một cách học tập hoặc nền tảng hơn nữa, một dọn đường cho học tập.



7. Anh muốn lập biên bản thơ Việt Nam đương đại và không áp đặt lối nhìn, bằng ngôn ngữ đơn giản nhất. Điều này tôi thấy nghi ngờ. Có chăng một kiểu “biên bản văn chương” thuần tuý không một lối nhìn riêng của anh, và một “ngôn ngữ phê bình” của anh?

Inrasara: Tôi chưa dùng từ “thuần tuý” trong lập biên bản bao giờ và ở đâu cả. Lập biên bản “các sự biến văn chương đang xảy ra”, nghĩa là không chừa trừ, không phân biệt hay xử ép với bất kì “sự cố” nào. Chúng có đó, không thể chối bỏ. “Lập biên bản nghĩa là phơi mở sự việc như nó là thế mà không áp đặt một lối nhìn nào bất kì. Dù đó là lối nhìn nhân danh truyền thống hay bản sắc văn hoá dân tộc, chân lí đinh đóng hay cái đẹp vĩnh cửu. Cũng không phải từ lập trường văn học trung tâm nào, từ chủ thuyết văn chương thời thượng nào. Giữ nguyên hiện trường, diễn đạt — bằng ngôn từ giản đơn nhất có thể — các quan điểm sáng tác, qua đối chứng với chính sáng tác phẩm của hệ mĩ học đó đặt trong tiến trình phát triển thơ Việt trong thời đại toàn cầu hoá”. Ở đó vẫn có cái nhìn của chủ thể quan sát, nhưng tôi nhận định chúng qua hệ mĩ học của chính sáng tác đó. Chứ không từ lập trường hay định kiến của tôi.



Phê bình để “xô đổ” vách ngăn văn chương



8. Thư mục sách tham khảo của anh có thể làm nhụt chí các nhà phê bình (ở Việt Nam). Với anh, lý thuyết văn học có vai trò như thế nào với phê bình văn học hiện nay?
Inrasara: Phê bình thiếu lí thuyết, thiếu tư tưởng nền tảng chỉ là thứ cảm nhận đầy cảm tính. Qua đó việc khen chê luôn bắt rễ từ cảm tình, tuỳ hứng và tuỳ tiện. Phê bình như thế chẳng những làm rối mò khí quyển văn chương mà chính nó cũng sẽ chẳng nhích lên tới đâu.



9. Nhưng ở Việt Nam, những lí thuyết (không được hiểu/dùng) đúng chẳng cũng đang làm rối mù khí quyển văn chương đó thôi?
Inrasara: Không sai! Nhưng lẽ nào chỉ vì lí do đó mà ta mãi phê bình hay sáng tác bất cần lí thuyết? Từ chối hay dị ứng với lí thuyết?



10. Anh có cảm thấy những phát ngôn của mình như muối bỏ bể? Sau những nỗ lực của anh, anh có thấy được ủng hộ, có nhiều người tiếp nối anh “song thoại với cái mới” hay/và song thoại một cách thẳng băng với anh chưa?
Inrasara: Không như muối bỏ bể đâu. Ít ra nó cũng mức độ nào đó đánh thức bộ phận kẻ sáng tác đang ngủ mê nơi căn chòi hệ mĩ học cũ, cảnh giác những cái mới giả mạo hay đang lặp lại mình mà không biết và nhất là, khích lệ những bước chân tìm tòi, phiêu lưu vào những miền đất mới. Song thoại như thế kêu đòi các song thoại khác tương thoại với nó. Tương thoại như thể các tư duy đã trưởng thành chứ không có thái độ quy chụp thô thiển hay né tránh trẻ con. Chỉ khi đó ta mới cơ may đẩy nền văn học dấn tới.



11. Trả lời nhiều phỏng vấn, anh có cảm thấy chính mình bị truyền thông làm nhiễu không? Tôi cảm thấy nhiều khi anh cũng luẩn quẩn và “chưa đủ cô đơn” để nhìn các hiện tượng một cách điềm tĩnh hơn?
Inrasara: Truyền thông chưa hề làm nhiễu tôi ở đâu cả. Tôi vẫn đủ đầy cô đơn cho mọi sự việc, trước mọi trang viết. Vẫn còn vài hiện tượng văn chương khác đang trong tầm lập biên bản của tôi. Trên dưới 30 trào lưu/khuôn mặt sẽ có mặt đề huề trong Từ hiện đại đến hậu hiện đại (phê bình). Có thể gọi đó là Song thoại với cái mới (thuyết lí) tập hai. Khi ấy, bạn mới thấy tôi “điềm tĩnh” như thế nào trong hành trình tư tưởng và chữ nghĩa.

Sự điềm tĩnh này — nếu bạn lưu ý — đã thể hiện ngay ở phần “kết”: “Thơ như là con đường” trong Song thoại với cái mới rồi. Và ít nhiều sáng hơn ở một tiểu luận mới của tôi: “Bốn cứu cánh của đạo sĩ Bà-la-môn & Thơ”.



12. Cuốn sách của anh nhắc đến nhiều hiện tượng người ta vẫn kiêng nhắc. Vậy, nó bị/được nhà xuất bản ứng xử ra sao?
Inrasara: Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo được nhà xuất bản đề nghị tạm hoãn nhiều bài, trong đó có bài mang tính bản lề. Còn Song thoại với cái mới sau gần một năm mới được cho ra lò. May mắn nó mẹ tròn con vuông, như người đọc đã thấy.



13. Dù sao, từ “song thoại” vẫn đem lại cảm giác “to tát” trong văn hoá tranh luận văn chương ở Việt Nam hôm nay. Anh nghĩ sao?

Inrasara: Đó là người ta “cảm giác” chứ không phải tôi. Văn chương là chuyện cá thể. Nhà phê bình chỉ có thể nói chuyện với cá thể người hay từng xu hướng sáng tác. Nó không quan tâm đến “đối thoại” hội đoàn, bè nhóm. “Song thoại” còn nói lên phê bình “song hành” chứ không đi trước hay sau, đứng cao hay thấp hơn sáng tác.



14. Điều quan trọng nhất anh muốn/đã làm được ở cuốn sách này hoặc những điều anh muốn nói thêm.

Inrasara: Đó là ý hướng nhận diện và ý muốn xô đổ bức vách ngăn văn chương [bị cho là] ngoại vi và trung tâm qua quyết tâm phá tan nỗi mặc cảm hậu thuộc địa và ngoại vi tai hại. Riêng cá nhân tôi, khai vỡ mọi khía cạnh trung tâm/ngoại vi trong văn chương Việt đương đại là một thách thức lớn. Nó đòi hỏi tầm bao quát vấn đề chưa từng được đề cập trước đó, khả năng thẩm định tác giả, tác phẩm, xu hướng hoàn toàn mới và nhất là, thường trực vượt bỏ sự thoả hiệp.

Điều cần nói thêm ư? Độc giả sẽ thấy nó đủ đầy ở tập tiếp theo. Hi vọng thế!



Xin cảm ơn anh.

Thứ Bảy, 10 tháng 10, 2015

thông điệp gửi người đi lạc






Khaly Cham



bao năm rồi cầm trên tay giọng nói
chạy khắp cùng quên tiếng gọi quê hương
những con chữ nằm co ro trên giấy
trừng mắt nhìn tôi một kẻ dị thường


những đám mây trôi về từ tiền kiếp
đậu xuống vai báo hiệu chuyển sang mùa
những chiếc lá trên vòm cây nhạo báng
câu thơ tình tôi rao bán chẳng ai mua

thân thể xám của mình tôi chợt thấy
giấc mơ thơm ve vuốt vết thương đời
em ngồi hát trong tận cùng ảo giác
ru ngủ mặt trời – hay em ru tôi ?

biên niên ký của ngày tôi đi biệt
lật từng trang nào thấy họ tên mình
một con chim khóc thầm trong chiều nắng
đêm khôn cùng làm sao thấy bình minh!

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

MỘT CÁCH KHÓC


Nguyễn Ngọc Tư


"Bạn tìm được cây me nhỏ dưới chân bồn hoa ở con đường ven sông. Vào một ngày nắng nỏ, ai qua đây cũng bồi hồi, ngày mai người ta kéo cưa máy về để dọn sạch hàng dầu gần hai trăm năm tuổi. Dầu không đẻ me, nên cây mà bạn nhổ được chắc mọc tình cờ từ một hạt rớt rơi. Nhưng không sao cả, mai này nhìn nó, bạn sẽ nhớ một con đường một hàng cây.

Không sao, mười năm nữa cây con cũng vươn tàn ngả bóng. Cổ thụ thì cũng bắt đầu từ những cây nhỏ nhỏ như vầy, bạn nghĩ vậy. Nên vỉa hè trước nhà đã chật mớ cây mà bạn nhặt nhạnh từ những nơi có cổ thụ bị bức tử.

Có quá nhiều thứ để chia tay vào những ngày thành phố đâu đâu cũng tung tóe như một đại công trường. Mầm chia ly lẫn trong khói bụi, những đào dỡ, những san ủi, những bản vẽ quy hoạch trên giấy. Tính bạn đa sự mặc sức mà thương.

Nhưng qua rồi quãng bày tỏ thương bằng thơ, hay bằng chữ nhỏ ra trên giấy. Hồi người ta dẹp chợ Nhà Lầu cùng với công viên đằng trước nó lấy chỗ cho cao ốc sáu tầng mọc lên vắt bóng qua tận bên kia sông, trước khi xe ủi san phẳng, nhà chức trách tổ chức trưng cầu dân ý, một trăm người đòi giữ lại cả trăm. Phản hồi cột tin tháo dỡ chợ trên nhật báo có cả ngàn bạn đọc khác cũng bảo chợ là ký ức, linh hồn thành phố, thiếu cha gì chỗ để trồng tòa nhà lên, sao cứ phải trên xác chợ Nhà Lầu. Có người viết bài báo hàng ngàn chữ, nói chuyện bên tây bên tàu người ta nhã nhặn và nâng niu với ký ức ra sao.

Nhưng rốt cuộc, chợ cũng thành đống gạch vụn, vườn cây cổ thụ thành củi vụn. Hôm nhìn mấy chị tiểu thương nức nở khi cánh cửa chợ sập xuống, bạn nghĩ nước mắt đó đâu chỉ khóc cho cái chợ mà gần như cả cuộc đời họ neo theo, nó có bao nhiêu lam gió, có bao nhiêu chỗ dột, có bao nhiêu cây cột, thông thuộc còn hơn nhà mình. Họ còn khóc cho chính họ, gào khản giọng mà không được lắng nghe. Sờ sờ ra đó mà bị tính như vắng mặt.

Nước mắt sẽ chẳng thay đổi được gì, nếu nó bị coi như vô hình.

Cũng không phải tự dưng mà bạn nghĩ ra chuyện trồng cây. Có lần đem sửa đồng hồ ở chỗ một anh thợ quen, anh nói hên quá, cô tới trễ chắc không biết đâu tìm, ngày mai tôi dời tủ đi nơi khác, tránh chỗ cho Nhà nước bật gốc hàng me của khúc đường này.

Anh kể hổm rày người ta rần rần tới tiễn cây. Họ đi chậm rãi, ôm gốc cây, đưa điện thoại nhờ anh chụp hình.

Có người còn rờ lớp vỏ cây đã rêu mốc, miệng láp giáp kể chuyện tình, hồi xưa tôi với bồ hay ra đây chơi, lần đầu hôn hít con gái run như đuôi thằn lằn đứt. Có người tần ngần đảo xe vài lượt mới chịu đi, làm bảo vệ mấy tòa nhà bên kia đường ngó lom lom, bởi tụi trộm cướp thường làm vậy.

“Thiên hạ quỡn thiệt, chắc là dư nước mắt”, anh thợ đồng hồ cười. Một cái cười hơi khó cắt nghĩa. Chỉ chắc chắn là không quá nhiều cảm tình cho những ai tới ôm cây. Trước khi bám lề đường, anh cũng có hai năm kê tủ thợ bên hông chợ Nhà Lầu. Cái chợ đó được thương không thua gì hàng me này đâu, anh kể, lại cười.

Muốn hỏi sao anh có vẻ không ưa mấy nước mắt khóc cổ thụ, khóc cái chợ cũ nát, thì anh đã lảng qua chuyện khác. Ông già sửa giày ngồi gốc cây bên kia không biết đau ốm gì mà cả tuần rồi không thấy ra. Thằng nhỏ thợ hồ hay ăn cơm hộp rồi dựa gốc me chợp mắt, bữa trước nghe nói té giàn giáo gãy chân, giờ không biết sao rồi. Lâu quá không thấy hai cha con ông đẩy chiếc xe bán nước mưa, ống quần lúc nào cũng ướt sũng.

Chuyện có vẻ như rời rạc như cơm nguội phơi khô, như nhớ gì nói nấy. Những người quen anh thợ đồng hồ đang nhắc, coi bộ cũng không có mối liên hệ gì nhau, ngoài một điểm chung duy nhất: biến mất. Không cặn bụi. Không dấu tích. Mà chẳng thấy ai thương níu như những gì dành cho cái chợ, đường tàu sắt cũ bị bỏ rơi, một ngọn núi nung vôi hay nay mai là hàng cây cổ thụ này. Hoặc có nhớ, thì cũng lẻ tẻ âm thầm, như anh nhớ họ. Mà anh đâu có biết viết báo, làm thơ.

Những thân phận đó không gây được cơn sóng nhớ tiếc nào, chắc anh thợ khóa nghĩ vậy, khi ngồi nhìn cuộc tiễn cây. Chắc từ khi nhật báo đăng tin con đường này sẽ phát quang nới rộng, anh chưa nhận được câu nào mang tính thăm hỏi kiểu như gốc cây anh đang dựa dẫm bị cưa trụi rồi, anh sẽ dời đi đâu?

“Đâu cũng được, nhưng phải chỗ có cây thì đỡ nắng”, câu trả lời đơn giản của anh thợ đồng hồ đưa bạn tới ý nghĩ kiếm cây về trồng.

Trong lúc anh thợ sửa đồng hồ hay bà già bán chuối ngào đường đằng kia nghĩ ra cách để được người ta nhìn thấy (mà không phải tẩm xăng để tự đốt cháy mình), những thân phận bị coi như vô hình đó cần nhiều bóng mát cho cuộc mưu sinh."