Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

NIETZSCHE MỘT NỖI BUỒN CỦA “BẤT TỬ” HAY LÀ ÔNG HOÀNG BẤT MÃN CỦA SIÊU NHÂN




Nhân vật thứ hai trực tiếp khai đường mở lối cho triết lý hiện sinh là Friedrich Nietzsche. Ông là một nhà văn có ngòi bút sắc bén, linh hoạt, một nhà tâm lý nhìn tận vào gian manh vô ý thức của tình người, một nhà triết lý tha thiết với hạnh phúc nhân loại, và sau hết là một người tiên tri cô độc và nhẫn nhục. Sinh thời, ông đã phải vuốt nước mắt, vật lộn với thờ ơ lãnh đạm của đồng bào ông. Người ta không muốn ông thành công trong sứ mạng làm văn. Tư tưởng của ông như từng đốm đen trong không trung triết lý tự mãn lúc bấy giờ, không ai buồn để ý. Ngay sau khi tác phẩm đầu tay chào đời, ông mới khám phá ra rằng: “Chỉ cần làm được một cái gì hay và mới, thì đã đủ để thấy thế nào là ý nghĩa chơi xấu nơi bạn bè của mình”. Kinh nghiệm đau buồn ấy vẫn không tha thứ cho ông suốt hàng chục năm trời. Ông âm thầm làm việc, nghiên cứu, tìm kiếm, luôn luôn nhìn về tương lai với hy vọng dân tộc Đức quốc sẽ tỉnh ngộ, nhưng để rồi hai năm trước khi ông nhắm mắt vĩnh biệt cõi đời, trong một bức thơ cuối tháng 7 năm 1888 gửi người bạn cố tri, cô De Meysenbug, ông nghẹn ngào ghi thêm vào sổ đoạn trường: “Trống rỗng đã vây quanh tôi. Nói trắng ra là không một ai nghĩ đến hoàn cảnh của tôi. Bi đát nhất là từ mười năm nay tôi không được nghe một lời an ủi, và, tôi mới hiểu ra rằng nhân tình thế thái phải là như vậy… Quả tim tôi bị đâm thủng, vì không tiếp nhận được một câu trả lời, một chữ trả lời, vì phải một mình, kinh khủng một mình, mang chịu gánh nặng đáng lẽ được người ta chia sẻ, gánh nặng mà ai cũng muốn trút bỏ - bởi không, thì viết làm gì? Đến rồi phải ngã gục vì “bất tử” mất. Tình cờ muốn rằng cái số khốn nạn của tôi là sống đồng thời với sự nghèo nàn tinh thần của Đức quốc, sống với một chua xót đáng thương hại…”.

Nietzsche không được người đời biết đến khi ông còn sống. Vì ông không thuộc loại triết gia làm phát ngôn viên cho thời đại, đại diện cho thời đại, vì ông không là lãnh tụ do thời thế tạo ra để hướng dẫn họ. Ông thuộc về loại người phải làm vật hy sinh cho hiện tại, để sống lại trong mai hậu, hạng người anh hùng. Ông có chết đi mới nói được nên lời, tư tưởng ông mới lên men và tác động mạnh mẽ trong hơi thở văn nghệ học thuật của thế kỷ 20. Và giờ đây, quay cuồng trên trục xe thời gian bất diệt, hồn thiêng ông sẽ hoan hỉ nhìn thấy Rạng đông của lời tiên tri xa xưa ông đã gửi cho giống người qua miệng Zarathoustra: “Các người đã chưa tìm thấy tôi khi các người gặp tôi…”. “Bây giờ tôi truyền cho các ngươi phải quên tôi đi, để các ngươi gặp được chính các ngươi, và chỉ khi nào các ngươi đã chối bỏ tôi thì tôi sẽ đến bên cạnh các ngươi”.

Friedrich Nietzsche sinh ngày 15 tháng 10 năm 1844, ở Boeken gần Leipzig, một ngôi làng thuộc miền Saxe Phổ quốc. Cha ông làm Mục sư, giòng họ trưởng giả Ba Lan. Mẹ là người Đức, bà nội ông là hội viên hội thi hào Goethe ở Weimar. Khi Nietzsche lên năm, thì cha ông chết sau một cơn bệnh dằng dai (ngày 30.09.1849). Ít tuần sau, Joseph Nietzsche, người anh duy nhất, cũng chết theo. Đầu năm 1850, gia đình dọn về Naumburg, nơi đây bé Nietzsche sống tám năm tròn trong một gia đình gồm toàn đàn bà: mẹ, bà, hai dì và chị tên là Elizabeth. Thở không khí nhẹ nhàng âu yếm ấy, cậu bắt đầu làm thơ và nhạc. Tháng 10 năm 1858, được học bổng sáu năm nội trú tại trường trung học danh tiếng Pforta. Trang trọng và nghiêm nghị, cậu tổ chức hội văn chương, làm thơ, nhạc, với các bạn đồng lớp, và được gọi là “mục sư”. Năm hai mươi tuổi, cậu đổ bằng “Trưởng Thành” (Maturität), tương đương với tú tài toàn phần, và ghi tên vào Đại học đường Bonn. Ngày mồng 7 tháng 9 năm 1861, nhiệm ý thần học và ngữ học cổ điển, dưới sự hướng dẫn đặc biệt của giáo sư Hy ngữ, Ritschl. Sau đó, cậu theo Ritschl sang Đại học Leipzig. Hai năm ở Đại học này có tính cách quyết định: Nietzsche tình cờ khám phá ra Schopenhauer. Một luận án về triết gia này được hoàn thành nhưng bị từ chối.

Năm 1868, Nietzsche đi làm nhiệm vụ quân dịch, bị té ngữa, điều trị lâu ngày mới khỏi. Trở lại Leipzig, vùi đầu vào việc học. Ngày 8 tháng 11 năm 1868, ông được giới thiệu với nhạc sĩ Wagner, một biến cố quan trọng thứ hai trên đường sự nghiệp của ông. Tháng 2 năm 1869, mặc dầu không có bằng Tiến sĩ nhưng nhờ đề nghị nồng nhiệt của Ritschl, ông được bổ lên ghế giáo sư ngữ học cổ điển tại Đại học đường Bà-lơ Thụy sĩ. Ngày nhậm chức, ông đọc bài khai mạc Home về ngữ học cổ điển, rất được tán thưởng. Ông tỏ ra rất sư phạm, và được các đồng nghiệp mến phục, đặc biệt giáo sư sử học Burekhardt. Thấy thế, phân khoa Leipzig cấp cho ông cấp tiến sĩ, không khảo hạch và không luận án. Đồng thời ông được Đại học Bale thăng lên ngạch giáo sư thực thụ. Thời gian ở đây, ông có dịp làm thân với gia đình Wagner ở Lucerne gần đó.

Ông xin gia nhập quốc tịch Thụy sĩ, và năm sau, ông xin xung vào đoàn cứu thương để rồi thấy mình mắc bệnh tả lỵ, sức khỏe suy giảm. Trở về Bale, tiếp tục đi lại với Barekhardt và Wagner.

Mồng 1 tháng Giêng năm 1872, tác phẩm đầu tay, Nguồn gốc của bi kịch, chào đời. Thực ra, dụng ý thu hẹp của Nietzsche khi viết cuốn ấy, là để đề cao Wagner, ông đã thành công, và dư luận lúc bấy giờ cho rằng Nietzsche sẽ là một cứu tinh của dân tộc Đức bằng con đường âm nhạc.

Từ 1873-1876, ông viết và cho xuất bản liên tiếp bốn nhận định phi-hiện tại, đó là những tuyên ngôn nảy lửa chống tinh thần ỷ lại và sa đọa của đời sống trưởng giả. Và tư tưởng của Schopenhauer và Wagner vẫn được Nietzsche xem như là phương dược trị bệnh thời đại.

Nhưng trớ trêu thay, năm 1876, sau khi chứng kiến sự thành công ồn ào, búa chú của bản nhạc Chiếc Nhẫn Nibelungen của Wagner, trình diễn đầu tiên ở Bayrenth, ông đâm ra hoài nghi giá trị cứu sống của Wagner. Ông tự ý bỏ đi Ý, và từ đó mối thân tình giữa ông và gia đình Wagner chấm dứt. Về sau, trong cuốn cuối cùng của ông, Ý chí của Sức mạnh, ông đã mô tả tình trạng bất an trí thức trong giai đoạn đó như sau:

“… Tôi sợ phải thấy những gì là ý muốn của tôi kẹt vào thế dung hòa. Lúc đó tôi hiểu ra được con đường của Wagner mà tôi thì đã mãnh liệt liên kết với ông bằng mọi đường giây của một sự hợp nhất quan điểm, bằng sự biết ơn đối với ông, ông là tất cả cho tôi, không thay thế được trước cảnh tuyệt đối cô đơn của tôi. Cũng vào thời kỳ đó, tôi cảm thấy bị giam luôn mãi trong tù ngục ngôn ngữ học và giáo chức của tôi - một tình cờ và một buông thả của đời tôi - tôi không biết làm cách nào thoát ra được, tôi sẽ mệt nhọc, hao mòn, kiệt sức. Thế là tôi hiểu rằng bản năng của tôi muốn ngược chiều với điều Schopenhauer mong muốn, nghĩa là làm thế nào để biện chứng được cho cuộc đời, ngay cả trong những khủng khiếp nhất, mập mờ nhất, dối trá nhất. – Để làm việc đó, lúc bấy giờ tôi đang nằm trong tay phương thức Dionysien”.

Năm 1878, ông bỏ hẳn Đại học Bale và từ biệt nhà giáo. Cho xuất bản cuốn “Nhân đạo, quá nhân đạo”, rồi phiêu lưu sang cao nguyên Ý. Đây là một tác phẩm nhằm giải thoát cho nhà tư tưởng, cho chính ông, một vở mộng Wagner. Bút pháp rất tinh vi, khách quan, quả cảm và trào lộng đanh thép của châm ngôn, biểu ngữ gọn gàng và vắn tắt nhưng sâu rộng và thắm thía, không vẩn đục bởi những thành kiến hoặc dung hòa. Ông muốn bằng ngòi bút đập phá và hạ bệ tất cả mọi thần tượng. Voltaire đã dẫn dắt ông.

Năm 1880, hai tác phẩm khác lần lượt ra đời, tiếp nối cho cuốn trên đây: “Người khách viễn phương” và “Bóng đen của hắn”. “Rạng đông”, cảm nghĩ về thành kiến luân lý. Trong cuốn tự thuật “Này là người”, ông đã viết về hai tác phẩm ấy như sau: “Suốt cả mùa đông, tôi sống như một bóng đen, ở Saint Moritz, và mùa đông năm sau, một mùa đông thiếu mặt trời nhất trong đời tôi, sống ở Naumbourg, tôi lại giống bóng hơn nữa. Đó là điểm tối đè của tôi. Vào tuổi ba mươi sáu, sinh lực của tôi đã xuống thấp nhất. Còn sống mà vẫn không thấy xa ba bước trước mặt tôi, lúc đó là lúc “người khách viễn phương” và “bóng đen của hắn” ra đời. Dĩ nhiên rằng tôi định nói đến những bóng đen. Mùa đông sau, mùa đông đầu tiên tôi ở Génes, cảm thấy êm dịu và thiêng liêng, nhờ quá nghèo máu và gân, tôi cho ra đời “Rạng đông”. Cuốn sách viết rất trong sáng, tràn đầy trí óc, phù hợp với sức khỏe yếu ớt thậm tệ đã đành, mà còn phù hợp với đau khổ quá độ của tôi…”.

Những tháng ngày thở khí lành Địa Trung Hải đã bình phục sức khỏe của ông. Ông muốn dứt khoát với một viễn ảnh một bóng hai người hoặc hai người một bóng, ông muốn nhìn thẳng vào thực tế, trông rõ trắng đen. Không những cần vui sống, mà để vui sống, cần phải vui biết: cuốn “Vui biết” đến đúng lúc, năm 1882. Tuy nhiên, vui biết chỉ là một phản ứng đối với xương mù quá khứ, và đồng thời muốn báo hiệu một cái gì dài hơi hơn, hệ thống hơn, triết lý hơn. Ông định tìm nơi thuận tiện để làm cái gì đó. Bale là một trong những nơi ông nghĩ tới. Nhưng rồi lại phải tiếp tục công việc Zarathoustra đã nói như vậy vốn khởi sự bốn tháng trước. Ông đã hoàn thành tác phẩm thi triết này từ 1883-1886, trong thời gian đó, phần nhiều ông ở Nice, miền nam nước Pháp. Năm 1886, ông cũng viết xong cuốn “Bên kia Thiện và Ác”, mở đầu một triết lý của tương lai, và tiếp theo là cuốn Truy nguyên luận về luận lý.

Cuối năm 1888, kể từ tháng tám, Nietzsche viết tiếp một hơi bốn tác phẩm: Hoàng hôn của thần tượng (tháng 8-9), Tiền Kitô (tháng 9), Này là người (tháng 10), Nietzsche chống Wagner (tháng 12). Trừ cuốn “Này là người” là một tự thuật như đã nói, còn ba tác phẩm kia là những đoạn trích ở cuốn Ý chí của sức mạnh, cảo luận của một cải hoán tất cả mọi giá trị, một tác phẩm chính yếu sẽ phải nói lên thực chất của tư tưởng Nietzsche.



Nhân định không thắng thiên. Dự định đội đá vá trời Hư vô đã giữa đường đứt gánh: Nietzsche, nhắm mắt từ biệt cõi đời ở Weimar, ngày 25 tháng 8 năm 1900, trong tay người chị độc nhất còn sót lại, cô Elizabeth.

Nietzsche muốn đứng lên chống đối mọi thứ thần tượng do lý trí tạo ra, bằng cách chứng minh sự bất lực của lý trí trước những phi lý của cuộc đời. Hegel xây dựng biện chứng trên nguyên lý mâu thuẫn chống lại nguyên lý không mâu thuẫn của Aristoteles. Nietzsche làm một cuộc đảo ngược học thuyết Hegel, bằng cách đem mâu thuẫn từ trời trừu tượng của lý học xuống những miền dày đặc, đóng kín của tính người và của nhiên lực vô thức trong vũ trụ[1]. Có thể nói rằng mâu thuẫn vừa là bản chất, vừa là phương pháp của học thuyết Nietzsche[2].

Từ sự phủ nhận học thuyết Hegel, ông đi dần đến một kết án toàn diện mọi công trình văn hóa – đã được xây dựng trên sự suy luận của lý trí Socrate. Nền văn hóa cũ gồm ba yếu tố căn bản: triết lý, tín ngưỡng và khoa học. Để phát động một nền văn hóa và một nhân sinh mới, ông đề nghị một mẫu người lý tưởng, mệnh danh là siêu nhân, tự động thực hiện ba yếu tố ấy theo chiều hướng sáng tạo của mình.

Trong ý tưởng giới thiệu Nietzsche như một con người tiên phong của triết lý hiện sinh, chúng tôi sẽ giới hạn ở những điểm chính yếu có tác động mãnh liệt và ý nghĩa nhất đối với triết lý này.

Ngoài những mô tả tâm lý rất sâu viễn về lòng người[3] ta có thể xét Nietzsche về hai phương diện siêu hình và luân lý.

Quan điểm siêu hình của Nietzsche

Cũng như Kant, ông nhận định rằng mọi kiến thức bắt nguồn ở kinh nghiệm, và cũng như Kant, kiến thức là một sự giải thích của người. Ông không nhận “sự kiện”. Không làm gì có sự kiện, mà chỉ có giải thích. Nghĩa là không có thực tại khách quan, do đó không có chân lý khách vật. Nghĩa là thế nào?

Nietzsche không phủ nhận giác quan. Trái lại, ông đề cao giác quan và chỉ tin vào thế giới của giác quan. Giác quan không bao giờ lừa dối. Nhưng giác quan nói gì với ta? Nhận thức của giác quan là nhận thức tự động, hồn nhiên, nhận thức của thân thể, của dục vọng. Nhận thức không thành kiến và thay đổi theo thời gian và không gian. Nhận thức của Héraclite trước giòng nước luôn luôn trôi chảy và đổi mới. Nhận thức của Pascal chân lý bên này rặng Pyrénée là sự thực và bên kia là giả dối. Nietzsche tuyên xưng một chủ nghĩa duy cảm giác (sensualisme) và tương đối (relativisme). Cảm giác là giải thích.

Ông phủ nhận Hữu như là chân lý của sự vật. Sự vật chỉ là các giác quan bắt được. Hữu tự nó không có, chỉ là ảo tưởng, trống rỗng, nói khác đi, Hữu chỉ là Hữu như là được giải thích. Các nhà tư tưởng tiền Socrate đã trông thấy được thế nào là chân lý giác quan. Nhưng chân lý ấy đã bị Socrate và tập đoàn cũng như bao nhiêu thế kỷ duy lý về sau, làm biến thể và bốc hơi thành những quan niệm trừu tượng, hình thức. Họ đã thần thánh hóa lý trí, đề cao luận lý như một tên phù thủy của nhận thức. Tên “ác quỉ Socrate” và đồ đệ, không biết rằng luận lý của họ là một vòng lẩn quẩn bất lực, lấy đuôi làm đầu, lấy đầu làm đuôi, trong việc tìm hiểu vũ trụ nhân sinh. Họ tưởng đó là một nghề cao quý nhất của nhân loại. Họ đã quá lạc quan và tin tưởng vào lý trí, nhưng sự lạc quan ấy đã phản bội con người[4]. Từ bao thế kỷ, triết gia đã áp dụng lý trí Socrate, và tiến quá xa trên con đường Socrate, và đánh mất con người mà họ muốn tìm hiểu. Nietzsche so sánh chân lý với người phụ nữ. Hầu hết triết gia bị mê hoặc trước vẻ kiều diễm của chân lý, nhưng họ không đi vào được cõi lòng của nàng chân lý[5]. Ăn phải bùa mê Socrate, triết gia không còn can đảm trở về với kinh nghiệm cảm giác, để tìm kiếm và chiêm ngưỡng trong đó nàng chân lý trần truồng thơ mộng[6].

Phủ nhận thực tại khách vật và Hữu đưa Nietzsche đến việc chối bỏ giá trị tuyệt đối của khoa học và Thượng Đế. Một khi giác quan được nhìn nhận là kiến thức độc nhất, còn thì tất cả là ảo tưởng, thì Thượng Đế - được triết học cổ điển hay tín ngưỡng cho là Siêu nhiên - không còn cái gì có thực nữa.

Nietzsche cho rằng hai triết gia có công nhất trong việc đả phá nền tảng lý thuyết của những “chân lý ngàn đời” là Kant và Schopenhauer. Sự đả phá ấy là một chiến thắng khó khăn nhất. Bởi vì hai triết gia ấy đã chiến thắng niềm lạc quan vốn làm nền tảng cho văn hóa Tây phương. Kant đã nhấn mạnh đến tính chất hiện tượng của kiến thức, và đã chứng minh sự bất lực của lý trí. Còn Schopenhauer thì cho rằng lý trí phổ biến chỉ làm cho con người vốn đã mê ngủ lại càng mê ngủ hơn[7]. Thêm vào đó là ảnh hưởng của học thuyết Vô Minh Maya. Rất nhiều lần Nietzsche đã trình bày tư tưởng của ông dưới ánh sáng Mơ hồ từ Bức Màn Vô Minh tận chân trời âm u huyền bí của Hy Mã Lạp Ấn Độ chiếu về,

Nhưng, theo Nietzsche, thì các nhà vô thần đi trước đã không tỏ ra triệt để, vì họ không khai thác đầy đủ những hậu quả do sự phủ nhận Thượng Đế phải đưa đến. Thái độ vô thần của thế kỷ 18, hay 19, là thái độ của những nhà ý thức hệ trừu tượng, của lý trí suy luận trong tháp ngà. Nietzsche muốn rằng phủ nhận Thượng Đế là một thái độ sống, của một người sống trên mặt đất và giữa xã hội loài người.

Do đó, về lý thuyết, Nietzsche đã sớm nhận thấy rằng khi Thượng Đế không còn nữa, thì mọi công trình, mọi thái độ từ lâu dựa trên lý trí cổ truyền, sẽ không còn có nghĩa gì nữa, tất cả sẽ trở thành phi lý. Vũ trụ, nhân sinh, trong viễn tượng ấy, sẽ chỉ là hư vô vì được xây dựng trên một lý tối hậu là Thượng Đế mà hiện nay đã được chứng minh là phi lý, là hư vô[8]. Học thuyết Nietzsche là một học thuyết hư vô. Tất cả những ý niệm hư vô trong triết lý hiện sinh đều nhiều ít bắt nguồn từ thái độ của ông.

Trước khi nói đến thuận lý của chủ nghĩa hư vô, cần phải giải thích thêm những ý niệm đã được Nietzsche gán cho chủ nghĩa ấy.

Nói hư vô tuyệt đối là nói tới sự ngẫu nhiên tuyệt đối như J. P. Sartre giải thích về sau. Không làm gì có một vị thần sáng tạo ngoài vũ trụ. Lực sáng tạo nằm ngay trong vũ trụ, trong sự vật. Tương tự như nguồn sinh lực của Bergson. Tuy nhiên, nguồn sinh lực ấy không chia làm hai ngả, một ngả đi lên theo chiều hướng phát hiện tinh thần, một ngả gục xuống cô đọng thành vật thể, như ta thấy trong học thuyết Bergson. Nguồn sinh lực ấy cũng không tiến hóa một chiều như trong học thuyết Darwin. Nietzsche tin rằng có thể tiến hóa do một nội lực vũ trụ thúc đẩy. Vạn vật chỉ là những lúc thể hiện của cuộc tiến hóa ấy. Thời lúc của Nietzsche không như thời lúc của Hegel. Vì thời lúc của Nietzsche là một trò chơi của mâu thuẫn nội lực cụ thể, không thể nào giản lược thành quan niệm lý học của Hegel, do đó bất khả tri và phi lý.

Điểm độc đáo của Nietzsche là sự tiến hóa của vũ trụ không theo đường thẳng, mà là một sự quy hồi vĩnh cửu. Tương tự như quan điểm không có gì mất đi, không có gì tự sáng tạo như Pascal đã nói. Quy hồi vĩnh cửu nói được là bản chất của vũ trụ, hoặc chức vụ của việc sáng tạo nói trên. Trong cái vòng tròn, không có chỗ khởi đầu và không có chỗ tận cùng ấy, hiện tại là quá khứ và tương lai, cái đã có cũng như cái sẽ có và đang có. Một vật còn hay mất không quan hệ gì, nhất là khi mất đi để tái hiện. Vũ trụ trong diễn biến vòng tròn của nó là một cây đèn kéo quân. Nietzsche giải quyết theo nghĩa đó vấn đề duy nhất và đặc thù đã từng đặt ra cho triết học. Quan niệm ấy rải rác trong “Ý chí của sức mạnh”, nhưng dường như Nietzsche đã thu gọn vào đoạn này:

“Và các ông có biết đối với tôi “thế giới” là gì không? Có cần phải chiếu lại cho các ông xem thế giới ấy không? Thế giới ấy là một quái lực vô thủy vô chung, một lực lượng đanh thép không thể nhỏ hơn mà cũng không bao giờ to lớn, không làm tiêu hao mà chỉ sử dụng, bất biến trong toàn bộ của nó, một ngôi nhà không chỉ tiêu hoặc mất mát, mà cũng không thu hoạch và không tăng thêm, chung quanh là hư vô làm như biên giới. Thế giới ấy không phải là cái gì mung lung và tự phung phí, không phải cái gì bao la vô tận, nhưng, là một lực xác định, nó được đặt vào một không gian xác định và không phải trong một không gian trống rỗng ở một nơi nào đó. Là lực khắp nơi, nó là ba động và giao khoa của các lực, vừa một vừa nhiều, tăng chỗ này giảm chỗ kia, một biến lực xao động mà chính nó là phong ba, vĩnh viễn biến đổi trong một đi lại vĩnh viễn, với những năm khổng lồ trở về, với làn sóng không ngừng đổi mới, từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất, từ yên lặng nhất, cứng cỏi nhất và lạnh lùng nhất đến nóng nảy nhất, rực rỡ nhất, mâu thuẫn nhất, để rồi lại sau đó đi từ đa phức đến đơn giản nhất, trò chơi mâu thuẫn đến hoan hỉ hòa điệu, tự khẳng định, ngay trong cái đồng hình không thay đổi qua năm tháng, tự chúc phúc vì nó là cái chính phải trở về vĩnh viễn, là một thành hình không chán, không nhờm, không mệt -: thế giới ấy, thế giới như tôi đang thấy, cái thế giới dio-ny-siêng của sự tự sáng tạo vĩnh viễn, tự hủy diệt vĩnh viễn, cái thế giới huyền bí của khoái lạc hai mặt, thế giới “bên kia thiện và ác” của tôi không mục đích, trừ một mục đích nằm trong hạnh phúc của vòng tròn, không ý chí, trừ một vòng tròn có thiện chí, đi theo con đường cũ của mình, luôn luôn đi quanh chính mình và chỉ đi quanh mình: thế giới ấy, như tôi quan niệm: ai có trí tuệ đủ sáng suốt để nhìn ngắm mà không muốn lòa mắt? Ai mạnh đủ để đưa tâm hồn mình đến trước tấm gương ấy? Tấm gương bản thân mình trước tấm gương của Di-o-ny-sốt? Và nếu có ai có khả năng đó, thì không nên làm hơn nữa hay sao? Tự hứa chính mình cho “vòng xích của các vòng xích”? Với nguyện ước chính mình sẽ trở về? Với vòng xích của chúc phúc vĩnh viễn mình làm cho mình, của mình tự khẳng định mình một cách vĩnh viễn? Với ý chí muốn luôn và một lần nữa? Muốn về lại đàng sau, muốn tất cả những gì đã có? Muốn tiến lên trước mặt, muốn tất cả những gì sẽ có? Bây giờ các ông biết thế giới đối với tôi là gì chưa? Và đã biết chưa điều tôi muốn khi tôi muốn thế giới này?[9]

Tính chất của nội lực ấy như thế nào? Ta đã nói rằng nội lực của vũ trụ hàm chứa những yếu tố mâu thuẫn sống động. Ta có thể nghĩ đến thái cực và âm dương trong Dịch kinh. Điều đáng ghi lại ở đây là nội lực, do mâu thuẫn thúc đẩy, tự vật hóa bằng con đường bạo động (violence). Nói khác đi, bạo động là hạt nhân và cách thể diễn biến của vũ trụ[10]. Thiên nhiên là một bà mẹ mang thai không ngừng. Công trình sáng tạo là công trình của đau khổ. Và vạn vật là kết quả của một cử chỉ bạo hành, của người mẹ vũ trụ. Con giống mẹ. Mọi hiện tượng tương giao trong trời đất đều là những hiện tượng bạo động. Nietzsche đề cao luật chọn lựa thiên nhiên, nhưng theo một chiều hướng đông đảo của riêng ông.

Sống là bạo động. Sống là đau khổ. Đó là cái nghiệp di truyền không biết từ bao giờ trong đêm tối của vòng thời gian, cái nghiệp ấy chung cho mọi sinh vật.

Người và luật bạo động

Nhưng đặc biệt là định luật của kiếp người. Sinh, Tử, Bệnh, Lão, để nói theo từ khổ của Phật học, cũng là do luật bạo động chi phối. Một người sinh ra là kết quả của bạo động. Bạo động cho nên đau và khóc. “Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”. Theo nghĩa đó, đau khổ đi liền với sáng tạo[11].

Về sau Heidegger, cũng như nhiều nhà phân tâm học, gọi việc người sinh ra, như là một sự ruồng bỏ, tù đày. Ý tưởng này bắt nguồn từ ý niệm bạo động ta đang diễn tả.

Sinh đã là bạo động, thì những gì thuộc về sự khai triển cuộc đời đều là bạo động. Nietzsche nói đến bạo động của sức khỏe, bạo động của tinh thần tự do, bạo động của vinh dự, bạo động của quý phái… Đã nói bạo động là sáng tạo, thì phải nói sáng tạo là bạo động.

Tại sao phải sáng tạo và bạo động? Trước hết, cần nhận định rằng sáng tạo là bản chất của người. Người tự sáng tạo ra người từ thể chất đến tinh thần. Không có một Thượng Đế nào tạo nên người cả. Mà sáng tạo là bạo động, thì người được định nghĩa là kẻ bạo hành.

Bạo động trong nhận thức. Kiến thức, như đã nói, bắt đầu và giới hạn ở giác quan. Nhưng nhờ đâu có kiến thức?

Chính là nhờ sự thúc đẩy của bạo động, khiến chúng ta tự rời bỏ bản thân để vươn mình đến ngoại vật. Chân lý đến với ta do áp lực của bạo động. Như Kha Luân Bố đã từng bạo động các thủy thủ để tìm ra Tân thế giới. Nietzsche đã có kinh nghiệm bản thân về đau khổ nhận thức: “Tôi viết sách với chính máu tôi”, ông nói. Về sau, ông còn tổng quát hơn: “Mọi cố gắng đi sâu đến nền tảng sự vật, làm sáng tỏ các huyền bí, đã là một bạo động rồi, một ý chí làm cho mình đau khổ, ý chí cốt yếu của trí tuệ luôn luôn căng thẳng trong phiêu diện và hời hợt – trong mọi ý chí tìm biết có một giọt nước độc ác[12]. Bạo động là một vĩnh cửu của trời đất, một phần nào giáng sinh trong mỗi cá nhân. Chính động lực ấy ngăn cấm chúng ta dừng lại ở những ý niệm tổng quát hóa và bằng lòng với những kiến thức thủ đắc. Luôn luôn phải hướng về cái mới. Nhật nhật tân, đó là mệnh trời đã được phú bẩm cho nhân trí.

Việc văn hóa cũ, mà triết lý và tín ngưỡng đã từng là nền tảng, cần được hủy bỏ cũng chính là vì sự đòi hỏi của nhu cầu bạo động ấy. Người ta đã sa lầy trong các hệ thống triết học, tưởng rằng triết lý là khoa học tổng quát. Nhưng người ta đã không dễ làm nạn nhân cho lý trí tổng quát. Thực ra, Nietzsche nói, lý trí chỉ là khí cụ phục vụ cuộc sống. Từ bao nhiêu thế kỷ, con người đã ngu ngốc chống lại với nội lực bạo động. Thái độ đề kháng ngây thơ ấy đã đưa nhân loại đến sự tin tưởng vào những gì được quan niệm là tổng quát, là bất dịch ngoài thời gian. Như chiếc diều ngược gió, lý trí đã bị những làn gió ích dụng đưa đẩy và ly khai với kinh nghiệm sống. Nhưng lợi bất cập hại, tinh thần tổng quát ấy đã làm thui chột mất trí tuệ, không còn thấy được bản chất chân thật (authentique) của sự vật. Đến nỗi mọi giá trị nhân sinh chỉ còn là những quy ước xã hội giả tạo. Cái ích dụng là cái chân, cái thực. Ngược lại, cái không ích dụng là giả dối, ngộ nhận. Sống trong không khí mê hoặc ấy, người ta không buồn tố cáo sự giả dối, nếu chẳng may thấy được giả dối. Giả dối là điều kiện của cuộc sống? Tại sao lại có tình trạng ấy? Nếu không là tại người đã bị mê hoặc bởi tinh thần biện chứng của Socrate.

Mặt khác, đừng tưởng rằng biện chứng là cái gì dành riêng cho một lớp người ưu đãi của thiên nhiên, của lịch sử.

Biện chứng triết lý, trải qua giòng lịch sử, đã đúc thành những ý thức hệ hẹp hòi, không tưởng của Auguste Comte, của Hegel, của Marx, trong đó lý trí được đặt lên bàn thờ như một thần tượng siêu hình hay khoa học, một thần tượng nhiệm mầu, vạn năng. Trong thực thế, lý trí đã chủ tọa mọi cố gắng xây dựng xã hội; và sau cùng đã đưa quần chúng lên võ đài chính trị, bằng những học thuyết dân chủ vô sản, v.v… Người ta tưởng rằng làm như thế, nhân loại sẽ nhân đạo hơn, công bình hơn, hạnh phúc hơn.

Nhưng người ta đã lầm. Sự say mê dân chủ là một chiến thắng của lý trí nhưng là một thất bại của cá nhân. Bởi vì dân chủ san bằng mọi năng lực siêu quần bạt chúng, khiến cho những năng lực này không có cơ hội phát huy và chứng tỏ giá trị độc đáo của mình. Dân chủ hay những hình thức nhân dân, dân vi quý, của người xưa chỉ là kết quả “tất nhiên” của một quan niệm lý trí bất lực, phản động, thiếu năng lực sáng tạo. Cần phải dùng bạo lực để hủy diệt thứ dân chủ hạ thấp con người xuống ngang hàng với súc vật. Ở đây Nietzsche chịu ảnh hưởng của Voltaire, theo ông này, nhân dân chỉ là chó má cần được dạy dỗ và lãnh đạo.

Một tân giá trị

Đọc Nietzsche, ta thấy tư tưởng ông tiến triển qua bốn giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất được thể hiện trong cuốn “Ngày sinh của Bi kịch”. Ông say sưa với nghệ thuật cổ Hy Lạp, tiền Socrate. Ông cổ xúy sự tôn thờ Dionyssos, thần Tửu Nhạc. Chính trong nghi lễ nhảy múa, ca nhạc, ông “tìm” ra được ý nghĩa đau khổ của cuộc đời. Nói khác đi, chân lý trước hết và căn bản là triết lý của đau khổ. Tửu và Nhạc là những Thần Dược chống lại định mệnh tàn bạo, Schopenhauer và Richard Wagner là hai hiện thân Dionysos của Đức quốc. Nietzsche muốn là triết gia sau cùng của “Hành Lạc”. Đó là thời kỳ lãng mạn của ông.

Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn của “băng giá tinh thần tự do”. Sau khi đã “mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ” ông thấy cần phải chấp nhận tự vệ, khinh đời, ngạo mạn. Thái độ này đưa ông đến chủ nghĩa cá nhân quý phái (individualisme aristocratique). Tư tưởng ông được trình bày trong nhất là hai cuốn “Nhân đạo quả nhân đạo” (1878), và cuốn “Vui Biết” (1882).

Từ đó, ông càng ngày càng nhận thấy nhà tư tưởng cùng nghệ sĩ chỉ là những người đứng trông những “khán giả”. Ông đã nghĩ đến một kiểu người xuất chúng: Siêu nhân, mà Zarathroustra là phát ngôn viên (1883-1885).

Tuy nhiên, đến đây ông “bỏ” Schopenhauer, cũng như đã đoạn tuyệt với Richard Wagner mười năm về trước. Ông không chấp nhận “Ý chí sống” của Schopenhauer, ông muốn một “Ý chí của sức mạnh”, được xuất bản sau khi ông chết. Những tác phẩm báo hiệu trực tiếp là các cuốn “Bên kia Thiện Ác”, “Trường hợp Wagner”, “Nietzsche chống Wagner”, “Hoàng hôn của Thần tượng”, “Chống Cơ Đốc”, “Này là người”.

Có thể nói rằng Nietzsche, như Diogène, đi tìm một ý nghĩa cho con người. Tất cả đã làm cho ông thất vọng. Chúng ta đã thấy thái độ của ông đối với lý trí, triết học và tôn giáo nói chung.

Nhưng Nietzsche tin rằng tình trạng bế tắc, thoái hóa của nhân loại không phải do một mình triết lý hay tôn giáo làm nguyên nhân, mà nhất là do tín ngưỡng của Thiên Chúa giáo. Sau và hơn Socrate, “Jesus là địch thủ lợi hại nhất, đúng hơn là kẻ thù nguy hiểm nhất cho Nietzsche”[13].

Như một tay phù thủy ngoại hạng, Jesus đã làm hoa mắt nhân loại từ gần 2000 năm, đã giải tỏa vào vũ trụ một thứ ánh sáng mê hoặc không diễn tả được. Người sáng lập ra Cơ Đốc giáo, cũng như các thứ Cơ Đốc giáo về sau, đã tín điều hóa những ý niệm Socrate về Công Bình, Bác ái, Tự do, v.v… Nhưng nếu Socrate thuộc các hạng thứ dân, hèn hạ, kháng khinh, là một ngoại lệ trong xã hội Cổ Hy (Crépuscule des Idoles, trang 96), suốt đời chỉ biết chống đỡ một cách tuyệt vọng trước những uy quyền bạo động khác, thì Jesus là một ông hoàng Myschkin “một pha trộn của cao siêu, của bệnh hoạn và của trẻ con”, một kiểu người “suy đồi” (décadent) không dám đương đầu với cuộc đời, chiến đấu với đời, không có can đảm chấp nhận cuộc đời (xem “Chống Cơ Đốc”, đoạn 31). Vì hèn nhát, mềm yếu, nên Socrate trước, Jesus sau, đã không thấy được con đường tự cứu nào khác hơn là thu mình vào trong những ống vỏ hào nhoáng nhưng bất lực là các giáo điều về công bằng, vị tha, bác ái…

Triết lý Socrate và tín ngưỡng Cơ Đốc đã làm suy yếu nhân loại, đã chận đường thể hiện của Bạo quyền huyền nhiệm. Socrate là tiên tri của lý trí nông cạn. Jesus là tiên tri của tình thương huyền hoặc. Theo tiếng gọi của bạo động, Nietzsche muốn làm một tiên tri của con người mà ông gọi là Siêu nhân.

Thế nào là Siêu nhân? Siêu nhân đối lập với tiện nhân. Tiện nhân là sản phẩm của văn hóa cũ. Do đó, con người cao thượng, con người siêu quần bạt chúng, vì được thẩm định đề cao, theo tiêu chuẩn của nền văn hóa hư vô, truyền thừa, phải được liệt vào hạng tiện nhân bỉ ổi. Chính những bọn người đó là một ảo tưởng, mê hoặc và ngăn cản sự xuất hiện của Siêu nhân[14]. Siêu nhân là lý tưởng của Nietzsche, cha đẻ ra kiến thức hoan hỷ (Gai Savoir). Siêu nhân là người không ngần ngại đạp lên trên những xác chết hoặc còn hấp hối của nhân loại ngày hôm qua, để tiến lên viễn tượng huy hoàng của những chân trời mới. Trong cuốn “Vui biết”, Nietzsche đã nhận định rằng:

“Biến cố mới lớn lao nhất - việc “Thượng Đế đã chết”, việc tín ngưỡng vào Thượng Đế Cơ Đốc giáo không còn đáng tin nữa, đang khởi sự gieo bóng tối đầu tiên của nó trên Âu Châu… và điều phải sụp đổ theo là lòng tin tưởng ấy vốn chưa bị hủy diệt. Tất cả những gì xây trên lòng tin tưởng ấy, dựa vào đó là lớn lên trên đó. Chẳng hạn toàn thể luân lý Tây phương của chúng ta” (Walter Kaufmann, The Portbale Nietzsche, The Viking Press, New York, 1954, trang 417).

Ông không nói: không có Thượng Đế; ông chỉ nói: Thượng Đế đã chết. Nghĩa là ông tin rằng có những thời kỳ Thượng Đế sống trong lòng người và trong xã hội. Mặc dầu, theo ông, Thượng Đế chỉ là một ngụy tạo của lý trí. Tuy nhiên, Nietzsche là một nhà tâm lý. Ông biết rằng người phải có một lý tưởng cũng như xã hội cần xây dựng theo một bảng quy chiếu giá trị. Pascal đã viết: “Sans la foi chrétienne, vous serez pour vous mêmes, comme la nature de Phistoire un monstre et un chaos”. Nietzsche không muốn trông thấy người là một quái vật cho chính mình, và xã hội rơi vào cảnh hỗn loạn. Nhưng theo học thuyết của ông, người phải là một quái vậtđối với quan niệm truyền thống. Nói khác đi, quan niệm về người không giống nhau mà còn mâu thuẫn giữa ông và luân lý cổ truyền. Cho nên trật tự ông muốn tái lập cho một xã hội vắng bóng Thượng Đế và Tín ngưỡng, là một trật tự dựa trên nền tảng hoàn toàn mới lạ, nền tảng của Siêu nhân.

Về siêu hình, Siêu nhân đạp đổ mọi nền triết lý, mọi vũ trụ quan đã có, bởi vì những cái đó là con đẻ của hư vô và sẽ dẫn đến hư vô. Đồng thời Siêu nhân là người từ chối mọi ý niệm về Thượng Đế. Nhưng Siêu nhân không chơi vơi giữa không trung. Siêu nhân gắn liền với mặt đất, nên chủ nghĩa vô thần của Siêu nhân có tính chất hiện sinh (athéisme existentiel) và Siêu nhân là một người theo chủ nghĩa hư vô hiện sinh (nihilisme existentiel). Như đã gợi ý, hư vô hiện sinh không phải là hoàn toàn tiêu cực, trốn tránh cuộc đời. Làm thế nào để khỏi mang danh là tiêu cực, để chấp nhận cuộc đời? Làm thế nào Siêu nhân không đồng nhân tính với chúng ta có thể được xác định bằng ba đặc điểm: mới về cảm giác, mới về suy tư, mới về đánh giá trị. Cả ba quy về một đòi hỏi căn bản:

Đảo hoán giá trị (transvaluation). “Sống là đánh giá rồi” (vivre e’est dêjà apprécier, la Vonté de Puissauce, trad, Blanquis t, I, trang 209). Đảo hoán là đạp đổ, là thay thế chứ không phai cải thiện hoặc biến đổi (changement). Lịch sử nhân loại sở dĩ thất bại là vì chỉ biết thay đổi trên một quan niệm văn hóa bất động và lầm lạc. Nietzsche có thành công trong việc đảo hoán giá trị theo ý hướng của ông không? Karl Jaspers không thấy, bằng cách nào, Nietzsche đi từ tiêu cực tuyệt đối của chủ nghĩa hư vô đến những nhận thức tích cực của việc thẩm giá[15]. Nhưng người ta thấy rằng, Nietzsche không phải là đao phủ đã hạ sát Thượng Đế. Ông chỉ muốn làm kẻ tiếp tay cho đạo quân vô thần tiền phong của những thế hệ trước. Ông chỉ muốn đánh những đòn ân huệ cho những gì còn lại của một tín ngưỡng theo ông đã không còn đối tượng. Và để thay thế Thượng Đế, ông đề ra học thuyết Bạo động, học thuyết Hoài quy vĩnh viễn và học thuyết Phi lý.

Như đã nói, khi người căn bản là bạo động và quay cuồng trong định luật đanh thép bất khả giải thích của một cuộc trở về không ngừng, thì người, đã đành phải chấp nhận số phận của kiếp người, sẽ không có lý do gì mà ta than khóc lóc, trái lại, phải tỏ ra biết yêu thương số phận mình. Cũng như tù nhân chung thân, phải biết biến bại thành thắng, tìm cách yêu lấy ngục thất, để sống và sống hạnh phúc.

Phương chi, một khi không còn Thượng Đế, thì mỗi người sinh ra phải tự biến mình thành Thượng Đế cho mình. Cá nhân không có lý tưởng hoặc cùng đích tối hậu nào khác hơn là chính mình, chính bản thân mình.

Trên bình diện luân lý, không còn có vấn đề Thiện, Ác. Thiện, Ác là do triết lý Socrate tạo ra, và nhất là hậu quả của một lòng tin vào đấng Toàn Thiện. Giờ đây cá nhân tự lãnh trách nhiệm đạp đổ tất cả những cổ hủ, giả đạo đức, thì phải tìm một căn bản mới cho luân lý mới, luân lý hay đạo đức của siêu nhân[16].

Siêu nhân có thực hiện được không? Siêu nhân không phải là một ảo tưởng, một huyền nhiệm. Đó là kết quả sẽ phải đến cho những người thiện chí, có can đảm dẫm lên nền văn hóa lỗi thời, những người đã tự giải phóng khỏi những ràng buộc luân lý hiện tại để trở về tôi luyện trong nguồn nghị lực của nhân loại buổi sơ khai. Trở về nguồn nghị lực cố hữu của người, tức là bước qua thiện và ác theo quan niệm ngày nay. Nói khác đi, cuốn “Bên kia Thiện Ác” không nhằm mục đích nào khác hơn là định nghĩa lại thế nào là Thiện và thế nào là Ác. Nietzsche kết tội Thiên Chúa giáo đã âm mưu với lý trí Socrate để đưa nhân loại vào vực thẳm, bằng cách “làm cho nô lệ khởi nghĩa trong phạm vi luân lý”. Thiện là hùng, là mạnh, là gân guốc, là võ lực. Cái đẹp của một võ sĩ vì thế đồng thời là cái Thiện. Thiện nói tóm lại là thích hợp với cuộc đời tranh đấu. Còn Ác là cái gì nhu nhược, thiếu nghị lực, ốm đau, bệnh hoạn, khiến ta thất trận, nạn nhân của ngoại giới. Nhưng luân lý Thiên Chúa giáo đã cổ vũ cho sự khiêm tốn, hiền từ, và kết án kẻ mạnh như là những tội nhân! Không thể được. Con người hôm nay chỉ là con khỉ trước con người Siêu nhân ngày mai! Âm vang của Darwin mặc dầu ông này nhiều lần bị Nietzsche chỉ trích tàn nhẫn!

Người là ai? Người là một mâu thuẫn, và mâu thuẫn là bản chất hữu của người. Mâu thuẫn vì người là một con thú dữ, những muốn cắn xé, tung hoành, giết chóc. Nhưng người đồng thời là sinh vật tự ý thức được chính mình và hành động của mình. Con thú dữ luôn luôn là con vật. Người trái lại, nhờ ý thức và hành động, có năng lực tự biến thành người theo nghĩa chân chính của nó. Người là sinh vật được tác thành trong lịch sử. Tự ý thức, điều này tối quan trọng trong học thuyết Nietzsche. Nhờ ý thức, người mới phân biệt ngã chân thực và ngã giả hiện. Nhu cầu ngoại hướng, nhìn ra ngoài, nhìn nhận ngoại vật và thu nhận, đã dần dần tạo ra cho chính cá nhân những trở lực ghê gớm trên đường tự hoàn thiện. Nguy hại hơn, trở lực ấy đã được thần thánh hóa (Thượng Đế), hoặc luật pháp hóa (quy chế xã hội), hoặc công luận hóa (áp lực của dư luận), đến độ người không còn là người, mà chỉ còn là một đồ chơi của tạo hóa, của công luận. Về sau, Heidegger tóm lược tất cả tác động tai hại ấy vào trong một từ ngữ: người ta (on). Bản chất của người vốn là như một bí mật, một cấm địa, không dễ gì đi sâu vào hay thông cảm với người khác. Nhưng thần lý trí bắt phải hòa đồng với người khác. Do đó, cá nhân đã phải cải trang, đeo mặt nạ, để giả thương, giả giận, để làm hề trên sân khấu tuồng đời. Mặt nạ (persona) chỉ là một dấu hiệu, một cầu chứng tại tòa, mà công dung là nói lên một giới hạn vị trí của cá nhân trong xã hội, hoặc đặt tương quan với quần chúng. Nhưng mấy ai hiểu rằng mặt nạ, cái mà người ta gọi là nhân cách, tuy bề ngoài là một bùa hộ vệ, nhưng thực ra là một khí cụ của thất vọng chua chát, hèn hạ. Sartre đã khai thác điểm này nhất là trong hình ảnh tha nhân.

Không, người không phải là hình ảnh của Thượng Đế mà cũng chẳng phải là hình ảnh của xã hội. Người phải tự tạo ra hình ảnh của mình, cái mà Sartre đã khai triển thành vi tự (pour soi). Nghĩa là người là sinh vật tự do. Tự do trong việc chiến thắng bản ngã giả tạo để tự hiện thực một bản ngã chân thực. Như nàng Kiều “bốn dây rò máu năm đầu ngón tay” tạo ra khúc bạc mệnh, con người cá nhân phải có can đảm hy sinh luân lý để khỏi phải hy sinh mình vì luân lý. Tự giải phóng ra khỏi ách thống trị của luân lý cổ điển, dầu có phải đau đớn hay làm cho kẻ khác đau đớn, vì đó là điều kiện thiết yếu để đi tìm con đường của siêu nhân. “Hầu hết tất cả những gì gọi là “văn hóa cao cấp” đều do sự linh hóa và thâm viễn hóa tàn bạo – đó là luận án của tôi… Muốn hiểu điều đó, quả nhiên phải loại bỏ cái tâm lý ngu ngốc ngày xưa, theo đó thì tàn bạo phát sinh do việc trông thấy đau khổ của kẻ khác. Có một vui sướng mãnh liệt tràn trề khi được chứng kiến những đau khổ bản thân, khi tự mình làm khổ mình – và ở đâu người đạt đến độ từ bỏ mình (theo nghĩa tôn giáo) hay là tự chém chặt thân thể như người Phéniciens hay nhà tu hành khắc khổ quen làm, hoặc đến độ từ bỏ xác thịt, hành hạ thân xác, đấm ngực thống hối, tự giải phẫu lương tâm, hy sinh trí tuệ, như Pascal nói, tất cả những trường hợp như vậy con người đều bị ngầm lôi kéo bởi chính tàn bạo của mình? Tàn bạo trở lại chống tàn bạo…” (Bên kia Thiện Ác, đoạn 229). Người do bạo động thúc đẩy, hăng say vì bạo động. Bạo động không là tàn bạo nhưng có thể thành tàn bạo, và trong tàn bạo ấy, có một cái gì làm ta thỏa mãn, vui sướng. Ý kiến này làm ta nhớ đến quan niệm khổ dâm (masochisme) của Freud.

Nietzsche đã vượt xa những cám dỗ hành lạc lúc ban đầu. Ông không còn thỏa mãn với giọng điệu của con yêu tinh Sirène từ trong rừng xanh vọng ra, trả lời cho nỗi băn khoăn của nhà vua Midas về ý nghĩa cuộc đời:

“Giống người khốn nạn kia, con cái của tình cờ và đau khổ! Tại sao nhà ngươi cứ muốn nghe những cái không mấy lợi ích cho nhà ngươi? Cái hạnh phúc thượng thặng kia, hãy biết rằng nhà ngươi không bao giờ đạt tới: đó là chớ gì đừng sinh ra, đừng sống, và đừng gì hết. Nhưng sau đó, hạnh phúc mà nhà ngươi có thể có, là chết sớm”[17].

Đến đây, ta thấy Siêu nhân không còn là kẻ vượt biển vô tận (mer de l’infini), của một sự trở về vĩnh viễn. Nietzsche đã tỏ ra ít trừu tượng, ít huyền bí hơn. Nói nôm na, Siêu nhân của Nietzsche sau khi đã phóng tầm mắt ra bốn phương trời vũ trụ bao la, sau khi đã xét lại toàn bộ cục diện lịch sử, sau khi đã lôi kéo nhân loại ra khỏi giấc mơ hữu thần, đã muốn rằng trong tình thế ấy, người không còn cách nào khác là con đường tự cứu. Sứ mạng của người hùng Nietzsche không còn là tự đối trong việc tự thần thánh hóa, mà phải tự chiến thắng, mặc dầu là một chiến thắng tuyệt vọng. Với điều kiện ấy, và chỉ với điều kiện ấy, thì Thượng Đế mới có thể chết để nhân loại không chết theo: “Nếu ta không biến cái chết của Thượng Đế thành một đại từ bỏ mình và một chiến thắng muôn đời chính chúng ta, thì chúng ta sẽ phải trả giá cho cái chết đó” (si nous ne faisons de la mort de Dieu un grand renoncement et une perpétuelle victoire sur nous-mêmes, nous aurons à payer pour cette perte. – La volonté de puissance. Ý chí của sức mạnh, t. II, đoạn 424)[18].

Nietzsche nhận chân rằng con người không thể không tin tưởng vào một cái gì. Ông đã có những phân tích khá thâm viễn thế nào là chân tướng của lòng tin (croyance). Tin mà vắng bóng “không tin” thì không phải là tin chân thực. Một giọng điệu tương tự như của Kierkegaard hay của G. Marcel: không tin mà thiếu lòng tin là một thất vọng tuyệt đối. Thay vì tin vào Thượng Đế hay vào xã hội Nietzsche (cũng như Sartre), tin vào tự do của người, của cá nhân. Vì còn chút lòng tin, ông đã cố gắng đi tìm một cái gì lấp vào chỗ hổng do chủ trương hư vô của ông đào ra trong lòng người và trong xã hội. “Mặc dầu triệt để theo thuyết hư vô, Nietzsche viết năm 1888, tôi không thối chí tìm bằng được cánh cửa ra, lối thông đưa đến một cái gì”. Lối ra, mà Nietzsche đã tìm được và gắn liền với tên tuổi của ông, là hình ảnh của con người siêu nhân, ta đã họa lại bằng một vài nét thủy mặc trên đây.

Bình luận

Dĩ nhiên, Nietzsche đã gây một phẫn trào mãnh liệt, nhất là trong giới triết học, tôn giáo và chính trị. Quan niệm siêu nhân là nền tảng cho chủ nghĩa Đức quốc xã và thuyết liên hiệp Nhật nhĩ man. Những người Đức thuần túy là hiện thân của siêu nhân có sứ mạng làm lại một nhân loại người hùng mà động cơ là bạo lực. Tín ngưỡng, nhất là của Thiên Chúa giáo, đã gặp nơi Nietzsche một chiến sĩ tiền phong của chủ nghĩa vô thần tân thời, muốn loại trừ khỏi xã hội mọi truyền thống giá trị siêu nhiên của Phúc Âm. Tuy nhiên, Thiên Chúa giáo cũng thấy được ở học thuyết Nietzsche một luận cứ tiêu cực cho lý tưởng của mình. Thực vậy, Nietzsche đã không ngừng băn khoăn với “khám phá” Nhân loại đã và hiện sống trong suy đồi trụy lạc. Nhân loại cần phải được giải thoát khỏi tình cảnh đó, một cứu rỗi là cần thiết. Nhân loại, muốn đạt tới hai điều mong ước ấy, phải am tường và nắm được chân lý. Ba vấn đề ấy: Luân lý, Tín ngưỡng (nhân bản), Nhận thức, là tất cả nỗi lo âu của ông. Ông đã nhúng tay vào máu Thượng Đế, ông đã thấy với Pascal rằng “không có tín ngưỡng Cơ Đốc, các người sẽ đối với chính các người cũng như thiên nhiên và lịch sử, một quái vật và một hỗn loạn” (sans la loi chrétienne, vous serez pour vous mêmes, comme la nature et Phistoire, un monstre et un chaos), nên ông đã hô hào: “Từ khi không còn Thượng Đế nữa, thì cô độc càng trở nên không chịu được: con người thượng thặng phải bắt tay vào việc” (Ý chí của sức mạnh, quyển II, đoạn 421, trang 133). Nhưng tại sao lại gọi là trụy lạc, tại sao lại phải giải thoát, tại sao lại ngưỡng vọng về phía chân lý? Nhiều nhà phê bình nhận định rằng những ý niệm ấy là dư âm của Thiên Chúa giáo, hay đúng hơn, là tiếng kêu trong tiềm thức của Nietzsche, con người đã từng hấp thụ không khí của Phúc âm[19]. Thái độ của ông là một cố gắng trả lời cho dư âm không tan biến ấy. Người ta có thể thấy thái độ ấy thu gọn trong lời nói này: “Sự nghiêm trọng lớn có lẽ chỉ mới khởi đầu, vấn đề chân thực có lẽ chỉ mới đặt ra, định mệnh của tâm hồn đang đảo ngược, chiếc kim đồng hồ đang đi, tấn Bi kịch bắt đầu…”[20].

Vui của Nietzsche vượt khỏi mọi ý niệm lạc quan hay bi quan. Vui có ý nghĩa của một khám phá thuộc thứ hạng nhận thức và sáng tạo: “Chúng ta không nên đón nhận mà phải sáng tạo. Chúng ta không nghèo khổ đến nỗi phải cần đến bố thí của Thần thánh”[21].

Nhưng người ta không hiểu được và chấp nhận được cái vui ấy, khi người ta thấy nó được xây dựng trên một tảng bùn nhầy nhụa của hư vô, nói khác đi, khi tất cả là do phi lý, phi nghĩa căn bản của con người đốn mạt, bé bỏng. Thuyết bạo lực vĩnh cửu của ông cũng như quan điểm hồi quy vĩnh viễn của ông không đủ sức lấp vào vực thẳm của chủ nghĩa hư vô. Phải chăng đó là “một nhục nhã đau đớn” (honte douloureuse), như chính Nietzsche đã thừa nhận, khi ông thấy quãng cách giữa thường nhân với siêu nhân, tương tự như “ý thức đau khổ” của Hegel trong câu chuyện đầy tớ và ông chủ, hoặc rộng hơn trong vấn đề Hữu? Sự khó khăn ấy khiến Jaspers (trong cuốn “Nietzsche und das Christentum”, trang 64) đưa ra ý kiến như sau. Nietzsche phủ nhận năng lực của lý trí, phủ nhận Thượng Đế, đồng thời quả quyết hư vô của vạn vật, thì có thể có ba lập trường:

1. Hoặc là sự thừa nhận phi lý của vũ trụ là một đòi hỏi vươn lên với siêu nghiệm vốn bất khả tri (theo học thuyết Jaspers thì vũ trụ hữu hình tự nó là phi lý, nhưng vẫn có những nghĩa lý của những dấu chỉ (chiffres) đưa đến siêu nghiệm bất khả tri). Nhưng siêu nghiệm không phải ai cũng đạt tới, siêu nghiệm chỉ hé mở cho những tâm hồn cao thượng, độ lượng và khắc khổ (Jaspers nhớ đến Plotin, St. Augustin, Erkhard…).

2. Hoặc là vũ trụ phi lý không còn gánh chịu được, khiến cho con người không chủ ý hăng say hướng về chân lý, vì làm gì còn chân lý trong cái phi lý toàn diện trong hư vô tuyệt đối? Gorgias sống lại trong Nietzsche.

3. Hoặc nhắm mắt bơi lội trong đêm tối hãi hùng của phi lý, chỉ còn bám vào một hy vọng độc nhất và cuối cùng, hy vọng của con người tuyệt vọng giữa Thái bình dương sâu thẳm của hư vô.

Jaspers kết luận rằng Nietzsche đã chấp nhận cả ba trường hợp. Chúng tôi nghĩ rằng Nietzsche trước sau vẫn khá trung thành với học thuyết của ông. Thái độ của ông là thái độ của một con người siêu hình (L'homme métaphysique), mặc dầu ông chỉ muốn làm một sứ giả hiện sinh theo nghĩa sinh vật của danh từ. Đọc ông, chúng ta thấy, ông đã bị dày vò, day dứt bởi hai thế lực vật chất hữu hình và tinh thần vô hình. Con người siêu nhân của ông muốn làm một gạch nối giữa Thiên-Địa-Nhân (biến thái của thuyết tam tài trong Nho giáo), giữa tự do sáng tạo và tiền định cơ giới. Triết học, theo ông là sáng tạo (bằng giải thích và bạo động), chứ không tất nhiên là đón nhận thiên nhiên. Tương tự như quan điểm triết học là biến đổi ta thấy nơi Karl-Marx. Về xã hội, nếu con người vô sản của Marx chấm dứt lịch sử trong chế độ Cộng sản, thì con người siêu nhân của Nietzsche là lý tưởng của chế độ quốc xã…

Nietzsche là chỗ trùng phùng, chen lấn của nhiều tư trào, đặc biệt của Platon, của Thiên Chúa giáo, của Hegel, của Karl Marx, đồng thời là điểm tựa cho các học thuyết kim thời của Phật học (về luân hồi, sắc không)[22], cho chủ nghĩa hiện sinh của thế kỷ 20.

Quan điểm siêu hình và những phân tích tâm lý tân kỳ độc đáo của Nietzsche đã ảnh hưởng nhiều đến nền nhân bản của thuyết hiện sinh. Một nhân bản vô thần (J. P. Sartre, l’existentialisme est un humanisme) trong đó triết gia sẽ tự thấy cô đơn, lạnh lùng, đau khổ, không còn ai là bạn đồng hành Heidegger). Cái vui của triết gia, của siêu nhân bản này là cái vui của Nàng Kiều ở Lầu Ngưng Bích, vong bản của một kiếp tù đày:

Vui là vui gượng kẻo mà,

Ai tri âm đó mặn mà với ai.

Trong một bức thư viết cho Peter Gast, Nietzsche viết: “Chính tôi, trong toàn bộ, nhiều lần tôi chỉ là kết quả của những nguệch ngoạc mà một sức mạnh vô hình đã vẽ ra trên giấy để ướm thử một ngòi bút mới”[23]. Tư tưởng của Nietzsche không được trình bày thành hệ thống. Đó là sản phẩm của “một thứ tình cờ may mắn” (une sorte de hasard heureux). Ông không muốn dùng “Liên hệ luận lý” thông thường. Ông muốn sáng tạo. Và bởi vì ông quan niệm vũ trụ chỉ là do giải thích của bản ngã, mà bản ngã cũng lại là do ý chí của sức mạnh làm nền và điều động, nên không thể áp dụng lý luận cổ điển để phê bình những mâu thuẫn của thiên nhiên và của học thuyết ông vốn là phản ảnh của thiên nhiên. Như Schlecta nói rằng trong Nietzsche “có một tiếng nói hiền từ, lên tiếng và nói ngược lại với tiếng nói kia”, cho nên tôi nghĩ rằng sự trái ngược ấy cũng là một góp phần làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra cho khoa học, luân lý và tín ngưỡng. Đọc Nietzsche người ta có cảm tưởng rõ rệt là ông đi từ cực đoan này đến cực đoan kia, và cuối cùng nhẫn nại trong một tia hy vọng yếu ớt: cứu vãn chút thanh danh do lý trí và dục vọng đưa đẩy vào vực thẳm… Bây giờ nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của triết gia, ta một lần nữa mượn lời J. Wahl:

“Giờ đây ta gửi tới ông lời vĩnh biệt hoặc tái ngộ, không ngờ rằng ông đã không thỏa mãn chúng ta là bao lắm, lòng những lo âu, rất lo âu khi nhìn thấy cái đầu ông, một trong những đầu thông minh nhất, tế nhị nhất, mạnh bạo nhất, bị mất hút vào những không tưởng oái oăm, chống lại với nền đạo lý ngàn đời, để lập một đạo lý ngược chiều không tốt đẹp gì hơn, và nền đạo lý đã vô tình hay hữu ý được đặt trên nền tảng lý thuyết đạo hạnh. Ông đã múa may với tư tưởng: tôi chịu đựng ông được đến chừng nào, ông, thì không phải cái gì ông cũng đã chịu đựng, chính thân ông, những mâu thuẫn của ông, ngạo mạn của ông, ông cũng đã không chịu nổi. Trí thông minh của ông, ngạo mạn của ông, đã làm ông thua trận, và, cũng vì ý chí ác độc của ông, mà con người tính bản thiện của ông bị vạ lây. Ông không những cứng cỏi đối với mình. Ông còn gián tiếp cứng cỏi với người khác, nhiều người khác. Là một thông minh cuối cùng của thế kỷ, ông đã muốn tuyên bố sự cáo chung của thế kỷ, và sự cáo chung của tri thức. Và ông đã ngã gục. Em-pê-đốc của chúng ta, Em-pê-đốc trong một gian buồng nghèo khổ tối tăm, Hôn-đéc-lanh của chúng ta, Van-Got của chúng ta, hãy nhìn lại những phong cảnh hùng vĩ lâm ly kia, những thành phố vương giả lớn kia. Giê-nơ, Vơ-ni-đơ, Tu-ranh, Mi-lăng, khi trời Sils Maria, trong sáng trên cao. Ta hãy cùng ông tưởng lại thời phục hưng, thời tiền Socrate, thế kỷ 17, bạn của ông ta, Linh mục Galiéni như ông nói. Văn hóa tinh tế nhất. Trên bờ của Đại vô văn hóa. Nhưng ngày hôm nay tôi càng sợ vô văn hóa. Nietzsche hãy lui lại đàng sau. Nietzsche, anh đã bị đụng. Điều đó quả là không chắc, nếu như không có gì thực cả. Nietzsche, hãy trở về đây. Kẻ trở về muôn thuở. Đừng đi mất. Đừng là người Đức. Đừng làm Đác-oanh, dầu có muốn. Đừng làm Nietzsche. Hãy là Nietzsche”[24].

“Voici que nous ltri disons adieu, on au revoir, moins satisfaits d’avoir été avec lui que nous ne le pensions, inquiets, bien inquiets, en voyant cette tête, des plus intelligentes, des plus fines, des plus braves, se perdre dans des utopies funestes, prendre le contre-pied de la morale des siècles passés au nom d’une morale qui ne vant pas mieux et est seulement de sens contraire, et est fondée, qu’il le veuille on non, sur le darwinisme. Il jone avec la pensée: combien puis-je supporter; et il n’a pas pu tout supporter: tout y compris lui, y compris ses contradictions, y compris son orgueil. C’est son intelligence qui I’a perdu son orgueil, et homme bon, sa volonté de méchanceté. Il ne fut pas seulement dur envers lui. Indirectement il fut dur envers d’autre, beaucoup d’autres. Intelligence fin de siècle, il a voulu proclamer la fin du siècle et la fin des intellectuels. Et il a succombé. Notre Empédocle, Empédocle dans une pauvre chambre sombre, notre Holderlin, notre Van Gogh. Revoyons ces paysages idylliques-héroiques, ces grandes villes princières on colossales, Gènes, Venise, Turin, Milan, l’air de Sils Maria, la transparence dans la hauteur. Repensons avec lui à la Renaissance, aux anté-socratiques, au XVII é siècle, à son ami, comme il disait, l’Abbée Galiéni. La plus fine culture. Au bord de la Grande inculture. Mais aujourd’hui j’ai plus peur de l’inculture. Nietzsche, retourne en arrière. Nietzsche, pas un pas de plus. Tu risques de toucher. Nietzsche tu es touché. Ce n’était pas sur que si rien n’est vrai. Reviens, Nietzsche Eternel Retourneur. Ne sois pas parti. Ne sois pas Allemand. Ne sois pas malgré toi darwinier. Ne sois pas Nietzsche. Sois Nietzsche”.

J. Wahl, sách đã dẫn, tr. 161-162.

Xem tiếp kỳ 5: Karl Jasper với bóng dáng của siêu vượt

Nguồn: Lê Thành Trị. Hiện tượng luận về hiện sinh. Trung tâm học liệu – Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1974. Phiên bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện.




[1] Xem J. Wahl, la Pensée Philosophique de Nietzsche, Cours de Sorbonne 1959. “L’homme, il faut le comparer aux bêtes et le distingue des bêtes parce qu’en l’homme, il y a une multitude de contradictions et que la richesse de l’homme vient en queloce sorte de ses contradictions mêmes”. Trang 9.


[2] Đó cũng là ý kiến của nhiều nhà phê bình. Đặc biệt của Cornelius Heim khi ông giới thiệu Nietzsche như sau: “on obtient ainsi, en systématisant la pensée de Nietzsche, deux séries s’opposant terme à terme: Dionysos – Socrate; pessimisme – optimisme; art – science; instinct – connaissance rationnelle; plénitude – décadence; fécondité – stérilité. Toutes les ventus semblent d’un côté et toutes les vices de l’autre”.

Nietzsche, La Naissancé de la Tragédie, bản dịch của Cornelius Heim, Edtions Gonthier S. A. Genève, 1964.


[3] Tâm lý của Nietzsche là một thứ “thực tại sinh lý” (réalité physiologique), liên hệ đến trò chơi vũ trụ (jeu cosmique), theo luật hoạt động và phản ứng (loi du devenir actif-reactif). Do đó, mặc dầu tài mô tả, phân tích rất đặc biệt, độc đáo, giá trị học thuyết của mô tả tâm lý nằm trong quan điểm siêu hình của ông.


[4] Mais la Science, éperonnée par sa puissante illusion, court sans cesse à ses limites, contre lesquelles se brise l'optimisme caché dans l'essence de la logique. Car le cercle de la science porte à sa circonférence une infinité de points, et bien avant de savoir quand ce cercle aura été parcouru, l’homme noble et bien doué se heurte inévitablement avant le milieu de sa vie à des points limites de la circonférence où son regard se perd dans l’inexplicable. Lorsque, à son effroi, il constate alors qu’à ces limites la logique s’emoule sur elle-même et finit par se mordre la queue, il voit surgir une nouvelle forme de connaissance, la connaissance tragique…

La Naissance de la Tragédie, trang 100

Và “… il existe une profonde illusion qui s'incarne pour la première fois dans la personne de Socrate : la croyance inébranlable que la pensée, s'appuyant sur la causalité, est capable de pénétrer jusqu'à la racine de l'être, qu'elle peut, non seulement connaître celui-ci, mais encore le corriger. Cette sublime illusion métaphysique s'associe à la science comme un instinct et la conduit sans cesse à sa limite où elle se convertit en art. Tel est en effet le but de ce mécanisme”.

La Naissance de la Tragédie, trang 98


[5] Nietzsche, Par delà le Bien et le Mal, Préface.


[6] Hình ảnh của Beaudelaire.


[7] Xem “Vũ trụ như là ý chí và như là ý niệm”, cuốn I của Schopenhauer.


[8] Theo Nietzsche, đã đến lúc nhân loại cần thành thực tố cáo sự trống rỗng, thiếu nền tảng của những tín ngưỡng, đặc biệt của Thiên Chúa Giáo.


[9] Ý chí của Sức Mạnh, II, Aph. 385.


[10] Nietzsche nói rằng không có bản thể, nhưng nói rằng có một cái thiết yếu dưới hiện tượng, đó là ý chí của sức mạnh tương đương với bản thể. Do đó J. Wahl đã đặt vấn đề: “Quel est le rapport entre la volonté de puissance et les phénomènes? Nietzsche dira-t-il que c’est un rapport différent de celui de la substance, et de ses attributs? Si c’est un rapport différent, il faudrait nous éclairer sur sa nature. Dira-t-il que ce qui n’est pas volonté de puissance est de simple apparence? Mais c’est encore réintroduire l’idée de substance”.

J. Wahl, sách đã dẫn, trang 65


[11] Đối chiếu: “Nous devons constamment enfanter nos pensées dans la douleur et leur donner maternellement tout ce que nous avons de sang, de conscience, de destin, de cœur, de feu, de joie, de passion, de tourment, et de fatalité… La douleur seule, la grande douleur, libère l'esprit en dernier ressort, elle qui enseigne le grand soupçon, elle qui fait de tout U un X un vrai X, un X authentique, c'est-à-dire l'avant-dernière lettre, avant la dernière des lettres... La douleur seule, la grande douleur, cette longue et lente douleur qui prend son temps et nous fait cuire comme au bois vert, nous oblige, nous philosophes, à descendre au dernier repli de nos profondeurs, à rejeter toutes ces confiances, ces bonhomies, voiles, douceurs et moyens-termes dans lesquels nous placions peut-être, jusqu'alors, notre humanité. Je doute fort qu'une telle douleur nous rende "meilleurs"…, mais je sais qu'elle nous rend plus profonds”. (Nietzsche, Le Gai Savoir, bản dịch của Alexandre Vlalatte, Collection Idées NRF, trang 12-13). Và trong Zarathroustra: “Créer, c'est la grande délivrance de la douleur, et l'allègement de la vie. Mais afin que naisse le créateur, il faut beaucoup de douleurs et de métamorphoses”. (Tiad. Albert, trang 17, trích bởi Henri de Lubac S. J. Le Drame de l’Humanisme Athée, trang 341, note II.

Nhưng Nietzsche đã từng chửi thề đau khổ như con chó trung thành nhưng “khó chịu”. “J'ai donné un nom à ma souffrance: Je l'appelle "chien"... Elle est aussi fidèle, aussi importune, imprudente, et distrayante et avisée que tout autre chien... Je peux l'apostropher sur un ton tyrannique et passer sur elle mes humeurs: comme d'autres sur leurs chiens, leurs valets et leurs femmes.

La Gai Savoir, trang 254.


[12] “Toute tentative d’ aller au fond des choses, d’éclaicir les mystères est déjà une violence, une volonté de faire souffrir, la volonté essentielle de I’esprit qui tend toujours en I’ apparence et le superficiel - dans toute volonté de connaitre, it y a une goutte de cruauté”. (Par delà le Bien et le Mal, 1885, H. Albert Ed. Mereure de France, trang 234).


[13] Về già, Nietzche không còn mấy chống Socrate, và đặc biệt đã tha thiết tự đồng nhất với Jesus Christ.


[14] Xem Zarathroustra, cuốn IV, bàn về con người thượng đỉnh (I’Homeme Supérieur).


[15] K. Jaspers; Nietzche et le christianisme, bản dịch của Jeanne Hersch, trang 18 - 19.


[16] “Bornons - nous donc à épurer nos opinions et nos barèmes et à créer de nouvelles tables de valeurs qui nous soient propress; et cessons de ratiociner à propos de la “ valeur morale de nos actes “Oui, mes amis, le dégôut s’ impose pour tous ces bavardages moraux auxquels chacun se live au sujet de ses sembleble ; it est temps dele mettre enfin à I ‘ ordre du jour. It doit nous répugner de juger en morale. Abandonnons ce mauvais gôut et ces paroles à ceux qui n’ ont pas mieux à faire qu’ à trainer encore quelques pas le passé dans le temps, et qui ne seront jamais “ actuels”,... à la foule par conséquent, à la majorité immense. Quant à nous, nous voulons devenir ceux que nous sommes, les hommes nouveaux, les hommes d’ une seule foi, les incomparables, ceux qui se donnent leurs lois à eux - mêmes ! Et pour cela it faut que nous apprenions, if faut que nous découvrions tout ce qui est loi et nécessité dans le monde ; devenons - en les meilleurs élèves et les meilleurs explorateurs : nous devons être des physiciens afin de pouvoir créer dans ce sens alors que jusqu’ ici on n’a jamais bâti nul idéal, nul barême des valeurs que sur l’ignorance ou le mépris de la physique ! Par conséquent : vive cette physique ! vive encore plus ce qui nous I’ impose :........ notre loyauté !” Nietzche, Le Gai Savoi, cellections Idées Gallimard, bản dịch của Alexandre Vialatte 1950 xem thêm trang 244 - 245 : Illusion du Contemplatif, v.v...


[17] “Misérable race des hommes, enfants du hassard et de la peine, Pour – quoi veux – tu entendre ce qui ne te profitera gùere? Ce bien suprême, sache que tu ne peux I’atteindre : c’est de n’ être pas, de n’être rion. Mais, le bien qui vient ensuite n’ est pas hors de ta portée: c’est de mourir bientôt”.

La Naissance de la Tragédie, trang 28


[18] Nietzche đi đến phân biệt giữa hư vô thụ động và hư vô họat động ( nihilisme passif et nihilisme actif ), hay đúng hơn, ông phân vân giữa ý chí thánh hóa thời chốc và ý chí hư vô (balloté entre la volonté de sacralisation de I’instant et volonté du néant ). Xem Gilles Deleuze Nietzche et la pholosophie, P.U.F. 1962, trang 169 – 201.


[19] K. Jaspers, Nietzche et le christianisme, bản dịch của Jeamme Hersch, 1949, trang 24 – 49.


[20] “Le grand sérieux commence peut - être seulement, le vériable problème est pent –être seulement posé, la destinée de I’ âme se retourne, I’aiguille marche, la Tragédie commence …” (sự Vui biết, Le Gai Savoir).


[21] “Nous n’ avons pas à accepter mais à créer. Nous ne sommes pas assez pauvres pour. Avois besoin de I’aumône des dieux !” (Le Gai Savois).


[22] Giải thích điểm này, J. Wahl nói rằng thực ra Nietzche chịu ảnh hưởng của Phật giáo trứơc mà ông gọi là Thiên Chúa giáo không có thập ác (Christianisme sans la Croix).

J. Wahl viết : “ Ce nihilisme actif ne peut se développer que dans une cer taine atmosphère de bien - être. Que I’on triomphe de la morale, cela suppose déjà un certaine degré assez haut de culture spirituelle. Et nous pouvons, par exemple, voir un autre nihilisme actif dans le Bouddha auquel il avait déjà fait plusieurs allusions. Et c’est ici qu’il suggère que de même que la théorie de Bouddha avait certaines présuppositions dans le principe de causalité, sa propre théorie aura comme présuppositions dans le principe de causalité, sa propre théorie aura comme présupposition I’ éternel retour. It y aura rôle à jouer pour les sciences afin de nous montre quel est univers …”

Và đoạn sau gần với học thuyết Đại thừa canh tân : “… celui qui sera touché par I’ idée de I’ éternel retour ne reculera devant aucune action. It n’ y aura pas extinction passive mais une volonté d’ extinction de ce qui est à ce degré sans aucun sens et dans aucun but, bien que ce moment ne soit aussi qu’ un spasme et qu’ une fureur aveugle “. J. Wahl, sách đã dẫn, trang 155.


[23] Moi –même, dans I’ensemble, je ne fais souvent I’ effet d’ un griffonnage qu’ une puissance inconnue tracerait sur le papier pour essayer une nouvelle plume” ( 1889). Xem thêm Nietzche, Le Gai Savoir, trang 33, số 59: La Plume griffonne.


[24] La Pensée Philossophique de Nietzche, Cours de Sorbonne 1959, trang 161 – 162.

Kiểm tra năng lượng tồn dư




 Nhận thức sóng tồn dư lưu lại trên nữ trang (Cảm nhận bằng sóng rung động) Chuẩn bị :Nâng khí và Thanh lọc (Thác nước và tẩy rửa năng lượng xấu).Ngồi đối diện với người cùng tập. Chuẩn bị một tư trang nhỏ bằng vàng, bạc hoặc cẩm thạch để dùng cho việc kiểm tra.

Nhận định:Trong bài tập này giúp bạn cảm nhận năng lượng màu sắc hay cảm xúc trong một tư trang bằng cách cảm nhận sóng rung động. Qua đó bạn học cách đọc những năng lượng màu sắc và cảm xúcđược lưu lại trên nữ trang.

Bài tập này nhằm giúp phát triển khả năng thực hiện một cuộc truyền phát năng lượng và đồng thời phát triển khả năng kiểm soát bức xạ tồn dư trên vật chứng. Trong giai đoạn đầu, người cùng tập tìm hiểu các diễn tiến của sự cảm nhận về tinh thần, sau đó phân biệt các màu sắc và cảm xúc tốt hay xấu, cuối cùng nhận rõ phản ứng từ người phát cũng như các màu sắc cảm xúc của nó.

Bước 1: Cảm nhận màu sắc và cảm xúcThực hiện bài tập này ít nhất 4 lần

Hướng dẫn cho người phát: Chọn một màu sắc hay cảm xúc mà bạn có thể chia sẻ. Chú tâm một cách mãnh liệt giống như: tình thương hay hận thù, kinh sợ hay hạnh phúc (xem phần tiêu cực và tích cực trong 7 khu vực của cơ thể, tập trung một vực đó và tạo sự rung động tại đó và phát ra với người cùng tập). Bạn và người cùng tập bắt đầu việc tập luyện. Hãy làm sống lại các xúc cảm và đặc tính màu sắc của khu vực tương ứng, tạo sóng rung động tại khu vực đó và chuyển sự rung động đó chạy dọc cánh tay bạn đến tư trang bạn đang cầm trong lòng bàn tay. Như bạn đã biết sóng năng lượng chuyển tải cảm xúc cũng như màu sắc của bạn được truyền vào tư trang. Đưa tư trang cho người cùng tập. Tẩy rửa tay sau mỗi lần tập. Khi người cùng tập với bạn cảm nhận sóng rung động rõ ràng về năng lượng màu sắc trong tư trang, họ cho biết rõ niềm cảm xúc nào mà bạn đã đưa vào, và ghi vào nhật ký.

Hướng dẫn cho người cùng tập: Cầm tư trang trong tay (không siết chặt). Khép mắt, thở sâu và đều, nâng khí lên đến màu vàng kim. Sau đó, cảm nhận thông tin mà món nữ trang đang lưu giữ. Khi bạn cảm nhận sóng rung động theo khu vực tương ứng một cách rõ ràng thì bạn bắt đầu việc nhận dạng và giải mã các cảm nhận của bạn. Nên rửa tay và tẩy rửa năng lượng đang lưu giữ trên tư trang cho những lần tập kế tiếp để các tín hiệu cũ và mới không trộn lẫn vào nhau (xoay ngược theo chiều kim đồng hồ là có thể tẩy rửa năng lượng lưu giữ trên nữ trang).

Khi cả hai xác định rõ ràng màu sắc và cảm xúc qua sóng rung động của người kia, ghi các nhận xét vào nhật ký. Khởi tập bước 2

Nếu có vấn đề đặt ra: Tất cả chúng ta đều nhạy cảm đối với các màu sắc và cảm xúc do năng lượng tồn dư trong các vật chứng. Vấn đề là phải biết cách thu nhận thông tin, hiểu và giải đoán các thông tin ấy. Sự cảm nhận của chúng ta đang trong giai đoạn kém phát triển kể cả địa hạt giải đoán. Do đó cần luyện tập nhiều để biết cách nắm bắt các tín hiệu phát xuất từ cơ thể của chúng ta (để có thể nhạy cảm hơn bạn nên tập luyện sự rung động thư giãn trên từng khu vực trong các tình huống mà trong ngày chúng ta tiếp xúc nghe radio, xem truyền hình, đối thoại.

Dị biệt: Có một phương pháp khác để đọc các tín hiệu lưu lại trên tư trang (vật chứng). Đó là đặt chúng vào giữa trán thay vì nắm trong bàn tay và cho sự tưởng tượng phát triển tự nhiên.

Bước 2: Phân biệt giữa năng lượng màu sắc và cảm xúc tốt - xấuThực hiện bài tập ít nhất 6 lần

Hướng dẫn cho người phát: Đặt một cảm xúc mãnh liệt và rõ ràng trên tư trang (rung động khu vực - xem bài tập 7). Giữ kín sóng màu sắc và cảm xúc mà bạn đã đặt nó vào trong vật chứng. Nhất là là không cung cấp thông tin về năng lượng màu sắc và cảm xúc qua sự biểu lộ trên gương mặt hay thông điệp trên cơ thể.

Đối với những cảm xạ viên, sau khi tạo sóng năng lượng màu sắc và cảm xúc, bạn đặt câu hỏi năng lượng màu sắc này tốt phải không?, cơ thể chuyển động theo chiều kim đồng hồ, và nếu xấu thì ngược lại.

Hướng dẫn cho người cùng tập: Sau khi cảm nhận sóng năng lượng màu sắc và cảm xúc là tốt hay xấu và cảm nhận của bạn đến với người phát năng lượng vào vật chứng bằng sự dao động thuận hay nghịch chiều của cơ thể.

Thay đổi vị trí và làm lại. Ghi các nhận xét vào nhật ký. Khi tin chắc rằng bạn đã có khả năng cảm nhận được màu sắc và cảm xúc khác nhau được lưu trong vật chứng, thì sang bước 3.

Bước 3: Cảm nhận màu sắc và cảm xúc đặc biệtLập lại bài tập ít nhất 6 lần

Hướng dẫn cho người phát: Chọn một màu sắc và cảm xúc (phát năng lượng màu sắc và cảm xúc - bài tập 7) đưa nguồn năng lượng đó vào món nữ trang (chuyển sóng rung động và tạo hình ảnh lên trên khu vực cao nhất). Lưu ý không nên để lộ các dấu hiệu cũng như tính chất của năng lượng và cảm xúc của bạn để người cùng tập có thể đoán ra.

Hướng dẫn cho người cùng tập: Nâng khí lên điểm cao nhất và cảm nhận sóng năng lượng màu sắc và cảm xúc đang lưu trên nữ trang (cảm nhận tự nhiên không thông qua sóng rung động). Đừng quên rửa tay và thực hiện việc tẩy rửa năng lượng bám trên nữ trang sau các lần tập.

Thay đổi vị trí và làm lại bài tập. Ghi các nhận xét vào nhật ký.

Dị biệt: Rất có thể bạn muốn thử nghiệm khả năng cảm nhận của bạn. Bịt mắt người cùng tập không cảm nhận bằng 5 giác quan bình thường (mà sử dụng giác quan thứ 6). Bạn cũng có thể áp dụng với người đồng tập ở một gian phòng bên cạnh, có một vách ngăn. Sau đó đọc màu sắc và cảm xúc của người đồng tập trong khi người phát ở khác phòng.

Biểu đồ đặc tính màu sắc theo từng khu vựcCó 7 màu sắc tốt và 7 màu sắc xấu từ màu Đỏ đến màu Chàm nằm trong 7 khu vực trong cơ thể:

Khu vực 1 : Vùng bộ phận sinh dục nam và nữ. Tương ứng với màu Đỏ.

Khu vực 2 : Vùng rốn. Tương ứng với màu Vàng.

Khu vực 3 : Vùng thượng vị. Tương ứng với màu Cam.

Khu vực 4 : Vùng ngực. Tương ứng với màu Xanh Lục.

Khu vực 5 : Vùng cổ, tai, mũi, họng. Tương ứng với màu Tím.

Khu vực 6 : Vùng đầu não. Tương ứng với màu Xanh da trời.

Khu vực 7 : Vùng phía trên đỉnh đầu. Tương ứng với màu Chàm.

Đừng bám víu vào một niềm tin một cách mù quáng




Một trong những cảm xúc tuyệt vời nhất trên đời, là có thể chứng minh rằng mình đúng – người khác sai. Tương tự đó, một trong những cảm xúc tệ nhất, là bị người khác chỉ ra rằng, mình sai còn họ đúng.

Tôi kể bạn nghe, thế giới chúng ta đang sống, đã và đang xảy ra những chuyện như thế này:

Từ ngàn xưa, trước khi thế giới chuyển sang chế độ phụ hệ (và duy trì đến ngày nay) thì chúng ta đã từng ở trong chế độ mẫu hệ. Là chế độ mà người nữ nắm mọi quyền hành trong gia đình và xã hội. Người nam không gì khác hơn chỉ là những “nhân vật phụ” với hai loại công việc chính là cùng với những người nữ tạo ra đứa trẻ và làm những công việc chân tay nặng nhọc. Chấm hết. Thậm chí, họ bị cả xã hội mặc định là ngu ngốc, là không đủ thông minh và sáng suốt nên mới không cho bất cứ chút quyền nào trong việc cai trị đất nước. Đó là chuyện của chế độ mẫu hệ.

Thế rồi trải qua quá trình hàng trăm ngàn năm, người nam bắt đầu được giao nhiều việc hơn, nhiều trọng trách hơn và kéo theo họ cũng đòi hỏi nhiều quyền lợi hơn. Cứ thế dần đến một ngày, như ngày nay, khi người nam cậy vào sức mạnh của mình trấn áp tất cả, cho mình cái quyền được nắm giữ mọi công việc quan trọng, ra mọi quyết định lớn nhỏ và nắm giữ tất cả những trọng trách to lớn trên thế giới. Thì những người nữ, họ lại phải lui về hậu phương, làm những công việc lặt vặt, bị những người nam trấn áp, trở thành lớp người như những người nam thời mẫu hệ – sinh đẻ và làm những việc tủn mủn trong nhà.

Thế giới hiện đại ngày nay vẫn còn tồn tại những dân tộc, những tộc người duy trì chế độ mẫu hệ. Hãy nhìn xem:

Bộ tộc Mosuo

Sinh sống ở vùng núi phía Tây Nam Trung Quốc với dân số khoảng 40.000 người, người dân ở đây gần như không có khái niệm nào về vai trò của người chồng hay người cha. Trong suốt 2.000 năm qua, phụ nữ là người quyết định mọi việc quan trọng trong gia đình, từ việc sở hữu đất đai, nhà cửa, giữ trách nhiệm chăm sóc, dạy dỗ những đứa trẻ trong bộ tộc.

Đặc biệt hơn, những phụ nữ Mosuo có quyền ngủ với bất cứ đàn ông nào họ muốn từ khi lên tuổi 13. Những đứa bé sinh ra sẽ được nuôi dạy bởi người phụ nữ, cha của đứa trẻ sẽ không được công nhận và chỉ được gọi chung là “chú” hay “bác”. Không chỉ vậy, những người đàn ông sẽ không bao giờ được phép tranh luận hay can thiệp gì về vấn đề này. Tất cả đàn ông và phụ nữ cùng nhau chăm sóc những đứa trẻ cho tới khi chúng lớn lên.

Bộ tộc Minangkabau, Indonesia
Cư trú trên hòn đảo phía Tây Sumatra, tại đây người phụ nữ làm chủ gia đình và thừa kế tài sản, trong khi đó đàn ông chỉ có nhiệm vụ… duy trì nòi giống. Theo phong tục của người Minangkabau, khi lấy vợ, người đàn ông chỉ được ân ái vợ mình vào ban đêm. Ban ngày, họ sẽ phải về nhà mẹ đẻ để phụ giúp gia đình. Nếu một người đối xử tệ bạc với vợ, ngay lập tức người đàn ông đó sẽ bị đuổi ra khỏi nhà vợ và bị cả cộng đồng tẩy chay.

Bộ tộc Garos

Sinh sống ở Meghalaya, Ấn Độ và các khu vực lân cận của Banglades.

Theo truyền thống của người Garos, người con gái út sẽ được thừa hưởng toàn bộ gia tài từ mẹ. Trong khi đó, người con trai trong gia đình sẽ phải rời bỏ cha mẹ từ khi bắt đầu tuổi dậy thì để đến nhập học tại trường ký túc xá của bộ tộc.

Khi đến tuổi kết hôn, những cô gái Garos sẽ đến ngôi trường này để tuyển chọn chồng cho mình.

Sau khi kết hôn, người chồng sẽ chung sống ở nhà vợ và trong quá trình sống cùng thì người chồng luôn phải thông qua ý kiến của người vợ trước khi làm bất cứ gì liên quan tới tài sản trong gia đình. Với người Garos, cuộc hôn nhân không phải là một bản hợp đồng ràng buộc đến trọn đời. Nếu như người chồng không thể nhân số tài sản đó lên, anh ta có thể bị “sa thải” và nhận lấy sự kỳ thị của cộng đồng.

Bộ tộc Nagovisi

Sinh sống ở phía Tây đảo New Guinea, người phụ nữ Nagovisi là người giữ vai trò lãnh đạo, điều hành các nghi lễ – đây được coi là một trong những niềm tự hào lớn nhất.

Theo truyền thống của người Nagovisi, người phụ nữ sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc, cai quản mẫu đất trồng thực phẩm của gia đình. Do đó, một trong những yêu cầu đầu tiên mà những bố mẹ cô dâu lựa chọn chồng cho con gái mình là chàng trai đó phải khỏe mạnh, rắn rỏi, thông minh… để có thể khai hoang và mở rộng ruộng đất…



Nếu như xã hội hiện đại cho rằng một nền văn hóa văn minh là khi người phụ nữ được tôn trọng và trở nên bình đẳng với đàn ông. Thế thì chẳng phải những bộ lạc thiểu số trên sẽ được coi như văn minh hơn cả nền văn hóa hiện đại của chúng ta, văn minh hơn cả những nước hiện đang được xem là văn minh đấy sao?

Nên nhớ, chế độ mẫu hệ được duy trì ở những bộ lạc này từ hàng ngàn năm rồi chứ không phải mới đây. Đó là bằng chứng cho một quá khứ xa lắc nơi mà phụ nữ nắm quyền hành trên tất cả. Đó không phải là thế giới tưởng tượng đâu.

Và nếu những người dân thuộc các bộ lạc kia có dịp tiếp cận thế giới bên ngoài, hẳn họ sẽ sửng sốt và thấy vớ vẩn lắm, khi người phụ nữ hiện đại đa phần sống cuộc sống như bị giam lỏng trong nhà với đủ loại việc tủn mủn, dạy dỗ con cái, kiếm sống, trong khi vừa phải cúi người phục vụ ông chồng say xỉn gác chân xem tivi miệng không ngừng chửi bới…

Ấy thế mà, chúng ta vẫn có thể tự nhận mình văn minh hơn các dân tộc thiểu số sao? Chúng ta vẫn có thể tự tin mặc định rằng đàn ông thì giỏi giang hơn phụ nữ trong việc điều hành thế giới sao?

Cho nên, điều mà chúng ta cứ luôn tin tưởng trước giờ, không chắc đúng đâu.

Xa xôi một chút như câu chuyện về nguồn gốc loài người. Tất cả chúng ta đều được dạy rằng loài người được tiến hóa từ loài khỉ. Người ta đưa ra rất nhiều bằng chứng minh chứng cho thuyết này. Nhưng không phải tất cả mọi người đều tin vào điều đó, chúng ta không tin, nhưng không thể nào nói lại cái thuyết được cả tỷ người công nhận. Thế rồi, tin đại cho xong vì không tin thì biết tin cái gì?

Mọi người đều quên rằng, đây chỉ là một học thuyết, một thuyết của một người, điều đó không có nghĩa là chân lý. Như ngày xưa mọi người đều tin trái đất là trung tâm của vũ trụ, ngay cả mặt trời cũng quay quanh trái đất. Thế rồi Galileo đã bị xử treo cổ vì tội dám đưa ra thuyết trái đất quay quanh mặt trời.

Bạn thấy chưa, một điều tất cả mọi người đều tin đều chưa chắc đúng. Nếu người tiến hóa từ khỉ thật thế thì đáng lẽ tất cả loài vượn người, loài khỉ đều phải biến mất rồi mới đúng, có loài nào tiến hóa mà giữ cả giống mới lẫn giống cũ đâu. Và nếu đúng theo tiến hóa, tại sao từ khi loài người tiến hóa thành người lại không tiến hóa nữa? Cơ thể hiện tại là tối ưu rồi chăng?

Tôi nghi ngờ điều đó, thuyết cho rằng loài khỉ hay vượn người là do một nhánh loài người bị hoang hóa mà thành theo tôi còn có lý hơn. Cứ thả một người từ nhỏ vào sâu trong rừng thẳm đi, nếu anh ta không chết thì theo thời gian anh ta cũng thành người rừng, leo trèo bơi lội chẳng thua gì loài khỉ. Nếu theo tiến hóa thì anh ta vẫn là người chứ sao lại quay về như khỉ được nhỉ?

Nếu bạn đang muốn tìm một học thuyết khác cho nguồn gốc loài người, có thể bạn sẽ muốn đọc cuốn “Chúng ta thoát thai từ đâu” của tác giả Ernst Muldashev. Đó là một cuốn sách hay, hơi khó đọc nhưng có thể cho bạn một nhận thức hoàn toàn mới, đập vỡ đi tất cả những niềm tin cũ kỹ đang chứa đầy trong đầu bạn lúc này.

Sơ lược rằng loài người chúng ta đang sống thuộc nền văn minh thứ 5 trên hành tinh này. Các nền văn minh trước phát triển hơn chúng ta rất nhiều đều đã bị xóa sổ trong những cơn hồng thủy và động đất (cơn hồng thủy này được các tôn giáp kể lại dưới thuyết con tàu Noah và trận động đất nhấn chìm nền văn minh Atlantis báo chí vẫn thường nhắc đến).

Hành tinh sơ khai ngập tràn năng lượng vô hình, chính các năng lượng vô hình sau nhiều ngàn năm cô đặc lại trở nên hữu hình và tạo thành các chủng người đầu tiên. Loài người hiện tại là chủng loài có phần thể xác hữu hình được cô đặc nhất quanh khối năng lượng gốc (linh hồn) như hiện nay, cũng là loài nhỏ bé nhất, yếu ớt nhất, kém cỏi nhất. Chúng ta không hề đạt đỉnh văn minh như ta tưởng đâu các bạn à.

Tuy nhiên, khi tiếp cận những học thuyết mới mẻ này, bạn hoàn toàn có quyền tin hay không tin, dần dần thời gian sẽ trả lời cho bạn khi các học thuyết cũ kỹ bị đập vỡ tan tành. Tôi chọn tin vào thuyết duy tâm (ý thức có trước tạo nên vật chất) này. Vì sao? Vì sau khi tiếp cận thuyết này, tất cả những bài viết có tựa đề “những bí ẩn khoa học không thể giải thích nổi” đối với tôi đều trở nên đơn giản, dễ hiểu đến không ngờ.

Từ những bí ẩn như phát hiện mẫu động cơ như chiếc Bu-ji cổ hàng triệu năm khi loài người còn chưa xuất hiện, việc phát hiện hóa thạch dấu chân người cùng lúc với dấu chân khủng long, những dấu chân khổng lồ, tam giác quỷ giữa biển khơi, những kỳ quan thế giới tự nhiên nhưng nhìn như có sự sắp đặt (cột đá chồng, ghềnh đá, tượng khổng lồ…), những hình mẫu được để lại trên các cánh đồng lúa mạch chỉ sau một đêm, kim tự tháp được xây thế nào… vân vân và vân vân, gần như tất cả những bí ẩn mang mác khoa học không thể giải thích tôi đều có thể tự tìm câu trả lời chỉ nhờ mỗi việc tin vào một thuyết khác về nguồn gốc và sự tiến hóa của loài người.

Tôi không nói tôi đúng bạn sai hay ai đúng ai sai, chúng ta có quyền tự chọn niềm tin cho mình. Việc bạn chắc chắn bạn được tiến hóa từ vượn, có tổ tiên là vượn sẽ không làm suy chuyển niềm tin của tôi rằng không đời nào tôi chịu có nguồn gốc từ vượn đâu.

Thế thì, một lần nữa, niềm tin của chúng ta rất có thể chẳng đúng tí nào cả. Đừng bám víu vào một niềm tin nào đó một cách mù quáng. Bởi không ai dám khẳng định sự thật là gì!

Đó là về nguồn gốc loài người, giờ tôi sẽ đi sâu chi tiết vào một chút về tôn giáo của chúng ta – những niềm tin vốn không hoàn mỹ và chứa đầy những rối rắm.

Đạo Thiên Chúa từng có những luật rằng, ăn thịt trong ngày thứ 6 là mắc trọng tội. Luật ấy từ xưa rồi và bây giờ thì đã được gỡ bỏ do Hội Thánh đã nói rằng giờ người ta được phép ăn thịt trong ngày thứ 6. Ơ, một thứ được xem là tội bỗng không còn là tội nữa. Thật lạ. Đó chỉ là việc ăn thịt, còn những việc khác thì sao?

Roma từng là một đế chế tôn giáo tham quyền, dùng danh nghĩa Thánh Chiến để đi xâm lược và gây chiến với các nước khác tạo ra bao đau thương đổ máu. Ấy thế mà họ có thể ra luật cấm người khác giết người? Thật mâu thuẫn.

Và rồi thì sách Kinh Thánh – cuốn sách được cho là lời của Chúa – được cho biết rằng đã tái bản rất nhiều lần và mỗi lần đều được Hội Thánh sửa chữa nội dung cho phù hợp với thời cuộc. Cho nên những luật mà bạn tin là của Chúa, vốn không phải của Chúa đâu, của Hội Thánh cả đấy, tức là của con người tự viết ra nhân danh Thiên Chúa. Nếu biết được về bản chất những luật này, liệu bạn còn có tin?

Bạn không theo đạo Hồi nên bạn sẽ cho những điều luật của tôn giáo này là vớ vẩn, nào là không được nô đùa trên bãi biển, không được hở bất cứ phần thân thể nào trước mặt đàn ông kể cả tay và mặt, không được có những cử chỉ tình cảm khi đang yêu nhau, một người được phép giết vợ và nhân tình của cô ta nếu phát hiện vợ ngoại tình, đàn ông thì có toàn quyền với đàn bà do Chúa sinh ra đàn ông cao quý hơn…

Chắc chắn rồi, bạn sẽ cho đây là luật nhảm nhí đơn giản vì nó không phải là điều bạn được dạy và tin. Nhưng này, cả triệu người Hồi giáo vẫn đang tin và sống những điều luật nhảm nhí ấy mỗi ngày với lòng thành kính cao nhất đấy nhé.

Ngoài ra còn có Ấn Độ giáo có ngụy thuyết tắm nước sông Hằng để rửa sạch tội lỗi, thờ đủ thứ hình tượng, thú vật…; Phật giáo thì mang tượng Phật ra đường, thêu dệt nên các huyền thoại, tôn Thích Ca là Chân lý của vũ trụ, hay đấng đạo sư cao hơn cả Trời và người; cho kinh Phật là lời Phật nói, buộc tín đồ phải tin vào Tam bảo… Tôn giáo nào cũng cho mình là đúng nhất, là chân lý, là duy nhất, sao lại có nhiều cái duy nhất đến thế? Nếu bạn có thể nghiên cứu và tìm hiểu rõ bản chất của tôn giáo, hẳn bạn sẽ không còn muốn theo một tôn giáo nào nữa đâu.

Chợt nhớ lại câu chuyện khi một người hỏi Osho rằng, các bậc chân sư đều xuất thân từ Ấn Độ rất nhiều, liệu phải chăng vì Ấn Độ là vùng đất thánh thiêng? – và Osho đã trả lời: “Một căn nhà mà có nhiều bác sĩ hay ra vào, thì hẳn do nhà đó đang chứa rất nhiều bệnh. Và cũng thế thôi, Ấn Độ là nơi xuất hiện nhiều Chân sư nhất, không phải vì nó thánh thiêng, nhưng vì nó là nơi u mê nhất cần được khai sáng.”

Thế đó, khoảng cách giữa nơi thánh thiêng nhất và nơi u mê nhất thật mong manh. Chắc chắn trong con mắt của nhiều người dân Ấn, họ vô cùng tự hào vì là nơi sinh ra của nhiều bậc Thánh nhân vĩ đại, mà không cảm nhận được sự u mê cuồng tín của chính mình.
Thêm những chuyện lặt vặt khác:

Ở đa phần các quốc gia, mãi dâm là tội lỗi, nhưng chỉ cần vượt ra khỏi ranh giới quốc gia đó mà đến những nơi mãi dâm được hợp thức hóa, thì nó lại chẳng phải là tội lỗi gì, nó lại đơn thuần được xem như một nghề nghiệp chân chính có người bán và người mua. Thế thì một lần nữa, tội lỗi chỉ đơn thuần là do quan niệm của một nền văn hóa, chả có gì bản chất là tội lỗi cả.

Ngay cả việc hệ trọng như việc giết người. Giết người đa phần được coi là tội lớn, nhưng nếu giết có lý do thích hợp thì lại chẳng phải là tội nữa. Các lý do để nó không phải là tội thì vô vàn: ngộ sát, chiến tranh, giết người để tự vệ, giết người đang có mưu đồ xấu, giết người trong trạng thái vô thức, giết người vì họ phạm tội nào đó vân vân… Cùng một hành động lấy đi mạng sống, nhưng có cái là tội, có cái không? Thế thì vấn đề nằm ở đâu? Nó nằm ở chỗ quan niệm của con người mà ra thôi. Không có gì về bản chất là tội cả.

Ngày xưa phụ nữ có bầu trước khi cưới thì trở thành tội lớn, bị khinh rẻ, bị xa lánh, bị chửi bới, xỉ nhục. Ngày nay việc này ngày càng phổ biến thì nó không còn là vấn đề lớn lao nữa. Nhưng cứ nghĩ xem, cứ đà người vô sinh nhiều như hiện nay thì tương lai, việc có em bé trước khi cưới hẳn còn được hoan nghênh và ủng hộ. Người ta sẽ phải gieo giống rồi đợi xem cô gái nào có thể mang được một em bé thì mới cưới người đó. Ngày đó rất có thể sẽ đến. Ai biết được.

Mọi chuyện đều có thể thay đổi, nhất là quan niệm và niềm tin. Những lễ hội lớn được mong chờ xưa kia giờ trở thành những lễ hội man rợ bị tẩy chay. Những thứ được cho là văn hóa, là đẹp đẽ cũng đều bị thay đổi, phế truất và biến mất. Quan niệm cứ thay mới mỗi ngày, niềm tin cũng bị đổi khác mỗi ngày. Thế nên những gì giờ bạn cho là đúng mai sau có lẽ sẽ không còn đúng nữa. Những gì bạn cho là sai, cũng không hẳn là sai. Một quan niệm tự bản chất không hoàn toàn đúng cũng không hoàn toàn sai, đó hoàn toàn chỉ là một quan niệm.

Thay vì bám víu và ôm khư khư những quan niệm cũ, hãy nhận biết, học hỏi cả những quan niệm mới, chấp nhận nó như chấp nhận một mùi hương kiểu hương sầu riêng, chưa quen thì thấy thúi nhưng khi ghiền rồi thì không có loại trái cây nào thơm bằng.

Chấp nhận và học hỏi những điều mới mẻ để chọn ra những gì thích hợp với thời đại. Hơn là bấu víu vào những gì mình được dạy và đã tin. Chỉ có những cái mới, mới làm cho thế giới và nhân loại tiến hóa, cả trên khía cạnh văn hóa, nhận thức lẫn tâm linh.

Đừng tự hào khi mình là người cũ kỹ.



Phi Tuyết

Cách thức phân biệt người quân tử và kẻ tiểu nhân của người xưa




Ngụy Hi – người được xưng là “Thanh sơ tam đại gia” (một trong ba nhà văn lớn hàng đầu của triều đại nhà Thanh) đã từng nói: “Ta không hiểu biết như thế nào là người quân tử, nhưng nhìn vào khả năng “chịu nhận phần thiệt” trong mỗi sự việc của người ấy là sẽ biết. Ta không biết được như thế nào là kẻ tiểu nhân, nhưng nhìn vào việc “tranh giành phần lợi” của người ấy là sẽ biết.”

Điển tích Hàn Tín chịu nhục chui háng (Ảnh: internet)




Suy ngẫm kỹ càng, thật đúng nó là quanh co như vậy. Có thể chịu thiệt quả là không phải một việc dễ dàng. Cần phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng lớn mới có thể chịu thiệt thòi một cách cam tâm tình nguyện. Tiêu biểu là phải khoan dung độ lượng, chịu nhẫn nhục, co được giãn được (tức là biết ứng phó thích hợp với tình hình cụ thể) thì chính là một quân tử. Chẳng trách mà người xưa dùng tiêu chuẩn “có hay không có khả năng chịu thiệt” là yếu tố đầu tiên để nhận biết người quân tử và kẻ tiểu nhân.
Ngày xưa, có một vị thượng thư tên Lâm Thoái Trai, ông ta phúc đức rất nhiều, con cháu đầy đàn. Lúc ông ta sắp lâm chung, con cháu quỳ gối trước mặt ông xin thỉnh cầu lời giáo huấn. Lâm Thoái Trai nói: “Ta không có lời nào khác, chỉ khuyên bảo các con học “chịu thiệt” là được rồi”.

Những người già Trung Quốc cũng thường hay nói “chịu thiệt là phúc”, bởi vì họ biết rõ “Phúc, Lộc, Thọ” ở thế gian con người đều là đổi từ đức mà ra, mà chịu thiệt lại có thể tích đức. Xưa nay, rất nhiều anh hùng, cũng đều do có thể chịu nhịn nhục, chịu thiệt mà làm lên đại sự. Nổi danh nhất chính là Hàn Tín có thể chịu nhục chui háng, có thể nói đó là “chịu thiệt” đến cực điểm, bởi vậy sau này Hàn Tín đăng đàn bái tướng, được Lưu Bang phong làm Tam Tề Vương.
Trái lại, nếu như luôn luôn khiến cho người khác phải chịu hại chịu thiệt, như thế thì người này chẳng phải là mất đức rồi sao? Làm nhiều việc xấu còn bị trời trừng phạt, thật sự là cái được không bù nổi cái mất.
Biên dịch: Mai Trà

Con rùa nói lên lời

 Tấn Nghĩa


Chuyện tiền thân Kachapa (chuyện số 215, phẩm
Đám cỏ thơm [biranatthambahaka]) nói về cái hại của việc nói nhiều.

Chuyện kể rằng:

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba- la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một đại thần; lớn lên, ngài trở thành vị cố vấn của vua về thánh sự và thế sự. Nhưng vua có tánh nói nhiều. Khi vua nói, không ai cơ hội xen vào. Và Bồ-tát muốn ngăn chặn vua nói nhiều, nên cố tìm một cơ hội.

“Nói” là hành vi cơ bản của con người. Hành vi này xuất phát từ việc phát âm những ngôn từ trong suy nghĩ và dùng để truyền đạt các ý nghĩ từ cá nhân này đến cá nhân khác. Nếu xét về mặt mục đích, khi bàn về việc“nói”, người ta không chỉ đề cập đến hành vi phát âm theo một ngôn ngữ nào đó mà có thể chỉ chung cho các cách truyền đạt bằng ngôn từ. Chẳng hạn, viết sách là một cách “nói”, chat trên mạng cũng là một cách “nói”. Ngày nay, việc thanh thiếu niên nghiện lướtweb, chơi facebook cũng ở dạng “nói nhiều” mặc dù họ chỉ bấm phím hay kéo chuột. Ngoài ra, mọi người còn có các cuộc “độc thoại”trong đầu mình, đó cũng là hành vi “nói”. Hành vi này có đặc điểm là chẳng cần có đối tượng để truyền đạt thông tin, chỉ cần “một mình mình biết, một mình mình hay”.

Lúc bấy giờ, trong khu vực Tuyết Sơn, một con rùa sống ở một hồ nước. Hai con ngỗng trời trẻ đi tìm mồi, đến kết thân với con rùa ấy. Dần dần, chúng trở thành rất thân thiết. Một hôm ngỗng trời con nói với rùa:

– Này bác rùa, chỗ chúng tôi ở tại Tuyết Sơn, trên cao nguyên núi Cittakùta, trong một cái hang bằng vàng, trú xứ rất đẹp. Hãy đi với chúng tôi nhé!

– Làm sao tôi đi được?

– Chúng tôi sẽ đưa bác đi, nếu bác có thể giữ gìn cái miệng của bác và đừng nói một điều gì hết.

– Ðược, tôi sẽ giữ gìn. Hãy đem tôi đi.

Chúng chấp thuận,bảo con rùa ngậm một cây gậy, còn chúng cắn vào hai đầu gậy, rồi bay lên hư không.

Yêu cầu của hai con ngỗng trời là con rùa phải ngậm miệng, nghĩa là không được nói bằng cách phát âm. Con rùa cảm thấy điều này cũng dễ nên đồng ý ngay. Thật ra, việc này rất khó. Nếu ai thực hành “tịnh khẩu”, im lặng trong một thời gian sẽ thấy việc này hoàn toàn không dễ dàng.

Bọn trẻ con trong làng thấy con rùa được các con ngỗng trời trẻ đưa đi như vậy, liền la lên:

– Hai con ngỗng trời mang con rùa lên cái gậy!

Con rùa muốn nói lên: Nếu bạn ta đưa ta đi thì có can hệ gì đến các ngươi, đồ vô loại kia?

Chắc là bọn trẻ con chỉ trỏ lên con rùa, có thể có đứa rắn mắt còn ném đá hay bắn sỏi… Các câu reo hò của bọn trẻ làm cho con rùa bực mình. Nó thầm nghĩ trong đầu: nếu bạn ta đưa ta đi thì có can hệ gì đến các ngươi, đồ vô loại kia. Các ý nghĩ này chính là “lời nói”, mặc dù nó chưa được phát âm ra. Lỗi của lời nói có bốn loại. Loại đầu tiên là nói dối. Loại thứ hai là nói ác. Loại thứ ba là nói lời gây chia rẽ. Loại thứ tư là nói chuyện phiếm hay nói lời vô ích. Con rùa khi nghĩ trong đầu “nếu bạn ta đưa ta đi thì có can hệ gì đến các ngươi” là đang phạm vào lỗi nói lời vô ích. Còn việc mắng thầm lũ trẻ “đồ vô loại kia” phạm vào lỗi nói ác. Một người vi phạm điều khoản không nói lời vô ích nếu có đủ hai phần:

– Có ý muốn nói lời vô ích.

– Đã nói những chuyện vô ích.

Lời nói vô ích là lời nói không đem lại lợi ích gì cho bản thân và cho người khác.

Đức Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo, đối với các thầy, khi gặp mặt nhau có hai việc nên làm là: nói về việc tự điều chỉnh hay nên im lặng như các bậc thánh”. Nói lời vô ích gồm cả việc bàn tán những tin tức trên báo chí, tivi, radio, internet khi nó không dính dáng tới bản thân mình và mình cũng không có khả năng gây một tác động nào làm biến chuyển tình hình ấy. Một số lời nói vô ích cụ thể gồm các chuyện tầm phào về: Vua, Chủ tịch, Tổng thống, Quan chức, Chính phủ, Trộm cướp, Quân đội, Tai họa, Chiến tranh, Cơm gạo, Đồ uống, Vải vóc, quần áo, Loại hoa, vòng hoa, Chỗ ở, chỗ nằm, Mùi thơm, dầu thơm, Bà con, dòng họ, Xe cộ, Xóm làng, Quận huyện, Thành phố, Vùng quê, Đàn bà, Đàn ông, Chàng trai, Cô gái, Các cuộc đấu bóng đá, Thể thao, Sự can đảm, Đường sá, Bến nước, Bà con quá cố, Nhảm nhí, Sự tạo thiên lập địa, Số phận, luân hồi, Đại dương, Rừng, núi, Sông, biển…

Nói lời vô ích gồm cả việc không thực hiện những lời đã hứa hoặc việc đặt kế hoạch lớn lao rồi không tiến hành, không theo dõi để cho kế hoạch hoàn thành. Hiện tượng này xảy ra trong các hội nghị, khi mà người ta thảo luận các sự kiện và các giải pháp không có thực tế làm nền tảng: nhiều người đều biết như vậy nhưng vẫn tham gia phát biểu. Sự nói lời vô ích cũng bao gồm các cuộc tự thoại trong đầu vào mọi lúc, từ lúc thức dậy tới lúc đi ngủ và ngay cả trong giấc mơ. Cách điều chỉnh chính là giữ im lặng (với các câu chuyện bên ngoài) và thực tập một hình thức làm ổn định suy nghĩ (tự thoại bên trong).

Những người phạm lỗi nói lời vô ích cũng bao gồm cả những người làm nghề sáng tác văn học, kịch bản, những người diễn kịch, đóng phim… với các nội dung phục vụ sự tranh đoạt, bạo lực, tình dục, vì họ làm cho người khác tiêu khiển, say mê mà không đem lại ý thức tự điều chỉnh cho người khác.

Trong khi ấy, hai con ngỗng trời đã bay mau đến khoảng trên cung điện vua trong thành Ba-la-nại. Con rùa vừa nhả cây gậy định nói, liền rơi xuống trong sân trống và bị vỡ làm hai.

Con rùa đã nói thầm trong đầu từ trước. Theo quán tính, các câu nói thầm đó sẽ được phát âm ra để cho đối phương biết. Khi mở miệng, con rùa bị rơi xuống vỡ làm đôi. Đấy là hậu quả thấy ngay của việc không giữ gìn lời nói. Lỗi lời nói vô ích là lỗi nhẹ nhưng nó lại được tích lũy thường xuyên và có khuynh hướng phát triển thành một loại bệnh: nghiện nói. Do đó, lỗi nói lời vô ích cũng dẫn đến những hậu quả nặng. Nếu hậu quả nhẹ cũng là:

– Nhiều người không tin lời tâm huyết mà mình nói.

– Nhiều người không có cảm tình với mình.

– Không được kính trọng.

– Không thể nói cho người khác tin.

– Nghèo khổ.

– Không có quyền lực.

– Suy nghĩ không sâu.

Trở lại với câu chuyện, khi thấy con rùa rơi xuống sân thì tiếng ồn ào nổi lên. Chuyện kể tiếp:

Vua đem theo Bồ-tát cùng với các đại thần vây quanh, đi đến chỗ ấy, thấy con rùa, hỏi Bồ-tát:

– Này bậc Hiền trí, vì sao con rùa này rơi xuống?

Bồ-tát suy nghĩ: ‘Chờ đợi đã lâu, ta muốn giáo huấn vua và đang tìm một phương tiện. Nay thời cơ đã đến. Chắc con rùa này kết thân với những con thiên nga, được chúng đưa đi đến Tuyết Sơn. Chúng bảo rùa ngậm cây gậy và đưa nó đi giữa hư không, rồi có lẽ con rùa nghe lời ai đó nói, không thể giữ gìn cái miệng, nó muốn nói nên nhả cái gậy ra, liền rơi từ hư không xuống như vậy, và đi đến chỗ chết’. Và Bồ-tát thưa với vua:

– Thưa Ðại vương, những ai lắm mồm miệng, nói không dừng nghỉ, đều phải gặp tai họa như vậy. Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:

Con rùa nói lên lời, Lời nói tự hại mình,

Tuy khéo ngậm cái gậy, Mở miệng tự sát hại. Hãy thấy rõ điều này, Bậc Nhân chủ vĩ đại, Hãy nói lên vừa phải, Cẩn thận nói đúng thời. Kẻ nào nói nhiều lời, Như con rùa gặp nạn.

Lời nói thiện là lời nói lợi mình, lợi người, lợi cho môi trường. Nó có các đặc tính:

– Không phạm vào bốn lỗi của lời nói (dối, ác, chia rẽ, vô ích).

– Nói đúng thời điểm.

– Nói lời hòa dịu.

– Nói lời có lợi ích.

– Nói lời thông cảm thương xót (từ bi).

Trong kinh Vương tử Vô Úy (kinh số 58 thuộc Trung Bộ), Đức Phật phân tích rõ các trường hợp nên nói hoặc không nên nói; trong đó có bốn trường hợp không nên nói và hai trường hợp nên nói.

Bốn trường hợp không nên nói, theo Đức Phật dạy, có thể được diễn giải như sau:
Điều tự thân mình biết là không chân thật, không đem lại lợi ích, và khiến người nghe không ưa thích.
Điều tự thân mình biết là chân thật nhưng không đem lại lợi ích và khiến người nghe không ưa thích.
Điều tự thân mình biết là không chân thật cũng không đem lại lợi ích, mặc dù khiến người nghe ưa thích.
Điều tự thân mình biết là chân thật nhưng không đem lại lợi ích, mặc dù lời nói ấy khiến người nghe ưa thích.

Chỉ có hai trường hợp nên nói là:
Điều chân thật và đem lại lợi ích, mặc dù người nghe không hài lòng. Điều này cần phải nói đúng nơi, đúng lúc.
Điều chân thật, đem lại lợi ích, người nghe hài lòng. Vua biết Bồ-tát vì mình kể chuyện này, nói rằng: Thưa bậc Hiền trí, có phải vì tôi mà bậc Hiền trí nói? Bồ-tát trình bày rõ ràng và trả lời: Đại vương hay người khác nếu nói quá nhiều đều gặp nạn như vậy. Nhà vua từ đấy trở đi từ bỏ tánh nói nhiều và trở thành người ít nói.

Văn học đổi mới, hay là sự thức tỉnh nửa vời của một lớp nhà văn?





(Tham luận tại hội thảo “Sáng tác văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: Thực trạng và triển vọng”, do Viện Văn học tổ chức, Hà Nội, 28/5/2015)


LẠI NGUYÊN ÂN


Đối với đời sống văn học những năm 1986-1995 mà ngày nay thường được gọi là “văn học đổi mới”, tôi vừa là người trong cuộc, vừa là người quan sát. Tôi cũng đã công bố ít nhiều tư liệu và suy nghĩ riêng về văn học những năm này, − đó là bộ sưu tập tư liệu “Đời sống văn nghệ thời đầu đổi mới”, thực hiện năm 2006 cùng nhà giáo-nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình, và cuốn “Trong thoáng xuân Hà Nội” (e-book, 2014, Nxb. Hội Nhà Văn & Cty sách Phương Nam), nhưng đó hoặc là một sưu tập mới chỉ đưa một phần lên mạng, hoặc chỉ là sách điện tử, hẳn chưa có nhiều người tìm đọc.
Tại hội thảo này, tôi xin nêu một số hồi ức và suy nghĩ.


Về mặt phân kỳ, người ta có thể khuôn “văn học đổi mới” trong giới hạn mấy năm cao trào 1986-1990, thậm chí ngắn hơn, chỉ từ sự kiện cuộc gặp mặt của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sĩ (6 và 7/10/1987) đến sự kiện Đại hội IV Hội nhà văn VN (28/10 – 1/11/1989), hoặc có thể kéo dài đến sự kiện báo “Công an Tp.HCM” triển khai một đợt phê phán kịch liệt đối với tiểu thuyết “Thân phận tình yêu” (tức “Nỗi buồn chiến tranh”) của Bảo Ninh (tháng 8 – tháng 11/1995), – sự kiện có thể xem như nỗ lực dập tắt hoàn toàn xu hướng đổi mới. Nhưng, cũng có thể ước lệ là toàn bộ 15 năm cuối cùng của thế kỷ XX (1986-2000) đều thuộc thời kỳ “văn học đổi mới”.
Về lực lượng văn học, đặc điểm khá nổi bật của thời kỳ này, theo tôi, là sự thức tỉnh bước đầu – một sự thức tỉnh mà tôi gọi là “nửa vời” – của một thế hệ nhà văn, từ chỗ là một “đội ngũ” dường như “thống nhất” trong cả một thời gian dài trước đó, đến chỗ nảy sinh sự khác biệt, dẫn tới những xung đột, chia rẽ, ly khai giữa họ.


Nói lực lượng nhà văn trước thời đổi mới dường như là một “đội ngũ thống nhất” – là có những tiền đề lịch sử.
Đó hầu hết là gồm những nhà văn được tập hợp trong Hội văn nghệ Việt Nam (từ 1948), Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam (từ 1957), Hội nhà văn Việt Nam (từ 1957),… Sự tập hợp lực lượng này là nỗ lực của Đảng CSVN, nhằm tạo ra một lực lượng nhà văn thống nhất về tư tưởng và tổ chức, phục vụ sự nghiệp của Đảng. Để đứng vào hàng ngũ hội đoàn này, những nhà văn từng có những thành tựu văn học từ trước 1945 (hoặc trước 30/4/1975 ở miền Nam) phải tự gột bỏ một loạt quan điểm xã hội và nghệ thuật trước đó mình từng có, thậm chí phủ định một số thành tựu trước đó của mình, còn những nhà văn bước vào văn học trong thời gian của chế độ này thì cũng phải gạt bỏ hoặc được cảnh báo đừng mắc phải những quan điểm xã hội và nghệ thuật mà đảng cầm quyền không chấp nhận, không dung thứ. Để tạo ra sự thống nhất đó, Đảng và cán bộ đảng lãnh đạo các hội văn nghệ đã tiến hành hàng loạt những cuộc chỉnh huấn, những cuộc đấu tranh tư tưởng, mà nổi bật là cuộc đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm (1956-58) và các cuộc học tập chính trị được tiến hành hầu như thường xuyên hằng năm.


Chính những nội dung đổi mới mà Đảng CSVN nêu ra (tại ĐH VI của Đảng) như “đổi mới tư duy”, “nhìn thẳng vào sự thật” – đã khích lệ giới nhà văn thay đổi cách nhìn cách viết: nhìn thẳng vào xã hội của mình, văn học của mình, mạnh dạn nói lên sự thật về xã hội, về tình trạng văn học, văn hóa, từ đây nêu lên yêu cầu phải thay đổi.
Sự kiện Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ trên 100 văn nghệ sĩ cho thấy: chính Đảng CSVN đã kêu gọi nhà văn tự đổi mới mình, đổi mới văn học, và đồng thời kêu gọi nhà văn lên tiếng ủng hộ công cuộc đổi mới vừa mở ra của Đảng. Trong những năm 1986-1988, Ban Văn hóa – văn nghệ của Trung ương Đảng đo Trần Độ là Trưởng ban, đã đóng vai trò đại bản doanh của phong trào đổi mới trong văn hóa văn nghệ.


Có thể tóm tắt sự chuyển biến của giới nhà văn (và văn nghệ sĩ nói chung) thời kỳ đổi mới được thể hiện ở một số phương diện sau.
Một là những phát biểu mang tính chính luận hưởng ứng chủ trương đổi mới của ĐCSVN và nêu yêu cầu đổi mới toàn diện, từ kinh tế xã hội đến văn hóa.
Hai là những sáng tác, trước hết là văn xuôi tự sự (ký, tiểu thuyết, truyện ngắn) theo các xu hướng tìm tòi khác nhau, hoặc “hiện thực tố cáo” (từ các bút ký như Cái đêm hôm ấy đêm gì?của Phùng Gia Lộc, đến những tiểu thuyết như Thời xa vắng của Lê Lựu, Những thiên đường mùcủa Dương Thu Hương, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, v.v.), hoặc các kiểu phúng dụ (Thiên sứ của Phạm Thị Hoài), giả truyền thuyết (một số truyện ngắn, truyện vừa Nguyễn Huy Thiệp), hoặc pha trộn tả thực với “dòng ý thức” (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh), v.v.
Ba là những thảo luận, tranh luận về các vấn đề lý luận văn nghệ.
Có khá nhiều vấn đề được đề cập, từ chính trị và văn nghệ đến văn nghệ với hiện thực, “phương pháp” hiện thực xã hội chủ nghĩa, v.v.
Các vấn đề ấy hầu như đều đã được đề cập trong suốt quá trình thành hình và tồn tại các hội đoàn văn nghệ do Đảng tổ chức như hội Văn hóa cứu quốc (1943-1948), Hội Văn nghệ VN (từ 1948), Hội nhà văn VN (từ 1957), trước hết là vấn đề văn nghệ và chính trị, đến thời “văn học đổi mới” này lại được đem ra luận bàn. Không ít ý kiến muốn giữ nguyên những nội hàm đã định hình trong thời bao cấp, nhưng cũng có rất nhiều ý kiến mới và mạnh mẽ, trong đó vấn đề “văn nghệ – chính trị” được những người cấp tiến đưa dần ra khỏi “mê lộ” để thấy đó chỉ là vấn đề quan hệ giữa người làm văn nghệ với nhà cầm quyền, với những phạm vi được khuyến khích và những chế tài về kiểm duyệt, cấm đoán nhất định ở mỗi thời đoạn cụ thể; và việc này là độc lập với tự do sáng tác của nhà văn.
Chính là trong không khí của cao trào đổi mới, ý niệm “tự do sáng tác” đã ít nhiều lấy lại được hàm nghĩa thực, dần dần khôi phục lại dãy khái niệm tương liên mật thiết: “tự do sáng tác” – “tự do tư tưởng” – “tự do ngôn luận”; phía quản lý cũng không dám sỗ sàng phủ nhận nữa, chỉ nhấn vào sự song hành: “tự do sáng tác đi đôi với trách nhiệm công dân”.


Khi đề cập trở lại vấn đề văn học với hiện thực, nhiều người đã dám nói ra sự ngờ vực ngấm ngầm lâu nay của họ đối với cái gọi là “phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa”: nó là gì? có hay không “phương pháp sáng tác”? Không lập tức giải đáp được những câu hỏi tương tự, nhưng dần dà người ta hiểu rằng trong thực chất, “hiện thực xã hội chủ nghĩa” cũng chỉ là một trong những phương thức gắn bó, ràng buộc nhà văn vào cơ chế văn nghệ, cơ chế ý thức hệ do Đảng chỉ đạo.
Như đã biết, thời gian của cao trào “đổi mới” trong văn nghệ là rất ngắn. Sau cuộc gặp mặt của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sĩ (6 và 7/10/1987), tinh thần “nhìn thẳng sự thật”, nói thẳng nói thật bộc lộ mạnh mẽ bằng các phát ngôn chính luận, bằng một số sáng tác đăng trên tuần báo “Văn nghệ”.


Nhưng người ta đã sớm tạo ra sự xung đột ngay trong giới nhà văn, coi những người cộng tác chặt chẽ với báo “Văn nghệ” là nhóm đổi mới cực đoan, đối lập với số đông còn lại, đồng thời người ta hỗ trợ hình thành một lực lượng phản công lại các phát ngôn và các tác phẩm mang tính cấp tiến kể trên. Xung đột ấy được nuôi cho lớn dần, trở thành xung đột ngay trong ban chấp hành Hội nhà văn, dẫn đến việc Ban chấp hành rút (thực chất là cách chức) Nguyên Ngọc khỏi tòa soạn báo “Văn nghệ” (đầu tháng 12/1988) thay bằng một ban điều hành gồm nhiều thành viên, dẫn dắt tờ báo theo hướng giảm liều lượng, giảm mức độ cấp tiến, thậm chí dần dần đi ngược lại xu hướng đổi mới ban đầu trong các nội dung đăng tải trên tờ “Văn nghệ”.


Ở cấp cao hơn, người ta đưa Trần Độ rời khỏi vị trí Trưởng ban văn hóa-văn nghệ trung ương, ngừng hoạt động của Ban văn hóa-văn nghệ trung ương, rồi sau đó sáp nhập ban này vào Ban tuyên giáo trung ương, tiếp đó đổi tên Ban tuyên giáo trung ương thành Ban tư tưởng văn hóa trung ương, với những nhân sự khác hẳn ở vị trí lãnh đạo.
Động thái này, ở một phương diện khác, còn liên quan đến việc định hình một mô hình đổi mới Việt Nam, mang tính chỉnh sửa so với ban đầu; đó là chỉ đổi mới các mặt kinh tế-xã hội (công nhận 5 thành phần kinh tế, chấp nhận mở cửa với kinh tế bên ngoài…) nhưng giữ nguyên xu hướng chính trị, văn hóa, quản lý xã hội như thời trước đổi mới, và kiên quyết cự tuyệt các đề xuất đa nguyên chính trị. Mô hình này càng rõ nét hơn từ sau năm 1990, sau khi Đảng và nhà nước Việt Nam tái lập quan hệ với Đảng và Nhà nước Trung Quốc, dần dần tiếp nhận mô hình Trung Quốc.
Nếu đặt trong quỹ đạo đời sống văn nghệ đã định hình từ những năm 1960 ở miền Bắc, thì một loạt những biểu hiện cấp tiến trong đời sống văn nghệ mấy năm cao trào đổi mới sẽ có thể bị xem như một trong số các “vụ” (như vụ Nhân văn, vụ “nghị quyết 9”, vụ “đề dẫn” và “phải đạo”…), nghĩa là sẽ có những tổng kết, nêu ra những lỗi lầm, nhất là những lỗi nặng nhất, kèm theo những xử phạt cụ thể.


Song, khác với những gì có thể xảy ra theo quỹ đạo cũ, thì với một vài xử lý kể trên (mà tập trung ở việc cách chức Nguyên Ngọc), phong trào đổi mới trong văn nghệ chỉ bị “hạ nhiệt” chứ không bị dập tắt; và ở quy mô xã hội-kinh tế, thì đổi mới vẫn đang được tiếp tục.
Đối với lực lượng văn nghệ đã ở trong “đội ngũ thống nhất” kể trên, cao trào đổi mới đã khiến “đội ngũ thống nhất” này mau chóng bị tách làm đôi, tạo thành hai cực, với số đông ở giữa. Một số không ít hướng theo những người cấp tiến (tự nhận là “phái vui tươi” tại đại hội nhà văn IV). Một số khá đông vẫn ứng xử như thể trước sau chưa có biến động gì, vẫn hoạt động trong các hoạt động do hội tổ chức. Một số tương đối ít thì năng nổ tham gia những hoạt động được gọi là “bảo vệ nguyên tắc” tức những giáo điều cũ. Đó là chưa nói tới việc mạng internet đi vào đời sống, can dự và làm thay đổi các quy trình viết và lưu chuyển bản thảo tác phẩm, khiến lực lượng nhà văn bị “thanh lọc” thêm một lần nữa, kể từ cuối những năm 1990s.


Ở nhan đề bài này tôi hình dung văn học đổi mới như sự thức tỉnh nửa vời của một lớp nhà văn. Chỉ của “một lớp nhà văn” thôi, chỉ những nhà văn được tập hợp trong “đội ngũ thống nhất” mà thôi.
Sao lại nói là thức tỉnh và thức tỉnh nửa vời?
Đây rõ ràng là một sự thức tỉnh.
Một lớp người đã được Đảng tập hợp thành “đội ngũ thống nhất”, sau bốn chục năm, lại được Đảng hô gọi “đổi mới”, thay đổi, nhất là “đổi mới tư duy”, “nhìn thẳng sự thật”, “nói đúng sự thật”… Họ đã tự thay đổi, nhìn sâu vào đời sống, nhìn ra và nói lên nhiều loại “sự thật” khác nhau; họ trở nên khác nhau cả trong cách nhìn cuộc sống lẫn cách thể hiện văn chương nghệ thuật.


Sau những năm cao trào đổi mới, nhiều vấn đề không còn được đưa ra “quán triệt” như xưa nữa. “Tính đảng” không còn được đưa ra như nguyên tắc để truy cứu mỗi nhà văn nữa. “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” cũng không còn được dùng để chất vấn “định hướng nghệ thuật” của nhà văn nữa. Vẫn có một vùng cấm gồm một số phạm vi bị coi là nhạy cảm, không được đụng bút tới, và giới lãnh đạo mỗi thời kỳ vẫn muốn cài cắm thêm những nội hàm “định hướng” nhất định. Song, về không ít đề tài hoặc trong vùng cấm hoặc bị coi là nhạy cảm – người ta vẫn có thể đem ra tranh luận mỗi khi ai đó đụng bút tới và gặp phải những phản đối từ những người khác.


Vậy là từ phía tự mình đổi mới, thay đổi, lẫn từ phía lãnh đạo gỡ bớt mức độ trói buộc, kể từ thời đổi mới, 1986 trở đi, các nhà văn trong “đội ngũ thống nhất” đã được thức tỉnh và đã thức tỉnh.
Từ chỗ đứng trong “đội ngũ thống nhất” cũ, từ nay mỗi người phải tìm ra và làm ra sự khác biệt của mình. Từ sau đổi mới, văn học ngày càng được tính bằng những tên tuổi và tác phẩm cụ thể, không phải bằng thành tựu chung chung của một “đội ngũ thống nhất”.
Nhưng sao lại nói là thức tỉnh nửa vời?
Thiết nghĩ, không phải ai cũng muốn và nhất là cũng có thể thoát ra khỏi nếp sống và viết như đã quen trong “đội ngũ thống nhất” cũ. Việc không ít người rốt cuộc hoặc vẫn tiếp tục kiểu “viết để phục vụ” rồi buông bút, chấm dứt đời văn, – chứng tỏ điều đó.


Tuy nhiên, tôi nghĩ nhiều đến một trong những khiếm khuyết đáng nói nhất, ấy là, ngay những người cấp tiến trong giới nhà văn, vào hồi cao trào đổi mới, đã thúc đẩy gỡ bỏ không ít tiêu chí trói buộc (tính đảng, văn nghệ phục vụ chính trị, hiện thực xã hội chủ nghĩa), đã thúc đẩy nhà văn viết để tố cáo những sự thật phi nhân bản, phản xã hội, v.v. Song chính họ lại không tính đến cách đứng chỗ đứng của mình và của mỗi người viết văn trong những tương quan cuộc sống sẽ đổi thay do kết quả “đổi mới”; ngược lại, vẫn ngây thơ tin rằng dường như vẫn cứ đứng trong cái “đội ngũ thống nhất” cũ mà hành động là ổn rồi!


Họ đã được Đảng hô hào cùng “đổi mới”, được Đảng gỡ bỏ cho ít nhiều những ràng buộc, trói buộc quá đáng, lỗi thời; nhưng họ đã quên tính đến một thứ khế ước, công ước rất thiết yếu cho sự hành nghề trong tương lai. Khi không còn (và cũng không cần) “đội ngũ thống nhất” nữa, sẽ cần những định chế mang tính toàn dân, toàn xã hội như thế nào đó về việc hành nghề văn chương nghệ thuật, cần những định chế mang tính toàn dân, toàn xã hội về việc lập hội, cần những quy chế nhà nước về việc tài trợ cho sự nghiệp văn học nghệ thuật.
Cho đến hiện tại, xét trên mặt bằng các chế định luật pháp, các cơ quan nhà nước đã có đủ công cụ để quản lý những gì cần quản lý đối với những người viết văn: đó là luật báo chí, luật xuất bản. Hiện nay, người viết ra tác phẩm văn học chỉ có thể công bố trên báo, tạp chí, hoặc in sách; và tất cả đã có luật báo chí và luật xuất bản điều chỉnh. Không nhất thiết phải buộc từng người viết văn là thành viên những hội đoàn văn nghệ được chỉ định thì nhà nước mới quản lý được.


Hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật trung ương và địa phương đang tự chứng tỏ là những định chế gắn với quá khứ nhiều hơn là hiện tại. Trong thời trước đổi mới, ở nước ta cũng như các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, các hội đoàn nghề nghiệp, trong đó có hội đoàn của các giới văn nghệ sĩ, đều được tổ chức thành một kiểu cơ quan tương đương cơ quan nhà nước, các nhân sự đứng đầu các hội đó được hưởng các quyền lợi như cán bộ trung, cao cấp. Điều này ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển văn nghệ, biến sự tranh đua về tài năng thành những đấu đá về lợi ích giữa các quan chức.


Tình trạng đáng buồn là sau ba chục năm, hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật hầu như vẫn giữ nguyên trạng như trước ngày diễn ra công cuộc đổi mới. Nó vẫn mang hai thuộc tính cố hữu: tính chất độc quyền, và tính chất nhà nước hóa. Mỗi ngành chỉ được phép có một hội, đó là biểu hiện tính độc quyền. Các hội vẫn hoạt động gần như những cơ quan nhà nước, được cấp vốn từ ngân sách – tức tiền thuế của dân; đó là biểu hiện tính chất nhà nước hóa.


Trong khung cảnh hiện tại, hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật đó không khác gì hệ thống các tập đoàn doanh nghiệp độc quyền nhà nước, ít sinh lãi, dễ tham nhũng, đang được nhà nước gấp rút chuyển sang cổ phần hóa để đỡ tiêu tốn vốn ngân sách, đỡ gây quá tải cho kinh tế quốc dân.
Hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật, theo tôi, hiện đang là di sản cũ kỹ nhất của cơ chế bao cấp xưa kia mà công cuộc đổi mới còn chưa kịp thanh lý. Đây là di chứng cho thấy tính chất nửa vời của cuộc đổi mới văn nghệ, là di chứng về sự thức tỉnh nửa vời của một lớp người viết trên thực tế vẫn chưa tự mình giải thoát mình ra khỏi “đội ngũ thống nhất” cũ, không hiểu rằng thực ra “đội ngũ” ấy đã vỡ thành nhiều mảnh và đã biến dạng.


Hà Nội, 28/5/2015

Mồ côi




Hôm nay, ta đã là đứa mồ côi. Nói theo kiểu truyền thống. Bố mẹ, anh cả, anh hai, đã chết. Đích thực mồ côi.

Nhưng ta không cảm thấy mồ côi. Ở ta, bố mẹ và anh vẫn còn sống :

Bố : chỉ tin lý trí của mình thôi.

Mẹ : phải biết thương người.

Anh : chí hiếu.

Chắc gì ta để lại được cho con ta những giá trị ấy ? Làm người đời nay nó vậy.


PHĐ