Thứ Hai, 20 tháng 4, 2015

Hãy tự mình nương tựa chính mình



Minh Trí


Khác với quan điểm của các tín ngưỡng thần quyền nhìn con người bằng con mắt yếu kém với số phận hoàn toàn tùy thuộc vào uy quyền phán xét của Thượng đế hay ân sủng của các thần linh, Đức Phật khẳng định con người là chủ nhân của số phận mình; rằng con người có khả năng hoàn thiện chính mình, rằng hạnh phúc hay khổ đau của con người không do ai ban cho mà do người ấy tự quyết định bằng chính lối sống của mình. Theo kinh nghiệm giác ngộ của Phật1 thì mỗi cá nhân đều có sẵn những tiềm năng vô tận, đáng được vận dụng để tạo lập hạnh phúc cho chính mình hay khiến cho mình trở nên hoàn thiện. Phật gọi các tiềm năng như vậy là tài sản tự nội (ajjhattabhoga) hay năng lực giác ngộ (bodhibala) và khuyên mọi người nỗ lực phát huy. Ngài nêu rõ:

“Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của bậc Hữu học. Thế nào là năm? Tín lực, tàm lực, quý lực, tinh tấn lực, tuệ lực.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín lực?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai: ‘Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tín lực.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tàm lực?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng hổ thẹn đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, hổ thẹn đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tàm lực.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là quý lực?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng sợ hãi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, sợ hãi đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là quý lực.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh tấn lực?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tinh tấn lực.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ lực?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ lực.

Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm sức mạnh của bậc Hữu học. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: ‘Ta sẽ thành tựu tín lực, được gọi là hữu học lực… tàm lực… quý lực… tinh tấn lực… ta sẽ thành tựu tuệ lực, được gọi là hữu học lực’. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập”2.

Đề cập về kết quả của việc vận dụng năm sức mạnh này, Đức Phật xác nhận:

“Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là cõi lành. Thế nào là năm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có lòng hổ thẹn, có lòng sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là cõi lành”3.

Phật nói về con người và hạnh phúc của con người thật rõ ràng và thực tế. Con người là chủ nhân ông của chính mình, có đầy đủ tiềm năng hay năng lực để tự kiến tạo hạnh phúc an lạc cho chính mình. Con người không cần chờ mong ân huệ cứu rỗi của Thượng đế hay cầu khẩn bất cứ năng lực siêu nhiên nào ở bên ngoài để giúp cho mình được hạnh phúc an lạc. Thay vào đó, con người cần nhận rõ các tiềm năng vốn có của mình – tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực – và nỗ lực phát triển chúng thì an lạc sẽ đến và ở bên ta.

Tín lực (Saddhà-bala) hay sức mạnh của lòng tin là yếu tố thứ nhất mà con người cần phát huy để thiết lập hạnh phúc an lạc. Đó chính là lòng tin tưởng mạnh mẽ vào sự giác ngộ của Phật, một con người giống như bao người khác đã nỗ lực hoàn thiện chính mình bằng cách phát huy các tiềm năng giác ngộ – giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoát và giải thoát tri kiến đức – trong chính mình và đã tận tâm trao truyền kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người khác vì tin tưởng ở đức năng giác ngộ của mọi người. Tin tưởng ở sự giác ngộ của Phật cũng có nghĩa là tin tưởng ở khả năng giác ngộ của chính mình, vì Phật cũng chỉ là một con người đã đạt đến giác ngộ bằng nghị lực của bản thân. Một niềm tin như vậy là chính đáng, cần được phát huy, vì nó có công năng đánh thức thiện tâm, nuôi dưỡng ý chí giác ngộ, thúc đẩy năng lực tinh cần trong tiến trình thực hành lý tưởng giác ngộ.

Tàm lực (Hiri-bala) hay sức mạnh của lòng hổ thẹn là yếu tố tiếp theo cần được phát huy để thiết lập đời sống hạnh phúc an lạc. Tàm có nghĩa là tâm lý thấy xấu hổ hay cảm thức hổ thẹn về các hành vi xấu ác, bất thiện thuộc thân, khẩu, ý, hoặc đã biểu lộ ra bên ngoài hoặc đang tiềm tàng ở trong tâm thức. Đây là một hình thái tâm thức hiền thiện vốn có sẵn và trôi chảy khá tự nhiên trong mỗi con người. Nó có công năng bảo vệ và duy trì sự an ổn thanh thản trong cơ cấu nhân sinh, vì nó có khả năng làm trong sạch nguồn lực tâm linh của con người nhờ tính năng phản kháng đối với mọi cái xấu ác. Do tính năng của nó, tàm có chức năng giúp con người ngăn tránh mọi động cơ xấu ác, mọi hành vi bất thiện; vì vậy một khi nó được nuôi dưỡng và phát huy mạnh mẽ thì các động cơ xấu ác sẽ được đẩy lùi, được khắc phục, không còn cơ hội để biến thành hành động. Nói cách khác, khi nào tàm có mặt thì khi ấy mọi hành vi của con người sẽ là đạo đức, hiền thiện, không rơi vào xấu ác, bất thiện.

Yếu tố thứ ba là quý lực (Ottappa-bala) hay sức mạnh của lòng sợ hãi về việc vi phạm các điều ác, bất thiện thuộc thân hành, khẩu hành và ý hành. Tương tự như tàm, quý cũng là một dạng tâm lý hiền thiện hiện hữu và vận hành khá tự nhiên trong tâm thức con người. Đây cũng là một hình thái tâm thức có công năng giúp điều chỉnh và hoàn thiện tư cách đạo đức của nhân sinh, vì nó là tâm lý biết lo sợ về hậu quả nguy hại của các động cơ xấu ác, của mọi hành vi bất thiện, có chức năng phản kháng và ngăn tránh mọi điều ác, bất thiện. Vì thế một khi quý được nuôi dưỡng và phát huy thì mọi hành vi của con người sẽ hiền thiện, không xấu ác, đạo đức con người sẽ tăng trưởng và lớn mạnh.

Trong giáo lý đạo Phật, cùng với tàm, quý (tàm quý) được xem là nền tảng của giới hạnh hay nhân trực tiếp của đời sống đạo đức.

Tinh tấn lực (Viriya-bala) hay sức mạnh của sự nỗ lực tinh cần trong lối sống tu học Phật pháp được xem là yếu tố quan trọng thứ tư trong tiến trình thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Theo quan niệm của Phật thì hạnh phúc an lạc là sự vắng mặt các yếu tố gây phiền muộn khổ đau như tham-sân-si hay các hành vi ác, bất thiện thuộc thân, miệng, ý (sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến). Vì vậy, để có được hạnh phúc an lạc thì trước hết con người cần phải nhận diện cho thật rõ về lẽ thiện ác và cần phải quyết tâm dứt bỏ điều ác, nỗ lực làm các việc lành. Đây chính là ý nghĩa căn bản của Chánh tinh tấn(Sammà- vàyàma) được nói đến trong đạo Phật. Ngoài ra, Chánh tinh tấn cũng có nghĩa là nỗ lực vượt qua chính mình trên bước đường tu tập để lần lượt đạt đến mục đích cứu cánh. Theo nghĩa này thì Chánh tinh tấn chính là sự vượt qua mọi tiến bộ đạo đức và tâm linh mà mình đã thực nghiệm được để tiếp tục hướng đến mục đích giải thoát tối hậu. Nhìn chung, người học tu theo pháp của Phật được xem là người luôn luôn tinh cần tinh tấn, tinh tấn nuôi dưỡng đạo đức (giới), tinh tấn phát triển tâm thức (định) và tinh tấn phát huy trí tuệ (tuệ). Do chức năng của nó, tinh tấn được xem như một yếu tố quan trọng được vận dụng xuyên suốt trong tiến trình tu học đạo lý giải thoát của người con Phật. Phật khuyên các học trò mình phát huy Chánh tinh tấn, vì nó là nguồn lực giúp cho con người tiến bộ về đạo đức, tâm linh và trí tuệ, tuần tự đạt đến mục tiêu cứu cánh giải thoát, giác ngộ.

Yếu tố thứ năm và cũng là yếu tố hết sức quan trọng để giúp cho con người tìm thấy hạnh phúc thực sự chính là tuệ lực (Panãnà-bala) hay sức mạnh của sự thấy rõ các pháp đúng như thật (yathàbhùtam pajànàti). Theo quan niệm của đạo Phật thì sở dĩ con người cứ bị khổ đau chi phối, không đạt được hạnh phúc thực sự ấy là bởi thiếu hiểu biết đúng đắn về bản chất của sự sống hay thiếu trí tuệ. Do thiếu trí tuệ hay do mê mờ về bản chất của sự kiện hiện hữu nên con người bị giam hãm mãi trong vòng trầm luân khổ đau bởi những việc làm sai lầm, những hành vi chứa đầy tham-sân-si. Hết thảy mọi thứ trên cuộc đời là vô thường, khổ đau, ta không làm chủ được, nhưng do dục vọng và vô minh, con người không có đủ tỉnh táo và sáng suốt để tiếp nhận và hành xử mọi việc đúng như bản chất của chúng. Do thiếu trí tuệ, con người cứ bị ám ảnh và đẩy đưa qua lại giữa các đối cực có không, hơn thua, được mất giữa cuộc đời; không ngừng rơi vào tham đắm hoặc giận dữ bực phiền đối với mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý. Đây chính là lý do khiến con người bị trói chặt trong vòng luẩn quẩn khổ đau, không tìm thấy tự do, hạnh phúc, an lạc. Đức Phật thấy rõ thực trạng yếu kém này của chúng sinh nên khuyên dạy chúng ta phải biết nuôi dưỡng và phát huy trí tuệ.

Trí tuệ được nói đến trong đạo Phật là một loại năng lực tâm thức có khả năng phá vỡ và loại trừ các tập khí tham-sân-si, gốc rễ của mọi mê lầm khổ đau. Nó là hệ quả của lối sống thực hành giới đức và thiền định sâu sắc, có khả năng chặt đứt mọi gốc rễ của khổ đau bởi nó thấy rõ bản chất vô thường, khổ, vô ngã của hết thảy mọi sự kiện hiện hữu, không còn mê lầm, không rơi vào các hành động sai lầm do tham và sân kích động. Nói cách khác, trí tuệ là một kinh nghiệm tâm linh sâu sắc, thấy rõ bản chất bất toại của mọi sự vật và hiện tượng nên không còn thích thú ôm ấp hoặc đeo bám vào những gì hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nó là năng lực tâm linh có khả năng buông bỏ mạnh mẽ, hướng tâm thức vượt ra ngoài mọi đối cực, đạt đến tự do, giải thoát mà thuật ngữ đạo Phật gọi là “có khả năng đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”.

Nhìn chung, Đức Phật khuyên chúng ta phải biết nuôi dưỡng và phát huy tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực, vì chúng là các yếu tố có khả năng giúp cho chúng ta đạt đến hoàn thiện, đạt đến tự do, giải thoát, không còn bị khổ đau chi phối. Chúng là các sức mạnh tự nội, có khả năng điều chỉnh và hoàn thiện nhân tính, hướng con người đạt đến hạnh phúc tối hậu, hoàn thành mục tiêu cứu cánh của nhân sinh. Theo lời dạy của Phật thì con người không cần phải tìm kiếm ở đâu xa các nguồn lực để hoàn thiện chính mình hay để thiết lập hạnh phúc an lạc. Con người chỉ cần nhìn vào chính mình thì thấy ngay các tiềm năng trọng yếu đang chờ mình khai sáng và vận dụng. Đó chính là tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực, có khả năng giúp cho mỗi người hoàn thiện giới đức, tâm đức, tuệ đức, thành tựu mục đích giải thoát và giải thoát tri kiến. Một trong những lời nhắn nhủ gần như cuối cùng của Ngài trước lúc nhập Niết-bàn, Đức Phật khuyên các đệ tử: “Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một cái gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác”4. Lời nhắn nhủ quan trọng ấy của bậc Đạo sư chính là lời khuyên nhắc mọi người phát huy năng lực giác ngộ vốn có trong chính mình, vì đó chính là chỗ nương tựa vững chắc nhất cho mục tiêu giác ngộ của mỗi người, và vì đó chính là Chánh pháp mà chư Phật muốn chỉ bày cho hết thảy chúng sinh. „

Chú thích:
Kinh Chưa được nghe, Tăng Chi Bộ.
Kinh Rộng rãi, Tăng Chi Bộ.
Kinh Khổ, Tăng Chi Bộ.
Kinh Đại bát Niết-bàn, Trường Bộ.

Luân xa qua quan niệm Cảm xạ





 Để thực hành tốt phép luyện Năng lượng Cảm xạ, cần có sự hiểu biết chu đáo về nguyên lý năng lượng của con người. Sự hiểu biết chung này không những cho phép bạn biết được nhiều điều mà người thường không hiểu được, mà còn giúp bạn thực hành được hoàn hảo. Trong các lớp học về nghiên cứu và ứng dụng Năng lượng Cảm xạ học chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các khu vực màu sắc trong đó mỗi khu vực có liên quan mật thiết đến các luân xa. Chúng tôi cố gắng đưa đến cho bạn ý niệm về “các cơ quan năng lượng” kỳ diệu này.

Người ta nói : các luân xa là những cánh cửa của cơ thể con người mở ra vũ trụ.

Qua các cửa đó, chúng ta nhận một cách có ý thức, cái năng lượng sống cần thiết cho chúng ta.

Chakra, một từ tiếng Phạn, là bánh xe, bao hàm ý nghĩa chúng hơi tròn, tùy lúc chúng có khả năng quay, do vậy chúng liên quan đến hệ tuần hoàn.

Các chakra được trình bày như những luồng xoáy rất nhanh. Chúng có hình thu như những chiếc đĩa nhỏ mà “miệng” đĩa ở trên bề mặt của da.

Những “luồng xoáy năng lượng sống” đó có rất nhiều trên các cơ quan chủ yếu của cơ thể và các điểm hội tụ nhiều dây thần kinh. Chúng tương ứng với các điểm châm cứu.

Trong chữa bệnh bằng Năng lượng Cảm xạ, việc hiểu rõ bảy luân xa chính là điều quan trọng (vẫn là con số bảy).

Cơ thể con người có bảy luân xa chính nằm trên một cột trung tâm mà năng lượng bao quanh nó chứa ở phía dưới của cột sống. Cái đường thẳng đó, cái kênh đó, nhận năng lượng Ida, năng lượng âm, vàPingala, năng lượng dương, tương ứng với hai lực trái ngược nhau nhưng thống nhất trong Suchuma : đó là nước và lửa, mặt trăng và mặt trời, bóng tối và ánh sáng v…v…

Cái năng lượng trú ngụ ở phía dưới của cột sống là Kundalini. Nó đi lên theo các kênh dẫn giống như những cành của Cây đời Hormes và cho phép các luân xa khác nhau nảy nở và hoàn thành các chức năng vật chất, tâm thần và phi giác quan của chúng.

Kundalini đi lên từ phía dưới luân xa Mulashara đến luân xa Brahmaranda, tương ứng với ngọn lửa thần hiện hữu trong con người, với hòn đá thử vàng và Ngôi sao Compost.

Để Kundalini – đột ngột bị chìm đắm trong ngọn lửa – ánh sáng chết người và phải gánh chịu một sự chiếu sáng có sức mạnh khủng khiếp.

Việc khai mở đi lên của Kundalini phải đúng lúc, thông qua sự luyện tập thận trọng và tuần tự.

Trên bình diện thể chất, một nhà thể thao chỉ có tham gia các cuộc thi ở trình độ cao để đạt tới các đỉnh điểm và phá các kỷ lục sau sự luyện tập lâu dài và nghiêm túc. Một sự luyện tập quá tải, một sự vội vã thiếu kiên nhẫn sẽ dẫn đến tai nạn có thể làm tê liệt lâu dài cơ thể.

Kinh tuyến giữa chạy dọc theo mặt trước cơ thể gọi là Mạch Nhâm hay còn gọi là Mạch Cảm nhận. Mạch này mang tính Âm, tính Nữ, chạy từ một điểm nằm giữa hậu môn và xương mu. Nó chạy dọc mặt trước của cơ thể từ bụng qua lồng ngực và kết thúc ở một điểm nằm giữa cằm và môi dưới.

Mặt sau của cơ thể có một kinh tuyến nằm giữa cơ thể gọi là Mạch Đốc, hay Mạch Chỉ huy. Mạch này mang tính Dương, tính Nam, xuất phát từ phía sau hậu môn, ở đỉnh xương cùng, theo cột sống đi lên vùng gáy và não bộ rồi kết thúc giữa hai răng cửa. Sự việc như là con người chúng ta có một vòng tròn bao quanh cơ thể đi từ mặt trước đến mặt sau; mặt Âm (bụng) chuyển sang mặt Dương (lưng) trong khoảng một ngày đêm (độ dài 24 giờ) ngày chuyển thành đêm và đêm chuyển thành ngày. Hai đường kinh tuyến ấy, mà người ta còn gọi là hai mạch Huyền Diệu, vừa mang tính tuần hoàn, vừa là cái cột trung tâm của năng lượng, trên đó có bảy luân xa chính.

Bảy luân xa này có vô số chức năng và thiên hướng rất tinh tế. Vì thế mô tả và giải thích chúng cũng không khác gì muốn nhét con gà vào trong quả trứng gà ! Tuy nhiên ta có thể tiếp cận chúng với sự thận trọng và khiêm tốn. Điều cần phải biết là các luân xa vừa là những nguồn năng lượng nhưng cũng vừa là các trạm chuyển tiếp giữa năng lượng bản thân con người và năng lượng của toàn vũ trụ. Khả năng tiếp nhận năng lượng của chúng vươn đến tận các thiên thể xa xôi nhất, khả năng tác động của chúng mở rộng đến từ cơ quan con người chúng ta. Chúng có tầm quan trọng đến chừng nào đối với con người ! Tuy gắn liền với thể vật chất và thể năng lượng của mỗi sự việc và mọi sinh vật, các luân xa cũng là biểu hiện của tâm linh. Chúng là hình ảnh của thiên nhiên cùng liên kết mọi bình diện, chúng là nơi linh thiêng tại đó các hiện tượng của thế giới vật chất và tinh thần đan xen nhau. Có thể nói, trong cơ thể con người, những gì thuộc về vật chất mà gắn được với thể tinh thần là đều qua các luân xa. Và cũng nhờ các luân xa mà các bình diện cao cấp của tâm linh được thể hiện trong thực tiễn sinh học của con người.

Khi thực hành Năng lượng Cảm xạ, tất nhiên chúng ta có thể sử dụng các luân xa đó, dù đó là luân xa của bản thân ta hay luân xa của người bệnh. Trong các lớp học của chúng tôi, thời điểm cảm động nhất chắc chắn là lúc các học viên luyện rung động sóng từng khu vực. Mỗi khu vực rung động có từng tính chất và sóng hoàn toàn khác nhau do đó sự thể hiện của mỗi người có đặc thù riêng.

Thí dụ : Có người khi rung động sóng ở khu vực màu vàng, nếu bản thân tích cực người đó có cảm giác lạc quan yêu đời ngược lại có người tiêu cực buồn phiền bi quan thậm chí bật khóc một cách vô cớ hoặc khi rung động sóng vô thức ở khu vực màu xanh lục (vùng ngực), trong trạng thái yên lặng, tĩnh tâm, bình tĩnh, thư giãn, tâm trí càng rỗng càng tốt, ở đa số các trường hợp, người ta quan sát được nét mặt họ nhanh chóng biểu hiện vẻ thanh thản, nhưng không ngăn nổi các giọt lệ. Đừng tưởng đó là các giọt lệ sầu bi ! Ngược lại, đó là một tình cảm dịu dàng tiềm ẩn nay có dịp bộc phát mà từ trước đến nay họ chưa hề cảm nhận bao giờ, một tình thương bao trùm lấy họ trong bầu ánh sáng ấm áp và thanh bình. Lúc đó họ không phải là một mà là hai, họ có thể phân biệt được bản thể vật chất và sự tồn tại của bản thể ý thức, và đồng thời cảm nhận được họ cả hai đều ở trong khuôn khổ của tình yêu vũ trụ. Ở cấp độ có thể hòa đồng (liên thông) như vậy, người thầy chữa bệnh bằng NLCX hiển nhiên đã tạo được cho mình những khả năng và phương cách đáng kể để tác động đến người bệnh.


Cần nói rõ thêm là các luân xa có sự liên hệ chặt chẽ với các hình dạng , màu sắc và cả nốt nhạc. Về phương diện này cần hết sức thận trọng khi khẳng định một điều gì. Thật vậy, truyền thống Ấn Độ có mô tả về các luân xa của những người có trình độ tâm linh cao. Muốn rằng các luân xa của chúng ta bằng bất cứ giá nào cũng phải được vậy thì quả là một sự xúc phạm đến lương tri. Tại sao luân xa này hay luân xa nọ lại có màu vàng hay màu đỏ. Cũng như màu sắc của hào quang, màu sắc của các luân xa rất phong phú và thường biến đổi. Chúng ta biết rằng có mối quan hệ giữa các luân xa và màu sắc, cũng như có một quan hệ giữa các cơ quan của cơ thể con người với màu sắc, nhưng điều này cũng không nói lên được điều gì, trừ mối quan hệ sau : muốn có quyền năng lớn phải có trình độ cảm nhận cao. Thí dụ : như chúng ta đã biết Tim có mối quan hệ với màu xanh lục. Nhưng một người nào đó có vấn đề về Tim vẫn có thể mặc quần áo màu xanh lục, sơn tường nhà mình bằng màu xanh lục và đồng thời thích tất cả những gì là màu xanh, và cảm thấy dễ chịu khi nhìn thấy cỏ xanh hay một cây xanh !

Trong lĩnh vực này không nên có kết luận vội vàng và giữ những nguyên tắc cố định. Thay vì hướng dẫn các học viên cảm xạ rằng một luân xa nào đó chỉ hoạt động tốt khi thấy màu xanh lục, xanh da trời hay màu vàng, với phương pháp rung động sóng chúng tôi tin tưởng rằng sẽ vô cùng có ích và hiệu quả khi hướng dẫn cho các học viên cảm xạ luyện tập để tự họ nâng cao được trình độ cảm nhận của các luân xa của họ – và kinh nghiệm cho chúng tôi thấy điều này là đúng. Nhận thức trên cũng đúng khi xem xét vấn đề hình dạng và vấn đề cộng hưởng với âm thanh của các luân xa. Những người da đỏ thường đọc các câu thần chú một loại câu khấn thiêng liêng, trong đó phổ biến nhất là câu tụng Ạ-ÔM là từ đầu của câu chú có liên hệ đến luân xa số 7. Khi ta “hát” âm Ạ-ÔM, không có nốt nhạc nào tương ứng với âm đó. Mỗi người lại đều có một tần số, một rung động riêng được thể hiện khi phát âm từ ÔM. Đối với người này, chẳng hạn đó là nốt MI, với người kia là nốt ĐÔ và người thứ ba là nốt FA thăng, ai mà biết được ? Điều luôn cần phải nhớ là vũ trụ thường xuyên tiến hóa. Không có gì là cứng ngắc, mọi thứ đều thay đổi, đều chuyển hóa không ngừng, do vậy mọi sự đều chỉ là tương đối. Ở đây chúng tôi trang bị cho các bạn một số kiến thức cơ bản để nắm được các luân xa trong đúng khuôn khổ của chúng, nắm được khuôn khổ của vũ trụ tinh tế chứ không phải để cho khuôn khổ ảo của các hình ảnh mà “những người am hiểu” áp đặt lên chúng ta. Phải nói nhờ có cảm xạ, nhờ vào những công cụ của cảm xạ nhất là cây đũa Michel mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy những qui luật của sự rung động sóng, qua đó bạn rút ngắn được thời gian tìm kiếm những bí ẩn của cơ thể chính chúng mình.

Để kết thúc, cần nói thêm rằng rằng kích thước và sóng rung động của mỗi luân xa là rất biến động và thay đổi thường xuyên, tùy theo trình độ thăng tiến của tâm linh chúng ta, tùy theo sức khỏe, trạng thái cảm xúc của chúng ta và cũng tuỳ theo mối quan hệ của chúng ta với các sinh vật và địa điểm, và sau cùng với dụng cụ của cảm xạ sẽ giúp cho chúng ta nắm được về ý thức vũ trụ và khả năng cảm thụ các rung động trong mỗi chúng ta.

Dư Quang Châu

HÌNH NHƯ



Hình như anh vẫn bước trên con đường ấy
Chờ đợi em và muốn thấy dáng em
Hình như anh vẫn nhớ kỉ niệm ngày hôm ấy
Anh nắm tay em bên thềm và nói lời yêu thương
Hình như không gian còn phảng phất
Hơi ấm nồng nàn của những nụ hôn say
Hình như nỗi nhớ đang dày vò hai đứa
Hình như lệ ướt mi cho mắt em cay.

Tây Nguyên Xanh

Sự tha hóa của lời nói


Theo các nhà nghiên cứu hội họa, trong các bức tranh của người Việt thời trung đại, mỗi yếu tố chỉ có quan hệ với yếu tố liền kề bên cạnh, chứ không có quan hệ với toàn bộ bức tranh. Con người ở đây trong các mối quan hệ xã hội cũng vậy, hành động và lời nói thường được tổ chức để đối phó với các đối tác có quan hệ gần gũi mà không chú ý tới toàn bộ cộng đồng.





Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Câu ca dao đó thuộc loại những câu “vỡ lòng” mà mỗi gia đình thường dạy con cái mình. Thành ngữ còn ghi “Nói ngọt như mía lùi“, “Nói con kiến trong lỗ cũng phải bò ra“… ý khuyên khi giao thiệp cần chọn những lời lẽ tốt đẹp. Nhưng trong các cuốn từ điển, người ta thường gặp nhiều hơn bội phần những thành ngữ có liên quan những lối nói không có gì là tốt đẹp.

Hoặc là : Nói bóng nói gió, nói càn, nói cạnh nói khoé, nói chọc, nói chơi, nói chua, nói cứng, nói dựa, nói dóc, nói dối, nói điêu, nói gạt, nói gần nói xa, nói gở, nói hành nói tỏi…

Cũng như : Nói hớt, nói khoác, nói lảng, nói láo, nói phách, nói leo, nói lửng, nói mát, nói mép, nói móc, nói mỉa, nói ngoa, nói ngang, nói nhăng nói cuội, nói như thánh phán, nói như vẹt…

Rồi còn : Nói phét, nói quanh, nói quấy nói quá, nói ra nói vào, nói suông, nói thách, nói thánh nói tướng, nói trạng, nói trống không, nói vơ, nói vụng, nói vuốt đuôi, nói xỏ…

Thái độ vô trách nhiệm của con người đối với tiếng nói của mình làm nên bộ mặt tinh thần chủ yếu của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, từ “Tôi xin hết lòng” tới “Thằng điên“, từ “Một tin buồn” tới “Hé ! Hé ! Hé !“. “Thế là mợ nó đi Tây” cũng như “Tôi yêu quý nương“, hai truyện ngắn này đều gồm nhiều bức thư, loạt đầu giọng tử tế và thậm chí văn hoa, đến thư cuối thay bằng mấy lời bạc bẽo, càn rỡ. Mà đó chỉ là của một con người viết cho một người khác trong thời gian ngắn.

Trong nhật ký của mình, Pièrre Poivre (1719 – 1786), một người Pháp từng đến buôn bán ở Đàng Ngoài thế kỷ XVIII, than thở : “Điều làm tôi bối rối khi phải thương lượng với người ở đây là chẳng bao giờ họ nói một lời chân thật. Hôm nay đồng ý, mai đã chối từ. Họ hứa rồi lại rũ bỏ lời hứa, chẳng chút e ngại“.

Sau đây là một mẩu chuyện trong giai thoại “Ba Giai – Tú Xuất” :


Ngày xuân, cụ lý Sộp rủ cụ tổng Muỗm ra Hà Nội, vào một cửa hàng, nhờ kiếm mấy điếu thuốc phiện. Chủ quán nhận giúp, sai người đi liền. Tiếp đó khi cái người được sai đi ấy mãi chưa về, chủ quán lại đích thân đi tìm, trước khi đi không quên mượn của các cụ cái khăn nhiễu.

Ăn tàn miếng trầu không thấy họ về.

Các cụ cáu kỉnh trách móc, bọn này không tính làm ăn buôn bán hay sao ? Thì một người từ nãy đến giờ ngồi yên trong góc quán thủng thẳng cho biết mình mới là chủ quán, hai người trước đó chỉ là bọn đi lừa.

Khi các cụ thắc mắc, ông chủ thật ấy cười khẩy giải thích :

- Các cụ nói thật “cổ nhập” quá. Phàm cách bạn hàng gẫu chuyện với nhau thì muốn nói nhăng nói quậy gì chẳng được. Dù hắn nói là chủ hàng chủ quán hay là chủ cả một tỉnh một xứ này cũng được nữa là. Một câu nói phiếm, phỏng có tổn hại gì, ai hơi đâu lại đi can thiệp.

Đoạn dẫn trên đây khá điển hình trong việc phác lại một tình trạng thông thường của lời nói trong xã hội Việt Nam.

Một mặt, chúng ta bảo nhau “lời nói đọi máu”. Mặt khác, chúng ta thường quá dễ dãi khi xử lý nó. Ta không dùng nó để suy nghĩ, mà trong công việc giao tiếp thì ta dùng nó để đùa chơi, bỡn cợt, ràng buộc, thách thức ; tóm lại là một thứ tài nguyên rẻ, tha hồ phung phí.

Bảo rằng, lời nói bị tha hóa là với nghĩa đó. Nó không còn là chất kết dính của xã hội.

Nói lời thì giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.

Kho tàng tục ngữ ca dao còn ghi lại bao lời than phiền vì những sự con người làm khổ đồng loại bằng lời nói. Người ta ghê sợ nhau chán chường nhau mà vẫn phải sống với nhau.

Nguyễn Trường Tộ (阮長祚, 1830 – 1871) sớm ghi nhận tình trạng “không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ“. Nguyễn Văn Vĩnh lưu ý về cái sự ham thích những câu chuyện tầm thường và từ chối những chuyện nghiêm chỉnh. Phạm Quỳnh dị ứng nhất với những đám đông hỗn hào lộn xộn. Xuân Diệu thì bảo, ta hay nói hão.

Tình trạng tha hóa kéo dài trong ngôn ngữ con người đương đại cũng được Nguyễn Huy Thiệp ghi lại khá tự nhiên. Trong truyện “Tướng về hưu“, các nhân vật thường nói với nhau một cách trắng trợn, pha phách cả ảo tưởng lẫn tinh thần hoài nghi, tới mức một nhân vật phải kêu lên : “Nhà mình nói năng như người điên khùng cả“.

Tôi nghĩ, nhận xét đó khái quát khá đúng tình trạng sử dụng ngôn ngữ trong một xã hội đã bị chiến tranh xé nát và hầu như mọi con người không ai còn sống bình thường như thuở trước 1945.

Vương Trí Nhàn

Thế Chân Vạc Mới Tại Á Châu



Sau hơn 24 thế kỷ, chưa bao giờ sân khấu chính trị thế giới được chứng kiến những học thuyết có tầm vóc “kinh bang tế thế” của thời Xuân Thu Chiến Quốc, tưởng chừng như chỉ còn nằm trong thư viện, nay được đem ra ứng dụng một cách ngoạn mục và sâu sắc- đó là học thuyết Hợp Tung và Liên Hoành.

Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (Thế Kỷ thứ 3 trước Tây Lịch), lúc bấy giờ nước Tần quá mạnh có khả năng thôn tính sáu quốc gia còn lại. Tô Tần nhìn thấy nguy cơ đó cho nên đã đem “miệng lưỡi” đi du thuyết. Kết quả sáu nước Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở, Yên đã nghe theo và đoàn kết lại, lập liên minh để chống Tần theo kế hoạch gọi là Hợp Tung. Thế nhưng “vỏ quýt dày, móng tay nhọn”, Trương Nghi nhìn thấy nhược điểm của thế Hợp Tung cho nên đã hiến kế Liên Hoành cho vua Tần. Vua Tần nghe theo, kết quả kế Hợp Tung tan vỡ, nhà Tần “gồm thâu lục quốc”. Vậy có thể nói Liên Hoành là “khắc tinh” của Hợp Tung.

Tại sao Liên Hoành lại là “khắc tinh” của Hợp Tung? Mới nhìn bề ngoài, các nước nhỏ tìm cách liên kết với nhau để đối đầu với nước lớn là “diệu kế” nhưng nhược điểm chí tử của liên minh (Hợp Tung) là các quốc gia thường đặt quyền lợi của mình lên trên và ngại khó, ngại khổ – tức không chịu hy sinh, chấp nhận thiệt thòi trong liên minh. Do đó, khi có một chút lợi lạc hoặc “cảm thấy” khó khăn là thoái chí. Ngoài ra, tâm lý thông thường của bất kỳ liên minh nào là người ta thường nghi kỵ lẫn nhau. Quốc gia nào cũng sợ quốc gia kia “xé lẻ” hoặc “đi đêm” với kẻ thù. Do đó, nếu không khôn khéo, hành động không minh bạch, không thường xuyên thông báo cho nhau mọi động tác…thì rất dễ gây hiểu lầm. Nắm được nhược điểm và tâm lý này, nhà Tần đã dùng kế Liên Hoành để xé lẻ liên minh sáu nước bằng cách ve vãn từng quốc gia và như đã nói ở trên, kế Hợp Tung tan vỡ.

Ngày nay, do sự tái diễn của lịch sử, việc ứng dụng Hợp Tung và Liên Hoành đã và đang diễn ra một các ngoạn mục tại Đông Nam Á. Nói về sức mạnh kinh tế, Hoa Lục có khả năng khuynh đảo toàn thế giới -bằng cớ siêu cường Hoa Kỳ hiện là “con nợ” của Hoa Lục. Nói về sức mạnh quân sự, Hoa Lục coi như bá chủ ở vùng này. Tổng cộng Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản và thêm chín nước Đông Nam Á cũng không thể đối đầu với sức mạnh quân sự của Hoa Lục. Do những hành động xâm chiếm lãnh thổ của các quốc gia trong vùng liên tục trong 37 năm qua: Từ xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974, đánh chiếm một phần của Quần Đảo Trường Sa năm 1988 rồi xây dựng căn cứ quân sự và sân bay tại đây, rồi công bố sát nhập Trường Sa vào lãnh thổ Trung Hoa bằng địa danh Tam Sa, xây dựng căn cứ quân sự khổng lồ tại Đảo Hải Nam, cho tàu Ngư Chính phá phách các dàn thăm dò dầu khí của Việt Nam, áp lực để các quốc gia như Anh Quốc (PB), Hoa Kỳ (Exxon) phải từ bỏ các hợp đồng khai thác dầu khí trong vùng quyền lợi kinh tế của Việt Nam, bắt bớ, giết hại ngư dân Việt Nam với lý do rất mơ hồ “xâm phạm lãnh hải”, công bố Đường Lưỡi Bò xác định chủ quyền trên biển coi như toàn bộ Biển Đông. Mới đây nhất, việc hạ thủy Hàng Không Mẫu Hạm Thi Lang…khiến không riêng gì Đông Nam Á mà cả thế giới lo sợ. 
Trước viễn ảnh đen tối đó, các nước Đông Nam Á – giống như một đàn trâu rừng- vội vã co cụm lại để đối đầu với con sư tử đang lừng lững tiến tới và một liên minh theo kế Hợp Tung thời Chiến Quốc hình thành. Trong liên minh này, hai quốc gia trụ cột là Phi Luật Tân và Việt Nam, sau đó là Nam Dương và Tân Gia Ba. Phi Luật Tân lớn tiếng nhất và công khai chống lại Hoa Lục – lý do thật dễ hiểu vì Phi Luật Tân ở xa và không có biên giới đất liền với Hoa Lục. Ngoài ra Phi Luật Tân còn có “bửu bối” Hiệp Ước Phòng Thủ Chung ký kết với Hoa Kỳ năm 1951.

Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations) viết tắt là ASEAN thành lập năm 1967 bao gồm 4 quốc gia Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và Tân Gia Ba, sau thêm Brunei, Miến Điện, Kampuchia, Lào và Việt Nam…tổng cộng chín nước. Mới thoạt đầu ASEAN không phải là một liên minh quân sự mà mục tiêu chỉ là “thúc đẩy phát triển kinh tế và thăng tiến xã hội” nhưng do thời thế đẩy đưa, do có cùng một hiểm họa – dù chưa ký kết thỏa hiệp chính thức- trên thực tế ASEAN đã và đang biến thành một “liên minh quân sự” tại Đông Nam Á. Chúng ta có thể khẳng định điều này qua các cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng đã diễn ra vào Tháng 10, 2010 tại Hà Nội, Tháng 12 cùng năm tại Đà Lạt và năm nay (2011) tại Nam Dương. Đấy là không kể hai cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng Asean- Nhật Bản do Nhật tổ chức ở Tokyo. Xen kẽ, chúng ta thấy những cuộc thăm viếng và làm việc liên tục của các tổng tham mưu trưởng quân đội, cùng các tàu chiến của các nước trong khối SEAN.

Hơn ai hết, Hoa Lục nhìn thấy thế Hợp Tung của chín nước ASEAN nên đã quyết tâm phá vỡ bằng kế Liên Hoành. Để thi hành, từ trước đến nay Hoa Lục khăng khăng lập trường chỉ thương thảo song phương chứ không chấp nhận thương thảo đa phương. Khi theo đuổi lập trường đó Hoa Lục nhắm tới:

- Không cho, cũng như không chấp nhận sự can thiệp của quốc tế hay một số cường quốc khác vào khu vực.

- Không chấp nhận tiếng nói thống nhất ngay cả của ASEAN.

- Thỏa hiệp riêng lẻ với từng quốc gia, nếu đạt được sẽ làm tan rã liên minh ASEAN.

Chiến thuật mà Hoa Lục xử dụng là vừa đe dọa vừa ve vãn. Đe dọa là phô diễn sức mạnh quân sự, đóng thêm hàng không mẫu hạm, trên đất liền tập trung quân ở biên giới, trên biển cho tầu Ngư Chính phá phách các dàn khoan hoặc thăm dò dầu khí, bắt giữ hoặc giết hại ngư dân các nước trong vùng, đặc biệt là Việt Nam, đồng thời áp lực về kinh tế. Thậm chí còn đe dọa cả các quốc gia có thiện cảm hoặc liên kết với các quốc gia trong vùng như cảnh cáo tàu chiến của Ấn Độ khi tàu này đang di chuyển trong vùng biển Việt Nam, sau khi thăm viếng Nha Trang, cảnh cáo cả Hoa Kỳ là không nên can thiệp vào Biển Đông. Ve vãn là hứa hẹn một vài tương nhượng nào đó, viện trợ thương mại, hoặc đầu tư v.v…

Xin đừng đánh giá thấp Hoa Lục. Họ có thể sẽ thành công với kế Liên Hoành. Xét trong chín nước của ASEAN chúng ta thấy Kampuchia, Lào hoàn toàn đứng trung lập vì họ không mất gì, được gì trong biến động này. Miến Điện dù Tổng Thống Thein Sein và 13 bộ trưởng đã tới thăm Ấn Độ vào ngày 14/10/2011 nhưng vẫn còn trong vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh. Brunei thì quá nhỏ. Mã Lai và Nam Dương không có tranh chấp về biển. Tân Gia Ba tuy cương quyết nhưng ở quá xa. Tóm lại chỉ còn hai quốc gia đứng mũi chịu sào là Việt Nam và Phi Luật Tân. Hoa Lục có thể “xé lẻ” Phi Luật Tân bằng cách ký kết hiệp ước bất tương xâm, nhượng bộ chú ít về lãnh hải mà thực ra những vùng biển này không phải của Hoa Lục mà là của Việt Nam. Nói khác đi Hoa Lục theo sách lược “mượn hoa cúng Phật” hay “của người phúc ta”, đồng thời hứa hẹn viện trợ kinh tế, tài chánh, mở rộng thị trường cho Phi Luật Tân. Một khi đã “xé lẻ” được Phi Luật Tân thì Việt Nam chơ vơ một mình và liên minh ASEAN sứt mẻ rồi tan vỡ hoặc trở thành tổ chức “bù nhìn”.

Thế giới không phải không biết tới điều này cho nên đã phải nhảy vào. Tại sao phải nhảy vào? Không cần giải thích dông dài, chúng ta có thể nói ngay: Nếu Hoa Lục khống chế được Biển Đông thì ba nước lâm nguy trước tiên là Nhật Bản, Đài Loan và Nam Hàn rồi sau đó tới Đông Nam Á rồi Hoa Kỳ, Úc Châu. Còn Ấn Độ thì từ từ chết sau. Nhìn vào bản đồ hàng hải chúng ta có thể khẳng định tuyến đường từ Eo Biển Đài Loan rồi dọc theo Biển Đông tới Eo Biển Malacca là sinh lộ của toàn thế giới. Năm xưa liên minh sáu nước tan vỡ và bị Tần tiêu diệt là vì liên minh này không có điểm tựa. Giả dụ, lúc bấy giờ có một cường quốc sức mạnh tương đương với Tần hỗ trợ thì Liên Minh Lục Quốc vững như bàn thạch. Ngày nay cũng thế, dù liên minh ASEAN có đoàn kết và quyết tâm như thế nào đi nữa, nếu đứng một mình, sớm muộn gì cũng tan như bọt nước dưới áp lực của Hoa Lục. Muốn sống còn, Liên minh ASEAN cần một điểm tựa, nói khác đi liên minh ASEAN phải được đặt vào thế chân vạc.

Do tình cờ của lịch sử, do những biến cố chính trị đẩy đưa, một thế chân vạc mới vừa hình thành mà cả thế giới đều nhận rõ đó là Trục Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ. Từ khi giành được độc lập từ tay Thực dân Anh năm 1947, Ấn Độ đã thí nghiệm thành công bom nguyên tử nổ ngầm dưới đất. Với dân số gần 1.2 tỷ (thống kê 2006) có hỏa tiễn tầm trung mang đầu đạn hạt nhân, hải quân đứng hàng thứ tư thế giới, có hàng không mẫu hạm và phát triển nhanh chóng về kỹ nghệ, nhưng Ấn Độ luôn luôn nghị kỵ Hoa Kỳ và không bao giờ tập trung vào khu vực Á Châu, đặc biệt Đông Nam Á. Ấn Độ coi như sống bên lề Á Châu mà chỉ chú tâm tới Nam Mỹ, Phi Châu v.v…Thế nhưng cục diện đó đã thay đổi khi Thủ Tướng Singh của Ấn Độ thăm Hoa Kỳ vào Tháng 10, 2009 rồi TT. Obama – vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ công du Ấn Độ vào Tháng 11, 2010. Đặc biệt chuyến thăm Ấn Độ của Ngoại Trưởng Hillary Clinton vào Tháng 7, 2011 trong đó bà nói rõ Ấn Độ không phải chỉ “Nhìn Về Hướng Đông” mà cần phải hành động. Đó là thông điệp mạnh mẽ cho biết Hoa Kỳ chấp nhận và cần sự hiện diện quân sự của Ấn Độ tại Biển Đông. Trước đó vào ngày 24 Tháng 11, 2008 Nữ Tổng Thống Ấn Độ cũng đã thăm Việt Nam. Rồi vào ngày 12 Tháng 5, 2001 hai tàu chiến Ấn Độ cập bến Nha Trang và Trục Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ ra đời. Chúng ta có thể tiên liệu những ngày tháng sắp tới đây, các viên chức cao cấp của Ấn Độ sẽ lần lượt thăm viếng các quốc gia Đông Nam A, tàu chiến Ấn Độ sẽ tiếp tục hiện diện tại Biển Đông để bảo vệ các giàn thăm dò dầu khí và thao diễn chung với các nước trong vùng, song song với Hải Quân Hoa Kỳ. Tại sao Thế Chân Vạc này lại hình thành mau chóng như vậy? Có hai lý do:

Thứ nhất: Theo BBC, do mối quan hệ bền vững với Việt Nam trong suốt 40 năm qua, Ấn Độ đã ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO và ghế ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An LHQ năm 2007, Việt Nam cũng ủng hộ Ấn Độ trở thành thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An. Theo chuyên gia về an ninh Iskander Rehman, “Ấn Độ đã và đang hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực hải quân nhằm phá bỏ thế độc tôn của Trung Quốc tại Biển Đông. Một điều thú vị là không quân và hải quân Việt Nam và Ấn Độ xử dụng nhiều trang bị của Nga nên dễ dàng trao đổi cho nhau. Delhi đã giúp sửa chữa và nâng cấp 125 chiến đấu cơ Mig 21. Bên cạnh việc huấn luyện thủy thủ và phi công cho Việt Nam, năm 2005 Hải Quân Ấn Độ đã cung cấp cho Việt Nam 150 tấn phụ tùng cho các tàu chiến hạng Petya và OSA-11. Ấn Độ cũng sẽ giúp huấn luyện thủy thủ đoàn cho các tàu ngầm mà Việt Nam đang đặt mua từ Nga…Hai nước có thể cùng thiết lập hệ thống báo động dọc bờ biển Việt Nam và Ấn Độ có thể điều chiến đấu cơ tuần tra tới Việt Nam, không chỉ theo dõi các tuyến hàng hải quan trọng ở Biển Đông và Eo Biển Malacca, mà còn để phát hiện các hoạt động tàng hình ở phía dưới.” (BBC)

Thứ hai: Ấn Độ không thể nào quên cuộc chiến tranh với Hoa Lục năm năm 1962. Những năm gần đây Hoa Lục đã cho tàu chiến lảng vảng vào Ấn Độ Dương để “hỏi thăm sức khỏe” Ấn Độ. Hoa Lục luôn luôn dùng gọng kìm Pakistan để làm khó dễ Ấn Độ. Đặc biệt khi mối liên hệ giữa Pakistan-Hoa Kỳ trở nên chua chát, Pakistan đã cho mời ngay Bộ Trưởng Công An Hoa Lục tới thăm và tuyên bố thẳng thừng nếu Hoa Kỳ thù nghịch với Pakistan thì Pakistan sẽ liên kết ngay với Hoa Lục. Ấy là chưa kể gọng kìm Miến Điện ngay cạnh sườn phía Đông cũng làm cho Ấn Độ vô cùng khó chịu. Ấn Độ chính là con “cọp ngủ” và ngày nay đã “biết thức dậy” và mạnh dạn tiến về Đông Nam Á. Đây là cơ hội bằng vàng cho Ấn Độ triển khai kế hoạch phòng thủ và xây dựng vị trí cường quốc của mình tại Á Châu.

Câu hỏi đặt ra ở đây: Tại sao lại là thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ mà không phải là Asean – Hoa Kỳ – Nhật Bản hoặc Asean – Hoa Kỳ – Úc Châu? Xin thưa:

1) Nhật Bản bị ràng buộc bởi Hiến Pháp ngăn cấm không cho đem binh sĩ ra nước ngoài. Hơn thế nữa hình ảnh xâm lược Á Châu của quân phiệt Nhật năm 1945 vẫn còn đó. Việc tăng cường binh bị của Nhật khiến các quốc gia Đông Nam Á nhớ lại cơn ác mộng năm xưa. Nhật nên đóng vai trò hỗ trợ cho Thế Chân Vạc và tạo thế gọng kìm vào cạnh sườn Hoa Lục hơn là đem tàu chiến vào Biển Đông.

2) Còn Úc Châu thì nhân lực và tài lực yếu kém chỉ có khả năng hỗ trợ cho Thế Chân Vạc, chia xẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ và Ấn Độ, đồng thời chặn con đường tiến quân hoặc rút lui khi các hạm đội của Hoa Lục tiến vào Eo Biển Malacca hoặc từ Ấn Độ Dương kéo về. Ngoài ra do yếu tố địa lý, cho dù Nhật Bản hay Úc Châu có đứng vào Thế Chân Vạc cũng không thể có ưu thế hơn Ấn Độ. Giả sử nếu tàu chiến của Ấn Độ bị làm khó dễ ở Biển Đông, Ấn Độ chỉ cần cho dàn khoảng 500,000 quân ở biên giới thì Hoa Lục cũng phải điều động khoảng nửa triệu quân tới đó. Chắc chắn lúc đó sức mạnh quân sự của Hoa Lục ở Biển Đông sẽ bị phân tán rất nhiều. Do đó có thế nói cho tới bây giờ, liên minh Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ là liên minh hoàn hảo nhất. 3) Theo lịch sử, vì Ấn Độ không phải kẻ thù của Tây Phương cho nên Thế Chân Vạc này còn được hỗ trợ từ xa – trước mắt chúng ta nhận thấy có Đức và Hòa Lan. Anh, Pháp còn đang đứng nhìn vì vướng mắc kinh tế, tài chính với Hoa Lục. Nhưng ở vào thời điểm chín muồi nào đó, chắc chắn cũng sẽ ngả theo Liên Minh Chân Vạc này.

Tạm kết luận:

Khi một liên minh quân sự hình thành chắc chắn không phải để chơi. Lịch sử thế giới đã chứng tỏ rằng liên minh quân sự ra đời là để ngăn chặn hay phát khởi một cuộc chiến tranh. Liên minh càng lớn thì cuộc chiến tranh càng khốc liệt. Liên Minh Áo-Hung-Phổ-Ottaman và Liên Minh Đức-Ý-Nhật trong Đệ I và Đệ II Thế Chiến đã minh chứng điều này. Trong hơn thập niên qua, thế giới cũng đã chứng kiến một vài liên minh quân sự hình thành rồi phát khởi vài cuộc chiến tranh mà số tử vong cũng đã lên tới vài triệu người đó là Liên Minh Mỹ-Anh trong chiến tranh Iraq, Liên Minh Đơn Phương Mỹ một mình đánh trước rồi lôi kéo đồng minh sau trong chiến tranh Aghanistan, Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) và một số quốc gia Hồi Giáo trong chiến tranh Libya.

Với thời gian qua đi, theo dòng ký ức mờ phai của nhân loại, dù mau quên thế nào đi nữa, chắc chắn lịch sử thế giới cũng không thể nào không nhớ tới Liên Minh Chân Vạc mới đang hình hành tại Á Châu. Tại sao vậy? Bởi vì:

Nếu thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ bền vững và thành công thì Đông Nam Á nói riêng và thế giới nói chung sẽ hưởng một nền hòa bình lâu dài. Lành thay!Nếu thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ yếu đi và thất bại, thế giới sẽ phải đương đầu với Đệ III Thế Chiến khốc liệt hơn cả Đệ I và Đệ II Thế Chiến. Bất hạnh thay!

Đào văn Bình

TÂM SỰ CỜ VÀNG



Lại hết một năm sống tha hương.
Băm mấy xuân qua vẫn đọan trường.
Cộng sản vẫn còn, ta chưa chết.
Nhưng biết bao giờ thấy cố hương?
Quốc hận hằng năm vẫn nhớ ngày
Ôm niềm uất hận lết sang đây,
Ngày xưa nhớ cái năm năm bốn
Cũng tại cộng nô phải chạy dài.
Số kiếp di cư đến hai lần
Hai lần nhưng vạn nỗi gian truân.
Lần sau còn nhục hơn lần trước,
Vứt cả ba lô cởi cả quần.
Cũng tại ta xui mới thế này
Thầy ta đừng chạy chúng biết tay
Phải chi thầy thí vài trăm triệu
Đâu phải chạy te vứt cả giày.
Dù bỏ chạy te vứt cả giày.
Nhưng ta nào có sợ chúng bay.
Chẳng qua cũng chỉ vì thời vận
Tại số nên ta mới như vầy.
Ta quyết không quên mối hận này.
Con không làm được cháu ta thay
Cờ vàng ta phất không ngừng nghỉ.
Rồi sẽ có ngày chúng biết tay
Ta vẫn cờ vàng vẫn duyệt binh
Vẫn hát vang lên khúc quân hành
Để cháu con ta luôn ghi nhớ
Hình ảnh hào hùng lớp cha anh.
Dù là quần áo chợ si đa
Dù chẳng súng gươm cũng gọi là
Quân đội cộng hòa thời oanh liệt,
Để ta ôn lại quãng đời ta.
Ta phất cờ vàng giữa cờ hoa
Cờ hoa cứu giúp chở che ta
(Không có cờ hoa ta lạnh gáy
Cộng sản rập rình rét bỏ cha.)
Nhớ về hòn ngọc viễn đông xưa
Nơi ta hoan lạc suốt bốn mùa
Tên em ngày ấy không còn nữa
Còn lại nơi này cái little.
Thế mà chúng cũng chẳng buông tha.
Theo đến nơi này xứ cờ hoa.
Cái little kia nào có tội
Chúng cũng vặt luôn tức bỏ bà.
Mấy chục năm ròng giữa chốn đây.
Eo phe (welfare) vẫn lãnh vẫn ăn mày.
Phút tem (food stamp) không có đời ta tận
Bởi thế cho nên phải lụy thầy.
Ta chạy sang đây đã cùng đường
Thế nên ta vẫn phải khói hương
Tâm nguyện khấn cầu ông thánh Mỹ
Phù hộ ta tròn mộng hồi hương.
Thầy ta ta dựng tượng phụng thờ
Cũng vì ơn nghĩa những năm xưa
Thế mà chúng bảo “quân chơi đĩ ”
Năm mươi tám vạn hồn có biết chưa
Hỡi chúa hỡi thần hỡi Ala
Hỡi Mô ha mét hỡi Di đà,
Cộng nô láo xược không vặn cổ
Lại cứ vặn nhầm cổ chúng ta.
Thà ta nô lệ xứ cờ hoa
Quyết không về lại chốn quê nhà
Làm mướn, cu li, hay rửa chén,
Rửa đít cho thầy cũng sướng cha.
Rửa đã bao năm rửa mòn tay,
Nhưng vẫn không quên rửa hận này.
Đời ta không được, đời con cháu,
Quyết diệt cho tiêu bọn chúng mày.
Trung cộng âm mưu chiếm Trường Sa.
Đã lâu mới có dịp hò la.
Cầu trời nó chiếm luôn Hà nội.
Cho đáng bọn mày hả dạ ta.
Trung cộng to đầu thế mà ngu.
Đất liền không lấy lấy san hô.
Sao bay không chiếm luôn cả nước,
Chẳng lẽ bọn mày sợ chúng ư.
Bay cứ đánh đi có chúng tao
Tuy tao chẳng có tí quân nào
Nhưng tao có cái mồm to khỏe.
Chống cộng nhưng tao khoái ba tàu.
Ta có cờ vàng có ống loa
Có kèn có trống có cờ hoa.
Tuy hô đả đảo thằng trung cộng
Nhưng chống chỉ là Cộng xứ ta.
Chẳng lẽ xuống đường chống tụi bay
Mà không đả đảo thật hăng say.
Thì ai mà biết ta yêu nước.
Nhưng tấm lòng ta khoái chúng mày.
Hàng hóa Việt Nam bán dẫy đầy
Nhưng ta cương quyết phải tẩy chay
Thà ta ủng hộ hàng tàu chệt
Cho lũ cộng mày chết trắng tay.
Nhớ nước ta càng thêm uất ức,
Thương nhà tiếc mãi cái vila.
Sang đây cam phận thằng ở đợ
Cũng tại bọn mày lũ cộng nô
Lạy thánh A la lạy chúa tôi
Con chống bao năm quá đuối rồi
Sức kiệt lực tàn đành chống gậy.
Nay còn chỉ mỗi cái mồm thôi.
Xin chúa hộ phù lũ chúng con
Vặt cho chết hết lũ tham tàn
Mai này phục quốc con xây tượng
Xây nhà thờ mới đẹp to hơn.
***
Mấy chục năm ròng giữa chốn đây.
Bưng bê rửa bát đã bao ngày.
Vẫn chưa rửa được niềm căm hận
Ôi biết sao vơi mối thù này.

Cây Cần Sa, Một Dược Thảo Đa Năng Dụng




Cây Cần Sa, Một Dược Thào Đa Năng Dụng, bị gán tên Ma Túy chỉ vì tính đa năng dụng của nó đe đọa quyền lợi và quyền lực của tập đoàn lợi nhuận quyền chính.

http://www.tpuc.org/the-marijuana-conspiracy/



Cây CẦN SA, không phải tên là "Marijuana"- marijuana là thổ ngữ của Mễ Tây Cơ không dính gì đến cây Cần Sa này.

Nguồn cây thảo dược này được biết xuất hiện từ thời cổ Ai Cập trên 5 ngàn năm, dùng trong nhiều công nghệ chứ không chỉ là dược liệu,

Dân cổ Trung Hoa cũng tận dụng khả năng đa dụng của loài thảo dược này. Khi Mỹ Châu "bị khám phá" , trong thời đầu tiên khi cây "thước lá" được coi là bảo bối của nguồn lợi nhậun tại đây- xuất cảng thuốc lá ngược về Anh và Âu Châu- thì cây Cần Sa, hay theo đúng tên người Âu Mỹ gọi nó-cây HEMP- một thời gian sau đó cũng được TẬN DỤNG TRONG MỌI CÔNG NGHỆ của toàn xã hội Mỹ, .

Chính Thomas Jefferson là người biết tính hũu ích của Cần Sa, đã dấu hạt giống cây Cần Sa từ Trung Hoa, qua Pháp rồi đem vào Mỹ và trồng ở khu vườn của mình.

Khi đám tập đoàn tài phiệt Mỹ ngoi lên từ dầu hỏa, dược phẩm và kỹ nghệ chiến tranh, chúng phải hủy diệt cây Cần Sa đẻ độc quyền lợi nhuận. Một chiến dịch lấy thổ ngữ Mễ Tây Cơ "marijuana"hư cấu đặt lên cho cây HEMP rằng nó là nguồn ma túy của thổ dân Mễ.. Hàng loạt "thông tin chính qui" hư cấu về sự nguy hiểm đe dọa của cây HEMP (cần sa) được tung ra,- và cuối cùng dưới sự ủng hộ của đám quần chúng ngu xuẩn u mê, cây HEMP, trở thành "marijuana" và bị quốc cấm cho đến nay!

Nhưng sự kiện và sự thật vẫn không thể che lấp mãi được. Hàng loạt các nghiên cứu khắp Âu Mỹ trong ít nhất gần 50 năm qua dẵ minh chứng Cần Sa chỉ có LỢI trong nhiều lãnh vực đời sống, chứ không có HẠI như cây Thuốc Lá.

Ai đã từng đến thánh phố Amsterdam trước khi có sự kiện thay đổi "luật" đều biết Cần Sa bán và dùng tự do.. không có vấn đề gì hủy hại hết cả.

Hiện nay cây Cần Sa đang được tháo gỡ "tình trạng quốc cấm" khắp Âu Mỹ và Châu Mỹ La Tinh nhưng vẫn không được pháp luật trả lại vị trí như là một cây loài thảo mộc bính thường Tại sao?

Hút cần sa, chỉ là một mặt nhỏ của Cần Sa. Ứng dụng Công Kỹ Nghệ của nó cho đời sống con người xã hội trong nhiều lãnh vực mới đe dọa nguồn tài lực và quyền chính hiện hành. Cây Cần Sa này (Hemp) còn làm giấy, dầu, ván ép, vải v.v với cương độ và bền độ cao hơn bất kỳ các chất nào khác đang hiện hành. Và cây Cần Sa vừa dễ trồng vừa lớn nhanh... trở thành sẵn có rẻ cho mọi người...chính sự sẵn có và rẻ là mối ĐE DỌA của QUYỀN LỢI và QUYỀN LỰC!


www.hempwickbeeline.com

Hemp or industrial hemp is a Cannabis plant species (Cannabis sativa). Historically, hemp has been used as a source of fibre and oil. Cannabis extracts have also been used in medicine for a variety of ailments. Hemp is different to other varieties of Cannabis sativa, commonly referred to as marijuana.

Hemp as a food - Food Standards Australia New Zealand

Không chỉ có cây cần Cần Sa, mà TẤT CẢ NHỮNG GÌ THIÊ NHIÊN HŨU ÍCH NHU CẦU cho nhân loại đều bị chúng tìm cách khống trị kiểm soát. Vì nền tảng của quyền lực là KIỂM SOÁT TÀI NGUYÊN nguồn nhu cầu.

Hãy nhớ lại Nicolas Tesla, người tạo ánh sáng cho nhân loại, phải bị trừ khử vì Tesla có khả năng làm ĐIỆN trở thành MIỄN PHÍ và DƯ THỪA cho toàn dân số địa cầu này. Và hầu như những loại vật dụng nào phổ cập ích lợi sẵn có cho nhân loại đều là quốc cấm nếu không bị kiểm soát độc quyền hóa theo "pháp lệnh".

Và ngẫm lại một sự kiện xem ra nghịch lý trong mỗi cá nhân chuýng ta:

Tôn giáo tín lý mà hiện nay đại đa số nhân loại "noi theo" đều nói đến "HÒA BÌNH, BÁC ÁI, TỪ BI, MỌI NGƯỜI LÀ ANH EM".. hầu như đều lên án, ngăn cấm BẠO LỰC, DỐI TRÁ, bóc lột V.V

Thế nhưng hầu như tất cả những ai chủ trương vận động yêu hòa bình, liên kết tình anh em nhân loại, lên án chiến tranh, lên án bóc lột v.v đều không chỉ trở thành KẺ THÙ của tập đoàn thiểu số lợi nhuận và quyền lực. mà còn bị đa số quần chúng mỉa mai xa lánh!!! Như chúng ta hiện thấy đang xảy ra cho bất cứ ai yêu hòa bình, kêu gọi tình anh em, xây dựng sự san sẻ giữa nhân loại đều đang bị tấn công loại trừ. trù dập, tù tội v.v hầu như không có ngoại lệ.

Trong khi đó một cách mỉa mai, nhân loại đẻ ra cái giải Nobel Hòa Bình thổ tả, nhưng cũng rõ ràng nhấn mạnh đến nhu cầu GIẢI GIỚI QUÂN ĐỘI CHÍNH QUI, và XÂY DỰNG TÌNH ANH EM GIỮA CÁC QUỐC GIA.... Nhưng cửa mồm của bọn "lãnh đạo" vẫn là muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh... Thế là ngân sách quân viện vũ khí cứ gia tăng, hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, luật pháp nhà nước càng gày càng bạo ngược phi dân chủ nhân quyền ngay với người dân trong nước, trong xã hội, chứ không riêng gì "kẻ thù người ngoài".... và hòa bình vẫn không có!

Chủ trương của tập đoàn quyền chính là KHỐNG TRỊ. Để khống trị, phải nô lệ hóa con người qua nguồn nhu cầu. Chúng chỉ nắm nguồn nhu cầu khi biến MỌI THỨ HŨU ÍCH CẤN THIẾT thành KHAN HIẾM và KIỀM SOÁT NHỮNG TÀI NGUYÊN NHU CẦU này!

Chúng đã thành công trong việc ĐỘC QUYỀN KIỂM SOÁT ĐẤT ĐAI ( nhà ở, vườn tược ) nghĩa là độc quyền kiểm soát nguồn Nhà Ở, nguồn sản xuất thực phẩm tự nhiên- vườn tược nông trại. Chúng ta có thấy chúng đang tiến dần đến kiểm soát nguồn NƯỚC, không chủ ao hồ, biển mà ngay cả nước mưa, và KHÔNG KHI chăng?

Chúng ta có thấy tất cả ngững thứ đang bị độc quyền kiểm soát mà chúng ta, người dân của địa cầu này, phải nai lưng hết đời để xin xỏ mua mướn v.v là của thiên nhiên sẵn có cho mọi người sử dụng, không ai làm ra? TẠI SAO Chúng lại đang hô hoán NHÂN MÃN và KHAN HIẾM LƯƠNG THỰC

Tôi còn nhớ cách đây không lâu, cả một luồng tin về nhân mãn, khan hiếm lương thực được tung ra và vận động từ những tên quyền lực như hoàng gia Anh, Bill Gtae, Ted Turner, các đài báo chính qui v.v Và cũng có một nhóm nghiên cúu phản biện dẫn chứng rằng mặt đất này cón mênh mông lắm, nguồn lương thực tự nhiên còn quá rộng lớn. Vấn đề là nguyên lý và phương pháp phân phối bị bọn CHÍNH TRỊ TÀI PHIỆT nắm độc quyền thao túng mà thôi

Nhóm này lấy một thí dụ điển hình. Với nhu cầu că bản mỗi một cá nhân cần một mảnh đất 100 m2 (dài 10m x rộng 10m) đất để làm nhà và tự trồng trọt một số cây cỏ cần thiết... Thì chỉ với diện tích của bang Texas (696,241,000,000 m2) cũng có khả năng chứa toàn bộ dân số địa cầu hôm nay một cách thoải mái. Và sự thật đúng là như vậy!

Diện tích Texas 696,241,000,000m2 /chia cho mỗi cá nhân 100m2 = 6,962,410,000 người

Và nếu chúng không đẻ ra những luât quái đản để ngăn chặn, giới hạn khà năng chăn nuôi trồng cấy của người dân, quyền tự nhiên sở hũu một miếng đất căn bản, thì làm sao có thể khan hiếm thực phẩm hay nhà cửa?

Đó là chưa nói tiến trình tiến hóa tư duy đã khiến dân số giàm dần theo mức thăng tiến đời sống. ý niệm con cái nối giòng đã bị bỏ hẳn, nhân số gia đình nhỏ lại , hoặc không cần "gia đình" theo truyền thống. Yêu nhau ăn ở với nhau là đủ. Có một đứa con không cần trai gái. Hoặc chẳng cần đẻ con, nuôi con thiên hạ. Bằng chứng rõ ràng này đang xảy ra nơi các xã hội tiến bộ.

Chưa kể một hiện tượng sinh hóa chưa rõ nguyên nhân là số đếm tinh trùng của nam giới đang giảm. Có nghĩa là khả năng sinh sản của con người đang giảm, ít nhất nơi Nam giới. Còn nhiều nghiên cúu để tìm ngfuye6n nhân do hóa học trong thực phẩm, không khí , hay do nhận thức chuyển hóa di tính (consciousness modifying switcher genes). Trò hô hoán NHÂN MÃN và KHAN HIẾM LƯƠNG THỰC là một thủ thuật gian manh mà những bộ óc ngu xuẩn tàn độc và ích kỷ luôn muốn tin là thật để bảo vệ đặc quyền.

Từ chuyện Cần Sa, chúng ta đã có thể thấy cả một phương thức gian manh tiến hành độc quyền không trị bằng tuyên tuyền và côn lấp sự thật như thế nào.

Tất cả là cuộc đời, cuộc sống của chính chúng ta. Do đó, cũng tùy ở mỗi cá nhân chúng ta quyết đ5nh hành xử như thế nào. Quyết định đó sẽ xác chứng nhân cách, nhân dáng và nhân tính của mỗi chúng ta đã vượt lên trên được loài vật hoang dã hay chưa.

Nhân Chủ
20-4-2015


The Marijuana Conspiracy
(Nothing to do with its effects on the mind and body)
By Doug Yurchey – Article from The Dot Connector

They say marijuana is dangerous. pot is not harmful to the human body or mind. marijuana does not pose a threat to the general public. Marijuana is very much a danger to the oil companies, alcohol, tobacco industries and a large number of chemical corporations. Big businesses, with plenty of dollars and influence, have suppressed the truth from the people. The truth is, if marijuana was utilized for its vast array of commercial products, it would create an industrial atomic bomb! The super rich have conspired to spread misinformation about the plant that, if used properly, would ruin their companies.
Where did the word ‘marijuana’ come from? In the mid 1930s, the M-word was created to tarnish the good image and phenomenal history of the hemp plant – as you will read. The facts cited here, with references, are generally verifiable in the Encyclopedia Britannica which was printed on hemp paper for 150 years:


✔ All schoolbooks were made from hemp or flax paper until the 1880s. (Jack Frazier. Hemp Paper Reconsidered. 1974.)


✔ It was legal to pay taxes with hemp in America from 1631 until the early 1800s. (LA Times. Aug. 12, 1981.) ✔ Refusing to grow hemp in America during the 17th and 18th centuries was against the law! You could be jailed in Virginia for refusing to grow hemp from 1763 to 1769 (G. M. Herdon.Hemp in Colonial Virginia).
✔ George Washington, Thomas Jefferson and other founding fathers grew hemp. (Washington and Jefferson Diaries. Jefferson smuggled hemp seeds from China to France then to America.)
✔ Benjamin Franklin owned one of the first paper mills in America, and it processed hemp. Also, the War of 1812 was fought over hemp. Napoleon wanted to cut off Moscow’s export to England. (Jack Herer. Emperor Wears No Clothes.)
✔ For thousands of years, 90% of all ships’ sails and rope were made from hemp. The word ‘canvas’ is Dutch for cannabis. (Webster’s New World Dictionary.) ✔ 80% of all textiles, fabrics, clothes, linen, drapes, bed sheets, etc.,were made from hemp until the 1820s, with the introduction of the cotton gin.
✔ The first Bibles, maps, charts, Betsy Ross’s flag, the first drafts of the Declaration of Independence and the Constitution were made from hemp. (U.S. Government Archives.)
✔ The first crop grown in many states was hemp. 1850 was a peak year for Kentucky producing 40,000 tons.Hemp was the largest cash crop until the 20th century. (State Archives.)
✔ Oldest known records of hemp farming go back 5000 years in China, although hemp industrialization probably goes back to ancient Egypt.
✔ Rembrandt’s, Van Gogh’s, Gainsborough’s, as well as most early canvas paintings, were principally painted on hemp linen.
✔ In 1916, the U.S. Government predicted that by the 1940s all paper would come from hemp and that no more trees need to be cut down. Government studies report that 1 acre of hemp equals 4.1 acres of trees. Plans were in the works to implement such programs. (U.S. Department of Agriculture Archives.)
✔ Quality paints and varnishes were made from hemp seed oil until 1937. 58,000 tons of hemp seeds were used in America for paint products in 1935. (Sherman Williams Paint Co. testimony before the U.S.Congress against the 1937 Marijuana Tax Act.)
✔ Henry Ford’s first Model-T was built to run on hemp gasoline and the car itself was constructed from hemp! On his large estate, Ford was photographed among his hemp fields. The car, ‘grown from the soil,’ had hemp plastic panels whose impact strength was 10 times stronger than steel. (Popular Mechanics, 1941.)
✔ In 1938, hemp was called ‘Billion Dollar Crop.’ It was the first time a cash crop had a business potential to exceed a billion dollars. (Popular Mechanics, Feb. 1938.)
✔ Mechanical Engineering Magazine (Feb. 1938) published an article entitled ‘The Most Profitable and Desirable Crop that Can be Grown.’ It stated that if hemp was cultivated using 20th century technology, it would be the single largest agricultural crop in the U.S. and the rest of the world.
The following information comes directly from the United States Department of Agriculture’s 1942 14-minute film encouraging and instructing ‘patriotic American farmers’ to grow 350,000 acres of hemp each year for the war effort:
“…[When] Grecian temples were new, hemp was already old in the service of mankind. For thousands of years, even then, this plant had been grown for cordage and cloth in China and elsewhere in the East. For centuries prior to about 1850, all the ships that sailed the western seas were rigged with hempen rope and sails. For the sailor, no less than the hangman, hemp was indispensable… Now with Philippine and East Indian sources of hemp in the hands of the Japanese… American hemp must meet the needs of our Army and Navy as well as of our industries… The Navy’s rapidly dwindling reserves.When that is gone, American hemp will go on duty again; hemp for mooring ships; hemp for tow lines; hemp for tackle and gear; hemp for countless naval uses both on ship and shore. Just as in the days when Old Ironsides sailed the seas victorious
with her hempen shrouds and hempen sails. Hemp for victory!”
Certified proof from the Library of Congress, found by the research of Jack Herer, refutes claims of other government agencies that the 1942 USDA film ‘Hemp for Victory’ did not exist.
Hemp cultivation and production do not harm the environment. The USDA Bulletin #404 concluded that hemp produces four times as much pulp with at least four to seven times less pollution.
From Popular Mechanics, February 1938:
“It has a short growing season… It can be grown in any state… The long roots penetrate and break the soil to leave it in perfect condition for the next year’s crop. The dense shock of leaves, 8 to 12 feet above the ground, chokes out weeds. …Hemp, this new crop can add immeasurably to American agriculture and industry.” In the 1930s, innovations in farm machinery would have caused an industrial revolution when applied to hemp. This single resource could have created millions of new jobs generating thousands of quality products. Hemp, if not made illegal,would have brought America out of the Great Depression.


THE CONSPIRACY
William Randolph Hearst (Citizen Kane) and the Hearst Paper Manufacturing Division of Kimberly Clark owned vast acreage of timberlands. The Hearst Company supplied most paper products. Patty Hearst’s grandfather, a destroyer of nature for his own personal profit, stood to lose billions because of hemp.
In 1937, DuPont patented the processes to make plastics from oil and coal. DuPont’s Annual Report urged stockholders to invest in its new petrochemical division. Synthetics such as plastics, cellophane, celluloid, methanol, nylon, rayon, Dacron, etc., could now be made from oil.Natural hemp industrialization would have ruined over 80% of DuPont’s business.
Andrew Mellon became Hoover’s Secretary of the Treasury and DuPont’s primary investor. He appointed his future nephew-in-law,Harry J.Anslinger, to head the Federal Bureau of Narcotics and Dangerous Drugs.
Secret meetings were held by these financial tycoons. Hemp was declared dangerous and a threat to their billion dollar enterprises. For their dynasties to remain intact, hemp had to go. These men took an obscure Mexican slang word: ‘marijuana’ and pushed it into the consciousness of America.


MEDIA MANIPULATION
A media blitz of ‘yellow journalism’ raged in the late 1920s and 1930s. Hearst’s newspapers ran stories emphasizing the horrors of marijuana. The menace of marijuana made headlines. Readers learned that it was responsible for everything from car accidents to loose morality.
Films like Reefer Madness (1936), Marijuana: Assassin of Youth (1935) and Marijuana: The Devil’s Weed (1936) were propaganda designed by these industrialists to create an enemy. Their purpose was to gain public support so that anti-marijuana laws could be passed.
Examine the following quotes from The Burning Question, aka Reefer Madness:

a violent narcotic;
acts of shocking violence;
incurable insanity;
soul-destroying effects;
under the influence of the drug he killed his entire family with an ax;
more vicious, more deadly even than these soul-destroying drugs (heroin, cocaine) is the menace of marijuana!Reefer Madness did not end with the usual ‘the end.’ The film concluded with these words plastered on the screen:‘Tell your children.’
In the 1930s, people were very naive, even to the point of ignorance. The masses were like sheep waiting to be led by the few in power. They did not challenge authority. If the news was in print or on the radio, they believed it had to be true. They told their children, and their children grew up to be the parents of the babyboomers.
On April 14, 1937, the prohibitive Marijuana Tax Law, or the bill that outlawed hemp, was directly brought to the House Ways and Means Committee. This committee is the only one that can introduce a bill to the House floor without it being debated by other committees. The Chairman of the U.S. Senate, Ways and Means Committee, at the time,Robert Doughton, was a DuPont supporter. He insured that the bill would pass Congress.
Dr. James Woodward, a physician and attorney, testified too late on behalf of the American Medical Association. He told the committee that the reason the AMA had not denounced the Marijuana Tax Law sooner was that the Association had just discovered that marijuana was hemp.
Few people, at the time, realized that the deadly menace they had been reading about on Hearst’s front pages was in fact passive hemp. The AMA understood cannabis to be a medicine found in numerous healing products sold over the last hundred years.
In September of 1937, hemp became illegal. The most useful crop known became a drug and our planet has been suffering ever since.
Congress banned hemp because it was said to be the most violence-causing drug known. Harry Anslinger, head of the Drug Commission for 31 years, promoted the idea that marijuana made users act extremely violent. In the 1950s, under the Communist threat ofMcCarthyism, Anslinger then said the exact opposite: marijuana will pacify you so much that soldiers would not want to fight.
Today, our planet is in desperate trouble. Earth is suffocating as large tracts of rain forests disappear. Pollution, poisons and chemicals are killing people. These great problems could be reversed if we industrialized hemp. Natural biomass could provide all of the planet’s energy needs that are currently supplied by fossil fuels.We have consumed 80% of our oil and gas reserves.We need a renewable resource. Hemp could be the solution to soaring gas prices.

THE WONDER PLANT
Hemp has a higher quality fiber than wood fiber. Far fewer caustic chemicals are required to make paper from hemp than from trees. Hemp paper does not turn yellow and is very durable. The plant grows quickly to maturity in a season where trees take a lifetime.

All plastic products should be made from hemp seed oil. Hempen plastics are biodegradable! Over time, they would break down and not harm the environment. Oil-based plastics, the ones we are very familiar with, help ruin nature. They do not break down and will do great harm in the future. The process to produce the vast array of natural (hempen) plastics will not ruin the rivers as DuPont and other petrochemical companies have done. Ecology does not fit in with the plans of the oil industry and the political machine.Hemp products are safe and natural.
Medicines should be made from hemp. We should go back to the days when the AMA supported cannabis cures.‘Medical Marijuana’ is given out legally to only a handful of people while the rest of us are forced into a system that relies on chemicals. Pot is only healthy for the human body.
World hunger could end. A large variety of food products can be generated from hemp. The seeds contain one of the highest sources of protein in nature. Also: They have two essential fatty acids that clean your body of cholesterol. These essential fatty acids are not found anywhere else in nature! Consuming pot seeds is the best thing you could do for your body. Eat uncooked hemp seeds.
Clothes should be made from hemp. Hemp clothing is extremely strong and durable over time.You could hand clothing, made from pot, down to your grandchildren. Today, there are American companies that make hemp clothing; usually 50% hemp. Hemp fabrics should be everywhere. Instead, they are almost underground. Superior hemp products are not allowed to advertise on fascist television.
Kentucky, once the top hemp producing state, made it illegal to wear hemp clothing! Can you imagine being thrown into jail for wearing quality jeans?
The world is crazy. But that does not mean you have to join the insanity. Get together. Spread the news. Tell people, and that includes your children, the truth. Use hemp products. Eliminate the word ’marijuana.’Realize the history that created it.Make it politically incorrect to say or print the M-word. Fight against the propaganda (designed to favor the agenda of the super rich) and the bullshit.Hemp must be utilized in the future.We need a clean energy source to save our planet. Industrialize hemp!
The liquor, tobacco and oil companies fund more than a million dollars a day to Partnership for a Drug-Free America and other similar agencies.We have all seen their commercials. Now, their motto is: ‘It’s more dangerous than we thought.’ Lies from the powerful corporations, that began with Hearst, are still alive and well today.
The brainwashing continues. Now, the commercials say: If you buy a joint, you contribute to murders and gang wars. The latest anti-pot commercials say: If you buy a joint… you are promoting terrorism! The new enemy (terrorism) has paved the road to brainwash you any way they see fit.
There is only one enemy: the friendly people you pay your taxes to, the war-makers and nature destroyers.With your funding, they are killing the world right in front of your eyes.
Half a million deaths each year are caused by tobacco. Half a million deaths each year are caused by alcohol. No one has ever, ever died from smoking pot!!
In the entire history of the human race, not one death can be attributed to cannabis. Our society has outlawed grass but condones the use of the killers: tobacco and alcohol.
Hemp should be declassified and placed in drug stores to relieve stress. Hardening and constriction of the arteries are bad, but hemp usage actually enlarges the arteries, which is a healthy condition. We have been so conditioned to think that smoking is harmful. That is not the case for passive pot.
Ingesting THC, hemp’s active agent, has a positive effect: relieving asthma and glaucoma. A joint tends to alleviate the nausea caused by chemotherapy. You are able to eat on hemp. This is a healthy state of being.
[one personal note. During the pregnancy of my wife, she was having some difficulty gaining weight.We were in the hospital. A nurse called us to one side and said: “Off the record, if you smoke pot… you’d get something called the munchies and you’ll gain weight.” I swear that is a true story.]
The stereotype for a pothead is similar to a drunk, bubble-brain.Yet, the truth is one’s creative abilities can be enhanced under its influence. The perception of time slightly slows and one can become more sensitive.You can more appreciate all arts, be closer to nature and generally feel more under the influence of cannabis. It is, in fact, the exact opposite state of mind and body as the drunken state. You can be more aware with pot.
The pot plant is an alien plant. There is physical evidence that cannabis is not like any other plant on this planet. One could conclude that it was brought here for the benefit of humanity. Hemp is the only plant where the males appear one way and the females appear very different, physically!
No one ever speaks of males and females in regard to the plant kingdom because plants do not show their sexes. Except for cannabis. To determine what sex a certain, normal, earthly plant is, you have to look internally, at its DNA. A male blade of grass (physically) looks exactly like a female blade of grass. The hemp plant has an intense sexuality. Growers know to kill the males before they fertilize the females. Yes, folks, the most potent pot comes from ‘horny females.’
The reason this amazing, very sophisticated, ET plant from the future is illegal has nothing to do with how it physically affects us.
Pot is illegal because billionaires want to remain billionaires!
“And I will raise up for them a plant of renown, and they shall be no more consumed with hunger in the land.” – Ezekiel 34:29.
p.s. I think the word ‘drugs’ should not be used as an umbrella-word that covers all chemical agents. Drugs have come to be known as something bad. Are you aware there are legal drugstores?! Yep, in every city. Unbelievable. Each so-called drug should be considered individually. Cannabis is a medicine and not a drug. We should dare to speak the truth no matter what the law is.

Posted by Nhân Chủ-Chủ Quyền Cá Nhân at 4/19/2015 11:54:00 PM