Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

PHÁT TRIỀN MỘT XÃ HỘI LÀNH MẠNH CĂN CỨ TRÊN PHẬT GIÁO TÂY TẠNG, HỒI GIÁO, KI TÔ GIÁO, KHỔNG GIÁO VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CĂN BẢN CỦA LOÀI NGƯỜI


Nguyên tác: Developing a Healthy Society Based on 
Tibetan Buddhist, Muslim, Christian, Confucian and Basic Human Ethical Values
Tác giả: Alexander Berzin /Fourth World Youth Buddhism Symposium /Hong Kong, China /August 3, 2014
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



GIỚI THIỆU


Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. 
Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v…
 Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới trong tổng quát.

Đạo đức cũng đóng một vai trò thiết yếu trong việc mang lại cả cá nhân và xã hội lành mạnh. Nếu mọi người không thực hiện đạo đức tự giác hay kiềm chế khỏi những lối sống và thái độ không lành mạnh, và thay vì dấn thân trong hoạt động lành mạnh, thì họ sẽ bệnh hoạn. Tương tự thế, nếu những nhóm khác nhau trong xã hội không gìn giữ những nguyên tắc đạo đức mà họ cùng chia sẻ, xã hội cũng sẽ rơi vào bệnh hoạn. Điều quan trọng nhất trong những nguyên tắc đạo đức này là kiềm chế khỏi hạnh kiểm vị kỷ, và thay vì thế dấn thân trong những thái độ vị tha với sự quan tâm chân thành đến lợi ích của những người khác.

Trong những xã hội đa văn hóa, mỗi nhóm thành viên có tôn giáo hay triết lý đặc thù của nó để tổ chức và hướng dẫn thái độ đạo đức của nó và một số thành viên nào đó của xã hội không theo bất cứ tôn giáo hay triết lý đặc thù nào cả. Phương pháp cho việc giảm thiểu vị kỷ và làm lớn lòng vị kỷ có thể khác nhau trong mỗi nhóm, nhưng nếu mục tiêu là giống nhau - việc tạo nên một xã hội đa văn hóa hòa hiệp và hạnh phúc - một xã hội như vậy sẽ sinh khởi một tùy thuộc vào sự thấu hiểu, tôn trọng và hợp tác hổ tương của tất cả những nhóm thành viên.

Để làm sáng tỏ điểm này, hãy tưởng tượng là một trong những hành khách trên một chuyển tàu nghiên cứu bị kẹt trong băng ở Nam Cực trong tháng 12, 2013. Năm mươi hai nhà khoa học và du khách bị giam lỏng ở đấy trong 10 ngày, và những thủy thủ bị kẹt lại ở đấy lâu hơn sau khi các hành khách được máy bay đưa đi an toàn tới một tàu khác đến để cứu họ. Trong tai nạn ấy, không ai biết bao lâu nữa họ sẽ được cứu khỏi nơi mắc kẹt. Cách duy nhất cho nhóm ấy sinh tồn với môi trường khắc nghiệt và thực phẩm giới hạn là sự hợp tác với nhau giữa họ. Nếu mỗi người ích kỷ chỉ biết đến họ thì sẽ là một thảm họa. Chìa khóa cho sự tồn tại của mỗi người, là tuân theo những nguyên tắc đạo đức căn bản, mặc dù họ đến từ những tôn giáo và nền tảng văn hóa khác nhau.

Hãy tưởng tượng rằng trong những người hành khách là những lãnh tụ tâm linh của Phật Giáo, Hồi giáo, Ki tô giáo, và Khổng giáo, và cũng là một lãnh tụ thế tục được mọi người trên tàu tôn kính, kể cả những người không theo một tôn giáo hay triết lý nào. Những lãnh tụ này, mỗi người sẽ đối diện với thử thách như thế nào? Cung cách suy nghĩ của mỗi người và mỗi người đã khuyên bảo người khác trong nhóm như thế nào. Cuối cùng mọi người lo lắng và sợ hãi, và mỗi hành khách ngay cả giận dữ vào những gì đã xảy ra hay trở thành kẻ gây sự, và hầu hết thì thất vọng.

Phương Pháp Của Việc Phát Triển Đạo Đức Căn Cứ Vào Phật Giáo Tây Tạng

Lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng có thể đã nhắc nhở mọi người Phật tử trong nhóm lời của một đại đạo sư Ấn Độ, Tịch Thiên, liên quan đến sự kiên nhẫn: "Nếu có phương pháp, tại sao phải lo lắng? Và nếu không có phương pháp thì lo lắng có ích gì?" Nói cách khác, nếu có điều gì đó mà quý vị có thể làm để thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, thế thì không có gì phải khó chịu, chỉ thực hiện. Nhưng nếu không có gì có thể làm, thế thì tại sao khó chịu? Sẽ không có ích gì. Trong thực tế, nó chỉ làm quý vị cảm thấy lo lắng hơn. Cho nên không có lý do gì để giận dữ hay chán nản. Thay vì thế, quý vị cần phát triển sự kiên nhẫn và can đảm để đối diện với thử thách.

Bây giờ thì, những gì sẽ hổ trợ trong một hoàn cảnh chẳng hạn như ở trên một chiếc tàu kẹt trong băng là phải có một thái độ thực tiển. Trước tiên nhất, hoàn cảnh đã sinh khởi lệ thuộc trên nhiều nhân tố; không có người nào hay nhân tố bị quy cho trách nhiệm và để làm ta giận dữ. Sự thật là mỗi người trên chuyến tàu ấy sinh trưởng một cách lệ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Trước nhất, có những lý do khác nhau cho mỗi người để tham gia vào chuyến thám hiểm, và những lý do ấy liên hệ với sự kiện mỗi người đã từng phát triển năng khiếu trong một lãnh vực khoa học nào đó hay có sự thích thú và tiền bạc để hiện diện cùng nhau. Thế rồi có những nguyên nhân nghiệp chướng từ đời trước đã chín muồi trong sự hiện diện của quý vị trong chuyến tàu ấy, trong kiếp sống hiện tại. Cũng có sự ảnh hưởng của những người khác không tham gia chuyến thám hiểm ấy, nhưng cũng trong việc quý vị có thể tham gia, như không có sự phản đối của gia đình quý vị hay các ông chủ của quý vị. Rồi thì có những lý do tại sao các nhà khoa học thám hiểm cam đoan, tại sao nó được chọn, vị trí địa lý ở Nam Cực, thời tiết, và v.v… Bị kẹt trong băng ở đấy đã lệ thuộc vào tất cả những nhân tố này. Đấy là thực tại. Nếu bất cứ một trong những nhân tố ấy thiếu vắng, quý vị sẽ không ở đây trong tình trạng hiểm nguy này. Nơi mà, trong trường hợp này, là của một mạng lưới khổng lồ về các nguyên nhân và điều kiện. Có bất cứ điều gì đặc thù để mà than phiền đến và đề giận hờn đến không? Cho nên khi quý vị để ý rằng quý vị đang bắt đầu sân hận hay khó chịu không, hay quý vị có vô số phiền não lo lắng, hãy lắng dịu xuống bằng việc tập trung vào hơi thở của quý vị, hãy thở một cách chậm rãi qua lỗ mũi và, nếu thích, hãy đếm hơi thở của quý vị trong một vòng 10 hơi thở.

Hãy nhớ rằng, cho đến khi thời tiết trong sáng và một chuyến tàu cấp cứu đến, thì không có việc gì mà bất cứ người nào có thể làm để làm tăng tốc việc cấp cứu. Sẽ là một phép mầu để nghĩ rằng bất cứ ai trong chúng ta có thể kiểm soát tình hình, bởi vì những gì xảy ra và vấn đề tất cả chúng ta xoay sở tình cảnh như thế nào cũng sinh khởi một cách lệ thuộc vào vô số các nhân tố. Hơn thế nữa, thực tế là tất cả chúng ta ở trong cùng một hoàn cảnh. Đấy không chỉ là rắc rối của tôi hay rắc rối của bạn. Vấn nạn của việc sống còn là vấn nạn của tất cả mọi người, và vì thế chúng ta cần nhìn xa hơn quan điểm vị kỷ của chúng ta để nghĩ về vấn đề tất cả chúng ta phải đối phó thế nào với hoàn cảnh khó khăn này? Chúng ta không thể kiểm soát thời tiết hay việc đến nơi của chuyến tàu cấp cứu, nhưng những gì chúng ta có thể tác động là thể trạng tâm thức của chúng ta, một cách đặc biệt vấn đề chúng ta quan tâm đến mỗi người bên cạnh như thế nào?

Một cách để vượt thắng chỉ suy nghĩ về mình là hãy nhận ra rằng mọi người ở đây đã từng là mẹ hay cha của bạn trong một kiếp sống trước nào đó và đã đối xử thật ân cần và từ ái với bạn. Vì thế hãy nhìn mỗi người ở đây như người mẹ hay cha đã lưu lạc từ lâu những người mà quý vị đã không gặp trong nhiều kiếp sống. Với một lòng cảm kích chân thành sâu xa về sự tử tế mà bạn đã tiếp nhận trong quá khứ từ mỗi người trên tàu, bạn sẽ tự nhiên phát triển một cảm giác nồng ấm bất cứ khi nào bạn thấy họ. Hãy đem cảm giác nồng ấm xa hơn và phát triển nguyện ước cho mỗi người trong họ được hạnh phúc và không ai phải khổ sở. Tất cả chúng ta là bình đẳng trong sự tôn trọng ấy. Xa hơn nữa, mỗi người có cùng quyền để hạnh phúc và không khổ đau. Giống như với sự cung cấp thức ăn giới hạn, mọi người muốn và cần ăn. Tự ta không muốn đói, và mọi người khác cũng vậy. Với thái độ này về lòng từ ái và bi mẫn, căn cứ trên sự bình đẳng thái độ của chúng ta về tự thân và người hãy, hãy lãnh lấy trách nhiệm, rồi thì cố gắng để đem hạnh phúc đến mọi người và giải tỏa tất cả mọi khổ đau cho họ. Điều này có nghĩa là hãy chăm sóc đến lợi ích của toàn thể mọi người trong hoàn cảnh khó khăn này và thể hiện sự hổ trợ tối đa mà ta có thể, như quý vị hành động vì người cha và người mẹ của quý vị trong kiếp sống này.

Lãnh đạo Phật Giáo có thể cũng khuyến tấn những Phật tử khác trong nhóm để triển khai sức mạnh và can đảm để giúp người khác bằng việc thực tập điều gọi là "cho và nhận." Vài lần trong ngày, người ấy sẽ nói với họ, hãy ngồi im lặng thiền quán, và bắt đầu làm lắng dịu xuống bằng việc tập trung vào hơi thở và tái củng cố động cơ của quý vị về từ ái và bi mẫn. Với nguyện ước bi mẫn mạnh mẽ cho người khác được thoát khỏi khổ đau của họ, tưởng tượng rằng nổi sợ hãi và lo lắng của mỗi người rời họ trong hình thức của ánh sáng màu đen và đi vào lổ mũi của quý vị khi quý vị thở vào một cách chậm rãi trong vài lần. Hãy tưởng tượng nó đi xuống tim của quý vị và đi tan biến ở đấy vào trong sự tĩnh lặng và trong sáng của tâm thức quý vị. Hãy ngơi nghĩ trong thể trạng tĩnh lặng và trong sáng trong một lúc.

Rồi thì với niềm hạnh phúc tĩnh lặng sẽ tự sinh khởi từ sự khuây khỏa sự xáo động tinh thần của những người cha người mẹ quá khứ của quý vị, hãy tưởng tượng rằng cảm giác tĩnh lặng của hạnh phúc, ấm áp và từ ái, trong ánh sáng trắng, đi từ tim của quý vị, qua lỗ mũi của quý vị khi quý vị thở ra từ từ. Làn ánh sáng trắng này của từ ái và hanh phúc đi vào mọi người, tràn đầy thân thể họ và bây giờ hãy tưởng tượng tất cả họ đều có tâm tư hòa bình và một thái độ yêu mến, tích cực. Trong khi làm việc này, nếu quý vị trì tụng mật ngôn bi mẫn, “Om mani padme hum,” nó sẽ giúp cho quý vị tĩnh lặng tâm thức và tập trung, và duy trì sự chính niệm về bi mẫn.

Mặc dù hành thiền như thế này có thể không có bất cứ hiệu quả trực tiếp nào đối với những người khác trên tàu, nhưng nó sẽ cho quý vị sức mạnh, lòng can đảm và sự tự tin để đối phó với hoàn cảnh, và chính quý vị sẽ tự nhiên có sự hòa bình trong tâm hồn và một thái độ yêu mến tích cực. Tuy nhiên, sự thực tập này có một hiệu quả gián tiếp đến những người khác, bởi vì cách mà quý vị cư xử và sự tương tác với họ do bởi sự thiền tập của quý vị sẽ là một kiểu mẫu tốt đẹp có thể truyền cảm hứng đến những người khác.

Phương Pháp Căn Cứ Vào Hồi Giáo

Vị lãnh đạo tinh thần của Hồi Giáo rồi thì có thể nói với những người Hồi Giáo trên tàu. Ông ấy sẽ giải thích rằng chính ý chí của Thượng đế mà tất cả chúng ta đã bị kẹt ở đây trong băng. Chúng ta không thể kiểm soát được những gì sẽ xảy ra; cho dù chúng ta được cứu thoát hay tất cả chúng ta chết bây giờ ở trong tay Thượng đế. Nhưng hãy nhớ, Thượng đế hoàn toàn thương xót từ bản chất và một cách đặc biệt thương xót đối với những ai đã hối cải với những lỗi lầm của họ. Cho nên nếu quý vị đã mất niềm tin trong Thượng đế và đã bắt đầu nghi ngờ, thì hãy hối cải và yêu cầu Thượng đế tha thứ. Hoàn toàn tin tưởng trong sự phán xét của Thượng đế, không có gì cần phải lo lắng.

Vị ấy đã nói với họ hãy nhớ ba chiều kích của Hồi Giáo: quy phục hay giao mình cho Thượng đế và Ý chí của Ngài, tin tưởng trong Thượng đế căn cứ vào sự khiêm hạ trong khuôn mặt của tất cả mọi tạo vật của Thượng đế, và tuyệt vời trong cả bản chất và hành động của việc phụng sự đối với tất cả những tạo vật này của Thượng đế . Vị ấy có thể động viên họ bằng việc nhắc nhở họ rằng nếu quý vị vững vàng với niềm tin trong Ý chí của Thượng đế , quý vị sẽ hoàn toàn an bình. Không có gì để nghi ngờ hay lo lắng đến.

Vị ấy có thể nói với họ xa hơn rằng Thượng đế đã tạo ra tất cả quý vị với Tâm Linh của Ngài trong tim của quý vị, trong thể trạng thuần khiết nguyên sơ, và đã phú cho mỗi người trong quý vị với những phẩm chất tốt đẹp, chẳng hạn như yêu thương. Sự yêu thương của Thượng đế cho tất cả chúng ta là cảm giác về sự gần gũi của Ngài đối với tất cả sự tuyệt vời mà Ngài đã tạo ra. Cách tốt nhất cho quý vị là biểu lộ lại lòng yêu thương của quý vị đối với Thượng đế là sự tôn sùng Ngài qua những hành động tuyệt vời của quý vị trong việc phụng sự những tạo vật của Ngài, một cách đặc biệt bằng hành động ân cần tử tế của quý vị và giúp đở tất cả những hành khác đồng hành với quý vị. Cuối cùng, kinh Koran dạy chúng ta rằng Thượng đế yêu thương những ai hành động với đạo đức và chí nguyện của họ, chẳng hạn như cầu nguyện 5 lần mỗi ngày, và những ai công bằng và chính trực.

Hãy nhớ rằng, khi quý vị triển khai lòng yêu thương cho người khác trong cung cách tinh khiết nhất của nó, lòng yêu thương của quý vị không phải chỉ cho chính những này mà thôi, mà là lòng yêu thương cho Thượng đế người đã tạo ra đặc tính tuyệt vời và tốt đẹp trong họ. Cho nên đấu tranh chống lại sự sợ hãi, nghi ngờ, và những tư tưởng vị kỷ của quý vị. Sự đấu tranh cao nhất, cuối cùng là chống lại những sự bức chế tiêu cực của trái tim bối rối của quý vị mà đã làm cho quý vị quên lãng Thượng đế và điều ấy đã kích động quý vị đến những tư tưởng và thái độ tiêu cực.

Những Phương Pháp Căn Cứ Trên Ki Tô Giáo

Tiếp theo vị lãnh đạo của Ki Tô Giáo có thể phát biểu với những Ki Tô hữu trên tàu. Vị ấy cũng có thể nhắc nhở họ rằng Thượng đế , Cha của chúng ta, đã tạo ra tất cả chúng ta từ lòng yêu thương của ngài. Càng tỉnh thức về lòng yêu thương ấy, quý vị càng gần gũi hơn với cảm nhận của Thượng đế . Cách tốt nhất để trải nghiệm sự gần gũi với Thượng đế là qua việc tôn trọng triệt để những đạo đức và các giá trị căn cứ trong lòng yêu thương mà với nó quý vị được tạo ra. Thượng đế đã tạo ra tất cả quý vị trong hình ảnh của Ngài, với tia sáng từ lòng yêu thương của Ngài trong tất cả quý vị. Vì thế tất cả quý vị có khả năng để biểu lộ lòng yêu thương ấy.

Hãy nghĩ về Chúa Giê-su, người, không có tư tưởng nào về sự thoải mãi hay sự an toàn riêng cho ngài, đã đau khổ vì lợi ích của tất cả chúng ta, chết trên thánh giá và rồi sống lại từ sự chết để cứu rỗi chúng ta từ những tội lỗi của chúng ta. Nếu quý vị tin tưởng trong Giê-su, hãy tuân theo gương vị tha của ngài trong việc săn sóc người bệnh, người nghèo và túng thiếu với lòng yêu thương vị tha của Giê-su. Thượng đế cũng đã tạo nên tất cả họ và Thượng đế phải có một mục tiêu trong việc tạo ra họ. Do thế, quý vị cần tôn trọng tất cả họ, một cách đặc biệt người túng thiếu, như con cái của Thượng đế . Hơn thế nữa, Thượng đế đã đưa chúng ta đến hoàn cảnh này, bị kẹt trong băng như một thử thách với đức tin của chúng ta. Sẽ có nhiều người trên tàu sẽ đầy sợ hãi và tuyệt vọng. Hãy củng cố đức tin của quý vị bằng việc chăm sóc những con cái túng thiếu của Thượng đế , như Giê-su đã chăm sóc chọ, với lòng yêu thương và thiện ý.

Phương Pháp Căn Cứ Trên Những Nguyên Tắc Của Khổng Giáo

Tiếp theo, vị lãnh đạo Khổng Giáo có thể nói với các hành khách cùng niềm tin. Vị ấy có thể nói với họ đừng lo lắng. Quý vị cần hành động với nghĩa (义), công bằng với mọi người, vị ấy có thể nói, phù hợp với lễ (礼), những gì thích đáng và phù hợp khi đối diện với những lúc khó khăn. Cho dù quý vị sống còn hay chết sẽ là kết quả của [số] mệnh (命), nhưng cho đến khi mà quý vị làm những gì đúng đắn thì sẽ không có gì hối tiếc. Việc thích đáng để làm là tuân thủ tất cả những chương trình chính thức của chiếc tàu cho việc đối phó với tình trạng khẩn cấp. Phù hợp với thuyết chánh danh (正名), nếu thuyền trưởng hành động thì hành động như thuyền trưởng nên làm, và hành khách hành động như hành khách phải làm, và nếu các hành khách hành động đối với mỗi người như những hành khách đồng hành nên làm, thế thì quý vị sẽ hòa hiệp với những gì mà hoàn cảnh kêu gọi.

Tất cả quý vị có lòng nhân (仁), khả năng nội tại để làm những gì tốt đẹp, những gì đúng đắn trong mối quan hệ với người khác. Nhân là cội nguồn của tất cả những phẩm chất lương thiện, chẳng hạn như yêu thương, trí tuệ, chân thành và công bằng trong việc đối diện với mọi người. Quý vị cần trau dồi năng lực nội tại này vì sự tốt đẹp, vì không có nó, quý vị không thể chịu đựng nổi khó khăn, quý vị sẽ không thể làm điều gì thích đáng.

Khi được hỏi điều gì là năng lực nội tại, Khổng Tử nói, "Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch, khả vị nhân hĩ." (“仁者先難而後獲,可謂仁矣。” người nhân là trước tiên là làm những việc khó khăn, sau đó đạt được - như vậy gọi là nhân). Nói cách khác, khi đối diện với một hoàn cảnh khó khăn, như chúng ta hiện có, quý vị sẽ có thể nắm lấy hoàn cảnh và đối phó với nó trong một thái độ kiên nhẫn, với sự công bằng với mỗi người, bằng việc trau dồi năng lực nội tại của quý vị cho việc làm điều gì là đúng. Trong một cách thay đổi để thấu hiểu, điều này nói là "Người nhân trước tiên có những khó khăn và sau cùng là lúc nắm lấy cơ hội, đấy gọi là nhân (仁)." Điều này chứng tỏ rằng trong những hoàn cảnh khó khăn, quý vị làm điều gì là đúng đơn giản bởi vì nó đúng, không có bất cứ quan tâm đến lợi lạc nào về nó hay việc đạt được cho riêng mình bất cứ điều gì.

Quý vị có thể học cách trau dồi năng lực nội tại này như thế nào bằng việc nhìn vào những tấm gương từ trong lịch sử những người cao thượng đã làm những việc đúng với đạo đức khi đối diện với một thảm họa xã hội. Khổng Tử nói, "Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân; kỷ dục đạt nhi đạt nhân." ("“夫仁者,己欲立而立人;己欲達而達人。” Một người đã trau dồi năng lực nội tại cho sự tốt lành, khi mong ước cho chính mình được thiết lập một cách thích đáng, thì cũng thiết lập cho người một cách thích đáng, và khi mong ước cho chính mình được thành công, thì cũng làm cho người đươc thành công.) Khổng Tử cũng nói, "Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên" (“克己復禮為仁。一日克己復禮,天下歸仁焉。” Để vượt thắng vị kỷ và tuân theo những gì thích đáng, đấy là năng lực nội tại cho tốt lành. Nếu trong một ngày ta có thể vượt thắng vị kỷ và tuân theo những gì thích đáng, rồi thì mọi người trong thiên hạ sẽ quay về với điều nhân.) Khi được hỏi xa hơn về nhân (仁) là gì, Khổng Tử đáp rằng đấy là lòng thương mọi người. Những ai với nhân, ngài giải thích, là can đảm và gan dạ. Cho nên trau dồi năng lực nội tại là làm những gì đúng như những hành khách thích đáng nên làm, tuân theo những thủ tục đúng như thuyền trưởng chỉ dẫn, và rồi thì cho dù điều gì xảy ra đi nữa, quý vị sẽ không bao giờ có bất cứ sự hổ thẹn nào.

Phương Pháp Căn Cứ Trên Những Giá Trị Căn Bản Của Nhân Loại

Vị lãnh đạo thế tục sau đó có thể phát biểu đến toàn bộ hành khách. Vị ấy có thể nói với họ rằng mặc dù có những tín đồ của Phật Giáo, Hồi Giáo, Ki Tô Giáo và Khổng Giáo trong quý vị, cũng có nhiều người không theo một tôn giáo hay triết lý nào. Tất cả chúng ta cần hành động trong một thái độ đạo đức đối với mỗi người nhằm đề sống còn qua sự thử thách này. Điều này cũng bao gồm những người không tín ngưỡng. Nếu chúng ta đấu tranh với nhau, chúng ta sẽ không bao giờ tồn tại. Những ai trong chúng ta theo một hệ thống tôn giáo hay triết lý hãy có đức tin và tin tưởng trong hệ thống giáo lý của quý vị để hướng dẫn thái độ đạo đức của quý vị, và như vậy là tuyệt vời. Mặc dù những lý do cho việc hành động trong một cung cách đạo đức có thể khác nhau trong quý vị, tuy thế sự tự tin sẽ cho quý vị sức mạnh nội tại cần thiết để hành động trong một cung cách yêu thương đối với người khác. Tất cả những hệ thống tôn giáo và triết lý dạy chúng ta từ ái, bi mẫn, tha thứ, toại nguyện và giảm thiểu thái độ vị kỷ tàn phá của chúng ta. Tuy nhiên, đây là những giá trị mà những ai thiếu vắng một đức tin hay tín ngưỡng trong một hệ thống tổ chức cũng chấp nhận như đáng giá để phát triển. Những điều này được gọi là "những giá trị đạo đức căn bản của nhân loại."

Nếu chúng ta nghĩ trên trình độ của những giá trị nhân loại căn bản này, thế thì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một căn bản cho thái độ đạo đức của chúng ta, và điều này sẽ là chìa khóa cho sự sống còn của chúng ta như một nhóm. Chúng ta cần duy trì sự an bình, hòa hiệp và hợp tác giữa chúng ta, nhưng nền hòa bình ngoại tại lệ thuộc vào sự hòa bình nội tại. Nói cách khác, nền hòa bình ngoại tại sẽ tùy thuộc vào việc mỗi chúng ta duy trì một tâm hòa bình, tĩnh lặng. Sự hòa bình của tâm hồn liên hệ rất nhiều đến thái độ của quý vị đối với nhau. Nếu quý vị chấp chứa những tư tưởng không yêu thương đối với nhau, và luôn luôn nghĩ chỉ về chính quý vị và làm sao quý vị thành công, thế thì khi quý vị tương tác với người khác, quý vị lo sợ họ sẽ làm tổn thương quý vị trong một cách nào đó và ngăn ngừa quý vị thành công. Quý vị không tin tưởng họ và vì thế đầy ấp với sợ hãi và nghi ngờ. Họ, đáp lại, sẽ cảm thấy điều này trong quý vị và, hậu quả cũng sẽ không tin tưởng quý vị. Điều này tạo nên một khoảng cách giữa chính quý vị và người khác; nó làm một rào cản để có bất cứ sự đối thoại thật sự nào giữa họ. Khoảng cách và rào cản này làm quý vị cảm thấy không an toàn và cô đơn. Cảm giác bất an, quý vị thiếu sự tự tin để đối diện với những thử thách về hoàn cảnh khó khăn của chúng ta. Quý vị trở nên thất vọng. Trái lại, càng cảm thấy gần gũi với người khác trong nhóm, thì quý vị sẽ càng cảm thấy rằng quý vị là một bộ phận của cộng đồng. Quý vị cảm thấy quý vị thuộc vào nhóm và điều này sẽ làm quý vị cảm thấy an toàn hơn. Một khi quý vị cảm thấy an toàn hơn, thì quý vị sẽ tự nhiên đạt được sự tự tin hơn.

Loài người chúng ta là những động vật xã hội. Giống như một xã hội động vật, như một con trừu, bị tách rời khỏi đàn, nó cảm thấy rất bất an và sợ hãi, nhưng khi nó gia nhập lại vào đàn, nó cảm thấy vui sướng hơn, tương tự thế chúng ta cũng đau khổ khi chúng ta bị cô lập với người khác. Tuy nhiên, thường thường ngay cả khi quý vị hợp đoàn với người khác, nếu tâm tư quý vị đầy ấp với sự không tin tưởng và nghi ngờ, thái độ của quý vị cô lập quý vị với việc tiếp nhận bất cứ sự thoải mái hay hổ trợ từ tập thể. Cho nên xin hãy vui lòng nhận ra rằng sự thoải mái căn bản của tâm tư quý vị và khả năng duy trì hy vọng cho một kết quả đáng mừng của việc bị kẹt ở đây trong băng lệ thuộc vào thái độ của quý vị đối với người khác trong nhóm. Khi quý vị phát triển một cảm giác gần gũi với mỗi người trong nhóm, cảm giác ấy cho bạn sức mạnh nội tại và sự tự tin. Quý vị không còn cảm thấy yếu đuối và nghi ngờ. Sự tự tin của quý vị và cảm giác an toàn cho phép quý vị tin tưởng nhau, và sự tin tưởng đem đến mối thân hữu chân thành.

Một số người nghĩ rằng họ sẽ có nhiều bạn hơn nếu họ có tiền bạc và quyền lực. Nhưng những người bạn như vậy chỉ là bạn của tiền và quyền của quý vị. Khi tiền bạc và quyền lực không còn nữa, những người bạn như vậy biến mất. Những người bạn chân thật không như vậy. Những mối quan hệ thân hữu chân thành vốn mang đến niềm vui và hạnh phúc được xây dựng trên căn bản của sự tin tưởng hổ tương căn bản. Khi quý vị cởi mở và chân thành với nhau, quý vị cảm thấy không chỉ an toàn hơn và tự tin hơn, mà tâm tư quý vị cũng thanh thản hơn. Trong một thể trạng như vậy, quý vị có thể thâm nhập vào sức mạnh với những người khác và đối phó với khó khăn mà tất cả chúng ta như một nhóm đang hiện hữu. Sau cùng, không chỉ tôi bị kẹt trong băng hay không chỉ quý vị bị trong băng; mà đúng hơn tất cả chúng ta bị kẹt trong băng.

Ngay cả khi chúng ta ra khỏi tình trạng khó khăn này, nếu quý vị duy trì thái độ cởi mở tích cực này đối với người khác, quý vị sẽ tiếp tục có những mối thân hữu ấm áp, tin tưởng. Sẽ luôn luôn có những khó khăn trong đời sống. Thật là khờ dại nếu tưởng tượng rằng quý vị sẽ không bao giờ gặp phải bất cứ rắc rối nào nữa trong tương lai. Nhưng với sự cởi mở, chân thành, và tự tin và tin tưởng có từ chúng, quý vị sẽ được chuẩn bị sẳn sàng để tham gia với những người khác, và người khác sẽ nhiệt tình hơn để tham gia với quý vị trong việc đối phó với bất cứ điều gì có thể xảy ra - tốt hay xấu.

Nếu quí vị hỏi, lý do gì phải sống đạo đức, đơn giản chỉ bởi vì chúng ta là những con người. Chúng ta phải đạo đức bởi vì chúng ta sống với nhau và lệ thuộc vào mỗi người nhằm để sống. Nếu quý vị không quan tâm đén hạnh phúc và lợi ích của kẻ khác, và thay vì thế tạo rắc rối, thì chính là quý vị cuối cùng sẽ đau khổ bằng việc tự cô lập khỏi họ và tự tách rời mình ra khỏi sự chăm sóc và quan tâm của họ.

Có hai loại chăm sóc và quan tâm cho người khác. Một là căn cứ trên cảm xúc và tự định hướng về với cá nhân mình và những gì quý vị có thể đạt được từ người khác. Cho đến khi mà người khác dễ thương với quý vi hay họ tế nhị chung chung, thế thì quý vị thích họ và quan tâm đến hạnh phúc của họ. Quý vị không muốn họ khổ đau hay bất hạnh. Nhưng đến khi mà họ bắt đầu cư xử không đứng đắn và hoặc là tổn thương quý vị, hay ngay chỉ đơn giản là không đồng ý với quý vị, thái độ của quý vị đối với họ sẽ thay đổi. Quý vị không còn thích họ và không quan tâm vấn đề họ có hạnh phúc hay không. Quý vị loại bỏ họ bởi vì thái độ của họ. Điều này đơn giản là tình cảm - căn cứ trên lòng yêu thương và thấu cảm đơn thuần, và nó không bao giờ là một căn bản ổn định cho một tình thân hữu chân thật.

Những loại chăm sóc và quan tâm đến người khác không tùy thuộc vào thái độ hay cách cư xử của họ. Nó căn cứ đơn thuần trên sự kiện rằng họ là những con người, giống như chính ta. Quý vị muốn cho mình hạnh phúc, bất kể quý vị hành động như thế nào hay thể trạng tâm thức của quý vị là gì. Và nó chỉ căn cứ trên sự kiện rằng quý vị muốn hạnh phúc cho nên quý vị chăm sóc chính mình; quý vị tìm kiếm lợi ích cho quý vị. Nhưng điều ấy cũng đúng với mọi người khác, kể cả những người mà ta không thích do bởi thái độ của họ như thế nào đấy hay cách cư xử của họ ra sao đấy. Tuy nhiên, họ cũng muốn hạnh phúc; họ cũng phát triển mạnh sự chăm sóc và yêu thương. Trong dạng thức của nguyện ước được hạnh phúc, tất cả chúng ta là bình đẳng. Mọi người muốn hạnh phúc. Không chỉ chúng ta bình đẳng trong việc muốn được hạnh phúc, mà tất cả chúng ta cũng có cùng quyền để được một đời sống hạnh phúc; và một đời sống hạnh phúc hình thành khi quý vị quan tâm chân thành đến những người khác và chú ý rằng họ cũng muốn hạnh phúc.Nó căn cứ trên việc có tình thân hữu chân thành với mọi người, bất chấp quý vị là ai.

Chi có loài người mới có khả năng để quan tâm đến những người khốn khổ khác. Chỉ có con người mới có khả năng để chăm sóc đến lợi ích của kẻ khác. Khả năng này có thể đến từ tính thông minh nhân bản của quý vị hay từ đức tin của quý vị trong một số hệ thống tôn giáo hay triết lý của những niềm tin. Động vật không có những thứ này - chúng thiếu tính thông minh và đức tin. Nếu một con vật nào khác đe dọa hay làm chúng tổn thương, chúng chỉ đơn giản tấn công.Tuy nhiên, như những con người, không phải tất cả chúng ta đều có đức tin hay niềm tin trong hệ thống tôn giáo và triết lý, nhưng tất cả chúng ta có tính thông minh căn bản của nhân loại. Chúng ta cần sử dụng tính thông minh ấy để thấu hiểu những lý do tại sao quan tâm đến lợi ích và hạnh phúc của người khác là chìa khóa cho hạnh phúc của chúng ta.

Cho dù quý vị có tin tưởng trong một đấng tạo hóa, hay những kiếp sống quá khứ, hay sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tổ tiên quý vị, thì không ai có thể phủ nhận rằng bạn đến từ một bà mẹ. Không có sự chăm sóc và tình cảm của mẹ bạn, hay của ai đấy chăm sóc cho bạn như một bà mẹ khi bạn là một hài nhi bất lực, thì bạn sẽ không thể sống còn. Các nhà khoa học đã từng cho thấy rằng những ai tiếp nhận tối đa tình cảm và sự yêu thương như một đứa bé cảm thấy an toàn hơn, tự tin hơn và hạnh phúc hơn trong cả đời sống của chúng; trái lại nhưng ai bị lãng quên hay ngược đãi khi còn bé cảm thấy bất an bất kể điều gì xảy ra với chúng. Chúng luôn luôn cảm thấy không thoải mái. Chúng cảm thấy sâu bên trong là điều gì đấy thiếu sót trong đời sống của chúng và vì thế một cách căn bản chúng không hạnh phúc. Các bác sĩ cũng chỉ rằng sự tiếp xúc thân thể tình cảm của một bà mẹ là cần yếu cho việc phát triển thích đáng não bộ đứa bé. Hơn thế nữa, các bác sĩ cũng chứng minh bằng tư liệu vấn đề giận dữ, sợ hãi, và thù hận ăn dần mòn hệ thống miễn nhiễm như thế nào.

Mọi người chăm sóc để có một thân thể khỏe mạnh, vì vậy để có một thân thể khỏe mạnh, quý vị cần phải chú ý hơn để có một tâm thức lành mạnh và tĩnh lặng. Câu hỏi quan trọng là làm thế nào để có một tâm thức lành mạnh tĩnh lặng. Ngay cả nếu quý vị được sinh trưởng như con một, với nhiều tình cảm và chăm sóc, nhưng nếu quý vị đối diện với một áp lực lớn để thành công trong một xã hội cạnh tranh, cho dù ở trường học hay ở sở làm, quý vị có thể vẫn phải cảm thấy bất an và căng thẳng. Nhưng nếu quý vị cảm thấy cần để đánh bại người khác nhằm để thành công, và vì thế tâm tư quý vị đầy dẫy sự nghi ngờ, sợ hãi và ganh tỵ, thế rồi như một kết quả, tâm thức quý vị quấy rầy và không ổn định.

Nếu trái lại, trong khi cố gắng để làm hiệu quả nhất, chúng ta cũng quan tâm đến lợi ích của kẻ khác, quý vị sẽ nhận ra rằng giống như quý vị muốn nhận sự khích lệ, giúp đở và tình cảm thân hữu hổ trợ từ họ, họ cũng muốn giống như quý vị. Nếu quý vị phát triển một lòng bi mẫn chân thành cho họ - nguyện ước cho họ không bị thất bại, mà cũng thành công - điều này ban cho quý vị sức mạnh nội tại và lòng tự tin để áp dụng nổ lực toàn triệt của quý vị đến trách nhiệm hành động vì sự thành công của mọi người. Biểu lộ lòng bi mẫn và quan tâm cho người khác là một dấu hiệu của sức mạnh, không phải là một biểu hiện yếu đuối. Trong thực tế, nó là một cội nguồn của sức mạnh và tĩnh lặng của tâm thức.

Sự phân tích giống như vậy áp dụng đến hoàn cảnh của chúng ta ở đây của việc bị kẹt trong băng. Nếu quý vị không tin tưởng nhau và tranh cải và tranh chấp qua những nguồn nguyên nhiên liệu hạn chế, thì tất cả chúng ta sẽ khổ đau. Tất cả chúng ta sẽ trở nên yếu đuối hơn. Nếu quý vị triển khai lòng quan tâm chân thành cho mỗi người và an ủi mỗi người khi bất cứ ai trong quý vị trở nên quẫn trí, rồi thì như một bà mẹ an ủi một đứa con đang khóc, cả bà mẹ và đứa con sẽ cảm thấy khá hơn. Với tâm tư tĩnh lặng và một cảm giác thuộc về một nhóm yêu thương của những người bạn chân thành, thì tất cả chúng ta sẽ có sức mạnh để sống còn.

Do thế hãy sử dụng sự thông minh của loài người. Khi ai đấy bắt đầu làm phiền quý vị và khi quý vị bắt đầu giận dữ và cảm thấy muốn hét lên vào người ấy, hãy nhớ rằng làm như vậy chỉ làm cho mọi thứ tệ hại hơn. Nó sẽ làm tình trạng tâm thức của quý vị phiền não và tác động đến không khí của toàn nhóm. Mọi người sợ hãi và lo lắng, và vì thế nếu bất cứ người nào trong họ cư xử không đúng, đó là bởi vì người này cảm thấy không an toàn và kinh sợ. Xin hãy cố gắng để làm cho những người như vậy cảm thấy an toàn hơn và không đánh mất hy vọng bằng việc biểu lộ sự chăm sóc và thấu hiểu họ.

Hạnh phúc đến từ việc có hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn, và hy vọng đến với sự hổ trợ của những người bạn đồng cảm và đồng tâm nhất trí. Nói tóm lại, rồi thì, trên căn bản của những giá trị nền tảng và cộng hưởng của nhân loại, thì tất cả chúng ta sẽ có thể hành động trong một thái độ đạo đức. Nếu đức tin tôn giáo hay triết lý tin tưởng của quý vị tăng cường những giá trị đạo đức này, thì điều này thật sự là diệu kỳ. Nếu quý vị thiếu một đức tin tôn giáo như vậy, thì hãy dựa hoàn toàn vào sự thông minh nhân bản và những giá trị đạo đức căn bản của loài người mà thôi. Với sự hòa hiệp tôn giáo trong chúng ta và mọi người nuôi dưỡng những giá trị nhân bản này, thì tất cả chúng ta sẽ sống còn với thảm cảnh này và được thấy như những con người tốt đẹp hơn do bởi kinh nghiệm cộng trú này.

Tóm Lược

Chúng ta có thể thấy từ sự phân tích này là mỗi một tôn giáo, triết lý và những quan điểm thế tục này đưa đến kết luận rằng khi đối diện một hoàn cảnh khó khăn trong xã hội, chìa khóa để tồn tại là nguyên tắc đạo đức tự giác. Điều này có nghĩa là việc vượt thắng sự vị kỷ, sợ hãi và thất vọng, và hợp tác với người khác trên căn bản của từ ái, bi mẫn, ân cần và tôn trọng. Mỗi một quan điểm trong 5 thứ - Phật Giáo Tây Tạng, Hồi Giáo, Ki Tô Giáo, Khổng Giáo và không tôn giáo - có những phương pháp của chính nó cho việc phát triển những phẩm chất tốt đẹp này:
Phật tử Tây Tạng thấy những hoàn cảnh khó khăn như duyên sanh trong vô số nguyên nhân và điều kiện. Không nhân tố nào hay người nào có thể kiểm soát hiện trạng, tuy thế mọi người có thể cống hiến điều gì đó tích cực mà sẽ tác động đến những gì phát triển. Họ xem mọi người như bình đẳng, cả trong việc từng là cha mẹ chúng ta trong những kiếp sống trước và trong việc muốn được hạnh phúc và không phải khổ đau.
Người Hồi Giáo thấy các khó khăn như đến từ ý chí của Thượng đế , và việc giải quyết vấn nạn là nằm trong tay của Thượng đế . Họ tuân phục ý chí của Thượng đế và phụng thờ Thượng đế qua những hành động tuyệt vời của việc phụng sự đối với tất cả những tạo vật của Thượng đế .
Người Ki Tô hữu xem những hoàn cảnh khó khăn như những thử thách được Thượng đế gởi đến để thử thách chúng ta, và theo gương của chúa Giê-su trong việc phụng sự người nghèo và cần giúp đở.
Những người theo nguyên tắc của Khổng Tử thấy những khó khăn như điều không thể tránh khỏi sinh khởi từ lúc này đến lúc khác. Những gì xảy ra tùy thuộc vào số mệnh của chúng ta. Để đối phó với khó khăn, họ theo những thủ tục thích đáng như thuyền trưởng đã hướng dẫn họ và trau dồi sức mạnh nội tại của họ về kiên nhẫn và lương thiện để đối xử với mọi người một cách công bằng, với sự thích đáng và yêu thương.
Những người chỉ theo những giá trị nền tảng nhân bản thấu hiểu rằng bất chấp khó khăn thế nào đi nữa, mọi người đánh giá cao yêu thương và sự chăm sóc tình cảm. Như những động vật xã hội, chúng ta cần hợp tác với nhau để tồn tại, và nếu chúng ta chăm sóc mỗi người của nhau, thì chúng ta sẽ đạt được sức mạnh và niềm tin vững chắc để chiến thắng bất cứ khó khăn nào.

Vì vậy, mỗi nhóm trong 5 nhóm này có hệ thống đạo đức của riêng họ; tuy thế, những ai chân thành tuân theo giáo huấn và khuyên bảo của mỗi hệ thống này sẽ đạt đến cùng kết quả. Họ sẽ có thể chấp nhận hoàn cảnh mà không giận dữ. Ngay cả nếu họ thấy một hành khách hành động trong một cách đe dọa lợi ích của toàn nhóm, thí dụ dấu diếm thực phẩm, và là điều cần đòi hỏi có sự lượng định quy tắc để điều chỉnh rắc rối này, giá trị đạo đức của mỗi hệ thống sẽ giúp họ hành động để không phải sân hận, nhưng vì sự quan tâm đến toàn bộ hành khách bị nạn. Họ sẽ duy trì hòa bình trong tâm thức và cống hiến một cách tích cực đến lợi ích của mọi người trên tàu. Như một kết quả, cộng đồng sẽ không chỉ sống còn với tai họa, mà những thành viên sẽ trở nên gần gũi với nhau hơn trước đây, do bởi sự chia sẻ kinh nghiệm của họ với việc lãnh lấy trách nhiệm vì lợi ích của nhau.

Kết Luận

Thí dụ về chiếc tàu bị kẹt trong băng ở Nam cực là một sự tương đồng hữu ích cho việc thấu hiểu vấn đề một xã hội đa văn hóa có thể được đối diện một cách tốt đẹp nhất, trong một cung cách lành mạnh, những thử thách và khó khăn không thể tránh sinh khởi trong cuộc sống. Để hoàn thành điều này, mọi người cần học hỏi về những nền văn hóa và các tín ngưỡng của những nhóm quan trọng trong xã hội của họ. Sợ hãi và nghi ngờ về người khác đến từ sự thiếu vắng kiến thức về những niềm tin của họ. Với sự giáo dục thích đáng, chúng ta có thể khám phá ra rằng tất cả mọi tôn giáo và triết lý có một hệ thống đạo đức và rằng đạo đức của những hệ thống này chia sẻ chung với nhau là cũng phù hợp với những đạo đức nhân bản nền tảng mà mọi người chấp nhận, kể cả những người không tín ngưỡng. Đây là những giá trị của từ ái, bi mẫn, và chăm sóc tình cảm cho người khác với lòng quan tâm sâu xa cho những lợi ích của họ.

Khi bày tỏ những giá trị nhân bản nền tảng này một cách chân thành, bất chấp hệ thống đức tin mà người ta đến từ những nhóm khác nhau, thế thì xã hội biểu hiện chức năng một cách hòa hiệp, trong những lúc tốt hay xấu. Đây là bởi vì mỗi nhóm tôn trọng nhau, căn cứ trên sự thấu hiểu hổ tương; và từ sự tôn trọng hổ tương căn cứ trên sự thấu hiểu hổ tương đi đến sự tin tưởng hổ tương. Khi người ta từ những nền văn hóa khác nhau tôn trọng và tin tưởng nhau, họ sống mà không lo sợ nhau. Điều này làm cho một xã hội lành mạnh, hòa hiệp, căn cứ trên những nguyên tắc đạo đức nền tảng mà mọi người cùng chia sẻ.

Do thế, vì một xã hội lành mạnh sinh khởi một cách lệ thuộc vào nhiều nhân tố - kinh tế, môi trường, những hệ thống xã hội, hợp pháp và giáo dục, và, như chúng ta đã thấy, đạo đức và sự hòa hiệp tôn giáo - nếu bất cứ một nhân tố nào yếu kém, xã hội sẽ không thăng tiến. Chúng ta cần khởi đầu trên trình độ cá nhân, một cách đặc biệt trong những khu vực đạo đức của chúng ta và tôn trọng người khác và niềm tin của họ. Nếu chúng ta phát triển một tâm tĩnh lặng và một thái độ bi mẫn đối với người khác, và rồi mở rộng việc ấy đến gia đình chúng ta, bạn hữu chúng ta, cộng đồng bên cạnh chúng ta, thế thì từ từ chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội lành mạnh. Sức mạnh của toàn xã hội sẽ phát sinh lệ thuộc vào mỗi một thành viên phát triển một tâm lành mạnh và ý thức đạo đức. Điều này đúng một cách đặc biệt trong những xã hội đa văn hóa và trong thế giới đa văn hóa rộng khắp.

Mỗi một tôn giáo và triết lý quan trọng, chẳng hạn như chúng ta thấy trong trường hợp của Phật Giáo Tây Tạng, Hồi Giáo, Ki Tô Giáo và Khổng Giáo, đã chia sẻ cùng một nền tảng đạo đức nhân bản mà những người không tôn giáo hay triết lý có thể cũng thừa nhận. Chúng ta cần giáo dục trẻ con chúng ta trong những giá trị đạo đức nhân bản nền tảng này, vì thế từ từ toàn bộ thế giới sẽ trở thành một nơi lành mạnh hơn vì lợi ích của tất cả. 
Cảm ơn.

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, January 06, 2015

CẬU BÉ VÀ CÂY TÁO







Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo và cây táo cũng yêu cậu bé rất nhiều.
Thời gian trôi qua…
Cậu bé lớn lên và không còn đến chơi với cây táo nữa.
Một hôm cậu bé quay lại chỗ cây táo, trông cậu rất buồn.
Cây táo nói: “Hãy lại đây chơi với tôi!”
nhưng cậu bé trả lời: “Bây giờ tôi không còn là một đứa trẻ nữa, tôi không muốn chơi quanh mấy cái cây nữa. Tôi muốn có đồ chơi. Tôi cần tiền để mua đồ chơi.”
“Xin lỗi vì tôi không có tiền… nhưng cậu có thể hái những trái táo của tôi và đem bán.”
Cậu bé nghe thế liền hái hết táo một cách vui vẻ và không quay lại chỗ cái cây nữa.
Cây cảm thấy rất buồn.

Đến một ngày, cái cây lại thấy cậu bé quay lại.
Lúc này cậu đã trở thành một chàng trai và đã lập gia đình.
Cái cây lại bảo: “Lại đây chơi với tôi!”
Chàng trai trả lời: “Tôi không có thời gian. Tôi phải làm việc để nuôi gia đình mình. Chúng tôi cần một chỗ để trú thân. Anh có thể giúp tôi không?”
Cây táo trả lời: “Xin lỗi, tôi không có nhà nhưng cậu có thể cắt những cành cây của tôi để về làm nhà.”
Chàng trai làm theo lời cây táo bảo và cũng không quay lại nữa kể từ hôm đó.
Cây táo hết sức cô đơn và buồn tủi.

Rất lâu sau, một ngày mùa hè, cậu bé lại quay lại, lúc này đã thực sự là
một người đàn ông trung niên.
Nhìn thấy cậu bé của mình, cái cây hết sức phấn khởi.
Nó lại nói: “Lại đây chơi với tôi!”
Người đàn ông trả lời: “Tôi đang già đi và cảm thấy rất buồn chán.
Tôi muốn có một chiếc thuyền để đi khắp nơi. Anh có thể cho tôi một cái không?”
“Hãy dùng thân tôi mà làm thuyền, cậu có thể đi thật xa và cảm thấy thật hạnh phúc,” cái cây nói.
Người đàn ông liền chặt cây táo, đóng cho mình một cái thuyền và đi thật xa, thật lâu không quay về.

Một hôm, nhìn thấy cậu bé quay về, lúc này đã là một ông lão, cái cây liền bảo: “Xin lỗi nhưng tôi chẳng còn gì để cho cậu nữa đâu. Không còn táo nữa…”.
“Tôi cũng không còn răng để ăn nữa,” ông lão nói.
“Tôi không còn thân cây để cho cậu trèo lên nữa. Cái duy nhất tôi còn lại là bộ rễ đang chết dần của mình,” cái cây nói trong nước mắt nghẹn ngào.
Cậu bé trả lời: “Bây giờ tôi cũng không cần nhiều nữa, tôi chỉ cần một chỗ để nghỉ ngơi thôi. Sau những năm qua tôi đã mệt mỏi lắm rồi.”
Nghe thấy vậy cây táo liền nói: “Rễ của một cái cây già nua là một chỗ nghỉ ngơi rất lý tưởng cho cậu. Hãy lại gần và ngồi lên đây.”
Ông lão làm theo lời của cây táo.
Cái cây cảm thấy vui sướng hơn bao giờ hết, nó nở một nụ cười có lẫn cả những giọt nước mắt sung sướng.

KHAI TÂM CHO MÙA XUÂN MỚI





Vĩnh Hảo



Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.

Tất cả những ước vọng nói trên, có thể được biểu tượng hóa trong một chữ: XUÂN.

Xuân ấy tất nhiên không phải là xuân của mùa màng, thời tiết. Nhưng một biểu tượng nếu không được cụ thể hóa, tức là thực hiện bằng hành động và lời nói cụ thể, thì mãi mãi nó chỉ là một ước vọng, không bao giờ nắm bắt được.

Và để đạt được một cái gì đó trong tương lai, ai cũng biết là người ta phải bắt đầu từ hiện tại. Không khởi sự từ bây giờ, từ hôm nay, thì ước vọng, thành quả, mục tiêu… của ngày mai, của tương lai, sẽ không bao giờ có được. Thế nhưng, nhân loại trong mấy ngàn năm qua cứ loay hoay, lẩn quẩn mãi ở chỗ khởi đầu, chứ không tiến về hướng mục tiêu để đạt ước vọng như mong đợi. Nghĩa là cứ mơ ước một cái gì tốt đẹp ở tương lai, mà lại cất bước một cách sai lệch, thiên kiến, mù quáng nơi hiện tại. Quả đẹp thì muốn nhưng nhân tốt lại không gieo, hoặc chỉ biết gieo nhân xấu. Muốn hòa bình mà cứ khai binh, khai hỏa bằng những đạo quân nhân danh lý tưởng (hay ảo tưởng? hoang tưởng?) của lãnh tụ nọ, của thần linh kia; muốn hòa hợp mà cứ khai khẩu, khai ngữ bằng lời châm chọc, chửi bới đối phương; muốn tự do dân chủ mà cứ tước đoạt tự do dân chủ của kẻ khác; muốn hòa đồng (các tôn giáo) mà cứ luôn cho đạo của mình là tốt nhất, đạo kia là tệ nhất… Ai cũng cho lý tưởng, mục tiêu, tôn giáo, đoàn thể, đảng phái… của mình là trên hết, sẵn sàng bịt miệng, thậm chí giết hại kẻ khác chỉ vì họ không giống mình, hoặc đã có lời lẽ xúc phạm cá nhân hay tập thể của mình. Như vậy thì làm sao có được mùa xuân thực sự an vui, hòa bình, thịnh vượng cho cá nhân, gia đình, xã hội, đất nước, hay cho toàn thế giới!

Không cần phải chờ đến ngày đầu năm mới khai bút, khai thị, khai giảng, khai trương… để có một mùa xuân an vui và một năm đầy hứa hẹn. Mỗi người chúng ta hãy ngồi xuống trong phút giây này, lặng yên, dừng hết mọi xung động của ý nghĩ, lời nói, hành động; tâm thật lắng đọng, không còn lăng xăng tính toán, sợ hãi, âu lo; không còn những tham lam, thù hận, ganh ghét, nghi kỵ…; không còn những phân biệt, đối đãi thiên vị thân/sơ; không còn biên giới quốc gia, không còn ngăn cách màu da, chủng tộc, ý thức hệ, tôn giáo… Trong giây phút ấy, một nỗi gì, như là niềm thương, mở ra, lan tỏa đến vô cùng. Dù trên thế gian này có xuất hiện hay không các bậc thần linh, các bậc giáo chủ, các vị lãnh đạo các tôn giáo, chính quyền, đảng phái (minh triết hay phàm phu), thì tấm lòng ấy, niềm thương ấy, vẫn hiện hữu, vẫn luôn ở đây, nơi này.

Tâm như hoa, nở ra cho thơm đẹp cuộc đời. Tâm như hư không, mở ra để dung chứa tất cả, để ôm lấy tất cả những phiền muộn, khổ đau của thế gian—tất cả cùng lúc tan biến vào cõi lòng vô tận này.

Mỗi người khai tâm như thế, ở từng giây phút hiện tại, thì ước vọng của chúng ta, mùa xuân của chúng ta, hiển hiện miên trường.

Chống tham nhũng phải bắt đầu từ nội bộ Đảng


“Chống tham nhũng đầu tiên phải là từ trong nội bộ Đảng. Nhiều vụ việc từ nội bộ phát hiện rồi đẩy ra ngoài, từ đó mới có thông tin để chống tham nhũng”.



Thực tế là có một bộ phận đảng viên đang giàu lên nhanh chóng nhưng người dân họ đều biết ai giàu do làm ăn chân chính, ai giàu do tham nhũng. Trong cuộc chiến này nếu chúng ta tiếp tục phát huy được thì niềm tin của nhân dân đối với Đảng sẽ ngày càng cao hơnĐây là chia sẻ của PGS-TS Nguyễn Minh Tuấn, Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), khi trò chuyện với Thanh Niên về đề tài xây dựng, phát triển Đảng nhân dịp 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản VN.


* Ngày 27.2.2012, phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết (NQ) T.Ư 4 về xây dựng Đảng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động... Liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không?... Mai kia Đảng này sẽ là Đảng của ai? Có giữ được bản chất là Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”. Sau 3 năm thực hiện NQ T.Ư 4, theo ông những vấn đề được Tổng bí thư nêu ra hiện nay như thế nào?
- Nguy cơ về một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng vẫn được Đảng coi là nguy cơ rất lớn, ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị, sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Điều đó được Đảng xác định rất rõ. Trong những nhiệm kỳ liên tiếp gần đây, Đảng đều nhìn nhận việc chưa đẩy lùi được nguy cơ đó. Thậm chí có những mặt còn diễn biến phức tạp hơn nhiều.

Sự phân hóa giàu nghèo cũng là một thực tế của kinh tế thị trường. Hướng phấn đấu là đừng để cho nó diễn ra quá nhanh, quá rộng và đòi hỏi chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là đối với người nghèo, vùng nghèo. Việc đảng viên phấn đấu trở thành người giàu là rất tốt, rất đúng, rất trúng. Nhưng cái giàu ấy phải do trình độ, năng lực, tài năng chứ không phải do tham nhũng. Chúng ta chống là chống cái giàu do tham nhũng. Phải phân biệt chỗ này.

Chống cái giàu bất chính phải có biện pháp. Vấn đề Đảng đưa ra thực chất rồi nhưng cần có biện pháp tốt nữa. Ví dụ, việc kê khai tài sản của đảng viên có đúng không, có thật tâm không. Nếu phát hiện ra việc kê khai không trung thực thì có xác minh không? Kể cả các vấn đề dư luận mạng xã hội nói ông A, B, C có từng ấy cái nhà chẳng hạn, thì cơ quan chức năng cũng phải có trách nhiệm nói lại cho đúng. Chúng ta có bao nhiêu cơ quan phát ngôn chính thống, cả cơ quan chủ quản của những cán bộ đó nữa. Thông tin sai thì anh phải thanh minh cho người ta. Anh phải nói lại sau khi xác minh. Biết đâu dư luận lại nói đúng thì sao?

Cái cần là làm cho người dân tiếp cận thông tin hoàn toàn tin tưởng, không hoang mang, không dao động. Thực tế là có một bộ phận đảng viên đang giàu lên nhanh chóng nhưng người dân họ đều biết ai giàu do làm ăn chân chính, ai giàu do tham nhũng. Trong cuộc chiến này nếu chúng ta tiếp tục phát huy được thì niềm tin của nhân dân đối với Đảng sẽ ngày càng cao hơn.

* Trong những năm qua ở VN hầu như rất ít quan chức bị xử lý, án tham nhũng lớn cũng rất hiếm. Đảng đánh giá tham nhũng nghiêm trọng nhưng không có vụ việc nổi cộm nào được xử lý thì liệu đó có phải vấn đề lớn?
- Chắc chắn chúng ta phải kiểm điểm sâu hơn nữa. Ai là người chống tham nhũng? Người chống đầu tiên phải là trong nội bộ Đảng. Nhiều vụ việc nói do nhân dân, báo chí phát hiện nhưng phải nói thẳng không hoàn toàn như thế. Các vụ việc chính do nội bộ đó phát hiện rồi đẩy thông tin ra ngoài. Từ đó mới có thông tin để chống tham nhũng. Bây giờ nhiều nơi không dám đấu tranh phê và tự phê trong nội bộ vì ngại chuyện trù úm, rồi ứng xử tiếp nhận khác nhau trong quá trình phê và tự phê.

Phải nói rằng cơ chế hiện nay chưa an toàn cho người phê bình chứ không phải họ không mạnh dạn đâu. Người ta mạnh dạn được nhưng cơ chế bảo vệ cho người phê bình đúng đắn rất khó khăn. Thực tế đó Đảng biết. Làm thế nào để tăng cường tinh thần đó, bảo vệ những người trung thực, thẳng thắn đấu tranh. Hãy tôn vinh họ, xã hội cần quan tâm họ nhiều hơn. Đừng chỉ tung hô rồi lãng quên họ ngay.

Bác Hồ nói Đảng mạnh là do tổ chức Đảng mạnh. Muốn từng tổ chức Đảng mạnh thì từng đảng viên phải mạnh, tức là phải tập hợp được sức mạnh của đảng viên. Nhiều chi bộ bây giờ ngồi nói chuyện tham nhũng rất ghê, nói cả nước nhưng không bao giờ nói chi bộ mình. Hình như chỗ mình không có ai, không có hành vi tham nhũng nào.

Hiện nay việc phân định rõ trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền nhiều nơi còn chồng chéo, không rõ việc. Mà đã không rõ việc thì không rõ người. Không rõ người thì không kiểm điểm được. Điều đó cũng giống như chuyện “nhiều sãi mà không ai đóng cửa chùa”. Bác Hồ đã nói dân chủ là mọi việc đều được bàn, nhưng khi đã bàn rồi, quyết theo tập thể rồi thì phải giao cho một người phụ trách hoặc chủ trì thực hiện - tức là tập trung. Đó là một quy trình lãnh đạo, ai cũng biết cần phải làm đúng.

* Xin cảm ơn ông!

Trường Sơn

Ăn tim



Truyện ngắn

Đỗ Quyên

Những trái tim đó của ai cũng được.

***

Từ lâu, Chun Hey Gyo đã là một cô gái không xấu, dáng mỏng như lá bài, kiểu đi chao chao dẫu đôi chân rất thẳng. Rõ ràng là mặt đất dưới chân Hey Gyo phải bị nghiêng như thế nào đó mỗi lúc cô rảo bước. Khi trái tim của Hey Gyo được ăn, cô hai mươi nhăm tuổi. Cô yêu không nhiều. Tình yêu nào cũng rành mạch, không chen lấn nhau. Đó là cái khó bậc nhất của việc yêu. (Mặc dù yêu không phải là một việc). Trên con tim của cô, các xa lộ theo đó mỗi chàng trai tìm đến song song với nhau.

Người yêu đầu là một bác sĩ tâm lý. Mỗi khi hôn lên ngực Hey Gyo, anh thường dụi cằm vào bầu vú phải, như lấy đà, rồi quay liền sang bầu trái mà đậu môi. Răng, từng chiếc từng chiếc, rà rà lên núm, khiến trái tim cô gái đập nhanh, gấp, nhưng bình tĩnh. Giống một chiếc xe ô tô bị cảnh sát rượt đuổi nhầm. Biết bị nhầm, xe vẫn cứ chạy; như chọc chơi vậy. Thế là mạo hiểm. Chun Hey Gyo thích mạo hiểm trong đường tình hay không, chắc chỉ cô biết, vì vị bác sĩ tâm lý đó không coi người tình là người bệnh. Anh không còn thừa tâm lý để hành nghề khi yêu. Kẻ nào hay nghĩ rằng trong ngành y, bác sĩ tâm lý là người bị bệnh nghề nghiệp nặng nhất thì là vấn đề của kẻ ấy. Không có anh trong đó! Nhờ khai phá của người bác sĩ trẻ, trái tim hiểu vì sao cô chủ của nó thích được răng đàn ông cà cà nơi núm vú trái. Vẫn chuyện “vú đàn bà quà đàn ông” thôi. Sau khi tim Chun Hey Gyo được ăn, người bác sĩ chuyển nghề. Thấy bảo vì anh có nghề khác kiếm tiền hơn? Lúc đó anh vẫn độc thân. Giờ cũng vậy. Nghề bác sĩ lúc nào cũng là nghề tốt miếng tốt tiếng.

Yêu thật sự tới người thứ ba thì Hey Gyo lấy anh ta làm chồng. Trái tim người phụ nữ này không bị cuộc sống hôn nhân làm thay hình đổi dạng. Cô sống cho chồng và cậu con trai bằng trí óc và chân tay của mình. Đến cả nước mắt cô cũng không phải tiêu tốn cho họ nữa là. Thật ra, chính những cú tình lẻ mới làm tim cô co thắt tới phát mệt. Lại là vận động suông. Nó méo mó đi, chẳng đưa đến các dòng máu ấm nào nuôi cuộc tình. Phải rồi. Không có máu dồn đến, sao gọi là tình? Như bờ sông không có phù sa thì gọi là bờ gì, sông gì? Đó là nói về con tim. Còn núm vú có cái lý của nó mà lý của con tim không thể nào thấu nổi. Ngay cả chuyện “Vú là gì?” tới nay trí óc vẫn chưa biết thấu đáo về giới tính của nó; nói gì đến núm vú.

…Nhiều tháng chia tay với người bác sĩ tâm lý… Tối thứ bảy nọ, Chun Hey Gyo một mình đến đám cưới của chị bạn quen sơ. Thế cũng mạo hiểm. Trong bộ áo váy, hai núm vú của cô ngọ ngoạy nhìn sang nhau. Hey Gyo biết vậy. Vào phòng cưới mà hai bầu vú những muốn tự khẳng định như thể chúng đang trong phòng tắm hay ngoài bãi biển! Chúng muốn có cánh ngay lúc đó. Nếu như không có bầu ngực trái che chắn, chắc con tim sẽ xấu hổ lắm.

- Xin lỗi… Hey Gyo, nhớ tôi không?

Một tiếng Hàn giọng Nhật của người Canada trắng thuần chủng. Không quay sang nhận lấy thứ tiếng Hàn đó. Chun Hey Gyo đã biết trước sẽ có nó tại tiệc cưới, ngay khi đang trang điểm ở nhà. Hai núm vú hướng về phía người đàn ông, nhìn đáp lễ. Cái bên trái nhấp nháy, như con mắt hiếng.

***

Nhà văn ăn-tim-viết-sách cho biết, những quả trái tim của ai cũng được. Ông không câu nệ trong hay ngoài nước Úc, giới tính, nghề nghiệp, sắc tộc, tuổi tác… Mà chọn theo gu của ông.

“Cần nhất nó phải tươi, còn thoi thóp co bóp thì tuyệt. Thế thôi. Đương nhiên phải là tim của chính những người tôi muốn. Còn muốn kiểu loại gì thì tùy. Khó nói trước. Lắm khi sách nó chọn tim. Nhưng thường là tim mình ăn vào thế nào thì đẻ ra sách nấy. Vâng, đó là hai điều kiện vàng. Các hai núi vàng, tôi cũng không đổi. Tôi kinh tởm các con tim khô lạnh. Kể cả từ thời chưa phát hiện mình có khả năng ăn tim để rồi viết sách. Hồi nhỏ, mỗi lần thăm bảo tàng động vật hay vào phòng thí nghiệm nhà trường, tôi đều nôn ói cho đến tận mật xanh hoặc bất tỉnh khi nhìn các lọ ướp những quả tim, bất luận của người hay không phải của người. Cha mẹ đưa tôi sang cả Anh quốc, đến các bác sĩ hàng đầu, cũng không chữa trị nổi. Một nông trại nho rộng lớn phải đi đời. Rồi hai cụ cũng qua đời theo. Tôi còn lại, lớn lên… Lớn lên với chứng bệnh, thành nhà báo. Là chuyên gia phỏng vấn, giao thiệp bạn viết đó đây đã dẫn tôi đến việc biết mình có cái tài “ăn” oái oăm này. Vâng, chuyện phỏng vấn phỏng véo kiếm ăn đã đưa tới chuyện viết văn rong chơi. Đang còn là chơi thôi. Đến nay được ba, bốn cuốn-sách-tim, “tiền nhuận bút chả bõ dính nhà băng”. Bà vợ cũ của tôi hay nói, rồi phẩy ngón út trái lên. Tôi lại nghĩ, ăn những thứ khác thì không sao; ăn trái tim người ta mà kiếm bộn bạc về tay mình, tệ quá! Phải không? Tất nhiên, tôi đang cần tiền. Sống vất vưởng thế này…

Phải minh định một điều. Với các nhà-văn-tim khác không biết sao, nhưng với tôi không nên suy diễn theo kiểu truyện cổ anh em nhà Grimm rằng, hoàng hậu đinh ninh ăn tim gan Bạch Tuyết rồi mụ chắc từ nay mình đẹp nhất đời; hay theo lối các võ sĩ thời xưa phải ăn tim đối phương quả cảm giúp thêm khí phách và chiến thắng thì mới vinh quang. Vì tôi quan niệm trong nghiệp văn không có kẻ thù. A, trong nghề báo thì có đấy, kẻ tình địch luôn ở mọi nơi đối với thứ nghề kinh doanh chữ.

Vẫn đang nói về các quả tim, bạn ạ. Ngay khi nó bị bệnh, hay là tim của người bị bệnh gì đó, tôi đâu ngại. Những trái tim kém may mắn cũng sẽ cho tôi dinh dưỡng thông tin về chủ nhân. Có thể lại nhiều và quý là đằng khác. À, thoạt đầu tôi cứ nghĩ, áp dụng cách chữa chứng mồ hôi quá nhiều do cơ thể suy nhược là ăn tim lợn và uống nước canh, thì có thể tạo hiệu ứng nào đó trong khi tôi ăn tim người. Song, dường như tôi chẳng thấy gì đặc biệt khi quan sát kỹ vận hành của các giọt mồ hôi của mình. Tôi vốn bị táo bón từ nhỏ. Ngay khi chưa viết-văn-tim, hằng ngày cũng phải ăn trái cây. Nho chẳng hạn. Trước kia, ở tòa soạn tờ The Kangaroo, khi các đồng nghiệp đi hút thuốc tôi bắt đầu rút trái cây từ ngăn tủ ra. Họ xuống đến hàng hiên tòa nhà, rút thuốc, châm lửa. Tôi ra tới hành lang, nhìn xuống, nhai trái cây. Họ nói về bài vở đang dở dang, và thường chuyển nhanh qua thời tiết. Cuối cùng vẫn chuyện gia đình rồi mốt, nếu có phụ nữ trong đám đó; nếu toàn đàn ông, đoạn kết rất linh tinh lộn xộn, thường là chuyện may rủi của một văn nghệ sĩ trai nào đó. Tôi trên này, một mình. Nhâm nhi trái cây và đau đáu về cuốn sách đang viết. Tất nhiên. Một mình.

Quên chưa kể, tôi có thói mút tay từ nhỏ. Và thường được các cô cậu bồi bàn nhớ dai vì cách liếm các ngón tay rất ngon lành. Thói tật gì cũng có cớ thể hiện. Tôi để ý rất nhiều người Việt coi việc xỉa răng bằng tăm như một thói quen sau bữa ăn. Tất nhiên trong đó lý do vệ sinh là chính, mãi thành thói quen tâm lý. Khi đó tâm can họ mãn nguyện lắm thì phải. Ra khỏi tiệm ăn, lên xe ô tô ngồi sau tay lái mà cái tăm còn nhong nhong trên miệng. Xỉa răng gì, có mà mút tăm thì có! À, nghe nói có một số người già ở Việt Nam xỉa răng xong ưa đưa lên mũi để ngửi. Tại thị trấn này, tôi thì hay mục kích vụ “hửi tăm” ở một bà cụ, má của chủ tiệm Ba Mùa. Thì vẫn biết đó là chuyện cá nhân, như một thú nhâm nhi thói tật thôi. Luận điểm nọ cho rằng, mút ngón tay là thói quen ở vài dân tộc, di căn từ bẩm sinh bú tí mẹ. Lại có trường phái khẳng định mút tay liên quan tới phương tiện ăn. Mà phương tiện ẩm thực của con người, cũng như phương tiện giao thông và nhiều chuyện khác, đều học lỏm từ loài vật. Ngu gì mà không học lóm! Chỉ có loài vật ngu mới không chịu học từ con người. Bộ môn Phỏng sinh vật ra đời vì thế. Dân châu Âu ăn bằng nĩa vì bắt chước gấu dùng các móng tay vọc đồ ăn; một số nước châu Á thì dùng đũa là cọp-pi mỏ chim; các xứ theo đạo Hồi (Ấn Độ, Mã Lai, châu Phi) là khôn nhất vì ăn bốc, nhái theo khỉ. Nhiều người tưởng chúa tể lãnh vực mút hẳn là dân ăn bốc? Không đúng, theo tôi. Suốt các bữa ăn, tức là suốt một phần không nhỏ cuộc đời, các ngón tay đã mút họ. Vậy không còn khái niệm họ mút ngón tay nữa. Người Âu- Úc rất hay mút ngón tay khi ăn. Xấu quá! Ha ha… Trong đó có tôi. Trời, có lần thăm Thổ Nhĩ Kỳ, tôi ngồi đối diện một cô gái, chắc người Ý, dân sang trọng ra trò mà kết thúc đĩa spaghetti bằng ngón tay trỏ thanh tú. Hai ngón tay trỏ của tôi khi đó dựng cả dậy. Chúng tìm thấy bạn gái. Như muốn động tình.

Vâng, tôi vẫn nhớ là đang nói chuyện ăn trái cây đấy chứ… Khi mút các ngón tay dính nước trái cây, dường như tôi tiêu hóa đến hết những con tim. Tôi chắc chắn trong Tòa soạn, thậm chí cả cái tỉnh Sunshine này, chẳng có tay văn sĩ nào mang chứng ăn thịt người để viết sách, ngoài tôi. Cả tiểu bang Melbourne không nói làm gì. Trời, lên trung tâm Melbourne City những ngày gió lớn trong nắng chiều thì biết tay nhau. Không, đúng ra là biết tim nhau. Hì hì… Bạn hỏi gì? Thì mã tầm mã mà. (Tôi không thú vị khi ví mình là ngưu đâu! Là đàn ông, tôi muốn được làm ngựa!). Vâng. Tim sẽ tìm thấy tim. Máu thịt đòi gặp máu thịt. Qua cung cách, cái nhìn của kẻ ăn thịt đồng loại là biết nhau ngay. Một bậc thầy của tôi ở Nam Phi cũng có khiếu ăn tim, nhờ vậy viết được tự điển bốn thứ tiếng. Khi qua đây thăm tôi, ngài đã chỉ mánh tìm nhìn đồng nghiệp đồng sàng qua ánh mắt trong nắng xiên xiên. Tinh sắc của con người đổ lên cái nhìn. Chúng tôi ăn-thịt-người nên mang cái nhìn của quạ, của cọp. (Bà bạn gái của tôi thì ăn chân, thế mà cũng có ánh mắt như vậy. Lạ!). Thứ nữa, loại như tụi tôi tất nhiên thường phả ra hơi thở rất khó chịu. Tôi có hoa quả bù lại nhân tính cho hơi thở. Không hiểu ở các vị khác, lại là ăn các thứ khác tim, thì sao. Tôi và người bạn gái không yêu nhau qua hơi thở, nên cũng chả biết! Với ông thầy Nam Phi, đó là xì-gà Havana. Ổng giàu, có tiếng tăm, đặt được xưởng sản xuất xì-gà riêng cho mình. Một quan chức khá nổi danh trong chính trường Mexico, cũng xơi tim sinh sách- sách của ông này vớ vẩn thôi, toàn về di dân bất hợp pháp, chứ văn vẻ gì- thì lại khử hôi mồm khi đi hôn các cô buôn phấn bán hương. Bạn cười? Nghe cái cười, tôi biết bạn hiểu. Gã quan chức ấy đến với các cô chỉ để hôn, chẳng ham gì khác. Bạn bảo sao? À ừ. May mà các hoa không biết mục đích tìm hoa của lão già nửa dê nửa chuột! Nào có đâm hoa chọc hoét gì cho cam. Hít hít mút mút thôi mà! Chán hơn cả bà má hửi tăm! Ha ha ha! Không hiểu sao tôi kinh tởm gã chính khách viết văn ấy. Xin lỗi, có lẽ tôi bất công. Trong làng văn ăn tim, nghe nói có nhiều cách khử hôi miệng. Già Lev Tolstoy nói đúng đấy, “Có bao nhiêu trái tim có bấy nhiêu cách yêu”, nên có bấy nhiêu mùi hôi ở miệng chúng tôi. Nhờ vậy, sách chúng tôi làm ra sẽ mang khẩu vị riêng. Chắc giới phê bình và một số độc giả phải ngửi thấy chứ? Cái hôi thối chân thật của những chữ nghĩa bật ra từ máu thịt tươi sống”.

***

Tony Stewart là người làm chứng hôn nhân, một nghề thuộc hàng chuyên nghiệp trong vùng. Tiền kiếm được không cao lắm, nhưng đều. Xứ sở mà chính sách bảo lãnh vị hôn thê là quốc sách mà. Tony Stewart độc thân. Người ngoại đạo thì lạ. Ốc không mang nổi mình ốc lại còn đòi… Nhưng với nhà văn ăn tim của chúng ta, chuyện này sáng tỏ như tất cả những gì hiện ra dưới ánh sáng mặt trời và mặt trăng. Nhà văn mất bốn năm lùng tìm tim của Tony Stewart. Sau một lần leo núi, bị trượt và lăn như một tảng đá biết kêu, chàng trai tưởng như khỏe đẹp đầy nam khí đã thành pho tượng. Vô sinh. Rồi trở thành người khai sáng thủ tục cho các đôi uyên ương.

“Tâm sự của một Người Chủ Hôn Lễ (*)

Tony Stewart là một người chủ lễ cưới. Đây là tâm sự ông muốn gửi đến độc giả của báo The VIP- các cô dâu chú rể trong vùng Nam Fornia- nhân mùa cưới: 

Ngày 17/4/1988

“Em sẽ đồng ý lấy anh chứ”?- “Em đồng ý!”- Đó là câu hỏi và câu trả lời rất phổ biến. Đó còn là lời thổ lộ, cam kết mà không một ai coi nhẹ. Mười bốn năm nay, tôi hướng dẫn các buổi lễ thành hôn. Và tôi thích được là một phần của Ngày Quan Trọng Nhất trong đời sống các lứa đôi; dù biết đó là ngày-của-họ và là hôn-lễ-của-họ. Có một hoặc hai điều kiện pháp lý cần thiết. Bất kỳ tiền thù lao nào cũng được định giá ứng với: hai cuộc viếng thăm, một buổi diễn tập và buổi lễ chính thức. Một khi tiền thù lao đã được chúng ta đồng ý, sẽ không hề có bất kỳ “chi phí ẩn” nào khác! Tất nhiên, điều quan trọng là bạn cần cân nhắc và biết kết hợp hài hòa các yêu cầu văn hóa vào buổi hôn lễ của mình. Tôi thực sự thích thú và sẵn sàng tham gia sắp xếp kế hoạch cho Ngày Của Bạn: Có những lễ cưới được làm tại các công viên đầy ong bướm trong địa phương. Những cặp uyên ương khác lại dùng Ngày Của Họ trong các khu vực trang nghiêm và gọn đẹp quanh nhà thờ. Nhiều đôi lứa chọn lựa một phòng cưới cao rộng trong các lâu đài tiếp tân lộng lẫy. Lại có không ít hôn lễ được thực hiện trang trọng nơi bờ suối sau khi khách cưới đã vui chung ở phòng cưới cao sang cạnh đó. Cũng có đôi ba cặp làm Ngày Của Mình ấm cúng và khoáng đạt trên một con tàu nơi sông biển. Các khả năng thì vô hạn và không có quy định nào! Đó là Lễ Cưới của-bạn và tôi, một trong các Người Chủ Hôn Lễ chuyên nghiệp- mong muốn được làm Người Chủ Hôn Lễ của bạn, để giúp bạn có một ngày yêu dấu và không thể quên.

Tony Stewart

Người Chủ Hôn Lễ”

“Chàng” Tony yêu hết họ, những cô dâu mà chàng làm chứng. “Ông” Stewart cũng vậy. Ông còn yêu thuần thục hơn chàng! Tony Stewart đan lồng hài hòa và kín đáo tư tình vào công vụ. Chả có lỗi gì, khi trong vai một ông vua tự phong, một vị tộc trưởng tự ban sắc. Tony Stewart chỉ yêu bằng con tim. Không hề bằng chân, tay, ngực, bụng, cơ quan sinh sản, hậu môn, mông, môi miệng, ánh mắt, nụ cười, hơi thở, tai, mũi, khuôn mặt, đầu, râu tóc và làn da. Không kể chỗ kín, các chỗ hở của Tony Stewart cũng chẳng phát tia sáng của nam tính. Chưa thấy cô dâu nào vấp ngã trong nhà thờ hay trên bãi cỏ dưới ánh mắt dẫn đường của người làm chứng hôn nhân này. Bàn tay của Tony Stewart mới nhạt làm sao! Sau loại ánh mắt với ánh mắt, nếu loại giao hợp thứ hai của nam nữ là tay với tay (và cuối cùng- theo quan niệm truyền thống- loại thứ ba, bằng bộ phận sinh nở) thì ở những cái tay Tony Stewart phải tốn thêm một ký lô muối dội thẳng vào. Trong trắng. Cao thượng. Xa cách. Dị nhân. Các ảnh cưới mà Tony Stewart sắm vai nhân chứng đều được nằm âu yếm, cẩn trọng trong các album. Ông vua không ngai không mỹ nữ trên long sàng, chỉ trên giấy chứng hôn thú, đã sắp xếp hình ảnh theo ngày tháng cưới. Thế là công bằng. Không kỳ thị.

Gần ba trăm phụ nữ đã sống hòa thuận trong tim Tony Stewart. Các chú rể, họ là thân chủ- người chi tiền- của Tony Stewart và là người đàn ông trên đời, là chồng của những người vợ trên giấy của Tony Stewart. Nếu như phải ra tòa, ông sẽ cãi: gần 600 người đó là bạn, đúng tinh thần tâm sự của bài quảng cáo. Bác sĩ pháp y cứ việc mổ xẻ tim Tony Stewart. Gần 300 phụ nữ đã sống hòa thuận trong trái tim ấy! Rõ ràng họ chỉ có thể là bạn của ông. Ông không phải là vua, và cũng chỉ là đàn ông tựa như chuyển hệ. Còn họ, những đàn bà.

***

Cuối cùng thì một nhà thơ cũng đã chết. Lưu Trầm Thu. Đó không là tên thật của anh, mà tên vợ anh. Anh yêu vợ lắm. Yêu đến mức ôm vợ trong thơ suốt đời. Ôm luôn tên của vợ làm bút danh. Thế là yêu hạng thi nhân. (Cũng không hiếm trong ngành văn chương. Hà Thành có nhà tùy bút Nguyễn Liệt Na là một.) Nhưng yêu tới cỡ thế này thì chỉ ở thi hào thi bá: Khi cầu hôn, thề “Anh chỉ có thể chết được khi các trang bản thảo thơ xếp chồng lên cao bằng em!”. Thơ thương Lưu Trầm Thu, nhưng than ôi, trời hại anh.

Thu vợ không phải là người thấp. Nhìn dáng đi là biết, không tung tẩy vẻ tất bật những chuyện không đâu như những người lùn. Đây là một người bé nhỏ, thật là bé nhỏ. Cơ bắp, xương thịt tỷ lệ thân thể là của một người bình thường ở tầm một mét hai. Thế thôi. Như trên màn hình trang đời, ông Tạo thu cô lại bảy lăm phần trăm vậy. Ở những người đàn bà lùn, nữ tính an phận tỏa trong cộng đồng lùn. Thu vợ từng có những giấc mơ hội nhập vào họ. Trong hai, ba lần mơ cô yêu một chàng lùn đẹp trai thổi sáo tuyệt chiêu. Ở tuổi dậy thì, khi chiều cao của các cô gái con nhà lam lũ thường được hiểu là tới chậm, Thu vợ còn được gọi là “Hoa khôi tí tị tì ti”. Khuôn mặt chị trong những ngày vấn vành tang đùng đục vẫn ánh lên nét hoa.

-Con giời đè!- Bà ngoại rủa mỗi khi cô bé làm trái ý.

-Bà cứ nói vậy cháu nó ế mất. Hăm hai hăm ba rồi còn gì… – Người mẹ tiếp lời.

-Sao mẹ mày không bắt nó chịu ông Đôn đi?- Bà già vẫn một giọng.

-Bác ấy già yếu quá. Về đấy thì bằng như làm lẽ…

Cô bé từ trong bếp vụt chạy ra sau vườn.

Năm năm nữa.

-Cứ nói cho nó nghe thấy nhục mà bỏ đi.

-Cho khuất mắt.

-Thằng bố nó mà nghe còn tức hơn.

-Cho càng tức; đi cho nhẹ thân. Rõ ghét từ cha chí con.

-Của tội của nợ.

Cô gái từ vườn rảo bước đến bờ sông. Bước thấp bước cao giữa trời mù sương. Một dấu phẩy bơi trên trang giấy trắng đục. Thấp lùn cũng là một cái tội cái nợ? Tội: nhúng nước rửa cho hết. Nợ: trôi theo dòng, tan đi. Dấu phẩy nhấp nhô và dòng sông Hồng cuộn chảy. Dấu phẩy chìm dần trong dòng máu lớn.

Những người đàn ông lấy làm lạ. Người trí thức cân nhắc, “Nhìn con bé từ đầu đến chân chẳng sợ mất nhiều thời gian”. Dân lãng mạn tiếc, “Giá mà em cao thêm bốn mươi phân nữa…”. Kẻ thô tục nuốt nước bọt, “Lờ em be bé lá tre non…”. 

-Anh cứu em làm gì? Em hận lắm!

-Em biết không, những khi nghe người ta lăng mạ em, anh bèn về nhà nằm mơ. Mơ rằng khi nào anh xin cưới em làm vợ, sẽ hứa trước em là anh chỉ có thể chết được khi các trang bản thảo thơ xếp chồng lên phải cao bằng em!

Cô gái cả cười. Lần đầu tiên chiều cao của cô có giá.

Cô hỏi người con trai to và mạnh hơn dòng nước đỏ ngầu từng ôm níu lấy cô:

-Thơ cao lắm hay sao mà em được đo với nó hở anh?

-Em là tầm thơ của anh.

Họ thành Thu vợ Thu chồng. Họ hạnh phúc. Hạnh phúc quá sẽ như giấc ngủ say, thế nào cũng tự đánh thức bằng những cơn sảng.

-Em người ngợm bằng cái thước kẻ thế này mà anh còn cho cưới xin về làm vợ đàng hoàng. Đời em mong gì hơn. Nói dại miệng trời vả nhé, thà anh sứt tai gãy gọng gì đi, anh ngu si gì đi, em yên lòng! Đằng này…

-…..

-Em giữ trinh tiết cho anh là một lẽ. Mà anh còn tân cho em, càng làm em khổ. Sao anh không yêu dăm ba người đi, vợ nọ con kia rồi cuối cùng hẵng đến với em! Tới một ngày kia, anh biết các cô khác, chân dài mặt đẹp, thế nào anh cũng bỏ em thôi! Mà đàn bà con gái ngoài đường chân có dài thì dài, “múi mít” cũng chỉ có một, chả đẹp chả thơm bằng của nhà đâu!

-…

-Anh bảo thơ nó sẽ giữ anh cho em. Em chả tin. Thế ra thơ không mê gái lạ à? Nhưng em có cách của em. Anh muốn biết không? Ông Trời ông Phật không cho em thân hình bằng chị bằng em thì tấm lòng em phải to khỏe này, phải cao đẹp này. Gấp đôi họ. Thế có đủ chưa? Thì em sẽ cho nó gấp ba. Lòng em lúc nào cũng bao phủ, chăm sóc anh, làm tình với anh.

Vợ bé chồng to dẫn nhau đến chùa Trong động Hương Tích, thề: “Có trời xanh Phật cao đây, con thề bên nhà con là con sẽ không ăn nằm với ai ngoài nhà con!”.

Lưu Trầm Thu thường sang phố, bên kia sông. Nơi có bạn có hội. Mỗi khi viết xong một tập thơ, anh chở thơ qua đó ngâm vịnh cả tháng. Rồi lại vất vưởng chở thơ về cho vợ. Lần ấy, chắc giời đi đâu vắng, để mưa bão lớn thế không biết. Thu chồng từ bên phố về đến đúng xế ngang chùa làng bên thì đành chôn chân dưới cây đa giữa đồng. Sấm to. Sét lớn. Nhà thơ không thể nương cửa Phật lánh nạn. Đời cũng là đạo ở anh, Lưu Trầm Thu phải giữ mình với vợ đang ngồi bậu cửa chờ, và phải giúp ni cô đang hành đạo sau cổng chùa. Người nữ này si mê anh từ ngày còn là học trò.

Chắc rồi Thu vợ sẽ chẳng lấy ai làm chồng? Kiếm đâu ra ở đời một người đàn ông nữa thông minh và to khỏe, từ sống cho đến chết thủy chung với vợ. Lại là vợ tí hon. Kiếm đâu ra một người chồng nữa biết làm thơ để có thể xếp các trang bản thảo của mình lên tiếp với người quá cố?

Sau khi nhà thơ ra đi, nước sông Hồng vẫn ngầu đục bời bời, mà ven sông Hồng thì buồn lắm. Người trí thức chẳng có thời gian để nhìn đi đâu, dù chỉ là cái nhìn dấu phẩy; dân lãng mạn thả đời theo các em chân dài; kẻ thô tục đã hết cả nước bọt. Vậy, Thu vợ sẽ yên thân với cánh đàn ông. Còn đám phụ nữ? Người mẹ và người bà vẫn còn sống chống mắt coi hạnh phúc của con và của cháu trong hồi sau. Ni cô không còn ở ngôi chùa làng bên nữa; sư ông trụ trì cũng không biết gì hơn. Người đàn bà trong Thu vợ liệu có thức giấc vì lời thề chùa Hương? Mà thôi, Lưu Trầm Thu, hãy yên nghỉ. Chỉ nội cái việc văn chương dò hỏi như thế trong khi gái góa trở tang cũng đã là một thứ văn chương vô ý!

***

Người bác sĩ tâm lý đã vô tình làm máu thịt Chun Hey Gyo trở thành thực phẩm thứ nhất cho văn chương.

Đầu tiên, nhà-văn-tim nếm Chun Hey Gyo để tạo ý đồ, dựng dàn bài và, khó nhất, lấy giọng điệu. Theo ông, đây là thủ tục nhưng vẫn cần ngẫu hứng. Không có ba đỉnh này, không làm nên tam giác tiểu thuyết. Cũng hồi hộp không khác khi làm thơ là bao. Giọng điệu là từ cao xanh dội xuống; ngay cả với các tiểu thuyết trần thuật, tả chân theo đường thẳng. Ý đồ của một cuốn sách là nền tảng có ngay dưới lòng đất mà nhà tiểu thuyết sinh sống. Dàn bài? Nó dàn trải trên khắp mặt tường nền nhà ăn nằm hàng ngày với người viết. Ba thứ đó lần này có mã số ẩn náu trong con tim Hey Gyo. Nếu biết thế, chắc gì chàng bác sĩ đã yêu cô hào hứng đến vậy. Chúng ta có thể than rủa thay cho chàng:

“Sách truyện là thế ư? Tại sao lão ta phải để ngòi bút leo lên đầu vú của nàng, theo các mạch máu về hành hạ con tim tội nghiệp của nàng, chỉ vì cái giọng điệu văn vẻ chết tiệt đó! Ta ị vào cái thứ chữ nghĩa nô lệ thể chất con người! Văn học là nhân học đâu phải theo trò gán ghép ấy! Gì nữa đây? Cái dáng đi lềnh lệch của nàng đã làm xiêu đổ lòng ta! Không một cô người mẫu nào được trời tặng món quà đó. Đến cả nghề y khoa hiện đại của ta cũng chưa nghĩ tới mối liên hệ giữa trái tim và dáng đi ở một con người, thế mà thằng cha mọt sách mượn vía chữ đã khai thác. Mị dân! Phù thủy! Vô nhân bản!”.

Không nói cũng biết, tim của ngài Stewart thì làm nhiệm vụ của người thợ cày cho một tiểu thuyết gia: tìm chi tiết, kiếm nhân vật, rồi thế mà viết. Sòn sòn là đô sòn! Mỗi ngày cứ việc đẻ ra năm, bảy trang, ví dụ vậy. Ừ, mỗi cô dâu- nhất là các cô dâu da màu và lai- tận tụy hóa thân trong cơ thể nhà văn của chúng ta để tái sinh nơi trang sách. Họ làm vậy đâu phải để chiều lòng nhà văn, hay để muốn dự phần vào kho tàng nhân vật tiểu thuyết của nhân loại! Lý do chỉ là họ đòi đền bù sự lạm dụng của người chủ hôn lễ Tony Stewart. Nhưng họ đã nhầm, không một sự liên hệ nào giữa cá nhân họ, từ tên tuổi, hoàn cảnh sống cho tới cá tính của họ hay của vị hôn phu của họ ánh được lên các trang văn. Nếu thắc mắc với các chuyên gia phê bình về mối quan hệ hiện thực và tưởng tượng, chắc chắn họ sẽ được giải thích qua loa: “Hừm, có phải đời thế nào thì vào văn thế nấy đâu, mấy bà?”.

Tiêu hóa hai con tim trôi chảy. Cái thứ ba thì không. Trong cơ thể cũng như trên bản thảo, nhà văn của chúng ta thấy sinh sự mỗi khi ăn nhà thơ Lưu Trầm Thu. Có thể tại vì đồng nghiệp ăn nhau? Cũng khó mà biết. Trước, trong hai cuốn sách, nhà văn cũng may mắn xơi tái cả một cây đại thụ của văn học Pháp mà có sao đâu! Hay vì thời gian này, ông ăn uống thất thường? Cơm đường cháo chợ, như người Việt hay nói. Thoạt đầu nhà-văn-tim này mất cảm giác ngon miệng trong ba bữa thường nhật. Khi ông bước vào quán ăn Tàu ưa thích nhất ở Sunshine, nước bọt không còn tiết ra nữa. Trước, bắt chước người Trung Hoa, thường là ông phải chạy đi nhổ đại một, hai bãi nước bọt ở góc khuất nào đó. Ông cho là vì mệt mỏi, nên chưa để tâm. Tới khi có các biểu hiện một-một giữa việc ăn tim nhà thơ họ Lưu với sức khỏe của ông và tình trạng của văn bản, nhà văn chần chừ mãi mới đi khám bệnh. Khi viết hai cuốn sách kia, cơ thể ông thay đổi gần giống như khi ông ăn Chun Hey Gyo và Tony Stewart. Cảm hứng cũng từa tựa. Sau Lưu Trầm Thu, khác hẳn. Cứ nhâm nhi một tí họ Lưu là như ngậm sâm trong miệng; nhiều lần ông viết quên cả bà chủ bút, sếp của ông, đứng sau lưng. Quên cả bà chủ nhà, vợ ông, đứng sau lưng. Thậm chí cả bà bạn gái- đứng trước mặt, trên màn hình- ông cũng quên luôn. Cho nên, ông coi việc khám phá và kiếm về được trái tim Thu chồng như một vận may to nhất trong đời viết văn ăn thịt đồng loại của mình.

Nhà-văn-tim tìm đến một nữ bác sĩ tim mạch không nổi tiếng. Ông tránh người bác sĩ quen thuộc, vị giáo sư tim mạch đầu đàn của Đại học Monash. Phần vì đâu còn đủ tiền trả, phần vì linh cảm sự lạ ở Lưu Trầm Thu. Ông ngộ rằng nghề viết của mình có những chốn linh thiêng mà khoa học không nên can thiệp. Ông bắt đầu thấy hối hận vì cái tật nhát chết: ngay khi gia nhập làng văn lạ lùng này ông đã mua ngay bảo hiểm nhân thọ với giá cao và neo trang văn vào bệnh án của bác sĩ tim mạch. Ông bắt đầu ngừng việc mỉa mai các cây bút Á Đông khi họ không tách bạch việc ăn thịt đồng loại với các thực phẩm khác. Và nể phục họ, bằng bản năng kín đáo truyền thống, đã không san sẻ với người ngoại đạo- kể cả vợ chồng hay bạn chăn gối- mọi uẩn khúc xung quanh hành vi ăn người viết sách.

-Vì lý do nghề nghiệp, tôi khó có thể kể về một số điều kiện sinh hoạt đặc biệt của mình, thưa bác sĩ. Mong cảm thông- Nhà văn thấp giọng, năn nỉ…

-Ông yên tâm. Ở đây, chúng tôi bảo đảm quyền thông tin cá nhân cho đến nhịp đập cuối cùng trên con tim bệnh nhân cuối cùng của mình.

Nhà văn ăn tim cười, một điệu cười không có biểu hiện gì để gây hại. Bình thường ông sẽ cười ruồi. Một cái cười ruồi bay thẳng vào mặt đối phương, và vo ve trong đầu họ suốt cả ngày. Trừ bà chủ bút, các đồng nghiệp đều ngán ông tới cổ là vì vậy.

-Ông dư biết, trái tim là bộ phận quan trọng bậc nhất của thân thể. Nó được ví như cơ xưởng làm việc ngày đêm không nghỉ, bơm máu đi khắp cơ thể, mang theo ôxy và chất dinh dưỡng tới mọi nơi. Khi quá trình này bị gián đoạn hoặc hoạt động bất thường, toàn bộ cơ thể sẽ rệu rã, thậm chí tử vong. Đấy là lúc bệnh tim xuất hiện…

Nghe chỉ đến đó, tất nhiên, ông nhà văn của chúng ta đã ói ra. (Không phải vì nhìn thấy một con tim khô lạnh). Lần đầu tiên ông hiểu vì sao có những kẻ nhảy chồm lên bóp cổ người đối diện. Ói quả là một biện pháp ngăn chặn án mạng. Thân thể con người thật nhân đạo!

-Tất cả mọi người, mọi lứa tuổi đều có nguy cơ bị bệnh tim, nhưng nạn nhân chính của căn bệnh hiểm nghèo này là cao niên và nam giới.

Sau nửa tiếng chịu cực hình, nhà văn ra về. Bình an vô sự, cho cả hai bên. “Thế mới biết dân phương Đông có tài chịu đựng!”. Chỉ còn hai mươi đô la cuối cùng của tuần đó, ông thưởng cho mạng sống của mình một chầu quán Tàu Sunshine, dù chẳng tiết được tí nước miếng nào. Tháng sau, qua xét nghiệm và khám lần hai, nhà văn được biết nơi trái tim ông động mạch vành tạm thời bị thắt lại. Biến thành một người thí nghiệm bất đắc dĩ và chơi ú tim với bà bác sĩ, ông vui mừng xiết bao khi khẳng định được Lưu Trầm Thu là sự kiện trong thế giới chữ nghĩa của mình, và bụng bảo dạ, “mà cũng là vấn đề của văn học nói chung”. 

Cuối cùng, vấn đề đó nó là thế này… Tất cả đời thực của Lưu Trầm Thu trở thành cuộc đời nhân vật Sam Bithoor trong truyện. Một minh họa cho phép ánh xạ một-một. Các khác biệt chỉ là chi tiết vặt mà chính nhà văn cũng không can thiệp. Hoặc đó là biến dạng sau khi địa phương hóa từ Việt Nam qua Ấn Độ. Thu chồng thì là Sam chồng, Thu vợ là Sam vợ (có mập hơn Thu vợ dăm bảy ký lô và nhỉnh hơn chừng dăm ba phân), sông Hồng thì thành sông Hằng, chùa Hương thành Mandhar Devi, v.v…

Ngày và đêm, viết trong một năm rưỡi, nhà văn ăn tim của chúng ta không còn thói ngưng để đọc lại từng chương theo thói quen. Khi xong câu cuối cùng, ông hình dung thấy cái gờn gợn bám vào hai bàn tay suốt một năm rưỡi bỗng từ từ biến mất. Như đứa trẻ lấm lem vừa xây xong lâu đài cát, ông xòe hai bàn tay ra nhìn. Không còn gì trong đó.

Bạn sẽ quan tâm việc ông nhà văn có ngạc nhiên về sự trùng hợp của nhà thơ họ Lưu ngoài đời và nhân vật Sam Bithoor trong sách? Nếu ở hai, ba cuốn sách trước, hay ở một cuốn sách khác của tác giả khác, thì ông nhà văn ăn tim cũng sẽ ngạc nhiên. Nhiều khả năng ông sẽ tu chỉnh cuốn sách của mình, hoặc la lối cuốn sách của tác giả kia. Bây giờ thì không. Ông hóm hỉnh, nháy cái mắt xanh lơ, trả lời trong buổi ra mắt sách mà ông tưởng tượng. “Lưu Trầm Thu đã thành Sam Bithoor là qua hai bàn tay của tôi. Vâng, qua trái tim của tôi. Điều đó mới đáng để tâm. Sau đó họ giống nhau hay khác nhau thế nào, là theo ý Phật!”.

Sam Bithoor giống Lưu Trầm Thu thì không lạ cho lắm. Thi nhân, xứ sở nào cũng có. Và cuồng si giống nhau. Tư chất, điệu bộ khác là mấy. Dưới ánh mặt trời chung này. Ừ thì những ánh trăng có thể khác nhau ở mỗi vùng trời đất. Sự sống và cái chết của các nhà thơ chỉ là những bản sao lục của nhau. Lạ, là ở Thu vợ và Sam vợ. Những người thiếu thước tấc còn khó kiếm hơn các thi sĩ. Họ ngày càng có nguy cơ tuyệt chủng. Lại là những người đàn bà. Bị giời hành hạ, đè nén. Ác và hèn, ở chỗ trời hành hạ, đè nén họ trước, rồi theo đà đó bọn đàn ông hành hạ, đè nén tiếp. Trên cái thể xác và tinh thần thiếu hụt. Những người đàn bà tí hon có gương mặt, tính nết như nhau, số phận như nhau càng hiếm. Thu vợ và Sam vợ chính là hai chị em song sinh từ hai cha hai mẹ!

Những người viết ăn tim người sinh ra sách văn học không nhiều bằng các loại người viết tương tự khác. Thoạt tiên, cứ tưởng có thể suy luận giản đơn rằng công việc văn chương chủ yếu xuất phát từ con tim, nên cần tim hơn; số lượng nhà văn ăn tim sẽ nhiều hơn. Nếu thế thì hai với hai đã thành năm từ thời Pythagoras! Thực tế, cho đến nay, qua theo dõi, tình thế ngược lại. Trong cái làng văn ăn thịt người đẻ sách, có phải cứ muốn ăn tim là ăn được, muốn không ăn tóc thì không ăn đâu! Hoặc đó là cái nghiệp mạng; hoặc đó là sự khó hiểu đáng nể của giới cầm bút.

Cuốn tiểu thuyết “ăn” Chun Hey Gyo, Lưu Trầm Thu và Tony Stewart được chào đời với bìa sách có ba trái tim xếp lại thành một hòn núi. Núi tim. Một họa sĩ ở Nam Dương vẽ. Chắc vì lý do kiện tụng bản quyền nên sách phải in ở New Zealand chứ không ở Úc. Thuộc vào loại bán chạy trong năm ở Nam bán cầu nhờ tiếp thị của nhà xuất bản biết ăn theo thân xác của tác giả đột tử như một xì-căng-đan tình ái. Nghệ thuật của cuốn sách ra sao? Đâu là nơi trả lời? Chẳng lẽ chờ Hollywood ghé mắt sang? Ừ, biết đâu họ sẽ lấy được vô khối nước mắt và đô la của khán giả từ đấy.

Melbourne, 2006- Vancouver, 2008 & 2013

Từ cuộc đổi mới 1986


Từ cuộc đổi mới 1986


Tác giả: Trần Đình Huỳnh (nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng)


Có nhiều cột mốc đổi mới quan trọng trong lịch sử 85 năm của Đảng. Nhiều cột mốc quan trọng diễn ra trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến, bằng sự đổi mới đúng đắn và sáng tạo của mình, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ.

Đại hội Đảng lần thứ 11, tháng 1/2011.


Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước tới nay, 40 năm xây dựng đất nước trong hòa bình, Đảng luôn có tinh thần đổi mới, luôn chỉnh đốn, tự phê bình, tự chỉ trích để làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng trong những thời điểm ngặt nghèo của lịch sử.



Nhìn lại lịch sử 85 năm, một cột mốc phải nhắc đến, đó là sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đến tháng 7 năm 1976, Bộ Chính trị đã thông qua QH quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Tháng 12/1976, Đại hội Đảng lần thứ IV đã quyết định đổi tên Đảng từ Đảng Lao động VN thành Đảng Cộng sản VN và đề ra Đường lối chung và Đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN nhằm 4 mục tiêu.

Đó là “Xây dựng “Chế độ làm chủ tập thể XHCN thể hiện một cách tập trung ở sự làm chủ tập thể của nhân dân lao động (mà nòng cốt là liên minh công nông) chủ yếu bằng nhà nươc XHCN đưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân”.

“Xây dựng nền sản xuất lớn XHCN”, “Xây dựng nền văn hóa mới”, “Xây dựng con người mới XHCN”. Trên tinh thần ấy, ngày 18/12/1980, QH quyết định sửa đổi Hiến pháp 1959, ban hành bản Hiến pháp 1980.

Sau hơn 5 năm (1976-1982), thực tiễn tình hình đất nước gặp rất nhiều khó khăn.

Đại hội lần thứ V họp trong 5 ngày (từ 27 đến 31/3/1982) tuy có một vài sửa đổi về chủ trương cụ thể nhưng vẫn kiên trì 4 mục tiêu mà Đại hội IV đã đề ra.

Nhưng tình hình đất nước những năm 1980 tiếp tục rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng.

Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra vào 1986 thực sự trở thành cột mốc đổi mới toàn diện đất nước.


Theo Văn kiện Đại hội VI, Đảng nhận định “đối với nước ta đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”. Đại hội VI đã thể hiện rõ tầm nhìn trí tuệ và bản lĩnh cách mạng của Đảng ta – một Đảng chân chính cách mạng dày dặn kinh nghiệm – nên đã dũng cảm nhận ra những sai lầm thiếu sót sau 10 năm thực hiện NQ Đại hội IV và V (1976-1986).

Văn kiện chỉ rõ, sau khi thống nhất đất nước, do chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ và do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, Đai hội IV chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên.

“Trước hết cơ cấu đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính tới điều kiện và khả năng thực tế, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, chưa sử dụng có hiệu quả những khả năng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài” – trích theo văn kiện Đại hội VI.

Đó là “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, ít chú ý những đặc điểm tính chất của từng ngành, từng nghề để lựa chọn hình thức tổ chức thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay những hợp tác xã quy mô lớn, không chú ý đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ…”.

Đó là sai lầm về quản lý nhà nước “thể hiện ở nhiều khuyết điểm trong cải tạo XHCN, quản lý kinh tế, xã hội, đấu tranh tư tưởng, văn hóa và trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù… chưa thiết lập và giữ vững trật tự XHCN trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế và xã hội, đã để cho pháp luật và kỷ cương của nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến”.

Đây là lần đầu tiên một đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã dũng cảm công khai thừa nhận “những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” đã mắc “bệnh chủ quan, duy ý chí… vừa “tả khuynh, vừa hữu khuynh”.

Kể từ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được mở ra từ ĐH VI, một chặng đường dài ngót 30 năm, bên cạnh những thành tựu cũng có những khuyết điểm.

Những sai lầm khuyết điểm hiện nay dường như đã được báo từ 30 năm trước. Đáng chú ý có những sai lầm khuyết điểm không còn là hiện tượng đơn lẻ, ở một số ngành, địa phương và cơ sở, không chỉ ở cấp thấp mà ở cả tất cả các cấp, các ngành, từ trên xuống dưới.

Nếu như cách đây 30 năm Đảng nhận định đổi mới là có ý nghĩa sống còn thì nay là sửa chữa sai lầm và khuyết điểm, là chống “giặc nội xâm”: sự suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, quan liêu, tham nhũng, bất chấp kỷ cương phép nước của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả ở cấp cao, cấp chiến lược, trong quá trình đổi mới lại đang là “thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ ta” như NQ TƯ 4 (khóa XI) đã chỉ ra.

NQ TƯ 4 có thế coi là một cái mốc thể hiện tinh thần dũng cảm, tự phê bình, tự chỉ trích, tự chỉnh đốn, quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tiến lên một cách bền vững.

Hội nghị TƯ 10 mới đây đã một lần nữa thể hiện Đảng CSVN thức trách nhiệm cao về sứ mệnh lịch sử của mình trước nhân dân – dân tộc, thể hiện một bước tiến mới về thực hành dân chủ trong Đảng.

————–

http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/219643/tu-cuoc-doi-moi-1986.html