Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

"Tây hóa" như thế chỉ làm phai nhạt và mất bản sắc!


Quá trình hội nhập thế giới diễn ra tại Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ 20 đến nay, đã làm cho một số người hồ hởi về một "thế giới phẳng" có khả năng xóa nhòa mọi khoảng cách và trong khi có người thể hiện sự lạc quan thái quá về sự ra đời của "thế hệ công dân toàn cầu" thì trên thực tế, lại xuất hiện một số vấn đề cần phải xem xét cẩn trọng.



Hiện tượng một bộ phận người Việt Nam quan niệm phải lấy tên Tây, hay nói năng phải có vài "tiếng Tây",... đã xuất hiện từ thời Pháp thuộc, và được tác giả Nam Xương khái quát qua nhan đề một vở kịch đã trở thành một thành ngữ, là... Ông tây An Nam! Hiện tượng này tưởng chừng đã phai nhạt nhưng gần đây có xu hướng quay lại, khi mà với rất nhiều người, học tiếng Anh được coi như một thứ "mốt". Ðương nhiên, việc học tập từ bất cứ phương diện nào cũng là cần khuyến khích; nhưng học theo trào lưu, học không rõ để làm gì thì sẽ chẳng dẫn đến đâu; bởi vậy, có dạo dư luận xã hội gọi các trung tâm tiếng Anh là "trung tâm hẹn hò"! Cùng với đó là "làn sóng phổ cập tiếng Anh", mà biểu hiện rõ nhất là trào lưu đặt tên công ty, tên nhà hàng, cửa hiệu bằng tiếng nước ngoài.

Cho đến nay, số công ty hay doanh nghiệp được coi là "thức thời" vì đã nắm bắt cơ hội, nhanh chóng thành lập dưới những cái tên "quốc tế", có "tính toàn cầu" cùng các biển hiệu, biển quảng cáo viết bằng tiếng nước ngoài xuất hiện rất nhiều, kể cả khi công ty, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ít có liên quan tới yếu tố nước ngoài. Tới bất kỳ thành phố, thị xã, thị trấn, thậm chí khu vực trung tâm hành chính của một làng xã có hoạt động kinh doanh là sẽ gặp các cửa hàng có sản phẩm Việt Nam bán cho người Việt Nam nhưng lại trưng ra mấy cái biển hiệu nước ngoài, đôi khi sai ngữ pháp đến tệ hại mà ngay người nước ngoài cũng "chào thua" vì không sao hiểu nổi. Không chỉ thế, những dòng chữ này luôn có kích cỡ lớn, choán gần hết biển hiệu, trong khi chữ tiếng Việt bị co lại ở một góc nhỏ nằm phía dưới. Thậm chí không ít cửa hiệu chỉ trưng biển hiệu quảng cáo bằng tiếng Anh. Ở Hà Nội, các tuyến phố thương mại lớn, khu phố cổ, nhất là phố Hàng Bè, Mã Mây, Hàng Hành, Bảo Khánh,... luôn dày đặc loại biển hiệu hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài, như muốn cho thấy sự "Tây hóa triệt để".

Thời gian gần đây, ở Việt Nam xuất hiện các thương hiệu cà-phê như "Urban Station", "Passio". Nhìn vào cách bài trí theo kiểu phương Tây tại các cửa hàng gắn với thương hiệu này, nhiều người sẽ nghĩ đó đều là các thương hiệu giải khát mới du nhập từ nước ngoài, giống như trường hợp của Starbucks hay Twitter Bean; thế nhưng thực chất đây là thương hiệu cà-phê nội! Tất nhiên là người đặt thương hiệu có lý lẽ để biện minh cho việc làm này, nào là cạnh tranh với hàng ngoại, nào là để hội nhập, nào là tâm lý người tiêu dùng v.v và v.v. Nhưng với cách lý giải như thế, khi hiện tượng trở nên phổ biến thì ngày nào đó, liệu chúng ta có phải chấp nhận tình trạng mọi sản phẩm Việt Nam đều mang tên Tây; liệu khi đó từ điển văn hóa trên thế giới sẽ không còn các từ như "phở", "áo dài",... và tất cả sẽ được thay thế bằng những cái tên đã được "quốc tế hóa" kiểu như The Garden, Royal City, Keangnam, Time City? Ðó là một nguy cơ, nguy cơ đánh mất đặc trưng riêng của các thương hiệu Việt được xác lập bằng chính ngôn ngữ dân tộc. Và sẽ có ngày đến Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các đô thị ở Việt Nam, du khách sẽ không còn thấy hấp dẫn, vì ở đó thiếu bản sắc và chỉ như là bản sao của đô thị phương Tây.

Trong giao tiếp hằng ngày, xu hướng tiếng Việt "đá tiếng Tây" ngày càng trở nên phổ biến trong giới trẻ. Anh G.Ru-en - người Ca-na-đa nhiều năm sống ở Việt Nam, có tên Việt là "Dâu Tây", từng than phiền trong một bài viết rằng: "Ðôi khi nghe người Việt ở tuổi "phát triển sự nghiệp" nói chuyện với nhau, tôi tiếc những năm tôi bỏ ra để học tiếng Việt". Và anh liệt kê vô số lỗi diễn đạt do sử dụng tiếng Việt lẫn tiếng Anh, thí dụ: "Em làm bên finance", "Cái background của em ấy là gì?",... và các câu nói này thường được một số người sử dụng trong giao tiếp hằng ngày. Vậy giao tiếp giữa người Việt với người Việt sao phải dùng tiếng Anh, nhất là khi trong tiếng Việt có từ tương đương để diễn đạt, như trong các trường hợp kể trên thì finance là tài chính, background là lý lịch?

Lo ngại hơn là làn sóng lai căng ngôn ngữ được cổ súy và nhân rộng bởi cái gọi là "giới showbiz" - những người được coi là có ảnh hưởng đến sinh hoạt cộng đồng, nhất là lớp trẻ. Chỉ sau vài năm, hàng loạt ca sĩ, diễn viên có nghệ danh nửa Tây nửa ta đã trình làng như: Hamlet Trương, Elly Trần, Angela Phương Trinh, Noo Phước Thịnh, Wanbi Tuấn Anh, Cường Seven, Nakun Nam Cường, Akira Phan, Reno Bình, Nukan Trần Tùng Anh,... Lại có ban nhạc, ca sĩ đặt tên hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài như: 365 band (với các thành viên có tên là: Issac, Jun, Tronie, S.T và Will), ca sĩ Maya, Chan Than San,... Theo đó là ca khúc có ca từ trộn lẫn tiếng Việt và tiếng Anh ra đời. Với xu thế hội nhập, ca từ một bài hát được dịch ra nhiều ngôn ngữ là bình thường và cần thiết, nhưng loại bài hát có ca từ một câu tiếng Việt chèn một câu tiếng Anh như: "Why it's me? Làm sao đây? Trước mắt tôi là... Tell me... Khi tất cả yêu thương sau lưng chỉ là dối trá. I can't suffer unpredictable things you did to me" (trích ca từ bài hát Không cần thêm một ai nữa của Mr. Siro và Big Daddy) thì đúng là không sao hiểu nổi, nếu không nói khó có thể chấp nhận. Không chỉ mang nghệ danh Tây, viết ca khúc nửa Tây nửa ta, một số ca sĩ còn đặt tên nước ngoài cho đĩa nhạc như: Today (Ngày hôm nay), Diamond Noir (Kim cương đen), Yesterday and Now (Ngày ấy và bây giờ), Non stop (Không dừng lại), To the beat (Nhịp đập), Unmake up (Không trang điểm)... Không rõ các đĩa nhạc đó được sản xuất dành cho ai?

Ðáng tiếc là các sản phẩm này xuất hiện trên một số chương trình truyền hình, chương trình nghệ thuật và khó có thể nói chúng lại không khuyến khích giới trẻ chạy theo xu thế lai tạp ngôn ngữ một cách tùy tiện và chào đón như trào lưu thời thượng. Vì vậy, không khó hiểu khi vào các mạng xã hội hiện nay, có thể thấy nhiều người trẻ chọn cho mình một tên nước ngoài. Họ tự hào về cái tên đó, thậm chí có người chán ghét cả tên khai sinh mà bố mẹ đặt cho mình với bao yêu thương, trìu mến. Họ nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ chẳng ra Tây, chẳng ra ta. Tại sao không dùng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của mình để sáng tạo, để khẳng định mình? Tại sao phải vay mượn ngôn ngữ của nước khác? Những ai đang cố "Tây hóa" có biết năm 2013 tại Nhật Bản, cụ H.Ta-ka-ha-si 71 tuổi khởi kiện Ðài truyền hình quốc gia (NHK) vì đã dùng quá nhiều từ vay mượn của tiếng Anh khiến cụ cảm thấy bị ức chế; cụ yêu cầu bồi thường 1,4 triệu yên (14.300 USD). Không bàn tới kết quả vụ kiện, mà từ phương diện văn hóa, có thể thấy đây là lời cảnh tỉnh với nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển trong khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Cần lưu ý là chính tại các nước đang phát triển, việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ đã trở thành vấn đề có tính pháp quy. Vì thế, trong khi các quốc gia như Pháp, Mỹ, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc,... luôn luôn dành một phần ngân sách rất đáng kể để quảng bá ngôn ngữ, kèm theo đó là quảng bá văn hóa của nước mình đến các nước khác trên thế giới, thì một số người trong chúng ta lại đang tự làm yếu đi ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, phải chăng việc làm đó lại được coi là hội nhập với thế giới?

Trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa, chúng ta hết sức giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, và một giá trị hàng đầu của bản sắc chính là tiếng Việt - tài sản văn hóa vô giá của dân tộc ta. Ở Việt Nam, Luật Quảng cáo được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua năm 2012. Theo đó, tiếng nói, chữ viết trong quảng cáo phải có nội dung thể hiện bằng tiếng Việt, trừ các trường hợp như: nhãn hiệu hàng hóa, khẩu hiệu, thương hiệu, tên riêng bằng tiếng nước ngoài hoặc từ ngữ đã được quốc tế hóa không thể thay thế bằng tiếng Việt. Trong trường hợp sử dụng cả tiếng Việt, tiếng nước ngoài trên cùng một sản phẩm quảng cáo thì khổ chữ nước ngoài không được quá ba phần tư khổ chữ tiếng Việt, phải đặt bên dưới chữ tiếng Việt. Luật quy định như vậy, song chưa được tuân thủ nghiêm chỉnh và chế tài xử phạt của cơ quan chức năng chưa đủ chặt chẽ và quyết liệt. Nên có thể nói trên thực tế, việc vi phạm trong lĩnh vực biển hiệu quảng cáo, việc buộc doanh nghiệp đăng ký thương hiệu theo tên Việt vẫn còn buông lỏng. Hiện nay, một số tỉnh, thành phố đã bước đầu kiểm tra, chấn chỉnh, như ngày 24-6 vừa qua, UBND tỉnh Ðồng Nai ban hành Chỉ thị số 18 nhằm chấn chỉnh biển hiệu quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh. Gần đây nhất, Chỉ thị số 25 đã được UBND thành phố Hồ Chí Minh ban hành, trong đó nêu rõ: biển hiệu có nội dung chữ nước ngoài không đúng quy định sẽ bị xử lý. Mong rằng các biện pháp kiên quyết góp phần làm lành mạnh sinh hoạt văn hóa sẽ được thực hiện trên mọi tỉnh, thành phố. Còn với mỗi người Việt Nam, nếu không góp phần để làm đẹp hơn, phong phú hơn tiếng mẹ đẻ, thì cũng không được bóp méo, cố tình lai căng ngôn ngữ của dân tộc, cho dù hội nhập tới đâu thì chúng ta vẫn tự hào là người Việt Nam.



ANH THI

Báo chí và việc tiếp nhận, truyền bá thông tin


Ngày nay, sống giữa "biển" thông tin gần như là không có giới hạn, việc phải xác định tính khách quan, chính xác của nguồn thông tin trở thành một yêu cầu cấp thiết. Thực tế cho thấy trên hệ thống truyền thông toàn cầu, việc đưa tin, bình luận không đúng với thực tế, thậm chí chủ động tung tin sai sự thật để tạo dư luận phục vụ mưu đồ nào đó không còn là hiện tượng cá biệt. Với loại thông tin như thế, nếu thiếu tỉnh táo, công chúng sẽ bị lừa dối và dẫn tới nhiều hệ lụy khác.

Từ tiếp xúc với hệ thống truyền thông toàn cầu, nhiều người trên thế giới đã rút ra kinh nghiệm thiết thân là cần cẩn trọng khi tiếp xúc với một số loại thông tin, nhất là thông tin về khủng hoảng chính trị hay xung đột vũ trang đang xảy ra. Cuộc chiến chống I-rắc do Mỹ phát động năm 2003 là thí dụ cụ thể không chỉ về "nghệ thuật" tạo cớ, mà còn là "nghệ thuật" đánh lừa dư luận. Lúc đầu, Chính phủ Mỹ cáo buộc Chính phủ S. Hút-xen có liên hệ với tổ chức khủng bố al-Qaeda, liên quan tới "sự kiện 11 tháng 9", sau đó khẳng định I-rắc sở hữu và phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chúng ta hẳn chưa quên hình ảnh Ngoại trưởng Mỹ khi đó là Cô-lin Pô-oen (Colin Powell), ngày 5-2-2003 phát biểu trước Hội đồng Bảo an LHQ, khi cáo buộc I-rắc tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt, ông giơ một chiếc lọ con và nói đó là bằng chứng về "khả năng mang bệnh than". Dù chưa có gì khẳng định bằng chứng đưa ra, nhưng các phương tiện truyền thông phương Tây đều đưa tin như sự thật đã kiểm chứng. Tới năm 2008 khi khó có thể bưng bít được mưu đồ tạo cớ, chủ ý phát tán thông tin sai sự thật, những người vận động và hưởng ứng cuộc chiến đã làm dịu dư luận bằng cách biện bạch: ít ra cũng lật đổ được chế độ độc tài, "người giải phóng" từ phương Tây sẽ mang tới cho người dân I-rắc các giá trị dân chủ và văn minh! Thế nhưng đến nay dân chủ và văn minh chưa thấy đâu, chỉ thấy người I-rắc phải hứng chịu thêm nhiều bom đạn, chìm đắm trong chết chóc, nghèo đói!

Sẽ là phiến diện nếu cho rằng tất cả các nhà báo ở phương Tây đều cố ý viết sai sự thật. Từng có nhiều nhà báo làm việc đúng theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Ðó là C.Béc-xtanh (C.Bernstein) và B.Út-oát (B Woodward) của tờ Bưu điện Oa-sinh-tơn giữ vai trò quan trọng khi tìm sự thật vụ bê bối Oa-tơ-ghết (Watergate) dẫn đến việc chính quyền Hoa Kỳ tiến hành điều tra và cuối cùng là R. Ních-sơn từ chức vào năm 1974. Năm 1971, các nhà báo của Thời báo Niu-Oóc, Bưu điện Oa-sinh-tơn đã phanh phui sự thật về lịch sử dính líu chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam qua các bài viết sử dụng tài liệu từ "các văn kiện của Lầu năm góc"... Ở Hoa Kỳ, Quy tắc đạo đức dành cho báo chí ra đời từ năm 1923. Hiệp hội các biên tập viên báo Hoa Kỳ đã phê duyệt các quy tắc đầu tiên của lĩnh vực này, tiếp theo là Tổ chức các nhà báo chuyên nghiệp và Hiệp hội báo chí, quản lý biên tập viên. Ba hiệp hội nhà báo quan trọng nhất ở Hoa Kỳ đã đặt ra các nguyên tắc đạo đức nhất định, kêu gọi các nhà báo thực hiện công việc của mình với trí thông minh, khách quan, chính xác, công bằng. Ở CHLB Ðức, Quy tắc đạo đức báo chí do Hội đồng báo chí Ðức ban hành ngày 12-12-1973, sửa đổi lần cuối vào ngày 13-3-2013; quy tắc gồm 16 điểm, áp dụng cho cả các bài báo của hệ thống truyền thông trực tuyến, Ðiều 1 ghi rõ: Tôn trọng sự thật, tôn trọng phẩm giá con người, thông báo chính xác cho công chúng là những nguyên tắc tối cao của báo chí. Trên cơ sở này, mỗi người hoạt động báo chí phải giữ gìn uy tín và sự tín nhiệm của phương tiện truyền thông. Ở Áo cũng có Quy tắc báo chí tương tự, theo phiên bản ngày 14-11-2012 thì gồm 11 điều. Ở Thụy Sĩ, năm 1972 Hiệp hội báo chí cũng ban hành Quy tắc đạo đức báo chí, đồng thời thành lập Hội đồng báo chí Thụy Sĩ...

Quy định thì như vậy, nhưng người dân ở các nước phương Tây hoặc thân phương Tây lại rất thận trọng với thông tin về một sự kiện và lời bình luận liên quan, thí dụ về cuộc khủng hoảng ở U-crai-na. Không chỉ những tập đoàn truyền thông tư bản kếch xù mà cả các báo, đài công cộng, thường xuyên nhồi nhét cho khán, thính giả và bạn đọc phần lớn thông tin tố cáo Chính phủ Nga, Tổng thống Pu-tin. Bởi thế, nhiều người phẫn nộ khi thấy ở thời điểm rất ngắn sau khi xảy ra sự việc, dù chưa có kết luận của cơ quan điều tra về thủ phạm, thì bìa một của một tạp chí ở Ðức đã đăng chân dung nạn nhân vụ máy bay MH 17 rơi ở U-crai-na, tố cáo Tổng thống Pu-tin và Chính phủ Nga. Do nhiều bạn đọc gửi thư phản đối, Hội đồng báo chí Ðức phải đưa sự việc ra xem xét. Ngày 9-9-2014, Hội đồng báo chí Ðức đã kết luận và cảnh cáo: việc làm này là không thể chấp nhận, vì tạp chí đã lạm dụng ảnh của nạn nhân để minh họa cho những lời lẽ mang tính chất chính trị! Ai có điều kiện theo dõi tin tức từ nước khác sẽ nhận thấy nhiều khi báo chí phương Tây đưa tin rất phiến diện. Hôm 17-8-2014, khi các nhà báo của tờ Tấm gương hằng ngày hỏi liệu một số nước châu Âu và Mỹ có đứng sau và giật dây vụ nổi dậy tại quảng trường Mai-dan (U-crai-na) hay không, Pi-tơ Sôn La-tua (Peter Scholl-Latour - người được một tạp chí danh tiếng ở CHLB gọi là "nhà báo của thế kỷ", "người giải thích thế giới cuối cùng còn lại") trả lời: "Bây giờ người ta không nói tới liên kết kinh tế nữa, mà hơn thế nữa, gia nhập U-crai-na"; để tỏ thái độ của mình, ông dẫn lời bà V.Nu-len (V.Nuland) khi trao đổi với Ðại sứ Hoa Kỳ ở U-crai-na trong cuộc điện đàm bị nghe lén và bị tung lên mạng. Theo Pi-tơ Sôn La-tua, sự hoàn toàn im lặng của EU sau lời lẽ thô tục của một quan chức ngoại giao cao cấp Hoa Kỳ là bằng chứng chỉ ra rằng, các nước châu Âu hài lòng với vai trò của mình - chỉ là các vệ tinh "không có răng" của Hoa Kỳ mà thôi!

Một bằng chứng nữa về sự thiếu khách quan khi đưa ra các thông tin về cuộc khủng hoảng ở U-crai-na là việc một số nhà báo ở CHLB Ðức phát minh khái niệm mới: "người thông cảm cho Pu-tin" (Putin-Versteher), "người thông cảm cho nước Nga" (Russland-Versteher) để ám chỉ những ai đã không lên án nước Nga và Tổng thống Pu-tin. Trong cuốn sách nhan đề "Lời nguyền rủa cho một hành động tàn bạo: Sự thất bại của phương Tây ở phương Ðông" xuất bản ngày 12-9-2014, Pi-tơ Sôn La-tua cho rằng khái niệm "người thông cảm cho Pu-tin" được sử dụng trong thời gian vừa qua là để phỉ báng những tiếng nói muốn kêu gọi phải giữ mức tối thiểu của tính khách quan khi đánh giá đường lối đối ngoại của Nga. Nhiều người, trong đó có cả chính trị gia, đã chia sẻ sự phê phán này. Theo tờ Thời gian (Zeit) ngày 1-10-2014 tại cuộc hội thảo ở thành phố Rô-xtốc (Rostock - Ðức), cựu Thủ tướng G. Xrô-e-đơ (G. Schroder) đã nói rõ quan điểm của mình là ông không xấu hổ mà ngược lại, ông tự hào là một trong những "người thông cảm cho nước Nga".

Sự cố xảy ra trong chương trình truyền hình trực tiếp TV-Talkshow Shuster Live do Ðài truyền hình U-crai-na thực hiện vào ngày 13-6-2014 cũng là một bằng chứng cho việc đưa tin sai sự thật. Khách được mời đến trường quay chủ yếu là người trung thành với chính phủ hiện tại, trong đó có cả "anh hùng Mai-dan". Qua cầu truyền hình, họ hy vọng ông M. Phơ-ran-xét-ti (M. Franchetti, phóng viên tờ Thời báo chủ nhật - Sunday Times, thường trú tại Nga từ 2001, năm 2003 nhận Giải thưởng báo chí Anh - British Press Award, qua việc tường thuật vụ khủng bố, bắt con tin ở nhà hát Ðu-brốp-ka tại Mát-xcơ-va năm 2002) sẽ nói sai sự thật và tham gia "chiến dịch" bôi nhọ Chính phủ Nga. Nhưng khách mời, khán giả hoàn toàn bất ngờ khi nghe ông nói không muốn trình bày quan điểm của mình mà đơn giản chỉ tường thuật về những gì chứng kiến ở Ðông Nam U-crai-na, đó là ba tuần ông đi theo tiểu đoàn "Wostok" quân tự vệ. Người ta gọi lực lượng này là phần tử khủng bố đã nhận vũ khí và tài trợ của Nga, nhưng theo ông "đó không phải là sự thật, ít nhất không phải sự thật trong giai đoạn hiện nay. Họ là các người dân bình thường không có kinh nghiệm chiến đấu". Tại cuộc phỏng vấn do nhà báo R. Sắc (R. Schack) thực hiện hôm 9-3-2014, Pi-tơ Sôn La-tua đã có lời khuyên phải thận trọng khi tìm sự thật trong báo chí phương Tây, vì: "chúng ta đang sống trong thời đại làm đần độn đi các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là làm đần độn người dân bằng các phương tiện truyền thông... Như các phương tiện truyền thông đưa tin về tình hình U-crai-na, người ta có thể nói, đây là một chiến dịch đưa tin sai sự thật trong một phạm vi rất lớn, được hỗ trợ bằng những phương tiện kỹ thuật của thời đại kỹ thuật số. Từ đó người ta có thể luận rằng, toàn cầu hóa đã dẫn đến sự quê mùa hóa, gây ra sự mù mịt trong thế giới truyền thông. Sự thật này đã và đang xảy ra với Xy-ri và những trung tâm khủng hoảng khác". Cũng Pi-tơ Sôn La-tua, trả lời phỏng vấn của nhà báo Ðức T.Vôn-phơ (T.Wolf) đã đăng trên tạp chí Focus - Money ngày 21-7-2013, với câu hỏi: bê bối nghe lén điện thoại, gián điệp kinh tế, rồi chiến tranh Áp-ga-ni-xtan, Goan-ta-na-mô làm sao có thể khớp với hình ảnh của Hoa Kỳ, một quốc gia được coi là lực lượng tiên phong của dân chủ, nhân quyền (?), ông trả lời: "một cường quốc thế giới hoạt động tất nhiên khác hẳn các thế lực tầm trung là Ðức và các nước châu Âu. Nghe lén điện thoại không có gì là mới, tôi tin rằng, sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi phe Ðồng minh xây dựng các căn cứ ở đây, ngay từ ban đầu họ đã nghe lén. Nhưng trong 10 năm cuối, khả năng thiết bị điện tử được nhân rộng nên phạm vi đã đạt tới mức kinh khủng... Ðiều đó ngày nay là công việc bình thường, nhưng tiêu chuẩn của "nền dân chủ lý tưởng" như chúng ta vẫn tưởng tượng trong sự ngây thơ, đã không có từ lâu rồi".

Trong bối cảnh phức tạp như vậy, qua việc đưa tin và bình luận về một số sự kiện trên thế giới gần đây, có thể nói một số tờ báo ở Việt Nam (nhất là báo, trang tin điện tử) ít quan tâm đến tính khách quan, chính xác, trung thực của sự kiện, khi khai thác, đăng tải chưa kiểm chứng chặt chẽ và chưa có những sở cứ tin cậy. Hiện tượng này, không những làm nhiễu loạn thông tin cũng như khả năng nắm bắt của người đọc, mà có thể ảnh hưởng tới quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với nước có liên quan tới sự kiện. Vì thế, sự dễ dãi (nếu không nói là tùy tiện) như vậy cần phải được cảnh báo.

ÐỨC THẮNG

Đa đảng? Việt Nam sẽ chết ngay tức khắc!



Đa đảng? Việt Nam sẽ chết ngay tức khắc!

NightMoonLight




Gần đây, không, mà có lẽ từ lâu rồi, luôn luôn có tranh cãi giữa nhiều phe phái về việc “nên đa đảng hay độc đảng”. Vậy tại sao tôi viết bài này, có 2 lý do:

Một là, tôi viết bài này không phải để cảnh tỉnh những người thích đa đảng, hay muốn chống cộng, xuyên tạc, phá hoại đất nước. Bởi lẽ không phải họ ngu, mà họ cố tình ngu như thế và giả vờ là đấy là cách hay cho đất nước. Tôi viết bài này để cho những ai thực sự không hiểu sự nguy hiểm tiềm tàng đằng sau chữ “đa đảng”, tôi viết cho những ai không biết tí ti gì về chính trị hết, hay những ai thực sự muốn phân tích mặt thiệt hơn của đa đảng so với độc đảng ở VN.

Lý do thứ hai là, vào sáng chủ nhật này, thức dậy lướt facebook, một người bạn tôi đã dẫn link một bài viết, nói tôi đọc và cho biết ý kiến, thế là tôi viết comment cho bạn ấy, quay đi quẩn lại, nó còn dài hơn biên bản … họp Đảng cho nên lỡ rồi, thì viết thành 1 bài dài hoàn chỉnh luôn, vậy là tiêu luôn cả ngày chủ nhật để viết ra bài viết này. Bài viết thể hiện quan điểm của tôi, dựa trên kiến thức, kinh nghiệm, độ hiểu biết, suy nghĩ và phân tích của tôi về vấn đề đa đảng ở VN.

Bài này thực sự không dài như những bài khác, nó cũng không nêu rốt ráo hết các vấn đề, lập luận, mổ xẻ chi li từng tý một nhưng nó như một lời phản bác của tôi dành cho cái bọn cổ xúy cho đa đảng, điều mà theo tầm nhìn của tôi: Tôi chắc chắn rằng nó sẽ phá hủy hoàn toàn đất nước, con người Việt Nam, chứ không làm VN khá hơn như nhiều người mộng tưởng.

Những lời dưới đây có thể xem như lý lẽ của tôi chống lại bọn thích đa đảng mà chả hiểu quái gì về tình hình, văn hóa, con người, đất nước VN. Các bạn hãy dùng những bài viết và những lý lẽ của tôi để tranh luận với đám đòi dân chủ và đa đảng ở VN nếu các bạn đuối lý. Nhưng, tôi cũng không có ý định khuyên các bạn cãi nhau với đám đó, vừa mất thì giờ của chính mình mà không đạt được gì cả, bạn không thể làm họ khôn hơn được, cãi nhau chỉ làm ta thắng về lý lẽ chứ chẳng làm cho nhận thức họ tăng lên được, không khuất phục được lòng người.

-- o0o --

Tôi xin nói trước, tôi không phải là Đảng viên Đảng CS VN nhé (đến đoàn viên, chúng nó còn không cho tôi vào, ra trường 8 năm rồi còn không làm đoàn viên mà chúng nó bóc lột lệ phí đoàn viên của tôi không thiếu một xu trong mỗi năm đi học từ đầu cấp 3 đấy nhé) , tôi càng không phải người của chính phủ như Ban Tuyên giáo, hay “nằm vùng” như Tổng Cục 2 hay Công An Mạng (tôi ghét nhất bọn này, chuyên chặn mấy trang web 18+ mà tôi truy cập hàng ngày) cắm cài vào đây để nói tốt cho CS nhé. Tôi đủ khôn hơn họ để biết cái gì tốt nhất cho đất nước VN, chứ không phải cái loại được giáo dục rất tốt để khen Đảng nhiệt tình đâu. Nên nếu ai nói tôi thuộc các thành phần trên thì quên đi nhé.

Ta quay lại vấn đề, như mọi người thấy đấy, ngày hôm nay, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là về mặt kinh tế, và càng khó khăn yếu kém + cái mồm tự do dân chủ ngày hôm nay khác hẳn thời còn ngăn sông cấm chợ thì cái xu hướng chửi Đảng và móc ngoáy càng bạo mồm. Tuy nhiên, tôi đảm bảo rằng, nếu VN mà đa đảng thì chắc chắn tương lai VN sẽ có các hiện tượng sau:

1) Các đảng phái đánh lộn lẫn nhau: Nhìn ngay thời chống Mỹ, cả miền Bắc có mỗi CS mà đám đảng phái trong miền Nam đã đánh nhau tá lả để giành chính quyền rồi, CS chưa chết mà nó còn thế đấy. — > đối với người Việt (tôi nói riêng người V thôi nhé, các nước khác phải phân tích cụ thể) nếu đa đảng thì sẽ ko có chuyện cạnh tranh ôn hòa như Mỹ, Anh, Pháp đâu, mà sẽ lao vào đánh nhau, giằng giật. Tại sao tôi dám nói vậy ? —-> nhìn vào Văn hóa VN để thấy tính cách của con người VN, mọi người có thể thấy con người Việt chúng ta VÀO THỜI BÌNH thì giành giật, bon chen, chen lấn, đố kị nhau như thế nào. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến tính cách từng nhóm người cạnh tranh với nhau (à, ở đây ý tôi là nhóm người ấy là từng đảng, các đảng nó cạnh tranh với nhau) chắc chắn sẽ không thoát khỏi giành giật, đập phá. Ai mà nói là sẽ không có việc đó xảy ra vì có tam quyền phân lập, nên QĐ, tòa án sẽ đàn áp. Cái đó là nói ngu đấy. Người VN thì sợ quái gì luật? nhờ tính linh hoạt trong văn hóa nên con người VN lách luật thì thuộc hàng số một, và đừng quên ông bà ta nói “phép vua thua lệ làng” ngày nay chỉ còn phép vua (luật pháp chung) còn “lệ làng” thì làm gì có ? Vì làm gì người V sống trong các làng co cụm như ngày xưa nữa ? Tóm lại, điều đầu tiên tôi đảm bảo, đó là nếu VN mà đa đảng, thì người VN CHẮC CHẮN SẼ MẤT ĐI SỰ ĐOÀN KẾT, trong thời bình thì sự đoàn kết này … rất hiếm khi thấy, thậm chí có đôi lúc ta còn tưởng là không có.

Khi người VN tối ngày lo giành nhau, đánh nhau bầu cử cho đảng nào thì chắc chắn không còn sự đoàn kết, trong khi dân tộc VN là 1 dân tộc rất nhỏ (nếu tính đủ 54 dân tộc vẫn nhỏ) cho nên, nếu ko có sự đoàn kết, tài sản vô giá của người VN (nếu trong tình huống nguy khốn thì có thể xem “đoàn kết” như tài sản duy nhất của người V), thì VN chắc chắn sẽ chết, và bị xé lẻ bởi vô số nước, đầu tiền là TQ, sau đó là bọn TB Mỹ vào hút tài nguyên. VN mà đa đảng thì không cần tranh cử và biểu tình đâu, chia phe đánh lộn thẳng ngoài đường luôn. Lúc đó CA làm gì được? Cũng chia phe ủng hộ 2 group, rồi kéo quân đội vào dẹp bạo động trong nước, tướng lĩnh QĐ cũng chia phe thì cả lũ đứng đó mà nhìn nhau à?

2) TQ chắc chắn sẽ “làm thịt” VN ngay tức khắc nếu VN đa đảng! Tại sao thế ? Sở dĩ mà VN yên ổn như thế này vì 1 vài lý do sau đây:

a) Quân đội VN rất mạnh (tôi không chém gió, mạnh nhất ĐNÁ, ít nhất là ở giai đoạn này, tương lai sau này tôi thì không biết, cái này tôi cũng không chém, thằng nào phản đối câu này, là thằng thiển cận, không biết tình hình nội bộ QĐ nên mới sủa bừa thôi, kẻ biết sẽ hiểu tại sao tôi nói mạnh mồm như vậy) là một nỗi lo cho Trung Quốc. Chiến tranh mà xảy ra, TQ chưa chắc thắng, mà thắng được VN thì không “tàn” cũng phải “phế” ít nhiều.

b) TQ bây giờ dù muốn đánh VN cũng phải nghĩ đến tình anh em XHCN –> tức là chung ý thức hệ CS, dù sao thì mình cũng không phá nó, chỉ nó đang phá mình, mình vẫn giữ giọng nhỏ nhẹ với nó. Đánh mình thì dư luận đủ kiểu, khó khăn đủ bề (ai đã coi bài viết của mình dự báo mốc war với TQ, thì trong đó có ghi đấy) Dù TQ chẳng cần đến CS VN thì nó vẫn phải cố giữ hòa khí, vì rất nhiều lý do, đặc biệt là trong GĐ hiện nay. Đa đảng là kích cho TQ quậy phá và đánh VN bởi ko còn ngượng mặt với ĐCS VN nữa.

c) trong suốt thời kì ĐCS VN nắm quyền cho đến nay, ít nhất là họ giữ đc VN trung lập, không ngả về nước lớn (đồng minh thì ai chả có, Nga với VN thì chỉ là đồng mình, không hơn, ko phải VN ngả về nó.) Chí ít, điều đó khiến TQ an tâm mà chưa nghĩ đến chuyện triệt hạ khẩn cấp, trừ phỉ VN ngả về TQ mới đáng nói. Còn bây giờ đa đảng, chắc chắn bất cứ đảng nào lên ngoài đảng CS VN, chúng nó cũng sẽ chọn ngả vào Mỹ, và lúc đó, chính trị và ngoại giao VN sẽ y chang Thái-Nhật-Phil-Hàn trong cách ứng phó với nước khác. Tức là hở 1 chút thì : gọi Mỹ, lấy Mỹ ra dọa, hở một chút thì hợp tác với đồng minh tập trận, hở một chút thì đưa máy bay chiến đấu lên kèm máy bay, tàu chiến nước khác. Khi đó thì tưởng tượng TQ sẽ đối xử với VN thế nào? Chưa kể, CS mà toi luôn, thì các đảng khác làm đồng minh với Mỹ, đám “dân chủ” này chắc chắn sẽ mời (thậm chí năn nỉ) Mỹ đóng quân ở Cam Ranh, và đặt ô bảo hộ hạt nhân, cắm hệ thống Patriot ở Lạng Sơn sát đít khựa, thì nó làm sao chịu cho nổi? nó càng cố tìm cách dọn sạch VN hơn, rồi khi đấy nó sẽ đưa hết dân tộc Hoa ở VN lên chế ra cái đảng CS VN giả mạo, bù nhìn nào đấy do người Hoa cai trị để biến VN thành đồng mình của nó. Cái viễn cảnh tôi chỉ ra đấy, còn tệ hơn độc đảng CS bây giờ do người Kinh nắm quyền chính, phải ko?

Tóm lại, từ giờ cho tới khi TQ sụp đổ, ko có đảng CS Vn thì VN toi trước khi TQ sụp đổ là cái chắc.

3) Đất nước VN rất có thể sẽ tự bị xé lẻ ra làm nhiều mảnh, giống như LX cũ, ít nhất là 2 mảnh, miền Nam và Miền trung-bắc, bởi vì trong này, đặc biệt về miền tây, con em sĩ quan VNCH rất nhiều, họ sẽ ủng hộ đa đảng, còn miền bắc ủng hộ ai thì khỏi nói. Còn lại miền Nam, lúc đấy trong cái tụi đa đảng ấy nó sẽ lại đánh lẫn nhau theo đúng tính cách bon chen của người V, khi đấy Mỹ và TQ cứ đứnng ngoài mà cười thôi. Lúc đấy chữ đoàn kết mà tôi nói phía trên coi như vứt, và dân tộc VN chả có tài sản gì quý giá hơn chữ đoàn kết cả! ĐCS VN hiện đang là nhân tố chính để duy trì sự đoàn kết điều mà đa đảng thì không đảng phái nào làm nổi điều đó (bởi lẽ khi mất ĐCS VN thì cũng xem như bọn đa đảng sẽ xóa xổ luôn Mặt Trận Tổ Quốc, vốn là một trong những cánh tay phải của Đảng, với nhiệm vụ chính là giải hòa, đoàn kết 54 dân tộc), nếu ko có đoàn kết chính trị ở mức tương đối, thì sẽ không có đoàn kết gì khác cả.

4) VN sẽ rơi vào vết xe đổ của tất cả các nước tư bản trước chúng ta đang là các quốc gia đa đảng, lưỡng đảng. Đó là chính phủ không thực sự là của họ nữa! Chính phủ đã thuộc về tay một tầng lớp số ít trong xã hội nhưng nắm giữ nhiều của cải, và biết cách biến các của cải ấy thành quyền lực chính trị để tạo ra nhiều của cải hơn. Tất cả những điều ấy được ngụy trang cực kì mỹ miều dưới mấy cái tên “tự do”, “dân chủ”. Điều mà ví dụ như ở Mỹ, nó đã bay mất từ sau thế chiến 2 mà đến cả người dân cũng không biết (ai đó rành lịch sử Mỹ sẽ thấy là cái thời nước Mỹ còn là của người dân, tổng thống lên là tổng thống cống hiến mình cho dân, và họ liên tục bị ám sát hay chết với nhiều lý do rất kỳ quặc, thậm chí là vô lý, đấy là cái thời tổng thống còn là của dân bầu, của “tự do” đấy). Ngày nay, người Mỹ không hề biết họ đang bầu cử cho ai, họ hoàn toàn không còn biết rằng những người mà họ đưa lên không phục vụ cho họ, mà đang phục vụ cho những tầng lớp lắm của cải trong xã hội khác. Nếu đa đảng, VN chắc chắn cũng không còn một đảng phái cụ thể phục vụ cho số đông như hiện nay, (mà số đông con người VN là những người nghèo khổ), khi đó sẽ dẫn tới một điều nực cười và ngược ngạo đó là số đông người dân sẽ đi phục vụ cho một đống đảng.

Nghèo là sao? Là hôm nay ngồi ăn chúng ta vẫn tính đến miếng ăn của ngày mai. Nghèo là sao? Là chúng ta thiếu hụt không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần, ngày mà chúng ta vẫn còn lo lắng, sống buồn bã, chán nản, không hoài bão, lý tưởng, ngày mà chúng ta vẫn … thất tình, không hạnh phúc gia đình, chúng ta vẫn cứ là người nghèo.

À, còn nhiều hậu quả xảy ra khi VN đa đảng, nhưng những cái trên là nhãn tiền, khả năng xảy ra là cao nhất, bây nhiêu thôi đủ lo rồi, khỏi cần phải nghĩ thêm hậu quả nữa.

-- o0o --

Còn bây giờ ta bàn qua cái khác, cái mà bài viết trên với vài người đang cãi nhau sống chết kia, từ ưu điểm, nhược điểm của Đa Đảng nhé:

Đầu tiên, tôi sẽ nói về ba cái cụm từ “tham nhũng”, “không tự do, dân chủ”, “đàn áp tôn giáo”, “chuyên quyền”, “độc tài” blah. blah. blah, …

Tôi chỉ nói một câu thôi: “thằng nào sủa ba cái này thì ngu lắm” !!

Bất cứ khi nào lấy một ai đó lấy những lý do như trên mà kể tội sự độc đảng thì một là “ngu lắm” (mới nhắc phía trên!) không biết gì hết (hoặc là đám hùa theo), hai là tìm mọi cách để thắng thế về quan điểm, câu chữ hòng cổ vũ cho đa đảng, hay nói trắng ra chúng nó muốn lật ĐCS, ba là chúng nó qua mê muội sau một thời gian dài du học và sống tự do muốn làm cái gì thì làm ở phương tây, nên chúng nó nghĩ rằng “phải như Mỹ mới sướng”, vì thế bọn này trở thành ba cái loa tuyên truyền không công cho Mỹ, mà chả ai cho chúng xu nào cả.

“tham nhũng” trước nhé! Đầu tiên, nước nào mà chả có tham nhũng? Có ai dám nói nước Mỹ văn minh thế, Nhật Bản trọng sự trong sạch và ý thức cao thế mà không có tham nhũng không? Đâu mà chả có tham nhũng, cái chính là tham nhũng ít hay nhiều thôi.

Vậy tại sao ở VN, tham nhũng lại nhiều và trầm trọng thế?

Cái bọn mà cứ tối ngày bô bô cái mồm tham nhũng, tham nhũng, thì chỉ là cái bọn bêu rếu, chỉ muốn đánh sập uy tín của CS. Bạn hãy nhìn xem, các nguyên thủ quốc gia các nước, hay các doanh nghiệp muốn thực sự đầu tư vào VN, họ tiếp xúc cũng không lôi vấn đề tham nhũng ra “ngoáy” lãnh đạo CS VN. Bởi họ làm chính trị, làm kinh tế thì họ đã nghiên cứu chán ba cái môn xã hội học, tâm lý học, và văn hóa các nước rồi. Họ thừa hiểu rằng các nước đang phát triển (theo cách gọi của thế giới hiện đại cho văn vẻ, chứ vất sĩ diện quả một bên nói trắng ra thì ta gọi là các nước nghèo!), mà là nước đang phát triển thì luôn luôn đối diện với tình trạng tham nhũng, THAM NHŨNG LÀ ĐIỀU RẤT BÌNH THƯỜNG Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN, TRONG ĐÓ CÓ VIỆT NAM.

Một xã hội nghèo đói thường là nghèo đói trước hết là về vật chất (1 số ví dụ về xã hội nghèo có thể kể đến Mỹ, nhưng họ là nghèo đói về tinh thần sau khi vật chất đã quá dư dả), mà nghèo về vật chất thì họ thường có xu hướng tìm kiếm vật chất cho nhiều để bù đắp sự thiếu hụt vật chất đó. Hay nói cách khác nhé, một xã hội đang phát triển là một xã hội khát khao vật chất. Và không chỉ xã hội đang phát triển có nhu cầu khát khao vật chất như nguồn lực, tài nguyên, tiền bạc, nhân lực để tự xây dựng xã hội đó, mà chính con người sống trong xã hội đó cũng khát khao vật chất. Không phải chúng ta núp sau màn hình nói thánh nói tướng gì trên web thì tắt máy đi chúng ta cũng phải đối mặt với cơm áo gạo tiền đó sao?

Cái gì cũng vậy, “vừa vừa thôi” thì tốt, đi quá giới hạn thì xấu. Khat khao và tìm kiếm vật chất cũng vậy, khi mà sự thèm khát trở nên thái quá, con người ta sẽ làm mọi thứ để có vật chất (câu tục ngữ đúng nhất trong hoàn cảnh này là “mạnh vì gạo, bạo vì tiền”), vật chất ở đây thể hiện ra là đồng tiền, khi con người ta có quyền lực, họ quá khát khao vật chất, (hay gọi là tiền đi cho gọn) thì họ sẽ làm mọi cách lấy nó. Và tất nhiên, hành động kiếm tiền ấy trở nên bất chính. Con người bị tha hóa đi vì sự quá khát khao vật chất.

Khi họ có quyền lực, chèn ép người khác để bòn rút, buộc người khác phải móc tiền đưa cho họ để đạt 1 số mục đích nào đó của người đó, thì tức là hành vi tham nhũng rồi còn gì.

Bàn về vấn đề quyền lực, quyền lực của một ai cũng có thể xuất hiện ở bất cứ đâu. Miễn là công việc đấy dính dáng đến phạm vi của họ. Nói một ví dụ đơn giản, một ông bảo vệ cũng có thể tham nhũng, trong phạm vi quyền hạn của mình, ông ấy làm khó dễ để người ta không ra vào công sở để làm việc được. Thì muốn vào cũng phải đưa tiền, chạy chọt (chờ đến khi gặp giám đốc để phản ánh thì cũng hết hơi) và từ đó, tham nhũng tiêu cực xảy ra. Bạn thấy đấy, tham nhũng có thể xảy ra ở bất cứ đâu, chứ không phải chức thật to mới tham.

Vậy làm sao mà quản và cản cho nổi ?

Lãnh đạo các nước nó nói chuyện với VN, nó không đặt nặng vấn đề tham nhũng, bởi vì, nó biết rất rõ, các nước nghèo thường dễ bị vật chất làm tha hóa, xã hội đang phát triển thì sẽ có lắm lộn xộn phát sinh, và lộn xộn thấy đầu tiên đó chính là “tham nhũng”.

Bạn cũng đừng quên TQ hiểu điều đó, nên nó mới dùng tiền để mua, đút lót hối lộ quan chức các nước đang phát triển nhằm đổi lại lợi ích kinh tế, điển hình là các nước ở Châu Phi hiện nay để thu hút tài nguyên, và nói đâu xa, ngay VN đây thôi, quan chức cũng bị nó mua chuộc (tất nhiên là ở cấp thấp thôi).

Cái thứ mà tối ngày bô bô vấn đề tham nhũng thì thường để chọc ngoáy, bêu xấu, hạ thấp uy tín từ sự lãnh đạo của CS thôi.

Còn nếu ai móc ngoáy rằng, tại vì độc đảng nên không có sức cạnh tranh, không dám lên tiếng, hay tại vì độc đảng tạo nên cơ chế pháp lý nhũng nhiễu cho tham nhũng, cơ chế kém, dựa vào hơi CS để bòn mót, thì tôi nói thẳng: tất cả chỉ là ngụy biện!

Ai nói là tại cơ chế, biện pháp quản lý, luật pháp lỏng lẻo thì là nhầm. Đó là tại người VN quá siêu thôi! Ai học văn hóa sẽ biết có 1 tính cách rất đặc biệt của người Việt, mà nhờ nó mà VN bao lần thoát khỏi sóng gió đủ mọi loại, đó chính là tính linh hoạt. Kể cả khi luật pháp, cơ chế có chặt chẽ cách mấy, với sự luồn lách, né tránh đầy tài tình, khéo léo từ chính tính linh hoạt của người Việt, thì luật pháp cũng trở nên vô dụng, và khi luật pháp không kiềm chế nổi các hành vi lách luật tìm lợi ích cá nhân (nói thẳng ra là kiếm cớ tham nhũng) thì lại tiếp tục bài ca luật pháp, cơ chế không tốt, thế thôi! Và chính vì pháp luật, cơ chế chưa tốt nên mới sinh ra quốc hội để làm luật, tòa án để thi hành và bọn thanh tra, viện kiểm soát đi bắt cái mớ lách luật và tham nhũng.

Tóm lại, không có ai dám đảm bảo là đa đảng thì VN hết tham nhũng, tôi nói ra không phải dọa hay chém gió, nhưng có khi chính đa đảng tạo nhiều điều kiện cho tham nhũng tràn lan hơn, đừng nghĩ rằng đa đảng thì 1 đảng có sai phạm, đảng kia bắt lỗi để giành chính quyền trong chính trị nhé. Có ai nghĩ đến trường hợp ngược lại là tất cả các đảng nó đều tham nhũng cả nên nó thống nhất nhau im và lờ đi vấn đề tham nhũng không? Nói đâu xa, ngay chính thời chống M, cái miền Nam này đa đảng nhưng mà quan chức 2 phe ăn chặn, tham nhũng đầy. Tôi nhớ không lầm, có 1 tướng Mỹ viết lại hồi ký nói rằng, binh lính và quan chức VNCH chẳng làm được gì cả, chỉ giỏi ăn hối lộ! (tôi quên mất tên vị tướng Mỹ và cuốn sách ông ấy viết là gì rồi). Bọn lính đánh thuê Hàn quốc cử sang đây cũng chê cái chính phủ “dân chủ” VNCH này là tham nhũng đấy.

Vậy tôi hỏi, dưới thời “dân chủ” như lúc VNCH mà quân tướng Mỹ còn thốt lên thế, vậy cái thời này, nếu đa đảng thì có thằng nào bảo vệ lập trường đa đảng của mình dám đưa đầu ra thề, đảm bảo rằng đa đảng thì sẽ chấm dứt hay giảm tối đa tham nhũng không? Nếu không thì đừng lấy tham nhũng ra làm bình phong, che đậy và ngụy biện cho việc lãnh đạo của CS VN. Cơ chế, luật pháp có kém thì mới có người để làm việc, còn nếu hoàn hảo tuyệt đối thì sinh ra quốc hội lập pháp làm quái gì nữa? Một đất nước nghèo đói, người người nhà nhà hối hả kiếm tiền, cả xã hội tìm mọi cách thu hút tiền như ODA thì làm thế quái nào đòi sạch bóng tham nhũng như Nhật, Mỹ,Anh, Sing được?

Tóm lại, về chữ “tham nhũng” mà nói thì luôn có một thực tại đau đớn rằng: CÁC NƯỚC NGHÈO THÌ CHẮC CHẮN SẼ THAM NHŨNG, MÀ VÌ THAM NHŨNG NÊN CỨ NGHÈO HOÀI. ĐÂY TRỞ THÀNH MỘT CÁI VÒNG LUẨN QUẨN KHÔNG CÓ LỐI RA.

Còn hỏi tôi cách nào để giải quyết thì rồi sẽ có một bài viết khác của tôi nói riêng về tham nhũng, tìm cách giải quyết ở bài viết khác.

“không tự do, dân chủ” à? Đúng, VN cũng chả có dân chủ gì đâu, nhưng, thực ra, nếu ai đó cứ nghĩ Mỹ hay phương Tây dân chủ hơn có khi lại nhầm, dân chủ là vào giai đoạn đầu hình thành nhà nước thôi. Về sau, chính quyền và các đảng phái cũng bị tha hóa rồi, giờ đây nó phục vụ quyền lợi cho thiểu số, cho một nhóm lợi ích nào đó, cụ thể là các tay chủ công ty, ngân hàng có tiền nên tìm quyền. Nếu ai nghĩ cứ đích tay mình cầm lá phiếu đi bầu bỏ vào thùng và ra đừng ngoài đường gào lên cái gì cũng được là dân chủ thì người đó nhầm. Thể hiện được quyền dân chủ của mình không đồng nghĩa với việc thể hiện xong mình có quyền dân chủ thực sự. Tôi nói đến đây, ai có óc người đó sẽ hiểu.

Trước đây, trong một bài viết của tôi về thông tin, sự kiểm duyệt, tôi đã nói rất nhiều về vấn đề dân chủ, nhà nước, sự kiểm duyệt ở VN rồi, nên giờ tôi không nhắc lại.

“đàn áp tôn giáo”? Nhiều người nghĩ rằng dưới tay CS thì tất là có đàn áp tôn giáo bởi vì CS là vô thần chăng? Điều đó đúng ở nước nào thì tôi không cãi, nhưng ở VN mà há mồm ra nói câu này thì ngu hay quá lú lẫn nên không phân biệt được.

Thế tôn giáo nào bị đàn áp? Thôi, chỉ đích danh ra cái cụm đàn áp tôn giáo mà cái đám bêu rếu cụm này muốn nói nhé. Chữ “tôn giáo” mà các người nói bóng gió ở đây là “thiên chúa giáo” chứ gì ?

Buồn cười thay, tôi hỏi nhé! Nhiệm vụ của tôn giáo ban đầu là gì? Là xen vào chuyện chính trị à? Là đứng biểu tình mang màu sắc chính trị, khơi gợi lịch sử, tôn giáo à? Là chửi chế độ à? Tự do, dân chủ là nhiệm vụ của tôn giáo à?

Nhiệm vụ của tôn giáo và công việc thường làm là cầu nguyện và các hoạt động xoanh quanh tâm linh, tinh thần thôi. Không phải chỗ để đứng một đống ra đấy và xen vào chuyện chính trị, rồi khi người ta ra giải tán thì núp bóng tôn giáo – Thôi, nói trực diện, Thiên Chúa Giáo để gào lên là “đàn áp tôn giáo” nhé.

Thiên chúa giáo và tôn giáo cũng như tham nhũng, tự do, dân chủ, chỉ là con bài rẻ tiền và cũ rích của phương tây chỏ mồm vào ngoáy thể chế chính trị của VN. Mà điển hình là sự lãnh đạo của CS.

“chuyên quyền, độc tài”ư? Thế nào là chuyên quyền, thế nào là độc tài?

VN vốn không có cơ chế tam quyền phân lập như phương tây, nên đã rất khôn khéo trong việc phân chia quyền lực cho các thành phần trong đất nước nắm giữ. Điển hình là quyền lực tối cao được chia ra cho 4 vị trí lãnh đạo: Thủ tướng (mảng kinh tế, tài chính), Chủ tịch nước (mảng quân đội), Tổng bí thư CS (mảng đường lối, định hướng, mảng chính trị), Chủ tịch quốc hội (mảng lập pháp). Nhiệm kì hiện tại ở VN là “bộ tứ quyền lực nhất VN – Hùng Dũng Sang Trọng” như mọi người vẫn gọi vui đấy! Và chính sự phân chia quyền lực này ở VN vừa tạo sự đoàn kết thống nhất khi cần huy động quyền lực nào đó, lại vừa tạo sự phân định quyền lực rạch ròi mà không dẫm chân lên nhau.

Chính sự phân chia quyền lực này, kì thực mà nói, nó thay cho cơ chế tam quyền phân lập ở phương tây. Về một khía cạnh nào đó mà nói, nó là một mô hình quản lý, phân chia quyền lực thích hợp cho VN, hơn hẳn cơ chế đa đảng. Cơ chế đa đảng hay gọi là tam quyền phân lập quá bám pháp luật. Mà đối với người VN “vốn phép vua thua lệ làng” thì luật pháp là cái đinh gì trong mắt họ? Người V vốn không tôn trọng pháp luật nên cơ chế trên nếu có thì cũng chỉ cho vui. Rồi khi bao động xảy ra giữa các phe phái trong VN thì cơ chế đấy chỉ có thể làm mỗi việc duy nhất là huy động lực lượng ra đàn áp.

Đả đảng hay độc đảng, còn phải tùy vào con người, tính cách văn hóa từng quốc gia, nó có thể hợp với Mỹ, phương tây vốn con người rất tôn trọng kỉ luật, còn XH phương Đông vốn có cách thức tổ chức XH rất khác, riêng con người VN vốn nhấn mạnh vào văn hóa, dùng văn hóa để tổ chức và điều khiển hoạt động của XH.

Ở VN, thằng nào dám đưa đầu ra đảm bảo rằng đa đảng một cái là đời sống của con người VN sẽ khá hơn trên mọi mặt?

Còn nếu hỏi thế nào là độc tài, thì phải hỏi Lybia, Ai Cập, Irắc của Saddam Hussein ấy. VN không được lãnh đạo bởi một người, mà được lãnh đạo bởi một tổ chức, mà một tổ chức thì sẽ có người thế này thế kia. Nên không thể nói là độc tài được.

Tóm lại, nếu ai hỏi ý kiến của tôi về đa đảng hay không đa đảng. Tôi nói là, sự lãnh đạo của ĐCS VN sẽ là lựa chọn tốt nhất cho con người VN.

Ngày xưa khi ông bà ta đấu tranh chống Pháp ,Mỹ. Ko phải ngẫu nhiên mà họ lại quyết định chọn ĐCS để lãnh đạo, dù thời đó họ rất mù mờ và còn chả hiểu CS là cái mả mẹ gì, họ chẳng thấy đc con đường phía trước, tức là ngày hôm nay chục năm về sau khi thắng Mỹ nhưng họ vẫn chọn ĐCS VN, đó là lý do duy nhất mà phe CS VN thắng Mỹ –> được dân ủng hộ. Tôi tin, họ chọn sẽ ko sai lầm đâu.

Người VN làm kinh tế rất kém, đó là sự thật, kết quả là bây giờ lòi ra Vinashin, Vinalines và hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, cái kém nhất khi làm kinh tế lại chính là ở tư duy của người Việt, dân nông nghiệp đối với miếng ăn thì chỉ biết làm hôm nay, tính ngày mai, hết sức ngắn nghĩ, trong khi kinh doanh thì phải tầm nhìn, chiến lược rất xa. Sự “bất động” của bất động sản chính là thứ vừa thể hiện cái tư duy ngắn nghĩ, chủ quan duy ý chí, vùa không bám vào quy luật cung cầu đấy.

Người VN làm kinh tế rất kém, nhưng làm chính trị rất giỏi. Đảng CS VN lại thừa hưởng được điều đó. Kết quả có thể thấy là chính phủ ta, đối ngoại, đối nội, làm chính trị rất khôn khéo. Khôn khéo ở chỗ sống gần một thằng gấp 10 lần mình mà nó không bụp mình nát bét đã là khôn rồi. Còn kém về kinh tế thì rõ ràng ra là sự thua lỗ của các công ty nhà nước.

Rồi sẽ có bài viết của tôi đề xuất cách khắc phục tất cả các nhược điểm trên.

Còn vấn đề cạnh tranh chính trị? Nhiều người nói rằng, ở VN không có sự cạnh tranh về chính trị, tức là sẽ không có sự tiến bộ. Câu này tôi vừa đồng ý vừa không đồng ý, đồng ý thì chỉ phân nửa thôi. Đồng ý là luôn luôn phải có sự cạnh tranh thì mới có phát triển.

Nhưng, câu hỏi đặt ra là cạnh tranh như thế nào, cạnh tranh ở mức độ nào cho vừa phải mà không thái quá. Đảng CS VN, nội bản thân nó đã là sự vận động như thế rồi.

Ở VN chỉ có mỗi một đảng, và điều đó làm nhiều người nhầm tưởng là không có sự cạnh tranh, hay, họ “cố tình” “nhầm tưởng” như thế. Rất nhiều người cứ ngây thơ nghĩ rằng, muốn cạnh tranh là phải có tối thiểu 2 phe, hay 2 thuộc tính tương khắc. Mà họ quên rằng, cạnh tranh còn có sự tiềm tàng bên trong.

Các loại cạnh tranh:

Vậy trong khuôn khổ bài viết, tôi tập chia ra loại cạnh tranh:

Cạnh tranh loại thứ nhất, như nhiều người muốn đa đảng nói, đó là sự cạnh tranh giữa 2 đảng phái, khi đó, những ai chung chí hướng sẽ cùng gom về 1 phe, chia 2 phe, và cứ 1 phe lên tiếng thì phe kia phản bác. Cái này quá thường thấy ở phương tây, tôi sẽ không nói cụ thể về hình thức và hoạt động nữa.

Cạnh tranh loại thứ hai, là cạnh tranh ở bên trong, tôi cũng tạm gọi là cạnh tranh tiềm tàng, đây theo đánh giá của tôi là loại cạnh tranh khôn ngoan, khôn khéo và có phần ưu việt hơn loại một. Loại này thấy ở các nước độc đảng mà có dân chủ (dân chủ không dùng thước để đo đếm được nhé, nên bạn đừng trách có lúc tôi nói VN không có dân chủ, rồi lại có lúc bạn thấy tôi quay ngoắt 180 độ nói là có dân chủ nhé, tùy lúc và tùy vào ngụ ý của tôi), ví dụ như độc đảng mà chia đều quyền lực để tránh lạm quyền như VN. Bạn sẽ thấy sự cạnh tranh đến từ 2 phe trong đảng CS.

Hay nói cách khác, người ta hay đồn thổi là trong nội bộ đảng CS VN chia làm 2 phe, một phe là bảo thủ, phe còn lại là hiện đại. Thực ra, không hề có việc phân phe cụ thể kiểu như: “tao phe A trong đảng CS, mày phe B cũng trong đảng CS”, cách gọi chia phe chỉ đơn thuần thể hiện sự khác biệt trong suy nghĩ, tranh luận về đường hướng phát triển đất nước. Không phải lúc nào cũng rõ ràng như mọi người nghĩ là chia hai phe chém nhau đâu.

Một người phe bảo thủ (tức là tư tưởng bảo thủ) có thể sẽ quyết định cách phát triển đất nước theo hướng X, người phe hiện đại sẽ mở xu hướng phát triển đất nước theo hướng Y, đại loại thế.

VÀ CHÍNH SỰ KHÁC BIỆT VỀ MẶT NHẬN THỨC NÀY SẼ TẠO RA SỰ CẠNH TRANH TIỀM TÀNG TRONG ĐẢNG MÀ KHÔNG PHÁ VỠ SỰ ĐOÀN KẾT TRONG NỘI BỘ ĐẢNG. CẠNH TRANH Ở ĐÂY SẼ LÀ SỰ TRANH LUẬN VỚI NHAU MÀ CHỌN RA ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN CHO ĐẤT NƯỚC, CHỨ KHÔNG ĐỐI ĐẦU DẪN ĐẾN ĐÁNH NHAU. ĐIỀU MÀ KHI ĐA ĐẢNG Ở VN, VÌ KHÔNG CÒN SỰ QUẢN LÝ, SẼ DẪN ĐẾN ĐÁNH NHAU RA MẶT. CÒN TRONG KHI ĐỨNG DƯỚI NGỌN CỜ CHUNG MANG TÊN CỘNG SẢN, KHÔNG AI DÁM ĐÁNH NHAU RA MẶT CẢ, VÌ ĐÁNH MÀ CHIA PHE THÌ NGAY TỨC KHẮC BỊ TỐNG CỔ RA KHỎI ĐẢNG CS THÌ KHỎI LÀM CHÍNH TRỊ!

Cho nên, ai mà nói ở Đảng CS VN không có sự cạnh tranh để tạo sự phát triển thì đó là sai lầm. Cạnh tranh là cạnh tranh ngầm, nó thể hiện qua sự phản biện, tranh cãi trước một đường lối được đưa ra trong các buổi họp ở Đảng, mà dân tình và người ngoài đâu có biết. Họ không biết là các đường lối định hướng của Đảng là đã thông qua các buổi tranh cãi, tranh luận kịch liệt và sửa từng câu từng chữ rồi mới ra quyết định. Và khi ra quyết định thì mọi người cũng chỉ gật đầu rồi chỉ đạo của Đảng từ trên xuống mà làm, chứ đâu có biết nội tình bên trong.

Ai đó mà nói chỉ đa đảng mới có sự cạnh tranh là sai lầm, là nói mà không nghĩ. Trong môi trường dân chủ thì sẽ có sự cạnh tranh, VN đã cố gắng tạo ra dân chủ bằng cách thả cho mọi người nói, nói nhưng đừng phá. Và kết quả là khi xã hội VN, kinh tế VN gặp khó khăn thì chúng ta tung mồm ra mà chửi thoải mái, nhờ thế mà chúng ta mới có cơ hội “gào” đa đảng TO như bây giờ. Không dân chủ thì cứ nói câu nào là lo “mất hộ khẩu” câu đấy rồi.

Ưu điểm của đa đảng (?)

Nhược điểm lớn nhất của đa đảng ta đã nói ở trên, từ đầu bài viết của tôi rồi đấy, thôi, bây giờ ta chuyển qua nói về ưu điểm của đa đảng nhé:

1) Kinh tế khấm khá hơn, bởi có được sự hỗ trợ lớn từ phía các nước tư bản phương tây, Mỹ sẽ đầu tư cho VN như đầu tư cho Hàn chống Triều Tiên hay dồn sức để nhét con bài Irael vào giữa Trung Đông – trong lòng của thế giới hồi giáo vậy. Còn, VN có phát triển được như Irael, Hàn, Nhật hay không thì ta lại quay lại vấn đề tham nhũng, quay lại vấn đề tính cách con người VN, quay lại những vấn đề thèm khát vật chất của một xã hội đang phát triển nhé. Nếu vượt qua được những điều tôi kể thì với sự hỗ trợ kinh tế của Mỹ, chúng ta có nỗ lực thì cơ may VN thành siêu cường về kinh tế sẽ đến thôi. Nhưng, vẫn loanh quanh câu hỏi là người Việt nỗ lực đến đâu hay lại quay lại hơn cả cái thời quan chức VNCH toàn ăn hối lộ nhé! SUY CHO CÙNG, GIÀU HAY NGHÈO LÀ Ở CHÍNH DÂN TỘC CHÚNG TA CHỨ KHÔNG PHẢI DO THẾ GIỚI GIÚP BAO NHIÊN TIỀN VÀ CƠ HỘI ĐẦU TƯ NHÉ! Singapore là điển hình cho khả năng làm giàu nhờ giỏi tính toán đấy. Nhật là điển hình cho khả năng làm giàu nhờ cần cù và nỗ lực đến từng cá nhân trong 1 đất nước.

2) Chúng ta sẽ được Mỹ bảo kê bằng cách cho nó thuê cảng Cam Ranh và đóng quân ở VN, giống như thuê phòng trọ ấy, hàng năm kiếm chút tiền, dựa luôn vào quân sự nó, cho nó cắm búa xua tên lửa hệ thống phòng thủ ở Lạng Sơn chọc vào lưng anh hàng xóm, chúng ta đỡ tốn tiền làm việc đó. Tuy nhiên, nếu Mỹ yếu đi, hoặc TQ mạnh hơn Mỹ, hoặc nó “hứng lên” muốn đánh thằng Mỹ thì nó làm thịt thằng nào trước để dọn đường chắc mọi người đã hiểu. Và không ai đảm bảo quân đội trong cơ chế tam quyền phân lập đầy “dân chủ” ấy đủ mạnh bằng hồng quân CS ngày hôm nay nhé, quân đội mà không chung một hướng đi thì bất bình trong điều hành là cứ nhìn Ai Cập và Thái Lan hôm nay là biết.

3) Tương lai con cháu không đảm bảo gì hết, cái này là chắc chắn. Bởi nhìn TQ khi thấy VN là đồng minh của Mỹ thì ngày nó hành hạ chúng ta không còn xa, nếu hôm nay nó không đánh thì mai nó đánh, và không ai dám chắc trong ngày mai đó, Mỹ còn bênh VN hay không, hay còn đủ mạnh bênh VN hay không. Đó là lý do chúng ta ngày hôm nay tốn một khoảng tiền khổng lồ để nuôi quân đội, mua vũ khí, sắm sửa cho ngày hôm nay là để lo cho ngày mai cả thôi. Cái tôi nêu ra cũng là lý do khiến chúng ta không bao giờ trông cậy vào người khác mà phải trông cậy vào thực lực bản thân mình. Đừng đứa nào cãi cùn rằng Mỹ hôm nay mạnh thì ngày mai cũng sẽ mãi mãi mạnh, đó là điều nhảm nhí vì quốc gia nào cũng có lúc thịnh lúc suy.

4) Văn hóa VN sẽ ra thế nào? Ngày hôm nay còn Đảng, trong các văn kiện chỉ đạo của Đảng có ghi rõ về các đường lối văn hóa, sống ra sao cho lành mạnh, bài trừ tệ nạn thế nào, chống lại văn hóa ngoại lai ra sao, tất cả đều có trong các đường lối chỉ đạo của CS, nó không tốt đẹp sao? Mấy cái đảng phái muôn tranh giành quyền lực đứa nào giỏi thì trình ra đây cái văn kiện, hay cái đường lối phát triển đất nước trong vài chục năm tới đi, nếu họ được nắm quyền. Có hay không? Hay là lo bận gào đa đảng, đặt bom, phá hoại và tìm cách đứng biểu tình nên chưa soạn thảo kịp đường lối sau hàng chục năm theo phương Tây? Một điểm lạ nữa là, tôi chưa từng thấy các văn kiện định hướng con người, đường lối phát triển cụ thể, cách sống cho người dân một đất nước đến từ tay các nước có đảng phái tư bản. Ví dụ điển hình nhất là thành trì của tư bản như Mỹ, đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa có đưa đường lối thế không? Hay cứ loanh quanh cãi nhau vì lợi ích chung mà bên nào cũng cho là mình đúng? Đường lối rõ ràng cụ thể thế có không? Nếu có thì ai đưa văn kiện đây tôi coi với, vì tôi chưa từng thấy nó lưu hành ở đâu cả. Trong khi của đảng CS thì đầy rẫy ngoài đường và trên internet và đôi lúc … vứt đi cũng không hết.

Ưu điểm của đa đảng ở VN như vậy đã đủ chưa? Theo cách hiểu của tôi thì chỉ có ưu điểm ở hiện tại nhưng lại bộc lộ nhiều khuyết điểm hơn thế nữa ở tương lai. Mà đã thấy trước tương lai như vậy rồi thì có ai ngu mà lại chọn đa đảng?

Còn rất nhiều nguyên nhân, vấn đề, lý do, và nhiều kiểu tranh luận, ưu điểm, nhược điểm của cả độc đảng lẫn đa đảng mà nói thì lập buổi thảo luận rồi cãi nhau cả tháng cũng không hết được. Tôi chỉ nói ra một số điểm thường thấy khi tranh luận thôi, không thể kể hết và phân tích hết được.

Nhìn chung, tóm lại, nếu ai hỏi tôi ai lãnh đạo đất nước tốt nhất, chí ít là ở thời điểm này, thì tôi bảo đó là đảng CS VN, họ không giỏi làm kinh tế, nhưng họ giỏi làm chính trị, họ vào thời điểm này có thể chưa làm cả đất nước giàu có, nhưng chí ít, họ không để dân phải chết đói hay để cả miền Nam và gia đình con cháu VNCH ăn hàng viện trợ của Mỹ “sung sướng” như thời chiến tranh chống Mỹ. Họ không đưa được người giỏi lên lãnh đạo về mặt kinh tế, không có nghĩa họ đã kém, chí ít, họ giữ vững cho VN yên ổn. Trong quá khứ, họ lãnh đạo VN đánh không biết bao nhiêu trận với cường quốc, từ Pháp, Mỹ, Pôn Pốt, TQ, và thời bình, họ giữ cho VN không bạo loạn đến chết người như vụ Tân Cương của TQ, biểu tình ở Thái Lan, giữ cho đất nước không bị đánh bom, nói chung, người dân ra đường không sợ chết vì đánh nhau và xung đột chính trị, ở VN cũng không có cảnh lao vào trường học nã súng như ở Mỹ. Đây đã là những thành công đáng ngưỡng mộ mà các nước khác thèm muốn trong vấn đề quản lý XH, tôi không nói đùa đâu. Các nước khác phải cảm thấy thích những gì mà sự yên ổn từ sự lãnh đạo của đảng CS ở VN, điều mà các nước như Afganistan, Lybia, Ai Cập, Irắc, Syria đều không làm được. Người dân các đất nước có đầy “dân chủ” cho Mỹ mang vào cho đấy, họ có sống yên bình hơn một đất nước thiếu dân chủ như VN hay không? Họ được nói, nhưng có ai đảm bảo cho mạng sống họ sau khi nói không? Chết vì bom đạn bất cứ khi nào. Vậy ta có nên tự hỏi rằng: Đa đảng, hay minh bạch, hay tự do, hay dân chủ có là cái giá xứng đáng để trao đổi lấy sự ổn định XH mà CS VN đã cho ta trong suốt mấy chục năm lãnh đạo? Liệu giá trao đổi có tương xứng hay không?

Vậy, người VN thích sống trong một xã hội độc đảng mà còn thấy được tương lai tương sáng hay một chế độ đa đảng cho thỏa nguyện vọng “tự do, dân chủ” của phương tây và cái đám Việt kiểu đang sống ở đâu đẩu đâu đâu ngoài đất nước Việt Nam? Nơi mà tương lai như tôi đoán định ở trên là cực kì bất ổn? Chọn con đường nào vẫn là sự quyết định của cả dân tộc, thế hệ này đang chọn độc đảng dưới sự dẫn dắt của Đảng CS VN, nhưng cũng rất có thể con cháu ta sẽ chọn đa đảng dưới sự dẫn dắt của Mỹ chống lại TQ, đó là sự lựa chọn của họ. Lựa chọn thế nào là việc phải quyết định cẩn thận, vì chính trị mà đi chệch đường nó sẽ tổn hại đến các thế hệ tương lai sau đó nữa. Mà điển hình, là như viễn cảnh mà tôi vẽ ra đấy.

Chú thích update 1 ngày 6/3/2013: cập nhật bài gốc, chủ yếu sửa lỗi chính tả, lỗi câu viết thiếu từ, sửa câu lại cho dễ hiểu

NightMoonLight

Nhận Diện Tà Giáo - Làm Sao Biết Đâu Là Tà Đạo?


1/ Đạo nào mà đào tạo con người chỉ biết tuân phục như cái máy (tuân phục tốt hay xấu chưa tính) , bỏ đi chức năng suy nghĩ của bộ não , đặt cái gọi là "đức tin" lên hàng đầu ? ----> phản động trí tuệ .

2/ Đạo nào chỉ lăm le xóa bỏ các nền văn hóa khác mình , tiêu diệt (khi xưa) hoặc cải đạo người ngoại đạo ? ----> phản động văn hóa .

3/ Đạo nào được sáng lập ra để thờ thần , phục vụ cho thần , xem con người như tôi tớ , súc vật , tạo vật của thần ? ----> phản động nhân văn .
4/ Đạo nào có tổ chức theo cấu trúc chính trị phân quyền , có thành tích vô tiền khoáng hậu theo hùa các thế lực thực dân đế quốc , chủ trương dùng sức mạnh chính trị buộc nhân loại phải khuất phục thờ thần của mình , bành trướng , làm rạng danh thần ? ----> phản động chính trị .

5/ Đạo nào chủ trương xem chân lý của kinh sách mình là tuyệt đối đúng không thể sai , có thành tích vô tiền khoáng hậu đàn áp và giết hại những người làm khoa học , có những tư tưởng chống lại khoa học , chống lại sự tiến bộ của nhân loại ? ----> phản động tri thức .
6/ Đạo nào chủ trương đem con trẻ vừa sinh ra đời phải biến ngay thành tín đồ của mình , khi trẻ lớn lên nhồi hàng ngày vào đầu nó những điều phi lý hoang đường để khiến cho trẻ cả đời sau này sống trong tâm cảnh nửa mê nửa tỉnh , biết có cái gì đó sai lầm mà vẫn nhất định tin vì nghĩ rằng đó là "màu nhiềm" , bộ óc của con người không thể hiểu nổi ? ----> phản động giáo dục .

7/ Đạo nào chỉ nhăm nho cưỡng ép người khác cải đạo , thậm chí đem cả tình yêu trai gái ra để mặc cả ? -----> phản động đạo lý .

8/ Đạo nào có một chuỗi chiều dài lịch sử mà những kẻ ngoan đạo nhất , tất nhiên là giới lãnh đạo tôn giáo , lại là đầy tội ác với những câu chuyện nhơ nhuốc như loạn luân , dâm ô , hiếu chiến , thậm chí có triều đại còn kêu gọi ném bom nguyên tử vào một quốc gia đã dám kháng chiến chống ách thực dân ? ----> phản động công lý .

Sưu Tầm

Chống “Cộng Sản” hay chống “Quốc Gia” không giúp cho cuộc đời đẹp thêm



•Nếu người Cộng Sản biết làm điều “tốt” như đánh đuổi thực dân để giải phóng đất nước, biết nghĩ tới no cơm ấm áo cho toàn dân, v.v… thì tại sao chúng ta phải chống người Cộng Sản?
•Nếu người Quốc Gia chỉ làm điều “xấu” như hung dữ đến độ ăn gan người, như cướp giật và hảm hiếp đàn bà con nít, v.v… thì tại sao chúng ta không chống người Quốc Gia?
•Nếu bạn là người thật sự muốn cho cuộc sống của người Việt Nam được thăng hoa, bạn chỉ cần suy gẩm để chọn cho bạn một đường lối thích hợp, và bắt đầu hành động. Bạn đâu cần chống Cộng Sản hay chống Quốc Gia gì đâu?
•Chống “Cộng Sản” hay chống “Quốc Gia” không giúp cho cuộc đời đẹp thêm. Chống cái “xấu” và ủng hộ cái “tốt” mới thật sự giúp bạn làm thăng hoa cuộc đời. Do đó có người đã nói: “Kẻ thù của chúng ta không phải là con người”.
•“cái nhãn hiệu” Quốc Gia và Cộng Sản mà bạn đang gắn cho người khác sẽ không động đậy được những người lành mạnh. Sau chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq… rất dẫy đầy người bệnh hoạn. Có người tiên đoán bệnh hoạn này tiếp tục di truyền tới đời con cháu, có thể cả trăm năm…
DuyenSinh
__________________

Ông Trời có đức hiếu sinh - Ai mà không muốn quyền sống, quyền làm người, người Việt Nam

 Tran Quang Dieu



1) Ai mà không muốn quyền sống, quyền làm người. Vậy nhân quyền của Việt Nam phải được tôn trọng:

Xin mời xem 7 phút video: Những thước phim sống động về Chiến tranh Việt Nam - Mỹ | Battlefield in VietNam sẽ thấy nhân quyền của con người bị chà đạp như thế nào trong chiến tranh Việt Nam.

2) Có ai lại muốn hậu quả của chiến tranh xảy ra cho Việt Nam như thế này:

"Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến gây nhiều tàn phá nhất, thiệt hại nhân mạng nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam và gây chia rẽ rất sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam qua các thế hệ cũng như gây xáo trộn, chia rẽ về chính trị và kinh tế trong lòng nước Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Tùy theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3 đến 5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Những người sống sót tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, môi trường, sức khỏe và tâm lý mà cuộc chiến đã gây ra. Trong đó có tỷ lệ dị dạng bẩm sinh cao nhất thế giới[278] Hàng vạn nạn nhân chất độc hóa học tại Việt Nam hiện nay (Xem Chất độc da cam). Một nửa diện tích rừng mưa của Việt Nam bị phá hủy.[279] Mỹ đã rải ở miền Nam Việt Nam 45.260 tấn (khoảng 75 triệu lít) chất độc hóa học,[280][281] sự tàn phá môi trường do Mỹ gây ra lớn đến mức đã làm phát sinh một từ tiếng Anh mới,ecocide. Việt Nam đã trở thành đất nước bị ném nhiều bom nhất trong lịch sử thế giới. Số bom ném xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn[282], gấp gần 3 lần tổng số bom sử dụng trong Thế chiến thứ hai (theo nguồn khác là trên 15 triệu tấn[283]), trong cái gọi là "chính sách lunarization" (Mặt Trăng hóa). Cơ sở hạ tầng ở cả hai miền Việt Nam bị phá hủy nặng nề. Tính bình quân mỗi người dân Việt Nam phải chịu đựng trên dưới 250 kg bom đạn Mỹ.[284] Sau chiến tranh, Việt Nam là một trong những nước có tình trạng ô nhiễm bom, mìn nặng nề nhất trên thế giới. Hàng triệu tấn bom mìn chưa phát nổ còn sót lại trong lòng đất làm hơn 42.000 người chết, 62.000 người bị thương từ 1975 đến nay, gây ô nhiễm 6,6 triệu ha đất (chiếm 20% diện tích Việt Nam), khiến chính phủ Việt Nam phải chi mỗi năm khoảng 100 triệu USD để khắc phục hậu quả bom mìn.[283][285]
Đối với Hoa Kỳ, Chiến tranh Việt Nam đã thành một chương buồn trong lịch sử của họ. 5 đời Tổng thống Mỹ với 4 chiến lược chiến tranh lần lượt phá sản. Quân đội Mỹ giảm hẳn hoạt động tại nước ngoài trong suốt 15 năm, cho tới khi Chiến tranh Vùng vịnh nổ ra. Ngoài 58.220 lính chết và 305.000 thương tật (trong đó 153.303 bị tàn phế). Ngoài số thương tích về thể xác, rất nhiều lính Mỹ trong số 2,7 triệu lính từng tham chiến tại Việt Nam bị mắc các chứng rối loạn tâm thần, thông thường được gọi là "Hội chứng Việt Nam", thêm vào đó là khoảng 10% số lính Mỹ khi trở về nước đã mắc nghiện ma túy trong những ngày ở Việt Nam.[286] Sự cay đắng của các cựu binh tuổi thanh niên này góp phần tạo nên Hippie, một trào lưu đầy nổi loạn, phủ nhận xã hội công nghiệp phương Tây, quay trở về với thiên nhiên, chống chiến tranh, cổ vũ tự do tình dục và những giá trị như bình đẳng, hòa bình và tình yêu... trong thanh niên Mỹ trong suốt 20 năm. Nhiều năm sau chiến tranh, hàng chục vạn quân nhân và cố vấn Mỹ đã bị ung thư hoặc sinh con bị dị tật do đã tiếp xúc với chất độc da cam."
http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam.

3) Sử gia Mỹ thẳng thắn nêu ra: "Vietnam why did we go?" (Tại sao chúng ta đi Việt Nam?)

Đó là cuộc chiến tranh mà căn nguyên, mấu chốt của nó là do Vatican La mã giáo! - "The Shocking Story of the Catholic "Church's" Role in Starting the Vietnam War - By Avro Manhattan (1914-1990)"
http://arcticbeacon.com/books/Avro_Manhatten_-_Vietnam_Why_Did_We_Go.pdf !!!


Trần Quang Diệu

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Danh sách 24 nhà dâm chủ nhơn quyền bị bắt sáng nay ngày 12/12/2014


1- Nguyễn Thúy Hạnh.( No-U FC)
2- Mai Thanh (AEDC)
3- Huỳnh Ngọc Chính
4-Bùi Hoàng
5-Nguyễn Công Thủ (PGHH)
6- Lã Việt Dũng.( No-U FC)
8- Nguyễn Ngọc Lụa (PGHH)
9- Ngô Hoàn Chí
10- Trần Bang (No-U SG)
11-Trương Minh Tâm
12- Châu Đức Vỹ ( SG)
13- Trần thị Hà (BD).
14- chồng Trần Thị Hà
15- Huỳnh Công Thực ( hội nhà báo đl)
16-Bùi Minh Luân (PGHH)
17- Lê hồng Hạnh (PGHH)
18- Lê thị Hiền(PGHH)
19- Bùi thị bích Tuyền.(PGHH)
20-Nguyễn văn Cảnh.(PGHH)
22- Hạnh Liberty
23- Mai Thanh
24- FB Thạch Thảo.

https://www.facebook.com/Mattranthanhnienchongphandong

Bác sĩ nhận tội gian lận bảo hiểm $154 triệu





8 nhân viên gốc Việt nhận tội chạy mối



SANTA ANA (NV) - Một bác sĩ vừa bị kết tội tham gia đường dây gian lận bảo hiểm y tế tới $154 triệu, trong đó có tám người Việt Nam bị tố cáo đồng lõa, thông cáo báo chí của Văn Phòng Biện Lý Cuộc Quận Cam gởi ra hôm Thứ Năm cho biết.





Công tố viên Walt Schwarm xếp hình 19 nghi can bị tố cáo gian lận bảo hiểm, trong cuộc họp báo tại văn phòng Biện Lý Cuộc Quận Cam năm 2008. (Hình: Bruce Chambers/The Orange County Register)

Bác Sĩ Michael Chan, 65 tuổi, cư dân Cerritos, nhận tất cả 40 tội. Ông có thể bị tuyên án tới 28 năm tù giam.

Tám bị cáo Việt Nam, bị tố cáo tội môi giới và làm hồ sơ cho vụ gian lận này, gồm có Thuy Huynh, Ngoc Huynh, Henry Truong, Amanda Phuc Tran, Nicholas Vu, Tam Vu Pham, Huong Thien Ngo và Lan Thi Ngoc Nguyen. Tất cả những bị cáo này đều đứng tuổi, từ 43 tới 55 tuổi.

Hầu hết 8 bị cáo này đều là người nhà, họ hàng thân thuộc hoặc bạn bè của nhau.

Biện Lý Cuộc cho rằng đây là vụ gian lận bảo hiểm y tế lớn nhất Hoa Kỳ, liên quan đến 19 đồng phạm và trung tâm y tế Unity Outpatient Surgery Center ở Buena Park.

Những người này bị cáo buộc chiêu dụ 2,841 người khỏe mạnh khắp nước Mỹ đến Unity giải phẫu không cần thiết để trung tâm này tính tiền các công ty bảo hiểm của họ.

Ðổi lại, những “bệnh nhân” này được “thưởng” một số tiền, từ $300 đến $1,000/lần, hoặc được hưởng giải phẫu thẩm mỹ giá rẻ.

Những cuộc mổ bị Unity tính tiền cho bảo hiểm là soi ruột, giải phẫu tuyến mồ hôi tay, cắt trĩ và các chứng đau nhức khác.

Unity chỉ hoạt động trong 17 tháng từ 2002 đến 2003.

Ngoài những người nêu trên, một số người khác, trong đó có hai bác sĩ, cũng bị tố cáo tội đồng lõa.

Trong các phiên xử trước, hai vợ chồng Tam Vu Pham và Huong Thien Ngo đã nhận tội. Bị cáo Lan Thi Ngoc Nguyen, cô của Huong Thien Ngo, cũng nhận tội.

Bị cáo Tam Vu Pham bị 12 năm tù, trong khi Huong Thien Ngo lãnh án tù treo 7 năm, nếu hoàn thành đầy đủ 5 năm quản chế, và 87 ngày ngồi tù. Bị cáo Lan Thi Ngoc Nguyen cũng thú nhận tội trạng và lãnh án 5 năm tù treo, nếu hoàn thành đầy đủ 5 năm quản chế, và 224 ngày ngồi tù.

Cuộc điều tra kéo dài hai năm do Biện Lý Cuộc Quận Cam thực hiện với sự hỗ trợ của Bộ Bảo Hiểm California.

Vụ án được bắt đầu khởi tố từ năm 2006. Phía công tố còn đang tiếp tục điều tra và khởi tố các nghi can khác. (Ð.D.)

Trí thức Hải Ngoại phản bác những luận điệu xuyên tạc nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh


Tác giả Trần Chung Ngọc


Tác giả Trần Chung Ngọc (1931-2014)



Đôi hàng về tác giả

Sinh năm 1931 tại Hà-Nội.

1952: Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy.

1956: Xin giải ngũ.

1957: Quy Y Tam Bảo, Chùa Văn Thánh, Thị Nghè, Thượng Tọa Tuệ Đăng chứng minh

1962: Cử Nhân Giáo Khoa Khoa Học, Khoa Học Đại Học Saigon.

1962: Bị gọi tái ngũ.

1962-1965: Trưởng Khoa Khoa Học (Vật Lý và Hóa Học), Văn Hóa Vụ, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đồng thời dạy thực tập Vật Lý ở Đại Học Đà Lạt, và dạy Vật Lý lớp 12 ở Collège d’Adran, Đà Lạt.

1965: Được giải ngũ

1965-1967: Giảng Nghiệm Viên, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon.

1967: Được học bổng đi Mỹ học về ngành Vật Lý ở Đại Học Wisconsin - Madison.

1972: Tốt nghiệp Ph.D., Vật Lý, Đại Học Wisconsin - Madison.

Luận Án: Kinematic Low-Energy Electron Diffraction Intensities From Averaged Data: A Method For Surface Crystallography.

1972-1975: Giảng sư, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon. Giáo sư thỉnh giàng: Đại Học Vạn Hạnh, Trường Kỷ Thuật Thủ Đức (1), Trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Đồng thời, cùng với các Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Ích (M.I.T), Vũ Thượng Quát (Cal.Tech), Huỳnh Văn Quảng (S.I.U), được tuyển làm ChuyênViên Đại Học, trực thuộc Thứ Trưởng Giáo Dục, trước là Đỗ Bá Khê, sau là Bùi Xuân Bào, đặc trách xét văn bằng ngoại quốc tương đương với các văn bằng Việt Nam, cùng nghiên cứu cải tổ chương trình giáo dục đại học.

1975-1977: Post Doctorate Fellow, Physics Department, University of Wisconsin- Madison.

1977-1996: Manager, Surface Analysis Laboratory, Materials Center, University of Wisconsin – Madison. Direct and conduct research in the field of Surface Analysis using new techniques such as AES (Auger Electron Spectroscopy); ESCA (Electron Spectroscopy for Chemical Analysis); SEM (Scanning Electron Microscopy); SIMS (Secondary Ion MassSpectroscopy) etc…

1989: Tháng 11: Được mời sang Singapore làm Cố Vấn Kỹ Thuật ở SISIR (Singapore Institute of Standards and Industrial Research)

1996 - 2014: Về hưu. Nghiên cứu Đạo Phật, Thiên Chúa Giáo, Lịch sử v..v..

Qua đời ngày 29/1/2014 tại Illinois, USA.


Vài nét về Cụ Hồ

PHẦN 1


Gồm có:

Tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng

Vài tài liệu về ông Hồ

Hai Câu Chuyện

Viết về một nhân vật có tầm vóc quốc tế như Hồ Chí Minh có thể nói là không dễ. Đối với những người thuộc giới Chống Cộng Cực Đoan [CCCĐ] hay Chống Cộng Cho Chúa [CCCC], viết theo cảm tính thù hận Quốc Gia chống Cộng, hay Công Giáo chống Cộng, trong khi thực sự không hiểu, không biết gì về Hồ Chí Minh thì rất dễ, vì muốn viết sao cũng được. Đưa ra những chi tiết lặt vặt, cộng với xuyên tạc, dựng đứng v..v.. nhằm “ám sát tư cách cá nhân” (character assassination), bằng những từ tục tĩu, hạ cấp v..v.. cho hả lòng thù hận, thì có lẽ ai viết cũng được, không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Thảm thay, hiện tượng này chúng ta thường thấy xảy ra trong vài khu rừng diễn đàn truyền thông hải ngoại, nơi đây một thiểu số người Việt có vẻ như không có mấy trình độ văn hóa, giáo dục thường lên tiếng. Nhưng viết cho đúng với nhân cách, khả năng, tư tưởng và con người của Hồ Chí Minh thì quả thật là khó, vì điều này đòi hỏi trước hết là một sự lương thiện trí thức, một sự hiểu biết đứng đắn về cuộc đời của ông Hồ, và nhất là, về ông đã làm gì cho đất nước Việt Nam.

Riêng đối với tôi, viết về ông Hồ lại càng khó hơn, vì xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã cầm súng chống Cộng trong thời gian 8 năm rưỡi, khoảng thời gian tôi ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đi Mỹ học, và đã về phục vụ trong ngành giáo dục ở miền Nam cho đến ngày chót, đương nhiên tôi đã ở phía Quốc Gia rồi. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã chấm dứt hơn 30 năm rồi, bây giờ còn nói đến chuyện Quốc – Cộng có phải là ngớ ngẩn không? Thời gian chỉ trôi có một chiều, một thế hệ già nua như chúng tôi đang lần lượt rủ nhau đi vào dĩ vãng để nhường chỗ cho một thế hệ trẻ hơn, đầy nhiệt huyết, với những kiến thức thời đại, biết thế nào là con đường quốc gia, dân tộc, và dứt khoát từ chối, không để cho đầu óc bị ô nhiễm bởi những thù hận của lớp trước, dù các bậc cha anh vô trí có muốn truyền lại. Với tâm cảnh như trên, vậy tôi phải viết về ông Hồ ra sao? Viết theo sự hiểu biết giới hạn của mình thì rất có thể “sai đường lối của một số người đang tham gia cuộc “thánh chiến chống Cộng”” và phải đội thêm vài cái nón cối nữa. Nhưng chẳng sao, tôi ở xứ lạnh, mùa Đông sắp đến, càng ấm đầu.

Tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng


Được đào tạo trong ngành Khoa Học Vật Lý, đối với tôi, sự lương thiện trí thức phải để lên hàng đầu, và phương pháp khảo cứu mọi vấn đề phải cẩn trọng, không để cho tình cảm thiên kiến lôi cuốn, tuy tôi tự biết, vì không có cái mặc cảm của Thượng đế (God complex), nên tôi không thể tránh khỏi có đôi chút thiên kiến khi viết về lịch sử. Một người nào đó đã chẳng từng nói: “Người nào viết sử mà không có đôi chút thiên kiến chắc phải có cái mặc cảm mình là Thượng đế (hay mặc cảm của Thượng đế) [Those who write about history without bias must have a God complex].

Để giảm thiểu thiên kiến, phương pháp khảo cứu của tôi là đọc nhiều sách về cùng một vấn đề, rồi từ đó kiếm ra một mẫu số chung. Điều này chưa hẳn là tuyệt đối đúng, nhưng ít ra cũng không xa sự thực là bao nhiêu.

Riêng về ông Hồ, đọc những tài liệu của giới CCCĐ hay CCCC ở hải ngoại thì cũng như không đọc, vì không biết thêm được điều gì mới lạ, ngoài những cường điệu chứng tỏ trình độ thấp kém về lịch sử của người viết. Còn dùng những tài liệu trong nước, phải gội đầu sẵn để đội thêm vài cái mũ của những kẻ không hề biết lý luận, không có khả năng thảo luận trí thức. Không phải là trong những tài liệu thuộc cả hai phe “Quốc-Cộng” này không có những chi tiết đúng, nhưng những chi tiết này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong kho tàng tài liệu ngày nay trên thế giới, từ tác phẩm của những nhà nghiên cứu trong môi trường đại học, các chính khách, cựu tướng lãnh v..v…, và từ các tài liệu có trong các văn khố của một số quốc gia.

Vậy thì tốt hơn hết là đi tìm tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng.

-- o0o --

Bài viết này không có mục đích viết tất cả về ông Hồ Chí Minh, tôi không có khả năng như vậy. Nhân đọc loạt bài ông Minh Võ phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker cùng đọc bài khảo cứu, có thể nói là một bài giáo khoa của giáo sư Sử học Nguyễn Mạnh Quang, về những vị lãnh đạo Việt Nam trong thời cận đại như Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, đăng trên giaodiemonline.com tháng 11, 2006, tôi chỉ muốn bổ túc và thu hẹp trên một vài khía cạnh về ông Hồ Chí Minh: vị thế của ông Hồ Chí Minh trên chính trường quốc tế, trong lòng dân tộc Việt Nam, và nhất là, phải chăng ông là người Cộng sản cực đoan, tay sai của Nga Sô và Trung Cộng như một số người chống Cộng cực đoan ở hải ngoại

Còn những con cờ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu của Pháp và Mỹ thì có lẽ không cần phải nhắc tới. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã viết quá đủ về những nhân vật này rồi, nhất là về ông “Phán Quan Tây Ban Nha” Ngô Đình Diệm. (Link:
http://www.giaodiemonline.com/nov/chuong18.htm)

Trước khi đi vào những vấn đề này, tôi có một nhận xét tổng quát về những luận điệu xuyên tạc, đả kích ông Hồ Chí Minh của một số người có vẻ như không có mấy trình độ. Không có gì ngu xuẩn hơn là so sánh ông Hồ với Hitler. Những người này hầu như không hề biết gì đến dư luận thế giới, nhất là trong các nước tiến bộ Âu Mỹ, đã nhận định về ông Hồ Chí Minh như thế nào. Hãy vào Internet đánh tên Ho Chi Minh thì sẽ thấy Thế giới đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào. Hay hãy đọc những cuốn sách về chiến tranh Việt Nam của các học giả, tướng lãnh Mỹ, và ngay cả hai cuốn In Retrospect và Argument Without End của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara.



Phần nhận định tích cực về Hồ Chí Minh tràn ngập so với phần tiêu cực thưa thớt của một số người Việt hải ngoại mà tên tuổi không đáng kể, và chỉ như những con đom đóm lập lòe trên vài diễn đàn điện tử ít có giá trị trí thức của đám người Việt còn mang nặng lòng hận thù Quốc-Cộng, chống Cộng cuối mùa, chống Cộng khi đã không còn Cộng..


Và những người muốn hạ bệ Hồ Chí Minh để vinh danh “chí sĩ” Ngô Đình Diệm của họ nhân dịp 1/11 thì hãy kiếm đọc cuốn “Những Bạo Chúa, 100 Tên Chuyên Quyền và Độc Tài Ác Nhất Trong Lịch Sử” (Tyrants, History’s 100 Most Evil Despots and Dictators) của Nigel Cawthorne, Barnes & Noble, NY, 2004, trong đó chúng ta có thể thấy những tên quen thuộc như Tần Thủy Hoàng, Võ Hậu, Từ Hi, Richard III, Mary I, Ceasar Borgia v..v.. và trong thời cận đại: Hitler, Mao Trạch Đông, Stalin, Pol Pot, Sadam Hussein, Kim Jung II, và, lạ lùng thay, có cả tên Ngô Đình Diệm (President of South Vietnam) mà lại không có tên Hồ Chí Minh trong danh sách này. Mỗi tên trong danh sách đều có kèm theo một tiểu sử ngắn và sơ lược những hành động chuyên quyền và độc tài của nhân vật đó.

Thế này là thế nào? Chẳng có lẽ Nigel Cawthorne cũng như nhiều trí thức Tây phương đều là tay sai của CSVN, hay là những người ngu cả hay sao?

Cách đây sáu năm, năm 2000, sử gia William J. Duiker có xuất bản cuốn “Ho Chi Minh, A Life”. Cuốn này được giới trí thức, học giả Âu Mỹ đánh giá khá cao và cho rằng đó là một cuốn nghiên cứu sâu rộng nhất về con người và sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh. Đọc Duiker và phối kiểm với những đoạn viết về ông Hồ của nhiều tác giả khác trong thế giới Tây phương, chúng ta có thể rút tỉa ra những điều không xa với sự thật là bao nhiêu.

Trước hết, quốc tế đối với ông Hồ ra sao? Tôi xin được nhắc lại một đoạn trong bài của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà giáo sư đã trích dẫn từ cuốn “Ho Chi Minh” của William J. Duiker:



“Khi tin tức về cái chết của ông Hồ Chí Minh được loan truyền thì khắp địa cầu đưa ra nhận xét về ông. Hà Nội nhận được tới hơn hai mươi hai ngàn (22000) bức điện tín từ các thủ đô lớn của 121 quốc gia trên thế giới để bày tỏ lời ca ngợi ông và chia buồn với nhân dân Việt Nam. Một số các nước theo chủ nghĩa xã hội tổ chức buổi lễ truy điệu ông và đưa ra những lời ca tụng ông. Thủ đô Mạc Tư Khoa chính thức ca tụng ông như là “người con vĩ đại của dân tộc anh hùng Việt Nam, một người lãnh đạo xuất sắc của phong trào giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, và là người bạn vĩ đại của Liên Bang Sô Viết.” Các nước trong Thế Giới Thứ Ba (các nước trung lập) cũng nhận xét về ông với những lời ca tụng ông như là một người bảo vệ những người bị áp bức. Một bài báo phát hành ở Ấn Độ mô tả ông như là tinh túy của “dân tộc và là hiện thân của lòng khát vọng tự do, của sự tranh đấu bền bỉ.” Những bài báo khác đề cao đức tính giản dị và thẳng thắn của ông. Một bài xã luận trong một tờ báo ở Uruguay (Nam Mỹ) ghi nhận “Ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và có một tình thương vô bờ bến đối vào các trẻ em. Ông là gương mẫu về đức tính giản dị và thẳng thắn trong tất cả mọi phạm vi.”

Phản ứng từ các thủ đô Tây Phương thì không biểu lộ mạnh mẽ. Tòa Bạch Ốc lặng thinh và các viên chức cao cấp trong chính quyền của Tổng Thống Nixon cũng không bình luận gì cả. Nhưng việc chú ý đến cái chết cúa ông Hồ Chí Minh đối với giới truyền thông trong các nước Tây Phương thật là mãnh liệt. Những tờ báo ủng hộ các phong trào phản chiến có khuynh hướng mô tả ông bằng những lời lẽ ca tụng ông như là một địch thủ xứng đáng và là một người bảo vệ những kẻ yếu, những người lép vế thế cô và những người bị áp bức. Ngay cả những người vẫn thường khăng khăng chống lại chế độ Hà Nội cũng đánh giá ông bằng những lời lẽ kính trọng ông như là một người đã tận hiến cả cuộc đời cho đại cuộc chiến đấu giành độc lập và thống nhất đất nước cho tổ quốc ông, coi ông như là người phát ngôn xuất chúng cho các dân tộc bị bóc lột ở trên thế giới.”

Nguyên văn: (“The news of Ho Chi Minh’ s death was greeted with a outpouring of comment from around the globe. Eulogies flowed in from major world capitals, and Hanoi received more than twenty-two thousand messages from 121 countries offering the Vietnamese people condolences for the death of their leader. A number of socialists states held memorial services of their own and editorial comment were predictable favorable. An official statement from Moscow lauded Ho as a “great son of the heroic Vietnamse people, the outstanding leader of the international Communist and national liberation movement, and a great friend of the Soviet Union.” From the Third World countries came praise for his role as a defender of the oppressed. An article published in India described him as the essence of “the people, the embodiment of the ardent aspiration for freedom, of their endurance and struggle.” Others referred to his simplicity of manner and high moral standing. Remarked an editorial in Uruguayan newspaper: “He had a heart as immense as the universe and in a boundless love for the children. He is a model of simplicity in all fields.”

Reaction from Western capitals was more muted. The White House refrained from comment, and senior Nixon administration officials followed suite. But attention to Ho’s death in the Western news media was intense. Newspapers that supported the antiwar cause tended to describe him in favorable terms as a worthy adversary and a defender of the weak and oppressed. Even those who had admandtly opposed the Hanoi regime accorded him a measure of respect as one who had dedicated himself first and foremost to the independence and unification of his country, as well as a prominent spokeperson for the exploited peoples of the world.”) [Đây là đoạn đầu của Chương cuối: “Epilogue: From Man To Myth” , trang 562. TCN]

Trên đây, Duiker đã viết lại một sự kiện. Sự kiện này, hơn gì hết, đã loại bỏ tất cả những gì mà một số người Việt hải ngoại hay ở trong nước viết tiêu cực theo cảm tính về ông Hồ. Cho nên bất kể những luận điệu nhằm hạ uy tín của ông Hồ đều không thể thuyết phục được ai, ít nhất là trong giới hiểu biết, nhất là những luận điệu này lại thuộc loại hạ cấp, đầy hận thù, vụn vặt, chỉ nhắm vào những tiểu tiết mà không nhìn thấy những mặt to lớn của sự việc, và chỉ có thể lấy được sự đồng tình của một số người nhỏ nhoi thu hẹp trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại..



Có một bài viết về ông Hồ Chí Minh của Wilfred Burchett khá hay: Ho Chi Minh: An Appreciation (pipeline.com). Wilfred Burchett là một ký giả Úc nổi tiếng, đã từng được Ngoại Trưởng Henri Kissinger nhờ làm trung gian liên lạc giữa Mỹ và Hà Nội. Năm 1968, ông đã viết một cuốn có tính cách tiên đoán: “Việt Nam Sẽ Thắng” (Vietnam Will Win) và năm 1977 ông xuất bản cuốn “Châu Chấu Và Voi: Tại Sao [Nam] Việt Nam Sụp Đổ” (Grasshoppers and Elephants: Why Vietnam Fell). Theo tôi, Burchett viết hay, không phải vì tác giả ca tụng ông Hồ, mà tác giả đã viết về những gì đã tạo nên ông Hồ: Không phải thuần túy chỉ là Marx, là Lenin hay Mao Trạch Đông, mà chính là lịch sử 2000 năm chống ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ. Có thể nói, tác giả hiểu Việt Nam hơn rất nhiều người tự cho mình là trí thức. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Burchett:


“Chính sách của Mỹ là làm cho người Việt Nam cảm thấy mình thuộc một sắc dân thấp kém (racial inferiors),không có quyền về căn cước quốc gia (have no right for national identity). Họ thường bị gọi là “gooks”, “slopes” và “dinks”, và trên những phúc trình chính thức, làng Mỹ Lai trở thành “Thành phố hồng” (Pinkville) [có nghĩa là thành phố CS] và dân làng bị tàn sát chỉ là “những người Á đông” (oriental human beings). [với ý coi thường, miệt thị]

Sự thực là người nông dân Việt Nam nghèo khó nhất, ngay cả thất học, về phương diện văn hóa và đạo đức thường cũng cao hơn người Mỹ (Reality is that the humblest Vietnamese peasant, even illiterate, is usually culturally and morally superior to his American adversary.). Hắn ta biết nhiều hơn về lịch sử đất nước của hắn – không chỉ vì đất nước hắn có vài ngàn năm lịch sử nhiều hơn Mỹ để mà biết đến – mà vì những điều này đã thấm vào trong người hắn từ sữa mẹ (literally absorbs it with his mother’s milk). Ngay từ bé, hắn sống lên trong một môi trường tràn ngập với những câu chuyện về gia tài lịch sử, hoặc được kể ngay khi còn nằm trong lòng mẹ, hoặc qua những màn kịch diễn lại những trang sử oai hùng của 2000 năm lịch sử chống ngoại xâm của những gánh hát di động, hoặc những truyền thuyết về các “thần hoàng làng”, [thường là các anh hùng giúp nước của xóm làng, được nhà Vua sắc phong], hoặc là những câu chuyện về tổ tiên đã bảo vệ non sông như thế nào, hoặc là những chuyện đau khổ của người dân bị đàn áp bởi ngoại nhân nên đòi hỏi một sự đứng lên để chống đối v..v… Sự hiểu biết về 2000 năm tranh đấu chống kẻ xâm lăng có đầy trong dòng máu của người nông dân chân lấm tay bùn nghèo khó nhất. Chỉ một điều này cũng là một nguồn dũng cảm và sức chịu đựng vô tận, một sự tin tưởng vào tương lai và coi thường những kẻ toan tính phá vỡ những đức tính mà những chuyên viên trong cái “hồ tư duy” (think tank) [của Mỹ]không thể hiểu được (The knowledge of two thousand years' struggle against invaders is in the bloodstream of the humblest, mud-stained peasant. This alone is an inexhaustible source of courage and stoicism; of confidence in the future and contempt for those who try to wreck the present-qualities incomprehensible to the "think tank" specialists.).

Ông Hồ Chí Minh là mẫu mực thu nhỏ của tất cả những điều trên. Và đúng là, cũng như một cái gì đó trong mỗi người Việt Nam đều có trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu hết những người Việt Nam ngày nay, dấu ấn của ông trên dân tộc Việt Nam thật là sâu đậm (Ho Chi Minh epitomizes all this. And just as there was something of every Vietnamese in Ho Chi Minh so there is something of Ho Chi Minh in almost every present-day Vietnamese, so strong is his imprint on the Vietnamese nation.) .

Một vấn đề mà Tổng thống Nixon cũng như các vị tiền nhiệm có thể không lưu ý đến nhưng chắc chắn là dân Việt Nam không thể không biết, đó là Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.(No line arbitrarily drawn along the 17th parallel could divorce the people of the South from Ho Chi Minh because his capital happened to be on the northern side of the line. Ho Chi Minh was the accepted leader and source of inspiration for all Vietnamese - except the handful who served Japanese, French and American masters in turn.)

Lẽ dĩ nhiên, một số người Việt “Quốc Gia” ở hải ngoại không thể đồng ý với nhận định trên, điều này có lẽ cũng không lấy gì làm khó hiểu. Nhưng trên phương diện nghiên cứu trí thức, một câu hỏi cần được đặt ra: có bao nhiêu phần đúng trong nhận định của Burchett? Nếu chúng ta thuộc lịch sử Việt Nam, nếu chúng ta biết đến những truyền thống trong xã hội làng mạc Việt Nam, nếu chúng ta để tâm nghiên cứu về hai cuộc chiến ở Việt Nam, với Pháp rồi với Mỹ, thì có lẽ chúng ta không cần đặt ra câu hỏi trên.

Vấn đề tiếp theo tôi muốn nói đến là: ông Hồ Chí Minh là con người Cộng Sản như thế nào? 
Chúng ta biết rằng, ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ phủ nhận mình là người Cộng Sản và đã từng khẳng định là Lenin đã gây cảm hứng cho ông trong công cuộc giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng muốn hiểu ông Hồ là người Cộng sản như thế nào, có lẽ chúng ta nên biết đến quan niệm của một số trí thức ngoại quốc, những người thường ở trong môi trường đại học, đặt sự tôn trọng sự lương thiện trí thức lên hàng đầu, và vì chính uy tín của họ, nên không thể viết theo cảm tính mà không nghiên cứu kỹ vấn đề, hay tự hạ mình rơi vào vòng tranh chấp Quốc-Cộng mà họ không thuộc phe nào và không có lý do gì để ủng hộ hay chống đối một phe nào..

Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Stanley I. Kutler điểm cuốn “Ho Chi Minh, A Life”, Kutler là tác giả cuốn "The Wars of Watergate" và là chủ biên của "The Encyclopedia of the Vietnam War." Stanley Kutler cho rằng trong tác phẩm của mình, Duiker đã viết về một nhà cách mạng ái quốc gần với Thomas Jefferson hơn là với V. I. Lenin [A patriot closer to Thomas Jefferson than to V.I. Lenin]. (Điều này, không phải chỉ có mình Duiker mới nhận định như trên, mà một số tác giả Mỹ khác cũng có cùng một nhận định như vậy. TCN)

Trước hết, Kutler cho rằng chế độ thực dân đã cáo chung một thế kỷ nay rồi và vai trò của ông Hồ đã đi vào quá khứ. Ngày nay, Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, có nghĩa là có những liên doanh mang lại lợi nhuận cho chính phủ, cho một số viên chức được ưu đãi, và cho những công ty Tây phương. Nhưng Kutler ghi nhận là:


“Tuy nhiên, thế giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ, và những người như ông, những người đã lo lắng, chiến đấu và hi sinh để giải phóng quốc gia của họ thoát khỏi sự sỉ nhục và gông cùm của sự chuyên chế bạo ngược ngoại quốc.” (Nevertheless, the world is a different place because of Ho, and others like him, who agitated, fought and died to liberate their lands from the stigma and yoke of foreign tyranny.)

Sau đó Kutler viết:

“Duiker đã đi quá sự tranh luận đơn giản trong thời Chiến Tranh Lạnh về vấn đề ông Hồ là người Cộng sản theo chính thống Mác-Lênin hay là một nhà ái quốc quốc gia, hiến thân cho cuộc giải phóng và thống nhất đất nước?” (Duiker has moved beyond the simplistic Cold War debate of whether Ho was a dedicated Communist, beholden to Marxist-Leninist orthodoxy, or whether he was a patriot and a nationalist, dedicated to freeing and uniting his country.)“Duiker đã nhận định đúng, Hồ Chí Minh có căn rễ sâu đậm trong phong trào Cộng sản quốc tế, nhưng ông luôn luôn là một người quốc gia đã mang lại sự lãnh đạo, viễn kiến và sự cương quyết hiến thân cho nguyên lý dân tộc tự quyết" (Duiker rightly notes that Ho had deep roots in the international Communist movement; but he was a constant nationalist who provided leadership, vision and a firm commitment to the principle of self-determination.)…

“Ông Hồ không hề nao núng khi dùng chủ nghĩa Cộng Sản cho những mục đích quốc gia. Lời tuyên bố của ông: “các dân ở Đông Dương vẫn sống và sẽ còn sống mãi” khó mà phù hợp với chủ nghĩa Mác. Duiker nhấn mạnh là, đối với ông Hồ, độc lập quốc gia bao giờ cũng là mục tiêu chủ yếu, trong khi chủ thuyết về một cộng sản không tưởng vẫn là một vấn đề mơ hồ, bất định cho tương lai” [Ho unabashedly used communism for his own nationalist ends. His statement that "the peoples of Indochina still live and will live forever" is hardly compatible with Marxism. Duiker insists that for Ho, national independence always was the primary goal, while the doctrine of a communist utopia remained a vague, indefinite matter for the future.] Duiker cũng nhắc lại cho chúng ta là rất tiếc vì những nhận định hời hợt về cuộc Chiến Tranh Lạnh mà Paris và rồi Washington đã thất bại không nắm lấy tay ông Hồ, để đưa đến những hậu quả sâu đậm cho người Việt Nam và cho thế giới (Duiker painfully reminds us that external Cold War considerations led to the failure of Paris and then Washington to grasp Ho's hand, resulting in profound consequences for the Vietnamese people and the world.)

Lẽ dĩ nhiên, cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của Duiker không làm những người mang nặng lòng hận thù Cộng Sản hài lòng, và họ đã lên tiếng chê sử gia Duiker cũng như tất cả các tác giả Âu Mỹ viết về ông Hồ mà không đúng ý họ là ngu dốt, là những người ngoại quốc, đâu có biết gì về ông Hồ bằng người Việt Nam. Chỉ có những người vô tên tuổi, vô văn hóa, và chẳng biết gì mấy về Việt Nam như họ mới có thể biết rõ về ông Hồ, dù rất có thể họ chưa bao giờ thấy mặt ông Hồ, và chỉ biết ông Hồ qua những luận điệu tuyên truyền chống Cộng ở hải ngoại và qua vài chi tiết lặt vặt trong những tác phẩm của những người sau này chống Đảng như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần v..v....

Điển hình cho loại người này trên Internet là Minh Võ, một người rất năng nổ trong chiến dịch “No Hồ” ở hải ngoại, viết trên diễn đàn điện tử Đàn Chim Việt, một diễn đàn có vẻ như là nơi để cho một số người nhân danh tự do ngôn luận vào đó chửi lộn. Minh Võ đang cố gắng phá đổ cái mà ông ta gọi là “thần tượng Hồ Chí Minh”, dù rằng chẳng có ai coi ông Hồ là thần tượng, vì hầu như mọi người dân trong nước đều coi ông Hồ đơn giản là “Bác Hồ”. Nhưng trình độ hiểu biết, khả năng lý luận, và thủ đoạn bịa đặt sự kiện của ông Minh Võ không cho phép ông ta đạt được mục đích, cho nên những điều ông ta phê bình Duiker cũng như những điều ông ấy viết về ông Hồ không có mấy giá trị trí thức, để lộ rõ một kiến thức kém cỏi và viết với một tâm trạng thù hận và thiếu sự lương thiện trí thức trong đó. Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng, nhưng tôi để cho phần sau.

Vài tài liệu về ông Hồ

Trước hết chúng ta hãy đọc thêm vài tài liệu về ông Hồ:

Trong tờ “Les Collections de L’Histoire”, số 23, Avril-Juin 2004, một tuyển tập về “Indochine Vietnam: Colonisation, Guerres et Communisme” có bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” [L’Homme Qui Devint Ho Chi Minh] của Pierre Brocheux, Giáo sư Diễn Giảng Danh Dự tại Đại Học Denis-Diderot, Paris-VII. Chúng ta sẽ thấy trong đó có vài chi tiết chứng tỏ ngay cả Nga và Tàu cũng không tin tưởng ông Hồ Chí Minh là người Cộng Sản chính thống (orthodox communist). Giáo sư Brocheux viết, trang 33:


Đối với Quốc (Nguyễn Ái Quốc), chủ thuyết Mác Lênin đã đưa lên những phương tiện hành động, như là ông ta đã giảng giải nhiều năm sau: “Chúng ta phải hiểu rằng giật độc lập ra khỏi tay một cường quốc như Pháp là một nhiệm vụ rất khó khăn mà người ta không thể hoàn thành mà không có một sự ngoại viện, không cần thiết phải là một sự viện trợ vũ khí mà dưới dạng cố vấn và tiếp xúc. Chúng ta không lấy lại được độc lập bằng cách ném bom hay bằng những hành động tương tự. Đó là sự sai lầm của những nhà cách mạng lúc đầu đã phạm phải [Có lẽ ông Hồ muốn nói đến cuộc ám sát thất bại của Phạm Hồng Thái đối với Toàn Quyền Merlin]. Chúng ta lấy lại độc lập bằng sự tổ chức và tự khép mình vào kỷ luật. Chúng ta cũng còn cần đến một lòng tin, một phúc âm, một sự phân tích thực tiễn, có thể nói đến như là một thánh kinh. Chủ thuyết Mác-Lênin đã cung cấp cho tôi đường lối hành động này.”

(Pour Quoc, le marxisme-léninisme offre des moyens d’action, comme il l’a expliqué des années plus tard: “Vous devez comprendre qu’arracher l’indépendance à une puissance comme la France est une tâche formidable qu’on ne peut accomplir sans une aide extérieure et pas nécessairement une aide en armes mais sous la forme de conseils et de contacts. On ne gagne pas l’indépendance en jetant des bombes et par des actes de ce type. Ce fut l’erreur que les premiers révolutinaires commirent. On gagne l’indépendance en s’organisant et en se diciplinant. On a aussi besoin d’une foi, d’un évangile, d’une analyse pratique, on peut même parler d’une bible. Le marxisme-léninisme m’a fourni cette panoplie.)

Thực ra thì có lẽ ông Hồ muốn nói đến Những Luận Đề Về Những Vấn Đề Quốc Gia Và Thuộc Địa (Theses on The National and The Colonial Questions) của Lê-nin đưa lên trong Đại Hội II Cộng Sản Quốc Tế (Second Congress of the Communist International) vào năm 1920 để nghị thảo mà ông biết đến trong Đệ Tam Quốc tế. Chúng ta đã biết, chính ông Hồ Chí Minh đã thành thực công nhận là mới đầu ông không hiểu hết những từ và ý tưởng chính trị khó khăn trong bản văn trên, nhưng rồi đọc đi đọc lại ông mới thấm và hiểu rõ, và ý thức được là những luận đề này đã giúp cho ông ta thấy con đường thích hợp nhất để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, thực dân. Và ông Hồ đã thành công.

Chúng ta hãy đọc tiếp vài đoạn khác của Giáo sư Brocheux. Trước hết là một tài liệu trích dẫn từ một tài liệu trong văn khố của Nga Sô, mới được sử gia Alain Ruscio phổ biến năm 1990, trang 34-36:


“Năm 1934, Ông Hồ trở lại Moscou. Stalin đã nắm chắc quyền lực, và những cuộc thanh trừng lớn bắt đầu năm 1937. Có vẻ như con người Hồ Chí Minh tương lai là nạn nhân, vì từ ngày trở lại Moscou, ông ta không được tin cậy để giao phó cho một trách nhiệm nào. Không còn nghi ngờ gì nữa người ta đã trách cứ là ông ta ngả về tinh thần quốc gia trong cuộc chiến đấu chống thực dân thay vì tinh thần cách mạng vô sản quốc tế.”

(En 1934, il est de retour à Moscou. Staline raffermit son pouvoir, les grandes purges vont débuter en 1937. Il apparait avec certitude que le futur Ho Chi Minh faillit en être victime car, depuis son retour, il ne s’est vu confier aucune responsabilité. Sans doute lui reproche-t’on de préférer le nationalisme qui sous-tend le combat anti-colonial à l’internationalisme de la révolution prolatérienne.)

“Về vấn đề này, ông Hồ đã bày tỏ quan điểm của mình từ năm 1924.. Được huấn luyện về cách mạng và chủ thuyết Marx bởi Tây phương, tuy nhiên Quốc đã nhìn theo đặc tính Á Đông: “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông phương không giống như ở Tây phương. Marx đã xây dựng lý thuyết của mình trên một căn bản triết lý nào đó của lịch sử. Nhưng là lịch sử nào? Đó là lịch sử Âu Châu. Nhưng Âu Châu là gì? Không phải là tất cả nhân loại.”

(À ce sujet, il a expliqué son point de vue dès 1924… Éduqué par l’Occident à la révolution et au marxisme, Quoc est pourtant persuadé, de la spécifícité de l’Orient: “ La lutte de classes ne se manifeste pas en Indochine comme en Occident.” ; Marx a bâti sa doctrine sur une certaine philosophie de l’histoire. Mais quelle histoire? Celle de l’Europe. Mais qu’est ce que l’Europe? Ce n’est pas toute l’humanité).

“Hồ Chí Minh có thực sự là mgười Mác-xít không? Hay ông ta chỉ là người Quốc Gia sau lớp sơn đỏ, như một thành viên Cộng Sản Quốc Tế, ông M. N. Roy, người Ấn Độ, đã nói? 

Vấn đề này đáng được đặt ra.. Nếu chắc chắn là ông ta đã đọc bản Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản, nếu đã nhiều lần ông ta nói là chịu ảnh hưởng trí thức và chính trị của Lê-nin, thì sự gắn bó của ông với chủ nghĩa Mác không bao giờ có tính cách giáo điều.“

(Ho Chi Minh était-il vraiment marxiste? Ou n’était-il qu’un “nationaliste peint en rouge”, comme l’a dit un membre du Komintern, l’Indien M.N. Roy? La question mérite đêtre posée… S’il a certainement lu le Manifeste du Parti Communiste, s’il dit maintes reprises sa dette intellectuelle et politique envers Lénine, son adhésion au Marxisme ne fut, pour autant, jamais dogmatique.)

“Năm 1963, người Cộng Sản Lưu Thiếu Kỳ đã phác họa một hình ảnh chính trị của ông Hồ, nếu đúng, cho thấy một vị thế không thoải mái [của ông Hồ] đưa đến một sự gắn bó đôi đàng với lòng yêu nước chấp nhận thỏa hiệp, và chủ nghĩa xã hội độc quyền: “Hồ luôn luôn là người hữu khuynh.. Khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, ông ta không thể quyết định là thiết lập một chế độ tư bản hay một chế độ theo xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đã quyết định cho ông ta.””

(Le communist Chinois Liu Shaoqi esquisse en 1963 un portrait politique de Ho qui, s’il est exact, indique la position inconfortable qui résulte d’une double adhésion au patriotisme consensuel et au socialisme exclusif: “Ho a toujours été un droitiste.. Lorsque la guerre d’Indochine prit fin, il ne put se décider à choisir d’instaurer soit un régime capitaliste soit un régime socialiste. Ce fut nous qui décidâmes pour lui.”)

“Không có gì minh họa rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ với ông Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả việc giết kẻ thù cũng không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới Thạch giết, tôi giết, đó không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm vào là viện đến đạo đức khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng là không thích đáng .”

(Rien n’illustre mieux le contraste entre Ho Chi Minh et d’autres dirigeants communistes que les propos que Mao Zedong et Liu Shaoqi tinrent à Ho Chi Minh en 1960. Ho avait déclaré qu’il n’était pas moral de tuer même ses adversaires; Mao lui répliqua: “Chiang Kaishek tue, je tue, ce n’est pas une question de morale.” Et Liu Shaoqi de renchérir qu’il n’était pas pertinent d’invoquer la morale lorsqu’on avait affaire aux contre-révolutionnaires capitalistes.)


Trong cuốn “The Vietnam War Almanac, General Editor: John S. Bowman, Barnes & Noble Books, NY, 2005”, trang 493, cũng có viết:

Ông Hồ ít quan tâm đến những chi tiết tế nhị của chủ thuyết Mao và Lê-nin; thiên tài của ông ta là về hành động chính trị, và lý tưởng của ông ta có thể khá co dãn chừng nào mà nó đưa tới mục đích đã ám ảnh ông ta: nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.” (Ho was less concerned with niceties of doctrine than Mao and Lenin; his genius was for political action, and his ideology was capable of considerable stretching as long as it tended toward the purpose that obsessed him: the independence and unification of Vietnam.)


Trong cuốn Cracks In The Empire, South End Press, Boston, 1981, Paul Joseph, Giáo sư xã hội học, đại học Tufts, viết, trang 83:


“Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh chống Pháp (ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và Moscou nhưng cho rằng có.”

(Despite a lack of evidence,Washington continued to perceive the anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose “philosophy and political organization emanated from and was controlled by the Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscou but assumes it exists..)


Marilyn B. Young, trong cuốn The Vietnam Wars: 1945-1990, HarperPerennial, New York, 1991, viết, trang 4:


“Trong vài năm tới, những văn bản Hồ Chí Minh viết bị tố cáo vì những “mùi hôi quốc gia” trong đó, và sự ủng hộ của ông Hồ về một liên minh rộng rãi bao gồm cả các địa chủ cỡ nhỏ và trung bình, miễn là họ yêu nước, bị đả kích là kẻ xét lại và là kẻ hợp tác (với kẻ thù). Phải mười năm sau sự tranh luận đắng cay về mối liên hệ giữa cách mạng quốc gia và cách mạng xã hội mới được giải quyết, theo đường lối lúc đầu đưa ra bởi ông Hồ, sự thành lập Việt Minh (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội.”

(Over the next few years, Ho Chi Minh’s writings were denounced for their “nationalist stench”, and his support for a broad alliance that could include even small and medium landowners, provided they were patriotic, was attacked as reformist and collaborationist. A decade would pass before this bitter debate on the relationship between national and social revolution was resolved, along the lines initially by Ho, in the formation of the Viet Minh.)

Trên đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu khác có những nhận định tương tự rải rác trong những cuốn sách mà tôi đã đọc. Lẽ dĩ nhiên, tôi không thể nào trích dẫn tất cả những nhận định ấy trong phạm vi một bài viết như thế này. Điều này đòi hỏi nhiều thời gian và thích hợp trong một cuốn sách viết ông Hồ hơn.

Nhưng qua những tài liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng ông Hồ không phải là tay sai của Nga và Tàu như một số người có đầu mà không có óc cố tình lên án ông ta là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, hay tệ hơn nữa là “điệp viên của Cộng Sản Quốc tế”
. Họ không hề biết chính trị của ông Hồ giữa Nga và Tàu, đã khôn khéo từ chối không nhận đề nghị của Nga cũng như Tàu gửi quân tình nguyện vào đánh giúp. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, Chương 9: “Giữa Con Gấu Nga Và Con Rồng Tàu” (Between Russian Bear and Chinese Dragon), trang 109:


Đến Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách Mạng Trung Quốc, ông Hồ cẩn thận đứng giữa Mao Trạch Đông và đại diện của Nga Sô, Miklai Suslov. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông Hồ đã thành công lấy được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moscou để tăng gia giúp thêm vũ khí và viện trợ dân sự, nhưng khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam. Ông Hồ biết rõ là nếu để cho con gấu Nga hay con rồng Trung Hoa được đặt chân vào cửa ngõ Hà Nội thì dần dần cửa ngõ này sẽ bị cưỡng bách mở rộng ra cho đến khi Bắc Việt mất đi nền độc lập và trở thành một quốc gia bị chiếm.”

(Visiting Peking in 1959 for the 10th anniversary of the Chinese Revolution, Ho was careful to stand between Mao Tse-Tung and Chief Soviet Delegate Mikhail Suslov. In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or military advisers. Ho knew that if either the Russian bear or the Chinese dragon were allowed to trust a foot inside Hanoi’s door, that door would gradually be forced open until North Vietnam lost its independence and became a captive nation.)

Đọc về ông Hồ chúng ta thấy rõ Mỹ và Pháp, vì những nhận định chính trị sai lầm, đã càng ngày càng đẩy ông ta về phía Cộng Sản, và ông ta không có con đường nào khác, vì để thực hiện mục đích không hề thay đổi của ông là thực hiện nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, nên ông ta cần đến các đồng minh. [Hãy nghĩ đến chuyện ông viết 8 bức thư cho Tổng Thống Truman, đến chuyện Mỹ giúp 80% quân phí cho Pháp trở lại tái lập nền đô hộ ở Đông Dương, và rồi dựng lên chế độ Ngô Đình Diệm, vi phạm hiệp định Genève, ngăn chận cuộc bầu cử vào năm 1956 để thống nhất đất nước.]

Cuối cùng, vị thế của ông Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam ra sao? 
Chúng ta đã biết, Wilfred Burchett đã nhận định ở trên:

Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.

Hai Câu Chuyện

Nhận định này đúng hay sai? Có lẽ câu trả lời thiết thực nhất là của Hoàng Xuân Ba trong bài “Hai Câu Chuyện Hoàn Toàn Trung Thực”, mới đây đăng trên Đàn Chim Việt:

Chuyện thứ nhất : lá cờ đỏ sao vàng trên mạng:


Trưa 2/9/2006, ngày quốc khánh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang nói chuyện với một người bạn Việt Kiều trên Yahoo Messenger (YM) tôi bất ngờ nhận được thông điệp của một người bạn trẻ Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, kèm theo đó là lời kêu gọi hãy thay đổi avatar (hình ảnh đại diện) trên YM bằng lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ biểu trưng cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn lại danh sách nickname của mình trên YM, tôi thấy rất đông các bạn trẻ thay đổi avatar bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng.

Sáng nay, 4/9/2006, báo Tuổi Trẻ đăng bài: “Mừng Quốc khánh trên mạng”. Trong bài viết này, tác giả mô tả lại hình ảnh nhà nhà treo cờ, người người treo cờ trên mạng: “Lần đầu tiên, cư dân trên mạng đón lễ Quốc khánh hoành tráng bằng cách đưa hình ảnh lá cờ Tổ quốc lên mạn trang trọng trên các blog (nhật ký cá nhân trên mạng) và trên avatar trong công cụ chat YM của mình trong ngày 2-9. Và ngày 3-9, tất cả đều đồng loạt thay vào đó là chân dung của Bác Hồ”.

Chuyện thứ hai : lăng ông Hồ Chí Minh :


Tôi đã có dịp gặp gỡ trên mạng với bạn đọc của DCVOnline gần đây qua bài Tản mạn vể xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội, đăng ngày 31/08/2006 (với hàng chục ý kiến khác nhau). Cũng dịp công tác này, tôi tranh thủ được một thời gian ngắn để ghé thăm lăng ông Hồ với mục đích tìm hiểu xem thái độ, tình cảm của người dân Việt Nam và nhất là người dân Hà Nội đối với ông Hồ ra sao. Điều làm tôi thật bất ngờ là có rất nhiều cá nhân đến viếng thăm lăng ông, các đoàn viếng lăng vào ra tấp nập. Để vào thăm lăng của ông tôi được một anh bảo vệ cầm loa phóng thanh bắt phải đứng xếp vào hai hàng dọc, một đặc trưng của xã hội chủ nghĩa, rồi theo đó vào lăng.Quả thật tôi cảm nhận được sự trang nghiêm của lăng mộ ông Hồ và cả sự sùng bái của những người dân bình thường viếng thăm lăng. Một cách tự động, tất cả mọi người đều kính cẩn, nghiêm trang khi đi ngang qua xác ông được đặt trong một cái hòm rất rộng, bốn bên là kính trong suốt. Trông ông không giống như những bức hình chụp mà tôi từng thấy, khuôn mặt trông vẫn còn rất tươi tắn hồng hào nhưng trông giả chứ không thật, có lẽ bị đánh sáp.

Báo chí Việt Nam sáng 4/9/2006 đều đồng loạt đăng tin về việc có hàng vạn người đến viếng thăm lăng ông Hồ. Báo Tuổi Trẻ viết: “Sáng 2/9, đoàn người vào lăng viếng Bác dài ra tận hai phía trên phố Ngọc Hà và Hùng Vương. Đông nhất là các đoàn học sinh và người già từ các tỉnh Thái Nguyên, Hà Tây. Còn có rất nhiều đoàn đến từ tỉnh xa như Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Trị, Bình Phước... Có nhiều người nước ngoài cũng đứng trong đoàn người từng bước vào lăng. Khu vực quảng trường trước lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nào cũng đông kín người”.

Một thông tin đáng chú ý đó là thiếu tướng Đào Hữu Nghĩa, trưởng Ban quản lý lăng kiêm tư lệnh Bộ tư lệnh bảo vệ lăng ông Hồ cho biết đến hết buổi viếng ngày 2/9 chỉ khoảng 25.000 lượt người được vào viếng lăng ông, số còn lại đành phải chờ đến hôm sau. Tôi tin rằng con số trên rất thật bởi vì tôi đã được tận mắt chứng kiến dòng người xếp hàng dài vào viếng lăng ông Hồ, không nhất thiết phải do cơ quan hay các hội đoàn tổ chức.

Duiker cũng viết, trang 566: “Mỗi tuần có hơn 15000 người đến viếng thăm Lăng ông Hồ” (More than 15000 visit the mausoleum each week)

Tại sao ngày nay người dân Việt Nam vẫn còn kính ngưỡng ông Hồ Chí Minh, tuy rằng trên diễn đàn truyền thông hải ngoại có cả một chiến dịch để xóa bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh”? 
Lý do rất dễ hiểu là phần lớn những điều viết về ông Hồ của giới chống Cộng là sai lầm, là vô căn cứ, bắt nguồn từ lòng thù hận một chiều của những người gọi là Quốc Gia, chứ không đặt trên những sự thật và sự kiện lịch sử. Thật vậy, những người chống Cộng cực đoan như Minh Võ chỉ nhìn thấy những điều lặt vặt như chúng ta thấy trong bài ông ta phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Để có thể thêm vài chi tiết về ông Hồ Chí Minh, có lẽ tôi cũng nên điểm qua bài phê bình Duiker của Minh Võ.



PHẦN 2

Trên website Đàn Chim Việt, Minh Võ có viết bài phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Sau đó Minh Võ còn “đọc lại Trần Dân Tiên” và đưa ra một số ý kiến. Đọc hai bài này, chúng ta thấy rõ trình độ của ông Minh Võ không thể gọi là trình độ, kiến thức của Minh Võ không thể gọi là kiến thức. Tôi không có ý định phê bình chi tiết hai bài trên của ông Minh Võ, chỉ duyệt qua vài điểm, cùng trình bày vài ý kiến của độc giả về ông Minh Võ để chúng ta thấy rõ Minh Võ thuộc loại người nào.

Trước đây, trên trang nhà Giao Điểm, Hà Giang đã có bài nhận định về cuốn “Ho Chi Minh” của Duiker, viết đứng đắn và nghiêm chỉnh hơn ông Minh Võ rất nhiều.

Link: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/Hagiang_hcm.htm

Trước hết, Lê Duy Khoa trên Đàn Chim Việt đã vạch ra rằng ông Minh Võ đã áp dụng bậy bạ tam đoạn luận để phỉ báng ông Hồ như sau:

a) Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx là sai lầm, dối trá, tàn ác, phản nhân đạo, phản dân tộc.

[TCN = Đây là một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite). Cũng như Trần Mạnh Hảo, ông Minh Võ, không hiểu gì về Marx mà cứ viết bậy về Marx. Thế giới ngày nay đánh giá Marx như thế nào? Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?.

1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential philosophical thinkers, nominated by the In Our Time audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7.

2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (www.unserebesten.zdf.de). Lạ nhỉ, cả thế giới trí thức này mù và ngu cả hay sao mà không nhìn và đánh giá Marx như ông Minh Võ? ]

b) Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa cộng sản [Không ai phủ nhận điều này]

c) Kết luận: không thể coi HCM là nhân đạo, yêu nước, anh hùng mà phải coi ông ta là tội đồ ác ôn của đất nước.

Chúng ta thấy ngay, ông Minh Võ đã dựa trên sự hoàn toàn sai lầm của mình trong vế a) để đưa đến một kết luận tất nhiên cũng hoàn toàn sai lầm trong vế c). Nhưng không phải chỉ có vậy. Đọc Minh Võ, chúng ta thấy rõ qua giọng văn một sự thù hận ngất trời và phản ánh một trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình. Đối với tôi, Minh Võ không phải là người đáng để tôi phê bình về những “tác phẩm” của ông ấy, tôi để dành điều này cho một số độc giả trên Đàn Chim Việt trong phần trích dẫn ở cuối bài. Ở đây tôi chỉ muốn nêu ra một lý luận rất ngớ ngẩn nếu không muốn nói là ngu xuẩn của ông Minh Võ khi phê bình đoạn sau đây của Duiker.

“Bất kể cuối cùng người đời phán xét về di sản của ông [Hồ] để lại cho dân tộc mình ra sao, ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ.”

Vì Nhà Nước VN muốn dịch cuốn “Hồ Chí Minh” của Duiker nhưng muốn bỏ đi những đoạn nói về đời tư của ông Hồ, nên ông Minh Võ phê bình như sau: “Hồ Chí Minh đã tạo ra cái di sản ngăn cấm ngay tiếng nói của một sử gia [Duiker] thì có thể là bậc anh hùng đã đấu tranh mạnh mẽ cho tiếng nói đích thực của những kẻ cùng khổ được cất lên chăng?”

Thứ nhất ông Minh Võ không hiểu thế nào là di sản. Thứ nhì, cái di sản ông Hồ để lại cho dân tộc là nền độc lập quốc gia sau khi cất bỏ được chế độ thuộc địa của thực dân Pháp trên đất nước, và tiếp nối bởi chính ông và những người sau ông trong việc thành công đi đến sự thống nhất đất nước. Di sản đó tuyệt đối không phải là chính sách luôn luôn thay đổi của Nhà Nước và lẽ dĩ nhiên không phải là yêu cầu của Nhà Xuất Bản Chính Trị Việt Nam đối với Nhà Xuất Bản Hyperion ở New York như chúng ta thấy trong tài liệu sau đây trên Internet:

“Trong một bức thư cho nhà Xuất Bản Sách Hyperion ở New York, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia của chính quyền (VN) đã nói rằng họ chỉ muốn bỏ đi vài đoạn trong cuốn sách của Duiker “không phù hợp với những thông tin trong hồ sơ của họ.” (In a letter to New York publisher Hyperion Books, the state-run National Politics Publishing House has said only that it wants to remove certain passages from the Duiker biography that "do not conform with the information in our files".)

Đây có phải là một hành động ngăn cấm hay không hay chỉ là một đề nghị thương thuyết? Đầu óc như vậy mà ông Minh Võ muốn làm việc đội đá vá trời là xóa bỏ thần tượng Hồ Chí Minh thì đúng là sự mơ tưởng hão huyền của những kẻ cuồng tín vô minh.

Một nhận định khác có tính cách phóng đại rất lố bịch của ông Minh Võ về cuộc cải cách ruộng đất như sau:

“Thời ông HCM cũng thế nếu ông ấy tôn trọng Hiến pháp sao ông lại làm cải cách ruộng đất giết chết hơn nửa triệu người.?”

Ông lấy con số “hơn nửa triệu” này ở đâu ra? Chắc chắn là ông chưa hề đọc đến những công cuộc khảo cứu rất sâu rộng về Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam: Mục đích, kết quả, số nạn nhân v..v.. của Gareth Porter, Edwin E. Moise, Noam Chomsky và Edward S. Herman. Rất có thể ông chỉ tin vào con số đoán mò của Hoàng Văn Chí, người đã thú nhận là con số nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất chỉ là đoán mò sau khi bị Gareth Porter công khai vạch ra những sự giả mạo trong tài liệu của Chí [Chi eventually conceded that his number of victims of the land reforms to be merely a “guess” (The Washington Post, 13 September, 1972). This admission came after Porter had made Chi’s falsification public.] Thật là đẹp mặt cho Hoàng Văn Chí và cho cả Minh Võ.

Theo những tài liệu của Noam Chomsky và Edward S. Herman cũng như của Gareth Porter và Edwin E. Moise thì Hoàng Văn Chí vốn là một địa chủ ở ngoài Bắc, sau đó làm cho Bộ Thông Tin của Chính Quyền miền Nam, rồi làm việc cho CIA và làm thông dịch viên cho Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ.

Trong bài “The Myth of the Bloodbath: North Vietnam’s Land reform Reconsidered” (Bulletin of Concerned Asian Scholars, September 1973, pp. 2-15), Gareth Porter đã vạch ra vài đoạn Hoàng Văn Chí dịch bậy bài thú nhận có sai lầm trong việc thi hành cải cách ruộng đất của Tướng Võ Nguyên Giáp với mục đích giúp quan thầy Mỹ và miền Nam tuyên truyền xuyên tạc, thí dụ :

“Chúng ta không chú trọng đề phòng lệch lạc” đáng lẽ phải dịch là “We did not pay attention to precautions against deviation” thì Hoàng Văn Chí dịch là “Chúng ta phạm phải quá nhiều lệch lạc” (We made too many deviations);
“Xử trí oan những người ngay” thay vì dịch là “the unjust disciplining of innocent people” thì Chí dịch là “hành quyết quá nhiều người lương thiện” (executed too many honest people);
“không nhấn mạnh phải thận trọng, tránh…” [did not emphasize the necessity for caution and for avoiding] thì Chí bỏ đi không dịch (omitted);
“dùng những biện pháp trấn áp quá đáng” [used excessive repressive measures] thì Chí dịch là “xử dụng đế khủng bố” (resorted to terror);
“thậm chí dùng phương pháp truy bức” [even coercive measures were used] thì Chí dịch là “tệ hơn nữa, tra tấn” (worse still, torture) v..v..
và còn thêm thắt vào những đoạn không có trong bản văn như “nhìn thấy kẻ thù khắp nơi” (seeing enemies everywhere) mà Gareth Porter không tìm thấy trong bản gốc (not in original).

Noam Chomsky và Edward S. Herman còn vạch ra rằng, trong những cuộc phỏng vấn vào năm 1955, Hoàng Văn Chí không hề nói gì đến cuộc cải cách ruộng đất và con số những nạn nhân. Chỉ trong vài năm sau, sau khi Mỹ và Saigon biết đến những vấn đề trong cuộc cải cách ruộng đất từ những cuộc thảo luận trên báo chí ở Hà Nội mà Moise cho là “thẳng thắn kỳ lạ trong sự thảo luận những sai lầm và thất bại” (sometimes extraordinarily candid in discussing errors and failures”, Chí mới “nhớ lại” những điều viết trong tài liệu của mình.


Noam Chomsky và Edward S. Herman viết trong cuốn The Political Economy of Human Rights, Vol. I,South End Press, Boston, 1979, trang 342:


“Nguồn thông tin căn bản về những con số giết chóc lớn trong cuộc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt là từ những người của CIA hoặc Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Việt Công giáo nay sống ở Pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Chỉ Huy Cơ Quan Chiến Tranh Tâm Lý Trung Ương của quân đội Saigon từ 1956 đến 1962, số nạn nhân bị “tắm máu” trong cuộc cải cách ruộng đất là “100% dựng lên” bởi cơ quan tình báo Saigon. Theo Trung Tá Châu, một chiến dịch có hệ thống dùng các tài liệu ngụy tạo để bôi nhọ đối phương được thi hành vào giữa thập niên 1950 để biện minh cho sự kiện là Diệm từ chối không thương thuyết với Hanoi trong việc sửa soạn tổ chức cuộc bầu cử để thống nhất đất nước quy định vào năm 1956.” (The basic sources for the larger estimates of killings in the North Vietnamese land reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon Propaganda Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living in France, Colonel Nguyen Van Chau, head of the Central Psychological War Service for the Saigon Army from 1956 to 1962, the “bloodbath” figures for the land reform were “100% fabricated” by the intelligence services of Saigon. According to Colonel Chau, a systematic campaign of vilification by the use of forged documents was carried out during the mid-1950s to justify Diem’s refusal to negotiate with Hanoi in preparation for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956)


Giáo sư sử học James P. Harrison cũng viết trong cuốn The Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press, 1989, trang 149:


“Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là con số những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một tác giả, hoặc có thể lên tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu hết những con số tuyên truyền của Saigon về vấn đề này là những con số phóng đại nếu không phải là hoàn toàn dựng đứng.”(Careful later studies, however, have estimated that the true figures for those executed in the noerthern land reform may have been more like 1500 plus 1500 jailed according to one, or possibly up to 15000 killed according to another, and therefore that most of Saigon’s propaganda on the subject was exaggerated if not a “total fabrication”.)

Giáo sư Pierre Brocheux viết trong bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” , trang 34:


“Đối với Hồ Chí Minh, tập thể hóa đất đai là sự bảo đảm phân chia đồng đều tài sản. Nhưng ông ta tố cáo sự dùng những hành phạt thể xác đối với các địa chủ và các nông dân giàu có và yêu cầu thi hành một chương trình sửa sai những sự bất công và phục hồi những sở hữu của nông dân thuộc quyền của họ (1956). Nhưng ông ta phải nhượng bộ trước đa số trong Đảng. Chiến dịch cải cách ruộng đất làm cho ít nhất là 15000 người chết.” (Pour Ho Chi Minh, la collectivisation des campagnes est la garantie d’une répartition égalitaire des resources. Mais il dénonce l’utilisation des peines corporelles contre les “propriétaires fonciers et riches paysans” et demande une programme de correction des injustices et la restauration des paysans propriétaires dans leurs possessions et leurs droits (1956). Il s’incline pourtant devant la majorité du Parti. La réforme agraire côutera la vie à 15000 personnes au moins.)

Về con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ, chúng ta có thể đối chiếu với một số tài liệu khác:

Của Gareth Porter: từ 800 đến 2500;
của Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5000 và chắc chắn trong khoảng từ 3000 đến 15000;
của Trương Như Tảng, David Chanoff và Đoàn Văn Toại trong cuốn “A Viet Cong Memoir”: nhiều ngàn (thousands);
của Bùi Tín trong Mặt Thật: “lên tới mười mấy ngàn”;
của Vũ Thư Hiên: từ 4000 đến 5000.

Chúng ta không thể biết chính xác con số bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng xét đến số làng mạc, ruộng đất ở ngoài Bắc, số địa chủ thực sự, số nông dân nghèo khổ phải thuê đất [một số của Nhà Chung] để cầy cấy v..v.. thì con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ là con số chỉ có trong đầu của ông Minh Võ.

Trên diễn đàn Đông Dương Thời Báo, tháng 5, 2006, chúng ta có thể đọc một đoạn về cải cách ruộng đất của chủ biên người Công Giáo, Giu-se Phạm Hữu Tạo, như sau:

Thật vậy, Hồ Chí Minh thực hiện cải cách ruộng đất, muốn lấy lại đất mà không phải giết nhiều người, vì lúc đó các địa chủ có tiền bạc tài sản, chạy thoát trước về vùng Pháp chiếm đóng… Cải cách ruộng đất là việc phải làm ở trong Nam cũng như ngoài Bắc. Phải lấy lại đất của Pháp, của nhà Chung để chia cho cán bộ và nông dân có sức lực và siêng năng cần cù mà không có đất để sống và cày bừa và hy sinh cho cách mạng quyết dành chủ quyền - độc lập - thống nhất đất nước … Chính sách cải cách ruộng đất đương nhiên là đụng đến Giáo hội và giáo dân Công giáo Việt gian, cho nên chúng ta không lạ gì tại sao người Công giáo căm thù CSVN và ngụy tạo bôi đen chính sách Cải Cách Ruộng Đất.

Hiện tượng Minh Võ thì hầu như ai cũng biết về ý đồ và trình độ của ông ta như thế nào. Để quảng cáo cho cái ý đồ này, ông ấy nhờ một người quen biết trẻ hơn, có cùng trình độ như ông ấy, lên tiếng quảng cáo cho cuốn Hồ Chí Minh: Một Nhận Định Tổng Hợp của ông ấy trong buổi ra mắt sách. Đó là ông Huỳnh Lương Thiện. Nhưng đọc Huỳnh Lương Thiện chúng ta thấy rõ là trình độ của ông ấy cũng chẳng hơn Minh Võ là bao nhiêu. Chứng minh?

Ông Huỳnh Lương Thiện phát ngôn:

Tôi nghĩ rằng tôi chỉ đáng em hay con của rất nhiều vị ngồi trong phòng này mà thôi. Thế mà quý vị có thể tưởng tượng là có kẻ khi tuổi còn nhỏ hơn, chỉ đáng em của tôi thôi mà đã dám xưng là bác với cả nước chúng ta. Quý vị biết đó là ai không? Hồ Chí Minh. Vâng, cám ơn quý vị đã cho biết kẻ đã dám xưng bác với cả nước là Hồ Chí Minh, tôi cũng biết điều đó. Tuy nhiên phải đến khi đọc cuốn sách này của bác Minh Võ thì tôi mới biết thêm là họ Hồ đã dám xưng bác với cả nước khi chỉ mới 55 tuổi, bằng tuổi cô em gái tôi.

Thưa quý vị, tôi tuổi Canh Dần, 56, 57 tuổi rồi và đó là một trong hàng chục, hàng trăm dữ kiện độc đáo, đặc biệt mà tôi đã tìm thấy trong cuốn sách này.

Như vậy là ông Huỳnh Lương Thiện sinh khoảng năm 1949-1950, tất nhiên đích thân không biết gì về ông Hồ Chí Minh mà chỉ biết qua những sự kiện mà ông ấy cho là độc đáo trong cuốn sách của Minh Võ. Rõ ràng là, dựa vào điều viết bậy của Minh Võ trong cuốn sách của ông ấy, Huỳnh Lương Thiện đã phát ngôn bậy như trên. Nhưng dữ kiện trên có thật là độc đáo không? Rất có thể là độc đáo ở chỗ đã để lộ cái trình độ vô cùng thấp kém của mình về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam.

Thứ nhất, từ “Bác” mà ông Hồ Chí Minh dùng chỉ để nói với các “cháu nhỏ” trong vòng thân tình như người trong một nhà. Bác, nguyên nghĩa là anh của Bố hoặc Mẹ, và người Việt Nam thường dùng tiếng “Bác” để gọi thay con. Tiếng Bác cũng còn được dùng giữa các bạn bè cao tuổi dù rằng người bạn kém tuổi mình “Nguyễn Khuyến: Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác (Dương Khuê)”. Ông Hồ có thói quen là bất chợt đi thăm các em nhỏ trong trường học và nói những chuyện “Bác cháu ta”. Chưa ai thấy ông Hồ xưng là Bác với cả nước như ông Huỳnh Lương Thiện đã nói bậy dựa theo lời viết bậy của Minh Võ bao giờ. Người dân Việt Nam gọi ông Hồ là “Bác” nghĩa là coi ông như là bậc trưởng thượng thân tình của các con cháu trong nhà. Các ông chống Cộng mà chẳng biết gì về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hãy đọc Peter A. DeCaro ở Buena Vista University viết về ông Hồ Chí Minh (acjournal.org):


“Chức “Bác” của ông Hồ phải được hiểu trong ngữ cảnh của nền văn hóa Trung Hoa trong đó người cao tuổi hơn được đặc biệt tôn kính. Bác (big uncle) là từ dùng để chỉ người anh của Bố hoặc Mẹ, người em nhỏ tuổi hơn gọi là “Chú”. Thật là tự nhiên khi người dân gọi [ông Hồ] là “Bác Hồ” vì những đồng nghiệp của ông ta thuộc một thế hệ trẻ hơn. Do đó Bác là một từ thân thuộc và những người Cộng Sản ở miền Bắc thường đưa ra sự kiện là mọi gia đình đều coi Bác Hồ là một thành phần vinh dự của gia đình. Còn nữa, Bác đồng nghĩa với cách cư xử dân chủ: người Cha có thể ra lệnh, nhưng người Bác [hay Chú] chỉ có thể đưa ra những lời khuyên.”

(Ho’s title of “Bac” must be understood in the context of Chinese culture in which the eldest members of society enjoy especial veneration. Bac means “big uncle;” it is the term used to denote the elder brother of a father or mother while the younger brother is referred to as Chu, “little uncle.” It was only natural that people began to speak of Bac Ho because his closest colleagues already belonged to a younger generation. Bac is therefore a familiar term and the Communists in North Vietnam liked to point out that every family considered Bac Ho an honored member. In addition, Bac is synonymous with democratic conduct; the father can command, but the uncle only advises.)

Ông Minh Võ cũng như ông Huỳnh Lương Thiện hiển nhiên là những người không biết ngượng vì chính cái trình độ hiểu biết thấp kém của mình về xã hội Việt Nam so với một người ngoại quốc như Peter A. DeCaro. Nhưng, như đã nói ở trên, các ông thuộc lớp người chỉ viết bậy, cốt hả lòng thù hận, cho nên không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng đối với những người như các ông, tôi không nên phí thêm thời gian để phê bình nữa. Nhưng có điều các ông cần biết, là thủ đoạn và trình độ của các ông không thể qua mắt được lớp trẻ ngày nay.

Vậy sau đây, tôi xin nhường chỗ cho vài tiếng nói của lớp trẻ trên Đàn Chim Việt:

1) Tôi cho rằng chính vì không tự mình tìm hiểu vấn đề một cách chủ động, giống như ông bạn Lương Thiện đăng đàn ở trên, bạn đã rơì quá dễ dàng vào những thứ lý sự quá đơn giản của những nhà nghiên cứu nửa mùa kiểu Minh Võ. Bạn hãy thử đề nghị Minh Võ đem dịch cuốn sách của mình ra tiếng Mỹ để xem những học giả Mỹ nghĩ gì. Cam đoan với bạn không đáng một cái nhếch mép! Trong nghiên cứu, kết luận về vấn đề nêu ra không quan trọng bằng cái phương pháp nghiên cứu đã dẫn đến kết luận ấy, đó là điều căn bản. Xin bạn lưu ý: đây là một vấn đề sử học, một vần đề khoa học chứ không phải là chuyện biểu diễn diễn lập trường, hoặc tệ hơn nữa bộc lộ oán thù, phục hận.

2) Tôi chưa đọc cuốn sách "HCM, Nhận định tổng hợp" của Minh Võ nhưng đã "thử" đọc mấy bài viết của Minh Võ trên DCV Online, và chưa lần nào "tiêu hóa" nổi trọn vẹn một bài của Minh Võ. Không thể "tiêu hóa" nổi vì giọng văn của Minh Võ đầy hằn học và hận thù; người đọc (ngay cả lớp trẻ) có thể dễ dàng nhận thấy đó là giọng văn của một loser. Không thể "tiêu hóa" nổi vì những phân tích và nhận định của Minh Võ chẳng dựa trên phương pháp luận khoa học và những tài liệu lịch sử nào. Còn những bài viết của HCM để tuyên truyền, kêu gọi người dân đứng lên giành độc lập cho đất nước là những nghệ thuật vĩ đại; nó sánh như Nguyễn Trãi khi bôi mỡ vào lá cây cho kiến ăn để tạo ra dòng chữ "Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi", hoặc là truyền thuyết về anh em vua Quang Trung thuần phục được ngựa thần trên núi.

Sách của Minh võ là tiểu thuyết để giải trí ư? Không đáng; là sách lịch sử ư? Không phải. Có thư viện nào người ta mua và lưu trữ sách của Minh Võ không? Không có. Cái ông Lương Thiện gì đó chẳng lương thiện tí nào đang quảng cáo sách cho Minh Võ đó; và cũng nhân cái diễn đàn này ông ta gài thêm mấy khẩu hiệu chống cộng cũ rích - cũng là giọng hằn học của một loser.

3) Anh Lương Thiện và Minh Võ đã lấy cái định kiến ác ý cuả chính mình, hội đoàn mình để chủ trương bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh- Một nhân vật vĩ đại, kiệt xuất số một; Vô tiền, khoáng hậu trong lịch sử VN và nhân loại. Đó là những lời vu khống; Lập lờ đánh lận con đen; Câu chữ cắt xén, biạ đặt một cách có chủ ý, có kế hoạch hòng làm lu mờ thần tượng vĩ đại của dân tộc ta.

Những người có thiện ý, thiện tâm... Thường có con mắt bao dung, độ lượng, nhìn vào mặt sáng, khai thác mặt sáng - Mặt tích cực. Công đức và thành tựu mà các vị giáo chủ hay vĩ nhân đó đã làm được cho dân, cho nước và nhân loại. Còn kẻ tiểu nhân đã mang sẵn định kiến hận thù thì sẽ làm ngược lại. Họ cũng biện chứng, dẫn chứng, có lang, có lớp như ai.. Nhưng đó chỉ là cách ngụy biện rẻ tiền. Chỉ cần chú ý đôi chút là ta sẽ nhìn rõ chân tướng chúng.

4) Rêu rao là người hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản nhưng kiến thức của Minh Võ về vấn đề này chỉ là một con số không to tướng. 1) MV đã sai lầm hoàn toàn khi đồng hoá Marx với Đệ tam Quốc tế của Lenin. Học thuyết Marx là sản phẩm của xã hội tư bản phương Tây thế kỷ 19 trong khi đó ĐTQT là phản ứng của những nước ngoại vi với các nước giàu đã trở thành thực dân, đế quốc. 2) MV chỉ biết Marx qua Tuyên ngôn cộng sản 1848, không đếm xỉa gì đến những tác phẩm khác của Marx. Ngay cả với Tuyên ngôn này, MV cũng chỉ bám vào những từ ngữ tách rời khỏi hệ thống lý luận mà Marx đã mang ý nghĩa cho chúng (tư hữu, vô sản, quốc tế vô sản, chuyên chính…). 3) MV không hiểu biết gì về những mâu thuẫn thực tế của lịch sử hiện đại – giữa các quốc gia (giàu/giàu, giàu/nghèo, thực dân/bị trị, phát triển/chậm tiến…) , giữa các ý thức hệ (chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, cộng sản, phát xít…) do đó đã trút tất cả vào mâu thuẫn cộng sản/ chống cộng sản một cách máy móc. 3) Riêng với những nước bị thực dân thống trị vấn đề cướp nước và chống cướp nước đã bị MV đầy lùi về phía sau một cách cố ý rồi mượn luận điệu của thực dân đồng hoá cộng sản với khủng bố, nổi loạn để biện hộ cho tội cướp nước của chúng. Bị cộng sản kết cho cái tội “Việt gian” không có gì là oan cả.

5) Phương pháp gọi là “nghiên cứu” của MV cũng hoàn toàn phản khoa học. Ông ta không tìm hiểu thực tế và những phát sinh và chuyển động của nó để rút ra kết luận mà ngược lại: gán cho cộng sản một số thuộc tính chết cứng rồi từ đó kết án tất cả những biểu hiện khác nhau trong thời gian của phong trào cộng sản (bất chấp những nội dung khác nhau, mâu thuẫn trong phong trào ấy). Trong tranh luận, nghiên cứu người ta gọi phương pháp ấy là procès d’intention, không cần tìm hiểu, phân tích xem sự thực như thế nào mà chỉ cần quy kết theo thiên kiến của mình là đủ. Ai cũng biết đó là phương pháp suy luận của những đàn bà hay ghen (nhìn đâu cũng thấy những kẻ cướp chồng minh), những kẻ bị bệnh tâm thần ( nhìn đâu cũng thấy kẻ hại mình). Chẳng có gì khoa học, học thuật ở đây cả. Lý luận của MV rất phù hợp với cộng đồng những người có thâm thù với cộng sản: họ không còn đủ sáng suốt để nhìn ra đúng sai trong chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa cộng sản có rất nhiều cái sai) như một hiện tượng lịch sử, từ lý thuyết đến thực hành, cũng không đủ lý trí để nhìn ra ngay cả những đúng sai trong bản thân những thất bại nhục nhã, đau đớn của họ nữa. Đối với những con người như vậy, họ chỉ cần đổ lỗi để biện minh, chỉ cần bôi bác, nguyền rủa để trả hận là đủ. Thứ lý luận của MV chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi.

6) Thực ra thì "Nhận định tổng hợp ", hay không tổng hợp thì người ta cũng biết rõ: Hằn học, chửi rủa thoá mạ một nhân vật lịch sử của VN như cố chủ tịch HCM là những người như thế nào ! Có rất nhiều gương mặt khác nhau dưới đủ mọi chiêu bài. Rất may, qua đó người ta càng hiểu hơn thế nào là tính chân xác của lịch sử. Sẽ chẳng có người VN tỉnh táo nào lại lên án Vua Lê Lợi, khi chỉ vì quyền lợi quốc gia mà đem vợ mình cúng sống thần biển. ( bây giờ việc làm đó là thất đức và nặng mùi mê tín ) Nhưng mỗi người dân VN, đều công nhận Lê Lợi, đó là một vị Vua có công đánh đuổi ngoại xâm, lập nên nhà Lê dài hơn 300 năm. Chắc chắn, thời buổi của ông không có máy tính, để bị lên án và vạch trần nhiều thủ đoạ, mà tất cả vì đất nước v.v. Trong công cuộc xây dựng, mở nước, và giữ nước, chưa có ông Vua VN nào chuyên viết thỉnh nguyện thư gởi cho kẻ thù, để mong được kẻ thù thương mà trả nước. Tất cả các chiến công lẫy lừng như Bạch Đằng giang dậy sóng, hay trận Chi lăng ghi sử sách, chẳng viết bằng máu của dân VN đó sao? Chẳng lẽ trận Rạch gầm, Xoài mút được viết bằng máu của người Miên hay Lào ? Đó là máu của người VN đã đổ cho đất nước hôm nay. Dù muốn nói gì và nói sao chăng nữa thì lịch sử đã chứng minh: Pháp đô hộ Việt nam, Mỹ muốn cứu đồng minh và Người Nhật đã làm cho hai triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta chết đói. Biết đâu trong chúng ta, có những người là con cháu của những người may mắn nhờ có Việt minh phá kho thóc của Nhật.

7) Dù nói gì đi chăng nữa, thì một dân tộc với mã tấu răng đen như các anh vẫn gọi, thế mà trong một thế kỷ đánh gục đầu ba nước to lớn. Thử hỏi trong lịch sử từ cổ chí kim của nhân loại hỏi ai đã làm được như thế ? Người làm được chuyện đó ngoài HCM thì còn có ai ? Chẳng lẽ Ngô chí sỹ chăng hay Cựu hoàng Bảo đại ? Tui biết trong thân tâm cũa người ngoại quốc, nhất là với người Mỹ, người Pháp và nhiều người dân thuộc các nước nhược tiểu khác, trong con mắt của họ: HCM là nhà tổ chức kỳ tài! Nếu không đủ đức đủ tài, mà như tui và các anh chẳng hạn, thì làm sao làm được những việc kinh thiên động địa trên. Như chính chủ tịch HCM, công nhận hễ là con người thì ai cũng có khuyết điểm, trên con đường kiến tạo đất nước và giữ nước, Đảng CS VN không khỏi tránh những sai lầm.. Nhưng dù sai lầm đến như thế nào thì cái chính là nền độc lập tự chủ của VN đã được tạo dựng. Còn xây dựng nó như thế nào thì VN đang dần bước lên những nấc thang mà tiền nhân vẫn mong đợi là xây dựng đất nước bằng mười bằng trăm thế kỷ 20 ? Bạn có mơ và tin điều đó không ? Tui rất tin điều đó, bởi đó là bước đi tất yếu mà chẳng có ai ngăn được bước đi lên của dân tộc VN chúng ta.! Vì vậy Hồ chí Minh luôn là ngọn cờ soi dọi mỗi bước ta đi lên phiá trước !

8) Họ chụp mũ chúng ta là CS, chúng ta chỉ cười thầm vì bạn bè lớn nhỏ của chúng ta cũng đang sinh hoạt trên diễn đàn này, và tất nhiên bạn bè của chúng ta biết chúng ta hơn ai hết. Họ chửi chúng ta là tay sai, nhưng họ không có thể đem ra một bằng chứng nào cả. Chúng ta, vì tình người, đề nghị họ đọc một số sách vỡ lòng để họ còn biết tôn giáo họ như thế nào, nhưng họ không dám đọc vì sợ "bức xúc" trong lòng. Thế thì còn căn bản nào để nói cho nhau nghe? Thế thì còn căn bản nào để trở lại một con người chân chánh? Tôi coi ông Karl Marx là một triết gia như bao nhiêu triết gia khác, nhưng họ không chịu ông Karl Marx là một triết gia, mà xem ông Karl Marx là một ông "kẹ" hạng nhất trên đời này. Triết lý của Karl Marx được dạy khấp nơi trên thế giới ngay cả bật trung học, nhưng họ quả quyết rằng chỉ có những quốc gia CS mới dạy triết lý của Karl Marx! Rất buồn, là cùng một giống người, nhưng mà hể có "thánh đạo" thì hung hãn như một con chó, chỉ biết ăn rồi sủa chứ chẳng biết lý luận gì cả, còn người không có "thánh đạo" thì hiền từ.

9) Theo ông Minh Võ thì cản trở cho công cuộc vận động dân chủ tại VN là do dân chúng vẫn còn hiểu sai về Hồ Chí Minh cho nên cần phải đánh đổ thần tượng Hồ mà bấy lâu nay đảng cọng sản xây dựng nên. Đây là một công việc vô bổ vì chẳng làm cho uy tín của ông Hồ suy giảm đối với người dân hai miền Nam Bắc. Gần một triệu người miền Bắc mà đa số là công giáo di cư, sai lầm của cải cách ruộng đất, vụ nhân văn giai phẩm, tết Mậu thân vẫn không ngăn cản được Việt cọng thực hiện được thống nhất đất nước. Chắc chắn rằng khi quân Mỹ đem một đội quân đông tới hơn 500000 người, chưa kể thêm những đội quân đồng minh thì những người như ông Minh Võ lúc ấy ở Sài gòn đều nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng . Vậy thì sức mạnh của Viêt cọng là ở chỗ nào nếu không nói là lòng dân. Họ tin tưởng ông Hồ vì đơn giản ông Hồ và người dân có cùng chung một mục tiêu là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Chẳng có bao nhiêu bộ đội đọc nhiều sách như ông Minh Võ để hiểu về lý thuyết này lịch sử nọ. Họ cũng chẳng chiến đấu vì một thần tượng, lý do là năm 1969 ông Hồ mất, Việt cọng vẫn tiếp tục sự nghiệp của dân tộc. Vì vậy phân tích nguyên nhân không phát triển của tình hình hiện là do VN còn tín nhiệm ông Hồ. Điều này không đúng. Cần phải nhận định cho đúng đâu là nguyện vọng của người dân hiện tại để có khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, nếu không chỉ là Dã Tràng se cát...

10) Tôi, TCN, không còn trẻ, nhưng tôi rất mừng vì có những bạn trẻ đã đưa ra những nhận định chính xác và sáng suốt, dựa trên những sự kiện lịch sử chứ không dựa trên cảm tính phe phái. Đây là một niềm hi vọng cho đất nước Việt Nam.

Để kết luận, tôi xin trích dẫn hai tài liệu. Trước hết là đoạn kết trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, trang 189-190:


“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này. Không vị kỷ, can đảm, hiến thân cho nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá, ông ta đã vật nước Pháp phải khụyu đầu gối và chiến đấu chống Hoa Kỳ, một thế lực mạnh nhất thế giới, đưa đến một thế bí quân sự.

Sự cương quyết về một mục đích đã làm thay đổi giòng lịch sử, làm phân rẽ dư luận quần chúng ở Hoa Kỳ, bắt buộc một Tổng Thống Mỹ phải rút lui không tái cử cho nhiệm kỳ hai, khiến cho hàng triệu giới trẻ trên khắp thế giới kính ngưỡng ông ta ủng hộ cách mạng và xuống đường biểu tình ủng hộ ông ta, hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh”

Sự pha trộn duy nhất chủ nghĩa Mác-xít với chủ nghĩa gia trưởng, và chủ nghĩa quốc gia cao độ của ông Hồ đã thành công vĩ đại trong việc gây cảm hứng cho dân ông chịu đựng những sự hi sinh to lớn. Họ cũng còn kính yêu “Bác Hồ” vì nhân cách khiêm nhường và những cách cư xử từ ái của ông. Ông Hồ là sự thất vọng của những kẻ thù – Pháp, chế độ Sài gòn, và Mỹ - vì họ không thể nào làm cho người ta thù hận được ông. Ông ta được sự kính yêu của người trong Nam cũng như của những người ở ngoài Bắc.

Một trong những thành quả vĩ đại của ông là, cũng như Tito, ông đã đạt thành một “Cộng sản quốc gia”, giữ cho nước của ông ta ở ngoài những móng vuốt của cả Trung Hoa Đỏ và Liên Bang Sô Viết, trong khi ông ta khôn khéo đi hàng đôi để có được sự giúp đỡ mà nước ông cần đến. Khi ông ta mất, Việt Nam không phải là một nước chư hầu, mà là một nước độc lập đầy hãnh diện, cương quyết trên sự thiết lập cá tính quốc gia cho mọi người Việt Nam…

Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông coi như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”


(Communist or not, Ho Chi Minh will probably go down in history as a great Vietnamese patriot who was one of the extraordinary world figures of this century. Selfless, courageous, dedicated to Vietnamese independence at all costs, he wrestled France to her knees and fought the United States, the world’s mightiest power, to a military stalemate.

His single mind resolution changed the course of history, polarized public opinion in the United States, forced an American President to withdraw from seeking a second term, and radicalized millions of admiring youth around the world who demonstrated in his support chanting, “Ho, Ho, Ho Chi Minh”.

Ho’s unique mixture of Marxism, paternalism, and intense nationalism was enormously successful in inspiring tremendous sacrifice among his people. They also loved “Bac Ho” (Uncle Ho) for his winning personal modesty and gentle ways. Ho was the despair of all his enemies – the French, the Saigon regime, the Americans – because they were unable to muster hatred of him. He was held in as much affection in South Vietnam as among the people he led in the North.

Not the least of his great achievements was that he had, like Tito, achieve a “national Communism” which kept his country out of the grip of both Red China and the Soviet Union, while he skillfully played one off against the other to get the help his country needed. When he died, North Vietnam was no satellite but a proud, independent country, determined on nationhood for all Vietnamese…

When the books of his life are balanced, and peace is finally restored to the tragic land of Vietnam, Ho Chi Minh will always be known to the peasants who loved and followed him as the greatest Vietnamese in their history – the revere uncle of his country.)

Thứ đến là nhận định của một cựu quân nhân Mỹ, ông David Thomas, giáo sư nghệ thuật, đại học Boston, người đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh ảnh Hồ Chí Minh ở Oakland, California, và đã bị một số người Việt Quốc Gia đến hò hét chống đối, văng tục và hành hung. Trước cuộc triển lãm, ông Thomas đã tổ chức một cuộc thảo luận với một số người Việt Nam. Ông phàn nàn:“Họ không cho tôi nói, văng tục, chửi hết câu này đến câu khác” (They kept hurling insult after insult. I didn’t get a chance to speak.) Nhưng ông ta cương quyết không nhượng bộ (But he stands behind his work unflinchingly). Ý định của ông tổ chức cuộc triển lãm là để cho quần chúng tìm hiểu về “con người đã làm thay đổi bộ mặt lịch sử thế giới.” (I want viewers to question, investigate this man who changed world history). Về ông Hồ Chí Minh, Thomas nói:


“Tôi kính trọng tính chính trực của ông ta. Có vẻ như là ông ta chỉ có một nhiệm vụ trong đời, và đó là giải phóng Việt Nam ra khỏi người Pháp, và ông ta đã thành công. Hãy suy nghĩ về điều đó, một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam đã đánh bại một nước như nước Pháp và quay lại đánh bại chúng ta. Điều này chưa từng có trong lịch sử. Và tôi kinh ngạc bởi điều đó. Chúng ta phải ngưỡng mộ con người đã làm được như vậy.” (I respect his integrity,” Thomas adds. “He seemed to have one mission in his life, and that is to free Vietnam of the French, and he did it. Think about it, a little country like Vietnam beat a country like France and turned around and beat us. That has never been done in history. And I’m awed by that. You have to admire a man that did that.)

Hẳn nhiên Thomas đã nhìn sự việc trên bình diện to lớn của lịch sử hơn là những chuyện lặt vặt như ông Hồ có mấy vợ, hút bao nhiêu điếu thuốc lá một ngày, hay đã làm đơn xin học trường thuộc địa [Muốn học ở Pháp khi đó không xin học ở trường thuộc địa thì xin học ở trường nào, trường Nhà Dòng chăng. Nhưng có ai đọc kỹ câu này không: “Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’instruction”. Vậy rõ ràng mục đích của ông Hồ là muốn tăng thêm học vấn để phục vụ đồng bào. Pháp dùng chính sách ngu dân để cai trị, nhưng ông Hồ lại muốn “trở thành hữu ích cho Pháp” với mục đích dùng kiến thức của mình phục vụ đồng bào. Đọc về ông Hồ, chúng ta ta thấy rõ đó là mục đích chính của ông. Nên nhớ, khi vừa nắm được chính quyền, Việt Minh đã phát động phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ khắp nước. Vậy mà người ta lại thường viện vào cái đơn xin học này để chứng tỏ ông Hồ không phải là người yêu nước...]

Vài lời kết :

Tôi chưa từng có cơ hội đọc cuốn sách của Trần Dân Tiên, chỉ biết đến tên cuốn sách này qua bài ông Minh Võ đọc Trần Dân Tiên và viết trên Đàn Chim Việt: “Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công bố Trần Dân Tiên không phải người nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh.” Ông Minh Võ cho rằng các tác giả viết về ông Hồ Chí Minh trong khoảng 1948-1975 đều bị lừa bịp bởi cuốn sách của Trần Dân Tiên về ông Hồ, và kể ra vài tác giả quen thuộc: Bernard Fall, Jean Lacouture, David Halberstam.

Nhưng đọc mấy tác giả này, Bernard Fall: “Street Without Joy” (1964), “The Two Viet-Nams” (1967); Jean LaCouture: “Cinq Hommes Contre La France” (1961); Halberstam: “The Making Of A Quagmire” (1965) chúng ta thấy họ không hề nêu ra nguồn tài liệu nào về Ông Hồ là lấy từ cuốn sách của Trần Dân Tiên trong danh sách những tư liệu tham khảo. Và ngay cả trong hàng trăm cuốn sách trong đó có viết về ông Hồ sau năm 1975 cũng không có cuốn nào dùng tài liệu của Trần Dân Tiên.

Đúng như một bạn trẻ đã nhận định ở trên: “Thứ lý luận của Minh Võ chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi”

Chúng ta hãy điểm qua vài “lý luận” của ông Minh Võ:

1) Nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì đó chỉ là kết quả của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn thậm chí cưỡng bách nhiều năm.

Thật vậy sao? Cưỡng bách tôn sùng? Điều này chỉ có thể thấy trong lịch sử Công Giáo qua những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo (Inquisition) và lịch sử truyền đạo qua chính sách thực dân. Nếu là cưỡng bách thì làm sao người dân có thể chiến thắng một cường quốc như Pháp rồi về sau lại đánh bại một cường quốc vào bậc nhất thế giới như Mỹ.

France Fitzgerald đã viết:


Một bài học mà hầu như bất cứ vị lãnh đạo quốc gia nào cũng có thể học được từ ông Hồ Chí Minh: đó là, nếu đi vào một cuộc chiến lâu dài thì phải có sự ủng hộ của người dân. Sự ủng hộ này quan trọng hơn vũ khí, vì nếu người dân tin vào chính nghĩa của họ, họ có thể chấp nhận những sự hi sinh phi thường. Nếu họ không tin, mọi vũ khí trở thành vô ích.” [Vietnam Reconsidered: Lessons From A War, p. 302: There’s a lesson that almost any leader in any country might learn from Ho Chi Minh, and that is, if you embark on a war of any duration, you must have the support of your people. This support is more important than weapons, for if people believe their cause is just, they are capable of extraordinary sacrifices. If they do not, all your weapons are useless.].

Fitzgerald đã viết không sai. Nếu không tin tưởng vào chính nghĩa, người dân Việt Nam không thể chịu bao hi sinh để thắng nổi những thế lực quân sự có ưu thế tuyệt đối về quân sự như Pháp và Mỹ trong hai cuộc chiến ở Đông Dương. Ai đã mang lại chính nghĩa đó, nếu không phải là ông Hồ.

2) Minh Võ viết: “6 năm sau cái thời điểm mà Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn dân coi là Cha già dân tộc, thực tế đã nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân đối với Hồ Chí Minh bằng sự trạng hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra đi, khi miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.”


Chẳng có ai, xin lỗi độc giả, viết bậy như Minh Võ. Minh Võ có biết là thành phần, không phải là hơn một triệu, mà là gần một triệu, của số người di cư từ Bắc vào Nam là như thế nào không. Hãy đọc Bernard Fall trong “The Two Viet-nams”, trang 154:


“Trong số 860000 người chạy vào Nam, 600000 người là tín đồ Công Giáo. Tuy 65% trên tổng số người Công giáo (ở ngoài Bắc) bỏ Bắc Việt Nam, hơn 99.5 % những người không Công Giáo ở lại.”

(Of the 860000 who fled South at this time, 600000 were Catholics. Although 65 percent of the total Catholic population left North Viet-Nam, more than 99.5 percent of the non-Catholics stayed put.)

Tại sao tỷ lệ những người Công Giáo chạy vào Nam lại cao như vậy? Fall giải thích:

“Những khẩu hiệu và truyền đơn tuyên truyền kêu gọi những tín đồ Công Giáo sùng tín là “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”; cho nên, toàn thể các xứ đạo – thí dụ như Bùi Chu và Phát Diệm – từ những ông giám mục cho đến hầu như ông linh mục cuối cùng trong làng và giáo dân đã gói ghém mọi đồ đạc [để đi theo Chúa và Đức Mẹ]”

(Propaganda slogans and leaflets appealed to the devout Catholics with such themes as “Christ has gone to the South” and the Virgin Mary has departed from the North”; and whole bishoprics – Bui Chu and Phat Diem, for example, packed up lock, stock, and barrel, from the bishops to almost the last village priest and faithful.)

Chúng ta cũng không nên quên rằng Bùi Chu, Phát Diệm là những khu “Công giáo tự trị”, đã nhận lãnh vũ khí của Pháp để chống Việt Minh. Vậy chính cái mặc cảm phản bội dân tộc cộng với trình độ quá thấp đến độ bị mấy tên xảo quyệt như Lansdale và “bề trên” tuyên truyền láo: “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”, một sự sự mê tín mà Linh Mục Trần Tam Tĩnh phải lắc đầu kêu trời trong cuốn “Thập Giá và Lưỡi Gươm” đã khiến cho số người Công Giáo trên di cư vào Nam. Phần còn lại là công chức, quân nhân trong quân đội liên hiệp Pháp. Còn tỷ lệ những người dân thường không đáng kể. Ông Minh Võ dốt sử nên không hiểu rằng cuộc di cư của số người Công Giáo này thực ra là có lợi cho chính quyền miền Bắc: có thêm ruộng đất để chia cho nông dân nghèo, và đỡ đi phần nào của mối lo về một số người thuộc một thế lực “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc.” ở lại miền Bắc.

Viết bài này, tôi không có ý biện hộ hay bênh vực ông Hồ Chí Minh trước cuộc “thánh chiến chống Cộng” ở hải ngoại, mà chỉ viết theo sự hiểu biết của mình qua sự tổng hợp một số tài liệu. Lịch sử đã rõ ràng, không ai cần đến tôi làm việc này. Nhưng thấy trình độ và những thủ đoạn hạ bệ ông Hồ, Minh Võ cũng như của một số đồng bọn ở đây thấp kém và ấu trĩ quá, mà lại cứ thích viết bậy, có những hành động làm nhục lây cả những người Quốc Gia như tôi, nên tôi buộc lòng phải viết lên vài điều để cảnh tỉnh những người muốn dùng những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử cho những mục đích chính trị của mình. Viết về ông Hồ, chúng ta không thể chỉ kể ra những chi tiết lặt vặt trong đời tư của ông mà phải nhìn vấn đề trên bình diện rộng hơn. Ít nhất là phải phân tích những hoạt động của ông ở ngoại quốc trước khi ông biết đến chủ thuyết Mác-Lênin, ở Hội Nghị Hòa Bình Versailles, ở các Hội Nghị Quốc Tế, phải đọc những bài ông Hồ Chí Minh, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, viết trên những tờ L’Humanité, La Vie Ouvrière, Le Paria v..v.., nội dung ra sao, ông đã thành lập và tổ chức Việt Minh từ bao giờ, để làm gì, đã có những hoạt động chống Nhật và Pháp như thế nào, và sau cùng, đường lối chính trị của ông sau 1945 cho đến khi ông qua đời v..v.. thì mới có thể đánh giá đúng ông Hồ được.

Vài lời cuối với ông Minh Võ và những người có ý định phá bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh” như ông Minh Võ: Cái di sản mà ông Hồ Chí Minh để lại cho người dân Việt Nam là một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là công của mình ông Hồ mà là của toàn dân, ít ra là của đại đa số người Việt đã coi ông Hồ như là biểu tượng truyền thống yêu nước của người Việt Nam, do đó đã không ngại mọi hi sinh để đạt thành. Nhưng quan trọng hơn là thế giới đã biết nhiều hơn về Việt Nam và không còn dám coi thường Việt Nam tuy Việt Nam vẫn còn là một nước tương đối nghèo và kém phát triển. Xin đừng có coi thường độc giả. Đừng có hi vọng họ tin tất cả những điều mình viết. Ngay cả giới trẻ ngày nay cũng sáng suốt lắm. Họ không để cho bị bịp bởi những luận điệu vô căn cứ, thuần túy viết theo thiên kiến và cảm tính đâu. Dù thế nào đi chăng nữa thì đối với thế giới và đại đa số người dân Việt Nam, đúng như Jules Archer đã viết:


“Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông, coi ông như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”

“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này.”




TCN.