Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

TRỊNH CÔNG SƠN- CANADA DU KÝ


CANADA DU KÝ (6)

Trịnh Công Sơn, báo Phụ Nữ số 65, 29.08.1992.


6- LÀM VIỆC KHÔNG NGỪNG VÀ SỐNG THANH THẢN ...



Tôi gặp Đặng Thái Sơn sau lúc Sơn trình diễn ở Brasil về. Sơn ở một mình. Mẹ Sơn cũng ở một căn nhà khác. Đời sống nhìn chung có vẻ lặng lẽ và không có gì vui lắm. Qua một người bạn của Sơn tôi được biết Sơn sống gần như cô lập mình với thế giới bên ngoài. Tôi hỏi Sơn có định về lại Việt Nam không . Sơn chỉ cười cười.

"Ở đây phố xá hiền như cỏ
Có nỗi hồn nhiên giữa mặt người"


Đời sống của người Việt Nam ở Canada nói chung là ổn định nhưng dưới con mắt nhìn của tôi thì nguồn vui sống của họ hoàn toàn xa lạ với bản thân tôi. Thành phần giàu có nhất có lẽ thuộc về giới bác sĩ. Có một điều hơi khác giữa bác sĩ ở Canada và Mỹ là bác sĩ ở Mỹ thì tha hồ kiếm tiền còn ở Canada thì bị nhà nước qui định đến một giới hạn nào đó thì không có quyền được hưởng thêm. Họ gọi là plafonner.

Tôi thực sự ngạc nhiên và thất vọng khi biết có một số đông người Việt sau mười mấy năm vẫn không chịu đi làm và vẫn cứ tiếp tục thản nhiên lãnh tiền trợ cấp xã hội ! Những người này cũng có nhà có xe hơi như tất cả mọi người nhưng đời sống đối với xã hội nói chung là thấp. Họ đâm ra lười biếng vì những vấn đề quan trọng nhất trong đời sống như ăn uống, đau ốm thì đã có nhà nước lo cả rồi. Chế độ nuôi sữa cho trẻ con thì được cấp dưỡng cho đến mười tám tuổi mới ngừng. Tôi có gia đình người em có ba con dưới mười bốn tuổi. Hai vợ chồng xin đi học thêm Pháp văn. Học không tốn tiền mà nhà nước phải phụ cấp thêm mỗi tuần hai trăm bảy mươi lăm đô la để thuê người giữ nhà và trẻ con.

Người bạn thân nhất của tôi ở đường Grosvenor, biên giới giữa Montréal và Wesmount, khu vực của người Anh. Căn nhà có hai chủ. Phía dưới là người bạn giáo sư thực thụ ở đại học Montréal, bạn thân của giáo sư Đặng Đình Áng ở Việt Nam ta ; từng trên là một người Canadien làm nghề đào huyệt. Khu nhà này khá đắt tiền. Daniel, tên của người đào huyệt, đang trong thời kỳ thất nghiệp vì đình công đòi nâng lương.

Trẻ con ở xứ sở này được giáo dục cái đức tính không bao giờ ỷ lại . Mùa hè đến, dù ở trong gia đình sung túc, con cái ở tuổi mười sáu trở lên đều đi xin việc làm để lấy tiền đi du lịch hoặc để sử dụng trong những nhu cầu riêng. Đa số sinh viên, học sinh nữ đều có đi làm thêm trong những quán hàng đủ loại. Phụ nữ trẻ, già đều làm đủ thứ việc trong đời. Nhìn những cô sinh viên vừa cạo những lớp sơn cũ trên những cánh cửa ở đường phố vừa sơn quét mới lại mà thấy quá sức thương và kính trọng nữa... Ai cũng làm việc và làm việc cật lực không hề ngừng nghỉ.

Những người bếp và bồi người Việt trong những quán hàng ăn uống Việt Nam cũng có một đời sống tương đối tốt. Hết giờ, khách ra về hết, họ cũng lên những chiếc xe hơi bóng loáng về nhà hoặc đến những tiệm ăn quen thuộc. Ở đây không có vấn đề chủ và bồi bếp. Họ sống nhờ vả lẫn nhau để cùng tồn tại. Không ai có quyền nặng lời với ai. Cảm giác như không có một thứ ranh giới nào giữa người với người. Không có bất cứ một thứ uy quyền hão huyền nào buộc con người phải phụ thuộc hoặc sợ hãi. Mỗi người cứ làm tròn bổn phận của mình trong cuộc sống và yên tâm ăn ngon ngủ kỹ.

Đời sống ở đây theo tôi tốt lành hơn ở Pháp và Mỹ(*). Không ai tự thấy mình quan trọng hơn người khác. Tôi quen khá nhiều những văn nghệ sĩ Québécois. Họ khiêm nhường và quá hồn nhiên. Tôi cố gắng học ở họ cái tính khiêm nhường gần gũi với thiền đó. Chính cuộc sống tử tế và chân thật đó đã giúp tôi có thêm nguồn cảm hứng để vẽ nhiều tranh, nhiều chân dung và làm nhiều bài thơ ca tụng cuộc sống và con người.Ở đây phố xá hiền như cỏ
Có nỗi hồn nhiên giữa mặt người

Đi qua một thành phố mà mọi người không biết gây gỗ, nóng giận với nhau nhiều khi cũng muốn làm người đàng hoàng, tử tế hơn. Có lẽ chẳng nên quên điều đơn giản vô cùng của cuộc sống là chúng ta được sinh ra trong cuộc đời này là để yêu thương nhau chứ không phải để thù ghét nhau.

Sống và cứ mãi mãi có một tấm lòng nhân hậu sẵn sàng biết tha thứ và độ lượng thì cuộc đời không thể nào không đẹp hơn lên được.

Trịnh Công Sơn, (1992)

NHẬN DẠNG NGỤY TRÍ THỨC



Sách Trang Tử tinh hoa có chép '' Đời sở dĩ loạn không phải vì không có người lo cho đời mà là vì có quá nhiều người lo cho đời'.

Hay như Einstein từng nói '' Thế giới này là một nơi nguy hiểm, không phải vì những kẻ xấu xa mà vì những người chỉ biết đứng nhìn và không làm gì cả”

Người lo cho đời, những người chỉ biết đứng nhìn ...hơn ai hết có thể nói là giới được mệnh danh là tinh hoa của xã hội loài người " Trí thức"

Trí thức phải chăng là người có trí và luôn dùng cái trí của mình để góp phần thức tỉnh xã hội nhằm hướng mọi người đến cái đúng và cái đẹp?

Như vậy phải chăng người trí thức là người có sự hiểu biết- dùng sự hiểu biết của mình thức tỉnh xã hội và hướng xã hội đến cái đúng, cái đẹp, hướng xã hột đến cái Chân - Thiện- Mỹ. Hay nói một cách nôm na, trí thức là người “có Trí”, “có Thức” và “có Tâm” 

Nói vui, đại khái người “có trí” (sự hiểu biết) nhưng lại “không thức” (không thức tỉnh xã hội) mà để cho xã hội “ngủ” thì nên gọi là “trí ngủ”, chứ không phải là “trí thức”. Nếu ai đó thích làm cái việc của trí thức là “đánh thức xã hội” nhưng lại “thiểu trí”, “lệch trí” hay “vô trí” thì gọi là “trí dỏm” (cũng có học hàm, học vị nhưng đầu óc lại trống rỗng, hoặc cũng có chút hiểu biết nhưng hiểu biết đó lại thể hiện sự lệch lạc và ẫu trĩ). Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2 loại “trí dỏm” và “trí gian” xứng danh là '' Ngụy trí thức " vậy.

Quá nhiều người lo cho đời ở đây cũng chính là quá nhiều Ngụy trí thức lo cho đời. Ngụy trí thức lo cho đời sẽ sanh loạn.

Câu nói của Einstein đặt vấn đề rất rõ về Trách nhiệm xã hội . Trách nhiệm “làm người” của một người bình thường đối với cái xã hội hay cái cộng đồng mà mình đang sống. Một người bình thường vô cảm thì đáng phê phán, còn một người có hiểu biết sâu sắc và được lắng nghe mà yên lặng thì còn đáng phê phán hơn. Một người bình thường còn có trách nhiệm xã hội như vậy, đối với những người có hiểu biết thì trách nhiệm xã hội này còn lớn hơn. Trách nhiệm của người được xem là trí thức sẽ lớn hơn một người được xem là người bình thường.

giáo sư Ngô bảo Châu đã phát biểu  " trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.”



Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn đã đặt một vấn đề rất hay "Khi bàn về trí thức thì người ta thường bàn về vai trò, trách nhiệm, công việc, sứ mệnh, thiên chức của trí thức. Tuy nhiên, cũng cần phải bàn về “điểm mù” của trí thức, dù trí thức có cái trí hơn người. Bởi lẽ, trí thức cũng là con người, mà đã là con người thì cũng sẽ có cái nhầm, có lúc sai mà mình không hề biết; Bởi lẽ, trí thức cho dù có trí thế nào đi nữa thì sự hiểu biết vẫn chỉ là hữu hạn. Điểm mù ở đây được hiểu là “mình không biết cái mà mình không biết” hay “mình cứ tưởng mình hiểu rất rõ một thứ nhưng thực ra mình chẳng hiểu gì cả hay hiểu một cách lệch lạc”. Khi chia sẻ, tranh luận hay góp ý sẽ giúp mỗi người nhìn thấy điểm mù của người và của mình. Khi nhận ra điểm mù của mình cũng là lúc “mình biết rõ cái mà mình không biết”; và khi nhận ra những “cái mà mình không biết” cũng là lúc cảm thấy mình thực sự hiểu biết. Đó cũng là điều kiện để mình có thể hiểu biết thực sự và là cơ hội để đẩy nhận thức và hiểu biết của mình đi xa hơn.
Do vậy, cùng với trách nhiệm “thức tỉnh xã hội” thì trí thức cũng có một trách nhiệm với bản thân là liên tục “phản tỉnh chính mình”, phản tỉnh với những điểm mù (nếu có) của mình. Nếu không liên tục “phản tỉnh chính mình” hay thậm chí là “phản tư chính mình” thì người hiểu biết sẽ dễ trở thành người ít hiểu biết hay người ấu trĩ trong một số vấn đề (kể cả những vấn đề thuộc chuyên môn hay sở trường của mình), và khi đó sẽ không chỉ khó thực hiện được tốt cái vai trò “thức tỉnh xã hội” vốn có của mình, mà còn có thể gây nguy hại cho xã hội.

Định nghĩa của giáo sư Ngô Bảo Châu bị không ít phản ứng khi ông phủ định vai trò phản biện của trí thức. Vai trò phản biện này cũng không được đề cập đến trong Khái niệm về Trí thức của đảng Cộng sản Việt Nam
Vai trò phản biện- phản tỉnh- xã hội nào cũng cần.
Thế nhưng nếu một trí thức không nhận ra " điểm mù" của bản thân thì họ có còn là trí thức không hay biến thành " ngụy trí thức"?
Blogger Bs Ngọc đưa ra 6 tiêu chí để nhận dạng một trí thức chân chính để phân biệt với Ngụy trí thức  rất hợp lý như sau



1.Vượt tầm: 


Người trí thức chân chính không chỉ là người có chuyên môn cao, mà còn phải có những đóng góp ngoài chuyên ngành của mình. Có chuyên môn cao là một intellectual worker (có lẽ dịch là người lao động trí óc)  Người trí thức đi ra ngoài phạm vi chuyên môn của một intellectual worker, bằng cách đóng góp ý kiến, phản biện những vấn đề liên quan đến xã hội, chính trị, triết học … GS Trần Ngọc Ninh, BS Nguyễn Khắc Viện là những người của ngành y, nhưng các bậc đàn anh đó còn là những nhà văn hoá có tiếng. Họ xứng đáng là những intellectual – nhà trí thức. Người trí thức chân chính không chỉ có tầm mà còn có tâm. Họ đau đáu lo chuyện quốc gia đại sự dù họ không có quyền.


2.Khiêm tốn

Người trí thức là những người khiêm tốn, vì họ ý thức được rằng kiến thức của mình còn hạn chế. Khiêm tốn tri thức còn có nghĩa người trí thức không khẳng định những gì mình chưa biết hay chưa có chứng cứ. Dĩ nhiên, khiêm tốn ở đây cũng có nghĩa là người trí thức không nên tự phụ, kiêu căng, khoác lác, kiêu ngạo, mà phải sử dụng logic và chứng cứ để phát biểu một cách hợp lý. Việt Nam không thiếu những người cũng mang danh giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhưng kỳ thực là họ không có kiến thức uyên bác về lĩnh vực họ phát biểu. Thay vào đó là những khoa ngôn, rừng chữ cầu kỳ, màu mè, mà chính họ cũng không hiểu họ nói gì. Những kẻ đó tôi gọi là nguỵ trí thức. Giới báo chí thường hay bị lừa bởi những nguỵ trí thức. Mới đây đã xảy ra trường hợp một ông bác sĩ hay dùng những từ ngữ triết học cao siêu được mời viết bài và giảng ở Đại học quốc gia TPHCM, nhưng chỉ vài ngày thì người ta phát hiện ông ta chỉ là loại nguỵ trí thức.


3.Can đảm, dấn thân:

 Người trí thức thật sự khác với trí thức trùm chăn. Trí thức trùm chăn là những kẻ cũng có bằng cấp cao, cũng danh xưng đầy mình, cũng lao động trí óc, nhưng không có khả năng hình thành một quan điểm độc lập. Họ có thể nhận ra những gì  là sai, nhưng họ không dám nói ra, chỉ “trùm chăn” hay đóng vai 3 con khỉ không muốn nghe, không muốn thấy, và không muốn nói. Loại này thì có nhiều ở Việt Nam. Ở bàn nhậu họ phát biểu rất hăng, nhưng khi họp chi bộ thì họ là những con mèo đáng thương hại. Ngược lại với loại trí thức dỏm (trùm chăn) đó là trí thức thật, những người không khi nào chấp nhận lý lẽ của người khác một cách dễ dãi, không bao giờ chấp nhận giáo điều, không bao giờ khuất phục trước những kẻ quyền thế. Đặc tính can đảm đặt người trí thức ở tình thế có khi nguy hiểm. 


4.Thấu cảm: 

Người trí thức chân chính lúc nào cũng đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để thấu hiểu họ. Đặc tính này có tương quan với khả năng hình thành quan điểm và lý trí của người khác, và lý giải từ những giả định, tiền đề và ý tưởng của chính mình. Thấu cảm còn có nghĩa là người trí thức sẵn sàng chấp nhận mình sai cho dù mình tin tưởng rằng mình đúng. Những loại trí thức dỏm không có đặc tính thấu cảm, bởi họ không bao giờ đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Họ có thể là những người ở nước ngoài, không chịu sự chi phối của các nhóm quyền lực chính trị, nhưng họ sẵn sàng lớn tiếng lên tiếng lên lớp đồng môn trong nước là “phản biện trung thành” và lấy làm hài lòng sự lên lớp của mình.


5.Liêm chính: 

Người trí thức chân chính là người áp dụng những quy chuẩn khoa học để đánh giá những lý giải và chứng cứ của mình, chứ không phải dễ dãi với những gì mình tin tưởng. Nói cách khác, người trí thức dùng quy chuẩn khoa học chẳng những cho người khác mà còn cho chính mình. Điều này đòi hỏi người trí thức phải thành thật chấp nhận những quan điểm khác với mình. Đặc tính này tương phải với nguỵ trí thức, những kẻ không có khả năng lắng nghe quan điểm của người khác, không đủ can đảm để ghi nhận phê bình của người khác. Nguỵ trí thức cũng là loại trùm chăn, vì đầu óc họ (cũng lao động trí óc) chỉ biết có một quan điểm, chỉ tin vào một thần tượng. Bất cứ ai phê bình thần tượng của họ, họ nổi nóng và lảm nhảm. Một loại nguỵ trí thức khác là lên giọng dạy người khác rằng khi phản biện phải có am hiểu vấn đề nhưng bản thân họ thì chẳng có bất cứ một kiến thức nào về vấn đề họ phản biện. Đó là loại nguỵ trí thức tiền hậu bất nhất, một tiêu chuẩn cho mình, một tiêu chuẩn cho người khác.


6.Kiên trì và trung thành: 

Người trí thức chân chính là người trung thành với lý tưởng của mình, tin rằng lý tưởng đó sẽ làm cho xã hội tốt hơn. Họ kiên trì theo đuổi những sự thật hay nguyên lý mà họ tin tưởng, bất chấp những khó khăn, cản trở, và đe doạ. Khác với trí thức chân chính, nguỵ trí thức thay đổi quan điểm khi có điều kiện. 

Xem ra, với 6 tiêu chí này thì quả thật không dễ dàng trở thành một người trí thức chân chính.nhưng cốt lõi để trở thành một trí thức chân chính, theo tôi là phải nhận thức được " điểm mù" của bản thân để có thể phản tỉnh chính mình. Một khi không phản tỉnh được mình thì sẽ không thực hiện được vai trò phản biện, phản tỉnh xã hội của người trí thức chân chính.

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2014

Thiếu tướng Ngô Quang Nghĩa: Một đời vì nghĩa





Thiếu tướng Ngô Quang Nghĩa.






Chính ông cũng không biết mình sinh ngày nào, chỉ biết, được sinh ra vào năm 1928. Cha mẹ ông thuộc hạng bần cố nông ở vùng Hiệp Thạnh, Trảng Bàng (nay là Gò Dầu), tỉnh Tây Ninh. Ông là con thứ 9. Các anh chị của ông, khi trưởng thành đều chấp nhận cuộc sống khổ cực của nông dân. Không ai khai ngộ cách mạng cho ông cả mà chính ông đã tự khai ngộ cho mình.


Đi làm cách mạng vì thần tượng Cộng sản

Không có khai sinh, cái tên cha mẹ đặt là Ngô Văn Thập chỉ là cái tên cúng cơm chứ không có văn tự. Để được cắp sách đến trường tiểu học, ông phải mượn giấy khai sinh của người anh con bác mang tên Ngô Văn Chừng.

Năm 1943, học xong tiểu học, ông trả giấy khai sinh cho người anh rồi đi làm công nhân cao su ở đồn điền Vên Vên (Gò Dầu - Tây Ninh). Khoác áo công nhân, ông có dịp nghe về phong trào khởi nghĩa Nam Kỳ của những người Cộng sản, về lá cờ đỏ búa liềm. Trong ông, người Cộng sản không sợ chết, không sợ tù đày. Người Cộng sản xuất quỷ nhập thần, thoắt ẩn thoắt hiện. Người Cộng sản rất quân tử...

Một lần, ông đi bộ từ Gò Dầu về Trảng Bàng thăm người chị. Băng qua ruộng dưa hấu sắp thu hoạch, ông bắt gặp dấu vết của ai đó đã ngồi tại chỗ thưởng thức quả dưa cắt trộm, vỏ còn vương vãi. Tuy nhiên, nơi dấu dưa bị mất trộm có một đồng bạc. Ông kể cho chị nghe. Chị bảo: "Cộng sản làm vậy đó. Ăn dưa của dân là họ trả tiền sòng phẳng".

Lần khác, tên Tây ác ôn có tên là Ạc Nô (Arnold) - Cai quản công nhân cao su vùng Gò Dầu - cùng tài xế đi nhận tiền lương của công nhân, lúc trở về bị nghĩa quân Cộng sản đón đường giết chết. Nhưng họ không cướp tiền mà tha cho tài xế mang tiền về để phát cho công nhân.

Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, Pháp tăng cường lùng sục lực lượng kháng chiến. Ông chứng kiến cảnh lính mã tà bắt được hai thiếu niên Cộng sản chỉ trạc tuổi ông. Bị đánh đập, tra tấn rất dã man nhưng hai người Cộng sản trẻ tuổi một mực không khai báo địa điểm ẩn náu của nghĩa quân. Họ chết dũng cảm.

Hình tượng người Cộng sản trở nên thiêng liêng, thần thánh. Ông tự tìm hiểu và nhận ra rằng, Cộng sản là người đòi lại quyền dân tộc, đòi lại đất nước cho tổ quốc, đồng bào. Ông nung nấu ý định đi theo Cộng sản và chờ dịp. Khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông bỏ xưởng cao su về nhà làm nông dân.

Ông Chín Nghĩa (thứ 2 từ phải qua) họp mặt cùng đồng đội trong Ban An ninh Trung ương Cục, năm 2009.


Vất mạ cấy theo cách mạng

Ông có một người chú họ tên là Trần Văn Đề. Là Hương bộ nhưng lòng ông Đề hướng theo Cách mạng. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, Hương bộ Đề giữ chức trưởng Công an xã Hiệp Thạnh.

Một ngày cuối thu năm 1947, anh nông dân Chín Nghĩa đang vận xà lỏn cấy lúa ngoài đồng thì có 2 người thanh niên đến gặp bảo: "Ông Út Đề gọi mày lên xã gặp ổng". Vất bó mạ đang cấy dở, Chín Nghĩa rửa tay chân qua loa theo 2 người thanh niên trên. Vừa gặp, ông Đề nói đơn giản: "Chữ mày đẹp, theo tao làm thư ký Công an". Vậy là Chín Nghĩa trở thành người của cách mạng. Lúc đó, ông 19 tuổi.

Nhiệm vụ của ông là ghi chép sổ sách và ghi khẩu cung những người bị bắt. Ông nghĩ, làm Công an Cách mạng không chỉ bảo vệ Cách mạng mà còn bảo vệ người dân. Ông đã tìm cách cứu thoát án tử cho nhiều người bị nghi oan là Việt gian. Cấp trên chú ý đến ông nhờ khả năng khai thác lời khai. Năm 1948, ông được điều động về làm thư ký cho Trưởng Công an khu Ba Nam Bộ và được đứng vào hàng ngũ của Đảng năm 1949. Ông đã giúp ngành Công an nhận diện rõ nội vụ nhiều vụ án.

Cũng có lúc, ông được phân công về tổ Tuyên huấn cùng với Ba Mực (sau này là nhạc sĩ Xuân Hồng), Nguyễn Văn Tiền (sau này là tiến sĩ âm nhạc). Giai đoạn khó khăn nhất, ông lại được điều động xây dựng phong trào Đảng tại 3 xã Ninh Điền, Phụm Xoài, Long Vĩnh của huyện Châu Thành, Tây Ninh. Ba xã này bị địch bố ráp, xóa trắng, không có chi bộ. Ông đã len lỏi giữa những cuộc truy lùng của địch để tạo dựng cơ sở và xây dựng 3 chi bộ Đảng cho 3 xã này. Ba đơn vị này sau đó đã trở thành "3 mũi tên Cách mạng" của huyện Châu Thành.

Chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng luật 10/59, khắp nơi, lực lượng kháng chiến bị tắm máu. Lực lượng đảng viên mỏng dần. Ông ngồi giữa rừng sâu, đọc bức thư của Trung ương Đảng gửi cho lực lượng đảng viên miền Nam. Ông đã khóc mùi mẫn. Ông xúc động vì biết được Trung ương vẫn quan tâm đến những người nằm gai, nếm mật như ông. Nhờ bức thư đó, sức chiến đấu trong ông trỗi dậy mãnh liệt.

Trước trận đánh Tua Hai lịch sử, ông được điều về Ban Địch tình của Xứ ủy Nam Bộ để chuẩn bị cài cắm vào hàng ngũ địch. Tuy nhiên, sau đó ông được giữ lại để làm nhiệm vụ huấn luyện đào tạo lực lượng Công an cho Cách mạng miền Nam. Năm 1961, ông cùng với đồng chí Tư Thắng (Huỳnh Việt Thắng - sau này là Phó Chánh án TAND tối cao) mở lớp huấn luyện đào tạo Công an đầu tiên cho 40 cán bộ An ninh T4 và tỉnh Tây Ninh. Đó là thế hệ Công an được đào tạo đầu tiên tại Trung ương Cục miền Nam. Kiến thức nghiệp vụ Công an thuở sơ khai chủ yếu dựa vào tài liệu khoa học nghiệp vụ của Công an nước ngoài. Ông và ông Tư Thắng phải mày mò chỉnh sửa từng bài học cho phù hợp với tình hình chiến trường miền Nam.

Có lần, ông Mười Ngón - cán bộ Công an khu vực Bình Tân (tức Bình Chánh và Tân Bình) thuộc Sài Gòn Gia Định báo bắt được một tên "gián điệp đội lốt"… người thiến heo dạo vào khu vực Cách mạng. Mười Ngón phát hiện tên thiến heo "có sử dụng một chiếc hộp quẹt đặc biệt dùng để đánh morse" nên bắt giữ. Mỗi lần gã thiến heo bật quẹt đốt thuốc là chiếc hộp quẹt cháy đèn nhấp nháy. Chiếc hộp quẹt được gửi đến Ban An ninh Trung ương Cục. Vừa trông thấy chiếc hộp quẹt, đồng chí Mai Chí Thọ đã la hoảng: "Bắt lầm người rồi". Thì ra, đó chỉ là chiếc hộp quẹt bình thường có trang trí thêm đèn nhấp nháy, chứ chẳng có "mọt, mẹc" gì cả - Chín Nghĩa nhớ lại bài học nghiệp vụ của ngành Công an miền Nam thuở sơ khai như vậy. Câu chuyện đó là dấu ấn khiến sau này, Chín Nghĩa luôn thận trọng trong từng vụ án. Và ông đã giải oan cho rất nhiều trường hợp ly kỳ.

Năm 1961, do yêu cầu chiến trường, Ban Địch tình được chuyển giao về cho Bộ Quốc phòng, ông cùng với 20 đồng đội khác được phân công ở lại Xứ ủy lập Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam do các ông Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm lãnh đạo trực tiếp. Năm 1962, Chín Nghĩa được phân công làm Chánh văn phòng Ban An ninh Trung ương Cục cho đến ngày đất nước giải phóng.

Ông Ngô Quang Nghĩa (bìa phải) và các đồng chí trong Ban An ninh Trung ương Cục, năm 1970.


"Ông giải oan"

Đất nước thống nhất, nhiều người xin về Trung ương, ông xin về địa phương. 11 năm làm Giám đốc Sở Công an Tây Ninh, ông đã chỉ huy trực tiếp phá nhiều vụ án mà người khác "không dám đụng tới".

Khi nhắc đến ông, nhiều người thường nhắc kèm vụ ông cương quyết phản đối bầu một Tỉnh ủy viên dù người này được đánh giá là cán bộ có năng lực. Một số vị lãnh đạo khó chịu cho rằng ông tư thù cá nhân. Một số người đã "méc" với Trung ương sự ngang ngạnh của ông. Tuy nhiên, ông có cái lý của mình. Bởi vì, từ lâu ông đã có trong tay chân dung lý lịch của người này. Ông ta đã từng là sĩ quan tình báo quân đội hoạt động ở Huế cho chế độ Ngô Đình Diệm. Diệm bị lật đổ, ông ta vào Nam sinh sống để che giấu lý lịch. Hòa bình, ông ta có lý lịch công dân bình thường và phấn đấu vào Đảng, leo dần lên và được giới thiệu vào Tỉnh ủy. Chín Nghĩa nắm được hết.

Sau này, bị chất vấn vì sao không công bố cho Tỉnh ủy biết sớm điều này, Chín Nghĩa trầm ngâm bảo: "Trước khi bắt một người, lòng còn phân vân rằng, bắt cũng được, tha cũng được thì không nên bắt. Ông ta giấu lý lịch để làm việc, cống hiến cho xã hội thì cứ để ông ta cống hiến. Nếu tôi công bố điều này, ông ta sẽ không còn điều kiện cống hiến trí lực. Nhưng việc ngăn cản không cho ông ta vào hàng ngũ Tỉnh ủy là việc cần phải làm để bảo vệ Đảng".

Ông phá án vụ Công ty Xuất nhập khẩu, vụ buôn lậu xăng dầu qua biên giới có đụng chạm đến một vài vị lãnh đạo. Biết nhưng ông vẫn cứ làm. Và điều xấu luôn bị ông khuất phục.

Ông là người đã chỉ huy lực lượng An ninh đeo bám địch suốt 10 năm (1975 - 1985) để phá một nhánh trong vụ án CM 12, phần "phản động đội lốt tôn giáo" tại Tây Ninh. Nhờ vậy, môi trường tín ngưỡng tôn giáo Cao Đài được bình yên.

Hồi năm 1976, ông nhận thấy một số anh em trong ngành có biểu hiện "kiêu binh" nên ông rất thận trọng khi xem báo cáo vụ án. Tết năm 1976, một số người dân bị Công an huyện bắt vì tội "phản động". Họ kêu oan đến ông. Ông đích thân đi xác minh vụ việc. Thì ra, mấy tay Công an đi nhậu về khuya bị té xe do con nít giăng dây ngang đường. Chỉ vậy thôi, thế mà mấy tay Công an này xuống lùa dân cư ngụ gần đó đem về giam và điều tra. Ông kỷ luật ngay mấy cán bộ Công an sau khi xác minh chính xác mọi chuyện, đồng thời tổ chức công khai để xin lỗi dân.

Một hôm, ông nhận được báo cáo của trinh sát cho biết, giờ G, ngày G, một phụ nữ sẽ đánh mìn khủng bố một vài cơ quan trọng yếu của tỉnh. Ông lập tức bố trí lực lượng phục kích đón lõng nhân vật này. Bắt xong, ông mới biết mình bắt oan một cán bộ phụ nữ xã. Thì ra, do ẩu và cũng do "kiêu binh", trinh sát đã báo cáo sai. Không chần chừ, ông tổ chức ngay cuộc xin lỗi công khai trước dân. Có lẽ đó là vụ Công an xin lỗi trước dân đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất mà nhà Cách mạng - nhà báo Trần Bạch Đằng từng nhắc đến nhiều lần trong các bài báo về đạo đức Cách mạng trong thời kỳ đổi mới.

Năm 1987, ông nhận nhiệm vụ làm Phó trưởng đoàn thứ nhất Đoàn Chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam tại Campuchia. Đến năm 1989, ông được rút về Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) làm Phó trưởng Ban nghiên cứu lịch sử ngành Công an chuyên trách phía Nam cho đến khi nghỉ hưu năm 1997 với quân hàm Thiếu tướng.

Trong giai đoạn nghiên cứu lịch sử Lực lượng Công an, ông đã phát hiện nhiều vụ án oan xảy ra trong thời kháng chiến chống Mỹ. Với lương tâm của một người Cộng sản chân chính, ông đã mạnh dạn đề xuất lãnh đạo giải oan nhiều vụ. Chính thời điểm được giao nhiệm vụ "nhận diện lịch sử" đó, ông là người đầu tiên trong cả nước đề xuất đi tìm hài cốt đồng đội. Ông được phân công làm trưởng ban chỉ đạo quy tập hài cốt liệt sĩ. Bản thân ông lội suối băng rừng truy tìm hơn 600 bộ hài cốt đồng đội nằm rải rác ở các cánh rừng Tây Nam.

Ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương cao quý, trong đó có Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Quân Công hạng nhì, Huân chương Chiến công hạng nhất…

Ông là "thần tượng" của 3 người con. Con trai đầu của ông hiện là Giám đốc Sở Công an Tây Ninh, người con gái kế là giám đốc một công ty sản xuất hàng xuất khẩu của tỉnh và người con trai út là cán bộ kinh tế cho một đơn vị cổ phần.

Khi về hưu, ông mới có dịp về sống cùng và chăm sóc vợ là bà Trần Thị Muối tại một ngôi nhà nhỏ trong một con hẻm tại thị xã Tây Ninh.

Lúc sinh thời, Đại tướng Mai Chí Thọ thường nói về ông: "Phải gọi Chín Nghĩa là Chính Nghĩa mới đúng với cái chất của anh ấy"



Nông Huyền Sơn



Bằng Chứng Rúng Động Nước Mỹ: Bin Laden làm việc cho Mỹ






Cựu phiên dịch viên của FBI, Sibel Edmonds (Ảnh: Internet).


Cựu phiên dịch viên của FBI, Sibel Edmonds vừa mới tiết lộ một tin động trời trên kênh phát thanh Brad Friedman: Bin Laden đã từng làm việc cho Mỹ đến tận ngày 11/9.

Trong buổi phỏng vấn trên, Sibel cho biết nước Mỹ đã duy trì “những mối quan hệ thân thiết” với Bin Laden và quân Taliban cho đến tận ngày 11/ 9.

“ Những mối quan hệ thân thiết” này bao gồm cả việc dùng Bin Laden để “ hoạt động” ở Trung Á và cả khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc. Những “ hoạt động” này có liên quan đến việc sử dụng quân Al Qaeda và Taliban chính theo cách mà Mỹ “đã áp dụng trong trời kì xung đột Afghan và Xô-Viết”, đó là: Mỹ ủy quyền cho Al Qaeda và Taliban để chiến đấu với các “ kẻ thù”.

Theo Sibel, mối quan hệ giữa Mỹ và Bin Laden có liên quan tới Thổ Nhĩ Kỳ. Mỹ ủy quyền cho Thổ Nhĩ Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ lại ủy quyền cho Bin Laden và Taliban, cùng với các lực lượng khác tiến hành khủng bố quân sự. Điều này có thể được chỉ ra ở nhiều điểm.


Thứ nhất là tham vọng kiểm soát Trung Á của Mỹ



Osama Bin Laden

Mỹ kiểm soát Trung Á nhằm nắm được những nguồn cung cấp năng lượng rộng lớn và các thị trường mới về thiết bị quân sự tại đây.

Mỹ muốn tránh để lại dấu vết liên quan đến các hoạt động đó để không phải đối mặt với các cuộc nổi loạn ở Trung Á (U-dơ-bê-kix-tan, Ai-dắc-bai-zan…) hay những rắc rối với Trung Quốc và Nga, nên đã dùng con rối Thổ Nhĩ kỳ làm ủy quyền. Thổ Nhĩ Kỳ, một đồng minh trong NATO, có uy tín rất lớn trong khu vực Trung Á. Đại đa số dân cư vùng này có văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo như người Thổ Nhĩ Kỳ. Đến lượt mình, Thổ Nhĩ Kỳ lại lôi kéo Taliban và al Qaeda tham gia với lý do hiện thực hóa giấc mơ về vương quốc thống nhất của người hồi giáo.

Các mối quan hệ này dẫn đến nhiều hoạt động vụng trộm bất hợp pháp kéo dài cả thập niên ở vùng Trung Á của một nhóm người Mỹ, hòng mở rộng ngành công nghiệp dầu mỏ và công nghiệp quân sự.

Tiếp theo là vụ việc người Uighur ở Tân Cương, Trung Quốc.

Sibel đã từ chối viết về tình trạng hiện nay ở Tân Cương vì không muốn nói thẳng ra là dấu tay của người Mỹ có ở khắp mọi nơi trên vùng đất này.

Sibel không phải là người duy nhất nhận ra điều này. Eric Margolis, một trong những nhà báo xuất sắc nhất miền Tây, chuyên đưa tin về các vấn đề ở Trung Á, cũng đã cho biết: “Quân nổi dậy Uighur đã được huấn luyện tại các trại quân sự Afghanistan cho đến tận năm 2010, dưới sự giúp đỡ của CIA. Afghanistankhông phải là điểm nóng của quân khủng bố, mà là Trung Á, với rất nhiều đội quân đặc công, quân du kích được huấn luyện cho những mục đích đặc biệt.”

Việc này minh họa điều mà Henry Kissinger từng nhắc tới: nguy hiểm hơn việc trở thành kẻ thù của Mỹ chính là làm đồng minh của Mỹ.


Thứ ba là triển lãm ảnh Rogues



Năm ngoái, Sibel đã nghĩ ra một cách rất thông minh để phơi bày các hoạt động tội phạm mà cô bị cấm tiết lộ với công chúng: xuất bản một bộ ảnh 18 bức về các những nhân vật có liên quan đến những hoạt động mà Sibel đang muốn vạch trần.


Xuất hiện trong bộ ảnh đó có Anwar Yusuf Turani, được gọi là “ Tổng thống lưu vong” của Tân Cương. Một nhân vật khác là Sibel là Graham Fullerlà người được dùng để lập nên “chính quyền lưu vong” đòi ly khai củaTurani.

Bên cạnh đó, vụ việc Susurluk có thể giải thích phần nào khả năng có mối liên hệ giữa Mỹ và Bin Laden.

Từ lâu chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã có lịch sử kết hợp các vấn đề của chính phủ với khủng bố, buôn thuốc phiện và các hoạt động tội phạm khác. Việc này được phơi bày rõ nhất sau vụ tai nạn xe hơi tại thị trấn Susurluk, Thổ Nhĩ Kỳ năm 1996.


Trong số các nạn nhân của vụ tai nạn, có một nghị sĩ quốc hội, một cảnh sát trưởng, một hoa hậu và cả một tên trùm khủng bố có tên là Abdullah Catli. Kiểm tra các giấy tờ tùy thân, cảnh sát phát hiện ra rằng Abdullah Catli đang bị Interpol truy nã, nhưng tên này lại đang có hộ chiếu ngoại giao được ký bởi chính bộ trưởng bộ nội vụ Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này cho thấy có mối liên hệ khăng khít giữa chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và các tổ chức tội phạm.


Sibel cho biết: “ Một vài nhân vật chủ chốt có liên quan trong vụ Susurluk cuối cùng đã chạy sang Chicago và dựng các trung tâm đầu não ở đây”.

Một nhân vật quan trọng khác, Mehmet Eymur, cựu Giám đốc trung tâm chống tội phạm của Thổ Nhĩ Kỳ cũng xuất hiện trong bộ ảnh của Sibel. Eymur được sống lưu vong tại Mỹ. Ngoài ra còn có Marc Grossman - từng là đại sứ Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ cũng được Sibel đưa vào bộ ảnh.


Hoạt động tội phạm trong vụ Susurluk diễn ra khá giống với các hoạt động diễn ra tại Trung Á mà Sibel đã mô tả. Điểm khác biệt duy nhất là hoạt động này đã bị phơi bày ở Thổ Nhĩ Kỳ một thập niên trước, trong khi các cơ quan của chính phủ Mỹ, có cả truyền thông, thì lại che đậy được rất thành công những câu chuyện ở Trung Á.


* Tổng thống Iran khẳng định biến cố 11/9/2001 là một «âm mưu » của Mỹ ...

Ngày 23 tháng 9, tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad đã có một bài diễn văn, trộn lẫn những lời lẽ khiêu khích với những suy nghĩ ít nhiều có cơ sở thực tế. Ông Mahmoud Ahmadinejad đã nghi ngờ cách giải thích chính thức về các cuộc khủng bố ngày 11/9/2001. Phát biểu của Tổng thống Iran cho thấy các vụ khủng bố này có thể do cơ quan tình báo Mỹ lên kế hoạch. Thái độ gây hấn của tổng thống Mahmoud Ahmadinejad khiến cho phái đoàn Hoa Kỳ rời khỏi phòng họp ngay lập tức, tiếp theo đó là phái đoàn Pháp.



* CHÍNH PHỦ MỸ ĐÃ TIẾN HÀNH VỤ TẤN CÔNG 11/9?



5 năm sau vụ tấn công khủng bố 11/9, nhiều người vẫn nghi ngờ nguyên nhân dẫn tới sụp đổ toà Tháp đôi mà Uỷ ban điều tra 11/9 của Mỹ đưa ra. Họ cho rằng Trung tâm thương mại thế giới đã bị chính chính phủ Mỹ đánh sập bằng bom gài từ bên trong toà nhà....








* Những Lập Luận Trái Chiều Về Vụ 11/9 Ngay sau khi vụ hai toà nhà ở Trung tâm Thương mại thế giới bị phá sập vào ngày11/9/2001, đã có nhiều ý kiến tỏ ra nghi ngờ về sự thật của vụ khủng bố mà chính quyền Mỹ cho là của tổ chức Al-Qaeda chủ mưu. Một vụ khủng bố lớn đã có tác động đến cục diện chính trị của nhiều quốc gia…vì thế không ít ý kiến cho rằng, đây là “sản phẩm” của CIA, nhằm tạo cớ cho Mỹ tấn công Afghanistan…

Những ý kiến “trái chiều” này thực ra chỉ làm phong phú thêm các thông tin về sự kiện đau lòng xảy ra cách đây 8 năm về trước…

Bằng chứng khác đó là các vụ việc tại Xec-bi-a, An- ba- ni và Cô-xô-vô.

Trung Á không phải là nơi duy nhất các nhà hoạch định chiến lược Mỹ có hứng thú làm việc cùng Bin Laden.

Xét về cuộc chiến tranh Xec-bi-a.

Richard Perle và Stephen Solarz (cả hai đều xuất hiện trong các bức ảnh của Sibel) đã cùng với các nhân vật có tên tuổi khác như Elliott Abrams, Kenneth Adelman, Frank Gaffney, Michael Ledeen, James Woolsey, và Morton Abramowitz thành lập nên một nhóm gọi là ‘ Ủy ban người Mỹ vì hòa bình ở Xec-bi-a” (ACPC). Về phần mình, Bin Laden đã đóng góp cho hội này 25 triệu USD, hàng ngàn lính đánh bộ, các chuyên gia quân sự và các các trại huấn luyện.

Người Mỹ cũng đã tỏ ra rất hứng thú với quân al Qaeda ở Cô –xô-vô và Albani.

Tất nhiên, cũng không có gì lạ thường khi diễn ra tình huống “ kẻ thù của kẻ thù là bạn ”. Nhưng mặt khác, trong một chế độ dân chủ minh bạch, người Mỹ luôn mong sẽ hiểu rõ mọi nguyên nhân dẫn đến sự kiện 11/9. Ủy ban 11/9 được coi là sẽ cung cấp các thông tin chính xác về sự kiện này.

Và việc chính phủ Mỹ cương quyết yêu cầu giữ kín một số thông tin càng làm sáng tỏ hơn mối quan hệ ngầm này.

Hiện Sibel được coi là người phụ nữ “ bị bịt miệng” nhiều nhất nước Mỹ. Cô đã bị các đặc viên chính phủ chú ý đến 2 lần: lần đầu là bản khai 3.5 tiếng của cô gửi tới ủy ban 11/9 đã bị chặn lại và rút ngắn xuống chỉ còn vài từ đơn lẻ.

Theo Sibel, điều này càng làm sáng tỏ việc Mỹ dùng Bin Laden và Taliban ở Trung Á và Tân Cương. Khi yêu cầu Sibel giữ bí mật các thông tin của cô, chính phủ Mỹ đã giải thích đó là vì các vấn đề ngoại giao nhạy cảm. Sibel cho rằng đó chỉ là cách chính phủ tự bảo vệ mình.

Như vậy, từ các bằng chứng trên, có thể thấy đã có thông tin rất rõ ràng rằng một vài người đặc biệt ở Mỹ đã hợp tác với Bin Laden cho đến tận khi diễn ra sự kiện 11/9.

Hiểu được nguyên nhân của điều này là rất quan trọng: người Mỹ đã hợp tác với các tổ chức tội phạm trong nhiều năm hòng kiếm lợi nhuận từ các vụ giao dịch quân sự cũng như chiếm mỏ dầu.
Sự im lặng của chính phủ Mỹ về vấn đề này càng làm tăng thêm nhiều nghi ngại.


Lê Huyên (Theo Lukery), Việt báo (Theo_VietNamnet) – 

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Lý Luận vừa là Một Môn Khoa Học và Môn Nghệ Thuật






Có phải lý luận học là một môn khoa học (như thiên văn học hay di truyền học), hoặc là một môn nghệ thuật thực hành (như thể dục hay nấu ăn) không? Có phải mục tiêu của nó là mô tả sự tự nhiên và cấu trúc tư duy đúng, theo cách của một môn khoa học chính xác? Hoặc là nó dạy chúng ta làm thế nào để lý luận đúng như là chúng ta có thể hướng dẫn ai đó chơi kèn?

Nói ngắn gọn là có phải mục tiêu cơ bản của nó là giúp chúng ta hiểu lập luận rõ ràng là gì và dạy chúng ta làm thế nào để lập luận đúng đắn?

Một tình huống có thể được nêu ra để nhìn nhận lý luận học bằng một trong những cách này. Một số người cho rằng lý luận học ngoài là một môn khoa học, nó khám phá, hệ thống, và thiết lập các nguyên tắc để lập luận đúng. Họ thậm chí còn gợi ý là giảng dạy
cách lập luận có lo-gic là vô ý nghĩa, giống như là chúng ta chẳng cần đợi những nhà tâm lý học dạy chúng ta ăn.
Hoặc là chúng ta biết làm thế nào để lập luận hoặc chúng ta không biết. Nếu chúng ta có đầy đủ mọi năng lực, chúng ta chẳng cần những hướng dẫn. Nếu chúng ta không có nó thì những hướng dẫn cũng chẳng giúp được gì.

Những người khác lại cho rằng giá trị cơ bản của lo-gic là nâng cao sức mạnh của những lập luận và tăng cường khả năng của chúng ta để đánh giá sự đúng đắn của những lập luận và sửa chữa những điểm yếu. Với những lợi ích này, lo-gic phải được coi là một môn nghệ thuật cũng như là một môn khoa học không chỉ để thông tin cho tư duy mà còn huấn luyện nó. Một vài người định nghĩa lo-gic là một nghệ thuật tự do, những nghiên cứu của nó cung cấp hiểu biết tốt hơn về sự tự nhiên và giúp chúng ta thoát khỏi những suy
nghĩ và hành động ngu dốt. Trong quyển sách này, chúng ta sẽ theo đuổi việc thực hành trên góc độ coi đó vừa là một nghệ thuật vừa là một môn thực hành và quan trọng không kém là tiến hành những nghiên cứu mang tính lý thuyết của nó. Thực tế là có vài người sẽ
phàn nàn là việc nghiên cứu mang tính thực hành cuả nó với những phân tích về thành kiến, thiên vị, và sự cố chấp thậm chí là quan trọng hơn việc nghiên cứu mang tính lý thuyết. Lịch sử là một cuốn danh mục về những sự kiện mà một cuộc tranh luận tồi tệ đã thuyết phục cả nhiều đám người hành động một cách xấu xa, thậm chí là tàn bạo. Rất nhiều sự tàn bạo cực điểm trong Thế Chiến II đều là bằng chứng chúng ta cần nói lên rằng với bản chất tự nhiên chúng ta dễ bị thuyết phục để thù ghét và giết người. Tất nhiên là có nhiều nhân tố đã đóng góp vào tình hình mà sự huỷ diệt có thể xảy ra nhưng nó không thể đơn giản là đặc điểm nổi bật để cố tình lập luận sai trái. Nhưng việc lập luận tồi tệ chắc chắn đã thúc đẩy rất nhiều hành động cá nhân mà đã công nhận tính hợp lý cho nó. Và tương tự thế bạo lực và thù hận tiếp tục chi phối xã hội chúng ta. Do đó việc nghiên cứu lo- gic đúng đắn là cách thức để chúng ta có thể cố gắng hết sức để giảm bớt những hành vi như thế trong chính chúng ta và bảo vệ chúng ta khỏi nó.

Nhà trào phúng Jonathan Swift ở thế kỷ 18 đã xuất bản một tiểu luận có tựa đề “Một Lời Đề Nghị Khiêm Tốn” trong đó ông đã kín đáo gợi ý rằng tập tục ăn thịt đồng loại là một điều hết sức hợp lý, là một giải pháp mang tính thực tế cho vấn đề quá tải dân số trong nghèo đói. Trong những gì xuất hiện là một lý luận đẹp đẽ có tính thuyết phục “một điều lo-gic chặt chẽ sẽ dẫn đến tranh cãi khủng khiếp từ những giả thiết đáng kinh ngạc vì thế giả thiết đơn giản rằng người đọc tán thành trước khi anh ta biết anh ta tán thành cái
gì.” (Norton Anthology of Emglish Literature, Quyển 1, dòng 3, trang 209).

Điều mà Swift thực sự muốn làm là bằng cách đơn giản nào chúng ta có thể bị dẫn tới những suy nghĩ và quan điểm khiếp sợ -- không dám nói lên hành động nào cả -- bởi một người tranh luận biết cách làm thế nào giả tạo được sự hợp lý. Đó là lý do tại sao chúng ta nên biết cảm nhận sự hợp lý bằng bản thân chúng ta nhờ vậy chúng ta có thể phân biệt những thứ giả tạo tinh vi với những thứ thật.

Morris S. Engel.
người dịch Tô Yến Nhi

Mơ Ước Thanh Bình




Đào Văn Bình





Ảnh http://mytour.vn/


Khi đất nước thanh bình,
Em sẽ nghe những con chim cu gáy.
Tiếng sáo diều ngân,
Và trời trong xinh đẹp vô cùng.


Khi đất nước chiến tranh.
Em chẳng nghe những con chim cu gáy.
Tiếng sáo diều tắt nghẹn,
Và bầu trời đe dọa đạn bom bay.

Khi đất nước thanh bình.
Dòng sông nước chảy lặng lờ.
Những rặng dừa lả ngọn.
Và lúa non xanh mướt tựa như thơ.


Khi đất nước chiến tranh.
Dòng sông mắt đỏ đục ngầu.
Những rặng dừa xơ xác.
Đạn pháo nào phá nát cả trời mơ.



Khi đất nước thanh bình.
Gái Hội Lim hát hò quan họ.
Giọng em xinh xinh quá gái làng quê.
Trai thành đô nô nức rủ nhau về
Để chiêm ngưỡng áo tứ thân cổ kính.


Khi đất nước chiến tranh,
Gái Hội Lim quên câu quan họ.
Lo thóc gạo, lo cuộc đời bất trắc.
Trai thành đô lên đường ra mặt trận.
Có thương nhau xin hẹn thuở anh về.

Khi đất nước thanh bình,
Đám cưới nhà ai sao vui, vui quá.
Sen cốm được mùa,
Pháo ròn rã và tình say như men rượu.


Khi đất nước chiến tranh,
Người ta cưới nhau vội vã.
Hai họ nhìn đôi uyên ương lo sợ.
Nay cô dâu, mai cô phụ, ai ngờ?

Khi đất nước thanh bình,
Người ta rủ nhau du lịch.
Vườn quốc gia và bãi biển xanh chật ních.
Người lẫn người tận hưởng thú thiên nhiên.


Khi đất nước chiến tranh,
Người chen chúc nhau trong thành phố.
Đầy hầm, hào, hố, ụ phòng không.
Tránh đạn bom nghe tiếng hú coi chừng.
Hỏa tiễn nổ và xác người tan tác.

Khi đất nước thanh bình,
Thì trường học cũng thanh bình.
Giờ ra chơi bao em nhỏ tung tăng.
Cây phượng vĩ cũng thấy đời hạnh phúc.


Khi đất nước chiến tranh,
Truờng về nơi sơ tán.
Lớp học là hầm sâu trong đất.
Giờ ra chơi lo sợ ngó trên đầu.
Kẻo máy bay địch dội bom lên trẻ nhỏ.

Khi đất nước thanh bình,
Đạo từ bi xa gần lan tỏa.
Buổi hoàng hôn thong thả tiếng chuông ngân.Những buổi lễ ngàn vạn người tham dự


Khi đất nước chiến tranh,
Chùa chiền vắng vẻ,
Nếu buổi lễ có người tham dự.
Cũng đề cầu cho chiến sĩ trận vong.
Tiếng chuông ngân sao buồn bã vô cùng.
Dù Phật độ cũng khôn ngăn tiếng khóc.

Chiến tranh, ôi vô cùng thảm khốc!
Kẻ điên rồ mới cổ vũ chiến tranh.
Kẻ dã man mới chủ tâm gây chiến.
Dù bất cứ lý do gì ngụy biện.
Xét cho cùng mộng tranh bá đồ vương.

Mơ thanh bình!
Và cầu nguyện hòa bình.
Giấc mơ tha thiết!
Dù con giun cái kiến.
Dù con nai, con ốc, con sò.



Đào Văn Bình

(California ngày 9/7/2014)

Giá Như Không Có CMT8, Không Có ĐBP, Không Có 30/4...




Nguyễn Thanh Tùng


Có một câu nói mà thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp được nói ra từ những kẻ sống không cần não và cũng chẳng cần trái tim, đại khái là: Nếu như không có CMT8, không có ĐBP, không có 30/4 thì giờ này đất nước chúng ta đã thành con rồng, con hổ rồi...

Vâng, có mà "rồng lộn, hổ lốn" thì có!

Tại sao ư?

"Phân tích kỹ thuật" ra thì dài dòng lắm, mất thời gian của tôi mà đâu có dễ lấp đầy khoảng trống trong hộp sọ và lồng ngực của những kẻ đó. Nhưng blogger Meo Meo ở Agoura Hills, CA, USA cũng đã có câu trả lời cho một kẻ thuộc chủng loại đó. Vậy nên tôi chép về đây để giới thiệu với các bạn phòng khi các bạn gặp những kẻ "vô tâm vô trí" đó. Bài này Meo Meo viết cũng đã lâu, nhưng giá trị của nó vẫn còn nguyên vẹn chừng nào chủng loại sống không cần tim, cần óc vẫn có khả năng sinh sản. (Nguyễn Thanh Tùng)




Dạy Đời Trí Thức Mà Không Có Khả Năng Tri Lý
- Tác giả: Meo Meo

Nhân đọc bài: "Các đảng phái chính trị ở các nước 'tư bản'" của em Lê Minh Phiếu (*) mới thấy thêm được một lần nữa như mọi lần rằng tinh thần nô lệ của con người Việt Nam còn rất nặng nề, ngay cả trong giới trí thức. Trong bài này có đoạn em ấy viết:

"(Ngoài lề: Năm ngoái, mình có đến đón Noel tại một gia đình người Việt Kiều ở Erlengen tại Đức. Chính cô nguời Việt (vốn từng là một giáo viên dưới mái trường XHCN ở Việt Nam) sống ở đây cũng đã nói với mình: 'Đức đúng là một nước XHCN. Nếu như hồi xưa Bác Hồ mà làm giống như vầy thì bây giờ dân mình đã sướng biết mấy'. Mình nghe mà cứ bùi ngùi, cứ tiếc cho hai từ 'nếu như')."

Một đoạn văn ngắn như trên thôi nhưng nó chứa đựng rất nhiều cái ngu dốt trong đó. Trước hết là nội dung bài này em ấy giải thích về "Các đảng phái chính trị ở các nước 'tư bản'" nhưng em ấy cũng không quên đá giò lái Bác Hồ một cái là không sáng mắt! Không biết cụ thể là Bác Hồ đã làm gì mích lòng em mà cho dù là "ngoài lề" em ấy cũng ráng lôi vào chửi cho bõ ghét như thường!

Sau đó là nội dung của cú đá giò lái hỗn hào và lãng xẹt này. Tại sao những người có ăn học tới nơi tới chốn lại có thể thốt ra những lời nhận định trẻ con và ngu dốt đến như vậy? "Nhân bất học bất tri lý"; đằng này có học mà không biết tri lý thì còn tệ hơn những người thất học.

Chữ "nếu như" ở đây có nghĩa là gì? Có nghĩa là "nếu như" Bác Hồ và cả mấy chục triệu dân Việt Nam nằm chờ như Đức thì không cần đánh nhau mà vẫn thống nhất được?

Phải biết tri lý như thế nào? Như thế này này.

● Trường hợp Việt Nam không giống như Đức. NẾU NHƯ nước Đức không xâm lăng cả một Châu Âu TRƯỚC thì không có ai tự nhiên dám xông vào chia đôi một nước Đức hùng mạnh đó cả! Nước Đức bị chia đôi là vì THUA TRẬN, là vì đánh người ta TRƯỚC. Đó là lý do thứ nhất.

Hai miền nước Đức đều có quân đội Mỹ và Liên Xô đè đầu cả, thì thằng Đức nào rảnh mà giải phóng cho thằng Đức nào đây? Vũ khí hạt nhân của Mỹ và LX chĩa vào nhau thì thằng nào dám động thủ đây? Không phải là Đức không muốn giải quyết bằng vũ lực mà là vì điều đó hoàn toàn không phải ngay cả là một câu hỏi nữa! Một là chịu trận bị chia cắt làm hai miền vô thời hạn, hai là không còn một miền nào cả, không những thế mà cả thế giới này cũng sẽ bị hủy diệt vì chiến tranh thế giới thứ III luôn!

● Việc Việt Nam chiến đấu để thống nhất chỉ là tiếp tục công cuộc đánh Pháp giành độc lập. Việt Nam không tấn công thôn tính Pháp, Nga, Ba-Lan, Tiệp...TRƯỚC để phải trả giá. Trước Bác Hồ còn có biết bao nhiêu anh hùng dân tộc khác đánh Pháp. Bị xâm lược rồi đánh xâm lược giành độc lập không phải là "nếu như" mà là chuyện "phải làm" đối với không những người Việt Nam mà còn là với biết bao nhiêu dân tộc bị xâm lược khác trên thế giới lúc đó. Người Việt Nam đánh Pháp giành độc lập cho nguyên cả nước Việt Nam như hồi trước khi bị Pháp chiếm chứ không phải là chỉ giành lại một nửa nước! Em Phiếu được sang tận Pháp học bảnh thế mà có hiểu được chuyện đơn giản này không vậy? Em có biết đọc chữ Pháp và chữ Việt không? Tại sao không tìm văn bản Hiệp Định Genève mà đọc?

Em học luật nữa cơ đấy! Như vậy tại sao em không nói rằng "nếu như" thằng đế quốc Mỹ và tay sai của nó chịu bầu cử đa đảng để thống nhất trong hòa bình, không dùng võ lực chia cắt Việt Nam TRƯỚC thì làm gì có chuyện Việt Nam phải dùng võ lực để thống nhất SAU? Làm gì có chuyện phải cần chuyên chính một đảng?

Giành độc lập là nguyện vọng của toàn dân trong suốt 100 năm làm nô lệ cho ngoại bang chứ không phải chỉ là của một mình Bác Hồ! Bác Hồ chỉ là người có đủ uy tín, đức độ và tài năng để tập hợp sức mạnh toàn dân làm chuyện đó một cách có hiệu quả.

● Nếu Bác Hồ không hô khấu hiệu giành độc lập thống nhất thì cũng không có ai theo Bác Hồ cả! Em có học lịch sử không?

Em thấy Việt Gian không chịu độc lập thống nhất thì có dân theo không?





Chuyện giành độc lập thống nhất là chuyện chung của cả dân tộc, không ai xúi cũng có người làm. Hàng chục triệu người đã làm chuyện đó và hàng mấy triệu người đã chịu hy sinh và thương tật suốt đời để Việt Nam có được ngày độc lập thống nhất. Như vậy mà em dám buông hai chữ "nếu như" nhẹ nhàng như vậy phủi sạch công lao những người đó thì thật là cái loài ăn cháo đá bát!

Nói ngắn gọn trường hợp nước Đức là trả nợ xâm lược người ta trước, còntrường hợp Việt Nam là đòi nợ bị xâm lược. Hai chuyện trái ngược nhau 180 độ mà mấy em dám gộp lại nói chung như vậy có phải là ngu dốt lắm không?

● Tại sao lại có lối suy nghĩ "'nếu như' người Việt Nam đừng đánh giặc ngoại xâm để thống nhất đất nước" như em? Tại vì Việt Nam là một nước bị nô lệ dai dẳng nên dòng máu nô lệ vẫn chưa gột rửa được, nên những người mang nặng máu nô lệ như em vẫn còn trách tội người Việt đánh ngoại xâm mà không dám trách tội ngoại bang xâm lược Việt Nam. Cho dù em có được sinh ra và lớn lên trong một đất nước độc lập thống nhất hòa bình; được giáo dục tử tế nhưng khi có điều kiện tiếp xúc với tây là máu dại tây của em sẽ nổi lên ngay và anh hùng dân tộc của Việt Nam cũng sẽ trở thành vô lý và không cần thiết đối với em.

Và tại sao tây nó dám xâm lược Việt Nam lúc đầu? Là vì nó phát hiện ra rằng ở Việt Nam có rất nhiều người dại tây, trong đó có cả trí thức dại tây, có thể gây dựng cơ sở nội ứng.

Và tại sao VN cho đến bây giờ vẫn chưa có đa đảng? Là vì Việt Nam vẫn còn tiếp tục sinh ra cái đám dại tây như em sẵn sàng làm nội ứng cho tây thì đa đảng làm gì cho nó rách việc?

● Cô nào đó mà em đắc ý trích dẫn rằng: “Đức đúng là một nước XHCN. Nếu như hồi xưa Bác Hồ mà làm giống như vầy thì bây giờ dân mình đã sướng biết mấy”.

Cái ngu dốt ở câu này thật là bao la! Đức làm thế nào mà chả sướng hơn Việt Nam? Đức đã từng là cường quốc công nghiệp số một Âu Châu hay có thể nói là cả thế giới. Năm 1935 họ đã có đường xe hơi cao tốc đầu tiên trên thế giới rồi. Sau thế chiến II, các nhà khoa học Đức chạy sang làm việc cho Mỹ và đã giúp xây dựng chương trình không gian và quốc phòng của Mỹ và đã có những đóng góp không nhỏ giúp Mỹ mạnh lên thêm.

Trong khi đó "chính quốc", "nước mẹ" Pháp của Việt Nam còn chịu không nổi sức mạnh của quân đội Đức thời thế chiến II đã đầu hàng nhanh chóng mặc dù lực lượng quân Đức đã bị chia ra những mặt trận khác nhau. Sao lại lấy một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam đã từng bị chỉ vài trăm, vài ngàn quân Pháp đánh chiếm dễ dàng mà so sánh với một đế quốc công nghiệp nặng đã từng đánh đông đánh tây như Đức vậy?

Cả nước Việt Nam không đối phó nổi vài ngàn quân Pháp, cả nước Pháp không đối phó nổi với một nhánh quân Đức. Các em đi so sánh một nước Đức hùng mạnh dám một mình đánh mấy cường quốc hàng đầu trên thế giới CÙNG MỘT LÚC với một nước nô lệ đầy những kẻ dại tây yếu hèn ngu dốt như các em mà cũng nghe được sao?

Còn cách so sánh ngu dốt nào hơn nữa đem ra một lượt luôn đi?

Vì dòng máu nô lệ cho người da trắng trong người quá mạnh nên nhiều người Việt Nam hoàn toàn mất khả năng đối kháng với người da trắng là chủ của họ. Họ hoàn toàn mất hết lý trí để thấy được cái sai của chủ nô da trắng của họ, vì người chủ nô trong mắt của họ là quá vĩ đại! Khi có bất cứ tranh chấp gì giữa chủ nô da trắng và người nô lệ Việt Nam, bên đúng phải là chủ nô da trắng của họ.



Có rất nhiều kẻ "nô lệ tự phát, tự nguyện".
Ảnh trích trong video http://www.youtube.com/watch?v=6RsEwirM7m8

Đối với những vụ tranh chấp này, họ suy xét không phải bằng lý trí và sách vở mà là bằng tình yêu thương, sự ngưỡng mộ đối với chủ nô da trắng của họ. Học hành làm gì mà dám phán xét một chuyện có liên quan đến độc lập thống nhất của cả một dân tộc, hàng mấy triệu sinh mạng của đồng bào bằng hai chữ "nếu như" vô trách nhiệm như thế?

Đầu óc của loại trí thức nô lệ dại tây này khi đụng tới những lỗi lầm của tây thì nó sẽ trở thành củ khoai ngay!

● Em Phiếu không thấy rằng người da trắng Đức không sáng mắt khi dám tấn công TRƯỚC MỘT LƯỢT mấy cường quốc hùng mạnh nhất thế giới trong đó có Liên Xô là một liên bang có lãnh thổ trải rộng 1/6 quả địa cầu để cuối cùng phải chịu mang vạ bị những cường quốc thắng trận đó xâu xé? Ngược lại em ấy lại thấy đắc ý rằng người Đức sáng mắt khi không chống lại sự xâu xé đó? Đang thọ án cái tội xâm lược người ta mà chống cái gì em?

● Em Phiếu cũng không thấy rằng Mỹ không sáng mắt khi ỷ mạnh dắt một đám côn đồ chư hầu khác đem quân vào Việt Nam như chỗ không người. Mỹ không sáng mắt khi không thấy rằng Việt Nam ngoài một thiểu số có máu nô lệ dại tây thích cho tây nắm đầu ra còn có đa số không thích cho bất cứ ngoại bang nào nắm đầu. Những người này sẵn sàng hy sinh đến người cuối cùng để giành độc lập và thống nhất vì họ đã quá chán chê với thân phận làm nô lệ tay sai bị người da trắng chà đạp trên chính quê hương họ cả trăm năm rồi.

● Ngay cả những người da trắng cũng đã nhận ra sai lầm của họ đối với Việt Nam và họ đã viết rất nhiều sách để mong được sòng phẳng với lương tâm của họ, nhưng lại có một đám người Việt mang trong đầu tư tưởng nô lệ dại tây thương chủ hơn cả chủ vẫn khư khư rằng người Việt Nam chống ngoại xâm giành độc lập thống nhất là một sai lầm!


"Bệnh dại Tây" được mô tả đúng mức trong Video link http://www.youtube.com/watch?v=6RsEwirM7m8 post ngàng 13 tháng 7, 2013- Giám Mục La Mã LEOPOLDO GIRELLI được giáo dân đón tiếp ở giáo xứ Bến Dinh.

Ngày nào tư tưởng nô lệ dại tây này còn lưu truyền thì làm sao chính quyền có thể lỏng lẻo ra được?

Một trong những cuốn sách nói về sai lầm của Mỹ này là: "Our Ho: Fact and Fiction", của Alan Truscott, một người bảo thủ ủng hộ cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam, chứ không phải là một người tiến bộ chống chiến tranh. Trong đó có nói đến những sự thật như:



Bác Hồ đã hợp tác chặt chẽ với phe Đồng Minh trong Thế Chiến II vì tin vào những lời tuyên bố tôn trọng độc lập của các dân tộc thuộc địa của phe này.

Tác giả nhận thức rằng Mỹ đã phản bội Bác Hồ khi trả Việt Nam lại cho Pháp, tài trợ và cố vấn cho Pháp trong cuộc kháng chiến 9 năm của người Việt chống Pháp.

Có cố vấn và tài trợ trên 80% chiến phí mà Pháp cũng phải thua Việt Minh sau 9 năm, nếu không có tiền đó thì Pháp chống được mấy năm đây? Nợ máu với người Việt trong chuyện này có phần của Mỹ không?

Tác giả nhận thức rằng Mỹ đã tiếp tục phản bội Bác Hồ sau khi Pháp thua, tiếp tục cứng đầu dùng sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị trên thế giới của mình trao một nửa nước cho ông Diệm, một người không có công lao gì với công cuộc chống Pháp giành độc lập cả.

Chính ông Diệm cũng bị Mỹ phản bội.

Còn cái này là của anh Mèo: Cả cái đám tay sai nô lệ dại tây cầm quyền ở miền Nam cuối cùng cũng bị Mỹ phản bội luôn. Cái này chính những người đó cũng đã công nhận là như vậy.

● Theo cuốn sách trên, thời Thế Chiến II, Mỹ nhận định Bác Hồ là một người quốc gia và thân Mỹ. Hải Quân Mỹ và tình báo OSS của Mỹ rất thích ông. Hiến Pháp của Việt Nam sau Thế Chiến II gần giống với Mỹ. Ông bỏ tên Đảng Cộng Sản và kêu gọi một cuộc tổng tuyển cử với sự tham gia của tất cả các đảng phái. Người Mỹ lúc đó được đón tiếp như những anh hùng, được mọi người yêu mến và chúc mừng.

Trong cuốn sách có ghi lại phỏng vấn của BBC với những cựu nhân viên OSS là nhân chứng của thời đó.

Bác Hồ và người Việt Nam đã cư xử đẹp đẽ như vậy đối với người Mỹ mà em còn muốn sao nữa? Hai chữ "nếu như" đó phải để cho những nhà cầm quyền Mỹ. Nếu như họ biết tôn trọng người Việt như người Việt tôn trọng họ thì Việt Nam và Mỹ đã có thể là bạn bè lâu rồi. Họ lại xem người Việt hết thảy là một đám nô lệ dại tây, lãnh thổ Việt Nam là đất vô chủ muốn sang nhượng chia chác sao cũng được nên mới xảy ra cớ sự.

● Và dưới đây là một vài bức thư của Bác Hồ gửi cho các loại tây khác nhau nói chuyện lý lẽ lịch sự nhẹ nhàng với họ. Nếu đầu óc củ khoai của em Phiếu mà biết tri lý thì sẽ tự biết rằng tây đầu thế kỷ 20 không biết điều như tây đầu thế kỷ 21. Ngay cả đầu thế kỷ 21, họ vẫn còn chưa biết điều như thường, nói gì tới khoảng 50-100 năm trước? Họ không xem người da màu trên thế giới là người giống như họ mà là một loại súc vật, đồ vật biết nói, cho nên nói phải quấy nhẹ nhàng họ đâu thèm nghe?

Bức thư cuối trong những thư này là yêu cầu được đưa thanh niên Việt sang Mỹ trao đổi văn hóa và học hỏi kiến thức, tỏ rõ hy vọng được giao hảo hòa bình và hợp tác với Mỹ của Bác Hồ. Nhưng nhà cầm quyền Mỹ lúc đó lại không muốn làm bạn mà lại muốn làm cha Việt Nam họ mới chịu cơ! Và họ đã kiếm chuyện nói ngược và vu vạ lại Bác Hồ để thực hiện âm mưu đó. Cái chiêu này xưa như trái đất, thế mà có cả lũ người Việt được học hành tử tế khoe bằng này bằng nọ mà nó chả biết gì cả lại còn dám vào hùa với tây chửi ngược lại dân tộc!

Như vậy gọi là đầu óc ngu dốt nô lệ dại tây thế kỷ 21 có oan không?

----------

Chú thích của Doi-Mat.vn:



(*) Lê Minh Phiếu là một luật sư tốt nghiệp tiến sĩ Luật chuyên ngành về Luật Thương mại Quốc Tế tại Đại Học Montesquieu – Bordeaux IV, Pháp. Đây cũng là một trong những "nhà ní nuận" được đám "rận chủ" Việt tung hô. Bài viết mà Meo Meo đề cập đến trong bài này là "Sự vận hành của các đảng phái ở các nước tư sản", được Lê Minh Phiếu đăng trên blog Yahoo của mình (hiện blog Yahoo đã đóng cửa).

Meo Meo

Nguồn http://www.doi-mat.vn/2014/09/gia-nhu-khong-co-cmt8-DBP-30-4-1975.html#axzz3FcGuoe51

Có đăng ở http://molang0205.blogspot.com/2014/09/day-oi-tri-thuc-ma-khong-co-kha-nang.html

Xuyên tạc, bôi nhọ chủ Tịch Hồ Chí Minh là những kẻ không có con tim và khối óc !





Mấy ngày gần đây cộng đồng mạng rộ lên những bài viết, clip, comment trên các kênh như Facebook, Blog, youtube… về việc trang mạng phố Bolsa TV đăng tải clips một nhân vật thuộc loại “Bựa” nhất trong cộng đồng chống cộng cực đoan người Việt tại Hoa Kỳ đó là ông Ngô Kỷ. Nội dung bài phỏng vấn nói về Chủ Tịch Hồ Chí Minh với những ngôn từ xấc xược đã làm phẫn nộ những người Việt Nam chân chính cho dù ngay lúc này một bộ phận những người Việt Nam sống tại Hoa Kỳ họ vẫn tự coi mình là “Người Việt Quốc Gia” cũng không thể chấp nhận được những gì Ngô Kỷ đã nói. Phản ứng ngay sau đó của Phố Bonsa TV là có lời xin lỗi bạn đọc và gỡ bỏ Video clip đó. Đây cũng là một bài học cho cái gọi là “Truyền thông đa chiều” ở xứ Mỹ, họ đã vô tình “Quảng bá” cho những loại người như Ngô Kỷ.
Vậy thì tại sao những kẻ như Ngô Kỷ lại có những ngôn từ xuyên tạc, chửi rủa, hằn học, thâm thù, ấu trĩ về Hồ Chí Minh sặc mùi cực đoan đến như vậy? ở đây có phải là một sự ngộ nhận ? Xin thưa không phải như vậy, theo dõi các bài viết của rất nhiều vị nói xấu, bôi nhọ về Hồ Chủ Tịch trên các trang điện tử thì chúng ta nhận thấy ngay không khó khăn gì đó là các vị đó là ai?, đang làm gì? và nguyên nhân tại sao lại hành động như vậy. Họ thường dùng đủ lời lẽ, lập luận để vu cáo, xuyên tạc thậm chí dùng những ngôn từ côn đồ, chợ búa “đá cá lăn dưa”. Có hai hạng người trên cùng một “Chiến tuyến” này. Một là những kẻ vô công rồi nghề, nhân cách còn gọi Chí Phèo là “ông tổ” như Ngô Kỷ là một điển hình, những vị này biến mình thành “Lính đánh thuê” cho một số tổ chức chống cộng ở Hải ngoại, theo kịch bản đã dựng sẵn cứ “Đến hẹn lại lên” khi trong quốc nội có những ngày lễ lớn trọng đại hoặc như Đảng, nhà nước Việt Nam phát động phong trào “Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì những con rối này bắt đầu “Hành nghề” theo đơn đặt hàng một cách “Khí thế” nhất, làm sao cho không uổng đồng tiền bát gạo của kẻ thuê mình, có như vậy lần sau mới được sự tín nhiệm….Loại thứ hai tôi muốn nói đó là một số vị có trình độ học thức nhất định nhưng họ vẫn cố tình xuyên tạc, bôi nhọ một cách rất tinh vi. Những người này làm ra vẻ là những người “trong cuộc”, là những chứng kiến, là lấy kính lúp “Soi” từng góc cạnh, so đọ từng sự kiện được cho là bí ẩn thuộc tài liệu “Thâm cung bí sử” kiểu tiểu thuyết hậu cung lịch sử trung hoa, gật gân, huyền bí hòng dẫn người đọc lạc vào một mê hồn trận từ đó “bái phục” những vị này….vậy thì tại sao họ làm như vậy? mục đích gì? xin thưa chẳng qua cũng vì tư lợi mà thôi. tỷ như “sự kiện” năm 2009 một nhóm người làm một cái gọi là bộ phim tài liệu ““Sự thật về Hồ Chí Minh“ nội dung những luận điệu vu cáo, xuyên tạc lịch sử của những kẻ thực hiện bộ phim này đã bị rất nhiều những nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh ở trong nước và trên thế giới lên án. Với nội dung đơm đặt, các tình tiết bị bóp méo hòng gợi ý tò mò mục đích bán cho thật nhiều băng dĩa kiếm tiền, thế nhưng hỡi ơi! họ đã thất bại thảm hại ngay trên sân chơi của họ sau đó mớ băng dĩa này gởi cho không bà con trong cộng đồng mà chẳng ai muốn nhận bèn tống hết vào thùng rác. Cũng làm một bộ phim tư liệu về Hồ Chí Minh nhưng những người Mỹ họ đã nói lên điều gì với bộ phim “Hồ Chí Minh – bí ẩn Việt Nam” của Hãng phim History Channel (Mỹ)? Họ đã ca ngợi lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả của Hồ Chí Minh dành cho dân tộc Việt Nam, chứ không như những luận điệu vu cáo, xuyên tạc lịch sử của những kẻ thực hiện bộ phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh“, mặc dù có những đánh giá chưa đúng hết tầm vóc của Hồ chí Minh nhưng chúng ta dễ chấp nhận vì họ nhìn về một “Định hướng” khác. Những kẻ như Ngô Kỷ và một số vị ở hải ngoại theo tôi nghĩ họ không phải là sự ngộ nhận mà là ý đồ cố tình xuyên tạc. Như mọi người đều biết nếu họ thiếu thông tin mà dẫn đến ngộ nhận thì khác, mà ở đây họ đã thể hiện cái dã tâm đen tối bằng những giọng điệu cực đoan, chửi rủa, xấc xược hòng thể hiện ta đây dám đánh thẳng vào “Tượng đài” và nhảy múa vô tư trên “hệ tư tưởng” của cộng sản ta mới là anh hùng ?! mà một khi đã như vậy thì “Xin” gì cộng đồng cũng phải chiều mà thôi, nếu không họ sẽ chụp cho chiếc “Nón cối” thân cộng thì khốn khổ trong công việc làm ăn.
Tôi đã đọc một số bài viết, xem các clips loại này khá nhiều ở hải ngoại cũng như một số vị “Phản tỉnh” ở trong nước. nhưng theo tôi nghĩ. Sự phê bình hoặc chỉ trích nào cũng cần cái chất văn hóa, cái đó rất cần thiết vì nó tôn trọng độc giả và mới thể hiện tầm trí tuệ, thì sản phẩm đưa ra công chúng mới có tác dụng, và qua đó cũng có thể hy vọng làm cho đối tượng được phê bình, phê phán tâm phục khẩu phục. Nhưng ngược lại nếu phê phán một cách dung tục, bỉ ổi chửi cho sướng cái miệng như Ngô Kỷ thì không thể “tiêu hóa” nổi kể cả những người khác về quan điểm chính trị. Vấn đề xuyên tạc nói xấc xược về Hồ Chí Minh, tôi xin nói cho ông Ngô Kỷ biết rằng không phải vì lấy cái cớ “Nhà tui thâm thù cộng sản” như ông đã khoác lác mà xấc xược đến vị lãnh tụ của cả một dân tộc là không thể chấp nhận được. Hình ảnh của Hồ Chủ Tịch không ai có quyền xuyên tạc và xúc phạm bởi đó là hình ảnh một danh nhân văn hóa đã được Tổ chức Văn hóa và giáo dục Liên hợp quốc thừa nhận “Hồ Chí Minh như mọi người chúng ta mà thôi, nhưng cũng khác chúng ta bởi vì Hồ Chí Minh làm được tất cả những điều bình dị mà cao cả ấy một cách tự nhiên, hầu như dễ dàng như hít thở khí trời, như sinh ra là để làm những điều như vậy. Hồ Chí Minh là con người bằng xương bằng thịt ở ngay trước mắt chúng ta, ở trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước, chứ không phải là điều tưởng tượng, không phải thánh thần quanh quất đâu đây.”

Hoa Kỳ 4-10-2014
AMARI TX (John lee) – VHN.NET

Muối




Tác giả: Kim Dung/ Kỳ Duyên




Có gì đó như giận hờn cay đắng
Cứ chà đi xát lại ở lòng ta
Có gì đó như dở mưa dở nắng
Cứ quẩn quanh vần vũ góc trời xa

Muối của biển nuôi thế gian cười khóc
Muối của đời cho tình ta sâu nặng
Mỗi gian truân mặn chát kiếp người
Lại nhẹ nhàng buồm lộng giữa ngàn khơi

Muối của đời anh rạng rỡ ánh ngày
Muối đời em nhiều đắng đót thơ ngây
Mùa thu nay có gì xao xác quá
Trời thu xanh ngăn ngắt đám cỏ mây

Tình thu xanh hóa gừng cay muối mặn
Gió thu xanh gói gửi chút yêu này
Con tim bỗng rưng rưng dịu nhẹ
Thủ thỉ dần tan trống vắng hao gầy

Sao anh lại hẹn hò em từ kiếp trước
Để kiếp này muối mặn đời hai ta
Em ở đâu anh theo em ở đó…
Lời thu xanh quấn quýt đậm đà

Muối của gần gụi muối của cách xa
Muối mặn chát bỗng ngọt ngào
vị… muối

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2014

Cái Dũng của Thánh Nhân Chương 4 Lễ Độ





Thu Giang Nguyễn Duy Cần




Đừng tưởng lầm, lễ phép đặt ra là để làm phiền rộn đời người. Mặc dầu, nó kềm thúc hành vi chúng ta, về mặt điêu luyện. Điềm đạm, trong bước đường đầu phải cần đến nó rất nhiều.
Tín đồ của Điềm Đạm, trước hết, phải là một người lễ độ nhu nhã hết sức. Người lễ độ nhu nhã đúng mực là người khéo tự trị lấy những náo động nhất thời, những cử chỉ nóng nảy, những lời nói vụt chạc. Dẫu giận tức đến đâu, lễ độ buộc ta phải thản nhiên đừng tỏ vẻ thô tục cộc cằn. Kẻ thô lỗ, bất kỳ là trong thái độ hay lời nói, là kẻ còn sống trong thiên tính của loài vật, chưa biết tự chủ.
Người xưa sở dĩ quá chú trọng về Lễ, là vì muốn gìn giữ sự giao dịch giữa loài người, đừng phải có sự xô xát. Lễ, là để kiềm chế tự dục. Đời càng văn minh chừng nào, thì Lễ càng tính mật và đơn giản hơn chừng nấy.
Tuỳ tính chất của loài người, Âu hay Á đều có lối lễ phép riêng.
Người Á Đông, về lễ, lại nghiêm ngặt hơn Âu Tây rất nhiều. Phải nhớ: Á Đông và Âu Tây rất khác nhau về tính chất vì một đằng háo Tĩnh, một đằng háo Động. Đấy là nói chung về dân tộc. Bởi vậy, Lễ ở phương Đông, chủ về Tĩnh; Lễ ở phương Tây, chủ về Động.
Xem ngay trong cách thổ lộ chân tình: người phương Tây hành động theo tình cảm tự nhiên; người phương Đông cử chỉ trầm tĩnh dè dặt. Cha con, vợ chồng, bầu bạn xa nhau lâu ngày, gặp nhau vẫn không thấy bồn chồn rạo rực. Những cái xá dài, những lễ phép phiền phức, toàn là những cử động tự trị, không cho thổ lộ ra ngoài, tâm tình thường chịu ẩn hơn hiện. Cái đó, không phải giả dối, không phải lạt lẽo, không phải vô tình. Ấy là tự trị vậy.
Áo quần theo lễ của người Á Đông thường trọng quần dài áo rộng. Cái đó cũng có cái lý của nó.
Trong những cánh tay áo dài lụng thụng, quần áo thênh thang, người ta như bị nhốt trong một khuôn khổ hoạt động...Cử động con người trong bộ áo ấy, kể như bỏ rồi: Giận mà đi tới cũng khó khăn, sợ mà chạy lui cũng không tiện. Một cách kiên trì để có thời giờ suy nghĩ...
Lễ phép tuy đối với kẻ điềm đạm là một điều trở ngại cho tinh thần tự do; nhưng đối với kẻ chưa điềm đạm, kẻ còn bị tình dục và ích kỷ thống trị nơi lòng, thì nó là một cương kỷ đầu tiên rất cần thiết.
Lễ phép đây, tôi muốn nói những cách nhã nhặn, điềm đạm, dùng để kiềm thúc những cử chỉ náo động của tình dục như: nóng nảy, vụt chạc,v.v...
Dầu xử vào canh nào trái ngược đến đâu, cũng không lễ độ, đó mới thật là Lễ, Đừng hiểu lầm với những lối xã giao của bọn người xu viêm bôn cạnh, cốt dùng những câu thuận lòng đẹp ý nịnh hót bơm ngọt nhau. Với bọn người ấy gặp nhau, thì tha hồ là lời và lời, nói và nói. Trái lại kẻ nào không biết qua qua lợi lợi, dài chuyện nhiều lời, kẻ ấy, họ cho là kém lịch sự. Hiểu như thế, Lễ là thù địch của người điềm đạm. Những thói xã giao ấy, theo tôi, không phải là lễ độ, mà là những cử chỉ của bọn háo danh vụ lợi, Lễ của bọn "tôi đòi".
Dùng Lễ để kiềm chế náo động của tình dục là một việc, mà dùng Lễ để thoả mãn lòng tư dục lại là một việc khác, rất trái ngược nhau. Ta phải để ý phân biệt cho kỹ. Không thì, thay vì tìm đường giải thoát, ta lại sa vào nô lệ. Đó là vì mình lẫn lộn mà đảo ngược phương tiện làm cứu cánh vậy.
Người lễ độ, theo tôi, là người không bao giờ vô lễ với ai cả, mặc dầu người ta hết sức khiêm nhã với mình. Người ta thường bảo: kẻ bị nhục mà không biết thẹn, và trả thù, là người nhu nhược. Cho nên lắm khi, trong lòng không bất bình mà cũng vẫn phải làm ra dáng bất bình, kẻo phải bị kẻ khác khinh miệt. Cho nên người ta mắng mình, mình phải mắng lại, người ta đánh mình, mình phải đánh lại, đó là người anh dũng. Ta quên rằng: kẻ mắng ta, đánh ta, là kẻ không tự chủ. Nếu ta mắng và đánh lại, ta sẽ là kẻ ngang hàng với hạng người ấy hay sao? Đó là cái dũng của kẻ thất phu.
Người điềm đạm, ở trong trường hợp này, vẫn giữ gìn lễ độ, không vì người ta nhục mình mà chịu khuất thân làm kẻ tiểu nhân như họ. Danh dự thật ở nơi chân giá trị của mình, không phải là ở nơi lời khen tặng của con người.
Cho nên người ta khen hay chê, không phải vì đó mà giá trị mình tăng lên hay giảm xuống. Marc Auréla nói: "Cách trả thù hay nhất là đừng tự mình giống với kẻ dữ". Bacon cũng nói: "Trả thù là đứng ngang hàng với kẻ nghịch, tha lỗi là đứng trên kẻ ấy".
Theo phái Thiền môn (Zen), người ta thường dùng những cử động bất nhã một rất đột ngột, để thử lễ độ hay muốn nói cho đúng hơn, để thử sự điềm tĩnh của các đệ tử mới nhập môn.
Đụng chạm nặng nề đến bản ngã là một cách luyện tập thử thách tinh thần điềm đạm, vì Thiền, nghĩa là nó là tĩnh ngộ chớ không phải là ru ngủ. Những lối chiều chuộng thị dục của con người, như khen tặng, bưng bợ, những lối xã giao phiền phức của xã hội tạo ra, toàn là những cách ru ngủ tâm hồn bẩn chật của bản ngã.
Câu chuyện nhà võ sĩ trứ danh Tokiyori lúc mới vào xin làm đệ tử của phái Thiền môn, bị ông thầy mình bất ngờ đánh cho một bạt tai mà không biết giận là một chứng cứ của điều tôi đã nói trên. Tokiyori, một tay đánh kiếm có danh, sức mạnh ít người địch nổi, thế mà hờ cơ bị đánh phải một bạt tai, vẫn thản nhiên không biết giận, thật lòng tự chủ của ông đã đến bực! Ông tự thú: "Trước kia tôi vẫn tưởng tôi là người đại dũng, lúc mà trong tay cầm mấy vạn tinh binh đánh Nam dẹp Bắc; trước tôi không có một người nào dám cản đường. Thế mà khi phải bị đánh một bạt tai, tôi trấn tĩnh được ngay, quả tim tôi không đập mạnh, lòng tôi yên lặng như không có việc gì, bấy giờ, tôi mới cảm thấy cái khí độ hùng dũng trước kia, sánh với bây giờ, rất còn nhu nhược, hèn thấp đến bực nào. Tự chủ được cái lòng tự đại của mình mới là đại dũng đó".