Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

“Sự tái tạo phi thường của truyện cực ngắn”




ĐẶNG HÀ dịch theo "The Remarkable Reinvention of Very Short Fiction," Robert Shapard, World Literature Today

Truyện cực ngắn là một sự phục hưng hay một sự tái tạo? Để xác định một tác phẩm thuộc thể loại này, phải chăng chỉ cần căn cứ vào độ dài của nó? Và nếu không phải như vậy, thì để được xem là một truyện cực ngắn, tác phẩm ấy phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định nào? Trong chuyên đề về thể loại trên World Literature Today (WLT), bài tiểu luận này của Roberd Shapard đã phần nào phác ra được những kiến giải khác nhau có tính quốc tế trong việc giải quyết những câu hỏi trên. Một vài người có thể đồng tình với cách gọi truyện cực ngắn bằng cái tên “truyện chớp nhoáng” (flash), nhưng Shapard lại nhắc nhở chúng ta nhớ đến lời cảnh báo của Grace Paley: những truyện cực ngắn “cần phải được đọc theo cách mà chúng ta đọc một bài thơ, có nghĩa là, phải đọc nó thật chậm”.

Truyện cực ngắn có rất nhiều tên gọi khác nhau, đa dạng và biến đổi tùy theo độ dài của mỗi truyện, và hơn cả là phụ thuộc vào thói quen trong cách gọi của từng vùng/từng nước. Ở Mĩ, tên gọi phổ biến nhất của nó có lẽ là “flash” (truyện chớp). Còn ở Mĩ Latinh là “the micro” (vi truyện). Trung bình, một truyện cực ngắn có độ dài nhỏ hơn gấp mười lần so với một truyện truyền thống; nhưng tất nhiên, con số này hoàn toàn không phải là cái gì có thể nói lên tất cả. Bởi vậy mà tôi vẫn thích cách nói ẩn dụ mà Luisa Valenzuela sử dụng hơn:

“Tôi thường so sánh một cuốn tiểu thuyết cũng giống như là một loài động vật có vú. Nó thể còn hoang dã và chưa được thuần hóa như một con hổ dữ, hay cũng có thể đã bị chế ngự và thuần phục như một chú bò ngoan ngoãn. Nhưng với một truyện ngắn thì khác. Nó lại giống với một con chim hay một con cá nhỏ. Và cuối cùng, một truyện cực ngắn sẽ rất dễ gợi liên tưởng đến hình ảnh của một con côn trùng (những tác phẩm xuất sắc nhất cũng chính là loài côn trùng đẹp nhất mang sắc màu óng ánh)” [1].

Mức độ lan tỏa của “những con côn trùng tuyệt đẹp” này càng lúc càng rộng thêm lên trên toàn thế giới, đặc biệt là bắt đầu từ những năm 80 của thế kỉ XX. Điển hình như tại Mĩ chẳng hạn, số lượng các tuyển tập, hợp tuyển truyện cực ngắn cùng với những Pcuốn sách sưu tầm truyện vỉa hè được bán ra trên thị trường đã lên tới khoảng một triệu bản – tất nhiên, không thể đạt được tới vị trí best-seller như các đầu sách của John Grisham, nhưng dù sao, đó cũng thực sự là một con số rất đáng lưu ý. Rất nhiều diễn viên truyền hình cũng như diễn viên điện ảnh đã từng đọc trực tiếp cho công chúng nghe các tác phẩm truyện cực ngắn trên sân khấu Broadway. Không chỉ thế, nó còn được ghi âm lại để sau đó phát sóng trong chuyên mục “Truyện ngắn tuyển chọn” (Selected Shorts) trên Đài phát thanh công cộng Quốc gia. Các hội thảo quốc tế về chuyên đề “Truyện Mini” (Minifición) cũng đã được tổ chức ở Thuỵ Sĩ, Tây Ban Nha, Argentina và nhiều quốc gia khác. Đặc biệt hơn nữa, tại Anh, người ta quyết định lựa chọn riêng một ngày để làm Ngày truyện cực ngắn toàn quốc - National Flash Fiction Day (sự kiện này đã được ghi lại trên tờ “Người bảo vệ” – The Guardian). Một ngày kỉ niệm tương tự như vậy cũng đã được tuyên bố ở New Zealand.

Tuy nhiên, vẫn không thể phủ nhận được rằng, dường như rất ít người có thể đưa ra được những lí giải xác đáng về sức hấp dẫn đại chúng mạnh mẽ đến như thế của truyện cực ngắn. Hay thậm chí, cũng không nhiều người có thể hiểu được, các tác phẩm hư cấu nhỏ bé ấy – thực chất, chúng là những cái gì vậy? Phải chăng chúng chỉ là một thứ mốt thời thượng của kỉ nguyên Internet toàn cầu? Và dung lượng của chúng ngắn đến như thế cũng chỉ là bởi TV và mạng xã hội Twitter đã càng ngày càng làm co rút lại khoảng thời gian mà mỗi chúng ta có thể tập trung chú ý? Thế nhưng, nếu những kiến giải ấy về truyện cực ngắn có thực sự chính xác đi chăng nữa, thì Julian Gough – một tiểu thuyết gia Ireland được đánh giá rất cao ở Đức, cũng vẫn cho rằng: rất có thể, ta nên xem nó như là một dấu hiệu tốt lành. Trong tuyển tập “Truyện Châu Âu hay nhất năm 2010” (một truyện cực ngắn của chính Julian Gough cũng đã được lựa chọn để đưa vào đây), ông lưu ý rằng: Thế hệ của tôi, và tất nhiên, của cả những người trẻ hơn tôi nữa, không còn tiếp nhận thông tin qua một kênh hình thức kéo dài, chậm chạp, mạch lạc và giống như là những đơn vị khép kín tự thân (một bộ phim, một album ảnh hay một cuốn tiểu thuyết chẳng hạn); mà ngược lại, trong những dạng thức bùng nổ đột ngột và chớp nhoáng, với sự chuyển đổi đầy ngẫu hứng của những kiểu thông tin hoàn toàn khác nhau (được thể hiện rất rõ qua các thao tác chuyển kênh liên tục mỗi khi xem ti-vi hay cách chúng ta lướt từ trang web này sang trang web khác trên màn hình Ipod). Có thể thấy, sự thay đổi này trong cách tiếp nhận thông tin là nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi trong cách ta đọc các tác phẩm văn học (ở đây là truyện kể), và do đó, tất yếu sẽ làm thay đổi cách chúng ta viết nó. Nhiều người phàn nàn về điều này như là một thảm hoạ. Nhưng hoàn toàn không phải như vậy. Ngược lại, nó mở ra một cơ hội mới. Chúng ta được tự do sáng tạo nên những điều hoàn toàn mới mẻ – những gì mà chỉ đến thời điểm này mới có thể thực sự được nhận thức. Một truyện truyền thống (được kể đi kể lại đến hàng chục nghìn lần), để có thể thu hút độc giả, buộc phải chấp nhận bị làm thương tổn, bị bóp méo đi trong mỗi lần lặp lại. Truyền hình và Internet đã tìm được cách để đối phó lại với sự khủng hoảng này mà vẫn giữ được sức hút với công chúng. Nhưng truyện kể thì chưa làm được điều ấy. [3]

Hãy nghe lời khuyên của Gough dành cho các nhà văn trẻ: “Phải biết học hỏi từ The Simpsons, chứ không phải là từ Henry James”.

Có thể nói, hầu hết chúng ta đều quen đánh đồng “truyện hư cấu văn học” (literary fiction) với tiểu thuyết (mà chắc chắn, không thể coi The Simpsons là một tiểu thuyết được!). Sự tuỳ tiện này có lẽ là một trong những nguyên nhân chính đã khiến cho truyện cực ngắn, mặc dù là một thể loại có thể đem đến cho người viết sự tự do đáng kể, nhưng lại giành được rất ít sự lưu ý từ phía các nhà phê bình. Mối quan tâm của giới phê bình đối với thể loại này cũng thoảng qua, thoáng chốc như chính sự ngắn ngủi chớp nhoảng của mỗi tác phẩm vậy. Tuy nhiên, chỉ cần dừng lại suy ngẫm để nhìn thấu vấn đề hơn, chúng ta sẽ có được một sự hình dung khác hẳn. Vì thực chất, truyện cực ngắn đã được viết bởi các học giả vĩ đại từ rất lâu trước khi tiểu thuyết xuất hiện. Ngay từ thời La Mã cổ đại đã có những truyện ngắn – ngắn của Petronious. Còn đến thời trung cổ thì phải kể đến Marie de France. Có nghĩa là, cần thừa nhận một sự thật rằng, phải mãi đến thời của Defoe (ít nhất là trong khối các nước nói tiếng Anh) thì tiểu thuyết – khi ấy, được xem như là phương thức tồn tại tiêu biểu của tự sự hiện thực chủ nghĩa – mới bắt đầu giành được vị trí thống trị trong các thể loại văn hư cấu. Nhưng rồi, đến thế kỉ XX, rất nhiều nhà văn lớn có thể dẫn ra ở đây như Borges, Cortázar, Walser, Kafka, Buzzati, Calvino, Dinesen và Kawabata đã chọn con đường quay trở về với việc viết các tác phẩm rất ngắn. Từ những làn sóng ngầm ấy đã dần dần dẫn đến sự nở rộ của trào lưu viết truyện cực ngắn khởi nguồn từ Greenland và lan tới tận Indonesia với rất nhiều tên gọi khác nhau: nanos,micros, suddens, và flash. Phải chăng họ đang muốn tạo nên một thời kì Phục hưng của thể loại này – điều mà chỉ tới bây giờ mới có thể thực hiện được, bằng vào quyền năng vô bờ của mạng Internet?

Câu trả lời là đúng, nhưng đồng thời, cũng lại là sai. Bởi trong suốt một thời gian dài ở Mĩ, đã tồn tại một kiểu truyện truyền thống duy nhất là loại truyện một trang (one-page story) xuất hiện trên các tạp chí dành cho người tiêu dùng như “Ladies Home Journal” (Phụ nữ gia đình). Dùng từ “truyền thống” (tradition) có thể không được chính xác, nhưng ở đây, tôi muốn đặc biệt lưu ý tới một đề án nghiên cứu có tính trường hợp tại Đại học California đối với tạp chí này, tập trung vào việc nó luôn dành đúng một trang trong tất cả các số báo để đăng những truyện ngắn hoàn toàn tương tự như nhau. Trong các truyện ấy, những chi tiết về bối cảnh và nhân vật thì có thể thay đổi, nhưng bao giờ cũng vẫn là những cốt truyện đồng dạng, với những tình tiết ngoắt ngoéo và tuân thủ lối kết thúc có hậu.

Nhưng, cho đến năm 1985, khi tôi và James Thomas bắt đầu công việc thu thập những truyện cực ngắn cho cuốn hợp tuyển “Sudden Fiction”, một loạt các tác phẩm mang tính thử nghiệm đã bất ngờ xuất hiện liên tục trên các tạp chí văn học, đến mức tạo thành được cả một làn sóng kéo dài suốt cả một thập kỉ. Chúng được sáng tạo hoàn toàn tự do, không phải tuân theo bất cứ một khuôn sáo nào trước đó, và bởi vậy, không chỉ khiến cho người đọc phải ngạc nhiên, bất ngờ, mà còn luôn luôn thách thức. Có những truyện vẫn tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc của tiểu thuyết hiện thực, nhưng đã đẩy nó lên một cấp độ hoàn toàn khác. Nhiều tác phẩm lại lấn dần vào địa hạt của siêu-hư cấu, ví dụ như một sáng tác vừa hài hước vừa cảm động của Grace Paley: “Người mẹ” (Mother). Truyện bắt đầu bằng lời của người trần thuật, tự nói rằng cô ta bao giờ cũng chỉ muốn sẽ kết lại những câu chuyện mà mình đang kể bằng một cụm từ duy nhất “và sau đó bà ấy chết”; tuy vậy, sẽ nỗ lực hết sức bằng cách này hay cách khác, để khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng cho dù đã liên tục gặp đi gặp lại những lời kết tương tự như vậy. Nhiều truyện khác lại đẩy nhanh tình tiết đến mức gần như vô lí, ví như một tác phẩm nổi bật của Robert Fox: “Ngụ ngôn” (A Fable), kể về một người đàn ông trẻ trên một chuyến tàu điện ngầm. Anh ta đang vô cùng hạnh phúc, vì thứ nhất, đây là chuyến đi làm đầu tiên của anh tới một nơi trong thành phố; và thứ hai, anh ta vừa bất chợt chìm đắm vào tình yêu cùng một cô gái trẻ xinh đẹp ngồi đối diện. Hai người đã kết hôn với nhau bởi một người bán vé trước cả khi tàu đến trạm dừng chân tiếp theo. Tuy vậy, bên cạnh những xu hướng mới ấy, cũng vẫn phải kể đến các tác phẩm có phần lạc hậu hơn, giống như truyện “Những dòng chảy” (Currents) rất xúc động của Hannah Voskuil chẳng hạn. Truyện không được kể theo dòng hồi tưởng (với điểm quy chiếu là hiện tại) mà vẫn trong hình thức của những đoạn văn ngắn tiếp nối nhau như những bước chân trong một cuộc hành trình cứ xa dần và càng lúc càng xa hơn nữa về quá khứ.

Những tác phẩm như thế này không phải là một sự phục hưng từ những hình thức văn học cổ xưa. Ngược lại, chúng thực sự là những nỗ lực để có thể một lần nữa, sáng tạo lại truyện kể.

Rất nhiều nhà văn, khi được chúng tôi hỏi về thể loại truyện hư cấu mới mẻ này, đều bộc bạch những suy ngẫm về mối quan hệ của nó đối với các thể loại văn học khác. “Dạng thức tiết tấu của truyện cực ngắn”, Joyce Carol Oates cho rằng, “gần với phong khí thi ca hơn là văn xuôi truyền thống. Bởi văn xuôi truyền thống, nói chung, thường có xu hướng mở rộng ra để kịch hóa kinh nghiệm và khơi dậy cảm xúc. Trái lại, trong cái khoảng không gian hẹp nhất, chật chội nhất của truyện cực ngắn, thì kinh nghiệm chỉ có thể tồn tại ở dạng hàm ẩn”.[4]

Những người khác, như Russell Banks, lại cố gắng dò xét về nguồn gốc của hình thức thể loại:

Nó là chính bản thân nó. Nó khác hẳn về bản chất so với truyện ngắn truyền thống, nhưng lại có vẻ gần gũi hơn với thể thơ Xo-nê Pháp (sonnet) hay thơ trữ tình Batư (ghazal). Có nghĩa là, cũng giống với hai thể thơ này, trong truyện cực ngắn luôn luôn có những sự vận động nhanh chóng theo các chiều hướng đối lập (hay cũng có thể nói là những vận động mang tính biện chứng), và sau đó là sự thực hiện bước nhảy một cách quyết liệt để có thể giải quyết triệt để mọi mâu thuẫn. Chính đặc trưng này đã khiến cho mỗi tác phẩm truyện cực ngắn có thể mang tới cho người đọc một trạng thái băn khoăn và hoang mang cực độ trong sự thỏa mãn khoái cảm nghệ thuật một cách đặc biệt. Nguồn gốc, hay nói cách khác, sự đòi hỏi của các tác phẩm như thế về hình thức, theo tôi, dường như cũng giống như là yêu cầu về hình thức đối với những dụ ngôn Bắc Âu, những công án Thiền hay những truyện kể Hồi giáo – nơi mà ngôn ngữ và ý niệm siêu hình gần như đang bị túm lấy và siết chặt trong tay các đô vật Hi Lạp. Nó hoàn toàn khác với sự cần thiết về hình thức để có thể tạo ra một cuốn tiểu thuyết hay thậm chí, một truyện ngắn – ở đây, ngôn ngữ không phải chịu những áp lực như vậy. Trái lại, nó có thể hòa quyện một cách thanh bình với mọi vấn đề khoa học xã hội, và bởi vậy mà có thể ví các dạng thức này cũng giống như là một sự sung túc trưởng giả vậy.

Khi tôi cùng với James Thomas tiếp tục công việc sưu tầm của mình, chúng tôi chợt nhận ra rằng: một tác phẩm càng ngắn bao nhiêu thì sự chất vấn những quy phạm “truyền thống” về đặc trưng thể loại truyện ngắn (mà thực chất, chủ yếu bị chi phối từ cái nhìn của chủ nghĩa hiện thực) lại càng được đặt ra ráo riết bấy nhiêu. James nêu lên nghi vấn: “làm sao mà một truyện cực ngắn có thể vẫn bị quy về hay vẫn cứ tiếp tục trung thành với lối truyện truyền thống được?”. Cũng chính bởi vậy mà ông đã lựa chọn nhan đề “Flash Fiction” để đặt cho một tuyển tập các tác phẩm mới được xuất bản năm 1992. Jerome Stern còn đẩy ý tưởng này đi xa hơn nữa trong hợp tuyển của ông: “Micro Fiction” (1996). Ở đây, những truyện được Stern lựa chọn chỉ có dung lượng nhỏ hơn hoặc bằng một nửa so với các tác phẩm “flash fiction” theo tiêu chí của James. Cho đến một vài năm sau nữa, khi Internet đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống của chúng ta, các trang báo mạng bắt đầu hình thành càng ngày càng nhiều, và nổi lên cùng với nó là những tác phẩm hư cấu, có thể nói, gần như chưa bao giờ được rút ngắn đến như vậy. Những luật tắc mới dần dần được đặt ra cho trò chơi; và tất nhiên, xuất hiện thêm cả những tên gọi mới như: “quick fiction” (truyện nhanh), “nano fiction” (truyện cực tiểu), và “hint fiction” (truyện nhỏ xíu),...Nhiều ý kiến phê bình về các sáng tác ngắn cũng bắt đầu được đăng trên các trang web như DoubleRoom và FlashFiction.Net. Thế nhưng, không phải phê bình mà chính việc thực hành và sáng tạo mới luôn là vấn đề được chú trọng đến nhiều nhất ở Mĩ - chủ đề thu hút được sự quan tâm lớn nhất về “flash fiction” là: phải viết nó như thế nào?. Chẳng có gì là đáng ngạc nhiên khi hầu hết tất cả các sinh viên đều thích thú khi thử viết một truyện flash một trang hơn là phải viết một tác phẩm truyện truyền thống dài tới tận 50 trang.

Nhưng liệu rằng đây có phải là cách tốt nhất để học viết? Có thể, đúng là như thế. Hãy thử xem xét trường hợp của Jayne Anne Phillips: danh tiếng của bà gắn liền với một bộ sưu tập huyền thoại truyện cực ngắn mang tiêu đề “Những tấm vé đen” (Black Tickets). Và tiểu thuyết gần đây nhất của Jayne – “Chim chiền chiện và con mối” (Lark and Termite), đã lọt vào vòng chung khảo ở cả Cuộc thi sách toàn quốc theo đánh giá của giới phê bình (National Book Critics Circle Award) cũng như ở Giải thưởng sách quốc gia (National Book Award). Từng là một nhà thơ trẻ từ rất lâu trước khi mạng Internet trở nên phổ biến, Anne Phillips đã biết cách tự trau dồi kĩ năng viết của chính mình thông qua việc sáng tác các truyện hư cấu một trang. Theo bà, bằng cách này, người viết có thể tìm thấy được một sự tự do “ngầm ẩn và đầy tính lật đổ” qua mỗi đoạn văn, khi từng bước làm đầy cái hình thức “ngây ngô và tầm thường” của nó bằng những ý tượng trữ tình và mãnh liệt được xây dựng trong một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Jayne cho rằng: “Các truyện ngắn một trang thực sự hay thường được xây dựng theo kết cấu hình xoáy ốc: ngôn từ xoay xung quanh và mở rộng dần biên độ của vòng quay ra bên ngoài một hạt nhân trung tâm cô đặc được giấu kín. Và theo đó, sự chuyển động theo đường xoáy ốc được thực hiện thông qua ngôn ngữ, dần dần vượt ra bên ngoài cả những đuờng biên của một trang giấy”. “Nhanh, chính xác, khi thì ở bên trong, khi lại vượt thoát khỏi các giới hạn”, bà nói tiếp, “truyện ngắn một trang trôi lơ lửng trong bầu khí quyển của tâm hồn, giống như thể là một hình ảnh được làm bằng khói thuốc”. [5]

Mặc dù là một nhà văn chuyên viết thể trữ tình, Phillips vẫn luôn nhắc nhở sinh viên của bà rằng: các tác phẩm hư cấu một trang cần phải được coi là những truyện kể thực sự (real stories). Nhưng, cái gì là điều kiện cần để nột tác phẩm có thể được coi là “truyện kể thực sự”, hay nói cách khác, những yêu cầu tối thiểu của truyện kể là gì? Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta cần có một tầm nhìn rộng hơn nữa, không chỉ dừng lại trong phạm vi nước Mĩ.



Cách đây vài năm, một Hội thảo toàn cầu về truyện cực ngắn đã được tổ chức tại thành phố trung tâm trực thuộc tỉnh Newquén, Argentina, với sự tham dự của hàng trăm học giả đến từ khắp nơi trên thế giới: Áo, Tây Ban Nha, Mexico, Brazil, Jamaica,…Việc mở cửa các giảng đường của trường đại học địa phương để phục vụ cho Hội thảo này kéo dài tới tận những ngày cuối xuân tươi sáng của tháng 11. Tôi cũng đã ở đó, với vốn tiếng Tây Ban Nha ít ỏi, dù vậy, thật dễ dàng để có thể hiểu được niềm đam mê, tinh thần hài hước và cả sự sáng suốt trong nỗ lực tạo lập một vị trí chính đáng của truyện cực ngắn trong nghiên cứu văn học và nghiên cứu văn hoá. Nhìn một cách tổng thể, truyện cực ngắn Mĩ Latinh thường ngắn hơn so với truyện cực ngắn Mĩ. Và những câu hỏi xoay xung quanh chúng về việc một truyện kể có thể ngắn đến mức độ nào cũng thường được quan tâm ít hơn so với vấn đề liệu tất cả các tác phẩm hư cấu cực ngắn ấy có cần thiết phải được xem là những truyện kể hay không?. Mặc dù vậy, truyện cực ngắn Mĩ Latin (thường được gọi là micro hayminificción), cũng giống như sudden hay flash, đều không chịu bó buộc bởi bất kì một giới hạn thể loại nào. Nó có thể tự do tìm đến tất cả các dạng thức biểu hiện từng có – chủ nghĩa hiện thực, siêu hư cấu, truyện kì ảo, truyện ngụ ngôn, dụ ngôn, giai thoại,...

Chẳng hạn, hãy cùng xem xét một tác phẩm nổi tiếng của Julio Cortázar: “Sự nối dài của những công viên” (A Continuity of Parks), trong đó, nhân vật là một người đàn ông đang đọc một tiểu thuyết trinh thám kể về một người đàn ông khác đang quyết tâm thực hiện một vụ án mạng; hắn đi xuyên qua công viên thành phố, đột nhập vào trong một căn hộ, và, với con dao lăm lăm trên tay, lặng lẽ tiến sát lại gần phía sau chính người đàn ông đang đọc cuốn truyện trinh thám ấy. Có thể xem đó là một tác phẩm thuộc kiểu truyện có tính bí ẩn, thách đố và gần như giao thoa với truyện giả tưởng (ở một ý nghĩa sâu xa hơn, đây có lẽ còn là ẩn dụ cho chính hành động đọc) – yếu tố này trong các truyện Mĩ Latin là lí do khiến cho người ta yêu thích nó: nằm ở bên lề so với truyện hư cấu truyền thống, nhưng vẫn phải thừa nhận nó là một tác phẩm tự sự hay một truyện kể. Còn bây giờ, chúng ta hãy xem đến một sáng tác thuộc kiểu truyện viết lại (reescritura) có độ dài mười hai từ (một dạng thức cực kì phổ biến của truyện mini với nội dung hướng đến việc viết lại những văn bản nổi tiếng) được viết bởi nhà văn Mexico Edmundo Valades, có nhan đề là “Cuộc tìm kiếm” (The Search): (Những tiếng còi báo động điên cuồng tru lên khi đi lang thang khắp thành phố trong cuộc truy lùng Ulysses)

Điều đầu tiên buộc chúng ta phải chú ý đến là sự miêu tả đầy ấn tượng về những âm thanh, mà có lẽ, là tiếng còi của xe cứu thương trong một thành phố hiện đại. Nhưng, người đọc còn bất ngờ hơn nữa khi nó đột ngột dừng lại với cái tên Ulysses, kéo ngược mọi liên tưởng trở về với một truyện kể cổ xưa, trong đó, người anh hùng Ulysses đã tự nguyện trói mình vào một cột buồm để chống lại sự quyến rũ của các mĩ nhân ngư đang ra sức dụ dỗ con thuyền của chàng lao vào những tảng đá. Sự gợi nhắc đầy bất ngờ này không chỉ mang lại hiệu ứng gây choáng váng cho độc giả mà còn khiến chúng ta không thể không đặt ra những câu hỏi để nghiền ngẫm lại một tác phẩm tưởng như đã trở nên xưa cũ. Có lẽ nào, thực ra, các mĩ nhân ngư đã phải chịu đựng một lời nguyền khốn khổ, bị bắt buộc làm nhiệm vụ kiếm tìm vĩnh viễn sự trốn chạy của Ulysses, thậm chí ngay cả trong một thành phố hiện đại? Ai là người đang nói với chúng ta điều này? Ta cũng có thể nghĩ về Leopold Bloom của Joyce, người đại diện cho những kẻ thường dân thời hiện đại – phải chăng những tiếng còi/những nàng tiên cá vẫn đang tìm kiếm anh ta, hay đang hướng về chính người kể chuyện, hoặc cũng có thể là đang truy lùng tất cả chúng ta? Khi sự suy ngẫm của người đọc cứ mở rộng dần ra thêm mãi, chúng ta gần như sẽ hoàn toàn quên mất rằng: mười hai từ của “Cuộc tìm kiếm” (The Search), thậm chí, còn không đủ khả năng để tạo nên nổi một câu hoàn chỉnh. Vậy mà, như một nghịch lí, nó chứa đựng được ở trong nó cả một thiên sử thi. Và dù thế nào, thì câu hỏi cuối cùng cũng vẫn là: với những đặc điểm ấy, nó thực chất có phải là một truyện kể hay không?

“Cuộc tìm kiếm” là tác phẩm tôi mới tìm được khi đọc một nghiên cứu của Colin Peters:“Truyện mi-ni: một trường hợp nghiên cứu cấu trúc truyện kể” (Minificción: A Narratological Investigation), do trường Đại học Viên xuất bản. Nghiên cứu này không chỉ gợi nhớ đến công trình của các nhà Tự sự học cấu trúc đã tham dự cuộc hội thảo ở Argentina như Lauro Zavala và David Lagmanovich, mà còn gián tiếp nhắc lại những ý kiến của Gérard Genette, Tzvetan Todorov, Roland Barthes và Shlomith Rimmon-Kenan – những người cùng cho rằng, yêu cầu tối thiểu của một tác phẩm tự sự là nó bao giờ cũng phải có ít nhất từ hai sự kiện trở lên. (Cũng có thể cảm nhận được âm hưởng của nhận định này qua lời tuyên bố nổi tiếng của E.M.Forster trong bài giảng của ông tại trường Đại học Oxford năm 1927: “Nhà vua băng hà, và ngay sau đó, hoàng hậu qua đời – chỉ cần như vậy, nó đã được coi là một truyện kể”). Có thể thấy, theo tiêu chí này, “Cuộc tìm kiếm” không phải là một truyện kể. Tuy nhiên, Peter vẫn chấp nhận việc xem nó như là một truyện mi-ni (minifición). Ông đơn giản chỉ đi đến kết luận rằng: tính tự sự là không cần thiết đối với thể loại này.

Thế nhưng, không dừng lại ở đó, một nhà nghiên cứu người Peru là Julio Ortega (làm việc tại trường đại học Brown), đã cố gắng lập luận để đưa ra được một nguỡng thấp hơn cho định nghĩa truyện kể - nó có thể chỉ dựa trên một sự kiện duy nhất:

Truyện cực ngắn đầu tiên mà tôi đã từng đọc được ở đâu đó, gần giống với kiểu lời nói xuất hiện trên một tấm thẻ khắc chữ Ai Cập cổ đại, chỉ là một lời tuyên bố rằng: “John đã ra ngoài trên một chuyến đi” (John went out on the trip). Làm thế nào để chúng ta xác định được đây là một truyện cực ngắn (flash fiction) chứ không phải là một lời thông báo đơn thuần? Có lẽ là bởi chẳng có bất cứ một ai, trong một khoảng thời gian nào đó, có thể rời bỏ thị trấn của mình chỉ bằng ý muốn của chính anh ta. Không chỉ thế, trong dạng thức một câu nói, tác phẩm thể hiện đầy đủ đặc trưng tu từ ở mức độ cao của truyện cực ngắn: thứ nhất, nó có một nhân vật (tôi gọi anh ta là “John”, nhưng cũng có thể anh ta phải có đến hàng ngàn hàng vạn cái tên khác nhau); thứ hai, ở đây có một hành động chi phối (việc kể chuyện hoàn toàn diễn ra trong thì hiện tại); và tất cả những gì đang được trình bày hay được nói tới cũng đều diễn ra tại thời điểm đó. Một điều không kém phần quan trọng nữa là tác phẩm đảm bảo một nguyên tắc gần như không thể thay đổi đối với bất kì một truyện kể nào – đó là sự phá vỡ luật tắc. John có vẻ như là một kẻ phiêu lưu dám đứng lên chống lại quyền lực, để rồi quyết định ra đi – khám phá – và nhận thức.[7]

Những tiêu chuẩn trên về truyện kể phải chăng cũng hoàn toàn có thể được áp dụng cả cho tiểu thuyết? Như một tiểu thuyết gia người Anh từng đoạt giải Pulitzer, Olen Butler (chính ông cũng từng viết rất nhiều truyện cực ngắn) đã nói: “Truyện kể là hình thức nghệ thuật của những niềm khao khát đầy tính nhân văn, điều ấy không phụ thuộc vào việc các tác phẩm hư cấu đó dài hay ngắn”.[8]

Tôi đồng ý với nhận định của Butler. Thực ra, đây mới chính là vấn đề trọng tâm. Tôi làm công việc sưu tầm truyện cực ngắn, nhưng lại thường thấy thích thú vô cùng khi bị cuốn hút và hoá thân hoàn toàn vào một cuốn tiểu thuyết. Làm sao mà một người đọc có thể hoà mình vào một truyện ngắn chỉ có một trang được? Thế nhưng, đôi khi tôi lại muốn có được cả hai trạng thái ấy: tính dữ dội của truyện cực ngắn và sự cảm nhận đối với tiểu thuyết. Có lẽ vì thế mà tôi thích hơn cả là những truyện ngắn có độ dài khoảng tầm bốn đến năm trang. Rất nhiều nhà văn tuyệt vời cũng thích độ dài này của truyện kể - các tác giả đã từng đoạt giải Obies, Oscars, Pulitzers và thậm chí cả giải Nobel nữa.

Nhưng hình như chúng ta đang chỉ muốn tập trung hướng đến luận bàn về những tác phẩm cực kì ngắn mà thôi. Thế nên, thật thích hợp khi dành những lời cuối cùng (theo nghĩa đen) cho Guillermo Samperio, một nhà văn người Mexico, tác giả của truyện cực ngắn “Phantasma” (Ảo ảnh hay, Bóng ma) – một tác phẩm chẳng có bất cứ một chữ nào cả, chỉ duy nhất có một cái tiêu đề, và tiếp sau nó là một trang giấy trắng.

Sự lựa chọn của World Literature Today (WTO) về việc đăng các truyện cực ngắn cũng phức tạp và đa dạng như bạn có thể gặp ở bất cứ đâu. Những tác phẩm này, được viết bởi mười một tác giả đến từ mười quốc gia khác nhau, có dung lượng dao động từ “sudden” (khoảng 2 trang) đến “flash”(khoảng 1 trang) và cho tới cả “micro” (từ ½ trang trở xuống). Nếu như truyện của Carmen Boullosa có thể xem là một giai thoại, thì sáng tác của Josefine Klougarl là một bài thơ văn xuôi, của Hisham Bustani là một lời vận động chính trị; và tác phẩm của Vanessa Gebbie thì thực đúng là một truyện cực ngắn thuần tuý – bút pháp mô tả sinh động của nó không nhằm vào mục đích giải thích mà hơn thế, hướng đến việc khơi gợi và làm bật lên một câu chuyện. Chúng tôi cũng không bỏ qua các sáng tác của Andrés Neuman và Lili Potpara, chúng đều vô cùng giản dị, dễ hiểu nhưng lại có khả năng mang đến cho người đọc nhiều phức hợp cảm xúc không dễ gì có thể diễn đạt thành lời được. Truyện cực ngắn của Luis Jorge Boone lại thể hiện một sự sùng kính đối với Jorge Luis Borges (hãy chú ý chi tiết “những mê cung” ở phần cuối tác phẩm). Không chỉ thế, dường như truyện cực ngắn nào cũng mang tính thách thức trí tuệ và năng lực nhìn của mỗi chúng ta. Ví dụ như, “Nhiều thêm nữa những siêu anh hùng đích thực” (More True Superheroes) đặt ra câu hỏi: đặc tính phi thường thực chất là gì; hay “Theo sự dẫn dụ của các nhà tu” (On the Conductivity of Monks) lại nêu lên được những tra vấn về mối quan hệ giữa các văn bản được vay mượn và các truyện kể hư cấu. Nếu bạn là một người mới bước đầu tiếp cận với thể loại truyện cực ngắn, hãy lưu ý tới một lời cảnh báo rằng: các tác phẩm ấy quá ngắn, đến mức chúng thường dễ dàng bị bỏ qua. Vì vậy mà Grace Palley mới nhắc nhở: “chúng cần được đọc như một bài thơ, có nghĩa là, phải thật chậm” – và nếu như bạn cảm thấy chưa được thoải mái bởi một nỗi băn khoăn khó hiểu nào đó khi đọc chúng, hoặc ngược lại, thực sự thấy thích chúng, thì một trong những điều thú vị nhất mà truyện cực ngắn có thể mang đến cho chúng ta là nó chỉ đòi hỏi ở bạn rất ít thời gian để đọc lại và suy ngẫm lại một lần nữa.



Đ.H





......................



1. Robert Shapard, James Thomas, and Ray Gonzalez, eds., Sudden Fiction Latino: Short-Short Stories from the United States and Latin America (W. W. Norton, 2010), 20.

2. David Gaffney, “Top Flash Fiction Writing Tips: David Gaffney,” Guardian, May 15, 2012(www.guardian.co.uk/childrens-books-site/2012/may/15/flash-fiction-tips-david-gaffney?newsfeed=true [5]).

3. Aleksandar Hemon, ed., Best European Fiction 2010 (Dalkey Archive Press, 2009), 374–75.

4. Robert Shapard & James Thomas, eds., Sudden Fiction: American Short-Short Stories (W. W. Norton, 1986), 247 (Joyce Carol Oates), 244–45 (Russell Banks).

5. Jayne Anne Phillips, “‘Cheers,’ (or) How I Taught Myself to Write,” in The Rose Metal Press Field Guide to Writing Flash Fiction, ed. Tara L. Masih (Rose Metal Press, 2009), 36, 37, 38.

6. Colin Peters, “Minificción: A Narratological Investigation,” PhD diss., Univerität Wien, September 2008. Page 110 has the minificción “La búsqueda,” by Edmundo Valadés: “Esas sirenas enloquecidas que aúllan recorriendo la ciudad en busca de Ulises.” My translation, entitled “The Search”: “Those maddened sirens that howl roaming the city in search of Ulysses.”

7. Julio Ortega, “A Flash before the Bang,” in The Rose Metal Press Field Guide to Writing Flash Fiction, ed. Tara L. Masih (Rose Metal Press, 2009), 150–51.

8. Robert Olen Butler, “A Short Short Theory,” in The Rose Metal Press Field Guide to Writing Flash Fiction, ed. Tara L. Masih (Rose Metal Press, 2009), 102.

Ngọt ngào ngày xửa ngày xưa...





.Y NGUYÊN



Ngày xửa ngày xưa…

Ấy là cái khởi đầu của cổ tích, khởi đầu cho chuyến phiêu lưu dài hơi của tuổi thơ trong lòng bà, lòng mẹ đến những cảnh giới lung linh, huyền ảo nhiều mơ lắm mộng, nơi mọi ước muốn bất khả thi của kiếp người đều có cơ may hóa khả thi. Chính thế mà cổ tích luôn luôn là Hứa địa với tuổi thơ . Nói nôm na thì sắc cổ tích luôn đẹp, hương cổ tích luôn thơm. Còn vị? Đương nhiên là ngọt; ngọt đến… lịm người! Nói thế còn chưa đủ độ hình dung. Phải gọi đó là cái ngọt ngào “bất khả tư nghị”, tức thị không thể nghĩ bàn, ai chưa ăn thì đố biết.



Mà thôi, nói chưa ăn thì buồn quá. Còn nỗi bất hạnh nào hơn bất hạnh không có tuổi thơ. May, con không thuộc vào trong số đáng buồn trên. Con mồ côi cha, mồ côi bà nhưng vẫn còn mẹ, nghĩa là vẫn còn có một phần tuổi thơ, vẫn biết thế nào là cái vị ngọt ngào ngày xửa ngày xưa…

Ấy là những đêm đông rúc đầu trong chăn, hít hà mùi mồ hôi thân thuộc tỏa ra từ áo mẹ - hay những đêm hè nồng nực ôm chiếu ra sân, ra thềm mà trải - câu cửa miệng của đứa trẻ thơ bao giờ cũng là: “Mẹ, mẹ kể chuyện đời xưa…”. Và mẹ, dù có díp mắt vì buồn ngủ, dù có mỏi mồm vì suốt ngày bận rộn la rầy quát tháo lũ con lêu lổng, vẫn không bao giờ nỡ để đôi mắt trẻ thơ đợi chờ trong đêm phải cụp xuống vì thất vọng. Vậy là cố gắng mà moi móc, mà sành soạn cái kho chuyện đời xưa đã dày công tích cóp đâu tận một thời lâu lắc, và ôm con, và thủ thỉ bắt đầu: Ngày xửa ngày xưa…

Có ai biết rằng, mẹ đang đem kí ức ngày xưa của mình cố làm khả thi cái khát vọng ngày nay của đứa con yêu, một nỗ lực tưởng chừng như không tưởng. Ấy vậy mà mẹ thành công, hầu như luôn thành công, bởi con tin mẹ lắm. Con tin lời dẫn chuyện ngọt ngào đằm thắm của mẹ chính là lời cô tiên trong cổ tích (mà, có khi cả mẹ cũng là… cô tiên, ai mà biết được). Cổ tích của mẹ thường là kết thúc có hậu, hay nếu nó không có hậu thì (sau này mới biết) mẹ cũng cố xoay xở làm sao để thêm vào cho con cái hậu, chính thế mà con luôn thỏa mãn, luôn vừa lòng khi chuyện đi vào hồi kết. Và con yên tâm chìm vào giấc ngủ yên bình không bứt rứt, trở trăn. Và, cũng không biết bao nhiêu lần, cổ tích mẹ hóa thân thành giấc mơ con để con được chính thức sống cùng cổ tích, được hạnh phúc trọn vẹn, đủ đầy dẫu chỉ là hạnh phúc trong mơ…

Sau này khi lớn lên, biết chuyện thêm thắt, con hỏi mẹ vì sao, mẹ cười: Con người ta bất hạnh ngoài đời đủ rồi, đừng nên bất hạnh cả trong mơ… Mẹ dừng, không nói thêm và con cũng chẳng hỏi gì thêm.

…Không! Mẹ ơi, con không bất hạnh nhiều như mẹ nghĩ đâu, bởi con còn có mẹ. Con còn có một tuổi thơ ngọt ngào cổ tích. Con bôn ba hơn nửa cuộc đời mới chợt nhận ra: mẹ chính là cổ tích!

Câu chuyện cổ tích tuyệt vời nhất của đời con!

Y.N

Trăng của người xưa trăng của ta



Đặng Thị Thanh Liễu




Chuyện trăm năm người kể
Có kẻ bán trăng vàng
Một đêm trên cành liễu
Trăng ngậm ngùi thở than

Ta vực người xưa dậy
Hỏi ngọn nguồn thực, hư
Người xưa cười khẽ nói
Vì trần gian tương tư

Hồ tương tư bóng nguyệt
Núi tương tư sương mờ
Đàn tương tư tiếng hát
Rượu tương tư người thơ

Sao không là Mặc Tử
Sao không là Trương Chi
Để ôm trăng nằm ngủ
Mà mơ người tình si

Đêm bỗng nghiêng theo gió
Trăng nghiêng dưới chân cầu
Tình nhân nghiêng bên phố
Còn ta… nghiêng về đâu…?

Nghĩa tình




Photo: Modern Photographics



Tuần này có 2 người hỏi tôi “tình yêu là gì?”. Bản thân tôi cũng chẳng biết tình yêu là gì. Dù bản thân đã mất gần 6 năm để trải qua một cuộc tình, để rồi khi mọi chuyện qua đi, tôi lại tự hỏi, tình yêu là gì?

Rose và Jack, Romeo và Juliet, có phải là tình yêu không? Và giữa tôi và anh có phải là tình yêu không? Trong cơn say tình, tôi đã gọi đó là tình yêu, tôi nói tôi đã biết yêu. Nhưng rồi kết quả tình yêu của tôi là gì? Cũng chỉ là một hồi ức. Và bây giờ nhìn lại, tôi lại tự hỏi, liệu đó có phải là yêu?

Có chứ. Tôi đã yêu. Đã yêu hết những gì có thể. Đã sống trọn vẹn với tình yêu đó. Dù bây giờ đã ko còn yêu, nhưng tôi vẫn cảm ơn anh vì những gì anh đã dành cho tôi khi ấy.

Có người bảo hôn nhân là mồ chôn của ái tình. Tôi cho là đúng. Nhưng chưa đủ. Việt Nam có cụm từ “tình nghĩa vợ chồng”. Tại sao không phải là “tình yêu vợ chồng”? Bởi vì, đôi lứa đến với nhau bằng tình, nhưng sẽ sống với nhau bằng nghĩa. Cái tình như nấc thang đưa con người tới thiên đường còn cái nghĩa sẽ bảo bọc con người trong cuộc đời.

Khi còn tuổi trẻ, khi còn khỏe mạnh, bạn cho mình có thể làm được mọi thứ, có thể bay nhảy khắp nơi. Nhưng một khi bệnh tật tìm đến, bạn mới thấm thía chữ nghĩa tình.

Câu nói cuối cùng mà Cha tôi nói với Mẹ tôi “Đến giờ phút này anh mới biết thương vợ thương con.”Sau bao đau khổ Cha dành cho Mẹ, đến khi ngã bệnh, Mẹ là người duy nhất bên cạnh Cha. Vì đâu, vì một chữ “nghĩa”. Không phải “nghĩa vụ” mà là “nghĩa tình”.

Tuổi trẻ bây giờ đề cao tự do yêu đương, đã vô tình quên mất cái chữ nghĩa tình cao quý ấy. Tôi nhớ cái ngày Ông ngoại tôi bệnh liệt giường, dù đã nằm một chỗ, ăn một chỗ, tiểu tiện đại tiện cũng một chỗ ấy cả tháng trời, nhưng lúc nào Ông ngoại cũng thơm tho sạch sẽ. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để kể với bạn về điều này, tôi chỉ nhớ rằng mỗi lần Ông đi ngoài, Bà tôi đều giúp Ông lau chùi cẩn thận, Bà còn xức phấn thơm cho Ông vì sợ Ông nằm một chỗ bị ẩm, nổi sảy. Ông tôi ngượng lắm (dù đã là vợ chồng già rồi), bảo “tôi đã làm khổ mình”. Nhưng Bà tôi đã luôn xem chuyện ấy là niềm vui vì Bà nói “miễn là mình còn ở bên cạnh tôi”.

Tất cả những thứ bình thường, dung dị ấy, tuổi trẻ tụi mình có thể cảm nhận được không? Tôi không biết tôi sẽ lại yêu như thế nào, sẽ kết hôn như thế nào, và sẽ sống như thế nào với hôn nhân ấy. Nhưng trong thâm tâm tôi, tận đáy lòng, tôi vẫn mong người chồng của tôi sẽ đến với tôi bằng tình yêu, và sẽ sống với tôi bằng tình nghĩa. Sự tôn trọng và tin tưởng nhau sẽ cùng nâng đỡ nhau suốt cả đời. Có được như vậy thì câu “Vợ chồng tương kính như tân”, “Bách niên hảo hợp” sẽ có gì mà khó. Chỉ cần hai chữ “nghĩa tình” được trọn vẹn.



Gania

Việt Nam đứng thứ 183/197 về tự do báo chí năm 2013



Freedom House vừa công bố báo cáo tổng kết về tự do báo chí năm 2013 trong đó phân tích và xếp hạng việc thực hiện tự do báo chí ở 197 nước và lãnh thổ trên toàn thế giới. Việc làm này tiếp tục một tiến trình mà Freedom House thực hiện từ năm 1980. Mỗi nước được cho một điểm số tổng hợp về tự do báo chí từ 0 (tốt nhất) đến 100 (tệ nhất) trên cơ sở một bộ câu hỏi gồm 23 câu về môi trường luật pháp (8 câu), môi trường chính trị (7 câu) và môi trường kinh tế (8 câu). Nếu điểm tổng hợp đạt được từ 30 trở xuống sẽ được xếp loại là ‘tự do’, từ 31 tới 60 là ‘tự do một phần’ và từ 61 trở lên là ‘không tự do’.


Mày tím nâu là những nước không có tự do báo chí


Báo cáo cho biết kết quả chung năm nay là thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Sư sụt giảm này có bốn lí do chủ yếu: việc tấn công vào người đưa tin (Ukraina, Turkey, Egypt, Brazil, Venezuela, Sri Lanka, Thailand, Jordan, Uganda…), việc ngăn trở truyền thông nước ngoài (Nga, TQ, Ai Cập, Nauru…), siết chặt phương tiện truyền thông mới (TQ, VN, Jordan, Sudan, Zambia…), việc dùng quyền chủ sở hữu để kiểm soát nội dung (Turkey, Ukraina, Venezuela…)

Báo cáo cũng cho thấy rằng 14 % dân số thế giới sống ở các nước có một nền báo chí tự do, 42 % được tự do báo chí một phần và 44 % sống trong môi trường không tự do. Các tỉ lệ dân số này bị ảnh hưởng đáng kể bởi hai quốc gia Trung Quốc, sếp loại không tự do, và Ấn Độ, xếp loại tự do một phần – cả hai gộp lại chiếm hơn một phần ba dân số hơn bảy tỉ người trên toàn cầu.

Theo bảng xếp hạng vừa công bố, có 63 nước (32%) được xếp loại là tự do, 68 nước (35%) tự do một phần và 66 nước (33%) không tự do. Ba nước Bắc Âu là Hà Lan, Na Uy và Thuỵ Điển đứng nhất (với điểm tổng hợp bằng 10), Bắc Triều Tiên đứng chót (97 điểm). Việt Nam [cùng với Trung Quốc, Lào và Azerbaijan] xếp thứ 183 (84 điểm) chỉ đứng trên 11 nước, với điểm chi tiết là 29/30 về mội trường pháp luật, 33/40 về môi trường chính trị và 22/30 về môi trường kinh tế. Điểm tổng hợp của Việt Nam giữ y như hai năm trước và tệ hơn 7 điểm so với năm 2006 (77 điểm), tệ hơn 16 điểm so với năm 1994, 1995 là năm có điểm tốt nhất (68 điểm) trong vòng 20 năm có theo dõi của Freesom House.

Bốn không ở Singapore




TS Phan Hữu Tích


 Singapore là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) không chỉ được ca ngợi là quốc gia có nền kinh tế phát triển mà còn được đánh giá có một chính phủ trong sạch. Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức chính phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Singapore có bốn kinh nghiệm chống tham nhũng có hiệu quả. Xin giới thiệu đến độc giả bốn kinh nghiệm này.

1. Làm cho quan chức không dám tham nhũng

Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức chính phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ càng cao, thì phần trăm trích ra gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên tới vài chục phần trăm lương tháng. Số tiền này do nhà nước quản lý. Bất kỳ công chức, quan chức nào phạm tội tham nhũng dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng thu.
Quan chức càng to thì số tiền bị trưng thu càng lớn. Vì vậy, mỗi quan chức khi nảy ý định tham nhũng đều phải tính toán: Nếu tham nhũng, nhận hối lộ mấy trăm, thậm chí cả ngàn đô la Singapore mà bị tịch thu hàng chục ngàn đô la, bị sống trong hoàn cảnh không lương bổng cho đến lúc chết thì “mất” lại nhiều hơn “được”. Vì thế, đại đa số chọn giải pháp không tham nhũng; quan chức cấp càng cao, lương càng nhiều càng sợ không dám tham nhũng.

2. Làm cho quan chức không thể tham nhũng

Chính phủ Singapore quy định và thực hiện mỗi năm công chức, viên chức, quan chức phải khai báo một lần với nhà nước về tài sản của bản thân hoặc của vợ (chồng) bao gồm: tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền cổ phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa… Những tài sản tăng lên phải khai rõ nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc có thể coi là tham ô, tham nhũng.

Nhà nước còn quy định: Quan chức chính phủ không được phép nợ nần; không được vay một khoản tiền lớn vượt quá tổng ba tháng lương. Singapore có thị trường mua bán cổ phiếu, nhưng quan chức chính phủ muốn mua cổ phiếu phải được lãnh đạo cơ quan chủ quản đồng ý và chỉ được phép mua cổ phiếu của công ty trong nước. Với cổ phiếu của các công ty nước ngoài đang kinh doanh ở Singapore cũng được phép mua, nhưng với điều kiện các công ty đó không có quan hệ lợi ích với chính phủ. Công chức và quan chức chính phủ không được phép đến các sòng bạc, nhà chứa.

Luật báo chí Singapore quy định những điều khoản nhằm chống tham nhũng trong lĩnh vực này. Theo đó, các nhà báo, ký giả muốn gửi bài viết của mình ra nước ngoài phải qua tổng biên tập xem xét. Khi được trả tiền nhuận bút, nhà báo đó phải báo cáo với cơ quan chức năng của chính phủ trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận được tiền v.v...

3. Làm cho quan chức không cần tham nhũng

Singapore có chế độ trả lương chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao với cấp thấp, với công chức và giữa công chức với nhân viên, công nhân. Thu nhập thấp nhất là người bảo mẫu mỗi tháng 400 đô la Singapore. Nữ công nhân lắp ráp điện tử mỗi tháng từ 600 đến 900 đô la. Công chức cơ quan chính phủ tất cả đều tốt nghiệp đại học, lương khởi điểm khoảng 1.300 đô la. Cấp thứ trưởng lương tháng từ 10.000 đến 20.000 đô la. Thủ tướng lương tháng hơn 40.000 đô la (thời điểm năm 2000).

Với mức lương như vậy, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình mà không cần tham nhũng. Hơn nữa với cách trả lương như vậy công chức và quan chức chính phủ luôn có sự so sánh: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình thường rất nhiều. Nếu mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý, mất hết liêm, sỉ. Sự so sánh và tự vấn đó đã làm cho quan chức tự tiêu hủy những tham vọng không trong sáng của mình.

4. Làm cho quan chức không muốn tham nhũng

Ở Singapore muốn tham nhũng một thứ gì đó, dù nhỏ cũng rất phiền hà. Ví dụ, khi khách nước ngoài đến Singapore, nếu họ muốn tặng các quan chức nước chủ nhà một món quà để cảm ơn về sự đón tiếp và thắt chặt mối quan hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hóa với giá trị tiền không nhiều. Món quà nào có giá trị 100 đô la Singapore trở lên là họ từ chối hoặc phải xin phép lãnh đạo cơ quan, nếu đồng ý mới được nhận. Nhưng khi nhận rồi lại phải báo cáo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Nếu món quà đó có giá trị tiền quá mức quy định và quan chức đó vẫn muốn nhận thì phải nộp tiền. Số tiền nộp thêm đưa vào tài khoản quỹ “nộp phạt” của chính phủ.

Chuyện kể rằng, một phái đoàn quan chức của Chính phủ Singapore được cử sang một nước nọ để ký một hiệp định liên doanh sản xuất. Nhận thấy hiệp định này đem lại nhiều lợi ích cho mình, giới chức nước chủ nhà đã tặng những món quà lưu niệm có giá trị cao cho quan chức đoàn Singapore. Bởi sự quá nhiệt thành của chủ nhà, họ không sao từ chối được. Nhưng cứ nghĩ đến việc khi về nước lại mang quà biếu này đến cơ quan khai báo, phải mua lại và chuyển tiền vào tài khoản quỹ “nộp phạt” thì quả là phiền toái, cả đoàn đều phải “đành lòng” viết thư cảm ơn và gửi lại quà ở sân bay trước khi trở về Singapore

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014

Con người khám phá và con người thích ứng trong Nỗi buồn chiến tranh

Vương Trí Nhàn



Chiến tranh nhìn qua số phận cá nhân

Có một quy phạm thường xuyên chi phối dòng tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh vốn đang còn khá lèo tèo. Bất chấp việc chúng được viết ngay trong thời bom đạn hay trong thời bình mấy chục năm về sau, đó thường là những cuốn sách dựng lại cả một bức tranh mở ra theo bề rộng, chiến tranh được ví với một trận cuồng phong, hoặc một cỗ máy khổng lồ có sự vận động cùng lúc của nhiều số phận. Con người trong các tác phẩm đó được miêu tả trong hình thế một nhóm, một tập thể (từ nhỏ đến lớn) có tổ chức, có định hướng rõ ràng, và mỗi cá nhân không hề có ý muốn trở thành độc lập bên cạnh đám đông. Mặc dù vẫn còn những nét riêng tư, nhưng họ không bao giờ tồn tại như những con người tự thân, mà chỉ được xem như người phát ngôn cho một vấn đề của xã hội.

Chỗ giống nhau giữa Xung kích của Nguyễn Đình Thi và Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu chẳng hạn là cả hai đều bám vào một sự kiện cụ thể (mỗi cuốn sử dụng một chiến dịch “làm nền”) rồi trong đó, một dàn nhân vật đi về lui tới suy nghĩ. Cái mà người ta còn lưu lại trong đầu sau khi đọc là một không khí chiến tranh nói chung, còn vấn đề “con người trong chiến tranh” chỉ là một nhánh phụ. Để hình dung ra con người, bạn đọc phải đi theo lối đường vòng, và chắp nối người này một chút người kia một chút.

Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ngả sang một cách viết khác. Thực tế là trong cuốn tiểu thuyết này, người ta có dịp bắt gặp toàn bộ chiến tranh - một cuộc chiến tranh với đủ những địa điểm và những khoảnh khắc tiêu biểu từ ngày đầu đến ngày cuối (không khí Hà Nội khi thành phố bắt đầu tiễn con em ra chiến trường; những chặng đường từ hậu phương tới mặt trận; những ngày sau tết Mậu Thân; giải phóng Sài Gòn…). Song tất cả đều thông qua ý thức của nhân vật Kiên chứ không phải miêu tả trực tiếp. Tức là ở đây, chiến tranh chỉ được thể hiện qua một con người, tác phẩm từ đầu đến cuối men theo những ý nghĩ của nhân vật, dày đặc vui buồn, hối hận, trăn trở, bất lực của anh ta. Trùm lên tất cả chỉ có một đường dây là từng trải của Kiên, mạch suy nghĩ của Kiên, và bao quát hơn là số phận của Kiên. Thật khó đẩy tác phẩm vào trong vòng tay của những khái niệm như “bức tranh toàn cảnh”, hoặc “một thiên sử thi hoành tráng” mà chúng ta quen nghĩ.

Trong khi mọi sự kiện trước sau bị đảo lộn về thời gian thì chúng lại tỏ ra rất mạch lạc, nếu xét theo sự phát triển của ý nghĩ và tình cảm của nhân vật chính. Mỗi sự kiện cụ thể ngoài ý nghĩa tự thân có thêm một tầng khái quát: này là những lúc vui; này là những lúc chết lặng đi vì buồn; những lần hoang mang tuyệt vọng (không lần nào giống lần nào); một phen kinh ngạc vì cách xử sự của người này người kia. Trong suốt cuốn sách, Kiên như chỉ có một mình. Các nhân vật khác chỉ sống trong ý nghĩ cả Kiên, trong đó có một số nhân vật chỉ ngẫu nhiên được nêu ra rồi mất hút. Bù lại, tự thân Kiên đã khá đa dạng. Gần như không có việc nào của lính mà Kiên không trải qua. Trong anh, chất lính được chưng cất và cô kết lại. Lính nghĩa là không có quyền lựa chọn số phận của mình. Lính nghĩa là gặp đâu hay đấy ngẫu nhiên thất thường trôi nổi theo sự đưa đẩy của hoàn cảnh và không bao giờ dám đặt câu hỏi tại sao mình lại như thế này mà không như thế khác. Lính nhiều khi đồng nghĩa với vô vọng, bất lực.

Cảm giác của chúng ta về chất lính trong Kiên còn được củng cố, bởi với anh, cái chết luôn luôn trở lại như một ám ảnh. Suy nghĩ về cái chết thường trực khi ăn cũng như khi ngủ, khi Kiên đơn độc một mình, cũng như khi anh vui vầy giữa bạn bè. Với người lính này, cái chết là một bộ phận của chính cuộc sống.

Một trong những lý do khiến cho nhiều người kiên trì lối viết “tập thể nhân vật” nói trên: người ta cho rằng làm thế mới có khả năng xây dựng được những điển hình khác nhau và cái nào cũng cụ thể sinh động, từ đó gộp cả lại khái quát nên thứ “chân dung nhóm” bao quát các kiểu dạng con người đương thời. Xét về khía cạnh nghề nghiệp, tuy không tuyên bố, nhưng dường như Bảo Ninh muốn nói thật ra một nhà văn không thể biết nhiều như anh ta vẫn tưởng; may ra anh ta chỉ biết chính mình. Và từng con người mới quan trọng, từng con người chính là “vấn đề của mọi vấn đề”, kể cả khi người ta sống và nghĩ về chiến tranh.

Cuộc sống dưới dạng hồi ức
Ra khỏi chiến tranh, trong Kiên hàm chứa một mâu thuẫn thường trực. Một mặt anh chai lì đi. Mặt khác, trong anh, dòng ký ức về chiến tranh lại cuồn cuộn chảy và những chuyện nhỡn tiền chỉ là đầu mối để anh nhớ lại chuyện cũ, thúc đẩy con người nhân vật gắng vươn lên để nhận thức về quá khứ. Thành ra cái vẻ uể oải “chẳng biết dùng đời mình vào chuyện gì” (tr 77 – số trang ghi theo bản của Nhà Xuất bản Hội nhà văn, 1991) chỉ là bề ngoài. Trong cái dạng sống riêng của mình, Kiên cực kỳ nhạy cảm và ngầm chứa một khao khát vươn tới không gì cản nổi.

Sự chai lì thật ra vốn được hình thành dần trong quãng đời cầm súng của nhân vật. Những năm ấy, Kiên đã cảm thấy, “không phải là mình đang sống mà như đang bị mắc kẹt trong cõi đời này” (87). Những gì tốt đẹp trong ý nghĩ và tình cảm sớm bị mất đi. Người ta tự nguyện gác hết suy nghĩ để hành động. Rồi cái nếp sống bức bối chật hẹp như thế này còn được tô đậm thêm bằng hàng loạt bất lực thời hậu chiến. Kiên không biết lao vào kiếm sống và hưởng thụ như mọi người. Cả đến những chuyện riêng tư cũng không biết lo, có bao nhiêu việc đáng làm thì Kiên lại đã không làm, đến khi cái câu hỏi khó chịu “đi đâu bây giờ, làm gì bây giờ?” ngày ngày vang lên như một ám ảnh, thì quả thật là một cách xác nhận về tình trạng bế tắc thực sự.

Thời bình cũng như thời chiến, Kiên đều đơn độc. Chung quanh anh là những người vừa ra khỏi chiến tranh đã lập tức quên lãng, lao đầu vào cuộc kiếm sống. Trong con mắt họ, Kiên như một kẻ mộng du.
Nhưng chỉ cần đứng lùi ra xa một chút, nhìn chặng đường chiến tranh như một phân đoạn lịch sử, chúng ta sẽ thấy ngay rằng kẻ tỉnh táo không phải là cái đám đông hỗn độn kia, mà chính là Kiên. Đám đông lao vào kiếm ăn thực ra đang mê muội. Ngược lại người chiến binh sống vất va vất vưởng và tưởng đời mình như bỏ đi, mới là kẻ sáng suốt.

Nhà văn Pháp J. Cocteau từng viết về mối quan hệ giữa một thi sĩ với hoàn cảnh: “Ở đây chỉ một mình thi sĩ là người sống giữa những người chết, và chính trong giờ phút ấy thi sĩ đã làm mồi cho chính sự chết - nó đang sống hơn là thi sĩ sống.” Tình cảnh của Kiên cũng có những nét tương tự.

Hồi ức làm nên lý do để sống. Trong lịch sử văn học nhiều nước, hàng loạt cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh được viết bởi sự thôi thúc phải nói to lên cái lời đề nghị đơn giản: không được quên lãng. Một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nga V. Rasputin mang tên Hãy sống và hãy nhớ (bản dịch tiếng Việt đổi đi một chút, gọi là Sống mà nhớ lấy). Còn ở Việt Nam, cuốn truyện vừa của Nguyễn Minh Châu mang tên Cỏ lau cũng có một ý tương tự. Câu chuyện xoay quanh công việc đám lính hậu chiến đi tìm hài cốt những người chết. Sau khi bảo rằng vùng này đất tốt quá chừng, vô khối là đất mà chỗ nào cũng chỉ có giống cỏ lau mọc, tác giả viết, “Với bao nỗi toan tính hối hả trong thời bình, mỗi con người chúng ta có lẽ đôi khi cũng là một cánh rừng cỏ lau giàu sức sống, rất chóng lãng quên những người lính đã ngã xuống”. Bởi lãng quên đe dọa đến chính cuộc sống, người ta phải tiến hành cuộc chiến đấu dai dẳng để chống lại nó. Viết văn với Nguyễn Minh Châu hay Bảo Ninh nói ở đây chính là để chống lại sự lãng quên đó.

Lạ hóa chính mình lạ hóa hoàn cảnh


Những ai đã đọc Thời xa vắng, hẳn nhớ cách của Lê Lựu viết về quá khứ trong đó: quá trình tham gia chiến đấu của Sài không được miêu tả cặn kẽ. Song nhà văn vẫn làm cho người đọc thấy rõ Sài là một sản phẩm của chiến tranh, chỉ chiến tranh mới đẻ ra những con người tương tự.

Có thể nói một đặc trưng của bản thân Sài là thái độ quan liêu. Nghĩa là, Sài cũng ghi xương khắc cốt rằng mình lớn lên, bắt đầu làm người thực sự từ trong chiến tranh. Song thực chất nó là thế nào, Sài không để ý. Ngược lại Sài cứ nhơn nhơn như không, lại còn luôn tự lừa mình rằng chẳng có điều gì mà mình không hiểu, và rộng hơn tự hào rằng ra khỏi chiến tranh mà bản thân cái phần tốt đẹp trong con người mình vẫn còn nguyên vẹn.

Niềm tự tin được đẩy lên thành một ảo tưởng ấy đã làm nên cả đặc trưng của nhân vật trong Thời xa vắng. Thứ tự tin nông nổi và có vẻ như đáng yêu đó là nguồn gốc của bao thất bại đến với Sài về sau. Con người rút cục trở thành tù nhân của hoàn cảnh và càng lao đầu vào hành động tình thế càng trở nên tuyệt vọng.

Bề ngoài Kiên của Bảo Ninh không được như Sài. Dường như anh không ra khỏi chiến tranh. Mưu cầu hạnh phúc cho bản thân, anh không biết. Những trò hưởng lạc, anh không màng. Nhưng vẫn có thể nói so với Sài, Kiên vượt lên một bực ở chỗ toàn bộ sức sống của anh tập trung vào việc nhận diện chiến tranh. Nghĩ về nó. Ngày đêm ăn ngủ lúc nào cũng có nó. Muốn khôi phục lại bộ mặt của chiến tranh như nó vốn vậy. Để làm việc đó, anh sẵn sàng để cho ký ức nổi lên hỗn loạn, với dụng ý rằng sau đó tìm cách kiểm soát nó, lý giải nó một cách chủ động.

Lúc nào chiến tranh cũng được Kiên nhìn như thuở ban đầu. Anh đến với nó từ một sự vô tư không thành kiến. Luôn luôn thú thực rằng mình chưa hiểu. Luôn luôn sợ quên, sợ nhầm. Nghĩa là Kiên đã dọn lòng một cách thanh thản, đã tạo cho mình khả năng đối diện với một thực tế khó nhằn và có được ý chí ngoan cường trong việc chinh phục nó chiếm lĩnh nó. Nói cho đúng ra, khi tự nhủ rằng với cuộc chiến tranh ấy, mình phải viết, thật ra anh đã bước đầu khách quan hóa nó, tách nó ra khỏi mình, lạ hóa nó để tiêu hóa nó. Có thể nói Kiên đã tìm thấy một đối tác tốt để đồng hành trên suốt quãng đường đời còn lại.

Có một sự thực là từ lúc chưa xung vào quân ngũ đến lúc trở về, quan niệm của Kiên về vị trí và mối quan hệ của mình với chiến tranh là nhất quán. Một mặt, như Kiên từng xác định, giữa cuộc chiến tranh to lớn, anh “chẳng là gì cả” mà chỉ là một thứ đinh ốc nhỏ, hoặc như chữ anh dùng “loại con sâu cái kiến” trong cuộc biến động vĩ đại; và anh bằng lòng với số phận đó. Mặt khác, hình như ở Kiên luôn luôn có một con người nữa, tách ra bên ngoài để soi xét mọi chuyện, và đây là khía cạnh tự do bên trong, nó làm nên tầm vóc của nhân vật. Lúc đã suy nghĩ thì nhân vật không còn bị một ràng buộc nào. Không bị bắt vít vào những quan niệm thông thường. Không bị ảnh hưởng của những đồng đội chung quanh. Một cái gì cơ bản hơn, những nguyên tắc của việc làm người - nếu có thể nói như thế - chi phối anh, len lỏi trong những suy nghĩ của anh. Những kiến thức mà tuổi trẻ anh đã tiếp nhận được từ những người thân và bè bạn của nền giáo dục ở nhà trường thường xuyên trở lại để giúp anh so sánh đối chiếu với thực tế trước mắt.

Trong cái vẻ ương ương gàn gàn, Kiên vượt lên trên những người thông thường. Có thể nói trong văn học Việt Nam, đây là một trong những trường hợp hiếm hoi, ở đó con người giữ nguyên được cảm giác ngạc nhiên kỳ lạ về chính cuộc sống mà họ đã sống. Nhờ thế, một cuộc chiến tranh chưa được biết tới lại hiện ra sắc nét và độc đáo, nghĩa là không giống cuộc chiến thông thường mọi người vẫn hiểu.


Nhận thức như một lẽ sống
Trong cảm nghĩ của Kiên, chiến trường có lúc có cái không khí rờn rợn của một cuộc sống không thực. Có những khu vực ở đó, “chim chỉ bay không kêu, măng nhuốm màu đỏ “, và “rất nhiều hồng ma, một loại cây ưa máu” (các tr.7, 13). Mà đời sống sau chiến tranh khi được phản ánh vào tâm trí Kiên cũng vậy, nó có cái không khí “ nửa nhà thương nhà đòn”, như chữ dùng của tác giả.

Sự tỉnh táo trong cái nhìn hiện thực của con người này sớm bị thách thức. Thường xuyên, Kiên cảm thấy mình lạc lõng chơi vơi chẳng biết bấu víu vào đâu.

Như vậy là Kiên đã thất bại đã đầu hàng, như nhiều nhân vật vô tâm khác? (Có lúc anh đã tự nhủ: “mình chả trở lại thành người được đâu!”).

Song đó chỉ là một phía. Trong hoàn cảnh nhiều điều trái ý, khao khát nhận thức của Kiên – một khao khát chẳng những bao giờ cũng âm ỉ mà nhiều lúc lại còn bừng sáng lên đột ngột - đã trở thành cái phao để anh bấu víu. Nó mang lại cho anh lẽ sống. Kiên cảm thấy đời mình không còn ý nghĩa gì khác ngoài việc nghĩ về chiến tranh và khôi phục lại bộ mặt thực của nó. Các hồi ức của Kiên không dừng lại ở mức độ cảm giác mà vươn tới trình độ của một nhận thức. Mối quan hệ của Kiên với chiến tranh được đặc trưng bởi tự ý thức sâu sắc của nhân vật về môi trường mà mình có mặt. Sống vốn đã là để nhận thức. Với chiến tranh cũng vậy. Nơi người ta thường cho rằng mỗi con người phải quên mình đi cho hành động, thực ra lại là mảnh đất tốt cho những suy nghĩ, phản bác, thể nghiệm, kiểm tra, chấp nhận...

Chỉ cần có ít kinh nghiệm về tiểu thuyết viết về chiến tranh ở Việt Nam, người ta đã thấy những nhận thức đã đến với Kiên như vừa phác họa là vượt lên trên sự thông thường, là lạc lõng xa lạ, và đây là điều đã được nhiều nhà phê bình gọi ra. Nó cũng là nguồn cơn của nhiều giận dữ mà các đồng đội hôm qua đã ném lên đầu tác giả. Tuy nhiên, chỉ cần gạt bỏ thành kiến và lòng tự ái bẩm sinh, những người đã trải qua chiến tranh sẽ thấy con người Kiên là hoàn toàn bình thường. Nó không phải là suy nghĩ theo nghĩa thông thường , mà là sự vận động trong đầu óc thực thụ:

· Nó mang màu sắc kinh nghiệm cụ thể, kết quả của một sự tìm tòi cá nhân chứ không phải kinh nghiệm bày đàn, một thứ chân lý do người ta học đòi nói leo, bị áp đặt và không có thẩm tra thể nghiệm.

· Nó là cái gì người ta cố từ chối mà không từ chối nổi, chứ không phải nông nổi bốc đồng, một thứ làm dáng, ra cái điều suy nghĩ, ý nghĩ vừa đến trong đầu đã kêu toáng lên dọa mình dọa người.

· Nó (sự suy nghĩ ấy) lung linh tồn tại như một cơ thể sống. Trong khi ở nhiều cuốn tiểu thuyết hậu chiến khác, chiến tranh là đơn giản, chỉ có một nghĩa, dễ hiểu (để rồi dễ quên dễ chán) thì ở đây, mặc dù đã sống với nó hết lòng, con người lại vẫn như là chưa hiểu cái gì đã đến với mình trong những năm tháng không bình thường ấy.

Nhận thức ở đây đồng nghĩa với khám phá, khám phá không bao giờ ngừng. Trong cái sự chật vật để đi đến nhận thức, con người như đã ở vào trình độ sống hiện đại, chứ không phải loại người “cổ lai hy” , hùng hục hành động và chỉ biết giải thích công việc mình làm theo những công thức có sẵn.

Một đối trọng đầy sức ám ảnh

Bên cạnh Kiên thì trong tác phẩm, Phương là nhân vật nổi lên hơn hết. Trong nỗi buồn mênh mông và như một thứ không khí phả vào từng trang tác phẩm, không chỉ có nỗi buồn xé lòng của Kiên mà còn có nỗi buồn dai dẳng, nỗi cay đắng nằm tận đáy lòng của Phương. Khi Kiên đi sâu vào nhận thức để giải mã cuộc đời, cái đối tượng có sức ám ảnh với nhân vật không chỉ là chiến tranh mà còn là Phương nữa.

Trong các bài hát lẫn trong thơ ca Việt Nam đương đại, người phụ nữ những năm chiến tranh thường được hiện ra như những cô gái nhanh nhảu tháo vát, nếu không đi thanh niên xung phong hoặc làm giao liên đưa bộ đội vào chiến trường thì đó cũng là người con gái ở lại hậu phương chung thủy đảm đang, thay thế chồng con cha anh trong những công việc đàn ông thường làm. Họ hết sức năng động trong phạm vi những việc cụ thể, nhưng lại đơn giản sơ lược trong đời sống tinh thần, và thường thiên về những giọt nước mắt sùi sụt, để rồi sau đó lại đột ngột cứng cỏi một cách kỳ lạ đến mức khó hiểu. Có thể bảo đó là nét đặc biệt của người Việt nói chung, song ở phụ nữ, người ta nhận ra những biểu hiện lý tưởng.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, Phương trước tiên vượt lên mẫu người con gái thông thường đó để trở nên một ngoại lệ. Hãy bắt đầu bằng hình ảnh Phương trước ngày tiếng súng bắt đầu nổ. Đó không phải chỉ là hình ảnh của hòa bình hạnh phúc mà ngay từ lúc ấy, Phương đã là con người của một nhận thức mới. Trong khi Kiên tính chuyện ra đi, lao vào hành động, thì Phương lại có cái nôn nao khó tả, nó là nỗi dự cảm trước một điều lớn lao đang xảy tới. Toàn bộ sự nhạy cảm của Phương được huy động khiến cho người ta cảm thấy Phương như vượt hẳn lên so với người bạn trai cùng tuổi. Phương nói ra những điều lớn lao một cách trực tiếp như là lịch sử đã ứng vào miệng cô. Buổi tối bên bờ biển (trong đợt Phương với Kiên đi nghỉ) có cái không khí huyền bí của một thời điểm mặc khải, tức mở ra điều bí mật. Từ lúc chưa ai cảm thấy, thì hình như Phương đã cảm thấy chiến tranh tới gần. Và nhất là những gì Phương phản ứng trước cái thực tại sắp tới đó thì thật bất ngờ mà suy cho cùng lại thấy rất có lý. Ngay từ lúc này người ta đã thấy Phương sâu sắc hơn Kiên. Phương không chỉ sống với cuộc đời trước mắt mà còn sống với những ký ức từ thuở người Việt viết nên Chinh phụ ngâm và ru con bằng những câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”.

Nếu sự chừng mực trong tiếp nhận chiến tranh ngay từ khi tiếng súng chưa nổ khiến Phương có cái vẻ tiên cảm đến mức lạc lõng so với con người đương thời, thì cái cách Phương hiểu về thời đại của mình càng sâu sắc lạ thường, một cách hiểu mới mẻ đến mức người ta phải nghi ngờ. Nói chung trong cách xử sự, Phương là con người vượt ra ngoài thông lệ. Đoạn tác giả để cho Phương cảm thấy gần với cha Kiên hơn là Kiên, Phương đứng bên cha Kiên trong cái lần ông họa sĩ này đốt tranh… bị một số người cho là giả tạo. Nhưng lô-gich của Phương là vậy. Phương và cha Kiên tự nhận là những kẻ lạc thời và lạc loài, song sự thật, họ là tinh hoa của thời đại họ , là những con người của nhân văn nhân đạo, của vĩnh cửu.

Ngay từ đầu, với trình độ hiểu biết của mình, Phương dường như đứng ngoài không gian thời gian. Từ chỗ đứng đó Phương tìm ra nguồn sức mạnh tinh thần để hòa hợp với xã hội. Kiểu nghĩ trí tuệ một cách bản năng như thế giúp Phương không cứng nhắc trước cuộc đời. Việc Phương tự biến đổi theo hoàn cảnh mà chúng ta thấy về sau như có thêm bảo đảm rằng con người tưởng như ngoại lệ này vẫn là trường hợp bình thường. Trong Phương có cái phần mà nhiều người khác có, nhưng lại lảng tránh.

Thích ứng để tồn tại

Trong những lần bàn về cuốn sách của Bảo Ninh, một số người có nhắc tới nền văn học Xôviết viết về chiến tranh, và những bộ phim làm theo nền văn học đó kiểu như Khi đàn sếu bay qua hoặc Bài ca người lính. Trong những tác phẩm ấy, các nhân vật nữ hiện lên như những con người sẵn lòng để người yêu ra đi, nhưng trong lòng xiết bao đau đớn. Rồi ngay trong lòng hậu phương bản thân họ cũng bị vùi dập. Tình cảnh đáng thương theo nghĩa con người trở nên suy đồi mặc dầu họ không muốn. Họ quay ra rượu chè chơi bời, tức chìm dần vào những lầm lạc. Yếu đuối tầm thường tồn tại trong họ ngay bên cạnh cái cao đẹp, cái sang trọng. Song không phải vì thế mà họ đáng trách: họ chỉ là nạn nhân của cuộc chiến.

Phương trong Nỗi buồn chiến tranh có những nét gần với các nhân vật người Nga nói trên.

Ở Phương không có cái kiêu ngạo đầy ảo tưởng “ví đây đổi phận làm trai được - thì sự anh hùng há bấy nhiêu” (thơ Hồ Xuân Hương).

Phương cũng không phải mẫu người con gái cam chịu hoặc gồng mình hy sinh, lấy sự đau khổ làm số phận.

Thế thì đâu là nhân tố Việt Nam còn lại trong lòng người con gái kỳ lạ này?
Đó là sự thích ứng.

Qua miệng bà mẹ của Phương, tác giả sớm nhận xét ở Phương có xu thế hoàn hảo và mơ ước nhập thân vào cuộc sống (tr. 238). Chỉ cần có chút kinh nghiệm trường đời, người ta sẽ hiểu ngay là thật vô phúc cho người nào hội trong mình cùng một lúc cả hai phẩm chất trái ngược đó. Bởi sự sống bao giờ cũng mang trong mình nó sự vô thường, sự dang dở. Muốn hoàn thiện thì người ta trước sau không tránh khỏi gãy nát, sụp đổ. Cũng may mà ở Phương, sự nhạy cảm vẫn mạnh hơn, và cô biết từ bỏ cái ao ước ban đầu kia để giữ lấy cho mình phẩm chất thứ hai.

Sự thích ứng đến với cô một cách tự nhiên. Thích ứng như sự phá bỏ nguyên tắc bất chấp mọi điều kiện, thích ứng cao hơn tự do, cao hơn lòng tự trọng thích ứng với nghĩa có thể đầu hàng, có thể giả tạo, có thể từ bỏ chính mình, miễn sao được sống.

Có lẽ phải nói tới những gì lưu truyền trong máu huyết thì mới giải thích được sự thích ứng của Phương, một sự thích ứng ấy không chỉ nhanh nhạy mà còn bền chắc và trở thành yếu tố chủ yếu làm nên sự sống của nhân vật.

Đầu tiên là sự thích ứng với những đổi thay không kiểm soát nổi mà chiến tranh mang lại. Bước ngoặt này xảy ra ở chỗ nhà ga Thanh Hóa. Phương theo tiễn Kiên. Lúc ấy cả hai từ Hà Nội vào và đã trải qua một hành trình kinh khủng. Giờ họ rơi tõm vào cái ga bị ném bom. Trong lúc lạc Kiên, Phương bị rơi vào tay một thằng đểu. (Đây là một thứ tình thế phổ biến, chiến tranh ở đâu cũng có, tuy rằng lại ít khi được nói tới trong các tiểu thuyết Việt Nam - bởi đằng sau đó, người ta luôn luôn đọc ra mặt trái của chiến tranh.)

So với những xô đẩy mà Kiên phải chịu thì sự mất mát của Phương là lớn hơn nhiều. Nhưng chúng ta hãy xem họ phản ứng như thế nào?

Sau cơn lê lết đau đớn ê chề, Phương nhanh chóng hồi phục. Trong con mắt người bạn trai, cô vẫn cứ lộng lẫy “mềm mại, mịn màng”, tóm lại là tuyệt mỹ (tr. 269).

Nhưng với Kiên, sự thích ứng của Phương là cả một tội lỗi. Phương của anh đã mang cái tội phản bội, cái tội đầu hàng, “quỳ gối trước cái số phận mới mẻ” (tr. 264) và chàng thanh niên không bao giờ tha lỗi cho cô gái về cái tội để cho kẻ khác xúc phạm tới cái tuyết sạch giá trong mà lại quên ngay được, và trở về với đời sống bình thường dễ dàng như vậy.

Trong khi Kiên đau đớn, Kiên bực tức, Kiên muốn người bạn gái phải tự xỉ vả, tự xử tội mình, phải muốn chết đi vì xấu hổ, thì ngược trở lại, Phương coi tai họa như một cái gì tự nhiên phải đến và không hề có mặc cảm phạm tội. Cô không bị ràng buộc vào những quan niệm cổ lỗ như phần lớn con người đương thời. Với cô, chung thủy hay phản bội lúc này chẳng có ý nghĩa gì cả.

Một lý do huyền bí nào đó đã mách bảo nhà văn lấy đoạn này làm cao trào của truyện và đưa nó vào phần kết, xem nó như cái chìa khóa để hiểu toàn bộ tâm lý nhân vật. Đây là thời điểm đánh dấu sự vượt cao của Phương so với Kiên, không phải chỉ trong ý nghĩ mà còn trong hành động. Từ đây, Phương như trở thành một con người khác. Phương như vừa tự phát hiện ra một cái gì rất mạnh của mình mà trước đây, mình không thấy hết, và một người như Kiên càng không thấy hết.

Nghĩ và quên đều có lý


Sau khi đã có sự thích ứng thứ nhất – thích ứng với chiến tranh – thì sự thích ứng thứ hai ở Phương - thích ứng với hoàn cảnh hậu chiến – sẽ đến một cách tự nhiên, mặc dầu nó xảy ra một thời gian dài và diễn biến với nhiều cung bậc hơn.

Một điều đối lập ai cũng thấy khi so sánh Phương và Kiên sau chiến tranh: trong khi Kiên đào bới vào ký ức và tin tưởng ở sứ mệnh người tiên tri của quá khứ mà mình tự nguyện đảm nhận thì Phương gần như có thái độ ngược lại.

Sơ đồ suy nghĩ của Kiên bao gồm mấy bước. Ra đi trong náo nức; khi nhập cuộc sớm thất vọng và bắt đầu cảm thấy cần tìm hiểu sự thực về chiến tranh; đến thời hòa bình, cái định hướng suy nghĩ này của anh càng trở nên rõ rệt. Trong thâm tâm, Kiên mang máng cảm thấy rằng đẻ mình chìm vào mạch nghĩ như vậy là có lỗi. Giá kể có thể giống như mọi người, buông mình trong lười biếng, lẫn mình đi giữa đám đông, thỏa thiệp với chung quanh thì thật tiện. Nhưng bản chất con người buộc Kiên phải làm khác. Có một cái còn quan trọng hơn sự chung sống hòa hợp với mọi người chung quanh, thậm chí cao hơn hạnh phúc theo nghĩa thông thường, đó là tìm ra sự thực đời sống. Tính chất nhất thiết của quá trình nhận thức khiến cho Kiên có cái chất mà các nhà nghiên cứu về nhân vật trong tiểu thuyết thường nhấn mạnh: sẵn sàng chống lại hoàn cảnh; đi đến cùng trên con đường đã chọn.

Theo cách hiểu thông thường, thì rượu chỉ làm cho người ta say sưa quên lãng. Đằng này Kiên lúc nào cũng khát rượu, vậy mà anh rất tỉnh, càng rượu càng tỉnh, rượu giúp anh sáng suốt tập trung sức lực vào công việc. “Chỉ có người nào biết bỏ qua những cái lặt vặt thì mới nhận ra được cái chủ yếu của đời sống” — cái nghịch lý ấy ở đây lại được ứng nghiệm.

Nhìn vào những cuộc phiêu lưu trong văn học thế kỷ XX, M. Alberes bảo rằng nay là lúc người ta không đòi hỏi nghệ thuật phải đi vào khám phá ý nghĩa bí mật của sự vật mà nó, nghệ thuật, chỉ được dùng như một phương tiện giúp con người tự vấn và thách đố lại mọi ảo tưởng cũng như sự lừa dối. Kiên sẽ phải viết tiểu thuyết là vì như thế.

Còn Phương. Khi nói thẳng khi quanh co, song bao giờ Phương cũng kiên trì một thái độ: mọi chuyện hôm qua không thể giải thích; và cách tốt nhất để sống là hãy quên hết chuyện cũ. Cuối cùng, giống như một kết cục tất yếu, Phương đã bỏ đi trong sự nhớ tiếc khôn nguôi của Kiên. Đi như là một sự lãng quên tuyệt đối.

Chúng ta nên hiểu sự kiện này như thế nào? Trước hết, với Phương đây là bước đi hợp với logic. Nếu Kiên là con người của tình thế trước mắt thì Phương là con người của một cuộc đời dài rộng hơn. Kiên là cái duy lý mà chúng ta vốn thiếu trong khi Phương là cái duy cảm mà người Việt có thừa. Kiên đầy hào hứng trong việc miên man sống với ký ức vì thật ra Kiên vẫn là mình, vẫn giữ được mình trong chiến tranh. Còn Phương, sau cái bề ngoài nhởn nhơ và cái vẻ đẹp nguyên vẹn kia, thật ra Phương “bậc thày thích ứng” đã là kẻ chiến bại. Xét ở một phương diện nào đó, nhờ thích ứng mà Phương vẫn tồn tại, nhưng xét trên một phương diện khác, con người Phương hôm qua không còn dấu vết gì nữa, Phương đã thất bại.

Bề ngoài là một tính cách lạc lõng so với số đông, song Phương là tập đại thành của tính cách cố hữu mà người Việt nào cũng mang sẵn trong máu.

Song hành như những thách thức

Chỉ cần đứng tách ra một chút để chiêm nghiệm đời sống tinh thần của xã hội những năm chiến tranh, thì người ta phải nhận là qua việc dựng lại diễn biến của nhân vật Phương, Nỗi buồn chiến tranh có thêm một tầng ý nghĩa mới. Phương với tác giả không phải chỉ là chỉ một cách để ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ như nhiều cây bút phê bình đã viết. Nhìn lại, trong cả cuốn tiểu thuyết, ta thấy hình ảnh Phương làm nên một cái nền vững chãi cho Kiên. Bên cạnh Kiên, Phương là một kẻ đồng hành để so sánh. Một kẻ đối thoại quyến rũ. Và một cách nhìn đời khác, một thách thức. Lúc gần gũi và thông cảm với nhau, Phương là cái phần cao đẹp mà Kiên không vươn tới. Lúc bị cuộc đời hành hạ, Phương là kẻ biết mau mắn chấp nhận để tồn tại, có cách nghĩ thực tế hơn hẳn so với nỗi đau đớn khôn nguôi của Kiên. Với việc bỏ đi xa để lại cho Kiên niềm nuối tiếc, Phương trở thành tượng trưng cho cuộc đời gần gũi đấy mà bí ẩn đấy, cái cuộc đời vừa tẻ nhạt chán chường vừa đầy sức quyến rũ mà trong một phút xuất thần, Lưu Quang Vũ đã kêu lên như một lời thú nhận:

Có ai nói cho lòng ta hiểu nổi
Về cuộc đời ghê gớm ta yêu

Tình thế Phương thời hậu chiến không được nói nhiều, song cái lý riêng của tình thế đó thì đã rõ. Nhân vật tồn tại như một biểu hiện của cái mệt mỏi buông xuôi thấm vào đám đông sau chiến tranh. Sau những năm tháng bất thường, nó xoay con người đến nát tươm, nó làm cho con người trở thành méo mó kỳ dị…, người ta vẫn muốn sớm quay về cuộc đời bình thường. Nhất là sau một cuộc chiến quá sức, biết mình không thể hoàn lương trở lại, người ta muốn tạm đắp điếm cho xong, muốn tìm một sự bình yên cần kíp cho cuộc sống trước mắt, dù biết là nó giả tạo. Theo mạch thời gian, thấy càng về sau Phương càng mất hình mất dạng, càng như tan biến đi, trong khi đó Kiên càng kiên trì hơn với những câu hỏi ám ảnh, càng trở thành chính mình. Phương là sự bình ổn với bất cứ giá nào, bình ổn để nhắm mắt sống cho qua cái hiện sinh ngoài tầm kiểm soát; ngược lại Kiên – trong hành động nhận thức của mình - lại nổi bật lên như là yếu tố hư vô mà thách thức và do đó thúc đẩy cuộc đời đi tới.

Việc miêu tả quá trình song hành giữa hai nhân vật có sự bổ sung cho nhau như Phương và Kiên khiến cho hình ảnh con người trong Nỗi buồn chiến tranh như được gợi mở với nhiều chiều kích rộng rãi. Trong khi ghi nhận hai nhân tố có thực trong đời sống, đồng thời tác phẩm còn tồn tại như lời mời gọi cuộc đối thoại mà lẽ ra xã hội hậu chiến nên đón nhận. Dù những đề xuất ấy không được chính thức hưởng ứng, song trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam hậu chiến, các nhân vật như Kiên như Phương vẫn hiện diện, và đấy là cái làm nên lý do trường tồn của tác phẩm. Không mấy khi, nhà văn Việt Nam xây dựng được những nhân vật có ý nghĩa thách thức như thế.



JACQUES PRÉVERT-THƠ TÌNH












1.

NHỮNG KẺ TRẺ TUỔI YÊU NHAU



Họ yêu nhau, ôm hôn nhau
dưới những cánh cổng đêm.

Người qua lại giơ ngón tay chỉ chỏ
nhưng những kẻ trẻ tuổi yêu nhau
ngoài họ ra không ai tồn tại.

Chỉ những cái bóng của họ
run rẩy trong màn đêm
gọi nỗi tức giận, sự chê cười, lòng ghen tỵ.

Nhưng những kẻ trẻ tuổi yêu nhau
ngoài họ ra không ai tồn tại.
Vì còn xa thẳm hơn đêm
cao hơn nắng chói
mối tình đầu trong sạch thiên thần.





PARIS ĐÊM



Trong đêm lần lượt ba que diêm lóe sáng
que đầu tiên anh nhìn rõ mặt em
que thứ hai ngắm đăm đăm đôi mắt
que thứ ba ghi tạc khóe môi
để nhớ tất cả những điều này, anh cần đêm như mực
khi ôm chầm, anh phủ phục dưới chân em



THỜI GIAN



Đời anh không có đằng sau anh
cũng không ở đằng trước
cũng không trong hiện tại
chỉ có ở trong anh.

( bản của Göbölyös N. László)
Nguyễn Hồng Nhung dịch theo bản tiếng Hungary

( Budapest. 2014. április 3.)




“Câu chuyện vô hình” – Sự trỗi dậy của Con Người cá nhân




Hamvas Béla (1897-1968) là nhà văn, nhà triết học tâm linh lớn nhất của Hungary thế kỷ 20. Hamvas Béla cùng Kerény Káoroly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần tiếp nối truyền thống Hy Lạp cổ và thu hút được nhiều tên tuổi lớn của Hungary lúc bấy giờ. Nhưng sau ấn phẩm gồm ba tập (1935-1936), nhóm Đảo tan rã. Trong thế chiến thứ II, ông hoàn thành tập tiểu luận “Câu chuyện vô hình” (1943) khi còn đang ở ngoài chiến trận. Sau chiến tranh, Hungary sát nhập vào Liên bang Xô Viết, ông cùng Szabó Lajos và Tábor Béla thành lập nhóm tri thức cấp tiến được gọi là “Những buổi trao đổi thứ năm hằng tuần” nhằm tìm hiểu toàn bộ các vấn đề tinh thần thời đại. Mặc dù lại tiếp tục thu hút được nhiều tên tuổi lớn, nhưng đến năm 1948, tác phẩm “Cách mạng trong nghệ thuật” của ông viết chung với vợ đã bị đình chỉ vì lý do chính trị. Từ đó, ông bị tước tất cả quyền biên tập, viết và xuất bản, trở thành đối tượng theo dõi của chính quyền

———

“Câu chuyện vô hình” , với tôi, là tập tiểu luận vĩ đại về sự trỗi dậy của Con người cá nhân. Ở trong tập tiểu luận này, chúng ta không thấy sự trỗi dậy của những cái Tôi dị biệt với những nổi loạn kỳ quái. Đây là sự nổi dậy của những tên khổng lồ đầy quyền lực khỏi cơn lũ đám đông đang tiêu diệt nhân loại. Hơn cả thế, cũng trong tác phẩm này, Hamvas Béla luận bàn về con đường của một linh hồn cần làm để quay về với vị trí thống trị của mình.

Chuyển dịch Kỷ nguyên Song Ngư sang Kỷ nguyên Bảo Bình


Mở đầu tập tiểu luận, Hamvas Bela viết về “Kỷ nguyên Bảo Bình”. Đây là một khái niệm chiêm tinh học. Nhiều nhà chiêm tinh học cho rằng Kỷ nguyên Bảo Bình bắt đầu từ quãng những năm 1960, đó là khi điểm xuân phân (ở Bắc Bán cầu) nằm ở chòm sao Bảo Bình. Qúa trình điểm xuân phân nằm ở mỗi chòm sao được gọi là “aion”, có nghĩa là tháng vũ trụ và kéo dài từ 2000 đến 2500 năm, tức là khi điểm xuân phân đi hết 12 chòm sao Hoàng đạo, Trái Đất đã trải qua 26.000 năm. Trước Kỷ nguyên Bảo Bình, chúng ta đã ở trong Kỷ nguyên Song Ngư – kỷ nguyên của niềm tin tập thể.

Nếu bạn lấy thời điểm hiện nay trừ đi hơn 2000 năm trước, bạn sẽ thấy những sự kiện vĩ đại tôn vinh thần tượng của đám đông. Điển hình là sự xuất hiện của chúa Jesus. Jesus Christ là một vị thánh độc đạo, nhưng con đường của ngài đã lôi kéo một đám đông vô thức chạy theo mà không được phép hoài nghi bất cứ điều gì. Con đường ấy đã trở thành con đường của tín đồ. Một trường hợp tương tự diễn ra trước đó 500 năm ở Ấn Độ là sự ra đời của Phật giáo. Trong những tôn giáo ấy, các phẩm chất của con người cá nhân bị tiêu diệt, thay vào đó là các giá trị chung được ấn định của giáo đoàn và niềm tin mù quáng được hình thành. Rồi sau đó là Hồi giáo tiếp tục chiếm lĩnh vùng Trung Cận Đông và bắt đầu xây dựng tôn giáo của đám đông cuồng tín. Nhưng ở thời kỳ đầu này, các đức hạnh cao đẹp của Thượng Đế ẩn tàng trong con người vẫn giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt “bầy con chiên” và giữ con chiên trong cái khung của đạo đức. Và theo thời gian, điểm xuân phân dần dịch chuyển về phía bên kia của chòm Song Ngư, đám đông không còn chịu sự trói buộc của đức hạnh nữa mà bắt đầu nổi loạn. Sự lên ngôi của chủ nghĩa duy vật, của các phong trào đấu tranh trong suốt thế kỷ 19 và 20 là những gì có thể mường tượng về đám đông ở giai đoạn cuối của thế kỷ 20. Hamvas Bela đã bình luận về giai đoạn cuối này như sau: “Vô thức lên trên và ý thức xuống dưới. Tri thức không ở trên mà là bản năng, không phải ánh sáng mà là địa ngục, không phải thứ phát triển mà là thứ thấp kém, không phải trật tự và sự tử tế mà là sự hỗn loạn và dục vọng. Không phải thứ tư duy có ý thức mà là một thứ cặn bã và thần tượng”.

Giải thích cho hiện tượng “mông muội hóa” này, Hamvas Bela cho rằng ở cuối mỗi thời kỳ, con người cá nhân bị tan vào biển đám đông vô thức, và đó là biểu hiện của sự mông muội. Ông có một sự phân biệt rõ ràng giữa người cổ đại và người nguyên thủy. Người nguyên thủy là những dạng sống trong sự dã man và tối tăm, người cổ đại không nhất thiết là người nguyên thủy. Người nguyên thủy với Hamvas Bela, là những cặn bã của quá trình mông muội hóa, những cá nhân tan chìm trong cơn hồng thủy vô thức, còn rơi rớt lại đến ngày nay. Vậy quá trình mông muội hóa là như thế nào? Hamvas Bela sử dụng hình tượng của quá trình này là não thì ở dưới bụng còn dạ dày thì leo lên trên đầu. Đó là những gì ta đang thấy ở các tôn giáo và xã hội thế kỷ 20. Ở các tôn giáo, ý tưởng về một cõi cực lạc sung túc đang lấn át mọi giá trị thiêng liêng. Ở xã hội, giá trị vật chất của cơm ăn áo mặc đang vùi dập tinh thần. Ở trong phim ảnh của Holywood, ta có thể thấy nỗi lo sợ ám ảnh trong câu chuyện về bệnh dịch Zombie (tử thi), được mô tả như đám đông bị rút cạn linh hồn, bị thu hút bởi tiếng động và ăn thịt sống. Đó là sự điển hình hóa cho lời tiên đoán về đám đông mông muội cuối kỷ nguyên Song Ngư.

“Thiên thần, nếu sống trên trời là thần linh, nhưng nếu rơi xuống đất, biến thành quỷ. Thiên thần không tỏa ánh sáng nữa, và lửa của thiên thần biến thành núi lửa. Vô thức ở dưới, nổi lên trên sẽ biến thành ma quỷ, giống như ý thức rơi xuống dưới”. Khi Hamvas Bela viết câu này, tôi cho rằng ông muốn ám chỉ đến Satan. Satan vốn là thiên thần Lucifer, cái tên “Lucifer” có nghĩa là “thiên thần ánh sáng”. Sự nổi dậy của Lucifer khi ở Thiên Đường là một ý tưởng bất tuân của cá nhân muốn thoát khỏi sự áp đặt của toàn thế, là đại diện cho ý tưởng về ý chí tự do của chính con người. Lucifer bị đuổi khỏi Thiên Đường, trí tuệ bị ném vào địa ngục, bộ não bị đẩy xuống vị trí của dạ dày. Và trong suốt kỷ nguyên Song Ngư, Satan với trí tuệ đen tối từ địa ngục, chống lại Thượng Đế: “Bộ óc nổi loạn độc ác không khác gì cái ruột suy nghĩ. Cũng ma quái y như một cái cây rễ hướng lên trên và cành cắm xuống đất. Thiên thần bị tròng ách vào cổ cần phải biến thành quỷ sứ…” Chúng ta, với nhạc Rock, ma túy, sự cuồng loạn, các hành vi biến thái và bạo lực… đang tôn thờ Satan, tôn thờ ánh sáng bị chìm trong bóng tối, tôn thờ sự nổi dậy của vô thức, của các lý tưởng về bình đẳng. Và đó là những gì chúng ta gọi là giải phóng của thế kỷ 19,20. Tất cả chúng ta “tan vào thành một linh hồn duy nhất trong đám đông”. Đây là những mô tả của Hamvas Bela về dám đông và vô thức tập thể: “Trong trạng thái tập thể, con người tin vào một cái gì đấy, mà bản thân nó không tin,chỉ tin một cách chung chung. Con người không là một thực thể cá nhân, nó đồn hóa nó với một cái gì đấy bằng quan điểm, bằng cảm xúc, bằng hành động, có thể đồng hóa với một vật gì đấy, hoặc có thể đồng hóa với người khác”. Nếu ai đã từng tìm hiểu về chiêm tinh sẽ nhận ra những đặc tính tiêu cực của Song Ngư ở trong đoạn mô tả này. Đó là Con người tập thể trong suốt hơn 2000 năm qua, con người của những niềm tin mù quáng (nếu có khác nhau, chỉ là các đối tượng của niềm tin).

Nguyên nhân khiến con người cứ dần tan vào đám đông đó là trạng thái “tâm lý Vi mô”. Tâm lý Vĩ mô được Hamvas Bela định nghĩa như một dạng “linh hồn hoàn toàn, mà sự nỗ lực,bản chất, mục đích, và bản năng của nó để ngày càng hoàn toàn hơn”. Còn tâm lý Vi mô là “linh hồn đứt đoạn, bản năng của nó khiến nó ngày càng bé nhỏ, thiếu hụt và trống rỗng dần. Sự hoàn hảo tinh thần của con người đó là “một linh hồn, trong đó có tất cả mọi cái cần cho nó, sự hoàn hảo, không thiếu hụt, về mọi mặt đầy đủ và hoàn chỉnh, nơi những giác quan, tri thức, tinh thần, trí tưởng tượng trực giác và tất cả những cái khác họp nhau hài hòa, tất nhiên đấy chỉ có thể là Thượng Đế”. Dù cho không thể hoàn hảo như Thượng đế, nhưng tâm lý vĩ mô ở con người dẫn dắt con người đến với Thượng Đế, và chỉ trên con đường ấy, linh hồn của chúng ta không bị xé vụn vào các đối tượng nhỏ hơn như đời sống vật chất và tôn thờ những thứ quái đản. Tâm lý Vi mô được tạo ra bởi con người không còn mong ước hoàn hảo nữa, mà hướng tinh thần mình tới những đối tượng thấp kém. Ở đây, Hamvas Bela đặc biệt nhấn mạnh đến thuyết Vật linh và tôn thờ vật tổ. Vật tổ có thể là huy hiệu, ký hiệu chung, huy chương… Thuyết vật linh có nghĩa là “con người mông muội gán linh hồn cho đồ vật, hiện tượng hay công cụ..”. Những đồ vật ấy không có linh hồn, mà chỉ là những mẩu linh hồn nhỏ bé rơi vào đồ vật, sự kiện. Và cả hai hiện tượng này đều khiến “ý thức cá nhân rơi vào sự mờ mịt, tính tập thể nổi trội lên và bao hàm”, khiến “sự vô thức hoàn toàn thay thế bản thân cái linh hồn bé nhỏ chìm trong tăm tối, và nhầm lẫn bản thân mình với các sự vật khác”.

Nếu ở đầu kỷ nguyên Song Ngư, con người chỉ bị rơi vào niềm tin tập thể thì vào những giai đoạn cuối, con người đi vào thời kỳ cặn bã bằng tôn thờ chủ nghĩa duy vật. Hamvas Bela không lập luận dựa trên khoa học thực nghiệm, nền tảng của ông là truyền thống cổ xưa của phương Tây lẫn phương Đông. Ông nhắc lại những nhận định về bản chất của vật chất do Franz Baader đưa ra, và những nhận định này lại trùng với truyền thống cổ xưa. “Vậ chất xuất hiện từ hậu quả của những tàn tích đổ vỡ phân tán hỗn loạn của vũ trụ bởi những tai họa lớn trên thế giới. Ông nói, trong vũ trụ có một thiên thể duy nhất là Sirius Beta, một ngôi sao đã nguội và tắt, không ánh sáng, không nhiệt độ, một cơ thể bất động, từ đấy các nguyên tử tràn ra, chồng chất lên nhau yên nghỉ trong hỗn loạn, như trên một gò đống vĩ đại. Đấy là Sirius Beta, vật chất đầu tiên”. Và vật chất hoàn toàn khác với thiên nhiên. Thiên nhiên “là một phần khả năng tâm linh của tinh thần vũ trụ”, “tinh thần sáng tạo ra thế giới tập trung lại ở các tụ điểm như các thiên thể, Mặt Trời, các hành tinh và tất cả sự sáng tạo này trong từng phần và toàn bộ”. Một cách diễn giải thể hiện sự tương tác giữa vật chất và thiên nhiên rất thú vị, đó là: “vật chất là phân của thiên nhiên”. Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất cấu thành nên vạn vật, con người, thiên nhiên… không gì khác hơn là tổ hợp vật chất. Và thế là bắt đầu của dục vọng, của phá hủy, của sự quỳ gối trước giá trị vật chất. Chủ nghĩa duy vật và đám đông tôn thờ nó, cùng với những lập luận chua cay của Hamvas Bela, lại một lần nữa khiến tôi nghĩ đến bệnh dịch Zombie của điện ảnh Holywood, một đám đông cặn bã trong tột cùng mông muội.



Tranh Luis Royo

Những người theo chủ nghĩa duy tâm luôn đề cao ý tưởng. Plato cho rằng thế giới được kiến tạo bởi các ý tưởng, nhưng khi phản chiếu lên vật chất, thì thế giới không thể hoàn hảo như ý tưởng. Quyền lực của vật chất được gọi là “evestrum”. “Ý tưởng là một hình ảnh nâng lên còn evestrum thì lôi xuống và mạt sát. Ý tưởng thì thanh tẩy và sáng láng, còn evestrum tăm tối và bẩn thỉu. Người nào sống hướng về thế giới của các ý tưởng, người đó thanh lịch, tấn tới, ngày càng hài hòa, hiểu biết, sâu sắc và thông thái hơn. Ý tưởng là chất dinh dưỡng quan trọng nhất cho tâm lý Vĩ mô.” Và đó là chuyển dịch lớn trong những năm tháng này. Con người bắt đầu chuyển từ evestrum lên thế giới ý tưởng. Đó là ý nghĩa của chòm sao Bảo Bình. Chòm Bảo Bình là đại diện cho ý tưởng, khai sáng và tính cá nhân. Kỷ nguyên Bảo Bình, là kỷ nguyên của Con người cá nhân, trỗi dậy từ biển vô thức.

Sự trỗi dậy của Con người cá nhân


Hamvas Bela viết về những Con người cá nhân như một giống người mới, giống người thứ 6, “đơn độc, họ nổi lên như những thực thể khác thường, phi lý, những người không chỉ không thể hòa nhập với môi trường và thế giới của họ, mà những điều đó còn không có chút xúc tác nào cơ bản với họ”. Đây là một bí ẩn mang tính lịch sử, chưa ai có thể giải thích, và đám đông lại càng không thể hiểu. Với đám đông, giống người thứ 6 là một dạng dị biệt cần bị tiêu diệt, hay như Albert Camus sau này đã tự gọi bằng một thuật ngữ “người lạ”. (Không rõ Albert Camus thời ấy có đọc Hamvas Bela không, hay đúng như Hamvas Bela đã cảm nhận rằng “ý tưởng này nằm trong bầu khí quyển bí hiểm của Thượng Đế”). Đám đông luôn đánh hơi thấy những người thuộc giống loài này và tìm mọi cách tra tấn, hành hạ, tiêu diệt. Những người đầu tiên của giống loài này đã bị tống vào trại tâm thần, chìm đắm trong nghiện ngập, thậm chí là tự tử. Đám đông, evestrum càng xuống thấp, càng ép giống loài này đến tuyệt diệt. Nhưng họ không tuyệt diệt, bằng cách nào đó, họ đã nghe thấy nhau và biết rằng mình không đơn độc, và bắt đầu hình thành những cộng đồng. Cuộc giao tranh không còn bằng vũ khí nữa mà bằng những lựa chọn: hoặc gia nhập đám đông vô thức, hoặc trỗi dậy và vươn tới thế giới ý tưởng, vươn tới sự Vĩ mô của Thượng Đế, lựa chọn giữa bản năng thú vật và bản năng linh hồn. Đó là cuộc chiến trong giai đoạn chuyển giao, với những người đi đầu như Nieztches, Kierkegaad,.. rất nhiều những “người lạ” khác giống như Hamvas Bela.

Không ai có thể nói trước được các đặc tính của giống loài thứ 6, chỉ có thể biết rằng đó là những “Con người Cổ đại” đã vượt qua cơn đại hồng thủy của đám đông và vươn lên. Con người Cổ đại này là thực thể bất diệt đến từ Thượng Đế, là “thể thống nhất thiên nhiên – tinh thần – linh hồn, và những ý tưởng được chọn lựa, những đặc trưng phản chiếu từ các sức mạnh siêu nhiên điều khiển sự tồn tại của nó”. Ta chỉ có thể mường tự về giống người thứ 6 như thực thể vĩnh hằng này và hơn thế nữa.

Con người Cổ đại là bản chất sâu kín nhất của con người, và ở giống loài thứ 6, con người này được hé lộ. Trong chương “Wordsworth hay triết học xanh”, “Poseidon” và “Bản giao hưởng số VII của Beethoven và không gian siêu hình âm nhạc” là những chương đẹp nhất mô tả thực thể vĩnh hằng này. Hamvas Bela gọi thực thể vĩnh hằng, linh hồn đầu tiên, bằng cái tên: “Titan” – “chỉ MỘT. Sâu vô tận, đơn giản vô tận, câm lặng, tối sẫm, vô cùng bình thản và cô đơn tuyệt đối” và “thiên nhiên là thế giới cao nhất, thứ nó có thể được”. Thiên nhiên không nằm bên ngoài Titan, mà nằm ngay bên trong, hòa làm một, không phân chia giới tính, là phần vô hình. Và Hamvas Bela nói: “Thật ra trong cái vô hình, tất cả đều gắn bó với nhau”.

LINH HỒN ĐẦU TIÊN, Con người Cổ đại, thực thể vĩnh hằng, là “ngọn lửa đầu tiên, ngọn lửa màu xanh”. Hamvas Bela cho rằng, màu của Titan là màu xanh non, màu của sự sống trên mặt đất, màu không giới tính và cái màu có thể ăn mòn mọi thứ. Ông dẫn ra mối liên hệ của màu xanh non với Venus. Venus cổ đại không phải vị thần của nhan sắc, đó là vị thần của sinh sôi nảy nở sống trong rừng sâu. “Tử thư Tây Tạng” cũng khẳng định màu xanh non là “màu của bản năng quyền lực”, “nguyên vẹn, không thể phá vỡ nổi và đậm đặc, không hể dạy dỗ và không thể thuần phục”. Nhưng tại sao Hamvas Bela lại gọi dạng tồn tại vĩ đại này là Titan. Trong Thần thoại Hy Lạp, Titan là những vị thần cổ xưa nhất, khổng lồ, mạnh mẽ, bất tử, phi nhân tính, và bị các vị thần Olympia nhốt dưới đáy địa ngục Tarta. Với Hamvas Bela, đây là một ẩn dụ, ông cho rằng: “Tất cả chúng ta đều mang trong mình một gã khổng lồ bị xích, một titan rơi xuống và bị giam cầm trong vô thức. Bởi tất cả chúng ta đều giữ gìn trong bản thân mình bản năng quyền lực sơ khai không thể khuất phục”. Cũng giống như các vị Titan cổ xưa, những con người phát lộ LINH HỒN ĐẦU TIÊN đều “tuyệt vời và cao cả, cùng lúc cũng là thứ vô lương tâm. Vừa giống các vị thần vừa là quái vật. Hoàn toàn chỉ có sự cao cả, cái đẹp, sức mạnh và sự tàn ác”.

Khác với các linh hồn sau đó, LINH HỒN ĐẦU TIÊN không truy cầu trí tuệ hay tình yêu. Chỉ khi tương tác với thế giới bên ngoài, con người mới cần đến trí tuệ để nhận biết và tình yêu để hòa hợp. Vơi sự đơn độc tuyệt đối và tính duy nhất của mình, bản chất của Titan chỉ gắn với niềm hạnh phúc. Con người luôn tìm mọi cách để hạnh phúc nhưng đều không thể. Tiền bạc, địa vị, ái tình thậm chí là tàn sát cả thế giới, chúng ta chỉ có nụ cười đắc chí mà không có hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có được ở trạng thái của của LINH HỒN ĐẦU TIÊN, bản ngã nguyên thủy, không có giới hạn, độc nhất nhưng vẫn liên kết vô hình với vạn vật, bởi Titan ở trong Thiên nhiên và đồng thời cũng chứa đựng Thiên nhiên.

Bản năng quyền lực của Titan được thể hiện qua Poseidon – vị thần trị vì thành phố Atlantis, theo như tài liệu của Plato để lại. Không giống thần thoại Hy Lạp, cổ xưa hơn, Poseidon tồn tại như một vị thần rừng với cái tên Nere. Hamvas Bela cho rằng Poseidon đã thống trị thế giới trước Zeus, bởi dấu vết cổ xưa nhất: cây đinh ba. Cây đinh ba là biểu tượng của quyền lực có thể điều khiển được vạn vật, với ba mũi nhọn chĩa lên, tượng trưng cho Sáng Tạo – Duy Trì – Hủy Diệt. Hơn thế nữa, cây đinh ba giống như chiếc dương vật dựng đứng. Từ xa xưa, trước cả thời đạo Phật, có một văn bản phương Đông có tên là “Nền tảng của sự thật cao cả”, đã bắt đầu bằng những câu:

“Để tính cách cao cả của mi
chiến thắng
những kiêu căng ngạo mạn của các loài thực thể hoang dã
hãy đặt lên vai mi bộ lông thú dữ
và nắm lấy cây đinh ba
biểu tượng của mục đích cao cả”

Hamvas Bela đã nhắc đến rất nhiều trong tập tiểu luận những tượng trưng có từ chiêm tinh học. Sao Neptune, hành tinh mang đặc tính của Poseidon, được đánh dấu bằng cây đinh ba, và nó đại diện cho các ảo tưởng và cũng là lý tưởng. Poseidon là vị thần điên rồ, như những rừng cây mọc lên không giới hạn, như biển cả ào thét và sâu thẳm. Mặc dù Poseidon được mô tả như một kẻ dã man, hoang sơ, đẫm máu, nhưng Hamvas Bela lại thốt lên rằng: “Có hay không một kẻ đáng thương hại hơn, kẻ không biết kính trọng sự khùng điên, trò chơi, nỗi tức tối, cũng như tiếng cười giòn giã của một Poseidon lông lá xồm xoàm? Có kẻ nào đáng tội nghiệp hơn Trái đất, kẻ không biết đùa nghịch với nước, không biết lang thang vơ vẩn hàng nửa ngày trời trong rừng sâu, và hơi thở không tắc nghẹn lại giữa lồng ngực khi nghe tiếng xào xạc mơn man của vòm cây lá? Kẻ chưa bao giờ bắt gặp những lọn tóc nâu tím trong bóng râm của rừng cây và trên những phiến đá cạnh biển?” Một kẻ điên rồ đáng ngưỡng mộ như vậy lại sở hữu công cụ điều khiển thế gian. Chiếc đinh ba của Poseidon làm dậy sóng biển, tượng trưng cho sự kích động dòng máu trong con người, kích động phần bị đè nén trong bóng tối vô thức. Chiếc đinh ba khơi dậy những ảo giác (mà thực ra có thể không đơn thuần là ảo giác), đó là những nguyên mẫu cổ: thần tiên, ma quỷ, nhân mã, tiên biển…v…v… tất cả những phần của thiên nhiên ẩn giấu trong con người. “Poseidon tiêu diệt tất cả những gì mà trong đó con người tưởng mình đã cân bằng, làm suy sụp toàn bộ những gì trong đó con người tưởng mình đã đạt đến đích” và “Kẻ nào rất tự tin vào bản thân, kẻ đó sẽ bị Poseidon dúi xuống biển”. Trong đời sống cổ xưa của biển cả và rừng núi, cái đẹp không cần biết đến, Poseidon không có nhu cầu cái đẹp, chỉ có một sự kích động điên rồ lên thế giới. Cây đinh ba của Poseidon đã quấy động cái trật tự của cuộc sống con người đô thị, khiến con người nhớ rằng có một Titan trong mình, và vấn đề chỉ là Titan ấy có trỗi dậy hay không?

Trong chương “Tu viện đá Meteóra”, ông có nhắc đến những kẻ đơn độc trong tu viện cheo leo, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, nguyện cầu, chay tịnh, thực hiện mọi dạng phép thuật, chẳng qua cũng chỉ để sống sót. Những kẻ đơn độc này tránh xa đám đông, tránh xa sự xâm lấn của thiên nhiên, tránh xa cái chết. Họ sống mấy trăm năm, và Hamvas Bela ví họ như những thằng lùn xấu xí, nhảy múa vòng quanh chính mình. Cũng là sự cô độc, nhưng sự cô độc hèn nhát này khác hoàn toàn với cô độc của Titan. Thậm chí Titan không quan tâm đến sống và chết, Titan chỉ có sự mở rộng không giới hạn. Để nhận ra phẩm chất của Titan, chỉ có thể mường tượng về niềm hạnh phúc lớn lao khi Wordsworth cô độc đắm chìm giữa thiên nhiên, về quyền lực mạnh mẽ của Milarepa và sự điên rồ, vỡ òa trong âm nhạc Beethoven.

Khi LINH HỒN ĐẦU TIÊN – Titan bắt đầu trỗi dậy từ địa ngục Tarta, trỗi dậy khỏi đám đông và vươn lên không ngừng bằng sức mạnh vĩ đại, con người bắt đầu gia nhập vào giống người thứ 6 và bước đi trên hành trình phi nhân loại, bằng tâm lý vĩ mô với bản năng tìm kiếm Thượng Đế. Qúa trình đi trên con đường ấy, con người đang thực hiện phép thuật, hay một ngôn ngữ khác “thuật giả kim tinh thần” (cách gọi của Osho)



Yoga – phép thuật – LINH HỒN CUỐI CÙNG

“Mọi thành phần của thế gian đều có thể trở thành tôn giáo, điều cơ bản là hãy trở thành một tôn giáo đúng nghĩa: trong sạch, cao quý, sáng láng, thực chất và Thượng Đế”. Giống như mọi bậc chứng ngộ của cả phương Tây và phương Đông, Hamvas Bela nhận ra rằng phép thuật vĩ đại có ở mọi hành động mang tính sáng tạo và chuyển hóa. Thông qua phép thuật và yoga, chúng ta đang đi trên con đường tôn giáo của chính mình. Nhưng đừng hiểu phép thuật và yoga theo nghĩa thông thường.

Trước hết, ta phải hiểu về tâm linh, bởi Hamvas Bela không đơn thuần chỉ là nhà duy tâm, ông là một nhà triết học tâm linh. Hamvas Bela định nghĩa: “Còn có một cái gì nhìn ra được của cái khác, sâu sắc hơn, bản chất hơn, bí ẩn hơn, một trải nghiệm, một cảm nhận, một sự thể hiện ra ngoài. Tâm linh từ một mặt khác nhận ra, trải qua và thấu hiểu được cái không nhìn thấy. Mặt không nhìn thấy, mặt vô hình này người ta gọi là tri thức. Bởi tri thức nằm bên trong, dấu kín trong sự vật, ẩn sâu trong hiện tượng. Con mắt tâm linh nhìn thấy tri thức của hiện thực, nhìn thấy ý nghĩa của hiện tượng, nhìn thấy, đằng sau vật chất là tinh thần, đằng sau thể xác là linh hồn. Nhưng cái nhìn tâm linh có thể nhận ra từ cái khác nữa. Bởi tâm linh không chỉ là nhận ra mà còn là tri thức… Con mắt có khả năng tâm linh nhìn thấy một lúc toàn thể thế giới, thống nhất và trong MỘT, ở nơi tất cả là MỘT. Như vậy nếu ai hỏi tâm linh( misztika) là gì, cần phải trả lời: là khả năng nhìn thấy, trải qua và hiểu được vào sâu thẳm, ẩn dấu đằng sau sự đa dạng vô tận của thế giới, đấy là cái DUY NHẤT MỘT của số nhiều.” Đây là định nghĩa đúng đắn nhất về tâm linh. Tâm linh không phải là cái mơ hồ ẩn giấu được mã hóa bằng các ảo giác. Đó chỉ là những mảnh vụn của tâm linh. Nói ngắn gọn, ta có thể hiểu, tâm linh là tri thức về vũ trụ toàn thể.

Phép thuật chỉ có thể được thực hiện khi có sự hiểu biết của tâm linh, nhưng phép thuật không chỉ là tri thức, phép thuật là hành động tác động lên sự vật. Và bởi thế, mọi sự vật bị biến đổi, đều là dấu vết của phép thuật. Leonard di Vinci khi tạo ra những cỗ máy từ vật chất, ông đang thực hiện phép thuật theo dạng của mình. Thượng Đế thực hiện phép thuật qua việc sáng tạo và thiết lập vũ trụ theo một trật tự ẩn vừa hài hòa vừa hỗn độn.

Có một phần của Titan cũng rất thú vị, đó là Sirene. Sirene, trong truyền thuyết là những nàng tiên biển, sử dụng giọng hát của mình để mê hoặc thủy thủ. Sirene là một dạng nữ tính của Titan. Quyền lực của Titan nằm ở sức mạnh, quyền lực của Sirene nằm ở sự quyến rũ. Titan và Sirene có thể được coi như 2 nguyên mẫu cổ, đại diện cho đàn ông và đàn bà. “Sự quyến rũ là sức mạnh của đàn bà, cũng như sức mạnh là sự quyến rũ của đàn ông”. Nhưng tất cả sự bản nguyên này đều khiến con người vượt quá giới hạn, vì dù là Sirene hay Titan, thì các thực thể này không biết đến sự dừng lại. Câu chuyện của Lucifer là câu chuyện của Titan muốn vượt qua giới hạn của mình. Milarepa đã vượt qua giới hạn bằng sự trả thù, Beethoven khi chạm tới giới hạn phải trả giá bằng hành động điên rồ: chọc thủng đôi tai của mình.

Trong chiêm tinh học, có một hành tinh chỉ sự giới hạn, đó là sao Thổ – Saturn. Saturn có biểu tượng như cái ách. Điều này giống với cách hiểu của Hamvas Bela về yoga. Yoga là con đường khổ tu, là sự cầm cương bản năng mãnh liệt của Titan. Khi Beethoven chọc thủng màng nhĩ của mình, đắm chìm trong thế giới âm thanh nội tại, ông đang thực hiện yoga của chính mình. Nhưng phẩm chất của Yoga thể hiện rõ nhất qua con đường khổ tu của Milarepa.

Milarepa là một bậc thầy phép thuật hắc ám, bản chất Titan đầy ứ trong ông và thôi thúc ông tàn sát. Nhưng khi bước vào con đường tu hành đích thực, bậc thầy Marpa – Đấng chuyển hóa vĩ đại, đã bắt ông hết ngày này sang ngày khác, xây nhà rồi lại gỡ từng phiến đá bê về vị trí cũ của nó. Milarepa sau đó vào hang núi sâu sống một mình giữa băng giá và chỉ có ăn tầm gai để sống. Milarepa không giống những tên lùn trên núi cao trốn chạy cái chết, bằng sự khổ hạnh, ông đối mặt với cái chết. Trong những ngày tháng đó, bản chất Titan của ông trỗi dậy với quyền lực và sức mạnh, ông có thể hoàn toàn tạo ra lửa trong cơ thể để sưởi ấm. Nhưng như thế là sử dụng phép thuật hắc ám, phép thuật vụ lợi. Bởi thế, ông đã không sử dụng phép thuật, ông chấp nhận chịu đựng trong sự khổ hạnh, chấp nhận cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Và trong yoga khổ hạnh, ông đã được giải thoát, thinh nhẹ và bay lượn. Ngay cả khi biết mình sẽ bị đầu độc, ông vẫn chấp nhận mình bị đầu độc. Yoga vĩ đại là yoga khổ hạnh, nhưng có thể chuyển hóa được tinh thần

Sự khổ hạnh chỉ là cái vẻ bề ngoài, bản chất đích thực của Yoga, nói như Hamvas Bela, là “sự phá sản”. Kẻ cuồng tín sẽ tức điên khi ông so sánh yoga với tục Hannibal – những kẻ ăn thịt người, giữa việc bị đóng đinh trên cây thập giá với nghi lễ đẫm máu của thổ dân da đỏ. Tục Hannibal hay nghi lễ dùng roi quất lên nhau cho tứa máu, tất cả đều tượng trưng cho sự hành hạ, hủy hoại thể xác. Đức Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá cũng vậy, ông chấp nhận điều này không trốn chạy, mặc kệ cả lời dụ dỗ của quỷ dữ. Đó là sự chấp nhận cái chết hoàn toàn. Yoga là một sự tự hành hạ bên trong, những đòn roi và móng vuốt của quỷ dữ cào cấu chỉ ở sâu thẳm bên trong, và sự bình thản cũng diễn ra bên trong. Một trong các bài tập ở tu viện Tây Tạng, đó là vị Đại Lạt Ma đọc những câu thần chú triệu hồi quỷ dữ, bao trùm lên tâm trí của đệ tử. Và cuộc chiến bên trong bắt đầu, nơi con người nhận ra “sự phá sản” chính là tha thứ lớn nhất của Thượng Đế, của đấng GIỚI HẠN: “Sự phá sản là việc bước qua giới hạn, là sự chết đi có ý thức. Con người lãnh cái chết vào bản thân bằng sự tỉnh táo toàn diện của ý thức. Không ngất lịm, không suy sụp, không trốn chạy, không thu mình lại và không gào thét. Ý thức hoàn toàn tỉnh táo, như một tấm gương, không hề run rẩy khi con người bước qua. Đấy là sự phá sản.”

Cũng trong chương “Milarepa”, Hamvas Bela khẳng định phép thuật tối cao nhất: Tình yêu thương. Tình yêu thương là sự vô bờ bến, nó không đối nghịch với phẩm chất Titan, nó là dạng tiến hóa cao nhất, khi con người đạt đến giới hạn và tan biến, nghĩa chết hoàn toàn, hiến dâng toàn bộ cho Thượng Đế, cho tồn tại. Trong cái chết này, chúng ta đạt đến LINH HỒN CUỐI CÙNG – Linh hồn Thượng Đế. Đó là ý nghĩa khi Đức Phật nhập vào Niết Bàn – cõi vĩnh hằng, khi Jesus nói rằng “Ta cũng hoàn hảo như cha ta ở trên trời”. Họ đều trải qua cái chết thiêng liêng. Tình yêu thương là cái chết thiêng liêng, nơi cái Tôi hoàn toàn biến mất, Titan hòa lẫn vào toàn thể. Đừng nhầm cái Toàn thể vĩ đại này với những mảnh vụn rời rạc, cặn bã, rác rưởi của đám đông. Đám đông không phải toàn thể, mà chỉ là một phần. Và bằng tình yêu thương, con người mới có thể vượt lên trên đám đông mà không thù hằn hay tàn sát, chịu đựng mọi đòn roi của số phận để có thể nói “Có” với Toàn thể.

Thượng Đế đau khổ và Con đường thiêng liêng

“Chúng ta không mang lại quyền lực tốt đẹp lành mạnh cho các hành tinh khác như sao Một, mang sự xung đột như sao Hỏa, sự thống nhất như sao Vệ Nữ. Cái chúng ta mang cho các hành tinh: Thượng Đế đau khổ. Đấy là ý nghĩa tượng trưng của chúng ta. Từ đằng xa họ gọi tên chúng ta như thế, và tên của chúng ta có lẽ chỉ những kẻ nhập định có quyền xướn lên, để sự thần bí nói về những bĩ ẩn của một đời sống, thứ đời sống chúng ta trải nghiệm”

Sự đau khổ, dường như là món quà của Thượng Đế dành cho con người chúng ta. Trải nghiệm đau khổ này, chính là việc trải nghiệm đòn roi của đám phù thủy trong nghi lễ của người da đỏ, là chịu đựng sự cắn xé của những kẻ Hannibal, là trải qua những móng vuốt của quỷ dữ ở sâu thẳm bên trong, “như Heraclite nói rằng Vũ trụ bảo vệ chúng ta bằng roi vọt”. Trong sự hành hạ ấy, chúng ta thức tỉnh, chúng ta nhìn thấy được ngay cả Địa Ngục cũng thiêng liêng, và chúng ta đang bước trên con đường của Thượng Đế, đang khai sinh ra LINH HỒN CUỐI CÙNG.

“Đời là bể khổ”, Đức Phật đã nói vậy, nhưng “Quay đầu là bờ”, không có ý nghĩa như một sự đầu hàng, “quay đầu” là sự quay lại bên trong, quay lại với điều thiêng liêng và cao cả, thay vì đồng nhất mình trong bể khổ và chết chìm trong đó. Ở cõi thế gian, các chính trị gia, các nhà sáng chế, các học giả… tất cả quay cuồng trong bể khổ, tìm mọi cách để chống lại điều này, và tự cho mình là bậc cứu thế vĩ đại. Phần Titan ngớ ngẩn trong họ muốn dắt con người vượt qua giới hạn và trốn chạy đau khổ. Trong tất cả những con người của thế gian hiện nay, với Hamvas Bela, chỉ có thi sĩ còn đảm nhiệm vai trò thiêng liêng này: nhắc nhở con người về sự cao cả. (Thi sĩ thiêng liêng không giới hạn ở người làm thơ, nói rộng hơn, đó là nghệ thuật câu từ)

Hamvas Bela nói về sự thoái lui của các nhân vật vĩ đại. Họ thoái lui, bởi đám đông lên ngôi. Đám đông không còn đi theo sự dẫn dắt của thần tượng, đám đông bắt đầu trèo lên cao hơn. Đám đông tự cho rằng những mảnh vụn cặn bã có thể học để trở thành tu sĩ, trở thành lãnh tụ, trở thành vua chúa, thậm chí học để trở thành thi sĩ thiêng liêng. Tất cả những điều thiêng liêng, không thể học một cách hữu hình bằng các kỹ năng. Những người vĩ đại đều thoái lui, các ngôi đền đều bị đốt cháy bởi trí não vô thần của đám đông (dường như đám đông không chỉ có chung một linh hồn, mà còn có chung một bộ não), chỉ còn Thi sĩ là ở lại và rêu rao với nhân loại về sự thiêng liêng, về điều vĩnh hằng một cách đầy cảm hứng. Bởi là kẻ cuối cùng còn sót lại, nên thi sĩ gánh lên mình tất cả trách nhiệm của những nhân vật đã thoái lui: “Từ giây phút trong cái vòng tròn thiêng liêng ấy chỉ còn duy nhất THI SĨ sót lại, bắt buộc đảm nhận quyền lực của vua chúa, đảm nhận phẩm chất của giới quý tộc, thói quen nghi lễ của linh mục, bản năng chiến đấu của người quân nhân, tri thức về sự thật của quan tòa, nỗi say mê ngây ngất của nghệ sĩ, của nhà bác học – từ giây phút ấy nhà thơ vượt hẳn tầm vóc của nhà thơ”. Trước đó, người ta quan niệm thơ ca chỉ là sự diễn đạt hay thể hiện một điều gì đó, rồi kết luận “nhà thơ là kẻ từng trải và là kẻ đi chắt lọc”, hay “thi ca là một nhân tố văn hóa, giống như luật, tôn giáo, nghệ thuật và tư duy”, và “thơ ca là một thăng hoa thụ động của sự diễn đạt, kết quả phẩm chất tâm lý, sự trải nghiệm, sự chắt lọc, của nhân tốt tạo ra văn hóa”. Nhưng đúng như Hamvas Bela nhận định về những kẻ lý luận dốt nát về thơ ca, của “đám đông cố hiểu nhà thơ” và sự ghen tị cố kéo nhà thơ xuống ngang tầm với mình, thậm chí coi những nhà thơ chẳng bận tâm đến việc kiếm sống là những kẻ điên rồ ngớ ngẩn.

Từ cuối thế kỷ 19, ở Châu Âu, giới học giả đã có những nhóm người tách khỏi đám đông, và họ bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của thơ ca. Nhóm Stefan George cho rằng nhiệm vụ của nhà thơ là “Phục vụ và thống trị”, phục vụ Thượng Đế và thống trị cái đẹp, tất cả là để bảo vệ “Vương quốc vĩnh cửu” – trung tâm sự sống của con người. Trước đó, Goethe, Schiller, Holderlin đều đã nắm giữ vị trí này với các cương vị khác nhau. Đến Baudelaire, nhà thơ không chỉ gánh vác từng ấy trách nhiệm, mà còn có một trách nhiệm nữa, mà còn là sự “giữ gìn hình ảnh tượng trưng xứng đáng với con người, hình ảnh này đang bị bỏ rơi và biến mất”. Nhưng quan hệ của nhà thơ và đám đông dân chúng thật chẳng dễ dàng gì. Một sự xung đột mang tính quy luật, evestrum sẽ tìm mọi cách để lôi tuột những con người thiêng liêng rơi xuống đáy cùng với nó. Đám đông luôn tiêu diệt nhà thơ bằng mọi cách: sỉ nhục, bôi nhọ, giam hãm… Và nhà thơ bắt buộc phải bảo vệ mình bằng sự bí ẩn tới mức không thể hiểu được. Buồn cuồi ở chỗ là, sự ẩn mình của nhà thơ, cái áo giáp của hiệp sĩ linh thiêng lại trở thành con đường cách tân hình thức của những kẻ học đòi. Vấn đề ở chỗ, mọi sự tấn công của đám đông lại chính là đòn roi của thế giới khổ đau, lĩnh nhận chúng và hiến tế mình cho điều thiêng liêng, thơ ca qua đó mà tuôn chảy, LINH HỒN CUỐI CÙNG cũng qua đó mà hiển lộ. Và đây là nhiệm vụ của nhà thơ linh thiêng: “Phục vụ quyền lực chưa đủ, cần phải nắm giữ lấy những quyền lực đó. Chưa đủ chỉ sống từng trải trong thế giới, cần phải tạo ra thế giới nữa. Sự sống thiêng liêng dành cho con nười không chỉ mở mà luôn cần phải mở tiếp. Và cái tôi phải trả giá cho nó không ít, chính là bản thân tôi: tôi cần phải hiến dâng. Nhưng chỉ hiến dâng tôi không đủ, sự hi sinh cũng vẫn ít: bằng sức mạnh của ngôn từ tôi cần mở rộng sự siêu phàm.”

Nhóm George đã nhận ra rằng, “số phận của nhà thơ chính là nhóm”, đó là sự tạo dựng cộng đồng. Hiểu theo một nghĩa rộng hơn, những người thuộc giống loài thứ 6 phải cố kết thành một cộng đồng. Ở những thế kỷ trước, khi các cá nhân này xuất hiện đơn lẻ, họ đã bị tiêu diệt. Nguyên tắc căn bản của Cộng đồng này, chính là Tình bạn. Hamvas Bela đã dành hẳn một chương để nói về điều này.

Trong chiêm tinh học, có hẳn một khu vực của Tình bạn, nhà số 11, sánh ngang với Tình yêu, Sự nghiệp, Sở hữu, Sự hiến dâng, Sự chuyển hóa… Nhà số 11 được quản trị bởi chòm sao Bảo Bình, chòm sao của ý tưởng và sự khai sáng. Trong thần thoại Hi Lạp, một nữ thần ít được nhắc đến, nữ thần Phillia, nữ thần tình bạn, chịu trách nhiệm về sự cố kết cộng đồng. Đừng nhầm lẫn tình bạn với một sự tụ tập, cũng không phải tình yêu, không phải thiết chế, không phải đồng môn, không phải đồng bọn, cũng không phải đồng bào. Trong nhiều thế kỷ, tình bạn bị lãng quên, thậm chí bị cho rằng là sản phẩm của nhân tạo. Nhưng nếu nhìn lại những truyền thống cổ xưa của đàn ông (theo như Hamvas Bela dẫn), đó là tổ chức các chiến binh, các hiệp sĩ thánh chiến, các hội ái hữu… Tình bạn có trong đó và là cột trụ gìn giữ mọi cộng đồng ấy.

Ta có thể mô tả thế nào về tình bạn, Hamvas Bela đã đưa ra định nghĩa: “Có một quan hệ khó hiểu giữa tình bạn và các vì tinh tú. Tại sao ngôi sao lại là một người bạn? Tại sao người bạn lại là một ngôi sao? Bởi vì sao rất xa mà vẫn cứ lấp lánh sáng trong ta. Bời vì bạn là của ta mà vẫn không thể với tới? Bời vì không gian ta gặp gỡ nhau không thuộc về con người, mà thuộc về vũ trụ? Bởi bạn không đòi hỏi từ ta cũng như ta không đòi hỏi từ bạn bất cứ cái gì? Chỉ duy nhất một điều bạn hãy cứ là bạn, như ta hãy cứ là ta, và điều này đối với cả hai ta đều quá đầy đủ”. Còn gì đẹp đẽ hơn thế! Một cộng đồng trong đó chúng ta vẫn là chính mình và an toàn để thể hiện tất cả, từ LINH HỒN ĐẦU TIÊN hoang dã cho đến LINH HỒN CUỐI CÙNG thiêng liêng.



Điều này hoàn toàn trái ngược với Tình yêu nam nữ. Ngay sau chương Tình bạn, Hamvas Bela luận về tình yêu thông qua những bức thư còn sót lại từ thời Trung Cổ của Heloise và Abélard. Nếu ở trong Cộng đồng với tình bạn, bản chất vẫn bị giữ, thì trong mối quan hệ tình yêu nam nữ, hai linh hồn không đối xứng như người ta lầm tưởng, hai linh hồn hòa làm một.

Hamvas Bela phải thú nhận sự khó hiểu của đàn bà. Ông không chấp nhận cách định nghĩa về đàn bà trước đó. Đàn bà không chỉ là Eva (người vợ), Lilith (nữ quỷ đẫm máu) hay Sophia (trinh nữ). Một nguyên mẫu cổ xưa hơn thế: Sirene. Hãy mường tượng những mô tả về loài tiên biển: quyến rũ nhưng độc ác, đẹp đẽ nhưng đưa đàn ông tới cõi chết. “Chính vì vậy, đàn bà có thể trở nên hết sức tinh tế cũng như hết sức thô tục, có thể trở nên hết sức cao quý những cũng có thể hết sức trụy lạc”. Hành động cởi áo và tắm của đàn bà trước đêm tân hôn, không chỉ đơn thuần là gợi dục, đó là một nghi lễ mang tính tôn giáo, khi đàn bà cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài, để khơi dậy Sirene ở bên trong mình. Bằng việc để Titan và Sirene hòa làm một, tình dục được chuyển hóa thành tình yêu. Tình yêu, Hamvas Bela nhận thức rằng, đó là sự hòa lẫn của LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ với LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ.

Tôi chợt nhớ đến câu thần chú Namasté trong các nghi thức Tantra. Tantra là thông qua giao phối tình dục, đôi nam nữ đánh thức phần Thượng Đế bên trong mình và hòa làm một. Namasté có nghĩa là:

“Linh hồn của ta tôn vinh linh hồn của người

Ta tôn vinh khoảng không bên trong người, nơi toàn bộ vũ trụ trú ngự trong đó

Ta tôn vinh tình yêu, ánh sáng, sự thật, sự bình an ở bên trong người bởi vì điều đó cũng ở bên trong ta

Bằng việc chia sẻ điều này, chúng ta hợp nhất, chúng ta giống nhau, chúng ta là một”

Bởi thế, hôn nhân đến từ tình yêu đích thực, giống như Heloise và Abélard, chính là con đường đến với Thượng Đế, cũng giống như yoga, thơ ca, âm nhạc. Nhưng điều này có lẽ quá hiếm hoi. Vì nàng Sophia có thể đã bay lên Thiên Đường, và Adam chỉ nhận được cái phần xác thịt, đó chính là Eva. Và bởi thế, đời vẫn là đau khổ, giống như tất cả các tôn giáo, các triết gia, nhà thơ đã nhắc đi nhắc lại.

Chương cuối “Ngày lễ và Cộng đồng” có lẽ là lời lý giải hoàn hảo cho toàn bộ những gì mà Hamvas Bela đang làm trong tập tiểu luận này, và cả những tác phẩm khác của ông. Trong đó, ông kể về 4 nhà thông thái lên Thiên Đường: một người đã chết ngay trước cổng Thiên Đường, một người hóa điên, một người “tự khóa trái ấn tượng này cho bản thân”, chỉ có người thứ tư là rời bỏ Thiên Đường và quay trở về với cộng đồng của mình. (Cộng đồng ở đây có nghĩa rộng hơn so với Cộng đồng nhóm được nhắc ở trên). Trải nghiệm Thiên Đường là trải nghiệm hạnh phúc, đứng trước hạnh phúc có nhiều người không thể chịu nổi. Hạnh phúc là đặc ân chỉ của Titan, những người nào sống đúng với phẩm chất Titan của mình thì mới thẩm thấu được hạnh phúc. Nhưng Titan là kẻ ích kỷ, người thứ ba tự trốn trong hạnh phúc của chính mình và mãi ở dạng LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Chỉ có người thứ tư, hiểu rằng cần phải hiến dâng, và người đó ra đi, để mang ánh sáng Thiên đường đến với cộng đồng của ông ta. Nhưng vấn đề ở chỗ, đôi khi áp đặt hạnh phúc của mình lên Cộng đồng lại chính là một dạng bạo lực kiểu Titan. Hiến dâng cho Cộng đồng thật không đơn giản, không giống như tất cả các lãnh tụ tôn giáo, các chính trị gia và triết gia rao giảng lý tưởng về hạnh phúc… Làm thế nào để đánh thức một Cộng đồng đang bị vô thức chiếm lĩnh mà không cần đến sự lừa mị hay cưỡng chế. Chỉ có là Tình yêu thương, nhưng điều đó không cố để có được. Tình yêu thương chỉ có trong LINH HỒN CUỐI CÙNG và chỉ LINH HỒN CUỐI CÙNG mới có tình yêu thương đích thực.

Điểm đặc biệt ở phần này nằm ở định nghĩa về “Cộng đồng” của Hamvas Bela. Ông không cho rằng một cộng đồng người đáng được gọi là “Cộng đồng”: “Cộng đồng duy nhất – độc nhất chỉ tồn tại trong một sự sống mà sự hiến dâng mở ra dành cho con người: cao hơn sự sống nười. Sự sống chung của tất cả mỗi con người không nằm trong vật chất, trong tinh thần, trong tôn giáo hay đạo đức, mà nằm trong Thượng Đế. Nếu con người gặp nhau trong vật chất, trong đạo đức, trong chủng loài, trong tinh thần thì ngôn ngữ, vật chất, nhà nước, tinh thần sẽ tan rã, cộng đồng sẽ chất dứt. Sự tan hòa sau rốt chỉ có thể trong sự sống của Thượng Đế. Đấy mới là một cộng đồng chân chính. Duy nhất. Đấy là: cộng đồng”. Với cách hiểu này, ta có thể thấy rằng bất cứ sinh linh nào sống với nhau trong tính toàn thể của Thượng Đế, nơi đó cộng đồng được tạo dựng. Bởi thế, khi giống người thứ 6 xuất hiện, Cộng đồng đích thực bắt đầu được tạo dựng. Ở đó, tính Thượng Đế được thể hiện qua mọi hành động của ngày thường nhật, và ngày lễ là ngày của hiến dâng. “Ngày lễ là cộng đồng của tất cả con người trong sự sống Thượng Đế nơi con người chỉ có thể đạt tới bằng hiến dâng cái tôi của nó.” Điều này tương đồng với kinh Veda, khi các bậc chứng ngộ cổ xưa viết: “Cả vũ trụ này là một cuộc hiến tế lớn”.

Đi đâu để tìm Cộng đồng này? Trong khi những gì chúng ta nhìn thấy trên thế giới này chỉ là những cộng đồng giả vờ, là sự tập hợp của những cái Tôi bạo lực (Bạo lực có thể đến bằng nhiều cách, không chỉ có chém giết). Đó là ý nghĩa của Khải huyền. Cộng đồng đích thực chỉ có từ những LINH HỒN CUỐI CÙNG ở THỜI GIAN CUỐI CÙNG. Và có lẽ, chúng ta chẳng cần thiết phải sợ hãi ngày tận thế đến vậy.

—-



Hà Thủy Nguyên

Tập tiểu luận “Câu chuyện vô hình” nằm trong cuốn sách “Câu chuyện vô hình &Đảo”của Hamvas Bela ( Dịch giả: Nguyễn Hồng Nhung) , do Nhà xuất bản Tri Thức phát hành vào năm 2012.

Cá tính và văn hoá





Ta vốn ít quan hệ với đàn bà.

Lý do dễ hiểu. Ta vốn e thẹn. Ta rất ít quan hệ xã hội. Nhưng ta chưa hề muốn sống bên lề hay ngoài xã hội, ngoài nhân giới. Khi cần thiết, ta xã giao. Đã xã giao đương nhiên có quan hệ với đàn bà trong xã hội. Trong quan hệ ấy, ta chưa hề "xã giao" :

1/ Ta chưa hề có nhu cầu quyến rũ ai. Những thái độ, cử chỉ, lời nói, phong cách, e tutti quanti, có thể quyến rũ đàn bà, dù ta biết tới, ta chưa hề dùng để chinh phục một ai. Đùa cợt tán tỉnh theo kiểu PhuLăngXa hay Ziao Chỉ, bình dân hay trí thức, cho zui zui, thì có. Nhưng để thu hút sự chú ý của ai ai thì chưa bao giờ.

2/ Ngược lại, những thái độ, cử chỉ, lời nói, phong cách, e tutti quanti, có thể quyển rũ đàn ông, chưa hề khiến ta động lòng. Không phải vì ta vô cảm. Người đàn bà đẹp, hấp dẫn, ta cảm được, khao khát được. Nhưng hành vì của người ấy để thu hút sự chú ý của người khác, ta lãnh đạm : ta nhìn thấy. Bạn nữ ở đời ta thường là những người đà bà hồn nhiên, chí ít có lúc thật với ta, trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, dù vô thức.

Ta từng tin : đó là cá tính của con người, một thứ bẩm sinh do tạo hoá, các triết gia đã tán nát nước. Chán ngắt ! Niềm tin ấy có căn cứ : trong đời người không ai giống ai. Ở cả ba kích thước cấu tạo từng người : vật-thể, sinh-thể, văn-hoá, trong nghĩa biện-chứng.

Hôm nay, ta nghi ngờ niềm tin trên. Có thể con người, kể cả ta, không có cá tính !

Ta đang đọc một truyện chưởng Tàu, hè hè. Đầy quan hệ nam-nữ với những thái độ, cử chỉ, lời nói, phong cách, như trên. Ta đột nhớ tiểu thuyết của Alexandre Dumas. Thuở ấy, ta chưa hề có quan hệ hay nhu cầu quan hệ với nữ giới. Nhưng ta đã say mê tiếp cận những quan hệ nam-nư trong tiểu thuyết của Dumas. Sau này, trong tác phẩm của nhiều tác giả khác, Tây, Đông. Cuối cùng, qua nghiệm sinh của ta.

Những kiến thức kia, những nghiệm sinh nọ, lúc đầu mơ hồ, qua năm tháng ở đời, cuối cùng khiến ta ý thức : có thực nhưng không thật.

Có thực : người đời, từ lâu, bất kể nội tâm riêng, chân tình sống, yêu, hận thù, ứng xử với nhau như vậy. Và đau khổ đến chết. Một hình thái tình người quý báu, dù bệnh hoạn, không thể coi thường.

Không thật : cái ta gọi là nội tâm không thể hình thành ngoài môi trường văn hoá đã nhào nặn ra ta, với ngôn ngữ, tập quán và những cách ứng xử của nó.

Có thể cá tính của ta chỉ là cách ta phủ định chính mình, mở đường cho khả năng hiện thực một điều gì ta không biết.

Hoặc nó chỉ tái sinh mỗi khi ta ngừng suy nghĩ ? Chẳng thể nào : tất cả sẽ chìm vào cõi vô ngôn, thế giới không người.

Phan Huy Đường
2014-04-27