Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2018

Đọc “Phật Giáo và Chánh Trị Việt Nam Ngày Nay” của Tiến Sĩ Hoàng Xuân Hào



Đào Văn Bình


Đ ây là luận án Tiến Sĩ đệ trình tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn năm 1972. Tài liệu gồm 700 trang đánh máy, chưa bao giờ in thành sách, vừa được đưa vào Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Luận án này được bảo trợ và hướng dẫn bởi cố GS. Nguyễn Văn Bông, Thạc Sĩ Công Pháp (*), nguyên Viện Trưởng Học Viện QGHC.

Tôi có một vài kỷ niệm nhỏ với Tiến Sĩ Hoàng Xuân Hào. Khi tôi bước vào Đại Học Luật Khoa Sài Gòn năm 1962 nằm trên con Đường Duy Tân “Cây dài bóng mát” thì Ô. Hoàng Xuân Hào đang là Phụ Khảo cho Giáo Sư Vũ Văn Mẫu dạy môn Tư Pháp năm Thứ Nhất. Như thế Hoàng Xuân Hào ít ra phải học Luật trước tôi 5 năm. Khi tôi tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa thì không còn biết gì về Hoàng Xuân Hào nữa cho đến khi báo chí loan tin ông đắc cử vào Liên Danh Thượng Nghị Viện và trở thành Thượng Nghị Sĩ. Với chức vụ này sau 1975 ông bị đưa đi cải tạo 16 năm và định cư vào Hoa Kỳ rất muộn. Tại San Diego, California, ngày nào ông cũng trì tụng Kinh Pháp Hoa, ẩn cư, không giao tiếp với ai. Thỉnh thoảng tôi có gọi điện thoại, nhất là dịp Tết để thăm hỏi “Đại Ca”, may mắn lắm mới được ông tiếp chuyện và tôi rất mong được đọc luận án Tiến Sĩ của ông. Hoàng Xuân Hào là người bình dị, khiêm tốn, cởi mở và có lòng tin sâu vào Phật Giáo. Có lẽ ông là vị trí thức trẻ có học vị cao nhất trong hàng ngũ dân cử Miền Nam lúc bấy giờ.

Khi bàn về “Tôn Giáo và Chính Trị” có lẽ chỉ nên bàn về các quốc gia Âu Châu hay Hồi Giáo. Trong lịch sử khoảng 2000 năm nay, tại Á Châu, điển hình như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam… Phật Giáo chưa bao giờ trở thành một thế lực chính trị để ảnh hưởng, khống chế hoặc lật đổ chính quyền. Các vị vua Á Châu chưa bao giờ biến Phật Giáo thành một lực lượng chính trị để hậu thuẫn cho mình. Thậm chí có những vị vua chúa là Phật tử thuần thành như Lương Vũ Đế của Trung Hoa, Trần Nhân Tông của Việt Nam, Chúa Sãi ở Đàng Trong. Thậm chí các tu sĩ Phật Giáo cũng không dựa vào nhà cầm quyền để bành trướng tôn giáo. Phật Giáo chủ trương “giác ngộ” rồi tin theo chứ không hề dụ dỗ, tuyên truyền hoặc cưỡng ép. Tại các quốc gia Á Châu, Phật Giáo chỉ là một hệ thống triết học, hành động (qua tu thân) vừa mang tính đạo đức, vừa mang tính tâm linh (đời sau, kiếp sau, cõi Cực Lạc) để hoàn thiện và đem lại hạnh phúc ngay bây giờ (here now) cho con người. Giới luật của nhà Phật cấm tu sĩ can dự vào chính quyền.

Trong khi đó tại Âu Châu và Trung Đông với Ca-tô Giáo La Mã và Hồi Giáo, Thần Quyền đã khống chế Thế Quyền, hai bên khắng khít như gia đình mà giáo hội đóng vai tôn trưởng. Tôn giáo lợi dụng sức mạnh của chính quyền để bành trướng tôn giáo. Chính quyền lợi dụng tôn giáo, thông qua giáo sĩ để củng cố chính quyền. Thế nhưng theo thời gian, sự “hợp tác” này đã đưa tới nhiều vấn nạn. Tại Hoa Kỳ, năm 1797 đã đưa nguyên tắc “Tách biệt Nhà Thờ và Chính Quyền” (Separation of Church and State) vào Hiến Pháp. Tại Pháp vào ngày 3/7/1905 ”Phong trào chống lại các tu sĩ Công Giáo thành công lớn khi lưỡng viện Quốc Hội Pháp bỏ phiếu ban hành luật tách rời chính quyền ra khỏi Giáo Hội Ca-tô La Mã.“ (Chronicle of the 20th Century). Còn ở Anh, mãi tới năm 1919, chính phủ mới không còn tài trợ cho Giáo Hội Anh nữa.

Vì Phật Giáo tại Á Châu nói chung và Việt Nam nói riêng không can dự vào chính trị, cho nên chúng ta thử xem tác giả đã có luận điểm như thế nào về vai trò chính trị của Phật Giáo Việt Nam? Để hoàn tất luận án, ngoài tài liệu bằng Anh và Pháp Ngữ, báo chí, tài liệu, sách vở liên quan đến Chính Trị Học và Phật Giáo, ông còn tham vấn một số vị tiểu biểu như: Thượng Tọa Thích Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thượng Tọa Thích Minh Châu, LM. Hoàng Quỳnh, GS. Vũ Văn Mẫu, GS. Trần Ngọc Ninh, GS. Nguyễn Ngọc Huy, GS. Tạ Văn Tài, LS. Vũ Văn Huyền, Thiếu Tá Đặng Sĩ (Phó Tỉnh Trưởng Nội An Huế năm 1963) cùng một số Sinh Viên Phật Tử. Luận Án gồm bốn phần:

Phần Dẫn Nhập:

Phần I: Những Thành Tố Của Thế Lực Phật Giáo

Phần II: Sự Tham Gia Chánh Trị Của Phật Giáo

Phần III: Giải Pháp Đề Nghị Cho Vấn Đề Phật Giáo Tại Việt Nam.


Phần Dẫn Nhập:

Tác giả đã đưa ra nhận định, “Từ năm 1963, Phật Giáo đã trở thành lực lượng quan trọng trên chính trường VNCH. Hiện tượng này có tính cách mới mẻ trong lịch sử hiện đại và gây nên những chủ trương trái ngược về vai trò của tôn giáo trong đời sống quốc gia…Dầu có nhiều ý kiến mâu thuẫn về hoạt động chánh trị của Phật Giáo Việt Nam (PGVN), người ta vẫn phải đồng ý với nhau rằng tương quan giữa tôn giáo và chánh trị là một thực tại phổ quát đã xuất hiện cùng lúc với sự thành lập xã hội loài người.”

(Sociologie de la Religion, Payot, Paris 1955).

Thế nhưng trong sự cộng tồn, tác động qua lại đó, Thần Quyền đã lấn át Thế Quyền, “Trên đường hoàn tất cuộc phân công vĩ đại ấy (đạo và đời), tương tranh mãnh liệt đã bùng nổ hàng mấy thế kỷ liền giữa Giáo Hội Công Giáo La Mã và các quốc gia Âu Châu để rồi kết thúc bằng sự toàn thắng của lý tưởng quốc gia thế tục.”

Còn về lịch sử PGVN, tác giả viết, “Phật Giáo Việt Nam đã có một dĩ vãng vô cùng oanh liệt, du nhập Việt Nam từ Thế Kỷ II sau Tây Lịch, qua hai ngả Trung Hoa và Ấn Độ, Phật Giáo ngay trong buổi ban đầu đã góp phần tích cực vào việc xây dựng một quốc gia Việt Nam tự chủ. Các danh tăng là những bậc trí thức đầu tiên trong nước đã hỗ trợ đắc lực các Triều Đinh (968-980), Lê (980-909), Lý (1010-1225), Trần (1225-1400) thâu hồi độc lập, thống nhất giang san và phục hưng xứ sở. Hầu hết các vị vua hai triều đại Lý-Trần đều là Phật tử thuần thành và trong việc trị quốc họ thường nhờ cậy tới tài học uyên bác của một số danh tăng. Trong bầu không khí mộ đạo ấy, tư tưởng Từ Bi của Đức Phật đã thấm nhuần trong cả chính sách quốc gia lẫn nếp sống quần chúng…Trong thời kỳ cực thịnh, PGVN cũng không hề khống chế chính quyền do đó đã không có một ảnh hưởng chính trị quá quan trọng như Phật Giáo tại các nước Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan, Ai Lao và Cao Miên. ”

Và tác giả đã có một khám phá rất thích thú về dòng sinh mệnh hay số phận của PGVN, “Theo Paul Mus, nhiệm vụ lịch sử của Phật Giáo Việt Nam giống như “một tôn giáo thay thế” (Religion Relai) tức nó nổi bật lên để khẳng định tính độc lập tự chủ của dân tộc để tránh sự đồng hóa của ngoại bang qua Khổng Giáo . Nhưng nó lại thoái lui khi đất nước đã ổn định, và các nhà cai trị lại quay về với Khổng Giáo khiến Phật Giáo bắt đầu mất ảnh hưởng từ Thế Kỷ 15.” Tác giả đã nhận định về sự suy yếu của Phật Giáo trên chính trường như sau, “Tình trạng phi tổ chức và quan niệm xuất thế (không màng chuyện đời) trội yếu nơi tăng sĩ đã khiến Phật Giáo cổ truyền Việt Nam trong thời cực thịnh lẫn buổi suy vi không thể trở thành một đoàn thể áp lực (Pressure Group) đúng với ý nghĩa hiện đại của danh từ để hành xử một quyền hành thực tế đối diện với uy quyền quốc gia và ảnh hưởng tích cực tới sinh hoạt chính trị.”

Trong phần này tác giả cũng nhắc lại biến cố Phật Giáo 1963 tại Huế mà mọi người đều biết rõ. Thế nhưng tác giả lại cho rằng “Một chế độ độc tài không lối thoát cho các lực lượng chính trị đối lập bị đàn áp và khủng hoảng trầm trọng trong bang giao Việt-Mỹ…Xét cho cùng, cuộc tranh đấu của Phật Giáo chỉ là hiện tượng xã hội tất nhiên phải xảy ra. Nếu không có vụ hạ cờ năm 1963, thì rồi cũng có những sự kiện khác được chọn làm lý do tranh đấu.” Để rồi từ đó PGVN chuyển mình, “Như vậy trong suốt dòng lịch sử 18 thế kỷ của PGVN, năm 1963 đánh dấu một chuyển mình vĩ đại, từ đó nền Tân Phật Giáo do các tăng sĩ cấp tiến đại diện đã từ bỏ địa vị cổ truyền có tính cách xuất thế để trở thành một đoàn thể áp lực mạnh mẽ.”

Và tác giả cho rằng, “Hiện tượng Phật Giáo can dự vào chính trị đã đạp đổ cả một thành trì lâu dài đối với các vị sư. Thật vậy, ngày nay chư Tăng không còn bị coi là những người hủ lậu, yếm thế, “trốn việc quan đi ở chùa” như xưa nữa. Trái lại, chư Tăng xuất hiện từ năm 1963 như những chiến sĩ dũng cảm của Nhân Quyền, những lý thuyết gia chánh trị xuất sắc và những cán bộ hành động mẫn cán.”

Phần Thứ I: Tác giả nói về Những Thành Tố Của Thế Lực Phật Giáo Việt Nam.

Trong phần này tác giả nói về sức mạnh của Phật Giáo nói chung và cuộc tranh đấu 1963 do đâu mà có.

1) Tác giả cho rằng đó là nhờ hoàn cảnh hay thời cơ chính trị.

“Chính sách độc tài của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã từ chối mọi hình thức đối lập khiến các lực lượng chính trị độc lập với chính quyền (các đảng phái) ngày càng công phẫn. Nhưng trước khi vụ Phật Giáo bùng nổ người ta không có cơ hội nào để phản kháng chính quyền một cách có hiệu quả.” Tác giả nhận xét rằng, “Quyền hạn của Ô. Ngô Đình Diệm còn lớn hơn quyền hạn của tổng thống Hoa Kỳ…Do hoàn cảnh bi đát của Miền Nam sau khi Pháp bại trận, Ô. Ngô Đình Diệm cũng chưa được coi là một lãnh tụ siêu việt có thể gây cảm hứng cho lòng chung thủy (đoàn kết) quốc gia. Do đó an ninh quốc gia được dùng như lý do để biện minh cho các biện pháp độc tài. ” Theo sử gia Hoa Kỳ Schlesinger, “Cuộc tranh đấu ấy, ngoài nguyên do tôn giáo, còn có những nguyên do xã hội và chính trị. Đó là cuộc nổi dậy chống lại cơ cấu đẳng cấp xã hội Việt Nam cổ truyền, chống lại thế hệ già nua của những người gọi là “quốc gia Việt Nam” thuộc giai cấp thượng lưu Công Giáo nói tiếng Pháp để ủng hộ một thế hệ quốc gia trẻ trung.”

2) Trong đoạn này, tác giả nói rằng khủng hoảng niềm tin giữa Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn đã có từ năm 1961 và mỗi lúc trở nên trầm trọng hơn. Chính vì thế mà Hoa Kỳ có thiện cảm với cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thế nhưng các giới chức Hoa Kỳ phủ nhận việc chủ mưu trong vụ này và thú nhận họ đã không tiên đoán được sự bùng nổ của Phật Giáo. Thế nhưng còn về cuộc đảo chính 1963, theo các tài liệu thì rõ ràng Hoa Kỳ (Đại Sứ Henry Cabot Loge) đã biết trước nhưng không hề ngăn cản.

3) Do vấn đề kỳ thị tôn giáo:

Vấn đề Phật Giáo tại Việt Nam đã được 16 quốc gia hội viên đưa vào nghị trình của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc Khóa thứ 18. Phái đoàn điều tra của LHQ nhận được hai phúc trình trái ngược. Phật Giáo đồ dẫn chứng những điều khoản khắc nghiệt của Đạo Dụ Số 10. Còn chính quyền phủ nhận những cáo buộc này. Tại nơi trang 53, tác giả đã mô tả một khía cạnh của chính sách kỳ thị tôn giáo như sau: “Được ưu đãi suốt 80 năm Pháp thuộc và chín năm Đệ Nhất Cộng Hòa, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã trở thành một định chế (tổ chức) trù phú với những lợi tức về điền địa, thương mại và thế lực chánh trị. Thêm vào đó, việc thiết lập Viện Đại Học Đà Lạt dưới sự bảo trợ của Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục càng phát triển địa thế vững mạnh của Giáo Hội trong tầng lớp thị dân khá giả. Ưu thế ấy đã giúp Công Giáo dễ dàng gia tăng mau lẹ số lượng tín đồ.”

4) Ảnh Hưởng Của Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo Tại Á Châu:

Phong trào phục hưng Phật Giáo phát khởi tại các quốc gia Á Châu từ những thập niên đầu tiên của Thế Kỷ XX đã đánh dấu sự thức tỉnh và sức quật khởi của các Phật tử trước sức tấn công của nền văn minh Tây Phương. Phong trào đã gây cho các Phật tử tiến bộ trong các nước Phật Giáo, trong đó có Việt Nam, niềm tin mãnh liệt vào khả năng quý giá của Đạo Phật và một ý thức rõ rệt về vai trò chánh trị của Phật Giáo. Các nhà Tân-Phật-Học cho rằng nhiệm vụ của Phật Giáo là giúp cho dân được no ấm để khỏi bận tâm về sinh kế, ngõ hầu có thể tu học. Theo Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, giáo lý của Phật Giáo đã hàm chứa một lý tưởng “quốc gia an lạc”. Người ta có thể tìm thấy trong đạo Phật đủ mọi tư tưởng dân chủ, tự do, nhân bản, khoa học… Đức Phật đã được tôn vinh là đại tư tưởng, đại cách mạng, đại giáo dục và đại sứ giả hòa bình. Dĩ nhiên muốn thế, phong trào Phật Giáo phải cải cách cả phương thức tổ chức lẫn lề lối hoạt động. Tác giả lấy các Hội Reiyo-kai và Rissho-Keseikai của Nhật Bản làm tiêu biểu. Theo tác giả, hiện nay Phật Giáo Nhật Bản có khuynh hướng hợp tác với những Phật tử thuộc các quốc gia khác nhằm mục đích thiết lập nền thống nhất Phật Giáo và tìm kiến hòa bình cho nhân loại.

5) Vai Trò Của Phật Giáo Trong Sinh Hoạt Chính Trị:

Theo tác giả, Phật Giáo hiện đại đang đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị tại Á Châu do một yếu tố lớn là phong trào giải phóng dân tộc thoát khỏi ảnh hưởng kìm kẹp của Tây Phương.

6) Do những Giá Trị Cổ Truyền Của Phật Giáo:

Đó là sự hòa hợp với dân tộc tính Việt Nam và khoan dung với các tôn giáo khác. Các nhà Phật học Việt Nam đều quả quyết rằng PGVN là một nền Phật Giáo dân tộc. Tác giả dẫn chứng quan niệm Tam Giáo Đồng Quy, tôn trọng tục lệ thờ cúng tổ tiên của người Việt, cùng hòa hợp và bổ túc lẫn cho nhau. (Khổng Giáo duy trì kỷ luật từ làng xã tới quốc gia. Lão Giáo tu tiên, tập trung vào cái “tôi” để hưởng nhàn. Còn Phật Giáo phá bỏ giai cấp, phá bỏ tự ngã, chúng sinh cùng bản thể, dùng Từ Bi và Hỷ Xả để đối xử với nhau.)

7) Diễn Trình Phục Hưng Của PGVN:

Xuất hiện từ năm 1930 tới năm 1946. Miền Nam có tờ Từ Bi Âm (1932), ngoài Bắc có tờ Đuốc Tuệ (1934). Tuy nhiên sự phục hưng chỉ có căn bản vững vàng khi các Phật Học Viện được thành lập khắp ba miền. Năm 1940, một đơn vị đầu tiên của thanh niên Phật tử ra đời gọi là Thanh Niên Phật Tử Đức Dục. Tổ chức này sau đổi thành Gia Đình Phật Tử.

8) Trong một chương rất dài khoảng 145 trang, tác giả nói về: Tổ chức, điều hành và mục tiêu của Giáo Hội Phật Giao Việt Nam Thống Nhất (lúc bấy giờ), con người và quan điểm chính trị, cách giải quyết cuộc Chiến Tranh Việt Nam của các Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thượng Tọa Thích Thiện Hoa, Thượng Tọa Thích Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Tâm Giác cùng hậu quả của sự mâu thuẫn giữa hai Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang khiến chia thành hai giáo hội Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự. Chương này cũng đề cập đến vài trò cần thiết của cư sĩ trong dòng sinh mệnh Phật Giáo như trí thức Phật Tử (cư sĩ), Gia Đình Phật Tử, Thanh Niên Sinh Viên Phật Tử.

Phần Thứ II: Sự Tham Gia Chính Trị Của Phật Giáo:

Trong phần này tác giả nhận định, “Cuộc đấu tranh từ trong khoảng 1963-1965 đã đạt được nhiều kết quả mong muốn. Trái lại từ năm 1966 trở đi, hình thức tranh đấu bất hợp pháp đem lại thất bại nặng nề, vì một mặt chính quyền trở dần dần nên ổn định một mặt khác Phật Giáo bị phân hóa.”

1) Kỹ Thuật Tham Gia Chánh Trị Của Phật Giáo: Gồm hai kỹ thuật ôn hòa và mạnh bạo.

- Vận động quần chúng, thông tin tuyên truyền tạo áp lực nhưng không gây bạo động, đồng thời tiếp xúc và thương thuyết với chính quyền. Không vận động giới lập pháp như các quốc gia Tây Phương mà trực tiếp đối thoại với hành pháp/chính phủ. Không đòi hỏi quyền lợi riêng mà chỉ nhân danh quyền lợi của dân tộc.

Cuộc vận động này đã ảnh hưởng tới quần chúng Phật tử và quần chúng không phải là Phật tử, tới các quốc gia Phật Giáo và không Phật Giáo. Cuộc tự thiêu của Thượng Tọa Thích Quảng Đức đã ảnh hưởng tới các quốc gia Tây Phương như Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Thụy Sĩ, Bỉ, Úc, Đức và cả các quốc gia Á-Phi.

- Liên lạc với giới truyền thông/báo chí kể cả các hãng thông tấn quốc tế, đặc biệt là báo chí Mỹ có mặt tại Sài Gòn. Hoa Kỳ lúc đó chia thành hai phe. Phe ủng hộ Ô. Diệm và phe lật đòi lật đổ Ô. Diệm. Báo chí đứng về phe thứ hai vì chính sách bưng bít tin tức và đàn áp báo chí của chính quyền. Các bài phóng sự của các ký giả Malcoln Brown và David Halberstam gây xúc động mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới khiến chánh phủ Việt Nam lâm cảnh lưỡng bề thọ địch: Phật Giáo và ký giả Hoa Kỳ. Tòa Thánh Vatican trong thông điệp ngày 30/8/1963, Giáo Hoàng Paul VI đã tuyên bố, “Chúng tôi có bổn phận nói lên nỗi ưu tư, đau đớn của chúng tôi đứng trước những diễn tiến đáng buồn đang đè nén dân tộc Việt Nam thân mến. Mối lo ngại của chúng tôi mỗi ngày thêm thâm trầm, bi đát…”

- Dù không trực tiếp nhưng khuyến khích, đỡ đầu cho các Phật tử tham gia các cuộc bầu cử từ tỉnh, thị xã tới hội đồng Đô Thành (Sài Gòn). Thế nhưng ảnh hưởng của Phật Giáo chỉ có tại Miền Trung, đặc biệt là Huế-Thừa Thiên. Cuộc bầu cử Bán Phần Thượng Viện năm 1970 đã đưa Liên Danh Hoa Sen do GS. Vũ Văn Mẫu thụ ủy đã đạt số phiếu cao nhất trong số 16 liên danh. Qua cuộc bầu cử này người ta thấy tôn giáo là yếu tố quan trọng nhất. Ngoài ra cũng phải kể tới lập trường hòa bình của Liên Danh Hoa Sen- phản ảnh khát vọng hòa bình của toàn dân Việt Nam. Thế nhưng theo tác giả, không phải không có bàn tay bí mật nhúng vào, áp lực chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải để ít ra một liên danh “đối lập” hiện diện trong ngành Lập Pháp để Tổng Thống Nixon dễ bề chống đỡ với dư luận là, Hoa Kỳ đã và đang ủng hộ một chế độ độc tài phi dân chủ và rằng qua Liên Danh Bông Sen, Miền Nam có bầu cử tự do.

- Đình công của công nhân, bãi khóa của sinh viên, tuyệt thực của tăng sĩ cũng là những phương thức đấu tranh hữu hiệu.

- Bàn thờ xuống đường và đấu tranh vũ trang ở Miền Trung năm 1966 suýt đưa tới nội chiến. Cuộc đấu tranh bạo động của Phật Giáo năm 1966 hoàn toàn thất bại.

2) Tác giả bàn về chủ thuyết đấu tranh bất bạo động gốc Phạn ngữ là Ahimsa, phát khởi bởi Gandhi của Ấn Độ. Ahimsa không chỉ dừng lại ở việc không sử dụng bạo lực mà còn không làm tổn hại tới bất cứ sinh vật nào, kể cả kẻ thù. Và được dùng bởi các quốc gia Tây Phương qua khẩu hiệu “Bất tuân dân sự” của Mục Sư Martin Luther King đấu tranh cho quyền bình đẳng của người Da Màu.

3) Thế nhưng ngày nay, trên thế giới, phương thức đấu tranh “bất bạo động” bị quên lãng vì người ta cho rằng nó không đủ hữu hiệu để chiến thắng. Từ đó tác giả nêu câu hỏi, “Trong tương lai Phật Giáo có đủ phương tiện và kiên nhẫn để theo đuổi cuộc đấu tranh bất bạo động không?” Theo tác giả, “Đấu tranh bất bạo động là khôn ngoan và phù hợp với bản chất của một tôn giáo rộng lượng, khoan dung.”

4) Tương quan giữa Phật Giáo và các lực lượng chính trị.

Mở đầu chương này tác giả đưa ra một nhận định khái quát nhưng nó giống như một định luật, một chân lý, “ Chính trị là một diễn trình những tác động hỗ tương liên tục giữa các lực lượng xã hội. Biến chuyển chính trị thường xuất phát do sự thúc đẩy của ba nguồn gốc: Nhà nước, các đoàn thể trung gian và các hệ thống chính trị quốc tế (nôm na là ngoại bang)”.

5) Tương quan giữa Phật Giáo và các tôn giáo khác:

Phật Giáo cố kéo Cao Đài và Hòa Hảo vào cuộc đấu tranh nhưng hai tôn giáo này giữ vai trò trung lập và dè dặt với lập trường chính trị của Phật Giáo. Thế nhưng thành quả của cuộc đấu tranh lại giúp cho Cao Đài và Hòa Hảo thoát khỏi sự kìm kẹp của Dụ Số 10. Còn đối với Công Giáo, “Vì tình trạng giao hảo giữa hai tôn giáo này trong thời kỳ bất ổn đã căng thẳng quá mức, nên Công Giáo đã thành lập nhiều lực lượng chính trị để đối phó với tình hình nghiêm trọng như :Ủy Ban Trung Ương Tranh Đấu Công Giáo, Lực Lượng Đại Đoàn Kết, Tổng Liên Đoàn Sinh Viên-Học Sinh Tự Dân, Cộng Đồng Giáo Dân Việt Nam, Khối Công Giáo Dân. Trong Công Giáo có ba khuynh hướng. Quá khích có LM. Trần Du và LM. Mai Ngọc Khuê. Ôn hòa có LM. Hoàng Quỳnh. Cấp tiến có LM. Nguyễn Ngọc Lan. ” Hai vị tướng ủng hộ lập trường của Phật Giáo Ấn Quang là Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn.

6) Đối với các thế lực bên ngoài đó là Hoa Kỳ và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tác giả cho rằng, “Mặt

Trận Giải Phóng chỉ lợi dụng được phong trào tranh đấu nhưng không nắm được phong trào”. Còn đối với Hoa Kỳ, “Họ ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963, sau đó mối liên hệ trở nên lạnh nhạt và Phật Giáo trở nên chống đối Hoa Kỳ vì những yêu sách không được thỏa mãn.” Trên báo Chánh Đạo của Phật Giáo ký giả Việt Bằng viết thẳng thừng, “Sự phục hồi những nhân vật cũ trực tiếp đàn áp Phật Giáo cũng như những khó khăn trong nội bộ Phật Giáo đều do người Mỹ gây nên.” Tác giả còn cho biết quân số của Hoa Kỳ tại Miền Nam đã giảm từ 534,000 xuống còn 200,000 vào Tháng 10, 1971. (Điều này cho thấy Hoa Kỳ rõ ràng không còn nhìn thấy chiến thắng ở Việt Nam nữa mà trông chờ vào giải pháp chính tri, tức Hiệp Định Paris 1973 để rút lui trong êm thắm.) Kết luận chương này tác giả đưa lời cảnh báo:

- Tại Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan, “Quyền lực chính trị và tiện nghi vật chất của đời sống văn minh Tây Phương đã làm suy đồi đạo đức của một số tăng sĩ.”

- Sự can thiệp trực tiếp của tăng sĩ vào sinh hoạt chính trị đã gây nên tình trạng bất phân ranh giới giữa tôn giáo và chánh trị. Tình trạng ấy phát sinh mối tương tranh giữa quốc gia và giáo hội.

Phần Thứ III: Giải Pháp Đề Nghị Cho Vấn Đề Phật Giáo Tại Việt Nam:

Mở đầu phần này tác giả đưa ra câu hỏi, “Bảo vệ tôn giáo có nhất thiết là bảo vệ dân tộc không?”

Theo nghiên cứu của tác giả, “Sự can thiệp trực tiếp của tôn giáo vào chính trị chỉ là một hiện tượng chậm tiến” (ở các quốc gia chậm tiến). Từ Thế Kỷ 17, Âu Châu đã quyết tâm xác định vị trí của tôn giáo trong đời sống quốc gia, một quan niệm quốc gia thế tục. Trong các tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ có Công Giáo và Hồi Giáo là đối lực mạnh nhất của quốc gia. Trong suốt thời Trung Cổ quốc gia phải đặt dưới sự chi phối của giáo hội, phải phụng sự giáo quyền và quyền bính của Thánh Quốc phải lan rộng khắp quốc gia. Thần quyền và đức tin dùng để giải thích những hiện tượng thiên văn, địa lý, vật lý…Theo các giáo sư Chính Trị Học, tín ngưỡng có ảnh hưởng tới tổ chức xã hội, nền kinh tế và lập trường chính trị của tín đồ. Như thế quốc gia không thể đoạn tuyệt được với tôn giáo mà trái lại trong tình trạng dù thế quyền và thần quyền phân lập, vẫn phải quan tâm tới sự kiện tôn giáo. Các tôn giáo lớn có khả năng tạo áp lực trên quy mô toàn cầu. Khối Âu Châu có Công Giáo, Bắc Mỹ có Tin Lành, Trung Đông có Hồi Giáo và Á Châu có Phật Giáo. Lịch sử cũng chứng tỏ rằng các Giáo Hội đã dùng thủ đoạn chính trị , tức dựa vào sức mạnh quốc gia để đi gieo rắc đức tin.

Tác giả cũng đưa ra câu hỏi, “Liệu Phật Giáo hiện đại có chấp nhận quan niệm nhà nước/chính quyền thế tục? Tác giả cho rằng kinh qua lịch sử, quan niệm này phù hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đó là tinh thần “Khoan dung tôn giáo” chuyện tôn giáo và chuyện nhà, chuyện nước là hai việc khác nhau. Thế nhưng tác giả nhắc lại một vụ kỳ thị tôn giáo duy nhất xảy ra đó là việc bách hại Gia Tô Giáo dưới Triều Nguyễn. Bởi vì thời đó Đạo Gia Tô không chấp nhận sự sùng bái (thờ cúng) tổ tiên nên bị coi là trái với luân lý và văn hóa cố hữu của dân ta. Vua Minh Mạng hạ Dụ cấm đạo đã nói rằng, “Đạo rối của người Tây làm mê hoặc lòng người. Giáo sĩ Gia Tô làm tà vạy nhân tâm, phá hại mỹ tục, thật là mối hại lớn cho nước nhà.” Theo Thạc Sĩ Sử Học Nguyễn Thế Anh, “Việc cấm đạo ấy nhằm duy trì sự thống nhất của quốc gia. Thái độ hoài nghi càng trầm trọng khi các giáo sĩ Công Giáo giúp Lê Văn Khôi nổi loạn.”

Còn Giáo Sư Nguyễn Văn Bông cũng đã có nhận xét thật xác đáng, “Nguyên tắc nhà nước thế tục không những phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, đồng thời còn là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Giở trang sử cũ, chúng ta có thể quả quyết rằng người Việt Nam ngày xưa có tinh thần khoan dung rõ rệt và không có xung đột nào gọi là xung đột tôn giáo.” Tác giả cũng công tâm khi nói rằng, “Sau khi chế độ ngoại thuộc cáo chung, năm 1946 chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ban hành một Hiến Pháp thế tục.” Thậm chí Hiến Pháp Đệ I Cộng Hòa cũng ghi “Ý chí quốc dân là nguồn gốc của mọi ngành hoạt động quốc gia.”

Trong phần cuối, tác giả đưa ra nguyên tắc căn bản, ” Giáo hội và tăng sĩ chỉ có quyền hoạt động trong các lãnh vực tôn giáo, văn hóa và xã hội. Còn lãnh vực chính trị phải dành cho người thế tục.” Tác giả còn bàn thêm, “ Với triết lý Vô Ngã và Vô Thần, Giáo Hội Phật Giáo không phải là hình ảnh của Đấng Sáng Thế nào hết. Không phải là một đoàn thể của Chúa Jesus được cấu tạo một cách siêu nhiên bằng thân xác con người. Nó chỉ là một tổ chức của con người do con người lập ra và vì con người.” Đây là lý luận của Thương Tọa Thích Trí Quang. Thế nhưng dù nói thế, khi truyền bá trong nhân gian, Phật Giáo đã trở thành Hữu Ngã và Hữu Thần. Thế nhưng các hàng tăng sĩ cao cấp Phật Giáo đã phủ nhận sự “biến thái” này khi nói rằng, “Giáo hội không thể đụng chạm mạnh mẽ bằng cách phá bỏ sự tin tưởng truyền thống của đa số Phật tử Việt Nam: Đó là tin cả Trời lẫn Phật. Giáo hội chỉ có thể từ từ thuyết phục họ thế nào là Chánh Pháp.” (Đây là quan niệm “khế cơ và khế lý” của Phật Giáo cũng như không phá bỏ niềm tin truyền thống của dân bản địa.)

Tác giả cũng không đồng ý quan niệm “quốc giáo” vì hiến pháp đã quy định một chính quyền thế tục, mọi tôn giáo đều bình đẳng. Tác giả cho rằng tăng sĩ có thể khuyến cáo chính quyền nếu chính quyền đi ra ngoài nguyện vọng chính đáng của quần chúng. Thế nhưng chính quyền không thể coi những khuyến cáo này là hành vi chen vào chính trị.

Còn về vấn đề tu sĩ có được miễn trừ nghĩa vụ quân sự không (quân dịch), tác giả đưa ra nhiều luận cứ. “Chẳng hạn trong thời chiến sẽ có nhiều người sợ chết, giả bộ đi tu để trốn lính, làm sao biết ai thật ai giả? Đối với các quốc gia hùng mạnh như Tây Phương thì vấn đề tương đối dễ. Còn như đối với Việt Nam luôn luôn phải vận dụng sức mạnh toàn dân để bảo vệ sự tồn vong của mình. Hiện nay các quốc gia dân chủ đều thực hiện nguyên tắc “Bình đẳng của mọi công dân trước nghĩa vụ quốc gia”.

Sau hết tác giả chủ trương để đạt tới cứu cánh cao đẹp của đạo mình, tăng sĩ phải tự giới hạn sức ảnh hưởng của mình. Nếu không thì luật pháp quốc gia sẽ buộc mọi đoàn thể phải tuân thủ quyền lực tối cao của nhà nước/chính phủ - vì chính phủ đại diện cho quyền lợi của toàn dân. Tác giả đã viện dẫn Đạo Luật 1905 của Pháp quy định những ngăn cấm tu sĩ. Thí dụ:

- Điều 34 và 35 của Đạo Luật 1905 quy định rằng vị cha sở nào lăng nhục hay phỉ báng tại nơi phụng tự các nhân viên công sở hay kêu gọi chống đối những đạo luật hay những quy tắc hành chính sẽ phải chịu những hình phạt đặc biệt và bị đưa ra tòa án hình sự.

- Một vị cha sở cử hành theo nghi thức tôn giáo trước khi đương sự làm giá thú trước mặt viên xã trưởng sẽ bị chế tài bởi Điều 99 của Bộ Hình Luật.

- Các cha sở không được giảng về tôn giáo trong giờ học.

Tác giả còn nói thêm, “Kinh nghiệm lịch sử cho biết khi tình cảm tôn giáo nhảy vào chính trị, thì lý trí sẽ bị lấn át và con người tôn giáo trở thành quá khích khiến hậu quả thảm khốc dễ xảy ra vì việc bảo vệ đức tin.”

- Khi tu sĩ đặt ngang với các nhà hoạt động chính trị thế tục, với thủ đoạn tranh đấu thật gian manh, tu sĩ khó lòng biện minh cho nhiệm vụ xuất thế của mình, khiến tầm thường hóa tôn giáo.

- Khi tu sĩ làm chính trị, sẽ có tác động dây chuyền sang tôn giáo khác, khiến họ có cảm tưởng là bị đe dọa, cho nên họ có thể thành lập một lực lượng chính trị khác hoặc sẽ chống lại. Chẳng hạn, “Những hoạt động tôn vinh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm như một chiến sĩ quốc gia yêu nước nhân ngày giỗ năm thứ sáu của ông khiến một số Phật tử hạ bệ ông năm 1963 bực bội.”

- Khi tu sĩ hoạt động chính trị thành công, họ sẽ đi đến chỗ độc tài chuyên chế. Nếu tôn giáo đứng ra ngoải chính trị thì có thể lấy sự thanh thản và minh triết của mình để soi sáng lương tâm con người.

- Nơi trang 487, tác giả nói rằng nếu lợi dụng tôn giáo để chống Cộng Sản thì vẫn chưa giải quyết được gốc rễ mà phải tạo ra cuộc cách mạng hầu đem lại công bằng, ấm no, thịnh vượng và tự do cho mọi người.

- Tuy nhiên nguyên tắc “Tu sĩ không được làm chính trị “ cũng có hai ngoại lệ đó là: Quyền lợi tối thượng của quốc gia và sự sống còn của tôn giáo. Như tăng sĩ và Nho sĩ là lực lượng căn bản yểm trợ cho Phong Trào Cần Vương chống Pháp từ 1885-1898.

- Tác giả biện luận về cụm từ “Dân Tộc và Đạo Pháp”. Nếu hiểu Đạo Pháo là cộng đồng Phật Giáo thì sự liên hệ giữa Dân Tộc và Đạo Pháp càng sâu xa vì trong thời kỳ Phật Giáo cực thịnh đồng thời cũng là thời kỳ huy hoàng của dân tộc. Có thể nói trong giai đoạn ấy Dân Tộc và Đạo Pháp là một. Nếu hiểu Dân Tộc là một trong ba thành tố của Quốc Gia thì Đạo Pháp không thể là Dân Tộc vì trong dân tộc có nhiều tín đồ của các tôn giáo khác. Nhưng Đạo Pháp có thể đồng hành, chia xẻ trách nhiệm và chịu vinh nhục với Quốc Gia và Dân Tộc.

- Vì Phật Giáo không tạo được một tổ chức có uy quyền bao trùm lên tăng, ni, Phật tử toàn quốc, không có được quyền hành độc lập với nhà nước nên Phật Giáo tỏ ra bất lực trước làn sóng xâm lăng của Tây Phương. PGVN phải khắc phục nhược điểm ấy để tiến tới tự lực tự cường đóng vai trò quan trọng trong quốc gia thế tục.

Tác giả đã kết luận chương này như sau:

“Sự phân lập (tách biệt) Phật Giáo với Quốc Gia, tăng sĩ với chính trị, giáo quyền với chánh quyền. Nếu sự xác định ấy được thực hiện một cách trung thực (nghiêm chỉnh) sẽ có lợi là bảo vệ giá trị siêu việt của tôn giáo, uy tín đạo đức cao trọng của giới tăng sĩ, quyền lực chính trị của các nhà lãnh đạo thế tục và sự ổn cố chính trị. Đó là điều kiện tiên quyết để phát triển quốc gia. Chính trong vị trí đó, Phật Giáo phải có một ảnh hưởng chính trị rất quan trọng.”

Thay Lời Kết:

Qua luận án này chúng ta được nhìn lại quá trình hội nhập của Phật Giáo vào Việt Nam gần 2000 gắn bó và trở

thành văn hóa cũng như tâm linh của dân tộc (chiếm 85% dân số). Phật Giáo không thể tách rời khỏi dân tộc này. Ngày nay Chủ Nghĩa Thực Dân không còn, nhưng bành trướng tôn giáo vẫn còn. Tranh chấp giữa các tôn giáo lúc công khai, lúc ngấm ngầm vẫn còn. Các tôn giáo cực đoan luôn luôn muốn chiếm lấy hay khống chế chính quyền để mưu cầu lợi ích riêng cho họ. Chính vì thế mà tác giả cổ vũ cho quan niệm “nhập thế” của cả hàng tu sĩ lẫn Phật tử là hãy “xây dựng một quốc gia an lạc” trước - thì mới có thể tu hành hay phát triển tâm linh. Không thể tu thành Phật, thành Bồ Tát, La Hán, Bích Chi Phật, tụng kinh, ngồi thiền…khi mà đất nước chính trị rối beng, nghèo đói, xã hội bất an. Hương Hải Thiền Sư đời Lê Dụ Tông dạy rằng, “Mạc giáo mộng trung tầm tri thức”. Đừng tìm Phật hay Chân Lý trong mơ mộng mà phải thực tiễn. Cá nhân có thể mơ mộng nhưng cả một giáo hội thì không thể mơ mộng.

Cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 được nhìn theo nhãn quan của một học giả và được đánh giá đây là bước chuyển mình lịch sử của Phật Giáo sau 18 thế kỷ. Đây còn là một tài liệu phản ảnh khá đầy đủ tình hình chính trị rối beng của Miền Nam 1963-1967 sau khi Đệ I Cộng Hòa xụp đổ. Luận án còn trình bày một số chi tiết về nội tình chính trị Hoa Kỳ, cũng như hoạt động can dự vào chính trường Miền Nam của chính phủ Mỹ. Những điều “bí mật và cấm kỵ” này thường chỉ được bàn tán qua các các cuộc màn đàm hoặc rỉ tai giữa các chính trị gia, hoặc úp mở trên báo chí. Thế nhưng nó đã xuất hiện trong một khung cảnh có tính “trường ốc, kinh điển ” (Academy) và cổ kính như Đại Học Luật Khoa mà sau này có thể trở thành giảng khóa để giảng dạy cho sinh viên về môn Chính Trị Học.

Đây còn là cuốn sử liệu quý giá viết bởi một trí thức khoa bảng, nặng tình với Dân Tộc và Đạo Pháp nhưng không thiên lệch, vì tiêu chuẩn và mạng sống của Đại Học là: Khoa học, trung thực, thuần lý (logic) và là khuôn mẫu cho đời sau. Đại Học không phải là một diễn đàn chính trị, không phải là đảng phái, không phải là tổ chức tôn giáo, cho nên Đại Học không bênh-chống ai. Nhưng đại học có quyền mổ xẻ, phân tích, tổng luận về những diễn biến liên quan đến xã hội, đất nước để giảng dạy cho đời sau. Dĩ nhiên trong khuôn khổ bảy, tám trang tôi không thể trình bày mọi chi tiết của luận án. Quý vị có thể tìm đọc nơi Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Library of Congress Online). Trân trọng.

Đào Văn Bình

(California ngày 6/9/2018)

Cước chú: Dấu ngoặc (…) là phần chú thích của tác giả bài viết này.

Thạc Sĩ (Agrégé): Sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ phải qua một cuộc thi tuyển để để trở thành Giáo Sư Thực Thụ của một đại học danh tiếng của Pháp. Trong nước bây giờ gọi bằng Cao Học (Master Degree) là Thạc Sĩ.



Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2018

Bàn thêm về công nghệ của GS Hồ Ngọc Đại và sách Tiếng Việt 1



Buồn thay, trong cơn hỗn loạn của dòng chảy dư luận, không ít các GS TS, các học giả, những nhà nghiên cứu và tệ hại hơn, các nhà quản lý giáo dục cũng bị cuốn vào trào lưu chửi bới vô tiền khoáng hậu này.

Buồn hơn nữa là trong lúc các bà quét rác, ông thợ xây thi nhau ném đá vào CNGD, còn các nhà khoa học, các “sản phẩm” lừng danh của CNGD và những người trực tiếp giảng dạy CNGD, Những nhà quản lý GD tử tế, thấy được những cái hay, vượt trội hay những hạn chế của CNGD so với chương trình chính thống hiện hành cũng có vẻ rụt rè, không lên tiếng.

Bàn thêm về công nghệ của GS Hồ Ngọc Đại và sách Tiếng Việt 1

Tác giả: Phùng Hoài Ngọc (VNTB)

Trong suốt thời gian diễn ra các cuộc tranh cãi trên mạng về công nghệ giáo dục (CNGD của Hồ Ngọc Đại tôi theo dõi và chia sẻ những bài viết mà tôi cho là xác đáng, có căn cứ khoa học.

Buồn thay, trong cơn hỗn loạn của dòng chảy dư luận, không ít các GS TS, các học giả, những nhà nghiên cứu và tệ hại hơn, các nhà quản lý giáo dục cũng bị cuốn vào trào lưu chửi bới vô tiền khoáng hậu này.

Buồn hơn nữa là trong lúc các bà quét rác, ông thợ xây thi nhau ném đá vào CNGD, còn các nhà khoa học, các “sản phẩm” lừng danh của CNGD và những người trực tiếp giảng dạy CNGD, Những nhà quản lý GD tử tế, thấy được những cái hay, vượt trội hay những hạn chế của CNGD so với chương trình chính thống hiện hành cũng có vẻ rụt rè, không lên tiếng.

Sau khi quan sát theo dõi những gì diễn ra, xin có một vài ý kiến sau đây:

Hồ Ngọc Đại làm tiến sĩ tại Trường đại học tổng hợp Moskva mang tên Lomonosov, trường đại học lớn nhất Liên Xô cũ. Khi ấy, nghiên cứu sinh Hồ Ngọc Đại rất tâm huyết, hăng say nói về một mơ ước, một dự án giáo dục sẽ thực hiện ở VN. Phương pháp giáo dục đó là dạy và phát huy tối đa năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của trẻ em, là niềm tin mãnh liệt rằng trẻ em thông minh hơn những gì chúng ta các bậc người lớn thường nghĩ về chúng. Ông nói không thể chịu được khi thấy trẻ em bị đào tạo như những con vẹt, sau này chỉ có thể trở thành những nô bộc tư tưởng.

Thật ra, dự án giáo dục này không phải ý tưởng, chương trình của ông Đại, mà của thầy ông, một GS cấp tiến ở Lomonosov, khi đó đang được đưa vào thí nghiệm ở cấp tiểu học tại Liên Xô. Thấy học trò của mình quá thích chương trình này, mong muốn đưa về thực hiện ở đất nước mình, ông thầy đã đồng ý chuyển giao miễn phí. Khi về Việt Nam, nếu tiến sĩ Đại không phải con rể ông Lê Duẩn và cái mác tiến sĩ xuất sắc Liên Xô, chắc chắn trường thực nghiệm Giảng Võ không bao giờ ra đời được để cho một người làm chủ. Sau mấy chục năm trôi qua, ông Đại nay cũng đã bát thập có dư, không hiểu các truyền nhân của ông sẽ tính sao với chương trình công nghệ này.

Có vẻ như mọi chuyện vẫn ổn như 40 năm qua, nếu không bất thình lình tóe ra một làn sóng chống lại chương trình giáo dục này, trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa một bên là những người phản đối kịch liệt thậm chí kèm theo những lời lẽ thóa mạ, chửi bới vô văn hóa và một bên là những trí thức, các nhà văn hóa có tâm thực sự đối với giáo dục nước nhà đã cho ra những bài viết có cơ sở, luận cứ khoa học về chương trình giáo dục của HNĐ.

Tuy nhiên, khi đăng đàn trả lời nhà báo, GS Đại có vẻ khoa trương cường điệu cái CNGD của mình quá mức cần thiết. Ông nói “Trong lịch sử Việt Nam chưa từng có thế hệ trẻ như lớp người thế kỷ 21 này”. Ai đã từng học triết học duy vật, tối thiểu là triết cổ đại của Heraclite (535 – 475 tr.CN) về mệnh đề “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”hẳn sẽ thấy đó là một phát ngôn huề vốn. Ông lại nói “theo CNGD của ông, phụ huynh không dạy được con cháu” và đặc biệt ông say sưa “CNGD sẽ khiến cho trẻ em là, trở thành chính nó”. Rồi là “cá nhân là tế bào của xã hội chứ không phải gia đình”… Nhìn chung khi thuyết minh về CNGD có vẻ ông hơi lạc đề và cực đoan với những lý luận quá cũ và xáo. Hóa ra lời thuyết minh không thích hợp với công trình CNGD đã làm hại ông. Bởi tuồng như là ông thách thức chọc tức cả thiên hạ. Có lẽ tuổi già đã hại ông.

Cốt lõi CNGD – cũ người mới ta

Thầy ông, GS. Davydov, một trí thức Liên xô cấp tiến chịu khó nhìn sang phương Tây. Ông ta biết rõ cuộc cách mạng Phục Hưng với tiêu chí giải phóng cá nhân con người, đề cao sự độc lập của cá nhân đã hơn 500 năm qua.. Giáo sư đã truyền lửa cho học trò Hồ Ngọc Đại…(Thực ra khi ông Đại còn học ở Liên Xô thì lứa tuổi chúng tôi trong nước học sư phạm cũng được học những nguyên tắc giáo dục như “phát huy tính tích cực chủ động của học sinh”, “lấy người học làm trung tâm”. Tương tự những gì ông học ở Liên Xô).

Tuy nhiên, trong chế độ XHCN, chuyện nói một đằng làm một nẻo là chuyện thường ngày. Hoặc là tình trạng tiền hậu bất nhất. Sư phạm dạy nguyên tắc như thế, nhưng ra trường, dạy học lại rơi vào giáo điều, áp đặt như một quán tính cuả chế độ. Học sinh thi cử mà làm sai với đáp án của thầy thì điểm kém ngay.

Hệ thống giáo dục thực nghiệm của tiểu học Liên Xô cũng vấp phải sự kháng cự của những kẻ trung thành ý thức hệ. Điều này tương tự xảy ra khi trường tiểu học CNGD của ông Đại hoạt động ở Hà Nội.

Và tình trạng Bộ GD “đẽo cày giữa đường” vẫn diễn ra.

Khi các luật sư bắt bẻ về Luật giáp dục “nước ta chỉ có một bộ sách giáo khoa phổ thông” thì ông Đại không còn kiêng kỵ gì nữa. Ông tung hê ra “chính cựu bộ trưởng Phạm Vũ Luận và thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển ủng hộ ông “lách luật” bằng cách đặt tên chương trình sách là “thực nghiệm” ! Cổ nhân nói “Ông già bảy chục tuổi chửi vua cũng không bị chém”, huống chi ông Đại đã tám ba. Chỉ kẹt cho hai ông cựu bộ- thứ trưởng Luận và Hiển bây giờ mang tội “lách luật” qua mặt quốc hội. Cơ mà hai ông này cũng nghỉ hưu và lãnh đủ các huân chương huy chương rồi, chả lẽ quốc hội lại hỏi tội và truy đòi ?

Cũng không thể nói ông Đại và cộng sự không có lỗi trong chuyện này. Tôi rất ngạc nhiên vì sao một chương trình thực nghiệm kéo dài đến 40 năm mà không có tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm hoặc áp dụng đại trà ?

Cần nói thêm về bộ sách Tiếng Việt 1

Ông Hồ Ngọc Đại là nhà tâm lý giáo dục học, chẳng phải ngôn ngữ học. Bộ sách tiếng Việt 1 là của cộng sự đứng dưới tên ông chủ biên. Có lẽ, ông Đại thấy nó “mới mẻ” nên thêm một “cái mới” cho phương pháp của ông thì cũng hay chứ sao.

Sách TV 1 đề ra cách đánh vần mới và cách đọc khác hẳn truyền thống.

Thực ra đánh vần chỉ là giai đọan đầu học chữ, tập viết của lớp 1, 2. Khi đã đọc thông viết thạo chẳng ai cần phải nhớ việc đánh vần làm gì. Phụ huynh mới kêu trời là trẻ con nó đánh vần như thế thì bố nó cũng chẳng hiểu.(Một ông bố miền Tây trong cái clip nọ giận dữ chửi bới, chê con nhỏ rằng chỉ qua những cái ô trống vuông tròn tam giác vô hồn mà đọc thành tiếng. Mà chẳng phải chỉ có ông bố miền Tây Nam bộ đâu nhé, khắp cả nước đấy). Mặt khác việc đánh vần nếu muốn thì có thể dùng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ban đầu, không học vần cũng được.

Đánh vần tiếng Việt có vài cách, cách nào cũng phải nói được tiếng Việt cho người nghe hiểu, viết sao cho người khác đọc được. Đường nào cũng đến La Mã thôi.

Sách Tiếng Việt 1 lại sai vài lỗi chính tả, có lẽ chỉ do in ấn, như “con dơi” (con sinh vật) lại viết là “con rơi” (trẻ em không có bố, con hoang). Lỗi chính tả không hiếm lạ, ai cũng có thể mắc khi sơ ý, vội vã, nhưng là sách giáo khoa thì bị “soi” là phải. Lại có truyện ngụ ngôn “Vẽ gì khó” đưa làm bài học, không ghi nguồn dẫn là truyện gốc Trung Quốc. Lại nữa, sách TV 1 của ông Đại bán đắt gấp ba lần sách đại trà.

Mấy chuyện sai lẻ tẻ đã bị thổi phồng thành to tát và chỉ trích gay gắt.

Buồn cười nhất là ông phó thủ tướng Vũ Đức Đam chiều nay đăng đàn nói “chính phủ không có kế hoạch cải cách tiếng Việt trong những năm tới”. Ông nói để dẹp yên dư luận, tuy nhiên lộ ra cái vớ vẩn là: tiếng Việt là sản phẩm của dân tộc tạo ra sau cả nghìn năm, chả ai cải tiến được cả. Người ta chỉ đang tranh cãi về chữ viết và đánh vần thôi, tiếng Việt vẫn cứ nguyên vẹn như thế và hàng ngày nó được bổ sung, thay thế, loại trừ theo năm tháng. Không có mệnh lệnh hành chính hay cá nhân xuất chúng nào sai khiến được tiếng nói dân tộc. Đảng và Chính phủ của ông cũng chả can thiệp được gì.

Hơn nữa, chương trình thực nghiệm cũng mới chỉ ở bậc tiểu học và dừng ở đó suốt từ 1978 đến nay. Phải có một tổng kết xem từ sự cải cách mang tính cách mạng như thế, sau lại chuyển đối tượng của mình lên cấp phổ thông trung học đại trà với đầy rãy những khiếm khuyết, thì cái gì đã và đang xảy ra ? Các học sinh tiểu học thực nghiệm lại hòa nhập vào học sinh phổ thông đại trà không thực nghiệm? Đám đa số đại trà đương nhiên lấn át cuốn hút bọn thiểu số phải theo. Thực nghiệm tiểu học trở thành công cốc.

Bên cạnh đó, như đã nói ở trên, chương trình CNGD vốn không phải là đứa con ruột của ông Đại. Chưa có bài tổng kết nào nói tới việc chương trình dành cho trẻ em Nga này đã được “Việt Nam hóa” ra sao cho phù hợp với trẻ em Việt Nam ? Làm sao cho móc nối được tiểu học thực nghiệm với hai cái toa tầu trung học cấp 2 và 3 nặng nề phía trước để cả đoàn tầu GD tiến lên ? Chưa và chưa! Và đây chính là nhiệm vụ còn lại của Bộ Giáo dục, ông Đại cùng các cộng sự. (ý kiến TS Đào Tuấn )

Chúng ta hi vọng vào những trí thức chân chính, vì hiểu rằng trong chiến trận những người lính trinh sát là những kẻ dũng cảm, liều chết nhất và than ôi, mười kẻ đi, may ra có một người sống sót trở về. Trong văn chương và trong giáo dục cũng y như vậy.

Và hậu quả của cơn bão dư luận là ngành giáo dục TP HCM, Đà Nẵng, Phú Yên và một số địa phương khác đang hò nhau tẩy chay CNGD.

Phương pháp công nghệ giáo dục

Có thể nói, quan điểm chính của CNGD là “lấy người học làm trung tâm”, “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” là tiến bộ. Có nhiều hướng giải quyết nhưng đều đi tới mục tiêu chung là biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Ở các địa phương sử dụng CNGD đều thu được coi là có kết quả tốt. Sơ bộ cho thấy HS vùng dân tộc thiểu số tiếp cận với Tiếng Việt nhanh, chính xác, hiệu quả. Các em cũng phát âm chuẩn, nhanh, đọc to, rõ hơn so với cách dạy theo sách giáo khoa hiện hành. HS ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ có thể giải quyết dứt điểm tật nói ngọng…

Tuy nhiên, những ngày gần đây, trên mạng xã hội người ta vùi dập CNGD của Hồ Ngọc Đại không thương tiếc. Chung quy lại cũng chỉ từ cách ghi phiên âm C, K, Q là “cờ” thay vì “xê”, “ka”, “quy” của sách tiếng Việt lớp 1 vì nó “lạ tai”.

Hồ Ngọc Đại đã mang mô hình GD của nước Nga về áp dụng tại Việt Nam và cả đời ông tận tâm, tận lực để học thuyết này phát triển.

CNGD được ra đời cách đây tròn 40 năm và số phận của nó thăng trầm qua từng thời lãnh đạo Bộ GD. Từ giai đoạn phát triển rực rỡ (áp dụng trên 43 tỉnh thành), đến năm 2000, khi Bộ GD&ĐT cho ra đời bộ sách giáo khoa mới, sử dụng thống nhất trên toàn quốc, CNGD của GS Hồ Ngọc Đại đành phải “lùi” về đại bản doanh của nó là Trường Thực nghiệm Giảng Võ Hà Nội.

Đến năm 2015, trước áp lực “Đổi mới giáo dục toàn diện” mà chưa biết đổi mới cái gì ? đổi mới từ đâu?…Bộ GD&ĐT đã tìm đến CNGD của Hồ Ngọc Đại. Theo GS Hồ Ngọc Đại, cái được lớn nhất của ông là triết lý GD của mình chính thức đi vào cuộc sống. Đó là khát vọng lớn nhất của ông, của một nhà khoa học đã từng từ chối chức thứ trưởng Bộ GD để đi dạy lớp 1.

Giữa lúc dư luận đang rất “nóng”, ngày 8/9, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam công bố ý kiến kết luận của hội đồng thẩm định tài liệu, “Căn cứ kết quả khảo sát, đánh giá của Bộ GD&ĐT hướng dẫn các sở GD&ĐT” triển khai tài liệu phù hợp điều kiện cụ thể của địa phương trên nguyên tắc tự nguyện của nhà trường trong năm học 2017-2018 và 2018-2019 và không mở rộng để giữ ổn định cho đến khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.

Bộ GD &ĐT cho rằng: “Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, khảo sát, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam đã đánh giá việc triển khai Tài liệu Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục ở các địa phương đạt được hiệu quả khả quan thông qua kết quả giáo dục học sinh, năng lực chuyên môn của giáo viên và đề xuất các giải pháp để tiếp tục sử dụng hiệu quả Tài liệu Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục”.

Vậy là Bộ GD&ĐT đã thay Thủ tướng, Quốc hội trả lời nội dung một số đơn từ của những người sốt ruột gửi lên.

Tuy nhiên, phần còn lại trong lòng của một nhà khoa học có lẽ là nỗi buồn da diết. Tại sao những tư tưởng “lạ”, sáng kiến “khùng” thường phải đi ngược chiều với quan điểm truyền thống? Tại sao đến thế kỷ XXI rồi, suốt ngày ra rả CMCN 4.0 mà tiếp nhận cái mới, cái khác biệt lại khó thế ?

Ghi chú: Cần phân biệt cách làm của GS Đại với PGS. Bùi Hiền.

Ông Bùi Hiền lại đòi cải cách chữ quốc ngữ, thay thế chữ cái và đánh vần khác hẳn. Vì ông Hiền nói hệ thống chữ Việt vô lý. Ông này đã bị Viện ngôn ngữ học chính thức bác bỏ rồi, không nhắc lại nữa.

TS Đào Tuấn bạn học cùng trường với Gs Đại vào trang web xem lịch sử phát triển của Trường Thực nghiệm Số 91 Moscow, nơi các giáo sư như Davydov, Elkonin cùng các cộng sự dày công vun đắp. Vào những năm 1975-1980, phòng thí nghiệm của V.V. Davydov cùng với các giáo viên trường Tiểu học 91 Moscow thực hiện kế hoạch đặt hàng của Bộ Giáo dục. Kết quả là vào cuối những năm 1970, một hệ thống giáo dục tiểu học mới hùng hậu đã ra đời. Lý thuyết và thực hành về hoạt động giáo dục của D.B. Elkonin và V.V. Davydov được coi là tài liệu thống trị ở tiểu học.

Vậy mà đến những năm 1980, V.V Davydov bị “lên thớt” xét xử. Năm 1982, vì lý do ý thức hệ, các hoạt động thực nghiệm ở trường 91 Moscow đã bị cấm. Mặc dù vậy, giáo viên của trường 91 tiếp tục làm việc trên các tài liệu thử nghiệm trong điều kiện bí mật. Một số nhà tâm lý học từ phòng thí nghiệm cũ của V.V. Davydov không thể tiến hành các thí nghiệm trong các lớp học, nhưng họ tiếp tục nghiên cứu các hoạt động giáo dục của mình tại các viện nghiên cứu.

Đến năm 1984, D.B El’konin qua đời, các môn đệ và những người theo ông dưới sự lãnh đạo của Boris Daniilovich đoàn kết bên nhau để tiếp tục sự nghiệp của THẦY: Học thuyết phát triển phương pháp giáo dục.

Tuy nhiên, đến những năm 1990, công cuộc cải tổ (Perestroika) khiến hệ thống GD phải lột xác và học thuyết phát triển phương pháp giáo dục của Davydov và Elkonin lại lên ngôi. Các trường tiểu học trên cả nước lại rầm rập theo học học thuyết của hai ông. Các trung tâm đào tạo GV theo hệ thống Davydov-Elkonin mọc lên như nấm, SGK của trường phái Davydov-Elkonin in nhanh như in báo…Trong bối cảnh ấy, trường 91 Moscow trở thành Trung tâm bồi dường nâng cao cho giáo viên Tiểu học.

Hệ thống GD D.B. Elkonin , V.V. Davydov chính thức được nhà nước công nhận vào năm 1996. Theo quyết định của Bộ Giáo dục và Khoa học Nga, hệ thống D.B. Elkonin – V.V. Davydova trở thành một trong ba hệ thống giáo dục tiểu học của Liên bang Nga.

Năm 1998, D.B. Elkonin (sau khi chết), V.V. Davydov và một số nhân viên của phòng thí nghiệm của ông đã được trao giải thưởng Tổng thống Nga cho việc tạo ra một hệ thống D.B. Elkonin – V.V. Davydov ở trường tiểu học. Năm 1999, Giải thưởng Chính phủ RF đã được trao cho G.N. Kudina, Z.N. Novlyanskaya (NCV của Viện Tâm lý học), N.E. Burstina và M.P. Romaneyeva (giáo viên của Trường 91 Moscow)….

Số phận “Học thuyết phát triển phương pháp giáo dục” của V.V Davydov và D.B Elkonin có cái kết có hậu, còn CNGD Hồ Ngọc Đại sẽ ra sao?

Năm nay, các tỉnh đang lục tục chia tay với CNGD, Bộ GD&ĐT đang chuẩn bị cho ra đời chương trình SGK mới.

Vậy thì lý gì lại chửi một nhà khoa học khi phương pháp của họ còn khiếm khuyết, chửi đến độ nghe và đọc xong không còn dám tin vào lòng nhân của người Việt. Họ đâu phải là Đấng toàn năng. Họ đưa ra chương trình, Bộ GD đồng ý họ mới thực hiện được.

Nếu triển khai rộng khi chưa có một đội ngũ giáo viên được huấn luyện cách dạy theo hướng này một cách bài bản thì bất cập. Vai trò của GS Đại là chưa đáp ứng đủ điều kiện căn bản đó. Phương pháp mới chưa đưa vào trường sư phạm.

Giáo dục là chuyện của toàn xã hội, gia đình và nhà trường. Tuy nhiên, giảng dạy phải là chuyện của nhà trường.

Vừa kêu ca về sự phải tham gia quá sâu vào việc học của con do những bất cập trong giáo dục nước nhà, phụ huynh vừa phẫn nộ vì không được tham gia vào đó do không nắm được phương pháp dạy mới là sự rất khó hiểu.

Bất cứ chương trình cải cách giáo dục nào, đều hướng đến mục đích làm cho việc giáo dục học sinh tốt hơn. Nhưng đây là lý thuyết, vì thực tế nhiều năm qua, những cải cách của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã làm lòng dân chán ngán về tính không hiệu quả và những thay đổi xoành xoạch của nó. Vì vậy dễ hiểu vì sao chương trình Công nghệ giáo dục của GS. Hồ Ngọc Đại bị phản ứng quyết liệt như vậy, không cần phân định đúng sai, thậm chí hình thành một phong trào a dua, nói theo. Đó là vì tâm lý người dân đã bị ức chế với những “cải cách” liên miên của Bộ Giáo dục. Chuyện này thì phải trách chính Bộ lúng túng gây ra bức xúc trong xã hội.

Cuối cùng, sự đa dạng các chương trình giáo dục sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chính các em học sinh và phụ huynh. Phụ huynh nào còn phân vân có thể vẫn cho con theo học những trường không áp dụng công nghệ giáo dục của GS Đại, hoặc cho con học sách của nhóm Cánh Buồm. Giáo dục không được độc quyền. Tri thức không được độc quyền. Càng nhiều chương trình giáo dục thì người dân càng có nhiều sự lựa chọn. Nên duy trì nhiều chương trình giáo dục song song, không nên độc quyền một chương trình nào cả, điều đó cũng giúp cho việc triệt tiêu lợi ích nhóm. Dù cho đến nay vẫn chưa có 1 công trình khoa học nào thẩm định lại hiệu quả của các chương trình giáo dục. Đã đến lúc cần làm việc này để giúp cho người dân hiểu biết để mà lựa chọn chương trình giáo dục nào phù hợp với con em mình.

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2018

LẮNG ĐỌNG MỘT TRIẾT LÝ PHỒN SINH




(Nhân đọc tập thơ “Phồn sinh”-NXB HNV- 2018 của Đinh Sỹ Minh)


VƯƠNG TÂM


Mở đầu thay cho lời tựa tập sách, nhà thơ Đinh Sỹ Minh đã phần nào thể hiện sự kiêu bạc với cuộc đời:


“Va đập mãi cũng chỉ là viên gạch vỡ
Chèn vào mạch đời nỗi nhớ vu vơ”


Đó là một quá trình trải nghiệm của cuộc đời lang bạt, phong trần mà tác giả đã ngộ ra khi đã


“Đi qua nông sâu
Mới biết dòng nông nổi
Chạm cơn gió ngược chiều chợt thấy trống hoác trống hơ”.


Đó cũng chính là mạch chủ cảm xúc lôi cuốn người đọc từ những câu thơ đầu tiên của Đinh Sỹ Minh. Đây đó ta lại gặp những trạng thái dằn vặt, trăn trở với nỗi niềm ẩn giấu:


“Bước chân lang thang lạc trong cánh rừng già
Tìm mầm trổ dưới bàn chân rớm máu
Bao gai góc bao lá vàng rụng xuống
Trái tim ta khô hạn giữa cõi người”.


Từ đây kẻ lãng du ấy luôn luôn đi tìm mình, trở lại với mình, và đã tự họa rằng:
“Ta là ta và ta mãi ngờ ta
một mình làm nên cõi nhớ
thôi cứ mãi là người mặc nợ
phù dù ơi cứ bạc bèo”
(Tản mạn cuối năm).


Từ đó, Đinh Sỹ Minh đã tìm con đường riêng của mình trong triết lý sống và sáng tạo thơ ca.


Tiếp tục với sự dồn nén tâm trạng từ cái lồng “Nhốt đam mê” và tình yêu “Thăm thẳm bóng làng”, của những tập thơ trước, giờ đây với “Phồn sinh” của Đinh Sỹ Minh đã hình thành một chân dung thơ rõ nét. Tác giả bộc lộ một phương pháp nghệ thuật sáng tác đan xen giữa hiện thực và trừu tượng khá nhuần nhuyễn. Tập thơ có nhiều thi phẩm sinh động truyền cảm, đọng lại cho người đọc những mạch thơ huyền ảo thú vị. Tôi bị cuốn hút với những câu thơ


“Cứ giấu mãi trong chiều xơ xác gió.
Chút đam mê chín rụng giữa hoang vu”
(Đam mê)


Hoặc chính bài thơ “Sỏi”, dường như nó được phát triển từ ý tưởng “Va đập mãi cũng chỉ là viên gạch vỡ”; bài thơ đầy ắp triết lý nhân văn, thông qua thi ảnh ngỡ như khô khan:


“Lăn lóc trần gian, lang thang bãi chìm bãi nổi…
Gói lại xa xăm ẩn ức quặn sỏi”.


Tác giả đã tạo nên tứ thơ ngập tràn mơ mộng qua hình ảnh hòn sỏi. Bởi nó như cuộc đời. Nó như con người luôn luôn hy vọng trong những biến cố khắc nghiệt nhất của sự sống. Tác giả viết:


“… Chắt hết ước mơ không thoát khỏi xói mòn mưa lũ
Tin vào đất sẽ đơm hoa kết nụ
Chưa thôi mong ngày sỏi đá cũng phồn sinh”.


Cảm xúc huyền ảo được nhân lên khi tác giả viết:


“Định mệnh rồi, duyên nợ gả thời gian.
Phận sỏi mãi lăn tròn ẩn ức
Trên mỗi lối mòn, sớm mai thức dậy
Một tình yêu sỏi đá cũng dịu dàng”.


Đây là một bài thơ có sự khám phá mới của tác giả. Một tác phẩm được hình thành trong quá trình bươn trải đó đây, với các công trình xây dựng, mà nhà thơ đã chiêm nghiệm sáng tạo. Ắt hẳn người đọc sẽ yêu thương


“Những mảnh đời bé con ghép nhau nhịp thở
Nâng bàn chân hy vọng
Bước lên ta phận sỏi lát đường”
(Sỏi).


Đáng chú ý tác giả đã có nhiều bài thơ hay và xúc động viết về quê hương, về mẹ và những nơi mình đã đi qua. Trở về với cội nguồn của những ký ức của người con tha hương, nhà thơ Đinh Sỹ Minh như được chắp cánh bay bổng, trong những rung động chân thành nhưng cũng không kém phần trăn trở. Anh có nhiều khổ thơ gây ấn tượng qua mỗi trang thơ và thể hiện sự phối cảm giữa hiện thực và trừu tượng luôn luôn đan xen. Hình ảnh đôi khi sần sùi thô nhám nhưng lại được phủ một lớp men huyền ảo tạo nên hiệu quả bất ngờ. Đây đó người đọc có thể nghe như anh đang bộc bạch, cùng những suy tư, buồn vui, nhưng bao giờ cũng đọng lại những thi ảnh độc đáo. Nếu ở bài “Nhật ký Vinh”, người đọc có thể ngỡ rằng anh đang trò chuyện rằng:


“Bạn bảo Vinh nằm ngang
Em nói Vinh nằm dọc…”


thì ở khổ thơ cuối anh gây bất ngờ với những câu thơ:
“Vinh cởi áo sau trận mưa rào mùa hạ
Lấm lem câu ví “Giận rồi thương”
Sông Lam trắng trở mình, phía nào cũng chật
Hỏi dòng trôi. Trong đục mô hè?


. Người đọc bị dẫn dắt hết những ký ức này sang những nỗi niềm khác; có khi cay nghiệt, khổ đau, lại có khi nhớ nhung, nhói buốt. Không ít những thi phẩm để lại ấn tượng mới lạ như “Ngàn Hống”, “Giếng làng”, “Dòng sông tháng Tư”; hoặc độc đáo như “Đường làng”, “Hương Canh”, “Nhật ký Vinh”; hay như “Vu lan nhớ mẹ”, “Xanh đồng”, “Bến cũ”…Người đọc luôn tìm được những câu thơ lạ và có sự tìm tòi:


“Sông tuổi trẻ cạn lòng nhìn trời mây
Khát một cơn mưa lũ dốc đáy ngày hun hút
Làng nằm nghiêng mắc cạn một nốt trầm”
(Làng tháng Chạp);


hay như:
“Dọc những chiều vết cắt tha hương
Đường nhói lòng tôi những luống cày trần thế”
(Đường làng)


hoặc có khi tác giả thảng thốt trong nỗi cô đơn:
“Làng của ta ơi, xa lắc của ta ơi
Nơi chôn rau, giờ chỉ là kỷ niệm
Bạn bè, người thân ngày càng trống vắng
Ta hoang mang như kẻ lạc loài”
(Nhớ làng)


“Phồn sinh” để lại những suy tư ngổn ngang về con người. Nhìn ở góc độ nào, nhà thơ cũng rút ra được mầu sắc, cùng sự chuyển động bay bổng của cuộc sống. Đó là trách nhiệm công dân của thi nhân. Một con mắt nhìn đầy phản biện, nặng trĩu tâm trạng. Nhưng bao giờ cũng vậy, thơ ca là sự cứu rỗi của tâm hồn, nó vươn tới ánh sáng và một tương lai. Mơ mộng. Bao dung. Bởi vậy cho dù nhà thơ có lúc xốn xang:


“Ừ thì ta cứ yêu, dù hoa vàng bỡn cợt
Yêu say đắm để lọt qua cơn hoảng hốt
Bủa vây ta là một kiếp người”
(Tản mạn cuối năm)


hay lại có khi ứa đầy thất vọng:
“Qua thăng trầm giờ còn lại chia ly
Nắng cứ đốt, lòng ta thành khe cạn
Trơ tận đáy ngổn ngang đá sạn
Em yêu ơi vẫn là gió u mê”
(Nắng chiều)


nhưng cuối cùng nhà thơ vẫn trao gửi tâm cảm vào niềm tin và sự đam mê trong tâm hồn:
“Cuộc đời này vốn dĩ giấc chiêm bao
Sáng ngắm bình minh chiều bão nổi
Qua những thăng trầm thấy mình lớn dậy
Có hề chi dù sông rộng núi cao”
(Niềm tin).
Sức mạnh của sự sống đã vượt qua bão táp phong ba, triết lý về “kiếp người” không hẳn chỉ còn là nỗi đau, mà tác giả nhấn mạnh:


“Hạnh phúc ư, là sống ở trên đời
Ta tìm kim cương từ bụi cát
Ngóng mầm trổ giữa bao la trời đất
Ngẩng cao đầu bình thàn đón phong ba”
(Niềm tin).


Đó chính là mạch nguồn phát sáng trong tâm hồn từ triết lý sinh động từ hình ảnh hòn sỏi nhỏ nhoi. Nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên và ngang dọc cùng những trầm luân cuộc sống. Người đọc bị lôi cuốn khi nhà thơ viết:


“Tôi xin một chút nắng trời
Chút mây của gió, chút Người của tôi”
(Xin).


Và “Chút người” ấy tạo nên cái duyên thơ của Đinh Sỹ Minh, với


“Chông chênh đó, như là cơn gió
Đưa ta về tìm lại những dấu yêu”


“Phồn sinh” thêm một lần khẳng định thơ Đinh Sỹ Minh có giọng điệu riêng, trầm tĩnh, lắng đọng trong ý tưởng, cảm xúc dồn nén trong câu chữ và hình ảnh sáng tạo. Với sự trải nghiệm trong cuộc sống, cùng với trái tim đa cảm, nhà thơ đã biểu đạt bằng ngôn ngữ thơ qua những hình ảnh liên tưởng phong phú. “Phồn sinh” gợi mở một không gian mới cho một tương lai. Đó chính là sự tìm lại chính mình như tác giả đã gửi thông điệp tới bạn đọc:


“Năm tháng vo tròn thai nghén những mầm xanh”.







một tứ thơ đầy sự ám ảnh và huyền diệu, tiêu biểu cho tập thơ của Đinh Sỹ Minh.

Phụ âm kép gi, qu.




 

Chữ Việt có 7 phụ âm kép: ch, gi, ng, nh, qu, th, tr. Tôi không coi gh và ngh là phụ âm kép, mà chỉ coi gh là biến thể của g và ngh là biến thể của ng. H trong gh và ngh là h câm, không có công dụng thay đổi âm của g và ng. Theo ý tôi, bỏ h ra, âm g và ng không bị thay đổi, nhứt là ng.
Bảy phụ âm kép nầy chỉ kép về hình thức, tức do 2 chữ cái phụ âm ghép lại. Còn “nội dung”, phát âm của mỗi phụ âm kép chỉ cho ra một âm trơn, một tiếng, mà thôi.
Năm phụ âm kép ch, ng, nh, th, tr được cấu tạo cách bình thường, là ghép 2 phụ âm (trơn) vào nhau để tạo ra 1 phụ âm khác, phát ra tiếng khác với tất cả những phụ âm đã có. Và 5 phụ âm kép nầy không gây ra điều chi rắc rối cho người nghiên cứu chữ Việt.
Riêng 2 phụ âm kép gi, qu được cấu tạo cách khác lạ, là lấy 1 chữ cái phụ âm ghép với 1 chữ cái nguyên âm để tạo ra 1 phụ âm khác, phát ra tiếng khác với tất cả phụ âm đã có. Và 2 phụ âm kép nầy đã gây ra lắm điều nhiều chuyện trong việc nghiên cứu chữ Việt.
Theo tôi, chuyện gây rối lung tung là do cách nghiên cứu kỳ quặc của những nhà ngôn ngữ học tuân thủ theo ngành ngữ âm học được ứng dụng cho các thứ chữ Pháp và Anh. Người ta đưa ngữ âm học một cách cứng nhắc vào tiếng Việt, nên gây rối, không tìm ra được cách lý giải cho một số chữ có phụ âm kép gi và qu.
A.- Phụ âm kép gi.
Ở San Jose có một vị viết một bài với tên tựa “Chữ ‘Giê’ nầy sai”. Ông nầy quả quyết rằng hằng triệu (toàn dân) người Việt đều đã viết sai chữ “giê” trong chữ phiên âm “chó bẹc-giê”, “giê-rô”, phải viết là “chó bẹc-gê”, “gê-rô” mới trúng. Từ đó suy thêm, viết “giẻ” rách, “gien” di truyền cũng sai, phải viết “gẻ” rách, “gen” di truyền mới trúng.
Có lẽ từ vài chữ sau đây, giết, giêng, (láng) giềng, giếng (nước), ông thấy g phải có âm giơ mới đọc ra được g+iết, g+iêng, g+iềng, g+iếng, còn gi+ết, gi+êng, gi+ềng, gi+ếng… thì làm sao phát ra âm như mình muốn được.
Từ đó ông nầy cho rằng, đứng trước i, e, ê thì g = gi. Vậy thì chỉ 1 âm giơ mà biểu thị bằng 2 ký âm g và gi.
Trong một cơ hội hiếm hoi, tôi có được xấp bài thuyết giảng của Giáo sư Phạm Văn Hải, một đệ tử chân truyền của G/s Nguyễn Đình-Hoà và Học giả Lê Ngọc Trụ, tên tựa là “Hệ Thống Chữ Viết của Người Việt”. Đoạn viết về gi, Ông Phạm Văn Hải viết:
Trích: “- g, gi là 2 cách viết (hai biến thái) của một âm vị /gi/
g đứng trước các âm chính i, iê và ya. (Cái gì), (tháng) giêng, (chém) giết, (giặt) gỵa.” Hết trích
Vậy G/s Hải cũng cho rằng g có 2 cách phát âm, 1 là “gơ”, 1 là “giơ”. Chỉ khác ở chỗ ông Hải cho rằng g chỉ phát âm “giơ” trước i, iê, và ya mà thôi: gì, giết, giêng, gỵa. Còn trước e, ê thì vẫn phải dùng gi: Giê-su, giẻ…
Tôi không đồng tình phụ âm g có 2 âm khác nhau, 1 là “gơ”, 1 là “giơ” (âm gần giống với j, jơ, của Pháp). Tất cả mẫu âm của chữ Việt chỉ có một âm mà thôi (Trừ 2 trường hợp: 2 ký hiệu mẫu âm c và k có chung âm là “cơ”; và i có âm gần giống y) Ông Phạm Văn Hải dùng từ “mẫu âm” để chỉ nguyên âm, âm chánh. Còn tôi dùng từ “mẫu âm” để chỉ tất cả 39 âm căn bản, gồm chánh âm (nguyên âm & bán nguyên âm) và phụ âm.
Có người hỏi tôi, trong vài trường hợp, không dùng g = gi thì ông lý giải thế nào về mấy chữ: (chim) gi, (là) gì, (chém) giết, (tháng) giêng, giếng (nước)…
Tôi xin trình bày ý mọn của tôi, như sau:
1) Mỗi một mẫu âm chỉ có một cách phát âm mà thôi, không thể khi thì phát âm thế nầy, khi thì phát âm thế khác. 39 âm căn bản (mẫu âm) có 39 tiếng phát âm khác nhau. Không thể g phát âm “gơ”chỗ nầy, lại có khi g phát âm “giơ” chỗ khác. Làm vậy là làm rối loạn quốc ngữ, bắt học sinh phải nhớ những chuyện thật vô lý (một biểu thị có tới 2 lối phát âm, dù là tử âm, phụ âm)
2) Các từ gi, gì, giết, giêng, giếng… phân tích ra thấy gi+-, gi+-, gi+ết, gi+êng, gi+ếng, không thể phát âm ra gi, gì, giết, giêng, giếng… Tôi thấy các từ nầy nằm trong qui tắc sau đây:
“Trong một chữ quốc ngữ không có 2 nguyên âm giống nhau đứng liền nhau. Nếu có thì phải bỏ bớt một” Theo tôi, các chữ nêu trên đúng ra phải viết đủ như vầy: (chim) gii, (làm) giì, (chém) giiết, (tháng) giiêng, giiếng (nước). Chữ i trước là thành phần “kép” của phụ âm kép gi, còn i sau là thành phần của bán nguyên âm kép iê. Vậy mình đánh vần gi+i, gi+ì, gi+iết… (giơ+i, giơ+ì, giơ+iết…) thì sẽ ra đúng với tiếng mình muốn ghi lại. Tuân thủ qui tắc bỏ bớt một nguyên âm, nên các chữ đó thành ra những chữ giống như chúng ta thấy đang dùng hôm nay. Riêng chữ gỵa, theo tôi phải viết là giịa mới chỉnh. Bỏ 1 i thì còn gịa. Chữ nầy dễ lộn với chữ giạ, nên người xưa chế ra chữ gỵa. Thật ra quốc ngữ không có vần ya, mà chỉ có vần ia. Nhưng thỉnh thoảng mình cũng thấy vần ya, vì có qui tắc nầy “Vần ia, iu khi ráp với u hay vần xuôi có u phía trước thì i phải đổi thành y”:(canh) khuya, khuỷu tay, té khuỵu…
ya mà ráp với phụ âm phía trước thì chỉ có 1 chữ duy nhứt gỵa. Có lẽ người ta nghĩ y = ii, nên mới chế chữ như vậy. Nếu nghĩ như vậy mà được mọi người chấp thuận, thì viết gyết, gyêng thay cho giết, giêng cũng được.
3) Âm kép là âm được chế tạo thêm để có đủ âm căn bản cho hệ thống tạo chữ Việt. Nếu cắt rời một thành phần của âm kép, thì tức thời nó không còn là âm kép nữa. gi mà bị ngắt i ra, thì tức thời đâu còn là gi nữa, mà chỉ còn là g thôi, nghĩa là sẽ trở lại là âm “gơ” trơn thôi. Tôi gọi lối phân tách âm kép ra tới từng chữ cái là theo lối ngữ âm học áp dụng cho chữ Pháp và chữ Anh, áp dụng vào chữ Việt chỉ gây phức tạp, rối rắm mà thôi.
4) Nếu chúng ta chịu cải tiến chữ Việt bằng cách dùng j thay gi (làm gọn một phụ âm), thì không còn gì vướng mắc. Các chữ gây rắc rối được viết như vầy, (chim) ji, (là) jì, (chém) jiết, (tháng) jiêng, jiếng (nước)… thì đâu còn gì để tranh luận.
[Có người cho rằng âm của j không giống âm của gi. Nói như vậy là quên rằng ta chỉ mượn bộ chữ cái thôi. Còn âm thì ta toàn quyền sửa đổi ít nhiều để phù hợp trong việc ghi âm tiếng Việt. Âm Tr của Anh đâu giống âm Tr của ta. Âm G của Anh trước âm i, e đâu giống G của Pháp. Âm E của Anh (phát âm là i), của Pháp (phát âm là ơ), của ta (phát âm là e) đâu giống nhau]
B.- Phụ âm kép qu.
Gần như những nhà ngôn ngữ đều cho rằng c, k và q cùng âm, là /k/.
G/s Phạm Văn Hải viết, “c, k và q là 3 cách viết của một âm vị /k/”.
Ông Đỗ Việt Hùng (“Tiếng Việt Thực Hành”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Hà Nội, 1998) viết, “…-âm /k/ được biểu thị bằng 3 kí hiệu: C, K, Q”.
Tôi nhận định về chuyện nầy như sau:
1) Trong chữ Việt, âm c (cơ) có rất nhiều công dụng trong việc tạo chữ, vừa đứng được đầu chữ, vừa đứng được cuối chữ:
a) C đứng trước, ghép được với 6 nguyên âm a, o, ô, ơ, u, ư để tạo chữ vần xuôi: ca, co, cô, cơ, cu, cư.
b) C đướng sau ghép được với 11 chánh âm (gồm nguyên âm và bán nguyên âm) a, e, o, ô, u, ư, ă, â, iê, uô, ươ để tạo chữ vần ngược: ac, ec, oc, ôc, uc, ưc, ăc, âc, iêc, uôc, ươc.
c) C cũng được dùng ghép với h để tạo ra phụ âm kép Ch.
2) Trong chữ Việt, k có rất ít công dụng trong việc tạo chữ:
a) K chỉ đứng trước, ghép được với 4 nguyên âm e, ê, i và y để tạo chữ vần xuôi thôi: ke, kê, ki, ky.
b) K cũng được dùng ghép với h để tạo ra phụ âm kép Kh
c) K không có chức năng đứng cuối chữ.
Vậy, theo tôi, phải viết, “C và k cùng âm là /cơ/” hoặc viết “Âm /cơ/ được biểu thị bằng 2 ký hiệu c và k”. Sự thật, k chỉ là biến thể của c, chỉ thay thế c khi ghép với e, ê, i, và y mà thôi.
3) Còn q đứng một mình thì chưa được giao “trách nhiệm” giữ âm gì hết. Đứng một mình, qkhông ghép được với bất cứ chánh âm nào để tạo ra chữ, ra vần. Vậy làm sao coi q có âm giống c hay k được. Q phải được u ghép vào mới thành phụ âm kép qu, có âm là quơ (hoặc cu-ơ) Lúc bấy giờ qu mới có chức năng tạo chữ như các phụ âm khác. Cắt u trong qu ra để định âm q là gì là làm rối nghiên cứu mà thôi.
Vậy, theo tôi, qu không dính dáng với c và k. Cho q = c thì chữ “đi qua” sẽ có thể thành “đi cua” sao? Chữ “qui y” sẽ có thể thành “cui y”; “quì lạy” thành “cùi lạy” sao?
Kính xin quí vị “nhà ngôn ngữ” VN đừng đem ngữ âm học của Pháp & Anh áp dụng vào việc nghiên cứu chữ Việt, rồi phân tích chữ Việt tới từng đơn vị chữ cái, gặp chữ có phụ âm kép, hoặc chữ ráp vần, quí vị sẽ làm rối lung tung, mà không ích lợi gì.
Tôi coi các chữ “qua”, “qui”, “quý” là chữ vần xuôi, phụ âm ghép với nguyên âm, giống như các chữ “ta”, “ti”. “tý” hoặc như “nha”, “nhi”, “tha”, “thi”…
Tôi phân tích 3 chữ đó ra 2 phần , phụ âm + nguyên âm, như vầy:
Qua = qu+a, đánh vần quơ+a sẽ tự nhiên ra tiếng qua
Qui = qu+i, đánh vần quơ+i = qui
Quý = qu+ý, đánh vần quơ+ý = quý.
Đến các chữ ráp vần, có một vần rồi, đem vần đó ráp với qu, như các chữ sau đây: quắn, quang, quốc, quân, quính quáng… thì cũng phân tích thành phụ âm + với vần ngược để đánh vần như sau:
Quăn = qu+ăn, đánh vần là quơ+ăn sẽ đương nhiên ra tiếng quăn,
Quang = qu+ang, đánh vần là quơ+ang = quang,
Quốc = qu+ốc, đánh vần là quơ+ốc = quốc (chớ không ra cuốc được)
Quân = qu+ân, đánh vần là quơ+ân = quân (Người Nam phát âm ra quưng, sai)
Quính = qu+ính, đánh vần là quơ+ính = quính.
Quáng = qu+áng, đánh vần là quơ+áng = quáng…
Trong một bài góp ý thảo luận về “qui tắc đánh vần” trên Trang Nhà Viện Việt Học (viethoc.org) phần Diễn Đàn Tiếng Việt, tác giả Lily viết:
“- Phụ âm QUỜ được ghi lại bằng kí hiệu QU. Phụ âm này chỉ kết hợp với những vần khởi đầu bằng âm U và âm O. Khi viết, người ta lược bỏ chữ U hay chữ O của vần ấy đi. (Thí dụ: QU+ÚY = QUÝ; QU+ OANH = QUANH)”
Mọi phụ âm được ghép với nguyên âm thì tạo ra chữ vần xuôi, được ghép với vần ngược thì tạo ra chữ ráp vần: ma, tha, tu, lư, ngu, che, trê, thô, phê: tan, nhang, sông, thênh thang, mênh mông…
Lẽ nào phụ âm Qu lại ngoại lệ, “phải ráp với vần khởi đầu bằng O hoặc U?”. Chữ qua lẽ nào phải là quoa? Chữ quê lẽ nào phải là quuê? Chữ Quì lẽ nào phải là Quuì? Chữ Quang lẽ nào phải là quoang, chữ Quỳnh lẽ nào phải là Quuỳnh?
Không biết Bà/Cô Lily lấy đâu ra âm U và âm O bị bỏ ra từ chữ Quuý, Quoanh để hiện nay còn là Quý, Quanh.
Hai phụ âm kép gi và qu là 2 phụ âm gây nhiều tranh cãi rối rắm mà vô ích nhứt. Những tranh cãi nầy là do quí vị “nhà ngôn ngữ” tìm cách biện giải gi và qu cách rắc rối, rập theo khuôn “ngữ âm học” của các nhà ngôn ngữ Tây phương.
Mong rằng các nhà ngôn ngữ Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, nên coi lại, và tìm cách biện giải đơn giản mà thuyết phục mọi người, về 2 phụ âm gi và qu.
Kính,
Nguyễn Phước Đáng.

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2018

BẠN TÔI ( viết tặng Kim Thanh)



Mày là con gái
sao cứ rủ nhậu hoài
cớ chi mày phải đãi
bọn tao là con trai


Đất Sài Gòn mày phải cày
kiếm tiền chẳng dám xài
đợi về quê đãi bạn
còn mấy thằng con trai


Rượu uống hoài phải say
mà sao đêm vẫn dài
chuyện chúng mình thuở nhỏ
ai bảo mày nhớ dai


Thương mày là phận gái
uống say mai vẫn cày
đất Sài gòn oan trái
gửi nỗi buồn cho ai


Nếu một ngày tao không bắt máy
xin mày về cứ việc uống say
linh hồn tao vẫn còn ở lại
trong ly rượu bè bạn hôm nay

Học để thành tài hay để thành người?





Học để thành người. Làm người thì phải biết sống đúng với vai trò xã hội của mình và mẫu số chung trong tất cả diều kiện để sống đúng là tính trung thực.
“Phải để cho đứa trẻ là, hay trở thành chính bản thân nó”.- câu nói của Gs. Hồ Ngọc Đại đã gói gọn Công nghệ giáo dục mà ông đưa ra.
Đáng tiếc rất nhiều người vẫn chưa hiểu đúng câu nói của ông và tôi biết chắc những người chỉ trích ông chưa bao giờ dự một buổi dạy "trình diễn của Gs. Hồ Ngọc Đại.
" Hãy để cho đứa trẻ chính là bản thân của nó" - đó là TÍNH TRUNG THỰC.
Đáng buồn, một xã hội đang băng hoại bởi sự GiẢ DỐI do llối giáo dục mang tính "ÁP ĐẶT" tạo ra đang được thay đổi bởi lối giáo dục mang lại TÍNH TRUNG THỰC lại không được đồng thuận bởi chính tầng lớp được xem là TRÍ THỨC.