" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Hai, 9 tháng 10, 2017
Vọng tình
NGUYỄN NGỌC
Tôi ghét các mạng xã hội, tôi cũng chẳng thích xem ti-vi và đọc những dòng tâm sự của bạn bè mình. Dù cho tôi biết đó là một sự thú vị, nó thể hiện bạn là người có nội tâm sâu sắc thế nhưng tôi vẫn ghét. Cho đến một ngày kia, tất cả những suy nghĩ của tôi điều bị thay đổi; đó là dịp tình cờ khi những dòng chữ chị viết lướt qua tôi. Đọc những dòng chữ ấy tôi như nhìn thấy một người con gái đầy nghị lực, đã có những lúc sống buông mình, sống điên cuồng, nhưng cũng có lúc chị đau đớn tột cùng vì một điều gì đó. Dường như chị chán ghét cuộc đời này giống tôi. Và đó cũng là lần đầu tiên tôi làm một việc mà trước gìơ tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ làm đó là tôi viết thư cho người con gái ấy... Nhưng ngay lúc đó, ngoài cảm giác hào hứng ban đầu ra tôi lại có thêm một cảm giác mặc cảm về một điều gì đó len lỏi. Lần này cũng cùng một cảm giác như lần tôi nghe giọng hát chán nản và tuyệt vọng đến tột cùng của Kurt Cobain. Chả biết có điểm gì giống nhau không, có lẽ là một sự hối hận về những sai lầm, cái chỗ nhầm lẫn cho những xáo trộn ở đời này... nhưng biết làm sao được khi thế giới này chẳng quay theo một quy luật nào cả.
Chị đã trải qua cái tuổi mộng mơ với những điều vớ vẩn, chị đã đi qua những bão tố đến những tháng ngày bình yên. Còn tôi thì luôn chìm đắm trong những màn hư ảo, thật như mơ. Tôi cũng đã từng đến quê chị - miền Trung mang đầy nắng gió, sau một khoảng thời gian lang thang khắp mọi miền đất nước.
Và bạn biết đó, ngày xưa là đâu? Tôi đã từng nghĩ rằng khi tôi đi thì những người bạn của tôi sẽ như những chú gấu ngủ đông, chờ tôi về đánh thức để tiếp tục tháng ngày tươi đẹp ở cuộc đời này. Nhưng mọi người có một hướng đi riêng, có một cách sống riêng cho mình, không ai có thể đứng đó đợi ta được cả.
Tôi đã có những giấc mơ lạ khi trời gần sáng, đó là giấc mơ về một người đàn bà ôm tôi vào lòng như thể tôi là một đứa trẻ bé bỏng... để rồi trong sự ấm áp đó tôi thấy mình bình yên đến lạ, không còn nữa những bộn bề, đam mê vội vã. Với tôi – một người luôn sống thiếu thốn tình cảm, bởi mẹ cha “chia tay” khi tôi lên 7, nên dù là một đứa trẻ chẳng thiếu tiền bạc tiêu xài, nhưng chưa bao giờ cảm nhận được cái hạnh phúc bên gia đình như thế nào cả. Tôi là một đứa trẻ được chiều chuộng, nhưng tôi sống không thật. Đôi khi thấy mình thảm hại đến tàn tạ. Đôi khi trong những giấc mơ đêm, tôi thấy mình lao xuống vực sâu, hay cô độc ở một bóng tối nào đó. Tôi cảm thấy cuộc đời này chẳng còn thiết sống nữa, tôi muốn kết thúc cuộc đời này vào một ngày nào đó gần nhất có thể. Nhưng trước khi từ giã cõi đời này, tôi mong muốn được gặp Chị, người đàn bà cho tôi chút hy vọng dẫu ít ỏi cuối cuộc đời này.
Và cuối cùng tôi đã quyết định đi gặp chị, chờ đợi chị sẽ mang đến cho tôi một điều gì đó kỳ diệu... Nhưng có lẽ, điều đó còn xa vời lắm...
* * *
Tôi vào Sài Gòn một ngày trời ảm đạm. Nó cũng gần như tâm hồn tôi lúc này vậy. Như đã hẹn trước, tôi đến một bar gần nơi chị ở để đợi chị. Bởi mọi đêm tôi có thói quen uống thật say mới về ngủ. Có lẽ thói quen đó bắt nguồn từ việc tôi sợ ở một mình, tôi sợ căn gác trống vắng bóng người, tôi sợ căn phòng lạnh lẽo và chiếc giường thiếu mùi đàn bà. Nên tôi đã làm bạn với rượu, đó cũng là ngừơi bạn thân nhất của tôi.
Và chị đến khi tôi bắt đầu hơi say. Rồi tất cả những gì tôi từng tưởng tượng về chị đều sai hết cả, ngoại trừ giọng nói chị vẫn thế, giọng nói trầm buồn nhưng đầy nhục cảm. Tôi rót mời chị một cóc rượu. Trong giây phút đầu tiên gặp chị, tôi có vẻ ngỡ ngàng với mái tóc dài ngang vai, được uốn lọn nhỏ. Khuôn mặt trang điểm nhẹ, càng tô lên nét sắc sảo và khéo léo trong chị. Bên ngoài chị trẻ hơn trong hình, đằm thắm dịu dàng hơn. Nhưng hình như chị chẳng ngạc nhiên gì khi nhìn thấy tôi, vì vừa mới bước vào quán thì chị đã nhận ra tôi ngay. Có lẽ tôi mang cái vẻ ngoài hoang dại, tôi một con ngựa bất kham giữa dòng thành phố này. Cũng bởi thế mà tôi chẳng bao giờ lạc lõng giữa đám đông cả.
Nhưng vì là quán bar nên càng về khuya quán càng nhộn nhịp hơn, tiếng nhạc cũng càng lúc càng to hơn và rượu thì càng ngày càng ngắm vào tôi hơn. Thỉnh thoảng chị kể tôi nghe những câu chuyện vui làm tôi cười nhẹ. Nhưng rồi khi chị cảm nhận được cái vẻ thất vọng trong tôi thì chị cũng tỏ ra lo lắng và buồn theo. Đôi lúc thì chúng tôi im lặng, hướng ánh nhìn về đám đông đang cười nói ngoài kia. Tôi đứng lên mời chị ra nhảy cùng, chị vui vẻ nhận lời... Chúng tôi quay cuồng theo điệu nhạc, đôi lúc khẽ chạm nhẹ vào nhau, rồi lại nhích ra xa hơn... rồi lại vô tình chạm vào nhau. Chị dùng mùi nước hoa thật lạ, thoang thoảng hương cỏ may, mùi hoa lan, hoa hồng và gỗ nhè nhẹ. Một mùi thật thân quen nhưng cũng khá xa lạ với tôi... mùi vị đàn bà...
Người đàn bà đang trong độ tuổi xuân phơi phới, xung quanh bao người đàn ông vây quanh lại đang ở cạnh tôi. Nhớ lại, thời gian tôi làm quản lý ở một số bar khác nhau ở Hà Nội, lúc đó tôi quen một cô gái được mệnh danh là hoa khôi của lớp múa Cao đẳng sân khấu điện ảnh. Em mang trên người hương của núi rừng, phảng phất hương hoa lê, hoa ban trắng... Vị của một cô thiếu nữ e ấp, của núi sông quê em. Theo thời gian tôi ra Trung làm ăn kiếp sống, và mang theo mùi hương ấy bên mình. Đôi khi nó bị lẫn vào hương đêm ngào ngạt, chút hương nước hoa rẻ tiền của những cô bé bán hoa nằng nặc son phấn.
Khi chị hỏi tôi vì sao tôi đến Sài Gòn này. Tôi trả lời gỏn lỏn: “Là vì chị”. Chị nhìn tôi không có vẻ gì bất ngờ cả. Hình như chị đã nghe rất nhiều người nói với chị như thế. Rồi tôi tiếp tục bảo tôi muốn chết vào một ngày gần nhất có thể, nhưng tôi sợ chết một mình lắm, tôi muốn chết cùng chị. Chị nghe thế cười nhếch môi, có lẽ là chị đang cười khinh bỉ tôi thì phải... dù rằng chị vẫn giữ cái thái độ bình thường qua những lời nói, cử chỉ và hành động đối với tôi.
Người đàn bà đang ngồi đối diện với tôi có một phong cách sang trọng, và mùi nước hoa thật quyến rũ... gần như có một sức hút kỳ lạ toát ra từ con người ấy, một sức hút lạ lùng nhưng khó cưỡng lại... Và chắc chắn với một người đàn ông nào đó thì đây là một sự hấp dẫn lạ kỳ... Còn với tôi, tôi chỉ thấy có một sự xa cách, làm nỗi cô đơn trong tôi ngày càng dày đặc mà thôi.
Và càng ngày cái ý định muốn tự tử, muốn từ giã cõi đời này càng hiện rõ hơn... Những người đàn bà đi ngang đời tôi, cùng sự im lặng giờ đây của chị... khi chị nhìn theo chàng ca sĩ hát ầm ầm trên kia, bỏ mặc tôi với những quay cuồng trong mớ cảm xúc hỗn độn... Tôi càng cảm thấy tuyệt vọng hơn, tuyệt vọng đến kiệt cùng... Người đàn bà cuối cùng mang cho tôi hy vọng ở cuộc sống này lại thờ ơ với tôi đến thế ư?...
Nhìn đồng hồ là 3h sáng. Tôi cùng chị bắt taxi về khách sạn. Vừa về đến nơi, chỉ mở cửa phòng ra là tôi đã nằm vật xuống giường. Mùi nước hoa của chị thoang thoảng bên tôi, một mùi hương là lạ, như chẳng có gì liên quan đến tôi. Tôi cảm thấy mình lạc lõng, mình bơ vơ trong cái thế giới này… Tôi thấy mình là kẻ bất lực trước đàn bà, bất lực cả với cuộc đời của chính tôi…
Đứng dậy, tôi lục lọi tủ lạnh, uống biết biết bao nhiêu là bia, bia rất nhiều bia…Và cả thuốc ngủ nữa… rất nhiều thuốc ngủ….
* * *
Sáng hôm sau, người dọn phòng thấy phòng Khanh có dấu hiệu là lạ… anh đã gõ cửa hơn 4 lần nhưng không có ai ra mở. Nên đạp cửa bước vào, thì trước mắt anh là một cảnh tượng hãi hùng. Khanh nằm đó, toàn thân bất động, trên bàn là vài lon bia anh đã uống cùng hai vỉ thuốc ngủ, chiếc máy tính còn nguyên những dòng tâm sự anh đang viết dang dở… Người đàn bà kia được gọi đến ngay sau đó, chị chẳng thể nào tưởng tượng được là Khanh thực sự muốn từ giã cõi đời này vào đêm qua, những lời nói khi say của Khanh là thực… Người đàn bà ấy đã lo cho Khanh một "hậu sự" tươm tất như cậu mong ước…
Và câu truyện này vẫn sẽ được người đàn bà đó viết tiếp… Nhưng sau đó là một câu chuyện rất buồn…
Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017
HOA HỒNG GAI
Tôi mãi nhớ về em. Một cô gái với trái tim thiên thần. Cô viết truyện ngắn này khi chỉ mới 20 tuổi. Quả là một tài năng hiếm có. Đáng tiếc, cô đột nhiên biến mất
HOA HỒNG GAI
Truyện ngắn : Nguyễn Ngọc(Tinhmuavong)
Cô đang ngồi thẩn thờ bên ô cửa sổ, đôi chân duỗi thẳng tự nhiên, để những đầu ngón chạm nền gạch. Cô cảm thấy thích thích cái cảm giác có một “cái lạnh” nào đó chợt đến ở đầu ngón chân. Cái lạnh ấy chợt xuất hiện, rồi vụt biến mất... cứ xuất hiện rồi lại biến mất khi cô nhịp bàn chân theo giai điệu bài hát “Straight Through My Heart” của Backstreet Boys đang được phát ra thật to. Cô khẽ khẽ lắc đầu theo điệu nhạc. Hương hoa hồng theo cơn gió tràn vào nhà, vương vấn bên cánh mũi xinh xắn của cô.
Dường như hương hoa quá quyến rũ thế nên cô đã ngừng nhịp chân... Cô hơi ngoái người lại, nhìn ra cửa sổ. Bên dưới là vườn hồng. Rồi ánh sáng vàng vọt của buổi chiều tà chiếu vào làm cho mhững đóa hồng như bị ai đó làm thâm tím... hay là vì hoa hồng đang khóc... Cô nhìn kỹ thêm một chút nữa. Ánh sáng ngoài vườn nhạt quá, cô chẳng còn những thấy rõ bên dưới nữa... Bóng đêm như đang vây phủ vườn hồng... Vườn hồng ngày xưa của anh và cô cùng trồng... Vườn hồng với những đóa hồng đầy gai...
Bỗng dưng bái hát tắt phụt, cô ngoáy lại nhìn. Người đàn ông đang đứng cau mày trước mặt cô. Gương mặt nhăn nhúm, làm cô chợt liên tưởng đến những tờ bản thảo mà mình vo tròn rồi vứt vào sọt rác mất phút trước... Trên gương mặt ấy, có cả một sự giận dữ và bất lực.
- Kìa, em đang nghe mà – Cô nói với vẻ mặt lạnh lùng. Cái lạnh cuả nền gạch giờ đây đã lan khắp lòng bàn chân khi cô rời khỏi bệ cửa sổ để đi về phía máy phát đĩa.
- Đã tối rồi, phải để cho mọi người nghĩ ngơi chứ? – Định quay lưng đi, nhưng rồi lại quay lại nhìn cô, cũng gương mặt nhăn nhúm ban nãy. Anh hỏi – Mà em đang làm gì mà ngồi thừ người ngoài cửa sổ vậy? Định cấm đầu xuống dưới chết hả?
Cô nhếch môi, không thèm trả lời. Vì cô đang bận với cái suy nghĩ của riêng mình: “Làm sao mà bản nhạc kia có thể vượt qua khỏi vườn hồng rộng lớn xung quanh nhà cô để đến với nhà hàng xóm được chứ”. Nghĩ thế, cô lại nhấn nút play để bản nhạc có thể được cất lên, lại tiếng Brian dạo đầu, rồi những ca từ mạnh mẽ rót vào tim “Ooh Oh Oh, In the heart of the night. When it's dark In the lights I heard the loudest noise, A gunshot on the floor Oh-oh Oh-oh”.
Thấy thế anh lại và giật ngay phích cắm điện. Không thèm nhìn hay nói cô một lời nào, sau đó anh đi lại giường nằm. Để mình cô đừng đó. Tưởng rằng, ánh sáng từ căn phòng dịu dàng có thể giúp anh xoa dịu sự “phận nộ” đang lớn dần trong cô, nhưng không... không thể được...
- Anh biến đi
- Cái gì.
- Biến đi, biến ra khỏi mắt em – Cô lặp lại từng lời một với giọng lạnh băng.
Cô lôi cái đầu đĩa ra khỏi tủ, không chút bận tâm với mớ dây nhợ lòng thòng. Cô quẳng nó xuống nền nhà... Bỗng âm thanh Rầm... rầm... ầm âm.. khô khốc vang lên. Anh quay lại nhìn cô, vẻ đầy kinh ngạc. Tức giận, anh bước vội xuống giường, lấy đại chiếc áo thun trên thành ghế cạnh bàn trang điểm của cô... Bước qua cô, và buông một câu cọc cằn.
- Cô điên rồi.
Cô vẫn đứng chết lặng ở đó. Căn phòng nhỏ vẫn sáng đèn, thứ ánh sáng dịu dàng và nhẹ nhàng nhưng không hiểu vì sao quanh cô chỉ thầy toàn màu đen. Hương hoa hồng vẫn thoang thoảng trong gió, tỏa ngát cả căn phòng... nhưng nỗi nhớ trong lòng cô không thể dịu dàng cùng hoa được... Trong lòng cô, dâng lên bao cảm xúc ngổn ngang, nó như cào cấu dữ dội trong cô...
* * *
Sáng hôm sau, khi cô đang ở tiệm hoa, thì nhận được tin nhắn từ số điện thoại của anh: “Anh đồng ý em là một cô gái xinh đẹp, và đa cảm. Nhưng em lại là một người không biết thế nào là tình yêu. Đến hôm nay thì anh lại thấy mình nên cảm ơn vì điều đó. Ít ra giờ đây nó làm cho anh không ray rứt khi nói với em rằng. Mình chia tay nhau nhé!”. Đọc xong cô không suy nghĩ nhiều mà nhanh chóng nhắn lại cho anh một từ ngắn gọn mà thôi “Ok!” rồi bình thản cất điện thoại vào túi quần, như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Tình yêu bao giờ cũng chứa đựng những tổn thương nhất định. Những cuộc tình mà cô đã đi qua, dù là nó chân thành hay giả dối thì cũng có những tổn thương hiện hữu. Và kết thúc một cuộc tình nào đó, người chịu đựng tổn thương một là cô, một là người còn lại. Chính vì thế, chẳng rõ từ lúc nào, trái tim cô đã bắt đầu vô cảm với tình yêu.
- Không cần phải bỏ gai đây. Anh cứ gói lại bán cho tôi là xong.
- Loại hồng này gai sắc lắm...
Cô ngước nhìn rồi nói: “Đó không phải chuyện của anh”.
Người bán hoa làm như là chẳng nghe thấy những gì cô nói. Gã cứ ngồi gỡ từng gai một trên những cành hồng cô mua vô cùng cẩn thận. Gã cố bảo đảm rằng mình đã bỏ hết những gai nhọn trước khi xếp chúng sang một bên.
- Anh kia có hiểu tôi đang nói gì không? Đã bảo là đừng cắt gai kia mà.
Gã vẫn bình tĩnh tiếp tục công việc của mình.
- Cô đừng cố tình làm mình đau như thế. Cô nghĩ làm như vậy sẽ được người khác quan tâm hay sao?
Nghe gã nói thế, cô tái mặt. Bởi cô biết gã đang nói về điều gì.
- Anh có thôi đi không?
- Cô biết người ta gọi cô là gì không ? – Bỗng gã dừng công việc đang làm lại, ngước lên nhìn cô với ánh mắt bình thản... Như gã đã biết trước, những lời mình nói sẽ làm đá dội vào trái tim cô... - “.... là đồ ích kỷ?”
Cô cười ha hả... Và bất chợt chột lấy một cành hoa chưa được tỉa gai.... siết thật mạnh. Để những lưỡi gai sắc nhọn đăm vào làn da mền mại, mịn màng của cô... và bắt đầu có những giọt máu đỏ tứa ra từ đó.
- Vậy giờ đây, tôi đang rất đau đó. Anh có quan tâm tôi không – Cô nhếch môi và nói tiếp – Không! Đúng chứ? Vì anh không phải là anh ấy, chưa bao giờ là anh ấy. Nên cũng không có quyền chỉ trích, hay lên mặt với tôi. Hiểu chưa?
Gã nhìn cô, rồi lại nhìn bàn tay đang nắm hoa hồng gai của cô... gã vội buông kéo, chạy đi tìm hộp cứu thương... Cố gắng gỡ từng ngón tay của cô ra, và sát trùng.
- Tôi không phải đang muốn nói đến chuyện đó, nhưng nếu là như thế tôi cũng không muốn nhìn ai đó như thế này đâu. Đừng tưởng làm như vậy mình cô đau thôi, mà cả hoa hồng cũng đau đó.
Cô liếc nhìn gã, trợn tròn mắt kinh ngạc... Cô biết rất rõ gã chàng bán hoa này và Anh là hai anh em. Nhưng gã bán hoa này lại không có được cái tính dịu dàng của Anh. Gã này lạnh lùng và tàn nhẫn hơn rất nhiều. Và một điều nữa mà cô biết chắc chắn đó là giờ đây cả hai anh em họ đều câm ghét cô. Nhưng có lạ gì với điều đó bởi chính cô còn căm ghét mình kia mà.
Gã xếp dụng cụ y tế vào hộp cứu thương, đem nó sang một bên, lại cầm kéo mà tiếp tục công việc của mình.
- Tôi biết cô là cô gái mạnh mẽ, nên trong cô có những suy nghĩ lạ lùng. Nhưng cô cũng nên nhớ rằng ở cuộc đời này có 2 thứ mà không nên đem ra đùa đó là tình yêu và sinh mạng con người.
Cô nhìn gã với ánh mắt rực lửa. Rồi huơ tay, làm những cánh hoa hồng rơi vãi trên sàn nhà.
- Tôi không muốn mua hoa của anh nữa,
- Nhưng tôi vẫn sẽ đem đến đó.
- Vậy thì anh cứ đem đến Thiên đàng hộ tôi.
* * *
Cô nhớ lại một đêm khi cô nói với Anh:
- Giờ em đang muốn viết về sự Chết. Nhưng không biết nó như thế nào để viết nữa. Liệu có cần chết “thử” để viết không anh?
Anh đi đến, vòng tay qua eo cô, dẫn cô ra bệ cửa sổ.
- Nếu mà em muốn biết, anh sẽ đi đến đó, rồi về báo cho em biết nhé!
- Thiệt không vậy anh? Anh dám chứ?
- Thiệt chứ, anh sợ ai nào?
Cô cười khanh khách...
- Thôi, mệt rồi. Em biết bọn đàn ông thường đem cái chết ra để chứng tỏ tình yêu mà. Anh không cần lấy chiêu cũ rích này ra dỗ ngọt em đâu.
Đang cười, nhìn cô, gương mặt anh bỗng trở nên lạnh đi.
- Vậy là em không tin anh.
Cô gật đầu.
Anh thấy vậy, buông ta ra khỏi eo cô, quay mặt nhìn về xa xăm
- Thế thì anh sẽ làm để em tin.
Cô chả thèm bận tâm. Bởi anh là thế, luôn chiều theo những yêu cầu và suy nghĩ kỳ hoặc của cô. Ngay cả cái việc điên rồ như chặt hết cây trong vườn, bỏ hết các chậu hoa để chỉ trồng hoa hồng thôi, thế mà anh cũng làm theo chẳng cần bất cứ lý do nào. Anh chỉ bảo rằng: “Khi nào em muốn hái hoa, phải gọi anh đó nhé. Gai hoa hồng sắc lắm. Nó đâm vào là nhức cả sương đấy”. Lúc đó cô bướng bỉnh trả lời lại: “Ứ! Nhưng em thích thì sao? Vả lại chả lẽ anh phải ở cạnh em suốt đời ư?” – Anh trả lời: “Ừ! Anh sẽ luôn ở cạnh em”.
.... Đang suy nghĩ bâng quơ, thì một cơn gió đêm chợt ùa vào, mang theo chút hương hoa hồng thoang thoảng. Lạ thật, sao hương hoa đêm nay nồng nàn đến thế. Cô thầm nghĩ, giá mà mình có thể đắm chìm vào hương hoa này mà không để vướng bận điều gì thì tuyệt biết bao. Nghĩ là làm, cô leo qua bệ cửa sổ phòng mình, để thỏng chân ra ngoài, nhìn xuống vườn hoa bên dưới, những bông hoa hồng nhung giờ đã chuyển sang màu đen thẫm... Cô buông tay vịn khung cửa sổ, quay lại nhìn anh. Cô dọa:
- Em đi tìm cảm giác thật đây... hihi... Tạm biệt anh.
Anh hoảng hốt, mặt mày tái mét... Nhòa người về phía cô... Nhưng giá như..... Giá như cô không đùa, thì cô sẽ không rơi xuống... Giá như anh không đạp phải cái áo đầm cô vứt trên sàn nhà sáng nay... Giá như chiếc cửa sổ ấy đừng quá rộng.. thì ... thì anh đã không nằm trên thảm hoa hồng đầy gai phía dưới... Anh là người ngu ngốc nhất thế gian này, và cái giá mà anh phải trả cho sự ngu ngốc của chính anh là anh đã vĩnh viễn chìm vào giấc ngủ dài, bởi những chấn thương trong não. Có lẽ anh sẽ sống đời sống thực vật mãi mãi... Cô còn nhớ rất rõ, ngày hôm ấy, cả người anh đều bị xây xước bởi gai hoa hồng đâm cả. Cũng từ ngày hôm đó, trong tim cô như có một chiếc gai hoa hồng đâm vậy... đến giờ vẫn chưa thể nào lành lại được...
* * *
- Cả tuần nay, vì sao cô không đến bệnh viện.
Cô hờ hững cầm đóa hoa đồng tiền trên tay và trong đầu hiện lên suy nghĩ: “Vì sao trên đời này lại có loại hoa sặc sỡ sắc màu mà chẳng có hương vị gì như thế nhỉ”. Khi nghe gã nói, cô bỏ bông hoa xuống, và đáp:
- Vì tôi chán.
Gã nhìn cô:
- Cô thật sự thấy chán sao?
Cô không trả lời, cũng chẳng dám nhìn vào mắt anh, chỉ khi quay mặt đi, cô mới khẽ gật đầu. Gã thấy thế, chùi tay vào túi quần, bước đến chiếc bàn nhỏ.
- Vậy thì đã đến lúc kết thúc tất cả rồi.
Cô nghe thế cau mày:
- Đến lúc cái gì?
- Để tất cả ra đi...
Chợt hiểu ý của anh, cô tái mặt, chạy nhanh đến và giật chiếc điện thoại trên tay gã, dập mạnh xuống bàn.
- Ai cho phép anh làm điều đó? Anh là kẻ máu lạnh mà. Dù gì anh ấy cũng là em trai ruột của anh, vậy mà anh lại có thể giết chết nó.
- Chẳng phải là vì cô chán hay sao? Vậy thì việc gì mà cô phải chịu đựng kia chứ? Cô muốn nó sống đời sống thực vật như thế cho đến bao giờ? Nó chẳng thể nào mở mắt ra nhìn cô thêm lần nào nữa, không bao giờ nó có thể gọi tên cô nữa... Thế thì hãy để nó ra đi còn hơn. Cô mới là người nhẫn tâm, cô nhẫn tâm để nó sống không bằng chết như thế đến bao giờ nữa?
Cổ họng cô như nghẹ đắng, môi cô run rẩy chẳng nói nên lời. Đúng, từ lâu rồi, anh đã không thể gọi tên cô, không thể nhìn thấy cô, không thể ôm eo cô. Anh giờ là một gã đàn ông vô cùng tệ hại. Anh là kẻ nói dối. Anh đã hứa sẽ trở về kể lại cho cô nghe về cái chết. Thế mà... anh đã đi rồi không bao giờ trở lại nữa. Anh mặc kệ cô có bao người đàn ông khác vây quanh....
Gã bán hoa nói tiếp:
- Sao cô không nói gì đi chứ? Nói ra sẽ giúp cô nhẹ nhàng hơn không phải sao? Cô sẽ không cần phải ray rứt khi đến với bất cứ người đàn ông nào khác.
- Không... Không... Tôi không muốn, không thích...
Rồi cô quay người, bỏ chảy... Những bước chân như xô vào nhau... Cô phải chạy thật nhanh về nhà, không thì cô sẽ quỵ trên đường mất.
* * *
Dãy hành lang bệnh viện thật dài. Dù cho cô có đến đây hàng trăm lần, hàng nghìn lần thì cũng vậy. Mỗi lần cô mang trên mình những tâm trạng khác nhau, và bao giờ cô cũng thấy dãy hành lang này dài thêm một chút. Cuối dãy hàng lang là dãy phòng săn sóc đặc biệt. Cô đứng đó, lặng người, nhìn theo cánh cửa phòng... Anh – người cô yêu đang ở trong đó. Cảm giác chết lặng như thế nào bạn nhỉ? Chẳng biết nó có kinh khủng hơn cảm giác một điều gì đó đang bò trong từng thớ thịt của cô lúc nào không? Cô đã từng mơ ước biết bao những trang viết của mình sẽ có một điều gì đó “chân thực”. Cô bướng bỉnh, đòi có những trải nghiệm mà trong đời người này ta chỉ có thể trải qua một lần mà thôi... Và đúng như những người đàn ông đã tiếp xúc với cô, họ luôn đi ra phòng cô sau vài phút. Bởi cô điên rồi.
Cô cố dùng hết sức để đẩy cánh cửa nặng nề kia. Và chợt thấy anh nằm một góc phòng. Vẻ đẹp hiền lành, trong giấc ngủ bình an giữa căn phòng trắng toát. Trên đầu giường có một chiếc tủ nhỏ đựng vật dụng cá nhân, một chậu nhỏ để những đóa hồng vừa mới thay. Cô thầm nghĩ – “chắc là gã”. Rồi cô bước đến, nhìn chầm chầm lên gương mặt anh. Những ngón tay cô mân mê từng góc cạnh trên gương mặt ấy.
- Anh này hư quá rồi đó, để râu ria mọc tùm lum như thế này được sao. Em đã bảo anh bao lần rồi mà, anh không chịu lo gì hết. Thôi để em cạo cho nhé. Một lần nữa thôi đó.
Cô kéo ngăn tủ ra, lắp lưỡi dao cạo vào, thoa kem cạo râu cho anh, tỉ mỉ cạo từng nhát... Cô mỉm cười dịu dàng, nhưng sao nước mắt lại rơi thế này.
- Anh nè, những người đàn ông khác quanh em thật nhạt nhẽo. Chẳng một ai như anh cả, chẳng có ai bằng anh. Không ai xứng đáng ngồi trên những chiếc ghế anh từng ngồi, nằm trên chiếc giường anh từng nằm... Chẳng hiểu sao, mọi lần em nhìn những gã đó ngồi vào những chỗ của anh thì em tức điên lên.
Cô lấy khăn rồi lau một lượt quanh mặt của anh. Cô mân mê những ngón tay của mình trên môi anh. Đôi môi anh giờ lạnh ngắt, khô khốc. Không giống cái lạnh xuất hiện dưới nền gạch cô cảm nhận qua những ngón chân mình mọi khi nhìn qua bệ cửa... Nó ấm áp và mền mại hơn rất nhiều. Cô cúi xuống và hôn lên môi anh.
- Anh nhất định sẽ không bỏ em lại một mình phải không?
* * *
Đêm nay ngoài trời không có gió. Cô ngã người ra bệ cửa, nhìn xuống vườn hoa hồng bên dưới nhưng không ngửi được mùi hương thoang thoảng của hoa hồng.
- Tôi sẽ chỉ cắt gai hoa hồng lần này nữa thôi. Từ nay về sao tôi sẽ không làm điều đó nữa. Bởi hoa hồng không có gai thì đâu phải là hoa đồng phải không? Và tình yêu cũng vậy. Em trai tôi luôn làm những việc ngu ngốc vì nó sợ cô tổn thương...
Gã bán hoa đã nói như thể lần này là lần cuối cùng. Có lẽ vì gã tưởng cô không nghe được câu nói nhỏ cuối cùng của gã.
- Lần sau tôi sẽ cắt nói vì sự ngu ngốc của chính mình.
Cô nghe rõ nhưng cố tình lờ đi, xem như không nghe thấy. Biết làm sao được đây, khi mà cô nhận ra rằng, dù cho có bao nhiêu người đàn ông yêu cô, có bao người theo đuổi cô. Nhưng tự thân cô từ trước cho đến bây giờ chưa biết yêu là thế nào... Cô là một đoá hoa, cũng mang đầy gai, nhưng có lẽ cô không phải là hoa hồng.
Dưới ô cửa sổ, trên thảm hoa hồng, nơi đó có tình yêu của cô, nó cũng đẹp cũng rực rỡ, cũng đầy hương sắc. Cô sẽ chẳng bao giờ biết được cảm giác cái chết như thế nào, còn anh thì sẽ chẳng bao giờ về lại kể cho cô nghe cả. Tình yêu của anh giờ đã hóa thành hương hoa rồi, có chỉ lẫn vào không trung, còn cô thì chẳng thể nào nắm giữ nó được.
- Em sẽ mãi chờ anh tình yêu ạ. Em chờ anh đến trả cho em món nợ, chờ anh về thực hiện lời hứa của mình... Em tin, một ngày nào đó, em sẽ lại gặp anh...
Cô ngước nhìn những ánh sao xa. Trên kia, sau những vì sao ấy là một thiên đường rộng mở, nơi của tình yêu, của sự vĩnh hằng. Và
... Ngày hôm qua, anh đã đến đó
... Ngày hôm qua, cô đã tiễn anh về nơi đó
Bên dưới ô cửa sổ.... thảm hoa hồng đang chuyển động. Còn cô đang nở một nụ cười thật tươi... “Kìa, gió về”
Dường như có một điều gì đó phôi pha trong cô... giờ đây, trong cô chỉ còn anh, tình yêu, và những đóa hoa hồng.
Thứ Bảy, 7 tháng 10, 2017
MỘT DÒNG SÔNG TRĂNG
Em ở trên cao
buồn vui cùng con nước
thuyền ta say khướt vớt bóng trên sông
phải lòng
chở mỗi nhớ mong
mang theo tròn khuyết lớn ròng đục trong
Ta say quay mòng
thuyền say lạc lối
va phải bờ thương vỡ mảnh nhân duyên
Tàn giấc mơ tiên
đời vướng ưu phiền
tỉnh say hoài niệm
một dòng sông trăng
Quyền dân tộc tự quyết (Self-determination)
Tác giả: Trần Nam Tiến
Quyền dân tộc tự quyết là quyền của mỗi dân tộc trong việc thiết lập chế độ chính trị và thực hiện sự phát triển kinh tế – xã hội và văn hóa của mình trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Kể từ khi thuật ngữ này ra đời vào nửa cuối thế kỷ 18 cho đến nay, nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết đã mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789-1799) đã tuyên bố nguyên tắc quyền tự quyết như là việc cấm thôn tính lãnh thổ hoặc thay đổi lãnh thổ mà không xét đến nguyện vọng của dân cư có liên quan, vừa là tiêu chí để hợp thức hóa các chính phủ một cách dân chủ.
Năm 1917, nguyên tắc này lại được đề cập bởi hai nhân vật đối lập nhau. Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson coi nguyên tắc này trước hết là một tiêu chí để giải thể các đế quốc bại trận vào cuối cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (Áo – Hung, Đức và Ottoman). Trong khi đó, Vladimir Ilyich Lenin – lãnh tụ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga 1917, coi nguyên tắt này về cơ bản là nguyên tắc chống lại chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc được mặc nhiên công nhận. Nguyên tắc này chính thức được cộng đồng quốc tế thừa nhận trong giai đoạn mà quá trình phi thực dân hóa đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, qua đó thể hiện vai trò của Liên Hiệp Quốc trong quá trình đấu tranh cho quyền của các dân tộc.
Về phương diện pháp lý, chủ quyền dân tộc là quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc đó trong đời sống quốc tế, thể hiện ở tổng thể các quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc, được ghi nhận lại tại các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế.
Dưới thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là trong giai đoạn cách mạng dân chủ tư sản, quyền dân tộc tự quyết là yêu cầu bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc, dân chủ hoá đất nước. Sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, quyền dân tộc tự quyết là yêu cầu của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là yêu cầu giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân. Trong thời kỳ thiết lập chủ nghĩa tư bản, quyền tự quyết của các dân tộc có khuynh hướng chống phong kiến. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó có khuynh hướng chống chủ nghĩa tư bản. Cho nên trong thời kỳ hiện nay, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp không tách rời nhau.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, quyền dân tộc tự quyết được hiểu theo nghĩa là việc một dân tộc hoàn toàn tự do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường lối phát triển đất nước. Như vậy, quyền dân tộc tự quyết là một trong những nội dung quan trọng của quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện quan hệ quốc tế hiện nay. Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết trở thành nguyên tắc pháp lý quốc tế, được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc và nhiều văn bản quốc tế quan trọng khác.
Cụ thể, nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết được thể hiện trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc với tư cách là một trong những mục đích hoạt động của tổ chức này với nội dung: “phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc”.
Trong điều 55 của Hiến chương, nguyên tắc dân tộc tự quyết được coi là nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Như vậy, quan hệ giữa các dân tộc được xác định trong Hiến chương chính là quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền, trong đó các dân tộc bình đẳng và mỗi dân tộc đều có quyền tự định đoạt vận mệnh của mình.
Bằng Nghị quyết số 1514 (XV) ngày 14-12-1960, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua Tuyên bố về “Trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa”, Điều 2 Nghị quyết đã chỉ rõ rằng: “tất cả các dân tộc đề có quyền tự quyết, trong đó có quyền thiết lập chế độ chính trị và thực hiện sự phát triển kinh tế – xã hội và văn hóa của mình”.
Trong Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc của luật quốc tế, Liên Hiệp Quốc cũng đã khẳng định: “Việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó, cũng như việc thiết lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết”, và “Mỗi quốc gia đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền này, phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc”.
Trên cơ sở đó, quyền dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung chính sau:
Quyền của mỗi dân tộc trong việc thành lập nhà nước độc lập; tự do tách ra khỏi một quốc gia nhiều dân tộc để thành lập quốc gia độc lập của mình; hoặc tự nguyện nhập vào một quốc gia nhiều dân tộc để thành lập liên bang trên cơ sở giữ chủ quyền dân tộc của mình;
Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội phù hợp;
Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;
Quyền của các dân tộc phụ thuộc và thuộc địa tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự;
Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý…
Tuy nhiên, thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh ở một số quốc gia thường có hiện tượng các dân tộc thiểu số muốn tách ra thành lập quốc gia riêng với khẩu hiệu “quyền dân tộc tự quyết” như các trường hợp ở Nam Tư cũ, Liên bang Nga, Indonesia, Philippines và đặc biệt là tại một số nước châu Phi như Kenya, Ethiopia, Sudan…. Việc đòi quyền tự quyết đã dẫn đến tình trạng phức tạp trong tình hình đối nội ở các quốc gia này. Có những nơi xung đột vũ trang nội bộ đã diễn ra, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, trật tự và an ninh thế giới. Từ thực tế đó, quyền dân tộc tự quyết không có nghĩa là các dân tộc thiểu số trong từng quốc gia có quyền tự quyết định vận mệnh của mình, trong đó có quyền thành lập nhà nước độc lập.
Thường thì trong mỗi quốc gia có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, trong đó có dân tộc đông người nhất và các dân tộc còn lại được coi là thiểu số. Tất cả các dân tộc này cùng hợp thành một dân tộc chung nhất, đồng nghĩa với nhân dân và mang tên gọi của đất nước mình. Chỉ có những dân tộc theo nghĩa nhân dân, quốc gia mới có quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Quyền dân tộc tự quyết chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân cư thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định – chủ thể luật quốc tế. Quan điểm này phù hợp với Hiến chương, các văn kiện của Liên Hiệp Quốc và thực tiễn ở các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017
Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc Các từ ngữ gốc Hán
I. Trên thực tế, hầu như không có từ vựng của ngôn ngữ nào lại chỉ hình thành, xây dựng bằng con đường "tự nó". Trong những ngôn ngữ được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp... người ta vẫn có thể thấy hàng loạt từ ngữ mà chúng vay mượn, hoặc vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ khác. Tiếng Việt của chúng ta cũng vậy.
Như thế, điều mà người ta có thể dễ thấy nhất ở đây là nổi lên đường phân giới giữa hai lớp từ ngữ: lớp từ bản ngữ (còn gọi là lớp từ thuần) và lớp từ có nguồn gốc khác, xa lạ (còn gọi là lớp từ ngoại lai). Phân tích qua tiếng Việt, ta sẽ rõ điều đó.
II. Ở từ vựng tiếng Việt, lớp từ ngoại lai được phân thành hai lớp nhỏ hơn: lớp các từ ngữ gốc Hán và lớp các từ ngữ gốc Ấn-Âu (chủ yếu là gốc Pháp).
1. Các từ ngữ gốc Hán
1.a. Tiếng Việt đã trải qua quá trình tiếp xúc với tiếng Hán từ rất lâu đời, thông qua nhiều con đường và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Có thể chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành hai giai đoạn lớn: một là giai đoạn từ đầu công nguyên đến đầu đời Đường (đầu thế kỉ 8); hai là giai đoạn từ đời Đường (thế kỉ 8 – thế kỉ 10) trở về sau. Hai lần tiếp xúc lớn này cung cấp cho từ vựng tiếng Việt hai nguồn gốc từ Hán mà như trước nay vẫn quen gọi là từ Hán cổ và từ Hán Việt.
1.b. Từ Hán cổ là những từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn một. Vì đi vào tiếng Việt đã lâu, đã được đồng hoá rất mạnh, nên những từ này hiện nay nói chung không còn cái vẻ xa lạ đối với người Việt nữa. Ví dụ: chè, ngà, chén, chém, chìm, buồng, buồn, buồm, mùi, mùa...
1.c. Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn hai, mà người Việt đã đọc âm chuẩn (Trường An) của chúng theo hệ thống ngữ âm của mình. Cách đọc đó được duy trì (với những biến đổi ít nhiều) cho đến tận ngày nay. Ví dụ: trà, mã, trọng, khinh, vượng, cận, nam, nữ...
Tên gọi "từ Hán Việt" còn bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc Hán, mà do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi người Việt vay mượn lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Ví dụ, có những từ vốn xuất thân nguồn gốc Nhật Bản như: trường hợp, nghĩa vụ, phục tùng, phục vụ, điều chế, đại bản doanh, kinh tế, thủ tục, biện chứng, khái quát, mĩ thuật, cộng hoà... Có những từ lại vốn xuất thân từ nguồn gốc Phạn (Sanskrit) như Phật, Nát Bàn, Di lặc, Thích ca mầu ni... Có từ lại vốn thuộc nguồn gốc châu Âu như: câu lạc bộ, Anh Cát Lợi, Mạc Tư Khoa...
Bên cạnh đó, những từ do người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố cấu tạo có nguồn gốc Hán thì cũng được gọi là từ Hán Việt. Chẳng hạn: y sĩ, đặc công, thể công, công an, thúc bách, đại đội, tiểu đoàn, thiếu tá, hao mòn, ca hát, hiểm nghèo, thanh vắng, ca ngợi, người bệnh, tàu thuỷ, tàu hoả, cướp đoạt... (Tuy nhiên, loại này cần có thái độ nhìn nhận riêng).
1.d. Cũng là những từ gốc Hán nhưng có một nhóm được du nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khẩu ngữ của những người nói phương ngữ tiếng Hán. Nhóm này có số lượng không nhiều và nói chung không đem lại cho tiếng Việt ảnh hưởng đáng kể nào. Ví dụ: xì dầu, mì chính, vằng thắn, xá xíu, sủi cảo, lậu, lục tào xá, tào phớ, chí ma phù, bát bảo lường xà...
1.e. Diễn biến của các từ gốc Hán nói chung trong tiếng Việt rất phức tạp. Tuy vậy, những kết quả phân tích về chúng đã cho phép rút ra một số hướng như sau:
+ Trước hết, chúng được Việt hoá, được "cải tổ" về mặt ngữ âm. Đó là một tất yếu. Thậm chí, chỉ có hàng loạt từ được Việt hoá tới hai lần, dẫn tới hai kết quả tồn tại song song: một cách đọc được gọi là cách đọc Hán Việt, một cách đọc được gọi là Hán Việt Việt hoá. Cách đọc thứ hai làm mờ hẳn nguồn gốc của chúng đi, đưa chúng vào sâu hơn trong tiếng Việt. Ví dụ: kính – gương; các – gác; can – gan; cận – gần; kí – ghi; quả – goá; kiếm – gươm; hoạ – vạ...
Một biểu hiện khác của sự cải tổ về ngữ âm là rút ngắn từ lại. Ví dụ: cử nhân – cử (cụ cử); tú tài – tú(cậu tú); thục địa – thục (củ thục); tiểu đồng – tiểu (chú tiểu); tiểu tiện – tiểu (đi tiểu)...
+ Về năng lực hoạt động, khả năng nhập hệ của các từ gốc Hán trong tiếng Việt, rất không đồng đều. Rất nhiều từ có khả năng hoạt động độc lập, tổ hợp tự do, đến mức có lẽ trừ những người có vốn Hán học và những nhà nghiên cứu ra, không mấy ai còn để ý đến hoặc "cảm thấy" nguồn gốc Hán của chúng nữa. Ví dụ: đầu, bút, tuyết, thánh, hiền, tiên, phật, bụt, ông, bà, cô, cậu, cao, thấp...
+ Về mặt ý nghĩa, không phải từ gốc Hán nào trong tiếng Việt cũng giữ y nguyên cái nghĩa vốn có của nó. Một số từ chỉ còn được dùng với một hoặc vài nghĩa trong số nhiều nghĩa của chúng. Chẳng hạn từ nhất vốn có hơn 10 nghĩa nhưng đi vào tiếng Việt, nó chỉ còn giữ lại nghĩa “thứ tự trên hết” khi hoạt động tự do: hạng nhất, giỏi nhất, xếp thứ nhất... Đôi khi trong những tổ hợp vay mượn nguyên khối từ gốc Hán, nói mới lưu giữ ý nghĩa “số từ một” như: nhất cử nhất động, nhất cử lưỡng tiện, nhất thể hoá...
Cũng có từ đỏi hẳn nghĩa của mình đi. Ví dụ:
bạc (mỏng → quên ơn); khinh (nhẹ → coi thường); tâm (tim → tấm lòng, bụng dạ con người); tử tế (kĩ lưỡng → tốt bụng); đáo để (đến đáy, đến tận cùng → độc ác, riết róng); sung sướng(đầy đủ, thông suốt → sướng, hạnh phúc);...
1.f. Các từ gốc Hán nói chung và từ Hán Việt nói riêng, có vị trí rất đặc biệt trong từ vựng tiếng Việt. Chúng có số lượng rất lớn và năng lực sản sinh rất mạnh. Chúng ra nhập vào mọi lĩnh vực giao tiếp của đời sống người Việt: chính trị, văn hoá, khoa học, kĩ thuật, quân sự, ngoại giao, y tế, pháp luật... Điều này không có gì lạ, bởi vị trí và quá trình tiếp xúc lâu đời giữa tiếng Hán với tiếng Việt tất dẫn đến kết quả đó.
Điều quan trọng là ở chỗ chúng ta phải có cách nhìn nhận và xử lí các nhóm, các lớp trong lớp từ gốc Hán này sao cho thoả đáng, phù hợp với nhu cầu xây dựng một hệ thống từ vựng tiếng Việt phong phú, đầy đủ mà vẫn không làm giảm bớt bản sắc tiếng nói dân tộc.
Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 213–219.
Thứ Năm, 5 tháng 10, 2017
MÙA THU TÂY NINH QUÊ TÔI
Khi những ngọn gió se se lạnh gọi mùa đông đến
khều chiếc lá khô vàng nhè nhẹ rơi
tôi nhận ra mùa thu quê hương tôi
mỏng manh ẩn hiện
man mác trong cái nắng tháng chín chói chang
mềm mại trong những cơn mưa lang thang
và khẽ khàng trong đêm tỉnh lặng
chầm chậm lụi tàn
tan theo khoảnh khắc ngỡ ngàng…
nhớ thương!
Mùa thu Tây ninh quê tôi
như giấc mơ của những đứa con hoang đàng xa xứ
chợt nhận ra mình còn có...chốn náo nương
Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017
Giàng và ẩn ngôn thời đại
Truyện ngắn: Trần Hạ Tháp
1*
Cuối đông bên một bờ suối Tây nguyên. Hai người: một Kinh, một dân tộc thiểu số. Họ phát hiện đống cành lá ngổn ngang. Một cổ thụ nguyên sinh vừa bị cưa mất trơ ra gốc nham nhở.
Gã dân tộc lưng gùi rau, tay không rời xà-gạc*. Gã giận dữ đi vòng vòng gốc cây. Người Kinh chỉ im lặng quan sát. Hắn mỏi mệt ngồi bó gối trên đá rêu, vai đeo bị rết trong có ít mì tôm và sách vở. Hình như hai người đang cãi cọ. Giọng lơ lớ, người dân tộc hậm hực bằng thứ tiếng Kinh khá sõi:
-Ai ha? Ai ăn căp cây thiêng? Ngươi Kinh hay ngươi dân tôc? Mây noi không biêt. Mây noi lao. Mây không thây ai nhưng ma mây biêt chơ.
Mắt gã rực lên:
-Cai cây ơ vơi chung tao, ơ vơi ban lang lâu lăm rôi. Tư khi ông tao chưa sinh ra kia. Ngươi dân tôc không ăn căp. Nêu ăn căp thi không co cai rưng, không co cai cây thiêng. Ai la thăng ăn căp?
Người Kinh chớp chớp mắt nhìn trời, thở dài im lặng. Gã dân tộc miệng bặm chặt, tay quơ quơ xà-gạc phạt một nhát vào kẻ vô hình trước mặt:
-Co ai lam cai nha cho chung tao ơ không chơ? Chung tao chi co chăt cai cây nho nho lam nha san. Ai ăn căp cây to, cây thiêng đem ban lam giau. Ai ăn căp, noi đi. Ai ăn căp, ha?
Cũng không nghe gì cả, gã cười gằn nheo nheo mắt như chế nhạo:
-Chung tao không cân giau đâu. Không co ăn căp. Chung tao không noi lao. Người giàu không co đô mô hôi thì là ăn cắp. Ăn căp phai nói láo.
Gã người Kinh xốc xốc cái bị rết sách vở, vẫn im lặng. Hắn biết nói ra làm sao? Một khi chỉ có nghe và đồng cảm, ích gì? Nghe cũng đã nghe, đang nghe và sẽ còn nghe mãi… thế thôi. Nhưng rồi gã người Kinh cũng phải mở mồm. Sự thật khôi hài nhưng vẫn là sự thật. Hắn nói câu cũ mèn, nhàu nát:
-Tao biết. Ma Cao, mầy nói đúng. Là cái cây thiêng do người Kinh cưa trộm. Nhưng… không phải người Kinh nào cũng ăn cắp, cũng nói láo. Là lâm tặc. Bọn lâm tặc lộng hành.
Người dân tộc lắc đầu quầy quậy. Hắn không thể hiểu được:
-Cai gi cung tăc tăc... Tăc nhiêu lăm, ha? Đinh tăc, cat tăc, đât tăc rôi lu lut cung tăc, đên thưc phâm co tăc luôn. Vi sao, ha? Con cai tăc nao ghê gơm nưa không? Ở đâu đe ra bon chung chơ?
Gã người Kinh buột miệng:
-Quyền tặc, quốc tặc.
Người dân tộc nhếch mép:
-Bon chung toan đi ăn căp, noi lao. Mây biêt. Mây co đoc sach nhiêu lăm, ha? Tao không đoc.
Gã phì ra bãi nước bọt, chỉ tay vào bị rết:
-Chung tao không muôn gioi, không đoc sach như mây. Co phai mây mang cai sach tăc theo thi vưt đi?
-Không, tao không ưa sách tặc. Tao cũng không giỏi như mầy nói đâu.
Gã người Kinh nhìn xuống đất. Giọng nhỏ dần, bỏ lửng:
-Không, tao không co gioi đâu. Tao…lếu thật nhưng không láo. Tao là thằng quèn nghề hít-bụi-trong-phòng…
-Ê, thăng con trai giup tao lam rây, khi đoi co cai lua ma ăn. Mây cung không chiu cho no bo hoc. Vi sao, ha? Người Kinh đông, nhiêu. Người dân tộc, it nhưng không co tăc. Đoc sach nhiêu lam gi chơ?
Gã hãnh diện, ngúc ngúc cần cổ:
-Nhưng tao biêt noi tiêng Kinh rôi ma. Mây không biêt tiêng dân tôc tao đâu. Tao không ăn căp việc gì noi lao, phải không? Tao không co gioi.
Gã còn nói lại lần nữa:
-Tao và con trai tao, ban lang tao không cân đoc sach.
2*
Gã người Kinh trân trân nhìn gốc cây, hụt hẫng. Như một tập quán lâu ngày, gã đã không cần suy tư nhiều khi đối đãi người dân tộc thiểu số. Nhưng giờ đây… bàng hoàng, chưng hửng. Gã thử nghĩ ngợi ra cái gì đó nhưng thấy toàn chua chát, trống rỗng. Một nỗi cô đơn âm u đùn lên như bóng núi mùa đông. Bi hài kịch…
Gốc cổ thụ thiêng liêng kia loại gỗ gì? vẫn âm thầm ứa nhựa. Rõ ràng chúng đang từ từ tươm ra, bết quánh và dần khô đi trong nỗi chết. Máu của rừng? Hay là loại-máu-thứ-hai của con người lấy nơi đây làm lẽ sống.
Có bao nhiêu vết thương lòng tươm máu? Cội cây và cả con người không khác. Những vết thương lòng cao tuổi-cả-ngàn-năm. Đột nhiên gã dong tay lên trời, nghe ừng ực trong cần cổ loại âm thanh nghẹn tắt…
Người dân tộc thiểu số nhìn theo, dịu giọng gật gù:
-Mây cung tin co Giang* rôi ha? Tôt. Co Giang thât ma. Nhưng thăng ăn căp rôi se bi Giang phat. Ê, mây nhơ chưa, ha? Chi co Giang…
Gã người Kinh thấy người dân tộc chống xà-gạc xuống đất, quỳ một chân bên cội cây và ngửa mặt lên trời. Gã khấn vái thành khẩn:
-Chi có Giang…Chi co Giang…Chỉ co Giang…
Bỗng nhiên gã người Kinh rống lên giữa rừng già âm u. Tiếng dội lại qua bờ cây bụi cỏ:
-Giàng ở đâu? Đâu là Giàng? Chỉ Giàng cho tao. Giàng là ai? Giàng…
Gã dân tộc thả xà-gạc xuống, cả hai tay đưa lên khoắng mạnh vào khoảng không trên đầu để trả lời câu hỏi. Miệng gã vẫn tiếp tục không đổi:
-Chi có Giang. Chi co Giang. Chi co Giang…
Gã người Kinh chợt nín thinh. Hắn hiểu và tôn trọng phút nối kết thiêng liêng của các tộc người thiểu số. Nối kết giữa con người với núi rừng, trời đất, cây cỏ. Giữa tổ tiên khuất mặt với hậu duệ hiện tiền còn khốn quẩn triền miên. Nối kết giữa những ước mơ quá tầm thường với những nghịch cảnh đầy xót xa phi lý… Nối kết giữa cõi trời khô-hoang-lụn-bại với hy vọng còn gượng dậy mỗi ngày để cằn-bò-tồn-tại. Giàng. Ôi, Giàng, trạm trung chuyển cuối cùng giữa những tộc người hoang dã…
Gã người Kinh vùng cười rộ, không còn kiềm hãm nổi. Trong óc hắn hiện ra ý nghĩa bùi ngùi vừa hết sức hoạt kê “ngoài ông Giàng là cái khoảng không sở hữu kia, cuối cùng bọn tặc sẽ nuốt tất để không còn gì nữa cả. Từng thứ, dần dần…từng thứ một. Ê, thế nhưng chúng mầy vẫn cứ hơn tao. Ha ha, chúng mầy còn ông Giàng để vỗ về làm bạn”. Đáy lòng gã dâng trào nỗi niềm khôn tả. Hắn cứ cười khan từng hồi trên đá…
Người dân tộc tỏ ra hài lòng. Gã cũng cười khà khà khi nghe lõm bõm người Kinh kia đều đều một thôi đến mấy chữ Giàng:
-“Chẳng có gì” chỉ có Giàng. “Chẳng có gì” chỉ có Giàng. “Chẳng có gì” chỉ có Giàng. “Chẳng có gì” chỉ có Giàng…
Như một-tình-cờ-bất-khả-thuyết, sâu kín trong ngôn ngữ bình nhật của những người Kinh như hắn, phải chăng? Đã tàng chứa, hoài thai nên bao ẩn ngôn thời đại. Dưới mỗi vết lăn trầm* đi qua, dần phơi bày thứ ẩn ngôn thời đại ấy. Chúng “lái” tâm thức ra khỏi vùng hôn-mê-sâu-sự-thế…
3*
Không biết họ còn nói gì với nhau nữa không? Cho đến khi hai người theo lối mòn trở ra đường lộ. Đã đến lúc chia tay, ai đi đường nấy. Bỗng người Kinh chụp vội tay người dân tộc khiến hắn bực mình cự nự:
-Đi bao uy ban xa phai không. Mây đi nhanh lam gi? Co băt hêt bon lâm tăc không, ha? Tao chan lăm rồi. Co tot gi hơn chơ?
-Không. Ma Cao, tao bảo mầy đi cái khác… Có thêm mầy nữa là ba đứa. Chúng ta uống rượu cần ở nhà Ma Duốn. Đi. Đừng ở đây cãi cọ nhau vô ích.
Người dân tộc trợn mắt chưa tin. Gã ngớ ra giữa đường sau đó gật đầu đồng ý:
-Thê mây không noi như khi giang bai, ha? Lam sao co cai tiên lanh lương?
-Đây mới là tao nói. Chính tao. Giảng bài là cái sách nó bắt nói, không phải tự mình tao ưa thế. Lãnh lương từ tiền thuế người dân đóng góp đấy. Nó không phải ơn huệ ai cho tao, hoặc từ trên trời rơi xuống. Dân cũng như mày và tao vậy thôi, không có thích nghe nói láo. Mầy rõ ràng chưa, hả?
Người dân tộc cười nhe ra răng sún:
-La cai sach nao noi lao mơi la sach tăc chơ? Phải không.
-Đúng, cái truyện khác cái sách. Sách học thì không được nói láo. Nhưng không đọc thì sao biết cái nào tặc hay là không có tặc?
Gã người Kinh vỗ vào vai Ma Cao:
-Con trai mầy phải đọc sách vì thế. Tao không muốn nó bỏ học.
4*
Giữa rừng sâu còn trơ ra gốc cổ thụ. Nước vẫn chảy róc rách bên bờ suối. Cái gốc thiêng, sau nầy đâm chồi lộc hay không? Suối kia cứ thế hay rồi sẽ khô tắt dòng chảy? Câu “mộc bổn thủy nguyên” như một mã khóa còn lại giữa hanh hao, xơ xác.
Vọng lại đâu đó tiếng cồng chiêng khô săn, trần trụi. Thứ tiếng u u giờ đây mang thần-hồn-bải-hoải. Chúng cũng hết trốn tìm, thôi lách luồn qua cõi rộng-tự-ngàn-xưa. Mẹ rừng đâu? Có phải những đứa con ở lại sẽ mồ côi?
Sự tĩnh lặng của rừng già không còn nguyên thủy. Ngay cả đại ngàn mây trắng kia cũng đang trôi dần nhịp phách mênh mang…
Giàng(Yang): ông Trời.
Xà-gạc: vật dụng đặc sắc, đa năng và thiêng liêng của các tộc người thiểu số Tây nguyên.
Vết lăn trầm: một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
(Vườn tượng, 12/01/2017)
Trần Hạ Tháp
Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017
Vua Lê Thánh Tông chống tham nhũng, Đại Việt thịnh trị
Khi vua Lê thánh Tông (1460-1497) mới lên ngôi, đất nước chìm trong quốc nạn tham nhũng, tướng sĩ thì lo hưởng lạc; quan lại chia bè phái và tham nhũng; người dân đói khổ oán thán. Vua nhìn nhận rằng nạn tham nhũng là nguyên nhân lớn nhất cần phải tiêu diệt.
Chính vì vậy, vua bổ sung hoàn thiện bộ luật Hồng Đức, nhằm tăng sức mạnh chống tham nhũng cho bộ luật này. Việc chống tham nhũng được tiến hành từ các quan to đầu triều xuống tận đến địa phương. Trong 722 điều bộ luật Hồng Đức thì có trên 40 điều thuộc về chống tham nhũng.
Điều 138 có đoạn quy định rõ như sau: “Quan lại mà tham nhũng, nhận hối lộ, làm sai phép nước thì bị phạt: tham ô từ 1 đến 9 quan tiền, bị cách chức. Từ 10 đến 19 quan bị đánh trượng, đi đày. Từ 20 quan trở lên, bị chém. Các ngươi ăn lễ từ 1 đến 9 quan, phải phạt 50 quan. Từ 10 đến 19 quan, phạt từ 60 đến 100 quan. Từ 20 quan trở lên, phạt tội làm phu. Của hối lộ bỏ vào kho một phần, một phần trả lại chủ”. Việc xử phạt này không phân biệt giàu nghèo hay chức vụ đảm trách.
Chống tham nhũng từng giúp Đại Việt có được thời kỳ “ngủ đêm mọi nhà không phải đóng cửa”
Luật Hồng Đức cho thấy sự nghiêm khắc của pháp luật ngày xưa, chỉ tham ô một quan tiền là mất chức, 20 quan tiền là bị tử hình.
Sách sử còn ghi chép lại chuyện Lê Bô phạm tội tham ô bị buộc vào tội “Hình”, có viên quan là Trần Phong xin cho Lê Bô nộp tiền chuộc tội thay vì phải chịu “Hình”. Thế nhưng vua Lê Thánh Tông cho rằng nếu cứ phạm tội rồi dùng tiền chuộc tội thì người giàu có sẽ không phải chịu tội, chỉ còn người nghèo khó thì phải chịu tội hay sao? Vua cho rằng Trần Phong đề xuất như thế là trái với tổ tong và trị tội cả ông ta nữa.
Vua Lê thánh Tông chủ trương chống tham nhũng, chỉ dùng bậc hiền tài, loại trừ kẻ xu nịnh, khiến các quan chức vốn chỉ lo tiến thân bằng nịnh bợ không còn đất dụng võ nữa, nạn tham nhũng đang tàn phá đát nước bị đẩy lùi và dẹp bỏ.
Những quan thanh liêm, thực sự phục vụ cho dân đều được trọng dụng, thậm chí những người từng bị hàm oan trước đây thì cũng được minh oan. Ví dụ như vụ án “Lệ Chi viên” khiến Nguyễn Trãi bị tru di tạm tộc cũng được minh oan trong thời gian này. Từ đó bậc hiền tài an tâm phục vụ dân chúng, người dân được yên ổn.
Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2017
NHỮNG CON SỐ ĐÁNG SỢ
Số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho thấy thâm hụt ngân sách của chính phủ đã tăng từ 22.100 tỷ đồng, tương đương 5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong năm 2000 lên 293 nghìn tỷ đồng (13,1 tỷ USD), hay 6,5% GDP vào năm 2016. Chính phủ muốn giảm mức thâm hụt ngân sách xuống 3,5% GDP vào năm 2020, theo kế hoạch tài khóa trung hạn 2016-2020.
Theo thống kê chính thức của Bộ Tài chính, chính phủ đã chi tổng cộng 11.800 tỷ đồng cho Văn phòng Trung ương Đảng trong giai đoạn 2006-2015 (trừ năm 2009, vì số liệu năm đó không có), nhiều hơn mức chi cho Văn phòng Quốc hội (9.100 tỷ đồng), Văn phòng Chính phủ (6.000 tỷ đồng), Văn phòng Chủ tịch nước (1.000 tỷ đồng).
Tổng nợ công của Việt Nam tính đến giữa tháng 7 năm 2017 là 94,6 tỷ USD, tương đương khoảng US$ 1.038 một người. Nợ công đã tăng liên tục trong nhiều năm từ 36% GDP năm 2001 lên 62,4% vào năm 2016. Theo dự báo của IMF, năm 2017 và 2018 sẽ là 63,3% và 64,3% trong khi trần nợ công được chính phủ đặt ở mức 65% GDP vào năm 2020.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), nợ xấu ở Việt Nam năm 2016, bao gồm nợ xấu do Tổng công ty Quản lý Quỹ Việt Nam quản lý (VAMC), đã lên đến 487 nghìn tỷ đồng (21,7 tỷ USD), chiếm 8,8% tổng dư nợ cho vay 5,5 triệu tỷ đồng (241 tỷ USD), tỷ lệ khá cao. NHNN cho hay kế hoạch đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3% vào năm 2020.
Thứ Năm, 28 tháng 9, 2017
Vài nhận xét về “thành phần thứ ba” và “hòa hợp, hòa giải dân tộc”- phần 2
Ngô Vĩnh Long
PHẦN 2
3. Vài đóng góp trong thời kỳ 1973-1975
Ngoài việc thiết lập một “Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau” như điều khoản 12 đã được trích ở trên, Hiệp Định Paris còn công nhận hai thực thể chính trị ngang nhau ở miền Nam là chính quyền Sài Gòn và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời; và hai chính thể này phải tiến đến một giải pháp chính trị trong tình trạng có đầy đủ các quyền dân chủ và không có sự can thiệp của Mỹ (các điều khoản 1. 4. 8, 9 và 11.) Điều khoản 8c nói rõ rằng tất cả các tù chính trị đều phải được thả “trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đình.” Nhưng đối với chính quyền Thiệu thả tù chính trị tức là giúp cho phong trào chống đối càng có thêm nhiều người tham gia. Nguyên văn điều khoản 11 như sau:
Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
– Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia;
– Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
Điều này có nghĩa bất cứ cá nhân hay tổ chức nào cho mình không theo chính quyền Sài Gòn hay Chính phủ Cách Lâm Thời đều có quyền đi truyền bá một chủ nghĩa trung lập. hay một chính phủ liên hiệp mà không bị đàn áp. Nhưng ba ngày trước khi ký Hiệp Định Paris Kissinger còn tuyên bố tại một cuộc họp báo rằng chính sách của chính phủ Mỹ là không “áp đặt một chính phủ liên hiệp hay một chính phủ liên hiệp trá hình trên nhân dân Việt Nam” (“imposing a coalition government or a disguised coalition government on the people of South Vietnam.”)[45] Trong khi đó thì vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973 Nixon tuyên bố trên các đài truyền thanh và truyền hình rằng Hoa Kỳ “vẫn tiếp tục công nhận chính phủ Cộng Hòa Việt Nam như là chính phủ chính danh độc nhất” (“continue to recognize the government of the Republic of Vietnam as the sole legitimate government of South Vietnam.”[46])
Được thể, Tổng thống Thiệu lập tức nhấn mạnh lại lập trường “bốn không.” Sau đó, trong một bài phỏng vấn đăng trong Vietnam Report (số 15 tháng 7 năm 1973), ông Thiệu nói rằng “bọn Việt Cộng muốn thiết lập trong vùng họ kiểm soát một chính quyền, một chính quyền thứ hai ở miền Nam” được nhiều sự ủng hộ quốc tế để dẫn đến một “chính phủ liên hiệp màu hồng.”[47] Do đó, ông Thiệu nói tiếp: “Thứ nhất, chúng ta phải ráng hết sức để Mặt Trận Giải Phóng không có thể thiết lập một quốc gia, một quốc gia thứ hai ở miền Nam.” (Nguyên văn tiếng Anh: “In the first place, we have to do our best so that the NLF cannot build itself into a state, a second state within the South.”) Và thứ hai là dùng mọi hình thức và điều kiện trong tay để ngăn cấm không cho một lực lượng thứ ba hình thành vì tất cả các nhân vật trong thành phần thứ ba đều thiên cộng và phản quốc. Cuối tháng 4 năm 1972, Hoàng Đức Nhã tuyên bố là nếu không phải quốc gia thì là Cộng sản, chứ không có thành phần thứ ba thứ tư gì hết.[48] Và Dân biểu Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch hạ viện của Quốc hội, nói là “không có chuyện hòa giải, hòa hợp dân tộc” với các lực lượng chính trị đối lập.[49]
Để đối với “bốn không” của chính quyền Thiệu thì chính phủ miền Bắc đã đưa ra chủ trương “5 cấm” cho quân đội của họ ở miền Nam cũng như quân lính của Chính phủ Cách Mạng Lâm thời: không được tấn công địch, không được tấn công quân địch khi nó hành quân chiếm đất, không được bao vây đồn địch, không được pháo đồn địch, và không được xây ấp chiến đấu. Sau này, trong một bài viết đăng trên Tạp Chí Lịch Sử Quân Đội (số tháng 3 năm 1988), ông Lê Đức Thọ giải thích là một trong những lý do lúc đó chính phủ miền Bắc có chính sách dè dặt là vì Liên Xô đã giảm viện trợ cho Việt Nam và Trung Quốc đã cắt hết tất cả các chương trình viện trợ kinh tế. Nixon và Kissinger đã cho Thiệu biết trong cuộc viếng thăm Nhà Trắng vào tháng 3 năm 1973 là Liên Xô và Trung Quốc sẽ kiềm chế Hà Nội bằng cách giảm viện trợ.[50]
Trong khi phía cách mạng gặp phải những hạn chế kể trên thì chính quyền Sài Gòn được Mỹ cung cấp viện trợ quân sự cho đến mức mà, theo lời điều trần của Trung Tướng Peter Olenchuck trước Quốc hội Mỹ, thì các quân chủng của Mỹ đã bị thiếu hụt trang bị ngay trong nước và cả ở bên Âu Châu.[51] Do đó chính quyền Thiệu đã lập tức điều hành các cuộc “hành quân tràn ngập lãnh thổ” để chiếm các vùng dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời và tha hồ dội bom và nả pháo vào các vùng đó. Một báo cáo của Thượng Viện Mỹ tháng 6 năm 1973 cho biết quân đội Sài Gòn mỗi ngày bắn pháo 105 ly vào các vùng giải phóng ở các tỉnh miền Trung với tỷ lệ nhiều hơn là tổng số các đầu đạn đó được sản xuất mỗi ngày tại Mỹ.[52] Tờ Washington Post ngày 16 tháng 2 năm 1974 trích một báo cáo của Lầu Năm Góc (Pentagon) cho biết là quân đội Sài Gòn “nhắm mắt mà bắn” (“fire blindly”) vào các vùng của phía cách mạng vì họ thừa biết là sẽ được Mỹ tái cung cấp (“knew full well they would get all the replacement supplies they needed from the United States”). Ngoài việc nả pháo và dội khoảng 15 ngàn trái bom mỗi tháng, chính quyền Sài Gòn còn khoe là mỗi tháng có hàng ngàn cuộc hành quân để tái chiếm các vùng quê miền Nam. Một báo cáo của Tỉnh Ủy Long An sau này cho biết là sau khi Hiệp Định Paris được ký mỗi ngày mỗi làng trong tỉnh dưới sự kiểm soát của cách mạng đã bị dội bom 4 đến 5 lần và bị nả pháo trung bình khoảng một ngàn quả. Từ tháng 5 cho đến tháng 8 năm 1973 phía cách mạng phải đương đầu với 3300 (ba ngàn ba trăm) cuộc hành quân của địch và nhiều cuộc hành quân này đã gồm vài sư đoàn.[53] Nói chung, các vùng giải phóng đã bị thiệt hại nặng nề trong hai năm 1973-1974.
Trước tình hình nói trên, các cá nhân và các nhóm trong phong trào đô thị đã dựa vào các điều khoản được đảm bảo trong Hiệp Định Paris về các quyền tự do đã được trích ở trên cho các thành phần chính trị ở miền Nam, trong đó có “thành phần thứ ba”, để tranh đấu với chính quyền Sài Gòn trên nhiều lãnh vực. Một trong những lãnh vực đó là vấn đề trả tự do cho các người tù chính trị. Một ví dụ là “Ủy ban Vận động Cải thiện Chế độ Lao tù miền Nam Việt Nam” đã cho ra đời tờ Tin Lao Tù (bằng ronéo) và tại Mỹ bản tin này đã được Vietnam Resource Center thường xuyên dịch ra và đưa cho các báo chí Mỹ cũng như nhiều hạ, thượng nghị sĩ Mỹ. Tháng Giêng năm 1972 Ngô Công Đức, lúc đó đang ở Stockholm (Thụy Điển), tung ra một bài khá chi tiết về chế độ lao tù ở miền Nam và con số khoảng 200 ngàn tù chính trị tại các nhà tù lớn như Chí Hòa, Phú Quốc, Thủ Đức, Tân Hiệp và Côn Sơn cũng như các trại giam ở các tỉnh. Vietnam Resource Center đã dịch và chú thích tài liệu này và gởi đến cho các báo cũng như đưa cho các tổ chức tại Mỹ để họ gặp các đại diện của họ ở Quốc hội làm “lobby.”
Một kết quả là giữa tháng 3 năm 1973 Jerry Tinker, một trợ lý của Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy, đã hướng dẫn một phái đoàn điều tra của Quốc hội Mỹ sang Việt Nam. Phái đoàn đã gặp “Ủy Ban Vận động Chế Độ Lao tù miền Nam Việt Nam” ngày 18 tháng 3 và hứa sẽ phổ biến tin tức về chế độ lao tù và tình trạng của các tù nhân chính trị cho nhân dân Mỹ biết. Trong một bài diễn văn tại thượng viện Thượng Nghị Sĩ Kennedy cho biết là chính quyền Sài Gòn đã thay đổi các hồ sơ tù nhân chính trị thành “thường phạm” (common criminals). Kennedy trích một báo cáo của Đại Sứ Quán Mỹ tại Sài Gòn cho ủy ban do ông làm chủ tịch rằng trước và sau Hiệp Định Paris được ký chính quyền Thiệu đã thay đổi hồ sơ của các tù chính trị thành thường phạm bằng cách nói là họ đã bị tù vì đã có vi phạm về thẻ căn cước hay vì trốn lính.[54] Thượng Nghị Sĩ Kennedy cho biết là trong khi Đại Sứ Quán của Mỹ ở Sài Gòn và Bộ Ngoại Giao của Mỹ công nhận là có tù chính trị và họ có bị tra tấn, hai cơ quan này nói chuyện tù nhân là chuyện nội bộ của Nam Việt Nam. Thương Nghị Sĩ Kennedy nói rằng ông không hiểu nổi lý luận này vì chính phủ Mỹ vẫn chi tiền cho hệ thống lao tù ở Việt Nam và vẫn đào tạo cảnh sát và các nhân viên tra tấn trong tù. Theo Kennedy, tài liệu của chương trình viện trợ cho hệ thống lao tù ở Việt Nam mà AID (Agency for International Development) nộp cho ủy ban của ông tại Thượng Viện cho biết là trong năm 1973 Mỹ đã chi tiền để thiết lập 329 trại giam (“detention centers”) và định sẽ dùng thêm 12,2 triệu USD nữa cho “Fiscal Year 1974” (“Năm Tài Chính,” bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 năm 1973 cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1974) cho hệ thống lao tù ở Nam Việt Nam. Kennedy lưu ý là số tiền chính phủ Hoa Kỳ thông báo cho ủy ban của ông chỉ là một số tiền rất nhỏ so với tổng số được chi tiêu cho việc đàn áp của chính quyền Sài Gòn trong hệ thống nhà tù. Kennedy nói tiếp là việc che đậy và tráo trở của chính quyền Mỹ đối với việc tiếp tục tài trợ cho hệ thống cảnh sát và lao tù tại Nam Việt Nam là việc không thể hiểu được. (Nguyên văn lời nói của Kennedy: “The administration’s cover-up and deception on continuing support of the police and prison system in South Vietnam defies understanding.”)[55]
Ngoài vấn đề tù chính trị các cá nhân và nhóm trong phong trào đô thị miền Nam cũng đã dùng các quyền “tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống” được bảo đảm trong điều khoản 11 của Hiệp Định Paris để tranh đấu cho những người trong các “trại tị nạn Cộng sản” và những người tị nạn chiến tranh đang sinh sống chung quanh các thành phố được trở về quê quán. Theo một nghiên cứu của thượng viện Mỹ thì đến năm 1972 ở miền Nam đã có 10 triệu người tị nan trong tổng số dân là 18,2 triệu.[56] Năm ngày trước khi Hiệp Định Paris được ký chính quyền Thiệu đã cho đăng một số công bố ngày 22 tháng Giêng năm 1973 trên tờ Tin Sống, cơ quan ngôn luận bán chính thức của chính quyền, rằng ai xúi dục dân chúng ra khỏi vùng kiểm soát của chính quyền sẽ bị bắt và bị xử tử tại chỗ.
Một vài cá nhân trong phong trào đô thị vội báo cho các ký giả nổi tiếng của các tờ báo lớn tại Mỹ về việc này và vận động họ sang Việt Nam để điều tra. Daniel Sutherland, lúc đó đang ở Hồng Công, lập tức sang miền Nam đi điền dã và sau đó đã viết trên tờ Christian Science Monitor ngày 29 tháng Giêng năm 1973 là không những chính quyền Sài Gòn cấm dân chúng trở về nông thôn mà tại nhiều nơi còn cấm họ không được làm việc ngoài đồng ruộng cách xa làng (“being prohibited from working in the outlying fields”) vì sợ là những vùng này sẽ rơi vào tay Cộng sản. Đến giữa tháng 3 năm 1973 Sutherland lại viết một bài cho biết là chính quyền Sài Gòn đã dùng mọi cách để cấm các người tị nạn chiến tranh trở về quê, kể cả việc bắt họ đứng chụp hình dưới lá cờ của Mặt Trận Giải Phóng để vu khống họ nếu họ bỏ đi.[57] Frances FitzGerald, tác giả cuốn Fire in the Lake đã được giải Pulitzer, sang Việt Nam viết một loạt bài cho tờ New York Times, đã viết trong số ngày 4 tháng 5 năm 1973 rằng chính quyền Sài Gòn đã tịch thu thẻ căn cước của những người trong các trại tị nạn và dọa sẽ bắt họ và dùng bạo lực đối với họ nếu họ bỏ đi. Cảnh sát và lính phòng biên đã bắt những người đi chợ, nói rằng họ gánh đồ cho Việt Cộng và trong những trường hợp như thế này không những hành trang của các người nông dân bị tịch thu mà họ còn bị tra khảo.[58]
Ngoài việc cấm không cho dân tị nạn trở về quê, tờ New York Times ngày 22 tháng 3 năm 1973 cho biết rằng chính quyền Sài Gòn tuyên bố là họ đã chuyển 100 ngàn người tị nạn trong số 660 ngàn ở một số tỉnh miền Trung về khu vực phía bắc của thành phố Sài Gòn. Đây là chương trình di dân mà cơ quan của Mỹ gọi là “Cơ quan Điều phối Dân sự Vụ và Phát triển Nông thôn” (Civil Operations and Rural Development Support, CORDS) cùng chính quyền Sài Gòn đã thiết lập. Trong kế hoạch năm 1973 chi phí cho 600 ngàn người bị di chuyển là 14 USD một người. Nhưng như các báo Sài Gòn cho biết thì cuối cùng người dân không được hưởng gì cả vì tham nhũng. Tờ Hòa Bình số ngày 6 tháng 6 năm 1973, chẳng hạn, cho biết rằng chỉ ở một trại tị nạn ở Đà Nẵng thôi thì khoảng nửa triệu đô la đã bị lấy mất. Các báo Sài Gòn đưa tin, gần như hằng ngày, rằng một phần do tham nhũng và một phần do thiếu lương thực ở các tỉnh miền Trung nạn đói đã hoành hành dữ dội và các báo này thường có những bài rất chi tiết về hoàn cảnh bi đát của những người trong các trại tị nạn. Các báo lớn tại Mỹ cũng đã có những bài về vấn đề này, trong đó cho biết là vào tháng 9 năm 1973 đã có những cuộc biểu tình của dân tị nạn tại ba tỉnh miền Trung (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam) và tỉnh Long Khánh đòi được trả tự do.[59] Qua đến đầu năm 1974 các báo Sài Gòn đã gắn việc thiếu đói ở các tỉnh với sự tham nhũng của các quan chức chính quyền Sài Gòn, trong đó có Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Xã Hội Phan Quang Đán (người mà được chính phủ Mỹ rất tin cậy và nói là không có thể bị tham nhũng được).[60]
Nói chung là trong giai đoạn 1973-1975 nhiều cá nhân và nhóm tại miền Nam đã dùng Hiệp Định Paris và việc không thi hành các điều khoản trong hiệp định ấy để đấu tranh với chính quyền Sài Gòn và Mỹ trên nhiều lãnh vực. Nhiều “phong trào,” “mặt trận,” “lực lượng,” “ủy ban,” và “nhóm” đã được sáng lập với mục đích làm suy yếu chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Sau đây là tên của một vài tổ chức được sáng lập từ cuối năm 1973:
Phong trào Phụ nữ đòi Quyền sống. (Bà Ngô Bá Thành sáng lập).
Phong trào Thi hành Hiệp Định Paris.
Mặt trận Nhân dân Cứu đói. (Tổ chức lớn nhất ở miền Nam với sự tham gia của các nhóm Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo và Cao Đài. Linh mục Phan Khắc Từ là một trong 3 phó chủ tịch.)
Mặt trận các Tôn giáo vì Hòa bình, Hòa hợp, và Hòa giải. (Dương Văn Minh sáng lập).
Lực lượng Hòa hợp Hòa giải Dân tộc (Một tổ chức Phật giáo do Vũ Văn Mẫu lãnh đạo).
Tổ chức Nhân dân đòi Thi hành Hiệp định Paris. (Ngô Bá Thành sáng lập).
Ủy ban Tranh đấu cho Tự do Báo chí và Xuất Bản. (Dân biểu Nguyễn Văn Binh, anh vợ Ngô Công Đức đứng đầu).
Ủy ban đòi trả tự do cho tù Chính trị của Lực lượng thứ ba.
Ủy ban bảo vệ quyền lợi người lao động (Linh mục Phan Khắc Từ lãnh đạo).
Nhóm các Nhà Lập Pháp Tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Hòa bình.
Các tổ chức này có thể là “năm cha bảy mẹ” và trong đó có một số “lực lượng không có lực lượng” (như có người đã mỉa mai), hay là “rất đa dạng” như báo Đại Đoàn Kết trích bà Nguyễn Thị Bình nói phía trên. Nhưng tất cả đều chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và các chính sách của Mỹ tại Việt Nam.[61] Những cá nhân trong các tổ chức này, như Tướng Dương Văn Minh, đã thay đổi lập trường chính trị của họ từ chống Cộng đến chống Thiệu và chống Mỹ vì hoàn cảnh bi đát của đất nước và dân tộc. Đầu tháng 10 năm 1974, trong một cuộc phỏng vấn với tuần san Far Eastern Economic Review, Tướng Minh tuyên bố: “Chiến tranh đã kéo dài quá lâu. Nhân dân đã chịu khổ đến hết mức rồi. Do đó, chiến tranh ý thức hệ đã mất hết ý nghĩa. Vấn đề khẩn cấp không còn là sự chiến thắng của lập trường chính trị này hay ý thức hệ kia mà là sự sống còn của dân tộc.”[62] Lẽ dĩ nhiên là những cá nhân và nhóm bao quanh ông Minh trong những năm 1973-1975 có lập trường chính trị khác nhau, có các cá nhân “tả khuynh” như Ngô Công Đức và Lý Quí Chung và “hữu khuynh” như Thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu và Dương Minh Đức (con trai ông Dương Văn Minh.) Nhưng đây là vấn đề khá “phức tạp”. Khó có thể xác định lập trường chính trị thật sự của các cá nhân dựa trên những lời tuyên bố của họ lúc này hay lúc khác vì có thể trong thời điểm đó họ đang cần vận động dư luận về một vấn đề nào đó, hay một tổ chức chính trị đặc biệt nào đó.
Ông Dương Văn Minh có lập một “văn phòng chính trị” tại Sài Gòn do Dương Minh Đức và một số nhân vật khác điều khiển. Dương Minh Đức thường chạy sang Pháp, và sau đó sang Mỹ, nói là đại diện bố để gọi là trao đổi ý kiến với một vài nhóm chính trị.[63] Tháng Giêng năm 1975 Ngô Công Đức được mời sang Mỹ để gặp các tờ báo Mỹ và các chính trị gia Mỹ để nói về chế độ lao tù ở miền Nam và để dự “The Assembly to Save the Peace Agreement” tại Hoa Thịnh Đốn. Sau cuộc họp này, mấy ngàn người đã đi đến văn phòng của các hạ, thượng nghị sĩ để đòi họ cắt viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Lúc đó chính quyền Sài Gòn và Nhà Trắng đòi Quốc hội Mỹ chi thêm 300 triệu USD quân viện cho Sài Gòn. Ngô Công Đức được mời đi gặp các hạ và thượng nghị sĩ và đã yêu cầu họ là không nên viện trợ cho chính quyền Sài Gòn để tiếp tục chiến tranh nữa.[64] Dương Minh Đức nhất định tháp tùng Ngô Công Đức sang Mỹ mặc dầu không được ai mời để mong kềm kẹp hoạt động của Ngô Công Đức. Nhưng trước cuộc họp ở Hoa Thịnh Đốn Ngô Công Đức quyết định mời Dương Minh Đức trở về Pháp.[65]
Ông Vũ Văn Mẫu cho mình là người “quốc gia,” có lẽ vì ông là thượng nghị sĩ của chính quyền Sài Gòn hay là đại diện của nhóm Phật giáo Ấn Quang. Ông Mẫu đã có những tuyên bố “lúc này lúc kia.” Khi ông công bố “Lực lượng Hòa hợp Dân tộc” đầu tháng 9 năm 1974 thì ông nói mục đích chính tổ chức này là tạo một “bầu không khí hòa hoãn” trong nước và ngoài nước hòng để chấm dứt chiến tranh.[66] Tháng 9 năm 1974 ông tuyên bố rằng dân chúng miền Nam có thể sống trong đoàn kết và không có một lực lượng nào được khống chế lực lượng khác và tự gắn cho mình danh nghĩa đại diện cho tất cả.[67] Hai tuyên bố trên rõ ràng là tiến bộ hay “tả khuynh” hơn tuyên bố cùng tháng 9 này của ông Dương Văn Minh là muốn lãnh đạo các lực lượng thứ ba bằng cách kết hợp tất cả các lực lượng chống chính quyền Thiệu vì tự do báo chí, vì hòa bình và vì một chính quyền trong sạch.[68] Sang năm 1975 thì có vẻ ông Mẫu “hữu khuynh” và “quốc gia” hơn trong như trong hai ví dụ sau đây: Cuối tháng 3 năm 1975 Vũ Văn Mẫu đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức để cho “những lực lượng quốc gia thật sự” có thể hình thành.[69] Ngày sau đó ông Mẫu tố cáo ông Thiệu là “đã đánh mất trong dưới hai tuần nhiều đất đai và nhiều dân số hơn hai mươi năm trước đó.”[70] Nhưng vài ngày sau đó, khi gặp một phái đoàn Quốc hội Mỹ sang Sài Gòn tìm hiểu tình hình thì ông Mẫu đã yêu cầu họ cắt viện trợ cho chính quyền Thiệu.[71]
Không những các cá nhân “tả khuynh” và “hữu khuynh” chung quanh Dương Văn Minh đã gặp nhau trên vấn đề Thiệu phải ra đi và Mỹ phải cắt viện trợ như trên, những nhân vật lúc trước cực kỳ chống Cộng như Linh mục Nguyễn Quang Lãm đã đi đến nhận định rằng chính quyền Sài Gòn đã thối nát đến tận xương tủy và dẫu có thêm 3000 tỷ thay vì 300 triệu Mỹ kim thì cũng không có thể cứu vãn được nữa. Linh mục Lãm viết tiếp là càng có thêm nhiều tiền càng sụp đổ mau hơn.[72] Trước tình thế trên, Mỹ không có lựa chọn nào khác ngoài việc bắt Thiệu từ chức tối ngày 21 tháng 4 năm 1975 và mời ông Trần Văn Hương thay thế. Ông Hương là ứng cử viên phó tổng thống trong cuộc “độc diễn” của ông Thiệu năm 1971. Ông Hương yêu cầu Quốc hội bổ nhiệm ông Dương Văn Minh làm tổng thống. Lưỡng viện và các phe phái tranh nhau ghế ngồi trong chính quyền mới cho đến ngày 27 mới thông qua yêu cầu của ông Hương; và ngày 28, trong lúc 14 sư đoàn Quân đội Nhân Dân đang tiến vào Sài Gòn thì ông Dương Văn Minh mới chính thức thành tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa. Thay vì “tử thủ” như một số người kêu gọi hay chịu theo áp lực của Đại sứ Jean-Marie Mérillon của Pháp đòi thương lượng với phía cách mạng vào giờ chót để lập một chính phủ liên hiệp, ông Dương Văn Minh quyết định đầu hàng vô điều kiện. Trong khi ngồi chờ đại diện phía cách mạng đến gặp để nhận đầu hàng, ông Minh nói với một ký giả của hãng thông tấn Pháp rằng: “Sinh mạng con người, sinh mạng người Việt, sinh mạng người Pháp, phải được cứu. Bảo đại sứ Pháp là anh đã gặp tôi ở đây.”[73]
4. Thay lời kết
Mặc dầu quyết định đầu hàng của ông Dương Văn Minh đã giúp cứu được bao sinh mạng, trình bày ở trên cho thấy các thành phần trong phong trào đấu tranh đô thị đã có những “đóng góp nhất định” trong giai đoạn từ 1968-1975 như ông Võ Văn Kiệt và bà Nguyễn Thị Bình đã khẳng định. Các cá nhân và tổ chức đã giúp tranh thủ dư luận quần chúng tại Việt Nam và trên thế giới chống các chính sách chiến tranh của chính quyền Sài Gòn và chính phủ Mỹ. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chính phủ Mỹ không muốn có một chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần ở miền Nam vì họ sợ thua trong một cuộc đấu tranh chính trị. Họ đã sử dụng vũ lực và nhiều hình thức đàn áp khác với hy vọng triệt tiêu cách mạng và phong trào đối kháng tại đô thị. Nhưng, ngược lại, chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ cho nên không còn điều kiện thành lập một chính phủ liên hiệp gồm “ba thành phần” như Hiệp Định Paris đã qui định và như chính phủ miền Bắc cũng như Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời đã kêu gọi. Không có một chính phủ liên hiệp thì không có “thành phần thứ ba” trong ngoặc kép như báo Đại Đoàn Kết đã đề cập đến ở đầu bài này. Và không có “thành phần thứ ba” thì không có chuyện cái thành phần không được hình thành này đóng vai trò hòa giải, hòa hợp dân tộc.
Tuy nhiên, trong khi chiến tranh chưa kết thúc và miền Nam có hai lực lượng quân sự và chính trị ̶ Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời và Chính quyền Sài Gòn ̶ thì người ta có thể gọi chung các tổ chức và các nhóm không thuộc hai chính phủ này là lực lượng thứ ba. Trong thời gian từ năm 1968, tức là thời gian chiến tranh cao độ dẫn đến phân cực ghê gớm, các nhóm “rất đa dạng” lúc đó đã cùng nhau chống chính quyền Sài Gòn và các chính sách của Mỹ và tranh đấu cho các quyền con người, cho hòa bình, và cho hòa hợp, hòa giải dân tộc. Các hoạt động của các cá nhân trong phong trào đô thị lúc ấy đã có những “đóng góp nhất định” cho “ngày chiến thắng” mà tít báo Đại Đoàn Kết trích đầu bài này đã viết rất đúng. Nhưng đã chiến thắng, đặc biệt qua hình thức quân sự, thì việc hòa hợp, hòa giải là của phe chiến thắng chứ không phải của các nhóm tranh đấu trong thời kỳ còn chiến tranh. Ngày 2 tháng 5 năm 1975 chính phủ mới đã ra lệnh giải tán tất cả các tổ chức chính trị được thành lập dưới chế độ cũ.[74] Các tổ chức có thể gọi là “xã hội công dân” như “Phong trào Phụ nữ Đòi Quyền Sống” tự giải thể vì, như bà Ngô Bá Thành đã tuyên bố, sau chiến tranh nó không còn lý do để tồn tại nữa.[75] Tất cả các nhóm phụ nữ khác được sát nhập vào “Hội Phụ Nữ Giải Phóng,” các tổ chức công nhân được sát nhập vào các “Ủy Ban Cách Mạng Nhân Dân,” và các tổ chức tôn giáo được sát nhập vào các tổ chức tôn giáo của Mặt Trận Giải Phóng.
Việc giải tán và tự giải thể kể trên lúc đó không có một lời phản đối nào của những người trong các tổ chức đó hết cả, mặc dầu họ đã đương đầu rất gay gắt với chế độ cũ mà không hề tỏ ra sợ sệt gì cả. Vậy không rõ tại sao, như bà Nguyễn Thị Bình thừa nhận ở trên rằng, 36 năm sau ngày chiến thắng, còn “nhiều người ngại nói đến lực lượng thứ ba”? Sợ kể công họ ra là mất hào quang chiến thắng cho mình chăng? Hay sợ không còn được độc quyền chia chiến lợi phẩm? Chiến tranh càng lâu dài càng tạo phân cực ngày càng lớn trong xã hội. Do đó, muốn hàn gắn vết thương chiến tranh và tạo điều kiện cho việc hòa hợp, hòa giải dân tộc thì người chiến thắng thường nên tỏ ra hào hiệp. Ít nhất thì cũng nên mở cửa cho tương lai bằng xét lại quá khứ (chứ không phải khép kín) một cách trung thực và công bằng. Không có công bằng khó có thể có một xã hội dân chủ và hài hòa.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)