" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2017
KHÔNG NÊN HỒ ĐỒ VỚI "THẤU CẢM"
HOÀNG TUẤN CÔNG
MInh hoạ: ST
Tuần qua, báo chí và mạng xã hội bình luận sôi nổi về đề thi ngữ văn THPT năm 2017, với đoạn văn đọc hiểu, trích dẫn từ sách “Thiện, Ác và Smartphone” của tác giả Đặng Hoàng Giang (NXB Hội nhà văn, 2017). Xin trích:
“Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ.
Giống như cái lạnh thấu vào tủy hay cái đau thấu xương, thấu cảm là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu được những suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự phán xét.
Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là một khả năng phát triển ở những người mẫn cảm”.
Rất nhiều ý kiến tranh luận trái chiều, nhưng có thể tổng hợp thành mấy quan điểm chủ yếu như sau:
-Thứ nhất: “Thấu cảm” là một “từ lạ”, không có trong tiếng Việt, cũng không có trong tiếng Hán, và không được bất cứ cuốn từ điển tiếng Việt nào ghi nhận. (“Một thạc sỹ công tác tại Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam thú nhận: “Chưa từng nghe từ này bao giờ”- báo “Tiền phong”). Vì tiếng Việt không có cái gọi là “thấu cảm”, nên cách hiểu, cách giảng về “thấu cảm” của TS Đặng Hoàng Giang là vô nghĩa.
-Thứ hai: Từ “thấu cảm” tuy không thông dụng, nhưng đã được dùng trong thực tế và được từ điển tiếng Việt ghi nhận. Tuy nhiên, cách giải thích của tác giả Đặng Hoàng Giang mang nặng tính suy diễn, chủ quan, phi lý.
- Thứ ba: Không có vấn đề gì đáng phải bàn cãi trong đoạn văn đọc hiểu và đề thi môn ngữ văn.
Trước tiên, xin nói về từ “thấu cảm”.
Có thể nói, “Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm từ điển học Vietlex (Vietlex) là cuốn từ điển duy nhất (đến thời điểm này mà chúng tôi biết) có ghi nhận từ “thấu cảm”. Sách này đưa ra hai cách giải thích như sau: “thấu cảm • 透感 đg. thấu hiểu và cảm thông một cách sâu sắc” (theo bản có chú chữ Hán cho những từ Hán Việt, NXB Đà Nẵng, 2015); “thấu cảm • đg. cảm nhận và thấu hiểu một cách sâu sắc : thấu cảm lòng nhau” (bản không chú chữ Hán, NXB Đà Nẵng, 2007).
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc Vietlex thu thập và chú chữ Hán cho từ “thấu cảm” là thiếu thận trọng, thậm chí không đúng, vì đây không phải là từ có trong tiếng Hán. Mặt khác, cách giải nghĩa của Vietlex theo kiểu lắp ghép máy móc, tuỳ tiện của “từ điển Vũ Chất” (kiểu như “giao hợp” = giao lưu và hợp tác!). Nghĩa là theo quan điểm này, thì ngay cả khi “thấu cảm” đã được từ điển tiếng Việt ghi nhận, cũng không có nghĩa là đúng.
Vậy, nên nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
Theo chúng tôi, cần thấy rằng, từ Việt gốc Hán không dứt khoát phải là một từ có trong tiếng Hán, được dùng với nghĩa của tiếng Hán. Từ gốc Hán còn là những từ “có sự vay mượn hoàn toàn hay một phần ý nghĩa từ tiếng Hán. Khi vay mượn và biến đổi theo những nghĩa không có trong tiếng Hán thì ngữ tố đó được gọi là Hán Việt Việt dụng” (ví dụ các từ: lịch sự, tử tế, thông cảm-HTC chú); “Những từ được người Việt tạo thành từ việc kết hợp các từ tố gốc Hán (với ba mặt hình-âm-nghĩa) theo kiểu của người Việt và chỉ có người Việt sử dụng. Những đơn vị này không xuất hiện trong từ vựng của tiếng Hán, tiếng Hàn, tiếng Nhật cũng như khối từ vựng văn ngôn của các nước này thì được gọi là từ Hán Việt Việt tạo.” (“Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển”-Trần Trọng Dương, NXB Từ điển bách khoa-2014).
Như vậy, căn cứ tiêu chí mà các nhà ngôn ngữ nói chung, tác giả Trần Trọng Dương nói riêng đưa ra để phân loại, thì “thấu cảm” thuộc nhóm từ “Hán Việt Việt tạo”. Quá trình sản sinh từ “Hán Việt Việt tạo” diễn ra cách nay ít nhất cũng đã hơn nửa thiên niên kỷ. Cụ thể, theo tác giả “Nguyễn Trãi quốc âm từ điển”, thì (cho đến thời điểm này) từ “Hán Việt Việt tạo” xuất hiện trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi được coi là sớm nhất.
Về từ “thấu cảm”, Nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Ts Hán Nôm Trần Trọng Dương cũng chia sẻ ý kiến với chúng tôi như sau: “Xét về mặt lý thuyết, "thấu cảm" không có gì sai về từ pháp (cấu trúc từ) của Hán văn, và không có gì sai về cơ chế sản sinh từ vựng của tiếng Việt. Nguyên lý này dựa trên cảm thức ngôn ngữ, và tri thức Hán văn của người bản ngữ, để có thể tiếp tục làm giàu thêm kho từ vựng phong phú của tiếng Việt. Ví dụ: về cấu trúc tương đương, thấu hiểu >>> thấu cảm >>> thấu thị >>> thấu đáo. Giống như, lâm tặc> hải tặc> tin tặc> cát tặc”.
Quả vậy, về từ “thấu hiểu”, “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex) giảng như sau: “thấu hiểu • 透曉 đg. hiểu một cách sâu sắc, tường tận: thấu hiểu lòng nhau”; “Hán ngữ đại từ điển” giảng: “thấu hiểu: hiểu một cách triệt để, tường tận” (nguyên văn: “triệt để hiểu ngộ 徹 底 曉 悟”). Theo đó, với từ “thấu cảm”, thì “thấu” ở đây là “thông thấu” 通透 (Hán điển giảng: “thông thấu = thấu hết; hiểu rõ” [nguyên văn “通透 (penetrating): 通徹, 明白”]; “cảm” 感 nghĩa là sự rung động, nhận biết bằng giác quan, hoặc bằng cảm tính về sự vật, hiện tượng nào đó. Bởi vậy, “thấu cảm” có thể được hiểu là sự cảm nhận, hiểu biết một cách sâu sắc, tường tận về trạng thái tâm lý, hoặc cảnh ngộ… của ai đó. Tuy nhiên, “cảm” trong “thấu cảm” là cảm nhận mang tính chất cảm thông, chia sẻ, chứ không phải là cảm nhận nói chung. Theo đó, phương pháp định nghĩa phổ biến trong từ điển giải thích là dùng “từ bao”. Nghĩa là phải thể hiện được mối quan hệ trực tiếp của nội dung định nghĩa với yếu tố thể hiện ở đầu mục từ. Bởi vậy, từ cách tạo từ đến lời giảng của Vietlex: “thấu cảm: cảm nhận và thấu hiểu một cách sâu sắc”; hoặc “thấu hiểu và cảm thông một cách sâu sắc”, hoàn toàn không có gì là bất thường, ngô nghê. Ví dụ thêm, từ “cân xứng” 斤稱 (Hán ngữ = tương xứng相稱) là một từ “Hán Việt Việt tạo” (đã có trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi). Từ điển của Vietlex giảng: “cân xứng • 斤稱 cân đối và phù hợp với nhau. Đn: tương xứng”. Tuy nhiên, “cân xứng” cũng có thể được giảng là “cân đối và tương xứng”, mà không bị xem là cách ghép từ và giải thích theo kiểu máy móc của “từ điển Vũ Chất”. Hoặc “cách điệu” 格調, được “Hán Việt từ điển” của Đạo Duy Anh giảng là: “cách-thức và thanh-điệu của văn-chương”…
Theo ngữ liệu của Vietlex, thì “thấu cảm” đã xuất hiện trong văn học xuất bản từ năm 1941. Đó là truyện ngắn “Những nỗi lòng” (nằm trong tập truyện ngắn “Nằm vạ” của Bùi Hiển):
“Anh viên chức đạc điền trước nhà, bác thợ may hàng xóm, chị bán cháo bánh canh thường ngày cung cấp cho tôi món quà sáng thơm ngon ngầy ngậy, họ sống ra sao, lo nghĩ những gì, họ yêu ai và ghét những ai? Tại sao cô em gái tôi thương yêu nhất đời lặng lẽ khóc hai lần giữa ngày mồng một Tết? Tôi không hề biết, không hề biết!
Tâm hồn tôi trở nên lo lắng. Tôi sống chăm chú, vểnh tai và giương mắt như con nai rừng rậm, tôi muốn cho linh giác thẳng căng, để mà THẤU CẢM, một cách lẹ làng tế nhị, sự thầm kín ủ trong những nỗi lòng”.
Ngoài ra, cũng theo ngữ liệu (do Trung tâm từ điển học Vietlex cung cấp cho chúng tôi), “thấu cảm” còn xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm khác, như:
-“Tối đen, yên ắng. Bóng tối trở nên lạnh. Đã đến lúc phải về rồi, Kiên thầm nghĩ và phóng tay ngồi dậy. Chẳng hiểu sao cậu cảm thấy một nỗi tiếc nuối cay đắng, cảm thấy cái việc phải rời đây ra về là nặng nề quá sức mình. Như THẤU CẢM được lòng Kiên, Phương khẽ nói:
- Chẳng sợ đâu. Đằng nào cổng trường cũng đóng rồi. Đợi tối khuya cụ lao công gà gật, ta trèo tường biến”. [Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh”. 1990].
-“Thuật lắng nghe một vấn đề, không phải chỉ bằng tai mà còn cả bằng mắt, để ý những cử chỉ nhỏ của người nói, để dễ tạo cho mình một THẤU CẢM về sự kiện, tâm trạng và âm vang trong cơ thể người kể”. [Thế Bảo Tịnh. Hà Nội mới cuối tuần. 1996]
-“Không nhận thức rõ ràng nguồn gốc tư tưởng nhân đạo đậm đà bản sắc dân tộc này thì sẽ dẫn tới sự đối lập cực đoan giữa cá nhân và xã hội, giữa cái tôi và cái ta, giữa chủ thể đạo đức và chủ thể trí tuệ, không dễ gì THẤU CẢM được “sự thật bên trong” của những câu thơ “Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng.” [Nguyễn Thanh Hùng. Văn nghệ. 1996]
-“Cha mẹ lại cũng cần THẤU CẢM với trẻ, nhớ lại cái thuở tuổi mới lớn của mình để hiểu những phản ứng của trẻ bây giờ, nhưng vẫn phải có trách nhiệm giám sát, cố vấn”. [Đỗ Hồng Ngọc. Kiến thức ngày nay. 1997]
-“Thiên nhiên thật thiên vị, dường như đã dồn hết cả tinh tuý của đất trời về phía Tây Hồ. Đã có biết bao mùa thu đến rồi đi qua, vậy mà cứ mỗi một mùa thu về lại dậy trong tôi những cảm giác mới lạ, THẤU CẢM bằng cả tâm hồn”. [Báo Doanh nghiệp chủ nhật. 1997]
-“Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về giao tiếp quản lý. Đó là sự giao tiếp luôn hướng vào quần chúng, đồng cảm ở mức độ THẤU CẢM với họ, để ứng xử phù hợp - sáng tạo và cách mạng, như đồng chí Phạm Văn Đồng nhận xét: “Hồ Chí Minh rất giản dị trong lời nói và bài viết vì muốn cho quần chúng hiểu được, nhớ được, làm được”. [Nguyễn Liên Châu. Giáo dục & Thời đại chủ nhật. 1999].
Dĩ nhiên, ngữ liệu thống kê trên đây của Vietlex không có nghĩa năm 1941 là thời điểm (hoặc mới là thời điểm) xuất hiện từ “thấu cảm”; hoặc đến nay chỉ chừng ấy tác giả, tác phẩm sử dụng từ này.
Như vậy, có thể “thấu cảm” chưa được sử dụng rộng rãi và biết đến nhiều trong đời sống hàng ngày, hãy còn xa lạ với học sinh phổ thông, nhưng không phải là quá xa lạ với nhiều người, đặc biệt là người cầm bút, càng không phải là “từ lạ” do TS Đặng Hoàng Giang “sáng chế” ra.
Trở lại hai chữ “thấu cảm”. Tiếng Việt mượn nhiều từ gốc Hán vào kho tàng từ vựng của mình, đồng thời cũng tự tạo ra nhiều từ mới bằng các từ hoặc yếu tố gốc Hán. Qua quá trình sử dụng, có những từ bị “rụng” bớt nghĩa, hoặc chuyển nghĩa (thêm nghĩa mới). Những từ này nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, trở thành tài sản của người Việt, mà không dứt khoát phải phụ thuộc vào người Hán. Người Hán nói “cảm thông”, ta cũng nói “cảm thông” với nghĩa tương đương, nhưng lại có thêm từ “thông cảm” với nghĩa khác cách dùng của Hán. Hán nói “tương xứng”, ta cũng nói “tương xứng”, nhưng lại có thêm “cân xứng”. “Tương xứng” và “cân xứng” của ta cũng không đồng nghĩa trong mọi trường hợp.
Tiếng Việt uyển chuyển và phong phú là thế. Bởi vậy, ngay cả khi “thấu cảm” không có trong tiếng Hán, hoặc chưa có bất cứ cuốn từ điển tiếng Việt nào ghi nhận từ “thấu cảm”, thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa là từ này không có trong tiếng Việt. Điều đáng hoan nghênh là “Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm từ điển học Vietlex đã bám sát, phản ánh kịp thời đời sống ngôn ngữ, sưu tầm ngữ liệu một cách bài bản, rồi bổ sung từ “thấu cảm” vào từ điển từ năm 2007[1].
Tóm lại, theo chúng tôi, dù thông dụng, hay chưa thông dụng, chúng ta cũng nên nhìn nhận từ “thấu cảm” một cách công bằng như bao từ “Hán Việt Việt tạo” đã sinh ra trong quá trình phát triển, làm giàu thêm cho tiếng Việt. Nghĩa là nếu đoạn văn đọc hiểu trích từ “Thiện, Ác và Smartphone” có vấn đề, hãy đưa ra lý lẽ để bác bỏ, phê phán chính nó, chứ không nên và không thể “tẩy chay”, loại trừ luôn từ “thấu cảm”[2].
Hoàng Tuấn Công/6/2017
Chú thích:
[1] Công bằng mà nói, nếu so sánh cách dùng từ “thấu cảm” trong kho ngữ liệu của Vietlex, với cách “tán” của TS Đặng Hoàng Giang, thì “thấu cảm” thực ra mang nghĩa giản dị, dễ hiểu hơn nhiều. Nghĩa là tác giả “Thiện, Ác và Smartphone” đã gán thêm cho “thấu cảm” nhiều nghĩa rất bí hiểm, linh diệu. Ví dụ, đoạn văn trong “Nỗi buồn chiến tranh”, khi “thấu cảm được lòng Kiên”, thì Phương vẫn quan sát và cảm nhận bằng giác quan của chính mình, chứ đâu phải nhìn bằng “con mắt của người khác”? Hay, Phương chỉ “thấu cảm” trạng thái tâm lý của Kiên trong cảnh ngộ cụ thể (“cảm thấy một nỗi tiếc nuối cay đắng, cảm thấy cái việc phải rời đây ra về là nặng nề quá sức mình”), chứ đâu phải là “sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn” của Phương về con người Kiên (tức hiểu biết tất cả tâm tính, niềm vui, nỗi buồn, hay thiện ác trong một con người). Từ chỗ “thấu cảm” được “nỗi tiếc nuối cay đắng” trong lòng Kiên, Phương đã nói lời chia sẻ, an ủi, cảm thông.
Hoặc trong đoạn văn của Thế Bảo Tịnh: “Thuật lắng nghe một vấn đề, không phải chỉ bằng tai mà còn cả bằng mắt, để ý những cử chỉ nhỏ của người nói, để dễ tạo cho mình một THẤU CẢM về sự kiện, tâm trạng và âm vang trong cơ thể người kể”, chúng ta thấy rõ, cách lắng nghe đế thấu cảm là vận dụng cùng lúc các giác quan (tai mắt) của chính mình; và cũng chỉ “thấu cảm” về “sự kiện, tâm trạng” của người kể chuyện trong lúc đó, chứ đâu phải hiểu “thấu đáo, trọn vẹn” người đang kể chuyện! Ấy là chưa kể đến những ví dụ về sự thấu cảm của tác giả Đặng Hoàng Giang cũng chưa thể gọi là “thấu cảm” được.
Ý kiến riêng của tôi, đề thi môn ngữ văn THPT năm 2017 có "vấn đề", Trường hợp lấy đoạn trích trong “Thiện, Ác và Smartphone” và yêu cầu thí sinh chỉ ra những điểm chưa hợp lý trong cách hiểu từ “thấu cảm” của tác giả, lại là chuyện khác. Tuy nhiên, đó không phải là yêu cầu phù hợp với trình độ của học sinh THPT.
[2] Xin tham khảo thêm một số ngữ liệu do Vietlex thu thập (chúng tôi viết hoa THẤU CẢM là để nhấn mạnh và dễ quan sát):
-Tức là, đối với một nhà lãnh đạo, THẤU CẢM không có nghĩa là việc cố gắng hùa theo cảm xúc của những người khác, lấy cảm xúc của họ làm cảm xúc của mình, với mục đích làm hài lòng mọi người; trái lại, nó mang ý nghĩa chỉ về việc trong tiến trình đưa ra các quyết định sáng suốt, nhà lãnh đạo ấy biết ân cần quan tâm đến những tâm tư tình cảm - cũng như đến nhiều yếu tố khác nữa - của các nhân viên mình. [misa.com.vn. 17/12/2012.]
-Nét khác biệt giữa hai người quản lý kia chính là sự THẤU CẢM. Người thứ nhất quá đỗi lo lắng về "số phận" của chính bản thân, đến độ không thiết đoái hoài gì đến nỗi lo âu của các nhân viên mình. Người thứ hai thì bằng trực giác mà biết được những cảm giác của các nhân viên anh, hiểu được những nỗi lo sợ họ đang mang trong lòng, và anh đã tìm cách dùng lời lẽ mà động viên họ. [misa.com.vn. 17/12/2012.]
-Những người có khả năng THẤU CẢM đều bắt nhịp được với những gì tinh tế được biểu hiện qua ngôn ngữ cơ thể; họ có thể nghe ra được thứ thông điệp nằm sâu bên dưới lớp vỏ ngôn từ. Trên hết, họ có được một cách nắm bắt sâu xa về cả sự tồn tại lẫn tầm quan trọng của những nét khác biệt giữa các nền văn hoá hay giữa các dân tộc với nhau. [misa.com.vn. 17/12/2012.]
-Bạn đời sẽ thể hiện cảm xúc dễ tổn thương nhiều hơn thay vì cảm xúc phản ứng (ví dụ tức giận), từ đó càng gợi lên sự THẤU CẢM giữa hai vợ chồng.
Điều này cũng giúp các cặp vợ chồng biết tìm hiểu và cảm thông hơn về hoàn cảnh gia đình của nhau. Nó gợi lên sự THẤU CẢM về các nhu cầu chưa đạt được và lý do tại sao hoàn cảnh hiện tại dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ. Các cặp vợ chồng cũng cần tò mò về nhau trong vấn đề này vì tò mò cũng tạo điều kiện để tăng sự THẤU CẢM giữa đôi bên. [doanhnhansaigon.vn. 22/11/2015].
-Bổ sung thêm một số thông tin khoa học giúp các bạn nhỏ nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa của những vận động tự nhiên đối với cuộc sống loài người, thông qua những tình tiết suy tư của ếch xanh, tôi mong cuốn sách gợi dậy những hạt mầm THẤU CẢM với tự nhiên, biết rung động trước một chiếc lá chao nghiêng, một hạt mưa rơi lan toả sóng trên mặt nước… [Kim Yến. tiepthithegioi.vn. 30/11/2016]
-Nghe tiếng loài vật, con người nhận ra loài vật có sinh mệnh, tâm hồn, tình cảm, cảm giác, ngôn ngữ do vậy, các nhân vật trong truyện THẤU CẢM với động vật, chia sẻ cảm giác bị đau với chúng. [Trần Thị Ánh Nguyệt. tapchisonghuong.com.vn. 16/01/2017]
EM BIẾT KHÔNG
Em biết không! Mình chỉ là cỏ dại
Ôm đời nhau qua những giấc mơ dài
Ta bỗng thấy đường đi còn xa ngái
Nhánh hoa đời sẽ rơi xuống nay mai
Em biết không! Mình chỉ là đá cuội
Bao ngàn năm nghe chim hót trên nguồn
Ta lặng lẽ nhìn mây mù quanh suối
Rồi nghẹn ngào nghe gió réo mưa tuôn
Em biết không! Mình chỉ là hạt bụi
Đã từ lâu rơi trong quán trọ này
Và đã khóc nhiều đêm buồn tiếc nuối
Vạn lý sầu treo trên đám mây bay
Em biết không! dù mình ở nơi nào
Hãy cùng vui cùng sưởi ấm đời nhau
Ta đưa nhau lên đỉnh đồi xưa vắng
Ru ngậm ngùi quên hết nỗi niềm đau
Em biết không! Mình còn chút mơ này
Để còn mong còn nhớ những chiều say
Trong chiêm bao ta hóa thành đôi bướm
Bay chập chờn quay quắt sợ ngày mai…
Xuân Mai
Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2017
Nghịch lý không: Thủ tướng chưa hiểu rõ “chế độ ta”?
Nguyễn Đình Ấm
VTV1 19h đưa tin, vào ngày 26/6/2017 tại buổi tiếp xúc cử tri Hải Phòng, trả lời cử tri Nguyễn Văn Điển về xử lý vụ Đồng Tâm, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết: “ Ở chế độ chúng ta mà bắt giam Công an mấy chục người, làm sao có chuyện như vậy?... Mà cái tội bắt giam người trái pháp luật đó phải được điều tra, xử lý nghiêm túc cũng như tội phá hoại tài sản…”
Tôi hơi giật mình trước phát biểu này của Thủ tướng. Bởi thời gian qua tôi ngưỡng mộ, thấy Thủ tướng gần dân, thấu hiểu phần nào tình cảnh của người nông dân khi ông yêu cầu xem xét chế độ thu hồi đất đai, dừng các công trình thương mại trong sân golf Tân Sơn Nhất…
Lẽ nào,Thủ tướng chưa hiểu rõ “xã hội ta” đang “vỡ trận” bởi các quốc nạn nhất thiết phải ngăn chặn: Tham nhũng kinh khủng, phá rừng, cát tặc, ô nhiễm môi trường, lạm phát cấp phó, “quy trình”, cả họ làm quan, hot girl - đại gia phạm tội “thi đua” đào tẩu, ăn tàu vỏ thép, quân đội sử dụng đất quốc phòng sai mục đích khắp nơi,
Thưa Thủ tướng, dưới “chế độ ta” sao quân đội nhận hơn 200 ha đất của dân để làm sân bay nhưng 36 năm sau không làm lại không trả cho dân sản xuất, sinh sống mà để hoang, đầu cơ, cán bộ tư lợi rồi chuyển cho DN sai mục đích, trong khi đất đai là nguồn sống gần như duy nhất của người nông dân.
Tại sao bà con kiện cả bao năm trời mà “chế độ ta” không giải quyết? Tại sao khi cụ Kình và nhân dân theo yêu cầu của cán bộ “chế độ ta” ra đồng để xác định mốc giới thì bị Phó Công an huyện bất ngờ đạp khiến ông cụ vỡ xương chậu, rồi ném lên xe đưa lên Hà Nội giam giữ, đồng thời tuyên bố là “đối tượng nguy hiểm, gây rối trật tự công cộng”? (Theo tường thuật của cụ Kình).
Ở thôn Hoành có giặc giã nào đang tàn hại dân mà “chế độ ta” lại đưa cả đội cảnh sát cơ động vũ khí đến tận răng xông vào đây? Với mục đích gì nếu không phải để sẵn sàng trấn áp họ?
Người dân yêu cầu đội cảnh sát tập trung một chỗ, chăm nuôi tử tế như là “vật bảo tín” để phòng khi chính quyền tiếp tục ra tay trấn áp thì liệu đây có phải là “bắt giữ người trái pháp luật” không? Hay chỉ là hành vi tự vệ ôn hòa – vốn được cả những người bị giữ phải lên tiếng cảm ơn khi ra về?.
Xin hỏi và lại… xin hỏi Thủ tướng
Xin hỏi Thủ tướng, nếu bà con thôn Hoành không giữ các cán bộ, chiến sĩ thì vụ việc sai trái, bất công ở đây có bị “chìm xuồng” như ngàn vạn vụ khác trên khắp dải đất hình chữ S này? Hiện nay Thủ tướng có biết ở “chế độ ta” còn bao nhiêu người oan sai kể cả “lão thành cách mạng” kiện 10 năm - 20 năm , thậm chí là lâu hơn nữa mà không được giải quyết thấu đáo?
Bản thân Thanh tra chính phủ cũng chẳng phải vừa “rút kinh nghiệm” việc tiếp dân “không hiệu quả”, người tiếp khiếu nại “không làm gì cũng chẳng sao…” đấy thôi.
Lại xin hỏi Thủ tướng, dưới chế độ nào mà nhà kinh doanh bất động sản chỉ trả cho người dân trả từ vài trăm ngàn đồng đến vài triệu/m2 đất, sau đó qua tay nhà đầu tư thì lên mức vài trăm triệu đồng/m2? Những người không chịu chấp hành quyết định bất công này bị “chế độ ta” đối xử như những kẻ thù của chế độ.
Chỉ tính riêng tại Văn Giang, chỉ vì 500 ha đất để đại gia xây nhà kinh doanh mà nhiều người bị ngồi tù, bao nhiêu người bị sách nhiễu, bị sa thải, chuyển công tác đến chỗ khó khăn, tước mất quyền công dân, bị khủng bố tinh thần...
Tại Phúc Đồng (quận Long Biên - Hà Nội), đại gia Vincom được Công an yểm trợ làm việc thất đức, 5h sáng giáp tết Đinh Dậu bất thình lình đem xi măng đổ lấp nghĩa trang cổ của hàng nghìn năm của dân chỉ để làm đẹp con đường đã rộng thênh thang vào khu chung cư của họ… Phía Bắc là vậy, trong Nam cũng không hề yên bình khi tại quận Cái Răng (Cần Thơ), hai mẹ con bà Phạm Thị Lài… phải trần truồng giữa thanh thiên bạch nhật vẫn bị đội cưỡng chế lấy bao tải úp chói.
Tình cảnh bi thương nêu trên là không thể nào kể siết ở “chế độ ta”.
Kết
Thủ tướng có thấy nghịch lý không khi một người nông dân không chịu giao cho DN vài chục, vài trăm trăm mét đất để họ kinh doanh kiếm lời thì bị cầm tù, trong khi đại gia lấy cả 157ha đất an ninh quốc phòng kinh doanh mặc cho sân bay tắc nghẽn. Hay một tỉnh miền núi Yên Bái nhiều trẻ em không có đôi dép đi trong mùa lạnh giá, vừa rồi chính Thủ tướng phải cấp cho 460,7 tấn gạo cứu đói nhưng một giám đốc sở, Công an tỉnh,... mà đền đài, dinh thự nhìn trên cao như kinh thành Huế!
Nếu Thủ tướng vẫn chưa hiểu, thì bất công vẫn diễn ra và sự phản kháng vẫn âm ỉ tích tụ chờ ngày bộc phát. Lúc đó, e rằng, Thủ tướng có hiểu thì đã quá muộn.
'Đào núi và lấp biến'
Anh Văn
“Đào núi, lấp biển” từng được coi là minh chứng vô tận cho sức người trong hoạt động cải tạo tự nhiên để làm kinh tế, nay trở thành một câu nói minh họa cho sự phát triển kinh tế thiếu bền vững.
Không chỉ Hạ Long, mà cả những điểm di sản hay vùng sinh thái du lịch khác cũng bị xâm hại nghiêm trọng. Sơn Đoong (Quảng Bình), Kinh đô (Huế), rừng Quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai), Phú Quốc (Kiên Giang),…
Từ tư nhân đến quân đội “đào núi”
Vào năm 2014, cảnh tượng công trường phá núi khai thác đá ở Vịnh Hạ Long đã được một flycam ghi nhận được. Chính quyền Hạ Long lúc đó phải mất 10 tháng (2015) mới đưa ra được mức phạt…. 17 triệu đồng dành cho vi phạm này.
Quan điểm của ông Giám đốc doanh Minh Anh (nơi gây ra sai phạm) là: di sản không nuôi được con người thì di sản chẳng để làm gì. Kết quả, ông dùng mìn để xẻ núi đá vôi như hình ảnh đã được ghi nhận.
“Đào núi, lấp biển” từng được coi là minh chứng vô tận cho sức người trong hoạt động cải tạo tự nhiên để làm kinh tế, nay trở thành một câu nói minh họa cho sự phát triển kinh tế thiếu bền vững.
Gần đây, cũng liên quan đến vụ “xẻ núi” trong khu vực đệm Vịnh Hạ Long, nhưng xuất phát lại từ Lữ đoàn 170 thuộc Bộ Tư lệnh Vùng I Hải quân- và dù chính quyền sau đó xác minh rằng, không phải khai thác đá mà là do công trình quốc phòng thuộc quản lý của đơn vị quân đội nêu trên (ranh giới đất quốc phòng và được phép của Bộ Quốc phòng), nhưng sau đó, UBND tỉnh Quảng Ninh lại ra quyết định “phê bình” và yêu cầu chấm dứt hoạt động. Điều đó gián tiếp công nhận rằng, hoạt động trên thuần về phục vụ kinh tế hơn là mang tính quốc phòng của đơn vị, và thực tế - bên cạnh xây dựng công trình quốc phòng là “tận thu tài nguyên đá”.
Quân đội - dù không hưởng cơ chế “chủ đạo của nền kinh tế”, nhưng lại hưởng được đặc ân là “vì mục đích quốc phòng”, dẫn sai phạm hàng loạt liên quan đến sử dụng sai mục đích.
Cách đây 10 năm (2007), báo chí chính thống từng lên tiếng về việc, trung tâm tiệc cưới White Palace (Q. Phú Nhuận – Tp. Hồ Chí Minh) được dựng lên trên đất của quốc phòng, chủ đầu tư là công ty Tây Nam (Quân khu 7), nhưng hoạt động kinh tế lại không phục vụ cho quốc phòng (tức sử dụng sai mục đích). Khiến cho tiền thuế trng sử dụng đất (thuê đất) bị mất trắng. Dẫn đến sự va chạm về mặt quản lý và cách thức sử dụng đất đúng mục đích của phía dân sự (chính quyền địa phương) và bên quân đội (Bộ Quốc phòng). Và bên Quốc phòng luôn vịn cớ “vì mục đích quốc phòng” để đấu lý với chính quyền dân sự!
Câu chuyện Quảng Ninh nối tiếp câu chuyện Tp. Hồ Chí Minh đã trở thành một thực trạng đáng lo ngại liên quan đến các doanh nghiệp đeo hàm, làm kinh tế trên nguồn tài nguyên quốc gia. Mà một trong những nguồn tài nguyên đó là đất đai – khoáng sản và vùng biển.
Bàn tay con người, đaị diện cho ý chí chủ đầu tư và sự hiệp đồng tác chiến của chính quyền đã khiến cho rừng bị chảy máu, và núi bị xói lở. Nó núp dưới bình phong đầy chất nhân đạo: phục vụ phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Hệ quả xấu càng nhân hai khi rơi vào tay các doanh nghiệp quân đội dưới mác: phục vụ kinh tế - quốc phòng. Điều này hàm nghĩa, lợi dụng danh nghĩa quân đội làm vỏ bọc để làm trái pháp luật trở thành xu hướng được đẩy mạnh, “nguồn thuế và tài nguyên” trở thành nạn nhân khi gánh vai trò động lực kinh tế của quân đội.
Trách ai bây giờ?
Sự buông lỏng quản lý từ địa phương, sự tha hóa biến chất của quân đội có phải là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng “dời núi, lấp biển” trái pháp luật nêu trên?
Không! Thực chất, gốc rễ của vấn đề chính là đến từ văn kiện Đại hội XI của ĐCS, khi xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN, QP-AN với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và trên từng địa bàn”. Nghĩa là mọi chính sách phát triển ở địa phương đều có cổ phần của quân đội, đặc ân này trở thành một “bảo kiếm” giúp cho quân đội “đào núi và lấp biển” mà không ngại sự quản lý hay thậm chí chế tài ở địa phương.
Đó cũng là cách làm chiều lòng nhà quân đội, đem lại những giá trị kinh tế nhất thời. Và cái gọi là “bền vững” trong môi trường bền vững (hệ sinh thái, đa dạng sinh học), kinh tế bền vững (tăng trưởng, phát triển, hiệu quả), xã hội bền vững (bản sắc văn hóa, khả năng tiếp cận, sự ổn định) chưa bao giờ được định hình trong quan điểm làm kinh tế theo kiểu “cào bằng” của đội ngũ quân đội.
Vừa qua, liên quan đến vụ golf Tân Sơn Nhất, Bộ Quốc phòng chủ trương tổ chức thanh tra toàn bộ đất quốc phòng tại TP.HCM. Nhưng đây chỉ là một động thái hiếm hoi nhất trong 64 tỉnh thành trên cả nước, xuất phát từ tâm điểm nóng của dư luận vừa qua mà thôi. Do đó, nó chỉ giải quyết phần ngọn, còn gốc rễ, là phải từng bước buộc quân đội thoái dần ra khỏi các hoạt động kinh tế, trở về chuyên môn chính là tập luyện và bảo vệ tổ quốc. Bắt đầu từ việc rút quân đội ra khỏi nhiệm vụ kinh tế từ văn kiện ĐH Đảng.
Lỗi 404- Đừng lấy tay che mặt trời
Tác giả: Lê Ngọc Sơn- Nghiên cứu bậc tiến sĩ, Đại học Công nghệ Ilmenau, CHLB Đức
.404 là “lỗi” thường gặp của các tờ báo ở Việt Nam, thường được gọi vui là “tứ bất tử”, để chỉ tình trạng một bài báo nào đó bỗng dưng… bất đắc kỳ tử. Đằng sau triệu chứng 404 này liệu có phản ánh một căn bệnh nào đó của xã hội đương đại?
Thế, Quyền, Tiền, và… 404
Việc 404 xuất hiện dày đặc và liên tục trong rất nhiều vụ việc có sự dấn thân của báo chí cho thấy một thực trạng đáng lo ngại về sự can thiệp vào sự chuyên nghiệp của báo chí. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này: lỗi chuyên môn, tác nghiệp, bài báo sau khi đăng lên đã được phát hiện các sự cố và buộc phải gỡ bỏ; sự can thiệp của những nhóm lợi ích kinh tế/chính trị, muốn làm sai lệch hoặc che giấu sự thật để đoạt lợi (về tiền bạc, danh dự, trốn tránh trách nhiệm pháp lý). Với những người làm nghề báo lâu năm, đặc biệt là ở cấp quản lý (ban biên tập), thì hầu hết cho rằng lỗi 404 xuất phát từ nguyên nhân thứ hai – sự nhúng tay của một bộ phận nào đó có thế, có quyền, và cả… có tiền.
“Quyền” là thứ mà kẻ nắm trong tay công vụ có thể dùng nó để can thiệp hoặc gây ảnh hưởng đến các tờ báo, hoặc sinh mệnh chính trị của lãnh đạo các tờ báo, hoặc cơ quan chủ quản. “Thế” là những kẻ thân hữu, có sự quen biết nào đó với những nhân vật có quyền lực. Và “tiền” là công cụ của những kẻ tài phiệt, dùng để can thiệp và xé toạc các tờ báo (nếu có cơ hội). Khi sự tác quái của cả “quyền”, “thế” và “tiền” cùng song hành, cộng với sự tiếp tay, thiếu bản lĩnh, thậm chí là bạc nhược của một số tờ báo sẽ là tác nhân gây ra sự “đột tử” những đường link báo chí. Cứ thế, như những cơn mưa kích hoạt “vạt nấm” 404 nảy nở, sinh sôi.
Thực tế, chúng ta đã thấy bên cạnh nhiều tờ báo bản lĩnh, giữ vững tính chiến đấu với tiêu cực, với cái xấu, tham ô tham nhũng, thì vẫn có những tờ báo vì lợi ích của mình đã phải khuất phục trước các thế lực khác. Chuyện một số báo làm sai lệch phát biểu của Thủ tướng, không nhắc đến việc Vincom xây dựng các tòa cao ốc (làm căn hộ và văn phòng) tại khu Triển lãm Giảng Võ ở Hà Nội là một chuyện tương tự như vậy. Người trong nghề biết rõ chuyện có những tập đoàn, doanh nghiệp phân công người phụ trách đi gỡ tất cả các bài báo phản ánh các vấn đề tiêu cực của tập đoàn, doanh nghiệp đó… Trong những trường hợp này, gỡ bài báo là việc bị sỉ nhục đối với báo chí và lý tưởng nghề báo. Một khi đồng tiền đâm toạc tờ báo, có nghĩa đạo đức nghề nghiệp đang bên bờ vực tiêu vong. Với người làm báo chân chính, đạo đức tiêu vong có nghĩa lý tưởng nghề nghiệp chỉ còn là mớ khẩu hiệu tự vuốt ve an ủi tâm hồn.
Sáng tạo không thể dựa trên cấm đoán
Rút bài báo trong trường hợp trên cũng có nghĩa là can thiệp trắng trợn vào sự công chính. Nó là những ví dụ tiêu biểu cho một xã hội mà ở đó sự công chính không được đặt lên trên hết, nơi tiền – quyền, hay mối quan hệ có thể lấn át sự công bằng xã hội. Điều đó làm sâu sắc thêm dấu vết của một xã hội thiếu thốn các chuẩn mực. Mà một xã hội thiếu chuẩn mực (về công chính) sẽ là một xã hội vô vọng với công bằng, phát triển lành mạnh.
Nếu vì một lực lượng quyền lực nào đó can thiệp vào hoạt động báo chí để trục lợi cho nhóm lợi ích, thì việc gây nên các sự cố 404 càng đáng lên án. Trong thời buổi mà bạn đọc ở thế chủ động và thông tuệ hơn, chính 404 gợi ý cho họ về những bàn tay lua xua phía sau sự cố “đường link tự dưng lăn ra chết”. Về lâu dài, việc này tạo ra thế đi thụt lùi của xã hội. Thực tế các nước tiên tiến cho thấy, một xã hội sáng tạo và phát triển dựa trên tự do, chứ không phải chú trọng vào sự cấm đoán. Cấm đoán là hành vi đặc trưng của những kẻ sợ hãi cái mới, mà sợ hãi cái mới có nghĩa là cản bước sự tiến bộ, vì cái mới (kể cả thách thức mới) là yếu tố kích thích sự phát triển.
Những người lạc quan thì tin rằng, rồi cũng sẽ đến một ngày xã hội đạt đến mức phát triển nhất định, mà ở tầm mức đó người ta sẽ ý thức được rằng: không thể vì sợ nắng mà người ta cố đưa tay che khuất mặt trời. Việc đưa tay che lấy mặt trời là những hành động ngô nghê và ngạo mạn, trên hết nó là kết quả của sự vô minh. Những người thích đùa thì ví von rằng, trong khi thế giới đang chạy đua với cách mạng công nghiệp 4.0, thì ở ta muốn “đi tắt đón đầu”, thực hiện đại nhảy vọt lên… 404. Đó là một sự đùa mang lại những tiếng cười ra nước mắt. Thế nên, dù 404 là kết quả của sự chi phối của thế lực kinh tế, hay là sự can thiệp từ nhóm lợi ích chính trị nào đó, thì việc can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của báo chí là một hành động lỗ mãng, cần phải được chặn lại. Nền pháp quyền cần trao cho báo chí các công cụ pháp lý thực chất để tự vệ trước sự can thiệp của các nhóm lợi ích, để báo chí thực hiện tốt vai trò và chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình. Điều đó sẽ góp phần cân chỉnh, cùng tiến lên một xã hội văn minh, phát triển.
Lê Ngọc Sơn – Nghiên cứu bậc tiến sĩ, Đại học Công nghệ Ilmenau, CHLB Đức
Thứ Tư, 28 tháng 6, 2017
mộ người nam bắc
Em -- vợ lính và cũng là mẹ lính
Mùi áo chồng và cả mùi áo con
Mùi chinh chiến, mùi duyên tình Trời định
Để một đời: Em 2 chữ sắt son
Khi anh sống, áo treillis bùn đất
Lúc dựng cờ, áo thẫm máu, đất nâu
Con bé dại hỏi mẹ câu ... ba mất
Nghĩa là gì ... người thức trắng đêm thâu
Ngày khôn lớn, Mẹ vẫy tay con trẻ
Bước hành quân theo nối tiếp Cha Anh
Lòng quả phụ khấn thầm câu lòng mẹ
Ơn Trời cao xin ban phúc ơn lành
Mười năm sau Mẹ lên rừng phương Bắc
Thăm con giờ "tù cải tạo" khổ sai
Khấn hồn thiêng mà rưng rưng nước mắt
Phù hộ con, anh trong tấm thẻ bài ...
Chữ quả phụ chỉ riêng anh hiểu được
Chữ mất con, em xa xót trong lòng
Trắng khăn tang một lần em đã bước ...
Xuống mộ sâu rồi chia cách vợ chồng
Anh và con -- cả cuộc đời em đấy
Bao tháng năm 2 di ảnh bên em
Hồn ai đó vấn vương ngàn lau sậy
Mộ 2 người Nam -- Bắc lạnh sương đêm.
Như Thương
cách mạng thi ca việt nam+ tình dục
trần nghi hoàng
Cả chục năm gần đây, giới văn học bất kể trong lẫn ngoài nước, bỗng cùng nhau người trước kẻ sau, lũ lượt hô hào rầm rộ ồn ào náo động nhất định làm cách mạng cho thi ca và tình dục. Đúng ra, chủ đề “tình dục” chỉ bị quí vị này lợi dụng! Họ không có thâm ý cũng như nhã ý (và nhất là không có khả năng!) làm cách mạng tình dục gì sốt! Vấn đề là, họ chỉ muốn mang “tình dục” hoặc những con chữ, những ngôn ngữ nói về “tình dục” vào chữ nghĩa thi ca!
Chuyện như thế thì tôi thấy chả có gì là nghiêm trọng và đáng nói tới. Chuyện “tình dục” ấy mà! Nó là một thứ nhu cầu bình thường như bao thứ nhu cầu căn bản. (ăn, ngủ, đụ, ỉa). Và sau khi con người ý thức (hay nhận ra hoặc tự nhận) là mình đã tiến bộ văn minh, con người ta còn có thêm những nhu cầu “sinh tử” khác như: suy tưởng, phát biểu, tự do… Và bất cứ thế lực hay món gì ngăn cản những nhu cầu này, đều phải nhận lấy một hậu quả khó lường do những cuộc “cách mạng”, “lật đổ” diễn ra..
Chuyện nó chẳng ra làm sao, hà cớ cứ bận tâm. Những quí vị đạo đức (thật và đa số giả) thích càm ràm về những chuyện này, xem ra, đã “nhàn cư vi bất thiện”. Tôi nói “bất thiện” là vì quí vị đang “xâm phạm gia cư bất hợp pháp”!
Mấy cái vụ mà một số quí thi sĩ Việt Nam quốc nội và hải ngoại đang tận lực cổ võ, để phát huy kia [tòan] là những vụ rất “riêng tư”. Chẳng hạn như “thủ dâm”, “làm tình”… Bộ không phải là những chuyện mà (hầu như) những con người bình thường đều phải “làm” nó ở một nơi kín đáo, vắng vẻ, riêng tư… Ngay cả người Mỹ, là những người được xem là “tự do” và “tiến bộ” về quan điểm trong lãnh vực tình dục, cũng phải có những tờ báo riêng, hay những trang web riêng… để “xả xú bắp” về chuyện “tình dục”. Playboy, Playgirl đại loại…
Nhưng người Việt Nam chúng ta thì khác. Bởi chúng ta có nhiều thứ “truyền thống” đáng nể luôn luôn đè nặng trên đầu. Với truyền thống dân tộc bốn-năm ngàn năm văn hiến, người Việt rất khoái làm “cách mạng”. “Cách mạng” đối với người Việt Nam đồng nghĩa với “bắt chước”.
Trong lãnh vực thi ca, người Việt Nam khởi nghĩa cuộc cách tân bằng phát động phương pháp nhại thơ Maiakovski và mấy thứ Nga-Tàu thời XHCN! Bây giờ, thời kinh tế thị trường, khi thấy thứ thi ca biến thái “cách mạng cách tân” của các “thi sĩ” trong nước với trạng huống bắt chước lạc đường, thì một số “thi sĩ” Việt hải ngoại cũng hoảng hốt làm những cú nước rút đề hầu mong theo cho kịp cái đà cách tân vĩ đại của “anh chị em ta” trong nước!
Nói đúng kiểu Việt Nam “truyền thống”, thì: ' Người Việt chúng ta không thèm làm (cách mạng) thì thôi, đã làm(cách mạng) thì bắt buộc là phải “qua mặt” Tụi Nó. Tụi Nó ở đây, tất nhiên là những con người của những quốc gia khác trên thế giới, đã khám phá sau khi khám xét kỹ lưỡng, và khám nghiệm một cách đàng hoàng. Tất yếu là đã trải qua đúng theo những chu kỳ của một cuộc sáng tạo để thành công và thành danh. Thành công có nghĩa là được thế giới con người công nhận là một phát minh mới trong lãnh vực văn hóa. Và sau đó tất nhiên là sự vụ thành danh.
Truyền thống Việt Nam chúng ta, bất kể trong hay ngoài nước, không nhất thiết và có thể tuyên ngôn một cách không cường điệu và cưỡng bức tí nào hết, là không thèm hoặc không cần phải trải (nghiệm) qua những thứ chu kỳ ấu trĩ đó! Dân tộc Việt Nam bốn-năm nghìn năm văn hiến là một dân tộc của thi ca mà lại! Cứ phong thanh nghe đâu đó trên thế giới đang có một phong trào thơ đang phát động, thì “bổn phận” đương nhiên của những thi sĩ và không thi sĩ Việt Nam là phải liền tức thì phát động cái phong trào “nghe đồn” trên thành một “phong trào” to lớn rền vang và rền vang một cách ngang nhiên vô tội vạ!
“Tiên hạ thủ vi cường” – “Bắn chậm thì chết”. Những “thi sĩ” cách tân hiện đại của Việt Nam ta, là những tay súng “chớp giật, sao băng”. Từ thơ 'Tân Hình Thức', nhảy qua thơ' Nhại Lạ'i (tức thơ nhại thơ). Bước vào đường cùng và đường cụt, thì ngõ thoát hiện ra sáng ngời trước mắt là thơ 'Nhai Lại,' tức thơ Recycle… Cuộc biến chuyển cách tân thơ thập phần ngoạn mục đủ sắc màu ái ố hỉ nộ. Và bây giờ là bay bổng lên bằng 'Thơ Sex Siếc'. Sau cách 'Tân Hình Thứ'c là công cuộc' Tẩy Rửa Nội Dung'
.
Song le, “xấu đẹp tùy người đối diện”. Cuộc cách mạng nào chẳng đổ máu hoặc mực, phải không? Cũng như, có người thích Paris, (vẫn) ngợi ca Paris như những tay văn nghệ thời cuối thế kỷ XIX. Nhưng đâu ít những người khác chê bai Paris thậm tệ.
Xin đọc vài dòng thơ của Kenneth Koch, một thi sĩ Mỹ, viết về Paris:
' WHAT PEOPLE SAY ABOUT PARIS?'
They often begin by saying, “Paris! How I wish I were there!”
Someone said, “Paris where good Americans go when they die.”
“Pit pat, pit pit patter,” say the raindrops
Falling on Paris in Apollinaire’s poem “La Pluie.”
“I was so happy in Paris,” I said. “It was like
Loving somebody. The first three times I left there, I cried.”
“I don’t like Paris.” say some. And others, “Paris is getting nice again.”
“If you don’t meet anyone but concierges and waiters,
How can you like any place?” Another says, “The French do nót have friends,
They have relatives. “ A Frenchman says, “Le francais n’est pas interlligent,
Il est rapide.” “Paris is ruined,” say certain, all the time.
Paris was at its best in the noneteenth century.”
“Paris was wonderful between the wars.” “Old Paris is no more,”
Said Baudelaire. “The form of a city
Changes more quickly, alas! Than a mortal’s heart!”
Paris hả? Rất nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam ta đã từng đem Paris vào văn chương thi ca. Paris trở thành cái tên của vùng đất hứa mà anh chị văn nghệ sĩ nào đã tới được Paris, là coi như đã thành tựu viên mãn. Đã được ấn chứng là một văn nghệ sĩ thứ thiệt, thời thượng và thời cuộc!
Tôi cứ tưởng như đó là chuyện của người Việt Nam bốn-năm nghìn năm văn hiến và văn hóa. Đâu ngờ, người Mỹ giang hồ cưỡi ngựa chăn bò hai trăm năm lập quốc, phú cường hùng cường và văn minh điện toán tàu ngầm hỏa tiển cung trăng, lại cũng cứ bị cái Paris nó ám ảnh. Dĩ nhiên, như đã nói “xấu đẹp tùy người đối diện”, “người vầy người khác”. Nhưng cuộc lý luận lý giải sẽ trường giang bất tận và không kết thúc! Ủa? Anh muốn thích Paris thì anh cứ thích! Tôi thì thấy Paris bây giờ cũng rạc rày như Đà Lạt của Việt Nam. Những dáng sắc hương hoa của văn hóa văn học, của thơ mộng thơ ngây và thơ thẩn đã tàn rụi theo năm tháng. Ừa rồi sao? So what? Tôi vẫn cứ thích Paris. Thì mặc mẹ anh cứ thích Paris. Tôi thì không cũngso what? Cuộc tranh cãi sẽ trở thành vô duyên, thậm chí vô bổ và kết quả thì vô hậu và sẽ vô cùng dai dẳng chẳng đi đến cái thành La Mã nào. Vậy thì, phe thích làm thơ 'sex siếc', thích bày của quí và những cơn động tình (tưởng tượng) của mình lên giấy, cứ việc tự nhiên cho! Ngược lại, phe “chi hồ giả dã” gì đó, cứ tiếp tục “gáo tra dài cán”, xí quên “giáo đa thành oán”, đừng nên tiếp tục vọng động! Tuy nhiên, mọi thứ đều có cái “giới hạn” của nó! Cái giới hạn vô hì'nh nhưng hết sức chặt chẽ. Mời đọc chơi vài dòng của Joseph Brodsky: 'TO URANIA
I.K.
Everything has its limit, including sorrow.
A windowpane stalls a stare; nor does a grill abandon
A leaf. One may rattle the keys, gurgling down a swallow.
Lonelines cubes a man at ran dom.
. . . . . . . . .
And what is space anyway if not the
body’s absence at every given
point? That’s why Urania’s older than sister Clio!
(Joseph Brodsky
sách đã dẫn; trang 21)
Mọi thứ đều có cái giới hạn của nó. Ngay cả những nỗi niềm đau khổ! Mỗi khối cô đơn nằm trong sự hiện hữu của mỗi con người. Nhưng cái khối cô đơn kia, và ngay cả cái sự hiện hữu của con người, cũng đều có những giới hạn của chúng nó. Thế thì ô hô ai tai! Mặt mày xụi lơ ngó ngoài liếc trong không tìm ra cứu cánh. Có khi, chính cứu cánh là cái phương tiện vãng lai tưởng chừng thập phần hiện hữu, nhưng lại rồi thập phần chẳng hiện hữu gì hết! Đã nói, mọi thứ đều có giới hạn của nó mà. Cái gì hiện hữu rồi cũng có lúc không hiện hữu nữa. Có những phương ngôn tục ngữ hay phong dao đồng dao từ thời xa xưa, vẫn còn giá trị hữu ích cho con người muôn đời. Thí dụ như câu “Thái quá bất cập” – Cái gì mà nhiều quá, quá đáng thì cũng sẽ không khá được. Bắt chước, thoạt kỳ thủy chẳng có gì là xấu. Nhưng trong sự bắt chước phải biết tiêu hóa. Sử dụng của người khác, nhưng đã được “thích hợp” hóa với bản chất của mình. Chẳng hạn như những chữ “xà bông” mà tiếng Việt chúng ta đang xài, vốn dĩ là từ chữ “savon” của tiếng Pháp. Hoặc những chùm từ như “tam sao thất bổn”, cứ nói hoặc viết ra, là hầu như người Việt Nam nào cũng hiểu đến thất thoát sai lạc trong sự vụ truyền miệng rỉ tai. Giới hạn của mỗi sự việc nó khác nhau. Phải tinh tế và mẫn cảm để nhận ra cái lằn ranh này. Mà một người là “thi sĩ thực sự”, thi hai bản năng “tinh tế” và “mẫn cảm” hầu như phải có là điều tất nhiên.
Đọc 'Kinh Karma' hay 'Kinh Tố Nữ', tôi không thấy có sự tục tĩu hay nhớp nhúa trong những trang tình kinh nói trên. Ngay cả' Nhục Bồ Đoàn' của Lý Ngư, tôi đọc được văn chương và tính ẩn dụ bên trong những câu chữ nói về nhục cảm thân xác. Bởi tự hai cuốn 'Tình Kinh', hoặc tác phẩm 'Nhục Bồ Đoàn', đã đưa ra cái chuyên đề để lý giảI: “Tình Dục”. Nhưng đọc những câu thơ “bày biện” của một số quí vị thi sĩ đang thời từ trong nước tới hải ngoại, tôi chỉ thấy được một điều là quí vị đang “thủ dâm Ngôn Ngữ”. Tuy nhiên, bày biện cũng có nhiều cách bày biện. Bày biện có thẩm mỹ, có kỹ thuật và nhất là phải giữ cho được cái tính Thơ, thì tôi thấy rất là hiếm hoi. Xin kể hầu một câu chuyện về hai chữ “bày biện”: Một bà góa kia chồng mất đã được đúng năm. Bà vẫn luôn thương nhớ ông chồng bạc mệnh. Vào ngày giỗ đầu của chồng, bà làm một bữa cổ thực thịnh soạn, mời bà con, làng xóm đến dự. Khi quan viên đã tề tựu đông đủ, bà cứ lăn ra mà khóc trước bàn thờ chồng, kể lễ nỗi niềm thương tiếc. Bà khóc và khóc tỉ tê khổ não. Đứa con gái mười lăm tuổi của bà khuyên can bà thế nào cũng không được. Mấy bà khách bà con an ủi thế nào bà cũng cứ hiên ngang mà khóc. Mới đầu, nhịp khóc còn nhẹ nhàng, rấm rứt. Khi bắt trớn được, bà khóc vật vã, lăn lộn trước bàn thờ. Hai tay bà cứ đấm thùm thụp lên mặt đất. Đầu bà gục hất tung xoay túi bụi. Thời đó, cách nay đã khá là lâu, đàn bà mặc váy maxi nhưng ứ thèm mặc lót bên trong mấy cái món lỉnh kỉnh rườm rà. Nên bà góa ta sau một hồi “chổng mông” lăn lộn khóc, váy nó cứ tuồn tuột dần và điều tất nhiên đã xảy ra: bà “bày biện” ra cái món của quí đã cả một năm rồi “tiu nghỉu” của bà. Đứa con gái mười lăm tuổi thẹn quá, bèn nói với bà: “Mẹ ơi! Mẹ mời bà con hàng xóm tới nhà giỗ bố, lại cứ “bày biện” ra như thế kia, nom kỳ cục quá mẹ à!” Bà góa ta vừa khóc, vừa đưa tay quẹt nước mắt, hắng giọng bảo con gái: “Thì mẹ mời bà con hàng xóm tới nhà ăn giỗ bố, phải “bày biện” ra mời bà con hàng xóm người ta xơi chứ! Con nói năng chi lạ, chẳng có lễ giáo lịch sự gì cả.”.
Mời xơi thì mời. Bà con hàng xóm có dám xơi hay không, lại là một chuyện khác cần phải nghiên cứu và “ấn chứng” lại! Cũng như, làm cách mạng thì đã là người Việt Nam, ai lại không thích? Truyền thống dân tộc mà! Làm thơ hả? Người Việt Nam nào chả biết làm thơ. Lại truyền thống thêm cái bản sắc dân tộc trống đồng và cây đa đầu đình lũy tre cuối xóm! Nhưng làm cách mạng “kiểu” như thế nào, “cách tân” ra làm sao và cho cái gì, để đi đến đâu, thì là những câu hỏi, những cật vấn rườm rà không cần thiết!
Còn nữa. Cái tạng của hầu hết văn nghệ sĩ Việt Nam ta nó như 'vầy'… Cứ có một chút danh, một vài tác phẩm thì bèn thành ngay một cục thiên tài, độc nhất vô nhị trong cõi trần ai. Do đó, dân tộc Việt Nam ta, dù ở trong nước hay đang lưu vong hải ngoại, đều là những Nhà Cách Mạng và những Thi Sĩ. Và ai cũng là độc nhất. Đó là truyền thống văn hóa Việt Nam.
Tô Hoài chép chuyện Nguyễn Tuân và Nguyễn Sáng: “Nguyễn Sáng đến chơi, mùng ba Tết. Hai người uống vui, câu chuyện xoay quanh nghệ thuật. Bốc lên, Nguyễn Sáng hét: “Chỉ có một thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!” Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa: “Đi ngay!” Nguyễn Sáng vẫn hăng: “Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở! Ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật, vứt đi!” “Anh ra khỏi đây ngay.” Nguyễn Sáng lập cập xuống thang. Gặp tôi, Nguyễn Sáng nước mắt đầm đìa. Nguyễn Sáng bảo con gái tôi: “Người ta đuổi chú. Năm mới mà chú bị người ta đuổi.” Ngồi một lúc, tỉ tê hỏi mới ra câu chuyện những cái tài cái tai gặp nhau. Nguyễn Sáng nói một câu sắc rợn: “Nó cũng khinh người bỏ mẹ, lại bảo mình khinh người!” “Lúc nãy có nói thế với Nguyễn Tuân không?” “Chưa nói hết câu, nó đã tống mình đi rồi. Tức quá, đi luôn”.. (Tô Hoài; Cát Bụi Chân Ai; Hồi ký. T(hanh Văn xuất bản 1990; Trang 178) .
Tinh thần cách mạng và tinh thần thi ca dâng cao lên rồi, hai thứ này nó phối trí và phối hợp với nhau thành “tường đồng vách sắt”, có thể chống đỡ bất cứ cuộc tấn công nào! Dù bom nguyên tử hay đạn thủy lôi! Vả lại, ngoài hai tinh thần cách mạng và thi ca ra, mỗi một văn nghệ sĩ Việt Nam là một “thiên tài”. Chúng ta có vô số thiên tài và trùng điệp những ngọn cô phong…. Mặc cho mưa gió nghìn trùng. Đâu rồi cách mạng cho thi ca và tình dục của người Việt?. (*).. []
------------- . .
(*) bản đã được BBT Hội Luận biên tập ;và tác giả đồng ý so với bản trước đây in trên trang mạng khác. (BBT/ Hội Luận).
trần nghi hòang
(Virginia)
Thơ sẽ chẳng là gì cả
vẫn biết thơ ra khỏi đầu là kết thúc
trang viết chẳng khác gì thoi vàng vó rắc,tro tiền giấy bay ! (câu Kiều)
hộp sọ rỗng rễnh
nỗi nhớ nhớt nhầy tình yêu thời thổ tả (*)
tôi lạc giữa hang sâu ẩm ướt
mặt trời nằm phía ngoài cửa động
nước sông mát lạnh
tôi bật diêm thắp nến
hình như có ai đưa miệng thổi
tối om
đầu thạch nhũ ứa giọt cam lồ
chắc là thơ
tôi bắt đầu nghĩ lan man
thơ mà không tình yêu thì buồn chết được
nhưng cuộc đời này đâu chỉ có bóng giai nhân
đôi mắt trẻ con Phi Châu trắng dã
người đàn ông nằm bất động ruồi nhặng vi vu
nỗi khổ trùm kín khuôn mặt nhiệt đới
chiếc đầu lâu cắm trên khung xương quai xanh
người đàn bà da màu câm lặng
có lẽ chẳng thiết tha gì cuộc sống
đừng mong chi một mảnh tình vắt vai
đêm Phi Châu đặc quánh
thơ sẽ chẳng là gì cả !
phan văn thạnh
(Saigon,10/6/2015)
---------
(*) Tình yêu thời thổ tả (tiếng Tây Ban Nha: El amor en los tiempos del cólera) là một tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Colombia Gabriel Garcia Marquez (1927 - 2014) - xuất bản năm 1985 - được tạp chí New York Times đánh giá là một trong những thiên tình sử đẹp nhất mọi thời đại, là "tuyên ngôn cho sự bất diệt của trái tim". (PVT)
Thứ Sáu, 23 tháng 6, 2017
Nhân dân
Nguyễn Trọng Tạo
Có thể thay quan, không thay được Nhân Dân
Thay tên nước, không thể thay Tổ Quốc
Nhưng sự thật khó tin mà có thật
Không thể thay quan dù quan đã thành sâu!
Quan thành dòi đục khoét cả đất đai
Vòi bạch tuộc đã ăn dần biển đảo
Đêm nằm mơ thấy biển Đông hộc máu
Những oan hồn xô dạt tận Thủ Đô
Những oan hồn chỉ còn bộ xương khô
Đi lũ lượt, đi tràn ra đại lộ
Những oan hồn vỡ đầu gãy cổ
Ôm lá cờ rách nát vẫn còn đi
Đi qua hàng rào, đi qua những đoàn xe
Đi qua nắng đi qua mưa đi qua đêm đi qua bão
Những oan hồn không sức gì cản nổi
Đi đòi lại niềm tin, đi đòi lại cuộc đời
Đòi lại những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi
Đòi lại ánh mặt trời cho tái sinh vạn vật…
Tôi tỉnh dậy thấy mặt tràn nước mắt
Nước mắt của Nhân Dân mặn chát rót vào tôi.
Ôi những ông quan không Dân trên chót vót đỉnh trời
Có nhận ra tôi đang kêu gào dưới đáy
Cả một tỷ tôi sao ông không nhìn thấy?
Vì tôi vẫn là người mà ông đã là sâu?…
Công an Yên Bái tạm giữ Trưởng ban Bạn đọc báo Giáo dục Việt Nam
(CLO) Nguồn tin của báo Điện tử Congluan.vn từ Công an tỉnh Yên Bái cho biết, ngày 22/6/2017 Công an TP Yên Bái đã bắt quả tang nhà báo Duy Phong – Trưởng ban Bạn đọc Báo Giáo dục Việt Nam (Giaoduc.net.vn) để điều tra về hành vi chiếm đoạt tài sản.
Theo đó, ngày 22/6, Lê Duy Phong đi ô tô mang BKS 30E – 35481 tới một nhà hàng ở tổ 66, phường Nguyễn Thái Học (TP Yên Bái). Tại đây, anh Phong đã có hành vi nhận tiền của 1 doanh nghiệp hoạt động tại tỉnh Yên Bái. Tới khoảng 12h45 cùng ngày, khi hai bên đang giao dịch, tiền được để trên mặt bàn thì bị Cơ quan CSĐT Công an TP Yên Bái bắt quả tang. Lê Duy Phong được cho là đã tống tiền 1 doanh nghiệp ở Yên Bái với số tiền 250 triệu đồng để không phản ánh sự việc tiêu cực lên mặt báo. Lê Duy Phong (SN 1985, ở Hải Ninh, Tĩnh Gia, Thanh Hóa, thường trú tại phường Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội), đã được cấp thẻ nhà báo
Xác nhận với báo Điện tử Congluan.vn, ông Nguyễn Tiến Bình – Tổng biên tập Báo Giáo dục Việt Nam cho biết đã nắm được việc này và đợi thông tin chính thức từ cơ quan công an. Thời điểm này ông Bình không có bình luận gì thêm. Được biết, nhà báo Duy Phong là tác giả loạt bài về biệt phủ ở Yên Bái của gia đình Thiếu tướng Đặng Trần Chiêu – Giám đốc Công an tỉnh Yên Bái và gia đình ông Phạm Sỹ Quý – Giám đốc Sở Tài nguyên và môi trưởng tỉnh Yên Bái.
Congluan.vn sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc này!
Dương Đông
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)