Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

Văn hóa truyền thống Đông Á: có hay không các giá trị nhân quyền?



Vũ Công Giao

Bực tức trước việc các quốc gia Châu Á đề cao và khẳng định các giá trị nhân quyền trong truyền thống văn hoá của châu lục, gần đây, một số người phương Tây đã chỉ trích rằng, văn hoá truyền thống ở phương Đông nói chung, ở Đông Á nói riêng chủ yếu bao hàm những tư tưởng độc tài, phi dân chủ, tàn bạo mà không hoặc chứa đựng rất ít những giá trị nhân quyền và cái "truyền thống tồi tệ" đó là nguồn gốc sâu xa của những "vi phạm nhân quyền" ở nhiều quốc gia trong khu vực này ngày nay.

Vậy thực sự của vấn đề là như thế nào?

Trước hết, văn hoá truyền thống Đông Á là khái niệm chỉ nền văn hoá của các quốc gia ở khu vực Đông và Đông Nam Châu Á (sau đây gọi chung là Đông Á), mà ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam... có vị trí tiêu biểu. Đó là một phức hợp đa tầng của nhiều trường phái tư tưởng và tôn giáo, tín ngưỡng, tuy nhiên Phật giáo, Nho giáo và Hồi giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất. Vì vậy, khảo sát các giá trị nhân quyền trong văn hoá truyền thống Đông Á, cơ bản phải dựa trên ba trụ cột này.

Xét Phật giáo

Ra đời ở Ấn Độ nhưng Phật giáo có ảnh hưởng rất sâu rộng đến các dân tộc ở Đông Á. Loại trừ những hạn chế của nó, có thể thấy Phật giáo rất coi trọng con người và bảo vệ nhân quyền, thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, Phật giáo chủ trương cấm sát sinh (với mọi động vật). Điều đó đồng nghĩa với việc triệt để bảo vệ quyền sống - một quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế về nhân quyền. Học giả Thái Lan Saneh Chamarik còn cho rằng, việc cấm sát sinh còn thể hiện việc thừa nhận sự bình đẳng về nhân phẩm và các quyền của con người trong đạo Phật.

Thứ hai, Phật giáo khuyên con người sống khoan dung. Trong số 14 điều răn của Đức Phật, có một điều rằng: "Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung”. Trong số 10 điều tâm niệm của Đức Phật, có một điều rằng: "Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ là hèn nhát, mà trả thù thì oán đổi kéo dài". Điều này phù hợp với luật quốc tế về nhân quyền bởi trong đó, khoan dung được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng (Liên hợp quốc đã lấy năm 1995 là Năm quốc tế về sự khoan dung và cũng năm này, UNESCO đã ra một văn kiện có tên là tuyên bố về các nguyên tắc về sự khoan dung). Dù vậy, so sánh với tư tưởng khoan dung của Phật giáo, những quy định có liên quan trong luật quốc tế về nhân quyền còn kém xa về tính quảng đại và độ sâu sắc.

Thứ ba, Phật giáo khuyên con người phải biết thương yêu, giúp đỡ đồng loại (từ bi) để tích cực. Trong số 14 điều răn của Đức Phật, có một điều rằng: "An ủi lớn nhất của đời người là bố thí". Trong số 10 điều tâm niệm của Đức Phật có một điều rằng: "Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có mưu tính". Những điều này cho thấy rằng tư tưởng từ bi trong Phật giáo hết sức sâu sắc Việc quan tâm và bảo vệ những nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong luật quốc tế về nhân quyền trùng hợp, nhưng không thể sâu và rộng bằng tư tưởng từ bi của Phật giáo.

Thứ tư, Phật giáo đặc biệt chú trọng đến đào luyện nhân cách (tu nhân). Trong mười bốn điều răn của Đức Phật, có rất nhiều điều răn về nhân cách, chẳng hạn: "Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá", "Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại", "Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tỵ", "Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu”...Trong mười điều tâm niệm của Đức Phật, ít nhất có hai điều về vấn đề này, đó là: "Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa", "Thấy lợi thì đừng nhúng tay vào, vì nhúng tay vào thì hắc ám tâm trí"...Chủ trương "bát chính đạo" của Phật giáo cũng liên quan đến vấn đề này. Ngoài ra, thuyết "nhân quả" của Phật giáo, cho rằng con người phải tự chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo luật nhân quả, cũng là một yếu tố thúc đẩy việc hoàn thiện nhân cách.

Mặc dù luật quốc tế về nhân quyền ít đề cập trực tiếp đến vấn đề rèn luyện nhân cách, tuy nhiên, rèn luyện nhân cách không hề xa lạ với nhân quyền. Nó chắc chắn là nền tảng sâu xa cho việc thúc đẩy nhân quyền, bởi lẽ chỉ khi có nhân cách tốt đẹp, con người mới ý thức đúng đắn được quyền và nghĩa vụ của bản thân cũng như biết tôn trọng và bảo vệ quyền của người khác.

Thứ năm, Phật giáo khuyên con người kiềm chế (thậm chí tiêu diệt) tham, dục vọng. Quan điểm này phản ánh tâm lý tiêu cực, thoát ly thực tại của Phật giáo, tuy nhiên, ở một góc độ nào đó, nó cũng có tác dụng đào luyện nhân cách, từ đó kiềm chế những vi phạm nhân quyền.

Thứ sáu, Phật giáo khuyến khích việc học tập, mở mang trí tuệ. Trong 14 điều răn của Đức Phật, có hai điều rằng: "Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ và trí tuệ" và "Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết". Dù rằng, sự học ở đây chủ yếu hướng về nhận thức tâm linh, song việc tiếp thu những tư tưởng nhân bản của Phật giáo chắc chắn có ích cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.

Xét nho giáo

Là một học thuyết chính trị, đạo đức xuất phát từ Trung Quốc nhưng Nho giáo có ảnh hưởng hết sức sâu đậm, là đấu kết nối chính tạo ra sự tương đồng trong nền văn hoá của các dân tộc ở khu vực Đông Á.

Tương tự như Phật giáo, bên cạnh những hạn chế, Nho giáo cũng chứa đựng những tư tưởng sâu sắc về nhân quyền, thể hiện ở các khía canh cơ bản sau:

Thứ nhất, Nho giáo đề cao nhân đức (lòng nhân), coi đó là triết lý cốt lõi. Lòng nhân, theo Khổng Tử đó là “yêu thương mọi người” (Luận Ngữ). Có người cho rằng, khái niệm “nhân đạo” mà sau này được sử dụng ở phương Tây và trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền bởi nó cùng dựa trên cơ sở yêu thương mọi người, tuy nhiên trên thực tế “nhân đức” trong Nho giáo có phạm vi rộng và ý nghĩa sâu sắc hơn "nhân đạo" rất nhiều. Nếu như "nhân đạo" chủ yếu mang tính hướng ngoại (yêu thương loài người) thì "nhân đức" mang tính cả hướng ngoại và hướng nội. "Nhân đức" trước hết là kính yêu, chăm sóc cha mẹ và những người thân trong gia đình (hướng nội). Về hướng ngoại, theo Khổng tử, người nhân đức là người mà "... khi tự lập cho mình thì đồng thời giúp người khác tự lập, khi cố gắng để thành công thì đồng thời giúp người khác thành công, là người mà: "những điều mình không muốn thì không làm cho người khác" (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Như thế, có thể thấy, "nhân đạo" chỉ là một thuộc tính trong nội hàm của "nhân đức".

Thứ hai, từ việc đề cao nhân đức, Nho giáo chủ trương "đức trị". Khổng Tử cho rằng, một vị vua tất phải là "cha mẹ của dân", phải hết lòng chăm lo cho hạnh phúc của dân. ông còn cho rằng: "Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể không có hành động tội lỗi, nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng.quy phục..."

Quan điểm về "đức trị" trong Nho giáo có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư cách của vua chúa, quan lại và cách thức cai trị của các triều đại ở các Quốc gia Đông Á trong hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến (dù rằng không phải triều đại nào cũng áp dụng "đức trị" một cách triệt để), bởi lẽ nó đòi hỏi vua chúa, quan lại phải tự sửa đổi, trau dồi đạo đức của bản thân để làm gương cho giáo hoá dân… Cho dù chủ trương "đức trị" của Nho giáo nhằm mục đích cuối cùng là duy trì sự thống trị của vua chúa nhưng xét trong tính lịch sử của nó, quan điểm này vẫn có ý nghĩa to lớn trong việc giữ cho xã hội bình an, bảo vệ và thúc đẩy cuộc sống và các quyền của người dân. Loại trừ vài yếu tố không còn phù hợp, "đức tin” vẫn là một nội dung cất lõi trong hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Thực tế là một lý thuyết tương tự không thấy nảy nở trong các xã hội phương Tây thời phong kiến.

Thứ ba, từ quan điểm về đức trị, Nho giáo đề cao con người, đề cao nhân dân. Khổng Tử cho rằng, trong muôn loài, con người là đáng quý nhất. Mạnh Tử xếp nhân dân cao hơn xã tắc và vua chúa toàn vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Ông thậm chí còn xem "ý dân là ý trời". Theo Mạnh tử: "Yêu thương và bảo vệ nhân dân, bằng cách đó không có sức mạnh nào có thể ngăn một người giành được địa vị đế vương". Nho giáo coi nhân dân là nền tảng của đất nước, nếu nền tảng vững chắc thì đất nước mới thái bình và phát triển, người cai trị giống như con thuyền, nhân dân giống như nước, nước có thề chở thuyền và cũng có thể lật thuyền. Người cai trị có thể giữ được quyền hành khi nào còn vì dân và sẽ bị đào thải khi không còn vì dân... Như vậy, ngay từ rất sớm, Nho giáo đã chủ trương "lấy dân làm gốc".

Cùng với "đức trị", có thể bắt góp tư tưởng "lấy dân làm gốc" trong nền văn hoá của hầu hết các nước trong khu vực Đông Á. Mặc dù tương tự như “đức trị", việc "lấy dân làm gốc" trong Nho giáo cũng nhằm mục đích duy trì sự thống trị của giai cấp phong kiến, tuy nhiên, trong tính lịch sử của nó, tư tưởng này có tác dụng rất tích cực đến việc bảo đảm nhân quyền. Nó là điểm cốt lõi cho phép kiềm chế tính độc đoán của vua chúa và quan lại, tạo điều kiện cho nhân dân được hưởng thụ các quyền và tự do trong một giới hạn nhất định. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" từ lâu vẫn là một nguyên tắc nền tảng trong tổ chức và hoạt động của các nhà nước (chỉ khác về mục đích so với Nho giáo) và đã được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế.

Thứ tư, Nho giáo lấy quần thể làm bản vị, đặt lợi ích của tập thể lên trước lợi ích cá nhân. TheoNho giáo, không có cá nhân trừu tượng mà mỗi cá nhân luôn gắn liền với một tập thể (cộng đồng, dân tộc, gia đình). Tách rời tập thể, không chỉ nhân cách bị mai một mà bản thân cá nhân cũng không thể tồn tại cá nhân tồn tại trong tập thể nên quyền lợi của tập thể cũng là quyền lợi cá nhân. Vì vậy, Nho giáo kêu gọi mọi người tôn trọng và hy sinh lợi ích, thậm chí cả tính mạng cho tập thể và coi đó là một hành động đạo đức cao cả. Tinh thần này thể hiện sinh động nhất trong câu nói của Phạm Trung Ngôn - một nhà Nho đời Tống ởTrungQuốctheo đó, người quân tử là người: "Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ".

Điều cần lưu ý là Nho giáo nhấn mạnh và đặt quyền, lợi ích tập thể lên trước quyền, lợi ích cá nhân nhưng không triệt tiêu quyền và lợi ích cá nhân mà ngược lại, nó tìm cách trung hòa hai loại quyền và lợi ích này theo nguyên tắc: "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Tư tưởng chủ đạo Nho giáo trong vấn đề này là một người càng cống hiến nhiều cho xã hội, cho tập thể thì người ấy sẽ càng được xã hội, tập thể tôn trọng, đề cao giá trị và dành cho nhiều quyền lợi.

Một khía cạnh khác có liên quan là Nho giáo coi trọng nghĩa vụ, coi việc thực hiện nghĩa vụ là tiền đề đạt được quyền lợi. Điều đó thể hiện ngay trong ngũ luân. Trong ngũ luân, nghĩa vụ của các chủ thể được đề cập rất cụ thể (vua phải thương dân, tôi phải trung với vua, cha mẹ phải bao dung với con cái, con cái phải hiếu đễ với cha mẹ, chồng phải ngay thẳng, vợ phải nhẫn nhịn, anh phải đại lượng, em phải kính nhường, bạn bè phải thành thật và tôn trọng lẫn nhau...), trong khi quyền lợi chỉ được hiểu một cách gián tiếp theo nghĩa vụ của chủ thể cũng chính là quyền lợi của chủ thể tương ứng và ngược lại.

Những quan niệm trên khác với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ thống trị trong văn hoá phương Tây nhưng không hề mâu thuẫn với tiến bộ về nhân quyền. Đúng là các văn kiện quốc tế về nhân quyền hiện đại chủ yếu đề cập đến các quyền và tự do của cá nhân mà ít đề cập đến nghĩa vụ của cá nhân và các quyền tập thể, tuy nhiên, cần phải hiểu là bởi chúng được xây dựng nhằm mục đích hạn chế và xoá bỏ tình trạng vi phạm nhân quyền, chứ không phải là những tuyên bố về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ và giữa các loại quyền. Mặt khác, ít đề cập song không có nghĩa là các văn kiện đó phủ nhận nghĩa vụ của cá nhân và các quyền tập thể. Minh chứng là trong điều 29 (khoản l,2) của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) đã nêu rõ: (1) “Mọi người đều có nghĩa vụ với cộng đồng mà trong đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và trọn vẹn. (2) Mỗi người, trong khi hưởng thụ các quyền và tự do cá nhân còn phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng với các quyền và tự do của người khác và những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và sự phồn vinh chung trong một xã hội dân chủ...". Nguyên tắc này sau đó còn được tái đề cập và cụ thể hoá trong điều 17 và 18 của Tuyên ngôn về quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ xác quyền và những quyền và tự do đã được thừa nhận rộng rãi (1998). Đặc biệt, các nước trong lục địa châu Phi đã khẳng định rõ sự gắn kết giữa quyền các cá nhân và quyền tập thể ngay trong tiêu đề của văn kiện quan trọng nhất về nhân quyền của khu vực, đó là Hiến chương về quyền của con người và quyền của các dân tộc (do tổ chức thống nhất Châu Phi thông qua năm 1981).

Như vậy, nhấn mạnh và đặt các quyền tập thể và nghĩa vụ lên trên các quyền và lợi ích cá nhân không hề là một cái gì đó sai lầm, đặc biệt khi việc đó không những không triệt tiêu các quyền cá nhân mà ngược lại, để đảm bảo tất hơn các quyền cá nhân. Trên phương diện nhân quyền, việc đặt yếu tố nào lên trên yếu tố nào thuộc về phạm trù tính đặc thù, bắt nguồn và phụ thuộc vào văn hoá. Về vấn đề này, ngài Tommy Kok, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Singapore tại LHQ, trong một bài báo đăng trên tờ The Strait Times (14/12/1993) đã viết rằng: "Người Á Đông không tin vào hình thức tột cùng của chủ nghĩa cá nhân như nó được diễn ra ở phương Tây. Chúng tôi đồng ý rằng mỗi cá nhân là quan trọng, tuy nhiên, cá nhân đó không thể là một thực thể tách biệt mà là một thành viên của mỗi gia đình, một bộ tộc, cộng đồng, quốc gia và dân tộc.NgườiÁ Đông tin rằng, bất kỳ họ nói hay làm gì, họ phải nhớ đến quyền lợi của những người khác. Không giống với xã hội phương Tây, nơi mà một cá nhân đặt những quyền lợi của mình cao hơn của người khác, trong xã hội ChâuÁ, cá nhân thường cố gắng cân bằng quyền lợi của mình với quyền lợi của những người khác hay gia đình và xã hội...". Lời phát biểu trên có thể coi là một câu trả lời ngắn gọn và xác đáng đối với những chỉ trích của phương Tây về cái gọi là "sự phủ nhận các quyền cá nhân" trong văn hoá truyền thống và hiện tại của các nước Đông Á.

Thứ năm, Nho giáo đề cao sự hoà hợp và tôn ti trật tự. Về sự hoà hợp, Khổng Tử cho rằng: " Khi thực hiện nguyên tắc chính trực, sự hoà hợp là quý" (hoà vi quý), và khuyên mọi người "hãy đối xử với người khác như đối xử với chính mình". Theo Mạnh tử: "Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hoà".TuânTử cho rằng: "Hoà hợp là đạo của vũ trụ. Bản thân nguyên tắc kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân cũng phản ánh quan điểm về sự hoà hợp trong Nho giáo...”.

Như vậy, sự hoà hợp có vị trí nổi bật trong tư tưởng Nho giáo. Trên thực tế, nó là sự mở rộng của tư tưởng đề cao con người và quyền con người của Nho giáo. Bởi con người là cao quý nên mọi người cần phải đối xử với nhau trên tình thân thiện, yêu thương, tôn trọng phẩm giá và các quyền của nhau, giải quyết các mối quan hệ trên tinh thần hiểu biết, cảm thông và tôn trọng lẫn nhau. Quan điểm này có thể liên hệ với các nguyên tắc khoan dung, cùng chung trong hoà bình, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau trong luật quốc tế về nhân quyền hiện đại, tuy nhiên, nó rộng và sâu sắc hơn các nguyên tắc này, bởi lẽ sự hoà hợp trong Nho giáo mang tính toàn điện, không chỉ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, mà còn giữa con người với tự nhiên.

Một xã hội có tôn ti trật tự là mục tiêu của Nho giáo. Để tạo lập một xã hội như vậy, chuẩn mực hành vi của mỗi cá nhân được Nho giáo đề cập rất cụ thể, rõ ràng trong ngũ luân, tam cương và ngũ thường, theo đó, ứng với mỗi một vị trí trong xã hội, con người cần phải có những cách thức cư xử nhất định.

Một xã hội có tôn ti trật tự ảnh hưởng như thế nào đến nhân quyền? Không ai có thể phủ nhận là xét ở góc độchung, đó là một trong những yếu tố nền tảng để đảm bảo nhân quyền. Luận điểm này đã được chứng minh trong thực tiễn cũng như được thừa nhận trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền. Vấn đề là hình thức và tính chất của mỗi dạng tôn ti trật tự.

Cho dù có điểm hạn chế thể hiện sự phận biệt đối xử (về đẳng cấp và giới), nhưng ý tưởng về một xã hội có tôn ti trật tự của Nho giáo vẫn chứa đựng những ý nghĩa tích cực với nhân quyền. Trước hết, nó bảo đảm cho xã hội ổn định, qua đó mọi người có thể hưởng thái bình. Mặt khác, sự phân biệt đối xử về đẳng cấp và giới trong Nho giáo, nếu xét mối quan hệ với các tư tưởng về đức trị, "lấy dân làm gốc", đề cao tập thể, sự hòa hợp và nghĩa vụ thì sẽ thấy nó không tồi tệ như một số người phương Tây giàu trí tưởng tượng nhưng thiếu tư duy biện chứng từng miêu tả. Trong xã hội đó, mặc dù đứng trên nhân dân, nhưng vua chúa luôn phải tu dưỡng đạo đức để giáo hoá nhân dân, xứng đáng là "phụ mẫu của dân”, mặc dù vợ phải phục tùng chồng, nhưng chồng cũng phải luôn cố gắng để trở thành một trụ cột cho vợ cả về vật chất và tình cảm... Như vậy, do tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với những tư tưởng tất đẹp khác, ý tưởng về tôn ti trật tự xã hội của Nho giáo tỏ ra sâu sắc và tiến bộ hơn rất nhiều so với trật tự độc đoán của nền quân chủ phương Tây truyền thống.

Quan niệm về xã hội có tôn ti trật tự của Nho giáo có đồng nghĩa với sự tôn sùng quyền lực như một số người phương Tây nhận định hay không? Trên thực tế, văn hoá truyền thống Đông Á không "ưu ái" quyền lực bằng văn hoá phương Tây truyền thống, do những người nắm quyền lực trong các xã hội Đông á luôn bị chế ước bởi các phạm trù đạo đức, ấy dân làm gốc", nghĩa vụ... trong khi đó, suốt thời kỳ Trung cổ ở phương Tây, quyền lực của giáo hội và vua chúa là tuyệt đối. Cái trật tự khắc nghiệt và tuyệt đối đó bắt đầu bị phá vỡ kể từ khi ban hành bản Đại hiến chương Anh (1215), vậy nhưng, xét bản chất, các quyền của nghị viện Anh nêu ra trong văn bản này (và Bộ luật về quyền) cũng chỉ dành cho một nhúm quý tộc và nhà giàu, còn dân thường hầu như không được hưởng. Một dẫn chứng là vào thế kỷ XVIII, ở nước Anh có 4 trường luật đào tạo những người ra làm quan, nhưng chỉ con cái những nhà quý tộc mới được ghi tên vào học. Trong khi đó, tại Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước Đông Á khác từ khi có chế độ khoa cử, bất cứ ai cũng đều có thể ra thi để làm quan. Thêm vào đó, trong các xã hội Đông Á thời phong kiến, thần dân nếu oan ức có thể chặn xe của vua quan để đưa đơn kiện cáo hoặc đến công đường đánh trống xin phân xử... những điều này ở xã hội phương Tây truyền thống không thấy đề cập.

Xét Hồi giáo

Đông Á là điểm cuối của “dải cầu vồng Hồi giáo" vắt qua toàn bộ bán cầu Bắc tính từ Marốc ở phía Tây đến quần đảo Inđônêxia phía Đông. Ngoài Inđônêxia, nước có số tín đồ Hồi giáo đông nhất thế giới hiện nay, khu vực này còn có Malaysia, Brunây và một số nước khác có tỷ lệ tín đồ Hồi giáo đông đảo.

Hồi giáo từ lâu đã bị một số người phương Tây coi là một tôn giáo phản nhân quyền. Họ chê trách tôn giáo này ở vô số điều, từ những hình phạt khắc nghiệt theo luật charia, sự phân biệt đối xử với phụ nữ, tính "hiếu chiến", khủng bố, thiếu dân chủ… cho đến cả tục cắt cơ quan sinh dục của phụ nữ. Nhưng khách quan mà xét, Hồi giáo có đáng phải chịu sự chỉ trích như vậy hay không?

Trước hết, nói về vấn đề bình đẳng giới, đúng là phụ nữ phải chịu những hạn chế khá khắt khe trong một xã hội Hồi giáo, nhưng địa vị của phụ nữ trong xã hội phương Tây trong truyền thống cũng tồi tệ chẳng kém. Cần nhớ rằng, Bộ luật dân sự Napôlêông, một biểu tưởng của nền pháp luật phương Tây, lúc đầu còn không thừa nhận phụ nữ là con người và có những nước phương Tây cho đến giữa thế kỷ XX vẫn chưa thừa nhận các quyền chính trị của phụ nữ. Một ví dụ khác, đúng là luật Hồi giáo cho phép đàn ông lấy tối đa bốn vợ mà chỉ cho phụ nữ lấy một chồng nhưng trong các xã hội truyền thống ở phương Tây, cả đến khi giai cấp tư sản lên nắm quyền, chế độ đa thê đâu đã được xoá bỏ? Xét ở một góc độ nhất định, tình trạng của phụ nữ ở các xã hội phương Tây còn bi thảm hơn các xã hội Hồi giáo bởi có sự dung túng cho tệ ngoại tình và nạn mại dâm, trong khi ở các xã hội Hồi giáo, những tệ nạn này bị cấm triệt để. Điều đó rõ ràng có lợi cho việc bảo vệ nhân phẩm của phụ nữ. Riêng về tục cắt bỏ cơ quan sinh dục nữ, nó không hề được quy định cả trong kinh Kôran lẫn luật charia. Đó đơn giản chỉ là một thủ tục tồn tại nhiều trong các cộng đồng Hồi giáo, chứ không liên quan đến giáo luật hoặc giáo lý của tôn giáo này.

Xét các yếu tố khác như "hiếu chiến", khủng bố, thiếu dân chủ...về cơ bản, cũng xuất phát từ những suy nghĩ mang tính định kiến và phiến điện của một số người ở phương Tây chứ hoàn toàn không phải là bản chất của Hồi giáo. Rất nhiều học giả về Hồi giáo đã chứng minh rõ điều này. Ví dụ, Jacques Rolieet, một nhà thần học theo Thiên chúa giáo đã khẳng định trong cuốn Tôn giáo và chính trị của ông là: "...đạo Hồi không chứa đựng bạo lực...Nếu tôi không nhầm thì kinh Kô-ran quy định rất rõ rằng người Hồi giáo nên tôn trọng người Cơ đốc giáo và người Do thái để họ không chống đối các luật của đạo Hồi". S.S.Husain, trong tác phẩm Đạo Hồi và nhân quyền viết: "NgườiHồi giáo tin rằng, tự do không hạn chế của một người sẽ dẫn đến tước đoạt tự do của người khác. Nhân quyền là kết quả của nghĩa vụ hơn là tiền đề của nghĩa vụ. Tín đồ Hồi giáo có nghĩa vụ với thánh A la và các loài vật trên trái đất, trong đó có các đồng loại của họ. Đổi lại, họ sẽ được A la trao cho quyền con người và tự do. Học giảHammudahAbdalati, trong tác phẩm Học thuyết Hồi giáo cho biết: " TheoHồi giáo, mỗi cá nhân có trách nhiệm đối với hạnh phúc và sự thịnh vượng của xã hội mà người đó trong. Với tư cách là thành viên của xã hội hoặc của một đất nước, mỗi cá nhân phải đặt những quyền lợi của mình sao cho phù hợp với quyền lợi của đa số, miễn là quyền lợi của đa số không trái với luật của thánh A la".

Những điều trên chứng tỏ Hồi giáo chủ trương cân bằng mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quyền và nghĩa vụ. Điều này trái với văn hoá phương Tây nhưng tương tự quan điểm của Nho giáo và phù hợp với luật quốc tế về nhân quyền. ông Mazaffar, Chủ tịch Quỹ vì một thế giới công bằng Malaysia (FWF), trong một bài viết trên Tạp chí Foreign Broadcast Monitor số 301 năm 1994 đã khẳng định: "Quan niệm về sự cân bằng, không còn nghi ngờ gì nữa, là một quan niệm rất quan trọng trong Đạo Hồi... Điều quan trọng là phải duy trì được sự cân bằng hài hòa giữa các cá nhân và cộng đồng, giữa trật tự và tự do”.

Tuyên ngôn quyền con người của thế giới Hồi giáo (Tuyên ngôn Cairô, năm 1990) đã khẳng định, các quyền và tự do cơ bản cũng là một phần của học thuyết Hồi giáo. Không ai có quyền tước đoạt toàn bộ hay một phần các quyền tự do của người khác, đó là luật lệ của thánh A la và luật lệ đó mang tính quyền lực nghiêm khắc. Bản tuyên ngôn còn liệt kê các quyền con người như: quyền bình đẳng, quyền sống, quyền được bảo đảm an ninh cá nhân, quyền được đối xử nhân đạo trong thời chiến, quyền được kết hôn, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, quyền của trẻ em, quyền được tỵ nạn, quyền có việc làm, quyền sở hữu tài sản và quyền có mức sống thích đáng... và nêu rồ rằng, các quyền và tự do nói tới ở trên xuất phát từ và chỉ giải thích trên cơ sở học thuyết Hồi giáo.

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bên cạnh những điểm vũ công Giao hạn chế lịch sử, cả Phật giáo, Nho giáo, Hồi giáo - những trường phái tư tưởng chính ảnh hưởng đến văn hoá truyền thống của các nước vùng Đông Á đều chứa đựng những tư tưởng sâu sắc về nhân quyền. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, những tư tưởng đó đã hòa quyện trong tâm lý, ý thức của các dân tộc vùng Đông Á, tạo nên những giá trị truyền thống về nhân quyền của các dân tộc trong khu vực này mà hiện vẫn được các dân tộc trong khu vực kế thừa và phát triển cũng như đã thừa nhận trong luật nhân quyền quốc tế.

Vậy tại sao một số người phương Tây lại định kiến với văn hoá truyền thống của các nước Đông Á như vậy? Sự định kiến sâu sắc đến nỗi khiến cho Samuel Huntington, trong cuốn Cuộc xung đột giữa các nền văn minh, đã dự đoán, thế kỷ XXI sẽ diễn ra cuộc xung đột giữa văn minh phương Tây (dựa trên nền tảng Thiên chúa giáo) với văn minh phương Đông (dựa trên nền tảng Phật giáo, Hồi giáo và Nho giáo). Nhưng cũng chính Huntington trong cuốn sách này đã giải thích nguyên nhân của sự việc khi viết rằng: "ở cấp độ cơ bản, các quan mềm của phương Tây khác xa với những quan niệm phổ biến tại các nền văn minh khác. Những ý tưởng của phương Tây về chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, tính hợp hiến, những quyền con người, sự bình đẳng, tự do, pháp quyền, dân chủ, thị trường tự do, sự tách biệt giữa các giáo hội và nhà nước, thường ít gây được tiếng vang trong các nền văn hoá của những nước theo Đạo Hồi, Nho giáo, Nhật Bản, các xã hội của người Hindu, các nước theo Phật giáo và Chính thống giáo", chính vì vậy: "Các nỗ lực của phương Tây nhằm quảng bá các ý tưởng này làm nảy sinh một phản ứng chống lại chủ nghĩa đế quốc về nhân quyền" và một sự tái khẳng định các giá trị bản địa. Và học giả này kết luận: "Niềm tin của phương Tây về khả năng phổ cập nền văn hoá của họ có ba sai lầm: Nó giả dối, vô đạo đức, nguy hiểm. Có lẽ phải thừa nhận rằng mọi sự can thiệp của phương Tây vào công việc cửa các nền văn minh khác là nhân tố nguy hiểm nhất gây mất ổn định”.

Có lẽ không cần bình luận gì thêm trong vấn đề này, bởi lẽ những nhận định của học giả phương Tây kể trên đã là quá đủ. Chỉ xin nhắc lại một câu nói của ông Tổng Thư ký LHQ Kofi Anna trong Thông điệp nhân ngày nhân quyền thế giới năm 1997 để thay cho lời kết: "Nhân quyền là biểu hiện của truyền thống khoan dung. Trong tất cả các tôn giáo và các nền văn hoá, nó là cơ sở của hoà bình và tiến bộ. Nhân quyền là giá trị chungcủa mọi nền văn hoá..."

Nguyễn Hoàng Đức - kẻ mộng du giữa đời thường



Nhà văn Sương Nguyệt Minh

Nguyễn Hoàng Đức có hai con người trong ông: Một thông minh, sắc sảo, hùng biện, tranh luận gắt chói đến tận cùng lý tính, với sống đời sống thường nhật rất đỗi thật thà, xuề xòa, hồn nhiên cảm tính. Hai, là kẻ mộng du, ảo tưởng khoác sau lưng nặng trĩu hành trang nguyên lý sang trọng sục sôi phiêu du đến những khoảng không “chân chẳng bén đất cật chẳng bén trời”. Tôi nghĩ: Chính cái chân trời của lý tính luôn ngự trị trong tư duy và cõi mộng tưởng kỳ vĩ của ông cộng với mặc cảm thân phận không được công nhận danh tính đã làm nên cái đặc sắc mang tên Dị nhân Nguyễn Hoàng Đức – kẻ mộng du giữa đời thường.

1. “Nhà triết học số 1 châu Á?”
Ngườita kể rằng: Nguyễn Hoàng Đức được ở bên Đức cha Nguyễn Văn Thuận (một trong nhữngngười được đề cử bầu Giáo hoàng) 4 năm. Qua 4 năm, ông Đức từ một cán bộ an ninh trở thành con chiên ngoan đạo của Chúa, được Chúa giao trọng trách khai sáng đám văn nghệ sĩ u mê. Ông Đức bỏ việc nhà nước, bỏ hết cả mọi danh hiệu hư vinh… chỉ làm mỗi một việc học tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc các trước tác Triết học,Thần học, Văn chương – Nghệ thuật và… viết. Từ dạo ấy, ông không còn là con người bình thường nữa. Ông nhìn mọi người bằng con mắt thương cảm như một bề trên nhìn chúng sinh đang lầm than, u mê cần phải khai sáng bằng Triết học, Thần học. Trong ông có một kho tàng tri thức của nhân loại được tích hợp từ các vĩ nhân: Aristotle, Descartes, Kant, Hegel, Nietzsche… và Kinh Thánh…Ông luôn lấy các vĩ nhân làm chuẩn và bỗng dưng thấy cái đám nhà văn Việt Nam thấp bé, mỏng manh, lọ mọ.

Tôi gặp Nguyễn Hoàng Đức lần đầu trong Trại viết tiểu thuyết Hội Nhà Văn cuối năm 2007 ở Quảng Bá, dù trước đó đã từng đọc nhiều triết luận văn chương của ông ở Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt và những bài luận về đàn bà về tình yêu ở báo Phụ nữ và chuyên san “Hạnh phúc gia đình”.




Hôm ấy, tôi bỡ ngỡ, lạ lùng đến mức cảm thấy ông “đột ngột xuất hiện như một niềm kinh ngạc” giữa đời thường. Trong bữa cơm, tôi chứng kiến một trận thư hùng có một không hai về triết học giữa Nguyễn Hoàng Đức và nhà thơ Đỗ Minh Tuấn. Ông Đức xuất kho nhà triết học Aristote thì ông Tuấn dẫn ra Nietzsche. Ông Tuấn lôi Khổng Tử, Mạnh Tử dậy thì ông Đức bác luôn phương Đông không có triết học, còn tư tưởng thì lìu tìu không tính, rồi ông khai quật Descartes, Kant, Hegel…

Không khí tranh luận bỏng gắt hừng hực bốc hơi, Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang tuyên bố: Ở Việt Nam không có đối thủ triết học để tranh luận cùng ông; có nghĩa là ông đẩy nhà thơ Đỗ Minh Tuấn xuống hàng sau ông và sau bao nhiêu bậc thì ông không nói rõ. Bữa ấy, tôi chêmvào: “Giáo sư Trần Văn Giàu nói rằng: Bản thân mình và đồng nghiệp chỉ là người nghiên cứu, giảng dạy triết học, ở Việt Nam chỉ duy nhất có Trần Đức Thảo là nhà triết học mà thôi”. Tôi dẫn ra các tác phẩm của Trần Đức Thảo tiên sinh như: “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật bịên chứng” và “Nghiên cứu nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức” được phương Tây công nhận đánh giá là kiệt xuất và đưa vào Từ điển triết học thế giới. Nguyễn Hoàng Đức liền lôi phắt chuyên luận triết văn “Ý hướngtính văn chương” dầy 640 trang của mình ra bảo: “Tôi đập nát bét. Tôi đập nát bét”. Sợ quá! Chẳng hiểu ông đập bét tôi hay đập nát nhà triết học Trần ĐứcThảo? Nghĩ nhanh mới biết mình dại, và tôi ân hận, lẽ ra cứu bữa cơm rượu ngon chỉ bằng cách dẫn các nhà triết học cổ đại Socrate, Platon…tầm nhân loại thì may ra “Nhà triết học số 1 châu Á” mang tên Nguyễn Hoàng Đức mới đối thoại.

Hôm đó, ông hùng biện phân tích“Ý hướng tính văn chương” bao gồm 6 chương. Ông đi từ bản tính sáng tạo của con người qua chân lý, đến Thượng Đế, rồi hạ xuống con người, đến siêu hình học, và văn chương cứu rỗi con người, đến phương tiện của tư duy và văn chương – chính là chữ nghĩa. Ông bảo vệ đến cùng luận điểm: ở Việt Nam ông không có đối thủ triết học, dù cơm có nguội, canh có lạnh thì mặc kệ canh cơm. Khi căng khi chùng, có lúc lớn tiếng đến mức các mâm bên cạnh tối tăm mặt mũi như gặp bom B52 trút xuống Hà Nội mùa đông đỏ lửa năm 1972. Ai cũng thấy kì lạ, dường như gác đũa, há hốc miệng nghe và rồi ù tai chẳng hiểu ông nói gì, và mình thu nhận được kiến thức gì trong cái mớ triết học mênh mông của ông. Ngay cả khi ấy, tôicũng nhận ra một nỗi buồn cô quạnh của ông khi ông nói mãi, giải thích mãi mà cái đám chúng sinh người trần mắt thịt chúng tôi không chịu hiểu ra, không nhìn thấy một Hy mã lạp sơn triết học đang ngồi lù lù trước mặt. Từ lúc đó, tôi cũngkhông gắp thức ăn được nữa, chỉ làm mỗi việc… châm tửu hầu ông mải mê thăng đồng chia cắt, định giá, so sánh văn hóa Đông - Tây và sắp đặt nền triết học thế giới một cách rất lành mạnh, đáng yêu, chân thành và nồng nhiệt.



2. Dâng hiến văn chương - nghệ thuật…cái gì cũng nhất.
Nguyễn Hoàng Đức coi thường ra mặt và chê ỏng chê eo nền thơ Việt Nam: “Thơ Việt có thể nói có đến 80% là giành cho các cụ già, tổ hưu, hay giám đốc đã làm xong công việc kiếm quyền kiếm tiền, giờ quay sang kiếm tí danh thơ”. Ông bảo: “Thơ Việt là lời hát ru à ơi của những hàm răng móm.” Ông mắng các nhà thơ: “Họ không có lý tưởng tự do, bình đẳng bác ái lại chui ra từ tem phiếu. Hơn 90% là vô thần! Tri thức công nông binh về tráng men văn hóa ở trạm cấp cứu Nguyễn Du, còn lại là các cụ tổ hưu đã hết sắc hương!” Ông không coi thơ Đường là hay, toàn là những bài tả cảnh tả tình, khá hơn thì nói được cái chí của người quân tử, và đặc biệt toàn những bài lẻ tẻ, ngắn tũn; không thể gọi là những binh đoàn chữ mà tác giả là thống tướng cầm cây gậy chỉ huy. Thơ với ông phảilà trường ca Illiad, và Odyssey của Homer, hay Thần khúc của Dante dài 100 khổ, gồm 14 226 câu thơ. Và ông đã đạt được những điều đó bằng tinh thần sục sôi,không mệt mỏi của mình. Nói có sách mách có chứng, Nguyễn Hoàng Đức nhễ nhại khuân ra xếp cả đống thơ, và chứng minh quyển nào cũng dạt dào tư tưởng: Kẻ hành hương từ đời đến thơ là trường ca mỹ học dài nhất thế giới. Trường ca Đợi... chuyến đò đã lỡ tất nhiên cũng là một bài thơ tình dài nhất thế giới.Điệu kèn cô đơn là tập thơ mang thông điệp tự do tư tưởng… dài nhất thế giới. Thế giới cũng chưa có Trường ca Thần học nào dài hơn Trường ca Thần học “Ngước lên cao” của ông.

Thơmới cũng chẳng là cái đinh trong mắt ông: “chỉ là một cảm xúc vừa phải” và ông gạt sang một bên. Còn đại thi hào Nguyễn Du thì ông cho là đạo văn của ThanhTâm Tài Nhân. “Không có “Đoạn trường tân thanh” thì có Truyện kiều không?” Ông hỏi tôi và ông truy bức tôi phải trả lời ngay: có hay không? và không được kèm theo chữ… nhưng. Vì theo ông câu trả lời rất dễ, cái cần thiết không chỉ trình độ mà còn phải có bản lĩnh to lớn nhất. Theo ông, nhà thơ là phải có nhiều bài, nhiều câu nhiều tập và phải biết viết Trường ca. Không biết viết trường ca coi như chỉ là nhà thơ hạng hai, cũng như nhà văn như Sương Nguyệt Minh chưa in tiểu thuyết thì trong mắt ông cũng chỉ đáng là nhà văn hạng hai hạng ba. Ông bảo: Một câu thơ hay, một bài thơ hay cũng chỉ là túp lều xinh xắn. Trường ca mới là lâu đài đá xanh uy nghi, hùng dũng.

NguyễnHoàng Đức chê văn xuôi Việt không có tư tưởng. Ông bảo: “Tắt đèn, Số đỏ, Chí Phèo, đều là những tác phẩm cóchuyện gay cấn.” Ông đọc Nguyễn HuyThiệp gần hết, nhưng Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu thì chưa. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh thì ông mới đọc mấy chục trang. Còn tôi, ông hạ mình “ban phước lành” đọc cho một truyện ngắn Dị Hương đã là quá may mắn; tất nhiên đó làviệc làm bất bình thường đối với ông. Tôi bảo: Ông là “nhà lý luận phê bình hàng đầu thế giới” không đọc tác phẩm mà dám cả gan định giá nền văn học hiện đạiViệt Nam. Ông nói tỉnh bơ, chân thành, không có ý cao ngạo: “Nhìn cánh én là biết cả mùa xuân”.

NguyễnHoàng Đức viết một chuyên luận về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, và theo ông: Sau khi in chuyên luận ấy thì Nguyễn Huy Thiệp xệp như con dán, ông coi như làm xong nhiệm vụ vinh quang thay thời gian là lấp đất chôn xong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Ông Thiệp không còn lý do gì tồn tại trong tư duy của “nhà lý luận văn học hàng đầu thế giới” mang tên Nguyễn Hoàng Đức. Theo Nguyễn Hoàng Đức, ông đã giải huyền thoại Nguyễn Huy Thiệp và ông cũng quả quyết: “Sau bài của tôi, bữa tiệc của Nguyễn Huy Thiệp chỉ còn là bữa ăn tươi”. Tôi bảo: “Truyện ngắn ôngThiệp vẫn in đều đều, còn cái tiểu luận của ông đòi xóa sổ hộ khẩu văn chương ông Thiệp, thì chẳng ai nhớ và chẳng ai in”. Nguyễn Hoàng Đức bảo: “Không phải bây giờ mà sau này lịch sử văn học phải ghi công tôi đã xóa sạch văn chương Nguyễn Huy Thiệp, Trần Đăng Khoa và cả nền văn học mậu dịch tem phiếu”.

Nguyễn Hoàng Đức luôn bảo người tranh luận đề xuất một nhà lý luận giỏi nhất Việt Nam để ông thách đấu. Đưa ra người nào ông cũng bác thẳng thừng, coi họ là lọ mọ, lìu tìu. Ông bảo: “Gọi là có máu mặt như Trần Mạnh Hảo và Đông La hùng hổ ở đâu, chứ gặp tôi, tôi lừ mắt một cái là cóm róm ngay. Tung hoành ngang dọc gì cũng chỉ từ vĩ tuyến 17 trở vào, chớ dại có vượt sông bến Hải ra bắc”. Lúc nào ông cũng ngong ngóng mong Trần Mạnh Hảo, Đông La chạm đến ông là ông vác trùyra xới. Ở lĩnh vực triết học, đến như Trần Đức Thảo còn dưới cơ ông thì không còn ai đáng để ông đối thoại. Trong “Ký ức lộn xộn về nhà Triết học số 1 châu Á”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết: “Một lần gặp Trần Mạnh Hảo, nhà phê bình mà theo Nguyễn Hoàng Đức là nhà phê bình “cả vú lấp miệng em” nhất Việt Nam, Nguyễn Hoàng Đức chỉ tay vào mặt Trần Mạnh Hảo, tuyên bố: “Nếu ông bước vào sới triết học thì tôichỉ đập một nhát là nát bét đầu ngay”. Tôi đem chuyện này hỏi Nguyễn Hoàng Đức, ông gật đầu xác nhận với tinh thần bừng bừng thách đấu.

NguyễnHoàng Đức chê Mạc Ngôn không xứng đáng đoạt Giải thưởng Nobel và ông viết hẳn một bài dù chưa hề đọc Mạc Ngôn. Theo ông, Mạc Ngôn được Giải thưởng là do Trung Quốc chạy giải. Cả quốc gia chạy giải thưởng Nobel cho Mạc Ngôn. Vì Trung Quốc chưa hề có triết học, chưa hề có tư tưởng, văn chương thiếu hai điều đó thì văn chương không lớn. Nhìn hạt cát biết sa mạc, mùa xuân văn học Trung Quốc đã đì đẹt như thế thì cánh én Mạc Ngôn cũng không bay qua Vạn lý Trường Thành đến với tưtưởng nhân văn nhân loại.

Trongtư duy của Nguyễn Hoàng Đức, thước đo giá trị văn chương nghệ thuật trước hết là phải dầy dặn, đồ sộ. Sách in là phải có gáy dầy, sách đóng ghim mỏng tang dù hay, ông cũng không thèm để mắt. Hấp dẫn dở hay thế nào tính sau, cứ phải dầy, cứ phải dài, cứ phải đồ sộ đã. Sau đó là tư tưởng, không có tư tưởng chỉ là thứ bèo bọt mua vui ở chốn hề chèo. Gia tài văn học của Nguyễn Hoàng Đức khá đồ sộ, chỉ tính cuốn tiểu thuyết Xứ lưu đầy hơn 2000 trang, tiểu thuyết Ngưỡng cửa làm người 4000 trang chưa in, và sẽ rất khó in; nhưng ông đã nhận phần tiểu thuyết dầy nhất, dài nhất Việt Nam.

Có thể nói: Sang nhất, dầy nhất, dài nhất…, cái gì cũng nhất… cũng là nét đặc sắc mang tên dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



3. Cô đơn con người, cô đơn thi sĩ.
Nguyễn Hoàng Đức mắc một căn bệnh kỳ lạ, những ngày động trời, từ trường trái đất mạnh lên là máu tươi cứ tứa ra lỗ chân lông. Khi ấy, ông đau đớn vô cùng, cả đêm thức trắng không ngủ. Triết học, thần học, trường ca dài nhất thế giới… rủ đi hết, đêm đêm ông lặng lẽ ngồi vo những nắm bông trắng thấm máu trên cơ thể mình thả vào thùng rác. Chỉ một ngày sau, thùng rác đã đầy có ngọn bông máu đỏ. Khoảng một tuần thì khỏi, để rồi mỗi khi động trời ông lại chịu khổ nạn một chu kỳ mới. Hết ứa máu, da ông bắt đầu đóng vảy… như vảy rồng, sáng ngủ dậy vảy rụng đầy ga trắng những miếng á sừng hình dạng kích thước khác nhau, vun lại được cả nắm. Ông không đi bệnh viện, ởnhà cũng không uống thuốc và chưa bao giờ ông có ý định tìm thầy thuốc hay đến bệnh viện chữa cho mình. Tôi ái ngại bảo:

“Ông phải đi viện điều trị. Để mãi thế này khổ lắm.”

Ông lắc đầu, quả quyết, khôngmảy may đắn đo:

“Cái khổ của tôi không phải là cái khổ bình thường, mà là cái khổ tuẫn nạn! Tôi đang chịu sự hành xác vì Chúa”.

Nguyễn Hoàng Đức đã là con chiên của Chúa hơn hai mươi năm nay. Không tuần nào ông bỏ sót đi lễ nhà thờ. Ở Trại sáng tác vănhọc Sầm Sơn, cuối chiều thứ 7 nào ông cũng gác bút, đi bộ đến nhà thờ quỳ lạy trước Chúa và nghe cha xứ giảng giáo lý. Lòng tin Chúa vững chắc đến mức ông tin Chúa sáng thế ra thế giới khổ đau này và nói điều gì, ông cũng bảo là “ý Chúa”. Trong tiềm thức kì bí mầu nhiệm, ông tin mình là một con chiên được Chúa yêu thương, chỉ có điều Chúa đang còn thử thách, thử thách cũng chính là hành trình được Chúa đưa ông đến đài vinh quang. Và ông tin, một ngày đẹp trời nào đó, ông sẽ khỏi bệnh, ông sẽ được Giải thưởng văn học Nobel. Chúa lòng lành nhìn thấu mọi sự cõi con chiên, Chúa sẽ không bỏ sót ông. Ngày đó không còn xa nữa, hoặc xa lắm cũng chỉ đến lúc cái thế hệ bạn văn, bạn đọc hôm nay tận vong,thay bằng một thứ bạn đọc, bạn văn khác thì mới hiểu nổi tư tưởng của ông. Vì vậy,ông ngồi viết những trang triết luận, những trang văn thơ trong những ngày máu tứa đầy mình một cách sục sôi, mà an lành.

Nguyễn Hoàng Đức luôn nói ông cô đơn nhất trong mọi nỗi, mọi người cô đơn. Ông bảo tôi: “Ông có cô đơn bên người thân, hay thất tình, hay cô đơn ngay chính trong ngôi nhà của mình thì vẫn chỉ là nỗi buồn nhỏ bé, lặt vặt, ông vẫn còn người để mà thấy, mà nhìn, mà nghe tiếng người”. Nguyễn Hoàng Đức cũng cô đơn trong thường nhật. Hơn 20 năm rồiông sống đơn lẻ một mình. Một mình một tượng Chúa. Một mình một nhà. Một mình một bếp. Một mình một cây đàn piano. Một mình… Cái gì cũng một… để cần mẫn viết nhữngtrước tác khổng lồ cho nhân loại. Chỉ riêng bát đũa là không một mình, bởi thỉnhthoảng ông đãi khách ở nhà. Thời bao cấp đói rách hàn vi, tết đến, điện đóm phập phù lúc có lúc không, ông chỉ đủ tiền mua một cây nến thắp đêm giao thừa, ônghiu hắt buồn cũng như ngọn nến liu riu thương ông mà cháy chậm lại chờ trời sáng. Năm sau, đời sống khá hơn, đêm giao thừa, Nguyễn Hoàng Đức thắp 7 ngọn nến cháy sáng nhảy nhót reo vui, ông cảm thấy mình đang ngồi trước bản đại giao hưởng ánh sáng, nhưng vẫn một mình, hào quang của giao hưởng không át nổi nỗi đơn độctrĩu nặng của người đàn ông bất lực trước hôn nhân.

Khác với người thường chúng sinh như tôi, ông còn một nỗi cô đơn rợp ngợp của kiếp người mang tên: Nỗi côđơn thời đại. Nghĩa thực dễ nhìn thấy là ông vào ra cả ngày đêm, cả tuần, cảnăm không có ai ở bên, đến ăn cũng một mình, ngủ cũng một mình, giao thừa cũng một mình. Võ võ. Đơn độc. Không đảng, đoàn, không hội, nhóm, không làm ở cơ quan nào, sống tự do và viết để sống. Nghĩa ảo là cả dân tộc này, cả thế giới này không ai hiểu được nỗi niềm, tình cảm, suy nghĩ, trí tuệ, tầm vóc khổng lồ của ông. Và đặc biệt, không ai hiểu hết giá trị triết học, thần học, văn thơ… của ông. Ông mang tâm trạng của người: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất. Không có chi bè bạn nối cùng ta”.

Ông luôn luôn cảm thấy mìnhkhông được công nhận, luôn luôn thiệt thòi, luôn luôn đứng ở hành lang. Ông viếtnhiều nhưng được in quá ít, như muối bỏ biển. Ông luôn cảm thấy văn tài bị vùi rập, bị dìm hàng; nhưng ông tin một ngày mai người đời không bỏ rơi ông. Chẳng lẽ ba bộ tiểu thuyết dầy gần 1 vạn trang, với những trường ca dài nhất thế giới phải chờ đến khi ông về với Chúa mới được loại người tối tăm chợt nhận ra và hân hoan đón nhận? Tôi nói với Nguyễn Hoàng Đức rằng: “Ông chót sinh ra bấtphùng thời. Chúng tôi tối tăm chưa nhận ra cái hay và vẻ đẹp kỳ vĩ tác phẩm của ông thì chính chúng tôi mới có khuyết điểm, mới thiệt thòi, chứ không phải làông”. Tuy nhiên, xuất bản tư nhân đang lấn át xuất bản nhà nước (mậu dịch quốc doanh như ông nói) vẫn không mặn mà với tác phẩm Nguyễn Hoàng Đức? Bạn đọc thích đọc các bài tranh luận trên internet của ông hơn là tìm đọc sách chuyên luận triết học, thần học và tác phẩm văn chương của ông. Song ông không lấy đó làm buồn. Số ít mới là số quý. Một nhà văn đọc tác phẩm của ông còn quý giá gấpnhiều lần hàng vạn người đọc ất ơ.

Nguyễn Hoàng Đức đọc “Sông Đông êm đềm” của nhà văn Solokhov.Rồi rút ra chân lý: “Thử so sánh, chúng ta thấy, mỗi người đàn ông xứ họ khi rakhỏi nhà đều nhảy lên lưng ngựa, khi hành động, ứng xử, hay tranh luận ngườita đều thể hiện sự trưởng thành, tính mã hiệp của mình”. Ông buồn vì xứ mình người ta ra đường lại nhảy lên lưngtrâu, trâu thì không thể so với ngựa về sự trưởng thành và mã hiệp. Vì thế, có người xa lánh ông, đến tranh luận người ta cũng lảng tránh, không tranh luận với ông, hoặc tranh luận thì “ăn gian”, nước đôi lập lờ, đuối lý thì đánh bài chuồn. Ông buồn. Ông đòi hỏi sự rõ ràng, minh bạch trong tranh luận, không ấm ớ hội tề. Ông đòi người đối thọai “Hãy chứng minh đi!” Cũng như ai đó nói cướp lời, ông bảo:“Tôi xin ông 1 phút”. Nói xong, ông bảo: “Giờ, đến lượt ông. Cho hẳn 10 phút.”

Ông luôn thách đố bất kỳ ai đặt câu hỏi khó nhất thế giới để ông trả lời. Nhưng, cho đến hiện nay, vẫn chưa cóngười đủ tầm tư tưởng và triết học đặt ra câu hỏi thử thách trí tuệ ông. Ông thèm có một sới văn chương cho ông so găng, ông khát một diễn đàn triết học để ông tranh luận. Có đêm mất ngủ, ông muốn dựng nhà triết học Trần Đức Thảo dậy để hỏi:“Từ điển các nhà triết học” đồ sộ dày 2715 trang tiếng Pháp, khổ lớn, giới thiệu thân thế, sự nghiệp các nhà triết học danh tiếng của nhân loại từ thời cổ đại đến nay. Có những tên tuổi lớn chỉ được dành cho dăm ba dòng, tệ hơn nữa là tôi - Nhà triết học số 1 châu Á Nguyễn Hoàng Đức thì không được chữ nào ở đó.Nhưng ông - Trần Đức Thảo lại được giới thiệu tới ba trang. Vì sao?” Ơ hay! Ông hỏi thì phải hỏi Bernard và Dorothee Rousset với Ban biên tập quyển sách vĩ đại ấy, chứ sao lại hỏi nhà Triết học Trần Đức Thảo đang dong chơi ở cõi Niết Bàn từnăm 1993!

Tranh luận với Nguyễn Hoàng Đức rất mệt. Đang ở vấn đề A thì ông lấy ví dụ ở mệnh đề B để chứng minh, đang ở mệnh đề B thì ông lấy dẫn chứng ở hệ quả C để giải thích. Ai không tinh ý sẽ bị ông dẫn dắt vào trận đồ bát quái, không có lối ra. Cuộc tranh luận nào, ông cũng là người nói câu cuối cùng. Hầu hết, người ta bỏ cuộc. Bỏ cuộc vì mệt quá, không lại với ông trường thanh đại sức. Bỏ cuộc vì không lý lẽ đấu lại với Đức. Bỏ vì Đức thừa thời gian chỉ để tranh luận, viết bài về một vấn đề triền miên hết thángnày qua năm khác. Bỏ vì… tức giận. Nhưng, bỏ thì bỏ vẫn cứ không ghét hay coi thường ông. Vắng ông là cuộc nhậu mất vui, lại nhớ, lại cầm điện thoại í ới mời ông ra làm… “món nhậu”. Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc bia rượu, món ăn trở thành thứ yếu, “món nhậu Nguyễn Hoàng Đức” mới là quan trọng và hấp dẫn.

Nguyễn Hoàng Đức có cái đàn piano cũ nhất Việt Nam, thảng hoặc ông lật nắp đàn lên ngắm, ông có cảm giácnhư đang nhìn trộm công chúa tắm. Đây là cảm hứng của các vĩ nhân cô đơn chơi đàn như một tâm sự, giống Khổng Minh trong Tam Quốc diễn nghĩa mỗi lần chơi đànthì mơ hồ cảm giác như có người nào đang lấp ló nghe trộm. Nguyễn Hoàng Đức yêucái đàn piano như yêu một người đẹp hoàn mỹ. Không ít lần, bần thần vuốt cácphím đen trắng, ông cảm giác được sự minh định phải trái, trắng đen rõ ràng, không mập mờ, giống như con đường chân lý. Ông gõ vào phím trắng là gõ vào tự nhiên, gõ vào đá, gỗ, sắt… Ông gõ vào phím đen bán âm là là gõ vào cái sự nhân tạo, chỉ do con người làm nên, tựa như gõ vào trí tuệ và trái tim để lay động sáng tạo ra văn chương nghệ thuật.

Nguyễn Hoàng Đức chơi đàn thường ngày, ngày nào cũng dành ít nhất là một tiếng đồng hồ ngồi dạo các ngón tay trên phím đàn piano. Cái đàn piano này ông mua từ thủơ hàn vi nghèo khó. Dạo ấy,ông đi phiên dịch cho dầu khí, được ít tiền, thay vì mua được cái nhà cấp 4 diện tích 30m2 thì ông mua đàn. Cũng là cách chia sẻ nỗi lòng khi không còn bầu bạnđược cùng ai thì gửi tâm sự vào âm nhạc. Chiếc đàn sẽ là người bạn thủ thỉ tâm tình cùng ông. Ông đạp cái xe đạp tòng tọc chở người nghệ nhân lên giây đàn giỏi nhất miền Bắc đi mua piano. Người chủ đàn trố mắt ngạc nhiên nhìn hai gã gầy gò, hốc hác và chiếc xe đạp bó lốp. Không ngã giá một câu, ông gọi hai bác cửu vạn mang đến cái võng và cây luồng, đằng trước buộc lên gác ba ga xe đạp, đằng sau buộc lên phốc tăng một cái xe đạp nữa. Dùng dằng vài tiếng đồng hồ rồi cũng võng cái đàn piano về đến nhà. Hai bác thợ cửu vạn nhận tiền công, còn được ôngchiêu đãi một bản nhạc “Phiên chợ Ba tư” trước khi ra về. Dọc đường bác nọ hỏi bác kia trả lời: “Mày nghe nhạc có thấy thích không?” “Không! Nhức đầu lắm. Cứnhư phèng la đám ma. Nể mà ngồi nghe cho hết bài”.

Nguyễn Hoàng Đức là kẻ dấn thân nghệ thuật. Dù nghèo, đi xe đạp ọc ạch bó lốp, nhưng cứ 6 tháng một lần ông mời nghệ nhân giỏi nhất miền Bắc đến tận nhà “lên giây đàn”. Những thanh đồng trong đàn piano được cân chỉnh chính xác, thanh âm chuẩn mới làm ông có cảm xúcngồi vào đàn. Dạo ấy, ông mới tập đàn, lúc bật bông, lúc như gõ phèng la. Thờibao cấp, mọi người đói, mặt xanh vêu vao, người ta đổ xô trên đường kiếm ăn,Nguyễn Hoàng Đức cũng kiếm ăn, nhưng bằng cách viết báo ngồi ở nhà. Nhọc mệt,thư giãn là lại mở nắp đàn piano tập. Hàng xóm lúc đầu tò mò, trẻ con sang xem,ông ân cần gần gũi tiếp khách, còn cho bọn trẻ nhấn ngón tay mấy cái, thanh âm phát ra, chúng cười ré lên sung sướng. Sau thì tiếng đàn cũng làm phiền họ. Đilàm suốt ngày, chiều tối muốn được thảnh thơi yên tĩnh thì lại bị tiếng đàn hàng xóm tra tấn. Bán rau dưa, cà muối, cá khô suốt ngày phơi mặt bị khói hondaxịt cay mắt… lại bị tiếng đàn của ông hành hạ. Nhiều người lặng lẽ bán nhà chuyển đi nơi khác. Gan dạ thi gan với tiếng đàn của ông nhất là một gã Tổng giám đốclắm tiền nhiều bạc không chịu chuyển nhà. Gã nghe nhạc qua loa thùng ầm ầm vẫnquen tai, nhưng cứ mỗi lần tiếng đàn piano vang lên bản nhạc “Đồng quê” dù lànhỏ nhẹ dìu dặt, gã vẫn cảm thấy như thanh âm xuyên qua tường, xoáy vào tai gã nhứcbuốt đến mức không chịu nổi. Gã sai con mở to loa thùng phóng nhạc rốc hiện đại sang phía nhà Nguyễn Hoàng Đức, chống trả lại cuộc xâm lăng của âm nhạc cổ điển.Mặc, ông không hề hay biết vẫn cứ đắm say mê mải với những tiếng nước chảy rócrách, tiếng vó ngựa dồn dập và những thanh âm cuồn cuộn như mây vần vũ, như bão giông cuồn cuộn… trong cô đơn, không chia sẻ cùng ai. Cuối cùng, gã Tổng giám đốc trọc phú cũng phải mua nhà chuyển đi nơi khác. Mới hay, sống chung đã rất khó,cùng hệ mỹ học thưởng thức cái đẹp lại càng khó hơn.

Có một chuyện thật 100%, khiông chưa mua đàn piano, cô bé nhà bên thường sang chơi thân mật chú cháu đến mức bá vai bá cổ, nhưng khi cứ chiều về, tiếng đàn vang lên trong khoảng không giancăn nhà chật hẹp lọt ra ngoài là cô bé xa lánh, dần dần không bén mảng đến chơi nhà ông nữa. Ông nghĩ rằng: Tiếng đàn đã làm ông sang trọng hẳn lên và cô bé cảm thấy thân phận mình nhỏ nhoi, mặc cảm nên khép mình, lùi xa rồi tránh hẳn. Tôi lại đồ rằng, ông chơi những bản nhạc tình yêu trữ tình lãng mạn nồng nàn như làlời tỏ tình, như là lời mời gọi khao khát khác giới… khiến cô gái mới lớn xaoxuyến e lệ lùi xa. Thêm một câu chuyện nữa 100%, gã thanh niên tóc dài lõa xõa bên nhà ông, tục tằn, chuyên nói tục với ông, nhưng từ khi cây đàn piano ngự trong nhà ông thì gã đằm tính lại, nói năng nhã nhặn và hết xả ra những lời thô lỗ.

Bây giờ, ông là tay pianist nghiệp dư cự phách nhất Việt Nam,chứ không phải gã gõ thùng tôn như thời mới tập đàn. Bây giờ, quây quần quanh nhà ông là những người hàng xóm tốt bụng, yêu nhạc, cứ vài ngày ông bị mệt hoặc đi chơi xa, vắng tiếng đàn là họ lại nhớ nhung, gọi vóng sang: “Chơi đàn đi, ông Đức ơi!”




4. Nghi lễ tình yêu.

Nhà triết học số 1 châu Ámang tên Nguyễn Hoàng Đức yêu không dễ. Năm nay, ông đã gần sáu mươi tuổi,nhưng các nàng tuổi 40 rất khó lọt qua mắt ông để mở cánh cửa tình yêu nặng nhưcùm gỗ lim của ông, dù có là hoa hậu quý bà vừa sống đơn thân hay cô gái quá lứa nhỡ thì chưa một lần làm vợ. Vậy thì các bóng hồng tươi xanh tuổi 18 trở xuống mới là cái đích để ông ngắm? Không! “Trẻ ranh” nũng nịu suốt ngày, ông bảo: ở cái tuổi tri thiên mệnh, ông không thể vừa viết những trang triết luận bay bổng về anh hùng mỹ học, vừa dỗ người tình ăn socola; vừa đọc trường ca thần học đầutiên của nhân loại “Ngước lên cao”, vừa thay tã lót cho con. Mẫu hình lý tưởng tình yêu của ông là những cô sinh viên tươi trẻ, nới rộng thêm là các mỹ nữ đơn thân trên dưới tuổi 30, nhưng giới hạn không vượt quá tuổi 35. Tuổi là vậy, nhưng người tình của ông còn phải hiểu biếtthần học, triết học, yêu thích nhạc giao hưởng, biết chơi đàn piano càng tốt vàphải hiểu được công việc lao động văn chương nhọc nhằn cô độc của ông, ít rakhi ông đọc bài thơ vừa mới sáng tác thì lắng tai nghe chăm chú như nuốt từng lời, chứ thờ ơ là nàng đã giết chết cảm xúc sáng tạo của chồng, có nghĩa là hai tâm hồn vênh váo không đồng điệu. Yêu đương cái nỗi gì!

Bạn bè khuyên Nguyễn Hoàng Đứcđừng dây vào cảnh “cha già con cọc”, yêu nhau là đủ, hoặc kết hôn nghĩa chồng vợ tao khang là đủ, họ khuyên ông đừng đẻ con. Đẻ con, sẽ làm nhà triết học lấn bấn vào chuyện sữa bột tã lót bú mớm thì thơ không cất cánh, và tốn thời gian vàonhững việc tầm thường, được đứa con xinh xắn mà mất một cuốn thần học để đời, hay cuốn luận mỹ học tầm nhân loại. Ngược lại, Nguyễn Hoàng Đức coi ái tình phải cay nồng, bỏng gắt như phở có hạt tiêu và ớt, phải bê bết ngàu sủi tinh dịch và nước bọt hôn nhau. Tình yêu hôn nhân phải ngổn ngang, bề bộn tã lót, nhôm nhoam cứt đái và tiếng cười tiếng khóc trẻ con mới đã. Ông là triết học đại tài tầm châu Á, ông rất muốn yêu lấy vợ sinh con với ý nghĩa truyền giống tốt, giốngtinh hoa, giống thiên tài. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, ông vẫn chưa tìm được người phụ nữ của mình để gieo giống. Hỡi những người phụ nữ xinh đẹp vĩ đại! Sao lại bỏ dở một cơ hội vàng ngàn năm có một? Hãy hành động đi! Hãy đến với ông hoàng của văn học Việt, hãy đến với “nhà triết học số 1 châu Á” đi, kẻo các nàng sẽ rơi vào không gian u uất ân hận và tiếc nuối suốt đời.

Một lần tôi hỏi ông:

“Ông già rồi. Sao cứ chịu cảnh ế ẩm đời trai hiu hắt thế?”

Ông ngẫm nghĩ một lát, và thở dài:

“Tôi đã là ông hoàng của vănhọc Việt Nam, hoặc giả chỉ là cái bóng của ông hoàng thì cũng có nghĩa là tôi sẽcó cả ngàn cung tần mỹ nữ. Nhưng, tôi không muốn ái tình nhôm nhoam với hết người này đến người khác. Tôi chỉ chưa tìm được hoàng hậu của lòng tôi. Bởi vì Chúa đang thử thách tôi.”

Nguyễn Hoàng Đức là con ngườidư trí tuệ, thừa tài hoa, nhưng thiếu đào hoa. Ông đẹp trai, mũi cao to và gương mặt đẹp như nhà triết học Hy lạp cổ đại chúng ta thường thấy hiện diện đâu đó ở tranh tượng trong bảo tàng nghệ thuật. Ông cũng thuộc hàng nam tính, trí tuệ tài năng. Cái gì ông cũng hơn đám đàn ông bạn bè. Nhưng, ông không một cánh đào hoa. Các bạn ông đào hoa như rộn rã như máy gặt đập liên hợp, tình yêu cuồn cuộn như thác lũ. Còn ông như con cá trên cánh đồng khô cạn hớp hớp từng giọtsương tình yêu nhỏ xuống từ mái gianh nghèo. Nhưng ông vẫn cam chịu, không một mảnh tình vắt vai. Ông tin một niềm tin vững chắc và hi vọng rằng: Chúa đang sỉ nhục ái tình của ông, và khi Chúa sỉ nhục đến tận cùng con đường đào hoa của ông thì Ngài sẽ mở lòng, giải phóng cho ông khỏi cuộc hành xác chịu nạn thiếu hụt ái tình. Lúc đó, người đẹp bất ngờ xuất hiện như cổ tích, cánh cửa ái tình mở toang ra. Ông sẽ rực rỡ trong ánh hào quang hạnh phúc với người tình và hôn nhân chóng vánh, ông sẽ gieo giống vào hoàng hậu của lòng ông. Nhân loại sẽ đón chờ cuộc tình vĩ đại cũng y như đón chờ hạt giống triết học ông gieo xuống thế gian trở thành đứa con bất tử như sự bất tử của ông. Đó là niềm tin thành thật.

Dù vậy, tôi vẫn nghĩ: Người con gái nào chấp nhận yêu, lấy ông làm chồng sẽ là người phụ nữ vĩ đại nhất hành tinh, nàng hi sinh không phải vì hoàng đế văn chương khổng lồ Nguyễn Hoàng Đức mà chính là nàng hy sinh đời nàng cho một kẻ mộng tưởng đi giữa đời thường– một nhân vật văn học tương lai của nhân loại.

Nguyễn Hoàng Đức quan niệm: Từ tình yêu đến hôn nhân là phải có lộ trình, và vì tình yêu thiêng liêng chứkhông trần tục như tình dục, nên phải có nghi lễ. Cái nghi lễ của ông là câu chuyện thế này xin hầu bạn đọc:

Bạn bè thấy ông đơn thân, tìm hoài vẫn không đứng đầu đứng số, thương lắm vun quén nhiều nhưng chẳng hiểu sao mười cô gái đến thì chục cô đi. Bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ, giáo viên, nhà thơ, nội trợ… đủ cả, nhưng Nguyễn Hoàng Đức vẫn thân đơn bóng chiếc. Tôi cũng nhiệt tình giới thiệu một cô bạn vong niên 28 tuổi xanh là kế toán một công ty, rất say phim truyện tình yêu truyền hình dài tập của Hàn Quốc, đã bắt đầu vào thời đằm thắm. Tôi bảo ông: “Giới thiệu xong là tôi tìm kế “tẩu vi thượng sách” nhường lại không gian huyền ảo cho hai người tự do tìm hiểu. Lần này con cá to. Chớ để sểnh.”Ông Đức hân hoan, sướng lắm! Ông có mặt ở nhân gian nhìn ánh mặt trời trước nàng 23 năm. Có hề chi, nàng đã nghe danh chàng từ lâu, và lòng rất mến mộ.

Tôi đưa nàng đến nhà ông.

Quá bất ngờ! Chúng tôi choáng ngợp bởi không gian huyền ảo lung linh của hàng chục ngọn nến cháy sáng giữaban ngày. Tượng Đức Chúa Jêsus Christ đóng đinh trên cây thánh giá, ảnh Mẹ Maria,các loại ảnh và lịch Thiên chúa giáo, các tượng bán thân Nguyễn Hoàng Đức kích cỡ bằng người thực, và sách triết học, thần học trong tủ với báo chí chất ngổn ngang chung quanh. Tất nhiên còn có cả hoa tươi và cây đàn piano cổ kính phủ chiếc khăn màu hổ phách in hoa văn cách điệu có nguồn gốc từ xứ xở Ba Tư tạo nên không gian dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



Họ chào nhau khá thoải mái, cởi mở và xem ra ông cũng rất thích nàng. Tôi hào hứng:

“Xin giới thiệu với em! Anh Nguyễn Hoàng Đức đây là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà truyện ngắn, nhà biên kịch, nhà báo, “nhà lý luận phê bình văn nghệ hàng đầu thế giới…”

Gương mặt ông sáng bừng, nhưng dường như tôi chưa làm hết phận sự, ông hân hoan, trân trọng tự giới thiệu tiếp:

“Anh còn là nhà triết học, nhà thần học, nhà mỹ học…”

“Đúng đúng! Em thấy không, Nguyễn Hoàng Đức của chúng ta có duyên nhé, lại rất nam tính, đến anh là đàn ông mà còn mê…”.

Ông Đức cười tủm tỉm rất đángyêu bảo:

“Em đừng nghe Sương Nguyệt Minh. Hắn “dìm hàng” đấy.”

Đột nhiên ông tăng âm lượng giọng nói và hùng biện:

“Thước đo đàn ông là cái đầu triết học thông thái, em ạ. Chứ ông Minh khen anh nam tính là cổ vũ cho khả năng giỏi chuyện giường chiếu…, tình dục. Anh… không chấp”.

Đôi mắt cô bạn gái hơi bối rối,e thẹn. Tôi đưa mắt như muốn bảo Đức: “Ông dịu dàng, âu yếm một chút cho tôi nhờ.Hôm nay, việc trọng đại là… tình yêu, chứ không phải là triết học, thần học”.Nhưng, Đức không để ý đến cái nhìn của tôi, ông đứng phắt dậy, hùng dũng đi đến tủ sách lôi cuốn “Hiện tượng học tinh thần”của Hegel in bằng tiếng Pháp dầy gần 2000 trang và cuốn “Ý hướng tính văn chương” của ông, dầy như viên gạch vồ đặt ra bàn,nói với cô gái mới quen:

“Em thấy không. Đàn ông là phải trí tuệ, khen anh nam tính có họa bằng chê ngầm anh cơ bắp. Con người thằng đànông hơn nhau ở chỗ đẳng cấp trí tuệ, em ạ”.

Tôi nói:

“Ông ơi! Pascal bảo: Con ngườichỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên.”

Ông Đức bảo:

“Nhà triết học Pascal cũngnói: Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ. Ông Pascal còntriết luận: Nếu cái mũi của Cleopatra dài thêm một chút thì cục diện thế giới sẽthay đổi…”

Gay rồi. Tôi đã vô tình thò bàn tay vào suối nguồn triết học của ông. Nguyễn Hoàng Đức giải thích ẩn dụ“cái mũi của Cleopatra”, ông phân tích tính từ “dài”, ông chứng minh “cục diện thế giới sẽ thay đổi”…Chết mất thôi! Hết triết học Pascal sang Hegel đếnNietzsche rồi quay về “Ý hướng tính vănchương”…

Tôi ngồi bên thò tay giật giật vạt áo ý nhắc nhở ông quay về chủ để tiếp bạn gái. Ông gạt tay tôi bảo với côgái:

“Anh Sương Nguyệt Minh là chúa… “dìm hàng” em ạ.”

Rồi Đức quay phắt lại bảo tôi:

“Bây giờ đến lượt ông nói đi.Cho ông nói về triết học… 30 phút đấy. Không nói được ấy gì. Chết chưa!”

“Ừ. Chết. Tôi đang chết đứ đừđây. Hôm nay là ngày của ông nói chứ không phải tôi.”

Tôi ghé tai Đức thì thào rằngtrọng tâm buổi gặp gỡ hôm nay là cô bạn gái, còn triết văn để hôm khác. Mặt ôngthộn ra, cười gượng gạo rất đang yêu. Tôi kiếm cớ chuồn và hẹn sẽ quay lạitrong thời gian ngắn nhất.

Đúng là Pascal rất có lý khi nhận ra "Con tim có những lý lẽ mà nhiều khi lý trí không thể hiểu nổi". Khoảng gần một giờ sau, tôi chưa kịp quay trở lại nhà Nguyễn Hoàng Đức thì cô bạn gái điện thoại:

“Anh Minh à. Em về rồi.”

Tôi sửng sốt:

“Chết thật! Sao về sớm thếem? Anh nói trước rồi mà. Cái việc tỏ tình thì Đức tồ lắm”.

“Em hết chịu nổi rồi, anhơi!”

“Là sao?”

“Ảnh ấy bảo: Hôm nay, em là khách quý đặc biệt, anh phải đón bằng nghi lễ đặc biệt. Em bảo: Anh đã thắp 28 ngọn nến giữa ban ngày làm nghi lễ đón em rồi. Anh ấy bảo: Đó chỉ mà nghi lễ giáo đầu. Bây giờ mới là nghi lễ chính thức. Nói rồi, anh ấy bước đến cây đàn piano, bảo: Anh sẽ dâng hiến em bản nhạc Sotana The moonlight của Beethoven…”

Tôi cướp lời người đẹp:

“Có phải trước khi đàn, ông ấy phân tích chương một giai điệu chậm rãi, tha thiết như lời than vãn, đánh thức hồi ức tình cảm dịu dàng êm như ánh trăng tan nhẹ trên mặt hồ mênh mông lặng sóng không?”

“Vâng!”

“Rồi ông ấy nói về chương hai ánh trăng chảy mải miết theo dòng sông dài bất tận, báo hiệu một điều khủng khiếp dữ dội sắp xảy ra không?”

“Vâng! Rồi anh ấy phân tích chương cuối ánh trăng tan vỡ trên mặt sóng giông tố, khơi gợi cảm xúc mãnhliệt, dữ dội như con người đang quay cuồng, vật lộn với bão giông đại hồng thủy, với nỗi buồn đau nhưng không tuyệt vọng…”

“Ôi trơ…ời!” - Tôi hét vào ống nghe.

“Đàn xong bản “Sonata Ánh trăng” thì 12h trưa, anh ấy không dừng lại mà dâng hiến cho em tiếp bản nhạc giao hưởng “Định mệnh”.

“Bảngiao hưởng ấy bốn chương đấy. Chơi hết thì… chết đói a?”

“Vâng!Vì thế mà em phải viết mảnh giấy chào rồi kẹp vào quyển triết học “Hiện tượng học tinh thần” của nhà triết học Hegel gì đó, rồi ra về khi anh ấy còn…đang mê mải đàn”.

“Ôigiời ơi là giời!”

Tôichỉ còn biết kêu lên thảng thốt, đầy bất lực vừa giận vừa thương ông. Quên cả ngườiđẹp đang đói bụng ở bên, qua phím đàn piano, ông thả hồn vào “Sotana Ánh trăng”để tỏ tình, nhưng ông mải miết đắm đuối theo dòng chảy âm thanh từ “Ánh trăng”sang “Định mệnh”. Định mệnh thì yêu đương cái nỗi gì!



5. Triết lý mang tên Nguyễn Hoàng Đức.

Nguyễn Hoàng Đức là một con người vừa đơn giản vừa phức tạp.

Sau cái dạo gặp nhau đầu tiênở Quảng bá, bẵng đi một tháng, Nguyễn Hòang Đức gọi điện thoại cho tôi mời đếnnhà riêng ăn tiệc. Hóa ra, “gần nhà xa ngõ”, mười năm chúng tôi ở gần nhau chưađầy 200m mà chưa một lần chạm mặt nhau.

Tôi rụt rè gõ cửa.

Rụt rè là bởi tôi đã nghe ngườita kể về những về những cuộc đón khách kỳ lạ của ông: cuộc linh thiêng, cuộc lộnglẫy, cuộc thần bí và cả những cuộc cười ra nước mắt. Ông gọi với ra, bảo tôi chờ tí. Thì ra, ông đang ghim cà vạt và nghiêng ngó trước gương. Ông mở cửa. Choántrước mặt tôi là một người đàn ông cao lớn lịch thiệp, đóng comple màu be ra dáng chính khách, nhưng cái đầu là của nhà triết học với vầng trán rộng, mũi to và cao, mái tóc hơi dài chải bồng về phía sau. Tôi ngỡ ngàng, nhìn thân mình tôi cao nghều với quần lửng, đi dép lê, mặc áo thun, tay cầm chai rượu quốc lủi Phát Diệm nút lá chuối.

“Ôi! Trịnh trọng quá. Ông vừa đi đâu về hả?” - Tôi ngơ ngác hỏi.

“Không! Tôi vừa sắp tiệc đãi ông”.

“Vẽ. Có hai người mà…”

“Ừ, nhưng ông là khách quý, lần đầu đến nhà nên tôi đãi yến tiệc triều đình...sang nhất.”

Sang nhất! Ôi. Lần đầu trong đời được làm vua.

Ăn cũng phải sang nhất. Ông coi món ăn Việt là lìu tìu, không có món nào ra hồn, không có quốc hồn quốc túy về ăn uống. Ở Nga có rượu Vốt ca, ở Ba Lan có rượu cỏ, ở Pháp có vang booc đô, ở Nhật có sakê…; ở Việt nam thì… quốc lủi, mà rượu làng Vân, rượu Phát Diệm, rượu Bầu Đá, rượu Sán Lùng… cứ lọan lên chẳng có loại nào đại diện cho quốc gia. Còn ăn uống thì rau luộc, thịt luộc, luộc cả con lợn…, chỉ có luộc với chấm. Chả lẽ lại đem mắm tôm,hay dưa khú làm quốc yến?

Tương tự, đàn bầu ngũ cungcũng không thể thi thố với đàn piano của thiên hạ. Ông rất dị ứng với những gìtranh tre nứa lá như sáo, nhị, hồ. Với ông, tất cả phải kì vĩ, hoành tráng,mênh mông, lộng lẫy và… đặc biệt. Đặc biệt như cây đàn ghi ta phải là loại gỗthông mọc trên triền đá chịu khô hạn, bị gió bão, mưa tuyết đánh tơi bời…thìlàm bầu đàn, cần đàn mới tốt, không bị cong vênh, âm thanh chuẩn bốn mùa xuân hạthu đông.

Triết lý “Thành La Mã khôngxây trong một đêm” luôn chỉ đạo tư duy và hành động Nguyễn Hòang Đức. Vănchương thì trước hết phải lấy số lượng làm đầu. Một câu thơ hay, một bài thơ hay… không tính là nhà thơ. Một tập thơ hay mà không có gáy đóng ghim ông cũngcho là mỏng manh yếu ớt lìu tìu. Đã là nhà thơ phải viết trường ca, đã là nhà văn phải có tiểu thuyết, không phải 1 cuốn mà nhiều cuốn, phải lấy thước mét đểđo. Văn thơ phải có tư tưởng chứ kể và tả chỉ là mua vui giải trí, mỹ học thấpbé lọ mọ tăm tối như túp lều tranh tre nứa lá… không chấp. Ông hiên ngang đi giữađường thơ vác cây thập giá triết học, đeo túi cỏ thần học đến lâu đài văn chương kì vĩ bằng đá xanh, bỏ qua mọi ngôi nhà tranh, nhà gỗ chỉ một trận hỏahoạn là thành tro.

Trongcon mắt Nguyễn Hoàng Đức, người Phương Tây nhất là dân du mục đi khỏi nhà là nhảylên mình ngựa nên tính tình phóng khoáng, mã hiệp. Bây giờ, ông đi ra khỏi nhà, không nhẩy lên mình ngựa mà nhẩy lên…ô tô. Ông Đức mua ô tô và đãi bạn (còn gọilà khao) bằng cách mời tôi ngồi lên để ông chở đi 1 vòng quanh nội thành Hà Nội.Ông cảm thấy tự tin vô cùng, bảo: “Từ nay tôi hết lọ mọ rồi, ông ạ”. Tôi phấnchấn chia vui: “Tôi không nghĩ thế, mà đã tính đến cái chuyện ông lấy được vợ từcái xe ô tô này”. Triết lý của ông là: từ cái xe đạp lên xe máy, dù là xedyland hơn 200 triệu đồng thì cũng chỉ là xe hai bánh, chẳng khác gì nhau.Nhưng, xe ô tô, dù là xe cỏ mua rẻ 14 triệu đồng ngang với đồng nát thì vẫn làxe ô tô, nó sang hơn vì nó có… 4 bánh, và bỏ tay lái nó vẫn đứng, chứ xe máy,xe đạp bỏ tay ra là… đổ kềnh.

Nguyễn Hoàng Đức dù là một “triết gia vĩ đại”, một “nhà văn khổng lồ”, một “anh hùng mỹhọc” vác thập giá đi chinh phục đám văn nhân lìu tìu chúng tôi thì ông vẫn phải sống như một con người bình thường. Có nghĩa là: ông phải ăn uống, phải mặc, phảiđi lại, phải mưu sinh. Hàng tuần, ông viết 1 bài báo cho báo Phụ nữ… đủ sốngcho cả tuần, nhưng thiếu tiền đổ xăng, ông lại phải viết 1 bài nữa cho báokhác. Cứ ngừng viết là ông ngừng có tiền tiêu vì ông không có lương. Ông là vĩ nhân, là người theo Thiên Chúa giáo, trước lúc ăn phải làm lễ trịnh trọng. Khicao sang thật cao sang, khi xuề xòa thật xuề xòa đáng yêu. Ông ăn salat Nga, thị thun khói, thịt cừu chiên, thịt ngỗng trời quay, uống rượu mạnh Chivas hũ sàng21 năm…, nhưng ông cũng xài được đồ ăn Việt thứ gì ăn cũng thấy ngon: Lòng lợn mắm tôm. Thịt chó. Chân gà nướng. Đậu phụ luộc…Khi ăn món ăn Tây, ông trịnh trọngkính cẩn làm nghi lễ thưởng thức văn hóa ẩm thực. Khi ăn đồ ăn Việt ông chỉ coilà… nạp năng lượng, đánh no bụng để đủ sức hành trình sáng tạo.

Nhàthơ Đỗ Minh Tuấn gọi Nguyễn Hoàng Đức là: “Anh hề triết học, chàng Đông-ki-sốt văn chương” có lẽ khôngsai. Tôi đã đọc đi đọc lại những dòng chữ ông Tuấn viết: “Đức còn khoe khi Nguyễn Huy Thiệp mời Đức đến nhà dự khánh thành bứctượng Phật của Hồng Hưng, Đức được ngồi mâm giữa cùng các bậc cao nhân như Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến và Hồng Hưng. Đức tự hào: “Thiệp là chủ nhàmà cũng không ngồi mâm giữa. Tôi còn trẻ măng, chưa là gì cả mà đã được ngồingang ngửa với Hoàng Ngọc Hiến…”. Đó là cái triết lý mang tên Nguyễn HoàngĐức: “Tôi phải là người như thế nào thì mớiđược… như thế”. Cũng như ông khoe với tôi: “Ông Minh đã được Hữu Thỉnh gọilà thầy chưa?” “Chưa! Tôi chẳng là gì để ông Thỉnh gọi là thầy”. Ông Đức lôitập thơ Hữu Thỉnh có lời đề tặng: “TròHữu Thỉnh thân tặng thầy Nguyễn Hoàng Đức”, rồi ông bảo: “Tôi phải là người như thế nào thì Hữu Thỉnhmới gọi là thầy chứ.” Vâng! Thưa bạn đọc! Chả là có dạo Nguyễn Hoàng Đứcmột tuần hai buổi đến nhà riêng dạy nhà thơ Hữu Thỉnh học Anh ngữ.

Nhàthơ Nguyễn Quang Thiều có lấy cho ông Đức một vé mời đi dự Ngày thơ quốc tế ởIndonexia. Ông về tặng tôi một cái bấm móng tay và khoe:

“Cảhội trường như chết lặng nghe tôi đọc Trường ca thần học “Ngước lên cao” bằngtiếng Anh, ông ạ”.

“Còngì nữa?” – Tôi hỏi và mừng cho ông.

“Ởsảnh đường có đặt chiếc đàn piano. Không có nhà thơ nào dám mó vào, ông ạ.”

“Gìnữa?”

“Cảsảnh đường như chết lặng nghe tôi đàn piano, ông ạ”

“Còngì nữa?”

“Tôi phải là người như thế nào thì mới được như thế chứ.”

Nguyễn Hoàng Đức có một khát vọng cháy bỏng là được đọc thơ ở chốn đông người như Maiacopxkiđọc Trường ca Lê nin trên Quảng trường Đỏ nước Nga. Ông vẫn chờ đợi một ngàynào đó, và ông hi vọng đứng trên bục vinh quang ở Quảng trường Ba Đình, hay Sânvận động Mỹ Đình đọc Trường ca mỹ học “Kẻ hành hương từ đời đến thơ”. Chờ đếnngày Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang đứng ở quảng trường lâu quá, bạn bè thương,các ông họa sĩ Lê Thiết Cương, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bèn tổ chức cho ôngthực hiện khát vọng đáng yêu của mình. Rượu vang Chi lê và rượu mạnh Chivastrong không gian mỹ học đặc sắc tại galery họa sỹ Lê Thiết Cương, ông đắm đuối,da diết thăng đồng cùng trường ca Thần học “Ngước lên cao”. Hôm sau, ông hỏitôi cảm nhận về buổi đọc thơ, tôi bảo: “Mọi người rất vui. Ông Thiều, ông Cươngđã dành cho ông một món quà quý giá. Ông phải là người như thế nào thì mới đượcnhư thế chứ!” Nguyễn Hoàng Đức cười, nụ cười thỏa mãn chảy dài trên mặt.

Nhà văn Nguyễn Đình Chính đọc xong truyện ngắn “Công lý và trái tim di trú” củaNguyễn Hoàng Đức, ngạo nghễ nói trước mặt cả đám nhà văn ở Trại viết: “Văn chương các ông quanh quẩn chỉ là cái cổng làng, con trâu với bến nước, bụi tre.Còn lâu mới có hòn đảo cô đơn và mặt trời công lý như thằng Nguyễn Hoàng Đứcnhé.” Lạ thay! Chẳng có ai tự ái. Chỉ có người thì lặng im, và kẻ cười ruồi.

Nhà thơ Lương Tử Đức nói về ông: “Nguyễn Hoàng Đức đã dấn thân và cô đơn trên con đường lý trí để thực hiện sứ mệnh của bản thân mình chochân lý sáng tạo văn học nghệ thuật.”

Một lần tôi bảo Nguyễn Hoàng Đức:

“Ông ạ. Ông rất nhiều “nhà”: Nhà triết học, nhà thần học, nhà văn…Ai phong cho ông hay tự ông nhận? Ai gọi ông là “Nhà lý luận phê bình văn họchàng đầu thế giới?”

“Chính ông! Ông đã phong cho tôi. Còn Nguyễn Quang Thiều viết trênVietimes khẳng định tôi là “Nhà triết học số 1 châu Á”.

“Tôi phong ông là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”hay không thì tôi không còn nhớ. Nhưng, tôi nhớ như in, bài viết “Nguyễn HoàngĐức – Nhà triết học số 1 Châu Á?” có dấu hỏi (?) ở sau cùng tít bài. Như vậy,người ta còn nghi ngờ, đặt dấu hỏi là ông có thực như vinh danh không, chứ đãkhẳng định đâu.”

ÔngĐức bảo:

“Ngay cái việc manh nha đặt dấu hỏi về tôi thì tôi cũng phải như thế nào, người tamới đặt dấu hỏi chứ. Ông có biết nhà văn Cao Hạnh - Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt không?”

“Có.Tôi chơi thân với anh ấy.”

“So với các Tổng biên tập các tạp chí Văn nghệ các tỉnh thành, ông Cao Hạnh thếnào?”

“Ôi. Ông lại bắt tôi định giá ư? Ừ thì ông Cao Hạnh cũng là một tay Tổng biên tậpcứng cựa”

“Đấy! Ông Cao Hạnh cũng phong tôi là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”nhé. Tôi phải là người như thế nào thì một ông Tổng biên tập mà ông khen, mới phong “thánh” cho tôi chứ. Cũng như tôi phải là người như thế nào thì cỡ NguyễnĐình Chính, Nguyễn Quang Thiều, Lê Thiết Cương. Đỗ Minh Tuấn, Lương Tử Đức, vàông với nhiều người khác khen và viết bài… khen chứ”.

Nguyễn Hoàng Đức nói có lý quá. Dường như, ông là kẻ nhà văn duy nhất ở Việt Nam luôn luôn tự định giá, tự sắp đặt vị trí của mình ở làng văn, vị trí của mình trongxã hội. Kể ra thì cũng là một đức tính tự tin đáng yêu, dám sống và chịu tráchnhiệm với những gì mình sống, mình khẳng định, mình phát ngôn.

Nguyễn Hoàng Đức là một kẻ liên tài. Viết xong chuyên luận “Hành trình tâm linh nhânloại”, ông tự phong thánh cho mình là “Nhà Thần học”. Tuy vậy, ông không hề đố kị trong đời thường và văn chương. Ông hết lời ngợi ca Ngô Bảo Châu được Giảithưởng Fields về Toán học. Ông viết: “Với thành công được quốc tế công nhận, GS. Châu hoàn toàn xứng đáng là một bậc thầy củadân tộc. Vì vậy khi muốn tham vấn ông, hơn thế là một chút muốn đối thoại, thấphơn là chia sẻ hay trao đổi, chúng ta nên tự biết mình là đang kiến diện một bậcthầy. Và buộc phải tôn trọng ông như một bậc thầy. Ông là một đẳng cấp cao,không thể như cành lá bên đường ta cứ muốn hái là với. Có một phương ngôn rằng“Văn hóa cao nhất là biết chấp nhận người khác”. Đúng vậy,chấp nhận người khác là biết vượt qua đố kỵ, đặc biệt là đố kỵ hiền tài. Vì thếkhi ta biết đặt người khác và chính bản thân mình vào đúng chỗ đó là một khảnăng văn hóa.”

Thêm một triết lý mang tên NguyễnHoàng Đức, ai là thầy ông đồng nghĩa với là thầy của cả dân tộc. Ông đang coigiáo sư Ngô Bảo Châu là thầy, dù giáo sư chưa một lần dạy ông nửa chữ. NguyễnHoàng Đức cũng có những khuyết điểm, sai lầm bởi những điều cả tin, tự tin, huyễntưởng; nhưng tôi tin rằng: ngay cả những sai lầm của ông cũng là sai lầm tự tinchân thành.

Có phải Nguyễn Hoàng Đức là nhà triết học số một Châu Á? Có phải ông là nhà thần học, nhà mỹ học, nhà tiểuthuyết, nhà truyện ngắn, nhà thơ, nhà viết kịch tầm cỡ nhân loại? Có phải đặc biệt ông là “Nhà Lý luận Phê bình hàng đầu thế giới” không có đối thủ tranh luận?Người ta tự vấn như thế và mỗi người đi tìm lời đáp cho riêng mình; cũng có lúcngười này hỏi và người khác trả lời, đôi khi có kẻ cười khẩy và lảng tránh.

Mặc, Nguyễn Hoàng Đức vẫn đang vác cái thánh giá nguyên lý đi chinh phục nhân gian và mong chờ đến ngàyChúa lòng lành không bỏ rơi ông. Ông có niềm tin của ông, một niềm tin thánh thiện, ngây thơ chân thành tiếp thêm cho ông sức mạnh sục sôi viết trong nhữngtuần máu ứa đầy mình mẩy, nhưng chính cái niềm tin kỳ vĩ ấy cũng dắt ông vào cõi mộng du, và đôi khi mù màu bởi những đám mây ngũ sắc che mất đôi mắt vừamang cái nhìn soi chiếu của vĩ nhân vừa mang ánh sáng của người trần mắt thịt.Nguyễn Hoàng Đức sẽ cứ mãi mãi cô đơn và sáng tạo trong cõi mộng du của mình,và người đời vẫn cứ vừa thương, vừa giận, vừa cười ông, để rồi một ngày không buồnkhông vui, đột ngột nhận ra: Ôi! Vắng dị nhân Nguyễn Hoàng Đức thì văn chươngvà cuộc sống… mới nhạt nhẽo làm sao!

Vĩ thanh:

Tôi viết bài này xong, in ra giấy đưa tận tay Nguyễn Hoàng Đức. Ông đọc chăm chú và cầm bút sửa cả lỗi morat. Tôi im lặng trong tâm trạng chờ đón cơn nóng nẩy tức giận, trách móc hoặc lạnh lùng quẳng vào sọt rác, nhưng ông mừng ra mặt bảo:

“Chết chưa! Từ trước đến nay, chưa bao giờ ông chịu công nhận tôi. Bài này coi như lá cờ trắng báo hiệu sự thất trận, ông là người cuối cùng đầu hàng tôi và đầu hàng trong oanh liệt. Chân lý bao giờ cũng chiến thắng nhá”.

Tôi dở cười dở mếu, chỉ còn biết nói:

“Ừ, chân lý bao giờ cũng chiến thắng”.

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2016

Hổ báo’ !




Tác giả: Hoàng Linh




Ngày càng có nhiều hành vi phi chuẩn mực trên đường phố

“Hổ báo” là từ mà dân mạng ưa dùng, xuất hiện thường xuyên trên các diễn đàn để chỉ những hành động bạo lực, khác thường… của “sửu nhi”, những kẻ trẻ người non dạ hung hăng. Nhưng mới đây, từ “hổ báo” đã được dùng để chỉ hành vi phi chuẩn mực của một số cán bộ trong quan hệ xã hội.



Hàng loạt vụ đánh người xảy ra gần đây như thanh tra giao thông đánh tiếp viên hàng không, cán bộ kiểm lâm đánh nhân viên trạm thu phí, hay mới nhất là vụ một cán bộ của Sở Ngoại vụ TP. Hà Nội đánh một tiến sĩ 76 tuổi, đã đặt ra câu hỏi: Sao một số cán bộ lại dễ dàng có hành vi “hổ báo” như vậy?



Cho dù cơ quan có trách nhiệm đã ban hành các quyết định kỷ luật đối với những công chức trên nhưng hành vi hổ báo của một số vẫn tiếp tục xảy ra. Chị Nguyễn Thị Minh Th. (SN 1993, quê ở tỉnh Ninh Bình) tới Công an phường Quang Trung (quận Đống Đa, Hà Nội) trình báo sự việc: tối 13.11, chị đang đi xe đạp điện cùng bạn ở đường Tây Sơn thì có xe ô tô xin vượt nhưng vì đường đông nên chị Th. không thể nhường đường ngay. Sau đó, người đàn ông lái xe ô tô vượt lên ép xe chị Th. dừng lại rồi bước xuống tát chị Th. Chị Th. không tin ở mắt mình khi mà một người đàn ông bề ngoài sang trọng có thể hành xử côn đồ như vậy trên phố đông.

Những người ưa dùng bạo lực thường được xem là những người thiếu giáo dục, thiếu học vấn, thiếu kỹ năng giao tiếp… Nhưng những “hổ báo” gây chấn động dư luận nêu trên không thuộc nhóm người thiếu học vấn mà là hàng “tinh hoa” trong xã hội: những cán bộ có học thức, địa vị xã hội,những người thuộc tầng lớp trên đưa đón con đi học bằng ô tô…

Lại có ý kiến cho rằng sự nóng nảy, hành vi bạo lực là một thói quen xấu khó kiểm soát của người Việt.
Nhưng trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ… tổng kết các tính tật của người Việt không thấy có những hành vi “hổ báo”.

Từ gần thế kỷ trước, ngay trong quyển Việt Nam sử lược (in lần đầu năm 1919), phần đầu sách viết về “Người Việt Nam”, cụ Trần Trọng Kim đã đưa ra những nhận xét về tính cách tốt, xấu của người Việt theo kiểu chân thật thấy sao viết vậy: “Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác…” (xem Việt Nam sử lược, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1999).

Năm 1913, trên Đông Dương Tạp Chí, cụ Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) có loạt bài viết “Xét tật mình” nói về một số tính xấu cần sửa của người Việt nhưng tuyệt không thấy nói tới những hành vi hung bạo trong quan hệ xã hội.
Như vậy hành động “hổ báo”, dùng nắm đấm thay cho thương lượng là một tật xấu mới phát sinh trong chính xã hội của chúng ta và không chỉ có ở một số cán bộ như trên đã nêu mà xuất hiện mọi lúc mọi nơi: va quẹt xe cũng đâm, đánh nhau; nhìn nhau thiếu thiện cảm (nhìn đểu) cũng xô xát chết người; mọi va chạm bình thường trong sinh hoạt đều có thể biến thành huyết án… Đó là câu chuyện dài.

Quay lại với chuyện những cán bộ có hành vi “hổ báo”, có ý kiến cho rằng việc tuyển dụng cán bộ, công chức quá nặng về bằng cấp, hộ khẩu, các mối quan hệ “con, cháu ông nào” mà chưa chú trọng nhiều đến văn hóa, đạo đức của người được tuyển dụng. Họ được học nhiều về chuyên môn nghiệp vụ nhưng không được đào tạo bài bản về đạo đức công vụ, về văn hóa giao tiếp nơi công sở và văn hóa giao tiếp với nhân dân đã được quy định rõ tại Luật Cán bộ, công chức. Họ không biết hy sinh, vị tha để hành xử đúng mực. Cái tôi của họ quá lớn dẫn đến thiếu nhân hậu đối với người khác.

Đó cũng chỉ là một góc nhìn. Trên thực tế luật cán bộ công chức đã có những quy định rõ ràng, chuẩn mực cho cán bộ công chức. Điều 17 Luật Cán bộ, công chức quy định: “Gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn”. Những hành vi “hổ báo” của cán bộ công chức do đó cần phải được xử lý theo luật,một khi họ không tự giác tuân theo thì các hình thức chế tài phải được áp dụng để ngăn chận những hành vi có nguy cơ biến thành tính tật của cán bộ, công chức.

Xét về tâm lý, nhiều cán bộ bước ra khỏi cơ quan công quyền vẫn nghĩ là mình có quyền lực, được ưu tiên… dẫn đến những hành vi coi thường các chuẩn mực cộng đồng nên mới có việc cán bộ kiểm lâm trèo vào trạm thu phí hành hung nhân viên soát vé, cán bộ thanh tra giao thông xô xát với nhân viên hàng không hay một cán bộ ngành ngoại vụ lại tung nắm đấm vào người đáng tuổi cha chú mình, hoặc quý ông bước xuống xe ô tô tát vào mặt một phụ nữ trên phố…

————–

http://motthegioi.vn/chuyen-hom-nay-c-155/ho-bao–47900.html

Định mệnh





Ta nguệch ngoạc trên trang nhật ký không màu
vỏn vẹn hai từ "định mệnh "
giản đơn thế để dặn lòng thôi lưu luyến
tất cả là vô hình
như làn gió không tên


Ta quay trở về cùng thế giới riêng
nơi có tiếng cười cố ý lấp vết lõm buồn trũng sâu hố mắt
dang rộng đôi tay
đuổi nhặt từng giọt nắng .
đuổi bắt chiếc bóng mình ...
đuổi giấc mơ hoang

Ngẩn mặt nhìn đời - như thách thức thời gian
cứ dửng dưng - dù vết roi kia gió âm thầm quất vụt
nỗi đau có nhói lên - chừng một lúc
rồi sẽ nguôi dần ...
không thể dẵng dai ?

Ta hững hờ buông hai chữ "định mệnh" .
ô hay ... !
những chiếc lá cuối cùng của mùa thu bỗng dỗi hờn rời cây bay mất
giòng sông thơ ...
thủy triều mặn như nước mắt
ngơ ngác hỏi cuộc đời :
"định mệnh " có - không ?

Thôi ! Ta phải kịp quay về hơ ấm bàn tay trơn
giận lắm ngọn gió đông - vô tình chi đến thế
đã biết trước thế nào là không thể
ập đến làm gì - bỏ cái lạnh lại...
rồi đi ?

Huỳnh Gia

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2016

Toán học và Thơ


Toán học và Thơ


Tác giả: Pierre Darriulat



Các bảng chữ Mesopotamia: một mảnh ghi một trong các sử thi Gilgamesh (trái) và một mảnh ghi giá trị của √2 (phải).

Nhiều nhà toán học từng nói vui về một sự tương đồng giữa toán học và thơ, trong đó người ta thường nhắc đến hai câu nổi tiếng: “không thể là một nhà toán học mà không có tâm hồn thơ” (Sofia Kovalevska) và “nếu một nhà toán học không phải là nhà thơ theo nghĩa nào đấy thì đó không bao giờ là một nhà toán học hoàn hảo”. Thoạt nghe nhiều người có thể ngạc nhiên. Ở đây, có thể tạm diễn giải rằng toán học và thơ cùng có sức mạnh cho phép con người tưởng tượng ra những thế giới mới, khác với khoa học có sứ mệnh phản ánh thế giới “thực” (mặc dù bản thân các nhà khoa học cũng nên có trí tưởng tượng phong phú, nhưng ta không bàn chuyện đó ở đây). Chính khả năng tưởng tượng ra các thế giới mới ở toán học và thơ ca khiến ta cảm thấy chúng mang lại một nguồn tri thức khác với những kiến thức duy lý thuần túy, nó sâu sắc và chạm đến gần hơn sự bí ẩn của thế giới; chúng ta thường cảm thấy sự hoàn hảo tinh khiết của toán học cũng như vẻ đẹp biến ảo của những vần thơ thật khác biệt với thế giới duy vật lạnh lẽo của khoa học. Vậy ẩn giấu đằng sau đó là điều gì?




Thời cổ đại

Toán và thơ được coi là cùng sinh ra đầu tiên ở Mesopotamia (nay là Iraq) khoảng năm-sáu nghìn năm trước khi chữ viết bắt đầu xuất hiện. Thực ra, chúng được thừa hưởng từ nền văn hóa truyền khẩu khởi đầu từ khoảng mười nghìn năm trước. Sau Mesopotamia, Ai Cập cũng sớm hình thành một nền văn minh tiến bộ tương tự nhưng để lại ít tư liệu hơn do họ ghi chép trên giấy cói kém bền hơn các bảng đất nung của người Mesopotamia. Trong các tư liệu còn sót lại, ngoài những thông tin có tính đời thường như hồ sơ lưu kho, cẩm nang kỹ thuật, còn có những nội dung mang tính tôn giáo và huyền bí với hành văn mang tính thơ ca. Bí ẩn về sự ra đời của thế giới luôn là nguồn cảm hứng và động lực khiến con người tưởng tượng ra những thế giới huyền bí và sáng tác ra các huyền thoại. Cũng trong giai đoạn này, toán học đã khá phát triển nhưng chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề thực dụng. Phải tới ba nghìn năm sau, thứ toán học có động lực thuần túy từ trí tò mò mới ra đời ở Trung Quốc và Hy Lạp.
Ở Mesopotamia, khoảng năm nghìn năm trước chữ viết phát triển từ dạng chữ biểu ý sang chữ biểu âm. Nói cách khác, người ta không còn chỉ dùng chữ tượng hình để biểu đạt các sự vật và khái niệm, mà còn dùng chữ như các âm tiết và ghép chúng thành từ, trong đó ý nghĩa của từ không nhất thiết còn liên quan tới các sự vật, khái niệm gốc của chữ tượng hình ban đầu – ngày nay, chúng ta còn giữ được vài trăm bảng chữ như vậy bằng đất sét. Cũng trong kỷ nguyên này, người ta không chỉ ghi chép những cẩm nang kỹ thuật hay các danh mục từ vựng, mà mở rộng sang cả những ghi chép lịch sử, bài giảng đạo đức, các bài thánh ca, nguyện cầu, ai điếu, những chuyện huyền bí và các sử thi. Trong số các văn bản nổi tiếng nhất có sử thi Gilgamesh (12 bảng) kể về những cuộc chiến của một vị vua đi tìm sự bất tử. Giống đa số các nền văn minh cổ đại khác, người Mesopotamia tin rằng nhân loại và Vũ trụ được tạo ra bởi nhiều vị thần, là những đấng cai quản Vũ trụ thường gây chiến lẫn nhau để giành quyền lực. Thơ ca chiếm phần lớn trong văn học Mesopotamia, với những thi luật phản ánh bề dày một di sản văn học truyền khẩu đã tồn tại từ lâu trước khi có văn viết.

Số học của người Mesopotamia cũng khá tiên tiến, nhưng khác với văn học, nó phát triển thuần túy do những mục đích thực dụng. Họ sử dụng hệ đếm 60 (ngày nay còn được lưu lại trong cách chúng ta đo góc và tính thời gian), trong đó có ký tự cho số 1 và số 10, nhưng không có số 0. Ký tự số 1, là đơn vị, nghĩa là 60n với mọi số nguyên n, bao gồm cả số âm: có thể nghĩa là 1/60, hay 1, hay 3.600, v.v. Giá trị cụ thể được xác định tùy theo văn cảnh. Họ không có công thức, phương trình, chỉ có các phép tính bằng bảng tính (tính căn bậc hai, bậc ba, nghịch đảo, v.v.). Ví dụ, bảng tính cho thấy √2 có thể được tính bằng 1+24/60+51/602 +10/603=1,41421296. Hình học Mesopotamia khá tiên tiến, nhưng cũng thuần túy mang tính thực dụng. Họ có thể tính những diện tích và thể tích đơn giản, ước lượng số π bằng 3, hoặc bằng 3+7/60+30/602=3,125. Họ biết cách chuyển độ dài thành thời gian mặt trời, và biết ghi chép các vụ nhật thực, nguyệt thực, thời gian lặn/mọc các vì sao và hành tinh.

Từ những gì chúng ta biết, toán học Ai Cập phát triển khá tương đồng với Mesopotamia nhưng họ sử dụng hệ đếm thập phân và đi sau Mesopotamia một vài (rất ít) thế kỷ. Người Ai Cập cổ đại rất tin vào quyền năng của từ ngữ, cho rằng gọi tên tức là mang lại sự sống. Những người biết viết trong xã hội tập hợp lại thành một giới tinh hoa. Các tư liệu dạng hình vẽ trong mộ cổ còn lại ngày nay cho thấy các bài thơ được viết ra nhằm bảo vệ, nuôi dưỡng các linh hồn ở thế giới bên kia, và bổ sung thêm vào các nội dung từng được tìm thấy trong nền văn minh Mesopotamia.


Trung Hoa cổ đại: công cụ Chu Dịch bói thiên cơ (trái) và một bài thơ trong Kinh Thi (phải).

Ở Trung Quốc, trong khoảng một nghìn năm TCN, dưới triều nhà Chu, toán học phát triển từ một số yếu tố tương tự như ở Mesopotamia và Ai Cập, tới một ngưỡng hiện đại hơn. Nó trở thành một trong sáu bộ môn mà người đi học phải thông thạo. Người Trung Quốc phát kiến ra việc dùng số âm, hệ thập phân, và hình học đại số. Họ đã có nhận thức về số 0 và vô cùng khi giải quyết vấn đề xác định điểm trong hình học. Họ biết biểu đạt định lý Pythagore, phát triển số học và đại số tinh tế tới mức có thể phục vụ cho thiên văn học. Họ còn dùng Chu Dịch, liên quan tới hệ nhị phân, cho việc bói toán, suy đoán thiên cơ.

Kinh Thi là tập hợp những bài thơ cổ nhất của Trung Quốc còn lại đến nay, trong đó Khổng Tử tổng hợp 305 bài từ thế kỷ 11 tới 7 TCN. Trong đó có những lời thơ ngắn đơn giản, những bài tán tụng các vị vua thời kỳ đầu nhà Chu, hoặc các nội dung dùng trong các buổi lễ hay tiệc. Các bài thơ ngắn thường là các bài hát dân gian về tình ái, nỗi tương tư, lời người lính ngoài chiến trường, những câu chuyện đồng áng và gia sự, hay thậm chí cả những châm biếm và phản kháng chính trị. Các câu thơ được viết bằng bốn âm tiêt (sử dụng hình thức bốn âm tiết – thơ bốn chữ), ngắt nhịp ở giữa câu và vần ở cuối câu.

Homer và Hesiod thống trị thơ ca Hi Lạp trong thế kỷ 8 TCN. Không rõ thực hư nhưng người ta kể rằng Homer đi tới từng làng cùng các nhạc công để hát những bài thơ của mình; nhà thơ mù này được nhớ đến với một phong cách cao quý và mạnh mẽ trong Iliad và Odyssey, những tác phẩm đầu tiên của thơ ca phương Tây. Hesiod viết Thần phả (Theogony) về thế giới và các vị thần, ông cũng viết Công việc và Ngày, ca ngợi lao động trung thực, cần cù, danh dự, và tinh thần phi bạo lực. Đây chính là nguồn chủ đạo của thần thoại Hy Lạp, đồng thời còn có nội dung truyền thừa các kỹ năng đồng áng, tư duy kinh tế và thiên văn học.

Tới thế kỷ 6 TCN, Thales là người đầu tiên đặt nền móng phát triển tư duy trừu tượng trong hình học, và Pythagore là người đầu tiên nhận thấy có thể xây dựng một hệ thống toán học hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố hình học tương ứng với các số. Các vấn đề liên quan tới số vô tỷ (các bài toán dựng một hình vuông có diện tích bằng hình tròn cho trước, và dựng một hình hộp thể tích gấp đôi một hình hộp cho trước) và vô cùng (nghịch lý Zeno về Achilles và con rùa) được thảo luận. Giai đoạn Hellenistic (từ thế kỷ 4 TCN) chứng kiến một trong những cuộc cách mạng quan trọng nhất trong toán học. Năm 387 TCN, Plato xây dựng Viện Hàn lâm, nơi những nghiên cứu của Aristotle về logic sẽ tác động sâu sắc tới tư tưởng nhân loại hàng nghìn năm tiếp theo. Đóng góp quan trọng nhất của người Hy Lạp là khái niệm về việc chứng minh, phương pháp suy luận dùng các bước logic để chứng minh hoặc bác bỏ một định lý dựa trên các tiên đề giả định ban đầu.

Tóm lại, trong khoảng hai nghìn năm trước, toán học và thơ đã đạt tới một trình độ hoàn mỹ cho phép con người tưởng tượng/sáng tạo ra những thế giới mới thuần túy xuất phát từ trí tò mò. Sức mạnh thúc đẩy xúc cảm mạnh mẽ từ ngôn từ đã khiến thơ trở thành công cụ được chú trọng của các tôn giáo và triết học siêu hình, khiến chúng ta tin rằng mình có thể làm sáng tỏ những bí ẩn của thế giới. Vẻ đẹp và sự hoàn mỹ của các kết cấu toán học cũng khiến ta nghĩ rằng chúng mang lại căn cứ chứng minh bản chất thần thánh của tạo hóa. Dù đúng hay sai, điều này mang lại cho toán học và thơ một chức năng quan trọng hàng đầu đối với nhân loại, đó là khiến chúng ta cảm thấy mình tiếp cận những ranh giới của cái chưa biết.

Sự kỳ diệu của toán học

Nhìn tổng thể, toán học là sự phát kiến ra những khái niệm mới, cấu trúc mới. Khoa học thường bị lệ thuộc vào các hiện tượng thực tiễn là đối tượng mà nó tìm cách lý giải, nhưng toán học có thể tự tách mình ra khỏi những hiện tượng đó. Nó biến những quy luật tự nhiên thành các tiên đề, lấy đó làm cơ sở để tiếp tục khám phá những chân trời mới. Khoa học vẫn thường xuyên phải sửa đổi các giả thuyết, nhưng toán học thì bất tử. Toán học có thể đi từ thế giới thực tới những thế giới tưởng tượng, với những số nguyên dương, số nguyên âm, số hữu tỷ, số thực, số phức, các quaternion… Từ ba chiều không gian người ta tưởng tượng ra chiều thứ tư, và nhiều hơn nữa; từ cách đo đạc thông thường (hình học Euclid), người ta hình dung ra những cách đo khác; rồi đến những cấu trúc nhóm, nhẫn, không gian topo, nút, v.v. Trí tưởng tượng đôi khi xuất phát từ các mục đích thực dụng, nhưng cũng có lúc thuần túy do trí tò mò. Thông thường, các khái niệm mới sẽ tìm được đất để ứng dụng trong thực tế, nhưng không nhất thiết khi nào cũng như vậy.

Toán học có thể đưa trí tưởng tượng đi rất xa, thậm chí nó có thể làm lung lay chính những logic làm nền tảng cho toán học truyền thống. Lấy một ví dụ đơn giản như nghịch lý nói dối, trong đó một thông điệp A phát biểu rằng: “thông điệp A sai”. Giả định rằng thông điệp A là đúng, thì nghĩa là “thông điệp A sai” là đúng, suy ra A là thông điệp sai. Ngược lại, nếu giả định thông điệp A sai thì nghĩa là lời phát biểu “thông điệp A sai” là sai, suy ra A là thông điệp đúng. Như vậy, luôn tồn tại một nghịch lý, đó là A luôn vừa đúng vừa sai. Câu chuyện này thúc đẩy nhiều nhận định từ các nhà toán học và logic đương đại, liên quan tới các định lý Gödels và Tarski về tính không xác định. Về cơ bản, các chân lý số học không thể được định nghĩa đơn thuần bằng số học. Theo đó, người ta khám phá ra các logic đa giá trị (multiple-valued logics), trong đó không chỉ có đúng và sai, mà có thể có những logic “mơ hồ”, với chân lý có thể là bất kỳ giá trị nào giữa 0 và 1.

Một minh họa khác là các khái niệm về vô cùng và vi phân, vốn luôn lôi cuốn các nhà toán học và triết gia. Ta hãy đếm 1, 2, 3…, và nghĩ về một điều mà trong trực giác tưởng như rất bất hợp lý: số nguyên và số hữu tỷ là hai tập hợp có số lượng phần tử bằng nhau. Tình cờ ở đây ta nghĩ tới tộc người Hotentot [ở châu Phi], những người chỉ nhận thức được ba số, một, hai, và số nhiều: vậy làm sao họ có thể nghĩ đến vô cùng? Phải tới đầu thế kỷ 20, nhờ Dedekind, Cantor, Frege và một số người khác, vấn đề này mới sáng tỏ. Trong vật lý, vi phân và vô cùng cũng được dùng rất nhiều nhưng chỉ với vai trò là công cụ, còn để mô tả thế giới, vật lý không hề cần đến khái niệm vô cùng.


Hy Lạp cổ đại: Homer (trái), một cảnh trong Odyssey (phải), và Hesiod (dưới)

Giữa thế kỷ 17, Descartes lập luận rằng “cần kết luận rằng Chúa tồn tại, bởi tôi, một thực thể hữu hạn, chẳng thể có ý tưởng về điều gì đó vô tận, trừ phi nó được đưa vào trí óc tôi bởi điều gì đó thực sự vô tận”. Thật khó để chúng ta, trong thế kỷ 21 này, bị thuyết phục bởi một lập luận như vậy, nhưng trên thực tế nhiều người đến nay vẫn tin rằng sự tinh khiết của toán học bắt nguồn từ một bản chất thần thánh: vài thập kỷ trước, Dirac, Wigner, Einstein và Chandrasekhar từng hỏi làm sao mà con người có thể “hiểu được” Vũ trụ: “Làm sao trí óc con người phát kiến được những khái niệm trừu tượng và nhận ra vẻ đẹp của chúng? Và vì sao những khái niệm đó tình cờ có sự tương ứng chính xác với Tự nhiên?” Ngày nay nếu chúng ta nhìn nhận những vấn đề này sáng rõ hơn các vị tiền bối nêu trên, thì không phải vì ta thông minh hơn họ; đơn giản chỉ là ta hiểu hơn về cách vận hành của bộ não. Đó là nhờ các nhà sinh học thần kinh: “giả thuyết chấn động” của Francis Crick năm 1994 mà đến nay đã có bằng chứng, rằng chúng ta đơn thuần cấu thành bởi các nguyên tử, các quy tắc vật lý và hóa học của các tế bào vận hành cơ thể và trí não của chúng ta. Chúng ta có thể tin vào bằng chứng của kết luận này mà không còn phải e ngại sẽ bị coi là những kẻ duy vật giáo điều.
Nhận thức mới trên đây giúp ta nhận thức đầy đủ hơn trước đây về bản chất suy luận vô tận trong vòng lặp và tính tự dẫn chiếu trong kiến thức: chúng ta tự kể cho mình một câu chuyện, kể về việc ta tự kể cho mình một câu chuyện, kể về việc… Tuy nhiên, nhận thức mới không làm mất đi tính bí ẩn đằng sau sự tồn tại của thế giới, mà chỉ khiến bản chất sâu sắc của nó trở nên hiển nhiên hơn: ta nhận ra mình sẽ không bao giờ trả lời được câu hỏi “vì sao thế giới tồn tại thay vì chẳng có gì”, bởi giữa vòng lặp vô tận của tri thức kể trên, câu hỏi đó trở thành vô nghĩa. Leibniz từng suy đoán rằng phải có một lý do nào đó trong Tự nhiên khiến thế giới tồn tại thay vì không có gì. Nhưng nay chúng ta phải từ bỏ hi vọng tìm được một “lý do” như vậy; lý do nào thì cũng chỉ là sự sáng tạo của chính chúng ta. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm của Chandrasekhar và những người cùng phía với ông ta, bởi việc chúng ta rèn giũa (chứ không phải phát kiến) nên logic và toán học chính là nhằm quan sát và lý giải thế giới (mà chúng ta là một phần trong đó): vậy thì làm sao ta có thể tự ngỡ ngàng về hiệu quả kỳ diệu của chúng? Cơ sở khách quan nào để ta có thể đo lường tính kỳ diệu này?


Viện Hàn lâm của Plato theo tưởng tượng của họa sỹ Raphael, với chân dung Epicures (2),
Pythagoras (6), Socrates (12), Plato (14), Aristotle (15) và Euclid hoặc Archimedes (18).

Wittgenstein viết rằng “thế giới như thế nào không phải là điều Bí ẩn (khoa học tự nhiên có nghĩa vụ trả lời câu hỏi này), việc thế giới tồn tại mới là điều Bí ẩn; với những gì ta không thể nói, ta phải giữ im lặng”. Đề nghị giữ im lặng này của ông là nhằm vào các triết gia: các vị mà cứ tỏ ra thấu hiểu về điều Bí ẩn thì sẽ chỉ sinh thêm ra những chuyện tán gẫu tầm phào.
Nhưng đối với các nhà thơ và nhà toán học, họ hoàn toàn có quyền khiến chúng ta cảm thấy họ đưa ta tới gần hơn ranh giới của cái chưa biết, mang lại làn gió thoảng đến từ phía bên kia. Đã có nhiều nỗ lực tìm cách đặt mối liên hệ giữa cái đẹp và toán học như một cách để chúng ta thoát khỏi ám ảnh về tính chủ quan hiển nhiên của toán. Một trong những ví dụ nổi tiếng là chuỗi Fibonacci, trong đó mỗi phần tử là tổng của hai phần tử đứng trước nó, Fn=Fn-1+Fn-2. Tỉ lệ giữa hai phần tử đứng cạnh nhau nhanh chóng tiệm cận với cái được gọi là “tỉ lệ thần thánh”, hay “tỉ lệ Vàng”, φ=½(1+√5). Nhiều triết gia và nghệ sỹ coi đó như một căn cứ căn bản vận hành sự sáng tạo thế giới.

Sự kỳ diệu của thơ

Sự phát triển của toán và thơ trong trí tuệ tập thể của nhân loại (tức văn hóa của chúng ta) có những điểm tương đồng rõ rệt với sự phát triển trong tâm trí một đứa trẻ. Quả thực não người từ mười nghìn năm trước về mặt di truyền đã tiến hóa tương đương như ngày nay, nhưng ở đây ta bàn về sự tích lũy tri thức chứ không phải về tố chất bẩm sinh. Nhưng nhân loại đã phải nỗ lực rất nhiều qua hàng nghìn năm để tích lũy tri thức, còn đứa trẻ thì được dạy bởi cha mẹ, gia đình, thầy cô, nghĩa là hấp thu những tri thức đã được tiêu hóa từ trước. Tuy nhiên, tôi thấy thật thú vị là trẻ rất dễ tiếp thu các bài đồng dao, bài hát, và dễ được truyền cảm hứng bởi thơ ca. Việc nhập vai đóng vai trò quan trọng trong cách học của chúng. Chúng cũng thật dễ bị lôi cuốn bởi các câu hỏi nảy sinh từ những sáng tạo trong toán học, từ vô cùng, chiều không gian khác, máy đi ngược thời gian, v.v. Nhờ thế mà các tác phẩm khoa học giả tưởng mới đắt hàng đến vậy.

Tính chính xác tuyệt đối là quy tắc duy nhất mà toán học phải tuân thủ, nhưng trong sáng tạo toán học, đó cũng không phải là yêu cầu căn bản nhất. Trái lại, có rất nhiều quy tắc khác nhau trong thơ, do chính các nhà thơ tự đặt ra. Thật lạ là những quy tắc đó không làm giảm chất lượng sáng tác thơ do hạn chế tự do sáng tạo, mà có thể còn đưa ra những hình ảnh, ẩn dụ, gợi mở làm tôn lên vẻ đẹp. Những quy tắc này có nhiều dạng khác nhau tùy theo các ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ, phần quan trọng trong vẻ đẹp của thơ Trung Quốc và Nhật Bản là bố cục hài hòa của chữ tượng hình. Cho phép tôi minh họa bằng hai bài thơ của Hồ Chí Minh:


Chiều tối
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không.
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.



Nghe tiếng giã gạo
Gạo đem vào giã, bao đau đớn
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông.
Sống ở trên đời, người cũng vậy,
Gian lao rèn luyện mới thành công.
Tuy thơ không chỉ là chơi với chữ nhưng có một phần tương đồng nhất định ở đây. Một ví dụ nổi tiếng là Đi thuyền của Hàn Mặc Tử (1912-1940), một bài thơ có thể vừa đọc xuôi vừa đọc ngược, thậm chí có thể bỏ bớt hai hoặc bốn âm đầu trong mỗi câu.
Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông
Cỏ mọc bờ xa bóng liễu trông
Chèo vững thiếp qua vời khổ hải
Chí bền chàng đến vận trung không
Theo lần nguyệt xế mây mờ mịt
Hoạ đáp thông reo trống não nồng
Neo thả biết đâu nơi định trước
Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông
Mông mênh sóng giợn nước trôi bèo
Trước định nơi đâu biết thả neo
Nồng não trống reo thông đáp hoạ
Mịt mờ mây xế nguyệt lần theo
Không trung vận đến chàng bền chí
Hải khổ vời qua thiếp vững chèo
Trông liễu bóng xa bờ mọc cỏ
Mông mênh sóng giợn nước trôi bèo
Những câu đối từng rất phổ biến trong văn hóa Việt là một ví dụ dễ thấy khác của kỹ năng chơi chữ. Trong bài thơ nổi tiếng Ông đồ, viết năm 1936, Vũ Đình Liên xót xa về sự quên lãng của giới trẻ đối với loại thơ này:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Một ví dụ thơ Việt Nam nữa là tác phẩm của Thanh Hải, với âm điệu có thể trực tiếp chuyển thành nhạc mà không hề phải điều chỉnh gì:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Chơi chữ có một lịch sử lâu đời: trên một chiếc đĩa tìm thấy ở Pompei, với niên đại 79 sau CN, có năm từ xếp thành một trật tự đối xứng hoàn mỹ, cho phép đọc theo bất kỳ chiều nào. Khi còn là một đứa trẻ, tôi được học ở trường một bài thơ gợi nhắc đến 125 chữ số đầu của số π! Ý tưởng ở đây là đếm số chữ trong mỗi từ. Tất nhiên, chuyện này thật vô ích, nhưng tôi vẫn còn nhớ hai câu đầu:
Que j’aime à faire apprendre ce nombre utile aux sages!
Immortel Archimède, artiste ingénieur,


Các ví dụ chơi chữ: tác phẩm Trăm nghìn tỷ bài thơ của Raymond Queneau (trái), một đôi câu đối
của Việt Nam (1906, phải) ,và một viên đá tìm thấy ở Pompeii (79 sau CN, dưới).

Ở Pháp, trào lưu Oulipo khởi đầu bởi Raymond Queneau và François Le Lionnais, một nhà thơ và một nhà toán học, nổi tiếng cũng bởi một kỳ tài tương tự: La Disparition là một tiểu thuyết không hề có chữ e, nguyên âm phổ biến nhất trong tiếng Pháp; Trăm nghìn tỷ bài thơ là một tập hợp gồm mười bài thơ, trong đó bạn có thể chọn bất kỳ câu thơ nào để tự chế thành bài thơ của mình; có những tiểu thuyết mà độc giả có thể đọc theo hàng tỷ cách từ những trang không đánh số. Các bài thơ holorhyme được viết từ những câu nghe giống nhau nhưng có nghĩa khác nhau, ví dụ: Par les bois du djinn, où s’entasse de l’effroi,/Parle et bois du gin, ou cent tasses de lait froid dịch nghĩa là: trong khu rừng của những vị thần djinn, nơi nỗi sợ đầy rẫy,/nói chuyện và uống rượu gin, hay một trăm cốc sữa lạnh. Ngoài ra, còn có các palindrome là những câu viết xuôi hay đảo ngược đều như nhau, ví dụ Do geese see God? Was it Eliot’s toilet I saw? Murder for a jar of red rum. Never odd or even.

Lewis Caroll (1832-1898) vừa là nhà thơ vừa là nhà toán học, nổi tiếng nhờ viết Alice ở xứ sở thần tiên và Nhìn qua gương soi. Trong bài thơ Đi săn quái vật, Đồ tể giải thích cho Hải ly vì sao 2 + 1 = 3:
“Lấy số Ba làm đối tượng tính toán —
Một con số thật là dễ viết
Ta cộng Bảy, và Mười, rồi nhân lên
Với Một Nghìn đã trừ đi Tám.
Lấy kết quả tiếp theo ta chia
Cho Chín Trăm với Chín Mươi và Hai:
Rồi trừ Mười Bảy, câu trả lời sẽ là
Đúng một cách chính xác và tuyệt đối hoàn hảo.”
Cho những ai không đánh giá cao sự hài hước của mình, ông nói rằng: “Có những người có lẽ sẽ chê trách tôi vì đã pha trộn sự trang nghiêm với sự tươi tắn, nhưng tôi không tin rằng Chúa muốn chúng ta chia cuộc sống thành hai nửa riêng rẽ”.
Chơi chữ cũng thường là cách để người ta qua mặt sự kiểm duyệt; hẳn chúng ta còn nhớ những câu thơ chúc thọ Bác Hồ trong một thể chế chính trị không cho phép điều này:
Cụ già thong thả buông cần trúc,
Hồ rộng trời in mặt nước hồng.
Muôn vạn đài sen hương bát ngát,
Tuổi già vui thú với non sông.
Gần đây hơn, Cao ni ma trở thành một biểu tượng về đòi hỏi mở rộng tự do ngôn luận trên Internet ở Trung Quốc.
Ta có thể kể tiếp vô vàn những ví dụ về cách các nhà toán học và nhà thơ chơi với con chữ để thỏa mãn ý thích của họ. Nhưng thực ra điều gì khiến một câu thơ gây cảm hứng? Một hỗn hợp của những điều trực tiếp nói ra và những gì ngụ ý phía sau, hay một hỗn hợp của nhạc điệu và âm điệu. Thay vì cố phân tích rõ rành – mà như vậy có thể còn làm mất phẩm giá của thơ – tôi muốn kết thúc bài viết này bằng trích dẫn một số câu thơ nổi tiếng tình cờ đến trong tâm trí1. Nhưng tiếc là tôi không dịch ra tiếng Việt được. Tôi chỉ có thể đơn giản sử dụng những câu Kiều vốn đã ăn sâu trong tâm khảm những người bạn Việt Nam của mình, xin trích lại hai câu:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Nguyễn Du



Chuỗi Fibonacci: sự tương đồng giữa vòng xoắn Fibonacci spirals và lõi nhụy hoa hướng dương (trái);
chuỗi Fibonacci biểu diễn thành kích thước các hình vuông (phải) theo một tỉ lệ xấp xỉ tỉ lệ Vàng.

Hai cuộc cách mạng Văn hóa và Khoa học
Năm 1959, nhà khoa học đồng thời là nhà văn người Anh C.P. Snow có bài diễn văn nổi tiếng và đầy sức ảnh hưởng bàn về việc đời sống trí thức trong tất cả các xã hội phương Tây đang bị chia thành hai lĩnh vực văn hóa – khoa học và nhân văn – và đây chính là trở ngại lớn trong giải quyết các vấn đề của thế giới. “Vậy là thành tựu vĩ đại của vật lý hiện đại cứ vươn cao lên, trong khi đa số những người thông tuệ nhất trong thế giới phương Tây chẳng hiểu gì về nó hơn những tổ tiên của họ từ thời đồ đá”. Những phản hồi có tính xây dựng và ít khiêu khích hơn dành cho các nhận định của Snow trong những năm gần đây thể hiện sự hướng tới tái hợp tư duy văn chương với tư duy khoa học. Tuy nhiên, trên nhiều lĩnh vực hoạt động của con người, hai giới này vẫn nói những ngôn ngữ vênh nhau và không hiểu được nhau.

Cuộc dạo chơi ngắn ngủi của chúng ta qua các lãnh địa của toán và thơ cho chúng ta thấy cả hai đều đáng trân trọng: chúng ta hãy dạy trẻ em yêu cả hai, các môn nhân văn và các môn khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật, thơ và toán! Điều đó sẽ trang bị tốt hơn cho các em để có thể đối diện với những khó khăn mà thế giới toàn cầu hóa không ngừng biến động mang lại. Điều đó cũng sẽ giúp tạo nên một thế giới thân ái hơn.

Thanh Xuân dịch
——–
1 Với các độc giả quen thuộc văn học phương Tây, dưới đây là một vài câu thơ [Thanh Xuân dịch]: Để thấy thế giới trong một hạt cát,/Và thiên đường trong một bông hoa dại,/Để giữ vô hạn trong lòng bàn tay,/Và vĩnh cửu trong một giờ khắc/William Blake. Tôi biết mình sẽ gặp gỡ số phận /Đâu đó giữa những đám mây trên cao;/Những người tôi đang chiến đấu chống lại, tôi đâu thù hận họ,/Và những kẻ đang được tôi bảo vệ, tôi đâu có yêu họ/William Butler Yeats. Ariane, em ơi, tình yêu nào làm em đau đớn/Em nằm chết trên bến bờ nơi bị bỏ lại?/Jean Racine. Tôi không biết chuyện ấy nghĩa là sao,/Rằng tôi buồn quá,/Câu chuyện cổ tích từ thời xưa cũ,/Không đến trong tâm trí tôi./Heinrich Heine. Đi qua nửa đường đời,/Thấy mình giữa rừng tối,/Ôi con đường thẳng đã mất/Dante Alligheri. Và khi gió và đông buốt hơn/Cả mảnh đất không còn tình yêu,/Nó sẽ thì thầm về khu vườn ấy,/Và em sẽ hiểu/Oscar Wilde.

Cấy ghép nội tạng là phi khoa học.






Nhiều bác sỹ tung hô những thành tựu cấy ghép nội tạng và được dân chúng tung hô nhiệt liệt. Ít ai biết rằng những bệnh nhân được cấy ghép nội tạng chỉ sống thêm được vài năm mà thôi.

Hệ miễn dịch đào thải mọi yếu tố ngoại lai



Hệ miễn dịch của con người là một hệ rất kỳ lạ. Nó tự động đào thải tất cả những yếu tố ngoại lai. Những yếu tố ngoại lai bao gồm cả những bộ phận thuộc về một cá thể khác.

Các bệnh nhân ý thức rõ ràng nhất về sự đào thải của hệ miễn dịch là các bệnh nhân ghép thận. Thị trường chợ đen ghép thận lớn nhất là tại Trung Quốc. Ở đó, những người nhà giàu ăn chơi sa đọa và bị hỏng thận, dùng tiền để mua thận lành từ những người nghèo nhưng khỏe mạnh. Các bác sỹ thực hiện những ca ghép thận thành công. Chỉ cần nghỉ ngơi khoảng ba tháng, người được ghép thận không còn phải dùng ống chạy thận.

Thế nhưng, để quả thận mua được chạy được thì những người nhà giàu lại phải thường xuyên sử dụng một loại thuốc có chức năng chống thải ghép. Đó là vì cơ thể con người tự động đào thải mọi yếu tố ngoại lai, dưới sự chỉ đạo của hệ miễn dịch. Thuốc chống thải ghép là loại thuốc tắt chức năng của hệ miễn dịch. Sau đó, thận của người khác có thể hoạt động trong cơ thể của người nhà giàu này, nhưng người nhà giàu lại mắc thêm nhiều bệnh khác về hô hấp, tiêu hóa, nội tiết…Vì tắt chức năng của hệ miễn dịch để phục vụ cho thận thì cũng phải tắt chức năng ở những nội tạng khác.

Do đó, cấy ghép nội tạng là một điều hết sức phi khoa học. Tuy nhiên, không hiểu vì sao nền y học trên thế giới hầu hết các bác sỹ vẫn công khai gọi đó là thành tựu khoa học. Họ còn trình chiếu công khai trên các kênh truyền hình, kể cả các kênh truyền hình quốc gia.

Cấy ghép nội tạng- Phi đạo đức

Ngoài tính phi khoa học, việc cấy ghép nội tạng còn là phi đạo đức.Ảnh một ca mổ cướp nội tạng của học viên Pháp luân công ở Trung Quốc

Mỗi ca ghép thận có chi phí khoảng 5 000 $. Những kẻ bất chính làm giàu bằng cách mổ cướp nội tạng hoặc mua nội tạng của người khỏe mạnh, các bác sỹ làm giàu chỉ nhờ thực hiện những ca mổ tách nội tạng của người này rồi ghép vào nội tạng của người kia. Bản thân người nhận nội tạng cũng không ý thức được tội ác mình gây ra, đó là do họ không hề ý thức được rằng thứ nội tạng được cấy vào cơ thể mình chỉ là kéo dài thời gian mang bệnh mà thôi. Họ không nhận thức được rằng cơ thể con người tự động đào thải mọi yếu tố ngoại lai, từ đó kích cầu cho tội ác mổ cướp ghép nội tạng.

Các học viên Pháp Luân Công, một môn tu tập sức khỏe và đạo đức ở Trung Quốc là nạn nhân đông đảo nhất của tội ác mổ cướp ghép nội tạng. Tại trang Phapluan.org, nhiều bằng chứng cho thấy thị trường mổ ghép nội tạng ở Trung Quốc có sự tiếp tay bởi chính phủ và bởi chính những người Hoa có ăn có học .

Suy cho cùng, mọi tội ác đều là do vô minh- thiếu hiểu biết mà ra.

Huy Kim

Phân loại vài trường phái triết học theo “Lý Thuyết Hiểu Biết”




Đầu tiên người ta quan niệm giác quan cho ra hiểu biết về sự vật. Rồi mới nhận ra là giác quan có thể cho ra những hiểu biết sai lầm, và càng không thể cho biết toàn bộ sự vật. Nói cách khác, sự vật cho tôi một số cảm tưởng về nó, nhưng những thông tin ấy không cho biết nó như thế nào, là gì … Hố sâu giữa sự vật và tôi được Hegel phát biểu như sau : làm sao để sự vật “tự nó” có thể trở thành “của tôi”. Tức là phải tìm ra phương tiện lượng định sự vật, để đi đến một hiểu biết nào đó về nó.

Nếu nghĩ rằng phương tiện lượng định sự vật đến từ tâm não của chính mình, thì bạn đứng trong trường phái DUY TÂM. Triết lý này cho là bạn phóng ra thiên nhiên những gì đã được lập trình sẵn trong đầu óc, và sự hiểu biết sự vật phản ảnh chính tâm thức của bạn.

Nếu nghĩ rằng phương tiện lượng định sự vật đến từ chính sự vật, thì bạn thuộc về trường phái DUY … NGHIỆM (đứa nảo bảo “duy vật” : bị đòn !). Ở đây, sự vật cho bạn các phương tiện để hiểu biết nó, hay, nói cách khác, tâm trí của bạn chỉ tiếp nhận những gì sự vật gửi đến bạn. Hume, Aristote … khi cho rằng : không gì biết được, hay có được trong tâm trí, mà không từng đi qua giác quan, phát biểu ý tưởng này.

Nếu bạn nghĩ phương tiện lượng định nói trên vừa thuộc về sự vật, vừa thuộc về tâm trí, thì bạn thuộc về trường phái “CẤU TẠO” – Constructivism (hay “ba phải”, tùy ý). Trường phái này tự nhận là phát nguồn từ quan điểm của Kant, theo đó sự vật cho chúng ta một hình ảnh được chúng ta phối trí theo những quy định của tâm trí.

Nếu bạn nghĩ phương tiện lượng định sự vật đến không đến từ sự vật, cũng không đến từ tâm trí mình, mà đến từ tương quan giữa hai phạm trù này, biệt lập với sự chủ quan của chúng ta, cũng như biệt lập với chính sự vật , thì bạn thuộc về CẤU TRÚC CHỦ NGHĨA. Theo phái này, những gì sự vật biểu hiện ra, ví như những âm thanh, chỉ hiểu được, tức trở thành câu nói, nếu những biểu hiện ấy kết nối với nhau trong một cấu trúc, như những âm thanh được kết nối trong một ngôn ngữ.

Từ Aristote, phương tiện hiểu biết sự vật phải tuân theo luận lý (logique). Nếu bạn áp dụng luận lý ấy trong phạm trù Duy Tâm, cho rằng hiểu biết sự vật tùy thuộc Tâm mình, thì cái lý ấy gần với Tâm Lý học. Nếu bạn đứng trong lập trường duy nghiệm, cho rằng cái lý ấy nằm trong chính sự vật, thì có thể nói nó tương hợp với “bản thể luận” (ontology), vì nói về một sự vật : “nó LÀ gì” (ontos nghĩa là “LÀ” – to be, être). Nếu bạn chỉ tập trung vào khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, thì cái lý ấy áp dụng vào việc hoàn chỉnh những hình thức tìm kiếm sự thật, tức luận lý học thuần túy.

Nếu muốn tóm tắt “Lý Thuyết Hiểu Biết” một cách đơn giản thì có thể nghĩ như sau :
Chúng ta có một hiểu biết nào đó, đúng, sai, vừa đúng vừa sai v.v… không cần “biết” (!), nhưng tựu chung, “Lý Thuyết Hiểu Biết” chỉ là đặt câu hỏi : bao nhiều phần của sự hiểu biết ấy đến từ chính chúng ta (bộ óc bị lập trình), bao nhiêu phần đến từ sự vật, bao nhiêu phần đến từ cả hai, và từ khoảng cách giữa chủ thể và khách thể.

Nếu muốn, bạn có thể đi thêm một bước, với Marx, và cho rằng “Lý Thuyết Hiểu Biết” là một lý thuyết hành động. Thật vậy, hiểu biết về một sự kiện chỉ là một sự đối thoại giữa những ý thức có hiểu biết về sự kiện ấy, với thôi thúc hành động, để kiểm nghiệm chúng, và đi đến những hiểu biết mới, gần với sự thật hơn.



Nguyễn Hoài Vân–