Thứ Hai, 14 tháng 11, 2016

MỘT BÀI THƠ ĐẶC SẮC VỀ ĐÀN BÀ CỦA PHẠM NGỌC THÁI (Nguyễn Thị Xuân)










NGƯỜI ĐÀN BÀ CHỨA LINH HỒN THÁNH LINH


Người đàn bà anh mãi mãi không quên
Nàng đã lẫn vào trong cát bụi...
Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái
Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua?

Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa
Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi
Em mở rộng động trinh,
để anh vào tận sâu trong hứng khởi
Lúc sướng vui em đã uốn mình.

Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em
để gieo hoa cho thế thái nhân tình
Vĩ đại và vô biên...
Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống
Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.


Trấn át ác quỉ bạo tàn
Anh khắc hình hài em trong vũ trụ
Biểu tượng lớn lao của chúng sinh
Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.



PHẠM NGỌC THÁI
. Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai",
Nxb Văn hoá Thông tin 2012





 Bài thơ gợi cho ta một thế giới: Thế giới đàn bà:

Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em
để gieo hoa cho thế thái nhân tình
Vĩ đại và vô biên...
Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống
Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.

Đây là khổ thơ thứ ba. Đã tóm bắt từ nhân sinh cho tới vũ trụ của người đàn bà: Vĩ đại và vô biên /- Bởi vì sao?... vì nàng "gieo hoa cho thế thái nhân tình"- Biểu tượng của sự sống bất tử! Nhưng nàng cũng rất bình dị trong cuộc sống và thân thiết đối với người đàn ông. Là người vợ hiền cơm dẻo canh ngọt, đầu gối tay ấp. Bình dị trong tiếng nói nàng trìu mến, dịu dàng mà chiếm ngự cả trái tim chàng. Bình dị với ánh mắt nàng cười, mang đến mùa thu mát lành, trong xanh.
Câu thơ "Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em..." - Nó triết lí. Như người ta thường nói, người đàn bà là hoa thơm của đất trời... trái ngọt của sự sống. Ở đây, tác giả chỉ ra rằng "... cái của em để gieo hoa cho thế thái nhân tình" - Về nghĩa đen ta có thể hiểu: "cái của em"vừa để sinh nở, tức là sinh con đẻ cái bảo tồn nòi giống. Duy trì và phát triển trong thế thái nhân tình. Với nghĩa bao trùm: nó còn mang theo tính luyến ái trai gái. Là cội nguồn của cuộc sống. Đồng thời "cái của em" là nhân tố tạo ra cả hoà bình cùng chiến tranh, hạnh phúc và khổ đau của con người.
"thế thái nhân tình" mà không có hoa thì cũng không thể kết trái. Tất cả sẽ trở thành vô nghĩa. Thế giới sẽ không không...
Xin liên tưởng đến những thi phẩm khác của tác giả. Như ở bài "Nguyệt của chị Hằng và nguyệt của em", nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã viết:
Nếu như em không có nguyệt
Thì loài người cần gì tổng thống nữa, em ơi !

Hoặc bài "Có một thời như thế", anh cũng có những câu thơ bình luận về "cái của em" thật đặc sắc:

Tạo hoá sinh ra kỳ quan vĩ đại
Suy cho cùng nhất cái này thôi !
Nhân loại tồn sinh phát triển ở nơi này
Không có sẽ hư vô phù phiếm cả...

Trở lại với "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh". Sau đó nhà thơ trào ra cảm xúc:

Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống...

Bởi vì, không có em thì không có gì cả. Sự luyến ái chính đáng gái trai là cao thượng và thiêng liêng.



Cô giáo Nguyễn Thị Xuân


Nếu nhà thơ Nga vĩ đại Mikhail Lermontov, đã viết những câu thơ bất hủ thần tượng tình yêu đối với người đàn bà:

Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ....

Thì người đàn bà của tình yêu cũng được nhà thơ Phạm Ngọc Thái nâng lên ý nghĩa thần thánh. Nó đọng lại súc tích trong câu kết của khổ thơ:

Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.

Giờ xin trở về với những câu thơ đầu:

Người đàn bà anh mãi mãi không quên
Nàng đã lẫn vào trong cát bụi...

Thế mà tất cả còn lại về nàng chỉ là một hồi ức xa xăm. Hình ảnh hai chữ "cát bụi" - Ý nói, tình yêu thuở xa xưa đã chìm lấp vào trong những tháng năm trôi dạt của cuộc đời. Khắc họa tình yêu trong bối cảnh nổi chìm ở dân dã. Tức là, tác giả đề cập về chủ đề "tình yêu và cuộc sống" chốn nhân quần. Tôi bỗng nhớ đến bài thơ "Những bóng người trên sân ga" của thi nhân Nguyễn Bính. Ông tả về cảnh chia ly trong nhân tình:

Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

Cuộc chia ly trong "những bóng người trên sân ga" của Nguyễn Bính và cuộc chia ly tình yêu với người đàn bà của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, có gì khác nhau? Ta không rõ. Nhưng chắc tâm trạng thì cũng là... "buồn ở đâu hơn ở chốn này"? Chỉ biết rằng, sự chia ly tình yêu đó đã để lại trong lòng nhà thơ một nỗi buồn nhớ khôn nguôi, yêu thương da diết. Như câu thơ đã viết :

Người đàn bà anh mãi mãi không quên

Hoặc một kiểu nuối cảm ở "Hai sắc hoa ti-gôn" của nữ sĩ TTKH chăng?

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng
Bởi sau đó nhà thơ đã đặt câu hỏi về nàng?
Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái
Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua?

Nghĩa là, nhà thơ không còn gặp lại và cũng không biết tin tức về em nữa. Không biết giờ em sống ra sao? Hạnh phúc hay là... "bèo dạt mây trôi"? Đó là ý của câu thơ "Nàng đã lẫn vào trong cát bụi..." - Trái tim nhà thơ thổn thức: em có còn nhớ những tháng năm, khi chúng mình yêu nhau? Người đàn bà ấy đã thành thần tượng của đời anh và của cả thi ca.
Cũng nỗi cảm hoài trên, có một khổ thơ được tác giả cảm xúc lại giây phút đã cùng nàng tận hưởng những khoái lạc yêu đương. Đó là khổ thơ thứ hai:

Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa
Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi
Em mở rộng động trinh
để anh vào tận sâu trong hứng khởi
Lúc sướng vui em đã uốn mình.

Đoạn thơ tả thực... nhưng hình ảnh thì lại mang màu sắc thơ mĩ học. Nào là: ánh mắt như sao sa; vòm ngực tiên trắng mềm; động trinh... Những hình ảnh mĩ học đó giúp cho tác giả dẫu tả thực vào xác thể của người yêu, cảm khoái của tình dục, mà thơ không bị thô. Ta đọc câu cuối của khổ:

Lúc sướng vui em đã uốn mình

Hoặc khi tác giả tả về sự khoái lạc tột cùng: Em mở rộng động trinh... để anh vào tận sâu trong hứng khởi /- Hình ảnh mang tính biểu tượng của thơ tượng trưng.

Nói về việc sử dụng biểu tượng thơ tượng trưng - Trong thế giới thơ tình của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, phải thừa nhận rằng: Bên cạnh những hình ảnh nhụy nhàng hoa mỹ, có một số bài anh tả khá sâu vào khoái lạc hay về thân thể người đàn bà, đã đạt được sự thành công. Vẫn đầy tính nghệ thuật ngôn ngữ. Cảm xúc sâu mà thơ huyền ảo, không bị tục. Thí dụ bài "cô áo trắng":

Em bọc trong anh không cần quần áo
Ôi, nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo
Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong
Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!

Rồi nhà thơ kết luận:

Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm!
Bầu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi...

Hay bài "Người đàn bà trắng" - Một trong những tuyệt đỉnh thi ca của anh, đã tả về cái của người đàn bà như thế này:

Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai...
Người đàn bà ai mà định nghĩa?

Thơ Phạm Ngọc Thái thường đi đến tột cùng sự viên mãn của thơ tự do hiện đại. Chính vì vậy mà tác giả đã được mệnh danh là "con đại bàng của thi ca hiện đại Việt Nam".

Nói về khổ thơ cuối cùng. Sau khi gieo một câu thơ đạt đến điểm đỉnh về người đàn bà: Trái tim em chứa linh hồn thánh linh /-Tác giả hạ một đoạn thơ kết bài:

Trấn át ác quỉ bạo tàn
Anh khắc hình hài em trong vũ trụ
Biểu tượng lớn lao của chúng sinh
Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.

Tôi nhớ trong tác phẩm của thi hào Nga Pushkin - Ông từng nói ý rằng: Tình yêu của người đàn bà có thể hoá giải cả hận thù và cải hoá sự tàn ác. Tức là, người đàn bà có thể biến một tên bạo chúa trở nên nhân từ, xoá bỏ vợi đi những tội ác, mang lại lòng nhân ái lớn lao trong cuộc sống con người. Đó là ý nghĩa của câu thơ:

Trấn át ác quỉ bạo tàn...

Hình tượng của khổ thơ kết, nó phản ảnh cả về vị thế cũng như phẩm giá của người đàn bà, trong sự tồn tại của thế giới cộng đồng.
Nếu hai câu thơ trích của nhà thơ Nga Mikhail Lermontov ở trên: Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng / Miếu thờ 
bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ /- Được xem là lời tuyên ngôn bất hủ của tình yêu !... thì hai câu kết ở đây, chính là bản tuyên ngôn của bài thơ "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh" này:

Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.

Hình tượng đúc kết cả tính vũ trụ, lịch sử và nhân sinh... trong ý nghĩa sinh tồn của xã hội loài người. Nó có thể đạt đến tầm vóc là một bài thơ đặc sắc mẫu mực của thơ tự do hiện đại, khi xây dựng biểu tượng về người đàn bà.

Nguyễn Thị Xuân
GV. Trường Tiểu học, Ba Đình, Hà Nội

Facebook, like, và nhu cầu được nhìn nhận







1. Một nghiên cứu

Elizabeth Martin, Facebook activity reveas clues to mental illness (Sinh hoạt Facebook cho thấy dấu hiệu bệnh tâm thần), University of Missouri, Medical Health News Today, 2013.

nói rằng phân tích sinh hoạt của một cá nhân trên mang xã hội Facebook có thể giúp bác sĩ tâm thần hiểu rỏ hơn về tình trạng sức khoẻ của người ấy – cũng cần như hỏi chuyện bệnh lý.

2. Sống ảo qua các hiện tượng mà các báo tường thuật gần đây như “like là cởi”,“nói là làm”, “mình thích thì mình chụp thôi”, … cho ta nhiều …bài học.

. một nữ sinh 13 tuổi tại Khánh Hòa đã giữ lời hứa đủ 1.000 likes đốt trường,

. một thanh niên tự tẫm xăng đốt và nhảy cầu khi đủ 40.000 likes

. L.H. viết là được 20.000 like thì cô ta sẽ trút áo ngực hoàn toàn.

Trong chừng mực nào đó các hiện tượng ấy cũng có thể là biểu hiệu của những tâm thần bất ổn.

.

Ở đây tác giả bài này không nói đến bệnh lý, chỉ phân tích hiện tượng dưới khía cạnh xã hội học.

3. Thông thường trên mạng xã hội mà điển hình là Facebook, người trẻ diễn tả được tâm trạng, lại có người đọc, người thích. Đó cũng là một cách …giải tỏa sự cô đơn – Dù là người đọc không hoàn toàn hiểu mình (Ai tri âm đó mặn mà với ai), nhưng còn hơn là có cảm tưởng … đang hét to trên hoang đảo. Ta cần …trút bầu tâm sự, ta cần có người đọc, người nghe, người thích.

Trên Facebook, dĩ nhiên là ta không gặp những người đối thoại chăm chú lắng nghe như một bác sĩ tâm thần nhưng ít nhất là ta có “bạn”, được cảm thấy không còn cô đơn, được kể chuyện của mình.

Ta cần liên hệ xã hội. Con người là một con vật sống trong xã hội. Ta còn có nhu cầu được thừa nhận, được đồng tình, như một nhu cầu tối cần thiết.

4. Thật vậy, con người không chỉ cần cơm no áo ấm mà còn cần sống với cộng đồng và được cộng đồng nhìn nhận như một thành viên.

Trẻ con thì cần được cha mẹ thương yêu bảo bọc – không có gì làm trẻ khổ hơn khi bị chính cha mẹ mình bỏ rơi, không chú ý đến – nếu ở trong trường hợp đó, cái đau khổ này sẽ theo đuổi cá nhân ấy ngay đến lúc trưởng thành sau này. Mỗi khi gặp khó khăn thì khó khăn sẽ bị phóng đại lên vì “vết thương” khó lành của thời thơ ấu ấy.

Lớn hơn thì cần thầy cô và bạn học ở trường, ở khu xóm, … nhìn nhận. Hiện với internet thì tha nhân là cả thế giới đại đồng. Nhu cầu được thừa nhận bởi xã hội cũng nằm trong ý muốn thoát khỏi sự lệ thuộc của gia đình. Tuổi thiếu niên là lúc rất cần có “bạn” đồng trang lứa.

5. Mạng xã hội Facebook được giới trẻ tiếp đón nhiệt tình vì Facebook trả lời được nhu cầu được nhìn nhận của người trẻ. Hiện hữu là hiện hữu trong mắt của người khác.

Thế là hàng ngày hàng giờ, giới trẻ vào Facebook để truy cập những phản ứng của bạn mình mà cả những …yêu ghét của “vòng bằng hữu” của các bạn ấy. Tức là còn hơn kiểu … bán hàng đa cấp: chỉ cần có 10 bạn thì ta có thể đọc được trạng thái, status, của hàng trăm người hay nhiều hơn nữa. Ta hết cô đơn và ta được có cảm tưởng là thành viên của một cộng đồng rộng với nhiều phản ứng và liên hệ hổ tương!

6. Nhu cầu được thừa nhận có thể biểu hiệu qua nhiều hình thức

. cố gắng học giỏi để được cha mẹ khen

. làm việc hết sức mình để được chủ hay bạn bè khâm phục

. có nhiều tiền bạc để chi cho bè bạn để được, chẳng hạn, một ánh mắt đồng lõa, một cái bắt tay nồng nhiệt, một bữa nhậu vui, …

. …

Nhưng khi các em không có điều kiện để thể hiện các điều như thế thì các em sẽ làm bất cứ việc gì để được thừa nhận, để được yêu thương, ngay cả những việc điên cuồng nhất, những việc trái luân thường đạo lý hay phạm luật.

Các chuyên viên tâm lý học đã giải thích hiện tượng này: nếu ai đó làm bất cứ việc gì để không bị …bỏ rơi thì một là người đó thiếu bản thể, không tự đứng vững trên hai chân mình, cần người đối diện một cách quá đáng. Cũng có thể vì thời niên thiếu đã không đủ tình yêu, có thể vì không đủ tự tin, có thể vì lúc nào cũng có cảm tưởng bị bỏ ngoài lề, không ai biết mình có giá trị, có thể vì đã bị thương tổn lúc bé, …

Những người đó cần được giúp đở.

7. Nhu cầu được nổi tiếng

Báo chí trên mạng hàng ngày đưa nhiều tin của người nổi tiếng. Những người đẹp, người giàu, người có quyền lực, …

Nổi tiếng là … độ tích cực nhất, theo quan niệm của nhiều người, của sự được nhìn nhận.

Đẹp, giàu và có quyền lực, … không ở trong tầm tay của bất cứ trẻ nào. Thế nên sẽ có em tìm đủ mọi cách để … nổi tiếng. Tự đốt mình, đốt trường hay trút bỏ xiêm y là những cách để được nổi tiếng, trong lối suy nghĩ …ngắn của các em. Cái cần, không là kết án những em ấy mà phải hiểu tại sao các em đi đến những suy nghĩ như thế.

8. Cụ thể thì làm thế nào, làm những gì?

. Tôn trọng bản thể của trẻ. Chúng không đòi được chào đời. Cha mẹ đã cho chúng chào đời thì phải có trách nhiệm với chúng, phải thương yêu và bảo vệ chúng. Bàn tay có ngón dài ngón ngắn. Trong một gia đình, trong một lớp học, tất cả trẻ đều độc nhất vô nhị. Làm sao để mỗi trẻ phát triển theo chiều hướng riêng của chúng. Đàn áp bản thể trẻ thì có khả năng là một ngày nào đó chúng “bùng nổ” dưới những dạng bất ngờ.

. Không giáo dục bằng bạo lực. “Yêu cho roi cho vọt” chỉ đúng cho cái thuở mà nhân loại còn dốt về tâm lý trẻ con. Cần nhiều khen thưởng và cần tránh cho trẻ những thất bại không đáng có. Nếu không, để được …yêu thương chúng có thể mạo hiểm “sáng tạo” ra những hình thức rất nguy hiểm để tự khẳng định.

. Đối thoại là cách hay nhất để hiểu trẻ và giúp trẻ phát triển. Đừng quên nói lời yêu thương. Văn hóa Á đông kín đáo, ít biểu lộ tình cảm nhưng dù là được sinh ra ở phương Đông, làm sao trẻ biết được là ta yêu chúng nếu ta không biểu lộ?

. Không đào tạo rập khuôn theo mẫu. Gia đình và trường học phải làm sao ngừng đào tạo những chú lính chì, hay những robot được lập trình trước và hoàn toàn giống nhau.

. Đồng thời môi trường cũng cần được … sạch hóa, báo chí bớt chuyện people (người nổi tiếng), xã hội cần chú trọng đến các sinh hoạt văn hóa giải trí cho trẻ để bồi dưỡng chúng, …

.

Có như thế thì mỗi trẻ sẽ biết tự …yêu mình, không có nhu cầu, bằng mọi giá, được tha nhân thừa nhận hay cần nổi tiếng.

Thí dụ của bạn trẻ sẳn sàng tẩm xăng đốt mình và nhảy cầu là điển hình của người không yêu mình chẳng hạn

.

Chuyện nghiện Facebook cũng là một vấn đề rất quan trọng, cũng cần đặt lên bàn thảo luận.

Nguyễn Huỳnh Mai

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

“Học Thạc sĩ, Tiến sĩ ở Việt Nam là một hiện tượng kỳ dị”




Tác giả: GS.Hoàng Xuân Sính



Người đi làm thạc sĩ hay tiến sĩ của nước ta hầu như chỉ nhằm tiến thân vào chức vụ này nọ, không hề mong muốn có thêm kiến thức để làm việc tốt hơn.
“Có thể có bạn đồng nghiệp nghĩ chúng tôi điên rồ” Có cơ sở đào tạo ra “tiến sĩ giấy”, gây bức xúc xã hội Chúng ta chỉ có toàn học sinh khá giỏi, giáo dục đã cất cánh rồi chăng?


LTS: Chia sẻ với độc giả Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, GS.TSKH Hoàng Xuân Sính (nữ Tiến sĩ Toán học đầu tiên của Việt Nam) nói rằng, đào tạo sau đại học ở Việt Nam là một hiện tượng kỳ dị, vì nhiều người đi học lấy bằng không phải vì mong muốn làm việc tốt hơn mà là để thăng tiến chức vụ.

Lâu năm trong giáo dục, chúng tôi đã thấy ở nước ta có 3 vấn đề rất đáng chú ý: Đối với bậc phổ thông các trường phấn đấu để học sinh đỗ vào đại học; Đối với bậc đại học các trường phấn đấu để sinh viên tốt nghiệp có việc làm; Đối với bậc sau đại học thì ta có một hiện tượng kỳ dị, đó là không phải phấn đấu gì hết.

Chúng tôi xin nói rõ hiện trạng của bậc sau đại học: Trước hết Bộ Giáo dục chưa phân loại “thạc sĩ nghề nghiệp” và “thạc sĩ nghiên cứu”. Thạc sĩ nghề nghiệp th́ì có thể vừa học vừa làm, chỉ đến trường nghe giảng vào hai ngày thứ bảy và chủ nhất mỗi tuần; nhưng thạc sĩ nghiên cứu thì phải dành toàn bộ thời gian để học và học rất căng.

GS.TSKH Hoàng Xuân Sính chỉ rõ, đào tạo sau Đại học ở Việt Nam là một hiện tượng kỳ dị. ảnh: Văn Chung.




Thạc sĩ nghề nghiệp nhằm giúp người đi làm có thêm kiến thức cho công việc được tốt hơn. Còn thạc sĩ nghiên cứu là để dành cho ai có mong muốn dấn thân vào nghiên cứu.

Cho tới nay tôi chưa thấy có quy chế về thạc sĩ nghiên cứu ở nước ta, và tôi đã đọc một văn bản của Bộ Giáo dục đề cập tới thạc sĩ nghiên cứu trong tương lai sắp tới, tôi xin hoan nghênh.

Cho nên khi làm tiến sĩ, các thày hướng dẫn phải chấp nhận nghiên cứu sinh chỉ có thạc sĩ nghề nghiệp, và đành phải làm hộ hoặc cho ra lò những luận án tồi. Vả lại người đi làm thạc sĩ hay tiến sĩ của nước ta hầu như chỉ nhằm tiến thân vào chức vụ này nọ, không hề mong muốn có thêm kiến thức để làm việc tốt hơn.

Hiện nay người ta đi làm thạc sĩ, tiến sĩ thường là với mấy mục đích sau đây: Thứ nhất, mong tiến thân cho những chức vụ có bổng lộc. Thứ hai, xóa đi dĩ vãng học đại học không mấy hay ho như học tại chức, học liên thông, học dân lập bằng cách học thạc sĩ ở những trường đại học lớn – các trường đại học lớn của ta rất khắt khe trong việc tuyển sinh đại học nhưng lại rất nhẹ tay khi tuyển sinh cho bậc sau đại học, khó nghe thấy ai trượt tuyển sinh sau đại học.

Chúng tôi cũng xin nói về học phí học thạc sĩ trong nước. Học phí chính thức không đắt, các trường lấy hầu như bằng nhau, nhưng theo dư luận thì có khoản có biên lai (nghĩa có biên lai cho học phí chính thức), có khoản không có biên lai và khoản này thì tùy từng trường.

Các bạn đồng nghiệp nói với tôi rằng đào tạo thạc sĩ có lời vì nhà trường không phải phấn đấu đào tạo gì cả do người học đã có công ăn việc làm không như với sinh viên ở bậc đại học, và do học phí đã được xác định giữa học viên và nhà trường với những khoản không có biên lai.

Chúng tôi là trường tư, không dám có những khoản không biên lai, cho nên với học phí chính thức thì chỉ đủ chi trả lương thày, mọi khoản khác không tính đến.

Nhiều lần họp Hội đồng quản trị, tôi không trả lời được câu hỏi của một số thành viên: Tại sao người ta lời nhiều với đào tạo thạc sĩ mà trường này lại kêu lỗ? Tôi chẳng biết trả lời ra sao.

Quan hệ người học với thày giáo và lãnh đạo một trường tư có khác: Cứ có chút chút điều gì không vừa lòng thì người học đòi hỏi phải có văn bản để đưa ra chính quyền. Tất nhiên chúng tôi chấp nhận điều đó và coi đó là quyền lợi của người học.

Chúng tôi bắt buộc phải có đào tạo sau đại học, nếu muốn làm công tác nghiên cứu, và cũng là để nâng cao trình độ giáo viên. Nhưng thế giới đều biết là đào tạo sau đại học rất tốn tiền, vì thế ta thấy ở những nước theo giáo dục Anh Mỹ tiền học phí rất cao, trừ các nước chủ trương đại học công là chính như Pháp, Đức thì học phí mới thấp.

Thầy Việt Nam cho điểm gì mà cao thế?

Bộ Giáo dục của ta rất khuyến khích các trường trong nước liên kết với đại học nước ngoài để đào tạo thạc sĩ, điều này cũng dễ hiểu vì chương trình của họ tốt, giáo viên có trình độ khoa học vững vàng và cập nhật; việc liên kết được Bộ khuyến khích bằng cách cho điểm trong xếp hạng phân tầng các trường đại học.

Sau một số năm làm liên kết, chúng tôi nhận thấy rằng áp lực của đối tác liên kết và của người học quá lớn: đối tác luôn đòi tăng phí đào tạo, người học thì không chịu học phí cao, cuối cùng chúng tôi phải chấp nhận bù lỗ. Chúng tôi cho đối tác biết áp lực phải chịu, họ trả lời chúng tôi muốn mua danh tiếng thì phải chịu.

Tôi không biết các bạn đồng nghiệp trong nước thấy thế nào về việc này, đối với chúng tôi, không thấy có danh tiếng gì thêm cho trường khi liên kết với đại học nước ngoài.

Người học đến chỗ chúng tôi học, chỉ chăm chăm có cái bằng nước ngoài mà xã hội coi trọng, không bao giờ kể đến cái trường nơi họ đến học, nó tiếp sinh viên thế nào, nó có đủ phương tiện đáp ứng việc học thế nào?

Hoàn toàn không, chúng tôi chẳng có danh tiếng gì với người học cũng như với xã hội. Nếu có danh tiếng thì là danh tiếng với nước ngoài như sau: họ nói với chúng tôi rằng tại sao mỗi lần thi lại quay cóp nhiều như vậy khiến họ bắt phải thi lại nhiều lần?



“Có thể có bạn đồng nghiệp nghĩ chúng tôi điên rồ”

(GDVN) – Nữ giáo sư, Tiến sĩ Toán học đầu tiên của Việt Nam, nay đã 83 tuổi nói chuyện về làm giáo dục ngày nay. Hóa ra, câu chuyện đâu phải chỉ có tiền nhiều hay ít?


Thày Việt Nam cho điểm gì mà cao thế (phía chúng tôi phụ trách dạy 1/3 chương trình để học phí hạ xuống) để tổng điểm tốt nghiệp bao giờ cũng cao nhất trong 3 nơi thi là Mỹ, Pháp, Việt Nam trong khi điểm đầu vào lại thấp nhất? Danh tiếng của chúng tôi chỉ có vậy.

Trước tình hình liên kết như vậy, cho nên trong giai đoạn hiện nay chúng tôi thấy không nên mở rộng liên kết với đại học nước ngoài mà phải tập trung vào nâng cao đào tạo sau đại học trong nước.

Chúng tôi đã có chủ trương mời thày nước ngoài dạy cho những môn mà chúng tôi thấy cần thiết cho việc hội nhập khi nước mình đã ký một loạt hiệp định thương mại với quốc tế. Vấn đề khó khăn ở đây là học viên không nghe giảng được bằng tiếng Anh.

Vì vậy, chúng tôi đã tung giảng viên của mình dịch bài giảng bằng tiếng Anh sang tiếng Việt, phát bài giảng bằng cả hai thứ tiếng cho học viên trước khi lên lớp, và cuối cùng lúc giảng viên nước ngoài dạy thì giảng viên của chúng tôi ở bên cạnh để dịch và cũng để giải thích khi có thắc mắc.

Một lớp dạy như vậy rất tốn tiền, nhưng chúng tôi chấp nhận, vì:

Thứ nhất giảng viên trẻ của chúng tôi được nâng cao trình độ và có nhiều cơ hội tiếp xúc với đại học nước ngoài.

Thứ hai, việc phát bài giảng cho học viên bằng hai thứ tiếng giúp học viên trong công việc họ đang làm khi họ gặp tình huống phải xử dụng tiếng Anh.

Thứ ba, học viên thấy rõ là chúng tôi tổ chức lớp học như vậy là vì người học.

Qua chuyện trên, là nhà quản lý, chúng tôi hiểu rằng để phản ứng tích cực, nhanh nhạy với tình hình thì phải được chủ động trong tài chính, trong học thuật và trong nhân sự. Tất nhiên là trường tư dễ dàng xử lý hơn trường công vì nhân sự lãnh đạo không nhiều và vì chúng tôi không nhận tài trợ của nhà nước.

Chúng tôi có thể tóm tắt sau các trình bày ở trên : chúng tôi được tự chủ với ít ràng buộc trong chi tiêu và tổ chức – nhân sự. Về học thuật thì chỉ được phần nào như việc tổ chức dạy cao học trong nước như kể trên; còn ngành nghề và khung chương trình thì hoàn toàn là nằm trong khung đã định sẵn.

Và còn việc xin phép liên kết với một đại học nước ngoài thì quả là khó khăn, nó có những quy định mà chúng tôi mong rằng trong tương lai sẽ bớt đi. Mọi người trong chúng ta đều hiểu rằng tự chủ trong học thuật làm trường nổi tiếng.

————–

http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Hoc-Thac-si-Tien-si-o-Viet-Nam-la-mot-hien-tuong-ky-di-post172393.gd

Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2016

GỢI TÌNH






Thị phi đen trắng đời mình
cuộc tình mua bán bóng hình đổi thay
máu tim ngọt vị đắng cay
nửa mê nửa tỉnh đêm ngày cơn say


Vắn dài nỗi nhớ trên tay
thương em thân gái lên đoài xuống đông
bọt bèo vỡ giữa bão giông
sang hèn một mớ bòng bong rối bời


Đua đòi duyên nợ cuộc chơi
đam mê đau đớn nửa đời lãng du
" bướm vàng đậu trái mù u
lấy chồng chi sớm lời ru càng buồn"*


Nẻo tình qua mấy đường truông
đứng lên ngã xuống vở tuồng hài bi
tấm thân cô lữ cần chi
mây trời sông núi chân đi gót mềm


Sạn chai thành quách con tim
nhân sinh một thuở ai tìm đợi nhau
khăn tang một mảnh người trao
câu thơ phúng điếu nhuộm màu thời gian


Một sợi tóc bạc mơ hoang
cắt ngang xẻ doc vầng trăng lọc lừa
em giờ đi sớm về trưa
ta giờ mòn mỏi đẩy đưa con thuyền


Tiếc chi hai chữ nợ duyên
lang thang phố chợ người điên gợi tình...




* Thơ Kiên giang - Hà Huy hà

Báo Tuổi Trẻ Lại Giỡ Trò Fauxtography




Hoàng Hữu Phước, MIB




Vào ngày bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ, Tuổi Trẻ Online đã có thông tin sau:



trong khi theo sự theo dõi ghi nhận của tác giả bài viết này thì không bao giờ có con số 254, và vào thời điểm có 209 của Bà Clinton thì Ông Trump có 216



Sau đó, Ông Trump vượt lên 232, 238, và 244 (lúc 12g05 giờ Việt Nam)



và lúc 13g37 (giờ Việt Nam) thì lúc Ông Trump ngừng xe đổ thêm xăng ở 244 thì Bà Clinton đã lăn lê bò trườn lên 215



để rồi lúc 13g40 (giờ Việt Nam) thì Ông Trump băng vùn vụt lên 264



có nghĩa là chưa bao giờ Ông Trump ở một phút giây nào đó lại thèm ngự tại mức 254 mà Tuổi Trẻ Online công bố.

Chỉ có việc ghi lại kết quả cập nhật mỗi phút một từ các trang mạng nước ngoài mà Tuổi Trẻ Online cũng làm không ra chi cả, nói gì đến chuyện quốc gia đại sự để độc giả người Việt cậy tin!

Hôm nay, ngày Thứ Sáu 11-11-2016, Tuổi Trẻ có bài đăng lúc 19g 09-11-2016 tựa đề “Người Ủng Hộ Bà Clinton Biểu Tình, Ông Oobama Rơi Nước Mắt”



theo đó, Ông Obama đã “không thể ngăn được những giọt nước mắt buồn và tiếc nuối cho người phụ nữ ông đã dành nhiều tâm sức ủng hộ sau khi bà thất bại trước ông Trump”



Các bạn hãy nhìn chữ AP được ghép vào cho bức ảnh có thêm trọng lượng, và hãy lưu ý nguồn ảnh “Twitter/inespohl”.

Là một tờ báo lớn của Thành phố Hồ Chí Minh thế mà Tuổi Trẻ không thể lấy tin từ nguồn chính thống mà lại lấy từ nguồn loại vất sọt rác là Twitter!

Là một tờ báo lớn của Thành phố Hồ Chí Minh thế mà Tuổi Trẻ chỉ lo đơm đặt vu vạ nhét chữ vào mồm Nghị sĩ Quốc hội Khóa XIII Hoàng Hữu Phước rằng ông ấy tuyên bố nhân dân Việt Nam có “dân trí thấp”, chứ không lo sắm đủ trí tuệ để nhận ra một điều sơ đẳng rằng phải nên tập trung tìm đọc tất cả các bài viết blog của ông này để biết rằng trong bài “Quả Thôi Sơn: Nghịch Chiến Song Kỳ” đăng ngày 23-7-2016 thì ông ta đã tự ghép hình có cảnh Obama rơi lệ như sau:



Obama rơi lệ ngày 05-01-2016 khi phát biểu về cuộc nổ súng ở Trường Tiểu Học Sandy Hook ở New Town, bang Connecticut, năm 2012, khi sát thủ 20 tuổi Adam Lanza xả súng sát hại 20 học sinh và 6 giáo viên. Lẽ ra Obama nên nghe lời Tuổi Trẻ Online rơi vài giợt lệ hôm kia khi Hillary Clinton thất bại vì giợt lệ của ông lúc đó mới chứng tỏ rõ nét nhất sự sụp đổ hoàn toàn của Đảng Dân Chủ Con Lừa trong lãnh đạo Tòa Bạch Ốc, lãnh đạo Thượng Nghị Viện, và lãnh đạo Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ.

Như bao tờ báo chính thống khác của Việt Nam đã thất bại thê thảm trong kiên trì kiếm tìm các bài báo rác nói xấu Donald Trump để đăng lại tràn ngập báo chí Việt Nam suốt nửa năm qua, Tuổi Trẻ Online đã rơi lệ vì sự thất bại của “The Whore of Babylon”, và đã che dấu sự tủi hổ của mình bằng cách bảo đó là nước mắt của Barack Obama!

Lời khuyên cho Tuổi Trẻ Online:

1) Một khi đã “cập nhật” tin sốt dẽo toàn cầu thì đừng phân công “nhà báo” nào vừa hay ngủ gục vừa không biết sử dụng máy vi tính;

2) Đừng bao giờ nghĩ rằng “báo chính thống” là quyền lực gớm ghê không ai dám “săm soi” tì vết nên muốn viết gì thì viết; và

3) Nên tìm đọc các bài viết của cái ông nghị sĩ bị “nhét chữ vào mồm” nêu trên vì ông ta là người duy nhất biết những thế ưu việt của Donald Trump qua bài viết “Tôi Ủng Hộ Donald Trump” ngày 01-01-2016 vào thời điểm Trump chưa được chọn làm ứng cử viên Đảng Cộng Hòa, và bài viết “Hoàng Hữu Phước Phỏng Vấn Donald Trump” ngày 12-10-2016 trong đó có kết luận bằng nhóm từ “Trump Triumphs” (tức Trump chiến thắng huy hoàng) mà mãi sau khi bầu cử 09-11-2016 thì tờ Nữu Ước Thời Báo mới dám dùng cụm từ ấy:



Biết bao giờ Việt Nam mới có những tờ báo chính thống của Đảng là nguồn thông tin nghiêm túc, chính đạo, thấu thị, trí tuệ, đáng tin cậy của người dân, và có uy tín với phần còn lại của thế giới!

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2016

Nhân “Mở cửa”, bàn ngoài lề về từ ngữ







Lễ khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội ngày 15-12-1986, là đại hội mở màn cho thời kỳ Đổi Mới.

Ở cái thời 1986 rất chắc chắn là không ai nói “mở cửa” hết. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội 6 không có chữ “mở cửa” nào, trong khi có tới 81 lần dùng từ “đổi mới”.

Báo cáo còn nói thế này ạ:

“Về hoạt động văn hóa, văn nghệ: Công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi.”


Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm Xí nghiệp may tư nhân Minh Châu trong chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng năm 1987, một năm sau đại hội VI. Hình từ trang này

Có vẻ như, Đại hội 6 chủ yếu (quan trọng nhất) là thừa nhận sai lầm và điều chỉnh sai lầm trong quan điểm và thực hành quản lý nền kinh tế thời kì quá độ. Về khái niệm “quốc tế” vẫn chia làm hai phe: Các nước quốc tế anh em và Bọn phản động quốc tế. Do đó hợp tác kinh tế quốc tế vẫn chủ yếu trong Hội đồng tương trợ kinh tế, thậm chí nghiên cứu khoa học cũng tham gia vào khối này. Đẩy mạnh xuất khẩu cũng chủ yếu vào các nước này, và do “nhà nước độc quyền ngoại thương”. Hình như giai đoạn này chúng ta còn thực hiện “nghĩa vụ quốc tế” bằng hình thức xuất khẩu lao động sang các nước trong Hội đồng.


Áp phích thời kỳ Đổi mới. Hình từ trang này

Nghĩa là: Thời 1986, ở tầng vĩ mô chưa thấy nói đến “kinh tế thị trường”, cũng chưa phải “mở cửa” để đón chào vị khách nào mới lạ từ bên ngoài đất nước (và hình thái ý thức) hết.

Mỹ thuật hồi đó hình như bảo nhau “cởi trói”. Chắc cởi trói xong còn vặn vẹo tập tành và ăn uống một thời gian mới có sức “mở cửa” chứ ạ.

Mãi đến Đại hội 8 (1996), tức là 10 năm sau Đổi Mới, mới có một từ “mở cửa” duy nhất trong báo cáo chính trị đại hội; Nhưng là nói rằng:

“Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, MỞ CỬA với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động nhiều nhân tố rất phức tạp, …”.

Sang Đại hội 9 không nói gì đến “mở cửa”, Đại hội 10 cũng chỉ có 1 lần “mở cửa” trong câu: ”MỞ CỬA thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.”

Đại hội 11 ngoài mở cửa ngân hàng, có thêm “lộ trình MỞ CỬA thị trường bảo hiểm”.

Đại hội 12 chẳng nói gì đến “mở cửa”.

Như vậy, Mở cửa đặt cạnh Đổi mới và ăn theo thời gian 30 năm là hơi khiên cưỡng.

Chưa kể, “mở cửa” vẫn hay được dùng cho bên Trung Quốc hơn (để dịch từ “khai phóng” của họ). Đều là sự nghiệp cải cách, nhưng gọi tên thì Trung Quốc là “mở cửa”, Việt Nam là “đổi mới”.


Áp phích thời kỳ Đổi mới. Hình từ trang này

*

Chuyện thêm, ai muốn đọc thì đọc

Tinh thần “mở rộng” và “bình thường hóa” quan hệ quốc tế của Đảng (như một cơ sở để còn mở cửa) có thể thấy qua một chi tiết thú vị của các Báo cáo chính trị (BCCT):

Trong BCCT đại hội 6 (1986): xuất hiện 1 từ “phương Tây”, 43 từ “quốc tế”, 9 từ “phản động”, trong đó có 4 từ “phản động quốc tế”

Trong BCCT đại hội 7 (1991): xuất hiện 2 từ “phương Tây, 46 từ “quốc tế”, 3 từ “phản động”, trong đó không có từ “phản động quốc tế”.

Trong BCCT đại hội 8 (1996): không còn từ “phương Tây”, 28 từ “quốc tế”, không còn từ “phản động”.

Trong BCCT đại hội 9 (2001): không có từ “phương Tây”, 34 từ “quốc tế”, không có từ “phản động”

Trong BCCT đại hội 10 (2006): 38 từ “quốc tế”

Trong BCCT đại hội 11(2011): 49 từ “quốc tế”, 2 từ “phản động” (liên quan đến đồi trụy và lối sống không lành mạnh)

Trong BCCT đại hội 12 (2016): 79 từ “quốc tế”, không nói gì về phản động, đồi trụy, và đổi thành “thiếu lành mạnh”.

Còn về văn nghệ sĩ, BCCT qua các kì đại hội cũng có các “chỉ đạo” tương ứng như sau:

Đại hội 6: “Kết hợp giữa cơ quan nhà nước với các hội sáng tạo văn học, nghệ thuật và các đoàn thể quần chúng khác, theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của cá nhân và tập thể văn nghệ sĩ, liên hệ với quần chúng lao động.”

Đại hội 7: “Sau Đại hội VI, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã ra nghị quyết về văn hóa, văn nghệ, chỉ rõ những định hướng và chủ trương thúc đẩy quá trình đổi mới văn hóa, văn nghệ, khuyến khích anh chị em văn nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo.


Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh (thứ tư từ trái sang) trò chuyện với đạo diễn Trần Văn Thủy(thứ ba từ trái sang) và các văn nghệ sĩ vào ngày 7-10-1987 – Ảnh tư liệu, nguồn từ trang này

“Hoạt động văn hóa, văn nghệ có thêm sức sống, phong phú hơn về nội dung, đưa dạng hơn về hình thức, thể loại và phương thức hoạt động. Đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc các thế hệ có nhiều cố gắng đóng góp vào sự nghiệp đổi mới. Trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, dân chủ được phát huy, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự sáng tạo.”

Đại hội 8: “Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa, vun đắp các tài năng, đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công chúng, dân tộc và thời đại.”

Đại hội 9: “Văn nghệ sĩ nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, trước Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng giáo dục, xây dựng con người.”

Đại hội 10: “Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học, nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ.”

Đại hội 12: “tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ.”

(Văn phong của BCCT vẫn thường tỉnh lược chủ ngữ, có thể lí giải là mọi chủ thể liên quan, cả hệ thống, tất cả, bao gồm tự thân văn nghệ sĩ, đều phải làm chủ ngữ.)

Lưu ý: Mọi nguồn đều trích dẫn từ mục Văn kiện Đại hội của trang điện tử của Đảng ta

Nguồn Soi

Thứ Năm, 10 tháng 11, 2016

Tại sao Pakistan trở thành thánh địa khủng bố?





Nguồn: Brahma Chellaney, “The Pakistani Mecca of Terror”, Project Syndicate 13/10/2016

Biên dịch: Đào Duy Tùng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Gần bảy thập niên sau khi được thành lập như là nhà nước cộng hòa Hồi giáo đầu tiên của thời kỳ hậu thuộc địa, Pakistan đang ngấp nghé bên bờ vực thẳm. Nền kinh tế trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, và các nguồn lực khan hiếm. Chính phủ thì không ổn định, không hiệu quả và gặp rắc rối với các khoản nợ. Quân đội – cùng với Cơ quan tình báo (Inter – Service Intelligence – ISI) khó kiểm soát (rogue) của mình, bao gồm mạng lưới điệp viên và cảnh sát mật của quốc gia này – được miễn trừ khỏi sự giám sát dân sự, tạo điều kiện cho lực lượng này duy trì và tăng cường các mối quan hệ của mình với khủng bố.

Một Pakistan được vũ trang hạt nhân bây giờ đang đứng trước nguy cơ trở thành một quốc gia thất bại. Nhưng thậm chí nếu nó không thất bại, mối quan hệ giữa các nhóm khủng bố và lực lượng quân đội đầy quyền lực của Pakistan làm gia tăng sự lo ngại về khủng bố hạt nhân – một mối nguy cực lớn khiến Hoa kỳ phải chuẩn bị một kế hoạch dự phòng sẵn sàng loại bỏ kho vũ khí hạt nhân đang tăng nhanh của quốc gia này nếu cần.

Không sai khi cho rằng Pakistan là “điểm khởi đầu” (“ground zero”) của mối đe dọa khủng bố mà thế giới đang đối mặt. Dấu vết của nhiều vụ tấn công khủng bố ở phương Tây đã được truy ngược về Pakistan, bao gồm vụ đánh bom Luân Đôn năm 2005 và vụ thảm sát San Bernardino năm 2015. Hai phần tử quan trọng đằng sau vụ 11 tháng 9 năm 2001, và nhiều vụ tấn công khủng bố tại Hoa Kỳ – Osama bin Laden và Khalid Sheik Mohammed – được tìm thấy đang sống an toàn tại Pakistan. Trong các vụ đánh bom Manhattan và New Jersey gần đây, nghi phạm bị bắt giữ, Ahmad Khan Rahami, bị cực đoan hóa tại một trường tôn giáo ở Pakistan gần một cơ sở bí mật của Quân đội Pakistan dành cho lãnh đạo nhóm Taliban của Afghanistan.

Nhưng chính các quốc gia láng giềng đang chịu đựng hậu quả từ chủ nghĩa khủng bố được tài trợ bởi Nhà nước Pakistan. Các vụ tấn công khủng bố lớn tại Nam Á, như vụ tấn công Mumbai năm 2008 và các vụ tấn công vào Đại sứ quán Ấn Độ và Hoa Kỳ năm 2008 và 2011 tại Afghanistan rõ ràng đã được sắp đặt bởi ISI, cơ quan đã nuôi dưỡng các tổ chức khủng bố như Lashkar-e-Taiba, Jaish-e-Mohammad, và Mạng lưới Haqquni để thi hành các mệnh lệnh của mình. Điều này không phải là lời đồn đại; cựu độc tài xuất thân từ Quân đội Pakistan Pervez Musharraf đã thừa nhận rộng rãi điều đó.

Chỉ tính riêng tại Ấn Độ, quân đội Pakistan – bất chấp việc là đội quân lớn thứ 6 trên thế giới, sẽ có rất ít cơ hội để chiến thắng một cuộc chiến tranh quy ước với người hàng xóm khổng lồ của mình – đã sử dụng các nhóm khủng bố ủy nhiệm nhằm phát động một cuộc chiến bí mật. Chỉ riêng trong năm nay, quân khủng bố được hậu thuẫn bởi quân đội Pakistan đã vượt qua biên giới hai lần để tiến hành tấn công các căn cứ quân sự Ấn Độ.

Vào tháng Giêng, Jaish-e-Mohammad đã tấn công căn cứ Không quân Pathankot của Ấn Độ, bắt đầu cho nhiều ngày giao tranh khiến bảy lính Ấn Độ hy sinh. Tháng trước, các thành viên cũng của nhóm này vượt qua biên giới lần nữa và tấn công căn cứ lục quân Ấn Độ ở Uri, giết 19 lính và khiến Ấn Độ tiến hành một cuộc tấn công trả đũa có chọn lọc (surgical strike) vào phiến quân đóng ở khu vực đường ranh giới kiểm soát tại vùng Kashmir đang bị tranh chấp và chia cắt.

Afghanistan và Bangladesh cũng cáo buộc ISI phá hoại an ninh của họ thông qua các đại diện khủng bố. Hai nước này đổ trách nhiệm cho Pakistan về các cuộc tấn công khủng khiếp vừa qua ở thủ đô của mình là Kabul và Dhaka, trong đó một trường đại học và một quán café nằm trong số các mục tiêu.

Những hoạt động như thế khiến Pakistan bị cô lập. Ngay gần đây, các nước láng giềng với quốc gia này – Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka – đã hủy bỏ một Hội nghị của Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á (SAARC) được dự kiến tổ chức vào đầu tháng tới tại Thủ đô Islamabad của Pakistan. Thủ tướng Sri Lanka, Ranil Wickremesinghe, cảnh báo “khủng bố xuyên biên giới” đe dọa tương lai của SAARC.

Tuy nhiên, sự đi xuống về vị thế quốc tế và sự gia tăng cô lập trong khu vực là không đủ để khiến lực lượng quân đội đang thống trị của Pakistan suy nghĩ lại quan điểm của mình về chủ nghĩa khủng bố. Một trong các lý do là Pakistan tiếp tục có các nhà tài trợ đầy quyền lực. Ngoài nhận hỗ trợ tài chính từ Saudi Arabia, Pakistan, trên một vài phương diện, đã được bảo trợ bởi Trung Quốc, quốc gia cung cấp sự bảo vệ chính trị – thậm chí cho những kẻ khủng bố đóng tại Pakistan- tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Tháng này, lần thứ 5 trong vòng 2 năm qua, Trung Quốc đã phá hoại các nỗ lực trừng phạt được đưa ra bởi Liên Hợp Quốc đối với Masood Azhar, thủ lĩnh của Tổ chức Jaish-e-Mohammed có căn cứ tại Pakistan, là nhóm mà Liên Hợp Quốc đã chỉ rõ là một tổ chức khủng bố vài năm trước. Các lệnh trừng phạt được ủng hộ bởi toàn bộ thành viên của Ủy ban chống khủng bố của Hội đồng Bảo an, đặc biệt khi Ấn Độ đưa ra bằng chứng cho thấy Azhar có mối liên hệ với các vụ giết choc khủng bố tại 2 căn cứ quân sự của họ.

Tuy nhiên, về viện trợ tài chính thì chính Hoa Kỳ lại đóng vai trò là nhà hảo tâm lớn nhất của Pakistan. Chính xác là thế vì thậm chí sau khi phát hiện các dấu hiệu của Bin Laden trên lãnh thổ Pakistan, Hoa Kỳ – quốc gia dẫn đầu cái gọi là Cuộc chiến chống khủng bố – không chỉ tiếp tục chuyển hàng tỷ đô viện trợ cho Pakistan, mà còn cung cấp cho nước này một lượng lớn vũ khí sát thương. Chính quyền Tổng thống Barack Obama cũng chống lại một bước đi tại Quốc hội để chính thức quy Pakistan là một quốc gia tài trợ khủng bố.

Cách tiếp cận này thể hiện cam kết của Obama đối với việc dụ dỗ quân đội Pakistan thuyết phục Taliban đồng ý về một thỏa thuận hòa bình tại Afghanistan. Nhưng chính sách đó đã thất bại. Hoa Kỳ vẫn mắc kẹt trong cuộc chiến dài nhất trong lịch sử nước này, khi mà một Taliban đang hồi sinh đã tiến hành ngày càng nhiều các cuộc tấn công đầy thách thức tại Afghanistan với sự trợ giúp của cơ cấu kiểm soát và chỉ huy của họ tại – như các bạn cũng đoán được – Pakistan. Không một chiến dịch chống khủng bố nào từng thành công khi mà các phiến quân được tận hưởng các nơi trú ẩn xuyên biên giới như thế.

Đạt được hòa bình tại Afghanistan, cũng như ngăn chặn sự lan truyền của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, sẽ là điều không thể nếu không làm cho quân đội Pakistan chịu trách nhiệm trước chính phủ dân sự của quốc gia này. Hoa Kỳ có rất nhiều đòn bẩy: Pakistan là một trong những nước có tỷ lệ thuế trên GDP thấp nhất trên thế giới, và phụ thuộc đáng kể vào viện trợ nước ngoài và Hoa Kỳ. Hoa Kỳ nên sử dụng ảnh hưởng đó để chắc chắn quân đội Pakistan phải phục tùng – và có trách nhiệm.

Brahma Chellaney, giáo sư nghiên cứu chiến lược tại Trung tâm Nghiên cứu Chính sách ở New Delhi và nghiên cứu viên tại Học viện Robert Bosch ở Berlin, là tác giả của chín cuốn sách, trong đó có Asian Juggernaut, Water: Asia’s New Battleground và Water, Peace, and War: Confronting the Global Water Crisis.

Copyright: Project Syndicate 2016 – The Pakistani Mecca of Terror

- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/11/11/pakistan-thanh-dia-khung-bo/#sthash.I4Jv4NJC.dpuf

THƠ KHÓC



PILINSZKY JÁNOS



Một sợi tóc duy nhất chẳng thể cong
ta giữ gìn những nếp nhăn nhỏ nhất
bướng bỉnh khăng khăng hơn đá tảng
đến tận ngày xử án.

Nước mắt trốn chạy rụt rè trong ta
những mạch ngầm rỏ rỉ,
và những mùa xuân không đáy bới đào
sự lặng im toàn trí.

Trong những người tình khóc đến tận bình minh
tình yêu chết mòn như thế đấy,
và giờ đây không phải họ ôm choàng nhau nữa
sự bất tử quyện lấy nhau!

Một hiện thực tròn vẹn vĩnh hằng nào đó
giữ gìn tất cả số phận chúng ta;
kiên cường, như đá tảng,
giờ, không phải ta ôm chặt họ nữa rồi…



NGUYỄN HỒNG NHUNG dịch từ nguyên bản tiếng Hungary

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2016

Con người không bắt nguồn từ khỉ? - Những lỗ hổng trong thuyết tiến hóa Darwin




GS Phạm Việt Hưng
Viethungpham.com





Mendel: Cha đẻ của lý thuyết di truyềnTóm tắt: Khi còn là một học sinh trung học, như bất kỳ một học trò nào khác, tôi tin vào học thuyết Darwin. Chúng tôi còn quá ngây thơ để biết sự thật. Thế hệ tôi không may không được học di truyền học. Chúng tôi không biết gì về Mendel. Thầy dạy sinh vật của tôi nói di truyền học là một lý thuyết phản động (!). Nhiều năm sau, tôi biết đó là nói dối. Khi tôi hiểu di truyền học là gì, tôi nhận ra học thuyết Darwin cũng chỉ là một lời nói láo. Nay là lúc nói sự thật: Mendel bác bỏ thuyết tiến hóa của Darwin như thế nào.

Một cái nhìn tổng thể lướt qua Mendel và Darwin

Thật "may mắn" cho Darwin vì rốt cuộc ông đã không phải trực diện đối mặt với một nhà khoa học lỗi lạc cùng thời, đó là Gregor Johann Mendel (1822 - 1884), một tu sĩ công giáo người Áo, cha đẻ của Di truyền học. Nếu phải trực tiếp đối diện với Mendel, không biết Darwin sẽ làm thế nào để chống đỡ trước sự tấn công của lý thuyết di truyền do Mendel nêu lên, vì lý thuyết này đã chứng minh một cách không thể chối cãi được rằng cái gọi là 'transformism' - sự biến đổi loài này thành loài khác - của thuyết tiến hóa chỉ là một câu chuyện hoang đường không bao giờ xẩy ra.

Thật vậy, theo lý thuyết di truyền của Mendel, khỉ chỉ có thể đẻ ra khỉ, cá chỉ có thể đẻ ra cá,... không bao giờ khỉ biến thành người được. Không có cái gọi là biến đổi từ từ trong một thời gian dài để một loài này biến thành loài khác. Đó là sự tưởng tượng vô căn cứ của học thuyết Darwin. Từ khi cuốn Về Nguồn gốc các Loài của Darwin ra đời (1859) đến nay đã là 156 năm, thuyết tiến hóa vẫn không có bất cứ một bằng chứng nào để chứng minh cho sự biến đổi từ từ đó.

Chẳng hạn, không có bất cứ một hóa thạch nào để chứng minh cho sự tồn tại của một loài nằm giữa loài người và loài khỉ, mà thuyết tiến hóa bảo đó là tổ tiên của loài người. Sự vắng bóng tuyệt đối của các hóa thạch xác nhận tính đúng đắn của lý thuyết di truyền của Mendel, rằng đặc điểm của loài được bảo tồn trong quá trình di truyền, và do đó một loài không thể biến thành loài khác. Có nghĩa làvề bản chất, lý thuyết di truyền của Mendel chống đối thuyết tiến hóa của Darwin.

Nhưng chẳng lẽ Darwin sống cùng thời với Mendel mà không hay biết gì về Mendel?

Câu trả lời là KHÔNG! Điều này đã được xác nhận trong một bài báo nhan đề "Gregor Mendel" của David Coppedge, một nhà khoa học của NASA từng làm quản lý hệ thống trong chương trình Cassini Mission to Saturn (Sứ mạng Cassini tới Sao Thổ). Trong bài báo đó, Coppedge viết: "... các nhà lịch sử biết chắc chắn Darwin không biết gì về Mendel, mặc dù Mendel biết về Darwin" [1]

Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì thực ra không riêng Darwin, mà nhân loại thế kỷ 19 nói chung không hay biết gì về Mendel, mặc dù công trình của Mendel chính thức được công bố từ năm 1866, tức 7 năm sau khi Darwin công bố cuốn Về Nguồn gốc các Loài. Thực tế là công trình của Mendel đã bị chìm trong quên lãng, không được người đời biết đến trong một khoảng thời gian dài, ít nhất từ khi nó được công bố đến khi nó được tái khám phá vào năm 1900, tức là 34 năm nằm trong bóng tối! Darwin mất năm 1882, tức là 18 năm trước khi công trình của Mendel được dư luận rộng rãi biết đến.

Ngược lại, Mendel biết rõ thuyết tiến hóa của Darwin, và ông coi những định luật di truyền do ông khám phá sẽ đặt ra một thách thức nghiêm trọng đối với lý thuyết 'transformism' của Darwin - lý thuyết về sự biến đổi loài này thành loài khác (tư tưởng cốt lõi của thuyết tiến hóa).

Tuy nhiên, thế kỷ 19 chưa phải thời của Mendel. Thậm chí cho tới nửa đầu thế kỷ 20, thuyết tiến hóa của Darwin vẫn được coi là thuyết chính thống trong sinh học, được tiếp nhận hồ hởi như một thứ "khoa học nền móng" của trào lưu vô thần, mà đỉnh cao là vụ án Scopes [2] ở Mỹ và chủ nghĩa quốc xã ở Đức cùng với những thứ "dị bản" khác nhau của chủ nghĩa đấu tranh sinh tồn trên khắp thế giới.

Tuy nhiên, kể từ khi lý thuyết di truyền của Mendel được biết đến và được phổ biến ngày càng rộng rãi hơn trong thế kỷ 20 thì mối đe dọa đối với thuyết tiến hóa cũng ngày càng lớn hơn. Người cảm nhận nguy cơ này rõ ràng hơn ai hết chính là những môn đệ của chủ nghĩa Darwin. Họ nhanh chóng nhận ra sự cần thiết phải lắp ghép học thuyết di truyền của Mendel vào thuyết tiến hóa. Đó là lý do để chủ nghĩa Tân-Darwin (neo-Darwinism) ra đời mà chúng ta sẽ bàn đến ở phần dưới trong bài này. Nhưng ngay bây giờ cần phải biết mọt sự thật là các nhà tiến hóa học đã phải tìm cách chống đỡ lý thuyết di truyền của Mendel. Hãy nghe David Coppedge (đã dẫn) nói về điều này:
"Như chúng ta sẽ thấy, ngót 72 năm đã trôi qua trước khi người ta không thể không biết đến những khám phá của Mendel nữa. Trong những năm 1930, sau chiến thắng trong vụ án Scopes, học thuyết Darwin bùng nổ ở mức không thể ngăn chặn được nữa. Từ đó hình thành một xu thế trộn lẫn thuyết di truyền của Mendel vào trong thuyết tiến hóa. Trong đó những đồ đệ của chủ nghĩa Tân-Darwin có xu hướng nhận vơ Mendel như người thuộc trường phái của mình, nhưng những bằng chứng cho thấy vị tu sĩ công giáo này chẳng có chút quan hệ dây mơ rễ má nào với học thuyết tiến hóa cả".Đúng như vậy, Gregor Mendel là một tu sĩ công giáo tin vào thuyết sáng tạo, làm sao có thể chấp nhận thuyết tiến hóa? Nhưng Mendel không chống lại học thuyết Darwin bằng tôn giáo và triết lý, mà bằng chính công trình nghiên cứu khoa học của ông - những định luật về di truyền.

Muốn hiểu lý thuyết di truyền của Mendel chống lại thuyết tiến hóa ra sao, phải tìm hiểu khái niệm di truyền.

Từ xa xưa, thông qua những quan sát thông thường như con cái giống cha mẹ, cháu chắt giống ông bà, mọi người đều tin có di truyền. Nhưng mãi cho tới giữa thế kỷ 19 vẫn không ai biết cơ chế di truyền tác động ra sao và diễn ra như thế nào. Đa số mọi người cho rằng yếu tố di truyền nằm trong máu, và sự pha trộn các dòng máu sẽ chuyển giao các yếu tố di truyền của cha và mẹ cho con cái. Quan niệm ấy còn quá thô sơ và cách xa sự thật. Phải đợi tới khám phá của Mendel, cơ chế di truyền mới được sáng tỏ. Nhưng như chúng ta đã thấy, Darwin không hay biết gì về công trình của Mendel, do đó ông đã phạm sai lầm lớn khi áp dụng một quan niệm sai lầm về di truyền của Jean Baptiste Lamarck vào thuyết tiến hóa.

Tư tưởng về di truyền của Darwin trong thuyết tiến hóa

Theo trang mạng Darwinsim Refuted (Học thuyết Darwin bị bác bỏ) [3] , vấn đề di truyền đặt ra một tình thế bối rối cho thuyết tiến hóa của Darwin. Khi Darwin đang xây dựng lý thuyết của mình, vấn đề làm thế nào mà sinh vật truyền được các đặc tính của chúng cho các thế hệ tiếp theo, tức là làm thế nào mà sự di truyền xẩy ra, vẫn là một câu hỏi chưa được giải đáp. Niềm tin ngây thơ cho rằng sự di truyền được truyền qua máu vẫn được chấp nhận một cách phổ biến. Niềm tin mập mờ ấy dẫn Darwin tới chỗ đặt lý thuyết của mình trên một nền tảng sai lầm.

Để thấy rõ sai lầm đó, trước hết phải biết rằng thuyết tiến hóa của Darwin dựa trên cơ chế "chọn lọc tự nhiên" (natural selection). Chọn lọc tự nhiên là sự chọn lọc những "đặc tính có lợi" (useful traits) để di truyền lại cho các thế hệ sau. Tuy nhiên vấn đề vẫn chưa được trả lời: Làm thế nào để "những đặc tính có lợi" được chọn lọc và chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo?

Tại đây, Darwin đã ôm lấy lý thuyết của Lamarck, đó là lý thuyết về "sự di truyền những đặc tính mới giành được" (the inheritance of acquired traits).

Những đặc tính mới giành được không phải là những đặc tính bẩm sinh, mà là những đặc tính giành được sau khi ra đời, trong quá trình sống và thích nghi với môi trường, và có thể di truyền lại cho các thế hệ tiếp nối. Darwin rất thích thú với khái niệm này, và ông đưa ra quan điểm cho rằng "đặc tính có lợi" là một loại đặc tính mới giành được. Có nghĩa là Darwin đã sử dụng quan niệm về di truyền của Lamarck để giải thích quy luật chọn lọc tự nhiên, và từ chọn lọc tự nhiên giải thích sự tiến hóa!

Trong cuốn "Bí mật lớn về tiến hóa" (The Great Evolution Mystery), tác giả Gordon Taylor cho chúng ta thấy rõ Darwin đã chịu ảnh hưởng bởi Lamarck như thế nào:
"Học thuyết Lamarck được xem như học thuyết về sự di truyền các đặc tính mới giành được... Darwin có khuynh hướng tin rằng sự di truyền như thế đã xẩy ra và có trường hợp ông được nghe báo cáo rằng một người bị mất các ngón tay sinh ra những đứa con không có ngón tay... Năm 1868, khi ông công bố cuốn Varieties of Animals and Plants under Domestication (Tính đa dạng của động vật và cây trồng dưới sự thuần hóa), ông đã cho một loạt thí dụ về sự di truyền theo lý thuyết của Lamarck: một người mất một phần ngón tay út và tất cả con trai của người đó sinh ra với những ngón tay biến dạng; những bé trai sinh ra với bao quy đầu có độ dài giảm thiểu là kết quả của nhiều thế hệ được cắt bao quy đầu..."Nhưng dưới ánh sáng của Di truyền học Mendel, giả thuyết của Lamarck đã bị phủ nhận. Các định luật di truyền của Mendel chứng tỏ rằng các đặc tính mới giành được không chuyển giao cho các thế hệ nối tiếp, vì chúng không hề làm thay đổi các gene. Sự di truyền, theo lý thuyết của Mendel, xẩy ra theo những định luật bất biến xác định. Bất kể những con bò mà Darwin nhìn thấy ở khắp nơi sinh sản thế nào, bản thân loài bò không bao giờ thay đổi: bò luôn luôn vẫn là bò. Các định luật di truyền của Mendel đã hủy hoại thuyết tiến hóa!

Năm 1866 Gregor Mendel công bố các định luật di truyền do ông khám phá. Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 công trình này mới bắt đầu thu hút sự chú ý của thế giới khoa học. Đầu thế kỷ 20, chân lý của các định luật này mới được chấp nhận bởi toàn thể cộng đồng khoa học. Đây là một đòn chết người đánh vào lý thuyết của Darwin - một lý thuyết sử dụng khái niệm "di truyền những đặc tính có lợi" dựa trên lý thuyết sai lầm của Lamarck.

Nhiều sách báo nhắc tới một sự thật là lý thuyết của Mendel chống lại mô hình của Lamarck, nhưng tảng lờ sự thật là lý thuyết Mendel chống lại cả Darwin, vì Darwin tiếp thu mô hình của Lamark để giải thích sự di truyền những đặc tính có lợi trong quá trình chọn lọc tự nhiên. Vậy hãy trả lại sự thật cho khoa học: Lý thuyết Di truyền của Mendel chống lại cả Lamark lẫn Darwin, như bài báo "Mendel's Opposition to Evolution and to Darwin" (Sự chống đối của Mendel đối với thuyết tiến hóa và Darwin) trên Tạp chí Di truyền (Journal of Heredity) đã nói rất rõ: "Ông ấy (Mendel) đã quen thuộc với cuốn Về Nguồn gốc các loài của Darwin ... và ông chống lại lý thuyết của Darwin..."

Tóm lại, các định luật do Mendel khám phá đã đặt học thuyết Darwin vào trong một tình thế vô cùng khó khăn. Vì thế, trong phần tư đầu tiên của thế kỷ 20, các nhà khoa học ủng hộ học thuyết Darwin đã tìm cách cứu học thuyết này bằng việc xây dựng một mô hình tiến hóa mới: "chủ nghĩa Tân-Darwin" ra đời. Nhưng trước khi tìm hiểu về Tân-Darwin, hãy tìm hiểu các định luật di truyền của Mendel.

Ba Định luật Di truyền do Mendel khám phá

Tận tụy làm việc trong một khu vườn của Tu viện Thánh Thomas ở Brunn, nước Áo, Gregor Mendel đã thực hiện những thí nghiệm kéo dài trong nhiều năm, với những kỹ thuật khéo léo dựa trên một phương pháp khoa học chính xác và thuyết phục.

Nếu đánh giá tính khoa học của một công trình nghiên cứu theo tiêu chuẩn của Pasteur, rằng "Đừng đưa ra bất kỳ điều gì mà anh không thể chứng minh bằng thực nghiệm", thì sẽ thấy Darwin và Mendel là hai phương pháp đối lập - trong khi học thuyết của Darwin chứa toàn những mô tả chủ quan mang tính phỏng đoán, tuyệt đối không có một thí nghiệm nào để kiểm chứng, thì lý thuyết của Mendel dựa trên những thí nghiệm đạt tới độ chính xác như vật lý và toán học, có thể kiểm chứng bất kỳ lúc nào, và cho phép tiên đoán chính xác những sự kiện sẽ xẩy ra trong tương lai dựa trên những nguyên lý đã tổng kết.

Thật vậy, công trình của Mendel thường được ví như một kiểu mẫu giáo khoa về phương pháp thực nghiệm, đòi hỏi sự kiên trì, sự chú tâm tới các chi tiết, sự ghi chép cẩn thận, và một cái nhìn sâu thẳm vào bản chất của vấn đề. Trong một dự án kéo dài 10 năm, Mendel đã lai tạo 28.000 cây đậu Pisum, quan sát tính di truyền của 7 đặc điểm được lựa chọn:

- bề mặt của hạt (nhăn hoặc mịn)
- mầu của nội nhũ (vàng, da cam hoặc xanh lá cây)
- mầu vỏ hạt (xanh lá cây hoặc vàng)
- hình dạng vỏ đậu (phồng hoặc dẹt)
- mầu vỏ đậu (vàng hoặc xanh lá cây)
- vị thế của hoa (trên trục hoặc ở cuối)
- độ dài cuống (từ 6 feet trở lên hoặc từ 1 foot trở xuống)

Ông chọn cây đậu để nghiên cứu vì cây đậu là loài cây có mùa ngắn (có thể tiến hành thí nghiệm nhiều lần), dễ thụ phấn, có những đặc điểm rõ ràng dễ nhận thấy và có thể che chắn để khỏi bị thụ phấn lai tạp một cách tùy tiện. Ông dành 2 năm đầu tiên để tạo ra những cây đậu thuần chủng đúng loại, rồi dành 8 năm tiếp theo để thụ phấn lai tạo theo dự án và xác định chính xác số lượng các đặc điểm xuất hiện ở các đời con cháu. Khó có thể tưởng tượng được một người âm thầm làm việc một mình trong vòng 10 năm như thế để theo đuổi mục tiêu khám phá sự thật về di truyền. Cuối cùng, vị tu sĩ công giáo trước đó không ai biết đến đã tìm ra những nguyên lý vĩ đại của sự sống, cho phép tiến hành những dự đoán có thể kiểm chứng được, và đặc biệt, có thể trình bầy chúng dưới dạng toán học. Đây là lần đầu tiên toán học bước chân vào sinh vật học, và trở thành công cụ giúp sinh vật học đi tới những nguyên lý chính xác, tương tự như vật lý.

Với trực giác thiên tài, vào thời điểm giữa thế kỷ 19 khi con người chưa biết gì về nhiễm sắc thể và những chi tiết trong việc phân chia tế nào, Mendel đã khám phá ra 3 định luật cơ bản của di truyền học:

Định luật về cặp yếu tố (gene) (Law of Paired Factors (Genes)): Mỗi đặc điểm của sinh vật được quyết định bởi một cặp gene tương ứng. Mỗi cha/mẹ đóng góp chỉ một gene trong cặp gene đó. Mỗi đặc điểm, chẳng hạn mầu vỏ hạt, được đóng góp bởi cả cha lẫn mẹ, nghĩa là, không chỉ một giới xác định mầu của vỏ hạt; trứng và tinh trùng cùng đóng góp một nửa của một đặc điểm cho trước.

Định luật về tính trội (Law of Dominance): Trong một cặp gene, một gene sẽ trội hơn gene kia và sẽ kiểm soát sư biểu lộ ra bên ngoài. Đó là tính trội của gene và gene đóng vai trò trội được gọi là gene trội. Mendel phát minh ra các thuật ngữ trội và lặn để giải thích định luật về tính trội. Thí dụ: tính mịn trội hơn tính nhăn; nếu một thế hệ con cháu có cặp gene trong đó một gene xác định tính mịn, một gene xác định tính nhăn, thì con của nó sẽ biểu lộ tính mịn.

Định luật về tính độc lập (Law of Segregation): Các đặc điểm được di truyền một cách độc lập. Một hạt có thể nhăn và vàng, hoặc nhăn và xanh, hoặc mịn và vàng, hoặc mịn và xanh. Các đặc điểm được chọn một cách độc lập và ngẫu nhiên cho các thế hệ con cháu, nhưng có đủ các phép thử để chúng tuân thủ các quy luật toán học.


  

Để toán học hóa các định luật này, Mendel dùng chữ cái lớn để biểu thị nét trội, chữ cái nhỏ để biểu thị nét lặn. Chẳng hạn với 7 đặc điểm như Mendel nghiên cứu, có thể dùng các chữ cái sau đây để biểu thị A, B, C, D, E, F, G, a, b, c, d, e, f, g. Mỗi cá thể có thể nhận được các đặc điểm như Aa, Bc, dF, ef, ... Mỗi đặc điểm di truyền là một tổ hợp chập hai của các chữ nói trên thậm chí còn hơn thế nữa, vì còn có các cặp dạng AA, bb,... Nghĩa là có thể tính được khả năng một đặc điểm cụ thể nào đó sẽ được di truyền như thế nào ở thế hệ thứ mấy. Tóm lại, Mendel đã mở cửa cho khoa học chính xác bước chân vào một lĩnh vực từ xưa đến nay chỉ là khoa học định tính, mở đường cho di truyền học phát triển chưa từng thấy trong thế kỷ 20.

Thông qua 3 định luật nói trên, một sự thật tự nó tỏ lộ ra rằng các đặc điểm của sinh vật KHÔNG THAY ĐỔI trong quá trình di truyền - các loài được bảo toàn, không có sự thay đổi di truyền để loài này biến thành loài khác. Điều đó đặt dấu chấm hết cho những suy đoán của Darwin và những đệ tử của ông về khả năng pha trộn biến đổi di truyền làm biến đổi loài.

Công trình của Mendel mang một cái tên rất giản dị khiêm tốn "Những thí nghiệm lai giống cây trồng" (Experiments in Plant Hybridization), hoàn thành năm 1865 và công bố năm 1866 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong nhận thức về sự sống.

Nhưng một công trình vĩ đại như thế đã bị lãng quên trong 34 năm. Tại sao?

Tại sao công trình của Mendel bị lãng quên?

Một số tài liệu nói rằng vì nó được công bố trên một tài liệu ít tiếng tăm của Áo, nhưng đó chỉ là một cách né tránh sự thật. Sự thật là nhiều người có thể đã đọc công trình của ông nhưng không hiểu và không đánh giá được ý nghĩa quan trọng của nó. Nhưng mặt khác, và điều này đáng nói hơn, vì công trình của Mendel có nội dung trái với quan điểm di truyền của thuyết tiến hóa, một lý thuyết đang đóng vai trò chính thống, nên không được các nhà sinh học tin vào thuyết tiến hóa ủng hộ. Điều này đã được xác nhận trong bài báo Mendel's Opposition to Evolution and to Darwin (Sự chống đối của Mendel đối với thuyết tiến hóa và Darwin) trên tạp chí The Journal of Heredity, trong đó viết: "Công trình của Mendel đầu tiên bị từ chối, vì hiển nhiên là ông đã tạo ra một lý thuyết chống lại lý thuyết di truyền của Darwin (pangenesis), lý thuyết này lúc ấy đã trở nên phổ biến và được chấp nhận như một lý thuyết chịu trách nhiệm về di truyền". [4]

Thực ra Mendel không chỉ công bố công trình của mình trên tạp chí chuyên môn, mà còn gửi bản sao đến các nhà khoa học có uy tín trong thời của ông. Chẳng hạn, năm 1867, ông đã gửi công trình đến ngài Carl Nageli, người được tạp chí Great Experiments in Biology (Những thí nghiệm vĩ đại trong Sinh học) ca ngợi là "một nhà thực vật học nổi tiếng và một người có thẩm quyền về tiến hóa luận", trong đó Mendel viết: "Tôi không bao giờ quan sát thấy những sự chuyển tiếp quá độ từ từ tứng tí một các đặc điểm của cha mẹ cho con cái". Có nghĩa là ông bác bỏ thuyết tiến hóa - thuyết cho rằng loài này có thể biến thành loài khác thông qua những biến đổi từng tí một trong một thời gian đủ dài. Trong phần kết công trình của mình, Mendel còn nhắc đến một công trình của một người đi trước ông là Gartner. Ông viết:
"Kết quả của những thí nghiệm nghiên cứu khả năng một loài có thể biến thành loài khác đã dẫn Gartner đi tới chỗ chống đối lại ý kiến của các nhà tự nhiên học vốn không tin vào sự ổn định của các loài cây trồng mà tin vào sự tiến hóa liên tục của thực vật. Ông đã đưa ra một chứng minh không thể nghi ngờ rằng các loài là cố định...".Nói một cách dễ hiểu: ban đầu Gartner cũng muốn tiến hành thí nghiệm để kiểm chứng quan điểm của thuyết tiến hóa cho rằng một loài có thể biến thành loài khác. Nhưng những thí nghiệm đó lại dẫn Gartner tới kết quà hoàn toàn ngược lại, rằng các loài giữ nguyên các đặc điểm giống loài của nó, và không thể biến thành loài khác.

Mendel kết luận: "những cây lai tạo giữa những loài này không mất đi một chút nào về sự ổn định của chúng sau 4 - 5 thế hệ".

Xin nhắc lại rằng công trình của Mendel ra đời sau cuốn Về Nguồn gốc các Loài của Darwin 7 năm. Vậy kết luận nói trên của Mendel là một lời nhắn nhủ rõ ràng gửi tới các nhà tiến hóa luận rằng hãy xem xét lại quan điểm về sự biến đổi các đặc điểm di truyền để một loài này có thể biến thành loài khác. David Coppedge viết về điều này như sau:

"Khi học thuyết Darwin chiếm lĩnh thế giới trí thức ở Anh và lan tràn sang lục địa Âu Châu, kết luận nói trên của Mendel dường như một tiếng kèn kêu gọi hãy thức tỉnh để quan sát những suy đoán của thuyết tiến hóa về sự biến đổi loài này thành loài khác. Ông dường như đang hét lên, theo cách lịch sự của ông, rằng "các loài không biến đổi thành loài khác! Chúng thể hiện sự ổn định từ thế hệ này sang thế hệ khác, và các thí nghiệm của tôi đã chứng tỏ sự thật đó. Có ai nghe không?"". Rồi Coppedge trả lời: "Không ai nghe cả. Họ đang say sưa với thứ rượu ngọt của cơ chế tự nhiên đối với cái gọi là 'transformism' - sự biến đổi loài này thành loài khác - làm sao họ thấy được ích lợi gì từ những sự thật khó chịu mà vị tu sĩ ở Áo công bố?".

Cơn say ấy làm cho các nhà khoa học đi theo Darwin quên phắt tiêu chuẩn cơ bản của khoa học là bằng chứng thực tế hoặc thực nghiệm. Không có thực tế và thực nghiệm để chứng minh, thuyết tiến hóa thực chất chỉ là những thảo luận ngụy khoa học. Vì thế Coppedge không coi các nhà khoa học tiến hóa là nhà khoa học, mà chỉ là những người kể chuyện (storytellers). Ông viết: "Mendel thuộc trường phải kinh điển của các nhà khoa học tin vào phương pháp thực nghiệm. Nhưng bây giờ, những người kể chuyện của thuyết tiến hóa tự do suy đoán bừa bãi về quá khứ và tương lai không thể quan sát được rồi gọi đó là khoa học".

Quả thật, thuyết tiến hóa là một chuyện thần tiên kể chuyện con vật này biến thành con vật khác, và tệ hại nhất là chuyện con khỉ biến thành con người. Chuyện bịa đặt đó được tin là chuyện thật, dẫn tới những đối xử tàn bạo, ngược đãi, thảm sát người thổ dân ở Úc và ở nhiều nơi khác trên thế giới chỉ vì họ bị coi là những sinh vật nửa người nửa khỉ [5].

Khi người khổng lồ thức dậy

Nhưng sự thật không thể bị che khuất mãi. "Năm 1900, người khổng lồ đang ngủ thức dậy". Đó một tiêu đề trên trang mạng Famous Scientists (Các nhà khoa học nổi tiếng), mô tả sự kiện tái khám phá ra Di truyền học của Mendel. Quả thật là lý thuyết khổng lồ của Mendel đã bị chìm trong giấc ngủ của nhân loại 34 năm, nay mới thức dậy. Gần như đồng thời, 3 nhà khoa học là Hugo De Vries, Carl Correns và Erich von Tschermak cùng khám phá ra rằng 34 năm trước, Gregor Mendel đã tìm ra những nguyên lý di truyền vô cùng quan trọng. Hugo De Vries có ấn tượng rất mạnh với những khám phá đó, và lập tức trao đổi sự thật mình vừa phát hiện với các nhà sinh học quan trọng khác. Ông cũng nhanh chóng nhận ra rằng lý thuyết di truyền này đặt ra một thách thức đối với lý thuyết của Darwin về chọn lọc tự nhiên.

Thật vậy, chọn lọc tự nhiên nói rằng sinh vật, trong quá trình thích nghi với môi trường, sẽ có những biến đổi về thể chất, và những biến đổi này sẽ được di truyền lại cho các thế hệ tiếp nối. Quá trình này tích lũy dần dần, đến một lúc nào đó biến đổi này trở thành đủ lớn để làm cho sinh vật đó biến thành một loài khác.

Nhưng lý thuyết di truyền của Mendel không cung cấp bất cứ một sự biến đổi nào như thế để làm chỗ dựa cho lý thuyết chọn lọc tự nhiên. Nói cách khác, những biến đổi của sinh vật để thích nghi với môi trường không hề làm thay đổi các đặc điểm di truyền, và do đó không tạo ra loài mới. Hugo de Vries đã tổng kết nhận định này bằng một tuyên bố bất hủ:
"Sự chọn lọc tự nhiên có thể giải thích sự sống sót của con vật thích nghi tốt nhất, chứ không phải sự xuất hiện một loài mới từ con vật thích nghi tốt nhất"Tuyên bố này có thể coi như tấm màn khép lại tấn tuồng "chọn lọc tự nhiên là cơ sở của tiến hóa."

Tóm lại, việc tái khám phá ra lý thuyết di truyền của Mendel đẩy thuyết tiến hóa trong những năm đầu của thế kỷ 20 vào tình trạng khó ăn khó nói, sống dở chết dở. Các nhà khoa học tiến hóa lúng túng không biết đối xử với lý thuyết Mendel thế nào. Không thể bác bỏ nó được, vì chứng minh của nó quá minh bạch, rõ ràng, thuyết phục. Hugo de Vries và nhiều nhà khoa học khác đã làm những thí nghiệm tương tự để kiểm chứng các định luật của Mendel và đi tới kết luận rằng các định luật đó hoàn toàn chính xác, không thể phủ nhận được. Vì thế chỉ còn một lựa chọn duy nhất cho các nhà tiến hóa luận: trộn lẫn lý thuyết của Mendel và Darwin với nhau. Đó là lý do ra đời cái gọi là "thuyết tiến hóa tổng hợp" (synthetic theory of evolution), hoặc "chủ nghĩa Tân-Darwin" (neo-Darwinism).

Chủ nghĩa Tân-Darwin và sự đánh giá của toán học

Lý thuyết Tân-Darwin dựa trên sự di truyền những biến dị ngẫu nhiên (random mutations), có thể tóm tắt như sau:

Trong quá trình sống, hệ di truyền của sinh vật có thể xuất hiện những biến dị ngẫu nhiên có lợi cho việc thích nghi với môi trường, và những biến dị có lợi này sẽ được di truyền lại cho các thế hệ nối tiếp. Qua hàng triệu, hàng tỷ năm, những biến dị này có thể tích phân lại thành một biến đổi lớn làm thay đổi loài.

Tư tưởng đó thổi một sức sống mới vào thuyết tiến hóa, làm thỏa mãn các nhà sinh học tiến hóa đến nỗi trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày ra đời cuốn Về Nguồn gốc các Loài của Darwin, nhà tiến hóa luận Julian Huxley đã tuyên bố dõng dạc đầy tự tin rằng thuyết tiến hóa của Darwin đã đạt tới một sự thật không thể tranh cãi được, và rằng toàn bộ vũ trụ được mô tả trong một quá trình duy nhất và liên tục của tiến hóa luận.

Nhưng trạng thái phớn phở lạc quan đó không kéo dài được bao lâu. Những thách thức toán học do Sir Peter Medawar và nhiều nhà toán học khác nêu lên đã phủ một bóng đen ngờ vực lên khả năng biến dị có thể tích lũy thành một biến đổi lớn làm thay đổi loài - xác suất để sự kiện đó xẩy ra gần như bằng 0, tức là không thể xẩy ra!

Bài báo Mathematicians and Evolution (Các nhà toán học và thuyết tiến hóa) của Casey Luskin [6] trên trang mạng Evolution Newsngày 11/07/2006 cho biết:

Một trong những cuộc xâm nhập của toán học vào khoa học tiến hóa được biết đến nhiều nhất là Hội nghị chuyên đề Wistar 1966 ở Philadelphia, nơi các nhà toán học và các nhà khoa học khác trong những lĩnh vực liên quan đã họp lại để đánh giá xem liệu thuyết Tân-Darwin có thể thực hiện được hay không. Hội nghị diễn ra dưới sự chủ toạ của Sir Peter Medawar, một nhà khoa học từng đoạt Giải Nobel. Sự nhất trí chung của nhiều người tham dự hội nghị là thuyết Tân-Darwin không thể bảo vệ được bằng toán học (The general consensus of many meeting participants was that Neo-Darwinism was simply not mathematically tenable). Biên bản của hội nghị mang tên Mathematical Challenges to the Neo-Darwinian Interpretation of Evolution (Những thách thức toán học đối với sự diễn giải của thuyết Tân-Darwin về tiến hóa) cho biết các nhà toán học đáng kính và các học giả tương tự trong hội nghị đã nêu lên nhiều thách thức khác nhau.

Chẳng hạn, chủ tịch hội nghị, Sir Peter Medawar, tuyên bố lúc khai mạc: "Lý do trực tiếp của hội nghị này là một cảm giác bất mãn rất phổ biến đối với cái đã được xem như một lý thuyết tiến hóa được chấp nhận trong thế giới nói tiếng Anh, đó là cái được gọi là Lý thuyết Tân-Darwin... Có những phản đối được nêu lên bởi những nhà khoa học cảm thấy trong lý thuyết tiến hóa hiện nay có một số thứ đã mất tích... Những phản đối như thế đối với lý thuyết Tân-Darwin là rất phổ biến trong số các nhà sinh học nói chung; và chúng ta, tôi nghĩ, không vì ai cả phải làm cho sáng tỏ vấn đề. Chính sự kiện hôm nay chúng ta có mặt ở hội nghị này là bằng chứng cho thấy chúng ta chưa làm sáng tỏ vấn đề"

Trong tham luận mang tên "Làm thế nào để trình bầy các bài toán đánh giá sự tiến hóa bằng toán học", nhà khoa học Stanislaw Ulam làm tan vỡ niềm hy vọng của thuyết Tân-Darwin bằng nhận định sau đây: "Dường như phải có hàng ngàn, hàng triệu biến dị có lợi để tạo ra một sinh vật phức tạp ở mức thấp nhất mà chúng ta thấy trong cuộc sống hiện nay. Bất kể là xác suất để một biến dị đơn lẻ lớn đến đâu, thậm chí bằng một phần hai, nhưng xác suất để xẩy ra một dãy các biến dị có lợi như thế nối tiếp nhau sẽ phải nâng lên lũy thừa một triệu, như thế bạn sẽ có một xác suất rất gần với zero, và một sự kiện như thế dường như không thể tồn tại trên thực tế".

Tóm lại, thuyết Tân-Darwin không có cơ sở khoa học. Nó không có bằng chứng thực tế, và không được toán học ủng hộ.Thậm chí toán học đã đưa ra những con số mang tính phủ định nó. Rốt cuộc, thuyết Tân-Darwin cũng chỉ là một giả thuyết phi hiện thực. Nó tiếp tục làm khoa học dựa trên các giả thuyết thuần túy không thể chứng minh được. Đó là truyền thống của chủ nghĩa Darwin!

Trong thập kỷ 1980, bằng chứng về sự gián đoạn trong hồ sơ hóa thạch và trong các genes đã chia rẽ các môn đệ của Darwin thành 2 phái: phái "biến đổi từ từ từng tí một" (gradualist) và phái "biến đổi nhẩy cóc" (punctuationist). Đặc biệt Stephen Jay Gould và Niles Eldredge đã phải nổi đóa lên với phái đối lập để thuyết phục rằng đồ thị tiến hóa không phải là một hàm liên tục, mà là một hàm nhảy cóc đột xuất từng đợt một. Cuộc tranh cãi giữa 2 phái này kéo dài cho đến nay chưa chấm dứt. Có nghĩa là phái "gradualist" trung thành với thuyết tiến hóa nhưng bế tắc, còn phải "nhảy cóc" là phái tiến hóa phản bội lại tiên đề của thuyết tiến hóa!

Cuối thế kỷ 20 nhân loại chứng kiến một cuộc bùng nổ tri thức về di truyền học. Người ta đã có thể chỉ rõ ra các gene cụ thể, trong mã di truyền của nó, và quan sát sự sắp xếp của các cặp gene tương ứng vào trong giao tử (tế bào sinh sản trưởng thành, như một tinh trùng hoặc một trứng, có thể kết hợp với một tế bào khác để tạo nên một cơ thể mới). Một hiểu biết mới đã trở nên rõ ràng: tế bào rất khó tính trong việc đảm bảo sao cho các gene được sao chép một cách chính xác và đóng góp không sai sót.

Điều đó có nghĩa là hầu như không có cơ hội cho sự biến dị ngẫu nhiên có lợi.

Trong một số trường hợp có thể có những chữ cái của DNA cá biệt biến đổi mà không gây ra sự hủy hoại - có một sự co dãn nhất định trong mã di truyền sao cho một biến đổi riêng lẻ không tạo nên sự thay đổi bất kỳ một chức năng hoạt động nào cả. Những biến dị đó gọi là biến dị trung tính (vô hại). Người ta cũng khám phá ra cơ chế đọc và sửa chữa rất kỹ lưỡng của DNA, chứng tỏ rằng tế bào có nhiều cách sửa chữa các biến dị. Vả lại, phần lớn biến dị có trong thực tế đều gây ra bệnh tật hoặc tử vong, trong khi cho đến hôm nay các nhà sinh học tiến hóa không thể chỉ ra một trường hợp nào rõ ràng chứng tỏ biến dị dẫn tới loài mới, hoặc thậm chí một biến dị có lợi nào để biện hộ cho lý thuyết chọn lọc tự nhiên.

Rất nhiều ý đồ tạo ra biến dị đã được thực hiện, đặc biệt đối với ruồi dấm Drosophila, nhưng nói chung đề gây nên thiệt hại hoặc chết chóc cho loài này. Không hề có biến dị có lợi.

Trải qua bao nhiêu nỗ lực, cho đến nay, những phỏng đoán của Darwin đang tiến tới bờ vực của sự sụp đổ, trong khi các định luật của Mendel tiếp tục đứng vững.

Kết luận

Lâu đài tiến hóa của Darwin xây trên nền móng là chọn lọc tự nhiên; nền móng ấy được nhào trộn bởi một thứ bê-tông mang nhãn hiệu "biến dị có lợi". Phải có hàng triệu, hàng triệu biến dị có lợi nối tiếp nhau qua hàng triệu, hàng tỷ năm mới có hy vọng tạo ra những biến đổi lớn để xuất hiện một loài mới. Toán học chứng minh xác suất để xẩy ra một sự kiện như thế gần như bằng 0, tức là không thể xẩy ra. Vì thế lâu đài tiến hóa thực chất giống như một lâu đài trong truyện thần tiên, hoặc trong phim hoạt hình, chẳng hạn phim Alice in Wonderland.

Các nhà khoa học tiến hóa là những người kể chuyện giỏi, những họa sĩ tài ba, làm cho người xem cứ tưởng như thật. Cuốn phim vẫn đang tiếp tục được chiếu ở rạp, vẫn có nhiều người vào xem. Trẻ em thì bắt phải xem, và bắt phải tin lâu đài ấy là có thật. Nhưng vì nó là một cuốn phim, một truyện kể, nên rồi cũng sẽ đến hồi kết. Thực tế phim cũng đang đến những đoạn cuối nhạt nhẽo, nhàm chán. Nhiều khán giả đã thấy rõ đây là chuyện thần tiên bịa đặt. Nhiều người đã bỏ ra về.

Nghĩ lại thời học sinh, tôi thấy mình thật ngây ngô. Thầy nói gì cũng tin. Thầy ca tụng thuyết tiến hóa. Thầy kết tội thuyết di truyền. Sau này, khi ngộ ra sự thật, tôi nghĩ đến thầy, và đặt câu hỏi: Tại sao thầy lại tin vào một lý thuyết sai trái và kết tội một lý thuyết đúng đắn? Trong một thời gian dài tôi không tìm được câu trả lời. Mãi đến khi có internet, thông tin bùng nổ, tôi mới tìm được câu trả lời: "Few are those who see with their own eyes and feel with their own hearts" (Ít người nhìn bằng đôi mắt của chính mình và cảm nhận bằng trái tim của chính mình). Đó là lời của Albert Einstein. Einstein quả thật là một nhà hiền triết thâm thúy.

Vâng, đa số tin vào thuyết tiến hóa vì thầy của mình dạy như thế, giống như tôi vậy. Đa số coi nó là một "khoa học" vì quả thật nó là một "khoa học" đã được nhồi sọ cho mọi người từ thủa thiếu thời. Đa số tin vào nó vì nó vẫn đang có những danh hiệu kêu leng keng trong những viện nghiên cứu hoành tráng, vẫn có những giáo sư tiến sĩ giảng dạy nó, vẫn có những đại học danh tiếng tôn vinh nó.

Vẫn có những đại bác học như Francis Collins, một trong hai đồng tác giả của công trình khám phá bản đồ gene người, biện hộ cho nó, cố níu kéo nó, cố gán ghép nó vào lý thuyết di truyền hiện đại... cố chứng minh bộ gene của người rất gần với bộ gene của khỉ, mà lờ đi một sự thật rằng bộ gene của người phần lớn cũng giống bộ gene của chuột, của giun đất,... Điều rất lạ là ông Collins rất tin Chúa, tin rằng Chúa là tác giả của thông tin cài đặt trong DNA, nhưng lại không đủ đức tin để tin rằng Chúa có thể sáng tạo ra mọi loài vật theo ý Chúa mà chẳng cần phải bịa ra bất cứ một thuyết tiến hóa nào cả. Tôi nghĩ ông Collins là một nhà khoa học thực sự có tài, công tâm, một tâm hồn trong sáng, nhưng ông chưa sử dụng hết cái trực giác vốn có ở ông để vượt thoát ra khỏi cái mớ bòng bong của thuyết tiến hóa đã cột chặt ông vào ghế học trò vài chục năm trước.

Những người không nhìn bằng đôi mắt của mình, không cảm nhận bằng trái tim của mình sẽ không bao giờ có khả năng tiên đoán, như tiên đoán đã nói ở cuối mục trước, rằng học thuyết Darwin đã tới bờ vực sụp đổ, và nó sẽ sụp đổ!

Chú thích:

[1] http://www.creationsafaris.com/wgcs_4.htm David F.Coppedge
[2] Vụ án Scopes là vụ án xẩy ra tại tiểu bang Tennessee, Mỹ, năm 1925: giáo viên trung học John Scopes đã vi phạm đạo luật Butler của tiểu bang. Luật này cấm dạy môn học về tiến hóa của con người theo thuyết Darwin tại các trường công. Scopes đã bất chấp luật, đem môn học đó dạy cho học sinh. Scopes bị kết tội, nhưng luật sư bào chữa cho Scopes thắng kiện. Đó là thắng lợi của học thuyết Darwin tại nhà trường, nhưng là thắng lợi chính trị, thay vì khoa học.
[3] http://www.darwinismrefuted.com/short_history_03.html
[4] Bishop, B. E. 1996. Mendel's Opposition to Evolution and to Darwin. The Journal of Heredity. 87 (3): 205-213. Pangenesis là một lý thuyết di truyền do Darwin xây dựng nên, dựa theo giả thuyết sai lầm của Jean Baptiste Lamark. Thuyết này đã bị chứng minh là sai lầm và đã bị loại bỏ. Đáng tiếc là người ta chỉ phê phán Lamark mà không phê phán Darwin.
[5] Xem bài "Missing Links - Những mắt xíc bị mất tích" của Phạm Việt Hưng trên PVHg's Home ngày 05/08/2015
[6] http://www.evolutionnews.org/2006/07/mathematicians_and_evolution002387.html

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2016

5 mỏm đá "hút người" ở Việt Nam


(TTVH) - Nếu bạn có niềm đam mê mãnh liệt với việc chinh phục độ cao, thì 5 mỏm đá dưới đây là điểm đến lý tưởng cho bộ sưu tập “lòng can đảm” của bạn.

Không cần phải đi vòng quanh thế giới mới có thể gom được những khoảnh khắc để đời. Chỉ cần xách ba lô lên và đi. Bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của 5 mỏm đá siêu cao, siêu ảo diệu và siêu “chất” trên dải đất hình chữ S xinh đẹp này.

Đảm bảo khi đã đặt chân đến đây, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc vô cùng vì đang được tận hưởng tuổi trẻ tuyệt vời của mình!

+ Mỏm đá Mã Pí Lèng (Hà Giang)

< Mã Pí Lèng ở đây muốn chỉ đỉnh núi cao như sống mũi con ngựa hoặc nói về sự hiểm trở của vùng đất này. Mỏm đá từng khiến người ta “rùng mình” vì thích thú với cảnh vật quá hoang sơ, thuần khiết và hùng vĩ đến choáng ngợp. 
Dulichgo
Vùng núi phía Bắc là nơi có những con đường đèo quanh co, men theo vách núi cực đẹp và nguy hiểm.

< Hiện mỏm đá Mã Pí Lèng đã không còn được như xưa khi có sự can thiệp cải tạo của bàn tay con người.

Một trong những điểm đến từng làm người ta nôn nao, mong có lần được đặt chân đến đó là mỏm đá nằm cheo leo trên đèo Mã Pí Lèng (Hà Giang).

+ Mỏm đá trên đỉnh Pha Luông (Mộc Châu)

< "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Pha Luông chính là địa danh được nhắc đến trong bài thơ Tây Tiến, với cảnh vật hùng vĩ và hoang sơ của núi rừng Tây Bắc.

< Đây là nơi nhiều người đến ghi lại những bức ảnh để đời và cực nghệ thuật.
Dulichgo
Cách Mộc Châu khoảng 70km, đỉnh núi Pha Luông nằm ở độ cao 1500m là nơi nhiều người đến ghi lại những bức ảnh để đời và cực nghệ thuật. Hành trình tìm đến đỉnh núi không quá dài, tuy nhiên có những đoạn rất khó đi, khiến người muốn chinh phục lại càng cảm thấy thú vị.

+ Mỏm đá Tà Xùa (Yên Bái)

< Mỏm đá Tà Xùa trông như một cái đầu rùa đang thò ra khỏi mai.

Núi Tà Xùa thuộc xã Bản Công, huyện Trạm Tấu (Yên Bái). Quả núi có 3 đỉnh mường tượng như sống lưng của một con khủng long thời tiền sử này, được xem là ranh giới tự nhiên giữa Yên Bái và Sơn La.

< Đỉnh cao nhất có độ cao 2865m và là đỉnh núi xếp thứ 10 trong 10 đỉnh núi cao nhất Việt Nam.
Dulichgo
Rất nhiều người tìm đến đây để chinh phục 3 đỉnh Tà Xùa và đặt chân đến mỏm đá nằm giữa núi rừng bao la hùng vĩ. Và để làm được điều đó, chỉ niềm đam mê và lòng can đảm thôi chưa đủ, mà bạn còn phải có đủ sức lực để chinh chiến trong khoảng ba ngày hai đêm ở vùng núi này.

+ Mỏm đá Đồng Cao (Bắc Giang)

< Đây là điểm đến tuyệt vời cho ngày cuối tuần của du khách đến từ Hà Nội.

Cách Hà Nội khoảng 150km, đây là điểm đến lí tưởng cho những ai muốn rời xa khói bụi thị thành, tìm đến nơi được hòa mình cùng thiên nhiên trong lành.

< Không gian bao la, rộng lớn nơi đây khiến du khách cảm thấy rất thích thú và tuyệt vời.
Dulichgo
Không gian bao la, rộng lớn nơi đây khiến du khách cảm thấy rất thích thú và tuyệt vời. Sự mênh mông, cao vời vợi và màu xanh hòa quyện giữa đất trời, cây cối luôn làm cho tâm hồn con người cảm thấy nhẹ tênh.

+ Mỏm đá Thạch Thất (Hà Nội)

< Bạn có thể đưa mắt nhìn xa khơi để cảm nhận sự bao la và hùng vĩ khi đứng trên mỏm đá nằm cheo leo đỉnh núi này. Đây là nơi mà giới trẻ dễ dàng tạo cho mình những bức ảnh sống ảo cực "chất". 

Cách Hà Nội không quá xa và đường đi không quá khó, mỏm đá này được giới trẻ tìm đến “sống ảo” khá nhiều.

Từ đây, quan sát cảnh vật xung quanh, bạn sẽ cảm nhận nó chẳng khác nào là một bức tranh được chấm phá bởi bàn tay mẹ thiên nhiên.

Theo PV (Thể Thao Văn Hóa)
Du lịch, GO!