" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016
Thực trạng đáng buồn về việc dạy và học Văn ở trường phổ thông
NGUYỄN HOÀNG NGUYÊN (Cần Thơ)
Tôi là một giáo viên dạy Văn đã trên 20 năm. Đọc ý kiến của chị Chu Thị Hảo trên tạp chí Hồn Việt số 106 (tháng 8-2016), tôi cảm thấy không thể im lặng, vì vậy tôi mạn phép được trao đổi với chị Chu Thị Hảo. Tôi tin rằng những dòng tôi viết ra đây không phải chỉ là tâm sự của riêng tôi mà cũng là tâm sự của giáo viên dạy Văn cả nước, những người đang làm nhiệm vụ vô cùng cao quý là gieo mầm tinh hoa dân tộc cho nhiều thế hệ học sinh của mình… Nhưng làm cách nào để các em yêu Văn và say sưa với những áng văn hay của dân tộc như ngày xưa chúng tôi đã từng say mê… Điều đó thực quá khó!
Đọc bài viết của chị Chu Thị Hảo, tôi thấy chị toàn nói những điều chỉ đúng về mặt lý thuyết, đúng như trong “chủ trương đường lối” của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhưng không hề đúng với thực trạng dạy Văn - học Văn đang diễn ra tại các trường phổ thông. Chị Chu Thị Hảo giảng dạy ở Trường bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý nên có lẽ chị không thực sự hiểu hết những bất cập, khiên cưỡng… đang diễn ra hằng ngày tại trường phổ thông. Người ta nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Chỉ có những giáo viên ở trường phổ thông đang trực tiếp đứng lớp dạy (với đối tượng là học sinh đủ mọi thành phần, mọi trình độ) thì mới “thấm”, mới thấy hết mặt trái của nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Muốn áp dụng được những điều như chị Chu Thị Hảo nói (lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là bạn đọc sáng tạo, học sinh phải vận dụng tri thức về lịch sử văn học, lý luận văn học, tri thức ngôn ngữ… để khái quát văn bản, học sinh được thực hành giao tiếp, đối thoại với nhau nhiều hơn...) thì ngành giáo dục phải thay đổi cách quản lý giáo viên và học sinh về mặt thời gian, cách đánh giá giáo viên, đánh giá học sinh cũng phải khác đi thì may ra mới “lấy học sinh làm trung tâm” được!
Dường như những cái mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra chỉ mang tính “lý tưởng”, nếu không nói là “hoang tưởng”. Dù nó hay ho thế nào nhưng nếu không áp dụng được vào thực tiễn giảng dạy ở trường phổ thông thì cũng trở thành “lý thuyết suông” thôi.
Chị Chu Thị Hảo có nhắc lại những lần tập huấn thay sách giáo khoa (SGK) và đổi mới phương pháp dạy học. Xin thưa: Tôi vẫn nhớ những mốc thời gian đó vì mỗi lần “đổi mới” như vậy thì giáo viên chúng tôi phải đi tập huấn mấy tuần nhưng nó chẳng mang lại lợi ích gì cho việc giảng dạy ở trường. Các cán bộ cốt cán của Phòng GD-ĐT, của Sở truyền đạt lại những điều mà họ được tập huấn ở Bộ, họ cũng nói những điều giống như chị Chu Thị Hảo đã nói trong bài báo; nhưng những điều đó có áp dụng được vào thực tế giảng dạy hay không thì họ cũng không biết, vì họ hầu hết làm việc ở Phòng, ở Sở hoặc làm quản lý ở trường chứ không trực tiếp đứng lớp dạy học sinh.
Vào đầu mỗi năm học, mỗi giáo viên được phát một bản “Phân phối chương trình”, trong đó quy định thời gian dành cho từng bài học cụ thể (ví dụ: đoạn trích “Trao duyên” chỉ được dạy trong 1 tiết, đoạn trích “Chí Phèo” chỉ dạy trong 2 tiết…), giáo viên phải cố gắng gói ghém dạy làm sao đừng bị cháy giáo án, đừng bị thiếu thời gian theo quy định vì Ban giám hiệu yêu cầu “giữa việc ghi tên bài học vào Sổ đầu bài, vào Lịch báo giảng theo Thời khóa biểu phải trùng khớp với thời gian quy định giảng dạy trong Phân phối chương trình. Nếu giáo viên nào ghi những bản đó không trùng khớp với nhau thì khi kiểm tra sổ sách sẽ bị phê bình vì làm sai quy định của ngành…”.
Muốn giáo viên và học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo nhưng lại trói buộc về mặt thời gian như vậy đấy, rồi lại suốt ngày bắt làm sổ sách thật đầy đủ để Ban giám hiệu kiểm tra. Lại nữa, muốn hình thành cho học sinh thói quen tự học, tự tìm tòi sách báo để đọc thì phải tạo điều kiện về mặt thời gian và tư liệu tham khảo cho học sinh. Trong khi thư viện của trường chỉ lèo tèo mấy cuốn SGK, mấy bộ đề ôn luyện đại học, mấy cuốn sách giải bài tập, sách học tốt, còn tác phẩm văn học thì rất hiếm hoi… Giả sử học sinh có tiền để tự mua các tác phẩm văn học thì cũng đâu có thời gian mà đọc. Sáng học, chiều học, tối học, đến khuya còn phải thức để làm hết các bài tập Toán, Lý, Hóa… trong SGK và sách nâng cao. Đọc vào lúc nào? Khái niệm“tự học” và “văn hóa đọc” đối với học sinh phổ thông là một thứ xa xỉ!
Tại sao đến tiết Văn, giáo viên cứ phải “học thay”, phải “cảm thụ giùm” học sinh, phải “đọc chép”… chứ không tổ chức cho học sinh tự tìm tòi đọc sách, tự cảm thụ… là vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, cả giáo viên và học sinh đều bị trói buộc về mặt thời gian.
Ví dụ: Trước khi học đoạn trích “Trao duyên”, giáo viên cũng giao cho học sinh về nhà tìm đọc tác phẩm Truyện Kiều và đọc kỹ đoạn trích “Trao duyên”. Nhưng hôm sau vào lớp, giáo viên hỏi các em đã đọc tác phẩm Truyện Kiều chưa thì chưa em nào đọc (kể cả đoạn trích trong SGK cũng chưa đọc). Hỏi tại sao thì các em đưa ra muôn vàn lý do: thư viện không có tác phẩm đó, chưa mua được, hôm qua em bận đi học cả ngày nên không tìm được sách để đọc v.v... Cuối cùng, thời gian không cho phép, giáo viên buộc phải dạy tiết Văn theo kiểu “độc thoại”, lại “cảm thụ giùm” học sinh, lại “đọc chép”… để kịp thời gian theo Phân phối chương trình và kịp phục vụ cho bài kiểm tra sắp tới.
Thứ hai, cả giáo viên và học sinh đều bị áp lực về kiểm tra, thi cử, điểm chác, thành tích.
Trong bản Phân phối chương trình có quy định rõ ràng về thời gian (ngày, tháng cụ thể) để làm bài kiểm tra. Một học kỳ có 4 bài kiểm tra 15 phút và 4 bài kiểm tra 90 phút. Vậy là trung bình tháng nào học sinh cũng phải làm 2 bài kiểm tra môn Văn. Kiểm tra, thi cử liên miên như thế thì chỉ lo dạy Văn - học Văn theo kiểu nhằm phục vụ cho thi cử, điểm chác, khiến cho tâm hồn khô cằn đi, chứ chẳng bồi đắp được gì.
Quy định ra đề cũng thật khiên cưỡng. Trường yêu cầu giáo viên phải ra đề theo cấu trúc: 3 - 7. Phần “Đọc - hiểu” chiếm 3 điểm thì có thể lấy ngữ liệu bên ngoài SGK, còn phần “Làm văn” 7 điểm thì bắt buộc học sinh phải phân tích hoặc cảm nhận một đoạn trích nào đó trong SGK mà học sinh đã được học. Cứ bắt buộc phải là đoạn trích đã được học rồi, chứ không được lấy đoạn trích khác của cùng tác phẩm đó. Trường còn yêu cầu giáo viên phải soạn Hướng dẫn chấm thật chi tiết, tỉ mỉ, phải cho điểm từng ý, phải đủ tất cả những ý như đã nêu, thiếu mất ý nào thì sẽ trừ điểm ý đó. Khi chấm bài thì trường quy định “chấm chéo”, tức là giáo viên lớp này chấm bài lớp kia. Vì giáo viên lớp này chấm bài của học sinh lớp khác nên họ cứ dựa vào “đáp án” để cho điểm chứ không sửa lỗi chính tả, câu cú, cách lập luận cho học sinh, họ cũng chẳng cần biết em học sinh đó có cố gắng, có tiến bộ hơn trước kia hay không.
Muốn giáo viên dạy Văn phải trở thành nghệ sĩ trên bục giảng thì trước tiên đừng ép giáo viên phải dạy Văn theo kiểu phục vụ cho kiểm tra, thi cử như thế! Bởi vì “thi sao thì học vậy”. Nếu muốn tổ chức cho học sinh học theo phương pháp mới thì trường đừng chạy theo thành tích nữa, đừng quá đặt nặng chuyện điểm chác mà hãy hướng đến cái đẹp của văn chương đã mang lại cho cuộc sống.
Có trực tiếp đứng lớp ở trường phổ thông thì mới thấy được những “chiêu” gian lận, đối phó… của giáo viên và học sinh hiện nay.
Trước tiên, nói về việc giáo viên dạy tiết thao giảng để cả Tổ Văn và Ban giám hiệu dự giờ. Một số giáo viên vì sĩ diện nên đã bày trò gian dối khi dạy tiết thao giảng. Trong tiết đó, họ “diễn xuất” khá đạt nhưng nguy hiểm ở chỗ là họ tự dối mình, dối đồng nghiệp và bày cho học trò nói dối. Trước khi thao giảng, giáo viên đó đã gặp học sinh để “gà bài”, “mớm bài” cho học sinh, đưa sẵn câu hỏi và đáp án trả lời cho học sinh. Lúc Ban giám hiệu và các giáo viên vào dự, thấy tiết học được tổ chức “quá tốt” thì khen (nào là theo đúng tinh thấn đổi mới, áp dụng được phương pháp dạy học tích cực vì suốt cả tiết học này giáo viên không cần phải giảng, không phải đọc chép mà học sinh tự làm hết, tự tìm hiểu tác phẩm, chuẩn bị bài ở nhà rất tốt, học sinh thảo luận với nhau theo nhóm rồi lên trình bày trước lớp…). Những tiết dạy “diễn kịch” như thế vẫn diễn ra thường xuyên ở các trường, vẫn được Ban giám hiệu khen nức nở, chỉ có học sinh và đồng nghiệp là đều “biết tỏng” cả rồi! Thế nhưng, khi đã dạy tiết thao giảng xong, qua buổi học hôm sau thì giáo viên đó lại mang cái bài đã dạy trong tiết thao giảng để dạy lại cho thật kỹ với lý do là“hôm trước dạy thao giảng, các em tự làm việc, cô không bắt chép bài nhưng hôm nay cô sẽ giảng lại bài hôm trước đã học để các em chép được đầy đủ hơn vì bài này có nằm trong đề kiểm tra sắp tới”.
Thao giảng, dự giờ, thi giáo viên giỏi, kiểm tra sổ sách, đánh giá xếp loại thi đua… đã khiến cho giáo viên ngày càng gian dối và tìm mọi cách đối phó với cấp trên. Chưa hết, hằng năm giáo viên phải nộp chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm. Lại thêm trò gian dối!
Khi nhà trường yêu cầu nộp “sáng kiến kinh nghiệm”, nếu tôi viết ra những cái chính mình đã áp dụng, ngắn gọn chừng 4-5 trang thì Ban giám hiệu chê là sơ sài. Còn một số giáo viên khác cóp pi đề tài của người khác ở trên mạng thì được khen là khoa học, công phu vì dài tới 20 trang. Điều đáng sợ là năm nào giáo viên cũng phải nộp “sáng kiến” nên họ đã trở nên “chai sạn”, không biết xấu hổ khi “đạo văn” nữa. Giáo viên mà như thế thì không cần nói nhiều cũng biết học sinh ra sao rồi!
Chị Chu Thị Hảo khá lạc quan khi đưa ra dẫn chứng là hai học sinh Đỗ Nhật Nam và Nguyễn Thị Thu Trang để kết luận rằng hai em này là sản phẩm tuyệt vời của nền giáo dục nước nhà, là đại diện cho học sinh Việt Nam. Tại sao chị chỉ nhìn vào vài trường hợp đặc biệt, vào loại “thần đồng” để rồi tung hê lên rằng chất lượng giáo dục của ta như vậy là quá tốt? Tại sao chị không xuống trường phổ thông mà khảo sát để thấy hàng trăm, hàng ngàn học sinh khác tuy đã học tới lớp 12 nhưng kiến thức không hơn một học sinh lớp 3? Những học sinh yếu kém này là sản phẩm của bệnh thành tích, của phổ cập giáo dục (vì phải đạt chỉ tiêu phổ cập nên nhiều em còn “mù chữ” cũng bị đẩy lên lớp, phải hoàn thành việc phổ cập thì mới có cái để báo cáo thành tích).
Lại nữa, theo thầy Võ Văn Khởi ở Tiền Giang, khi gửi thư góp ý với Bộ trưởng Bộ GD-ĐT, mỗi năm giáo viên và học sinh phải tham gia 15 cuộc thi thuộc loại phong trào, điều này càng tạo thêm áp lực cho giáo viên và học sinh. Giáo dục quá nặng về phong trào còn thực chất bên trong thì chỉ có người đứng lớp mới rõ hơn ai hết.
Về việc biên soạn SGK Ngữ văn thì chị Chu Thị Hảo ca ngợi hết lời, nào là khoa học, nào là hợp lý vì nó đảm bảo yêu cầu tích hợp ngang, tích hợp dọc… Vâng! Nhưng nó chỉ hợp lý trên giấy tờ thôi. Còn khi giảng dạy trên lớp thì giáo viên mới thấy được những cái bất hợp lý. Tại sao những tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều, Những người khốn khổ, Tam quốc diễn nghĩa… thiếu gì đoạn hay không trích mà lại chọn đoạn khô khan, kém hấp dẫn nhất trong tác phẩm để trích? Muốn học sinh đọc SGK thì nội dung sách phải hấp dẫn chứ, đằng này học sinh vừa mới cầm sách lên, xem qua đoạn trích đã thấy chán rồi thì còn đâu hứng thú để tìm đọc trọn vẹn tác phẩm nữa? Chúng ta cứ phê phán học sinh ngày nay lười đọc sách, kể cả SGK môn Văn cũng không chịu đọc, nhưng đã bao giờ chúng ta tự hỏi là tại sao lại như vậy?
Tôi nghĩ rằng thực tế dạy Văn ở trường tôi chắc cũng không khác những trường phổ thông khác vì cùng chung một quy chế như nhau. Những hiện tượng này đã từng bị phê phán trong phim truyền hình Rừng chắn cát phát sóng ở VTV, một bộ phim về giáo dục mà giáo viên chúng tôi rất tâm đắc. Trong một môi trường sư phạm mà những nhà quản lý giáo dục chỉ thích phô trương và chạy theo thành tích, còn giáo viên và học sinh thì tìm mọi cách để đối phó, để gian lận thì nền giáo dục đó làm sao mà vươn lên được… Đó là sự thật đau lòng của nền giáo dục chúng ta nhiều năm nay, báo chí cũng nói nhiều, nhưng vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến.
Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016
NGÔN NGỮ VIỆT
Tôi xin được mở đầu bài viết thể hiện cái nhìn của tôi về ngôn ngữ Việt, qua sự trích dẫn quan điểm của ông Phạm Công Thiện trên thư viện mở Wikipedia:
Ngoài ra cũng có thể nhắc đến những quan niệm của ông về tiếng Việt: “Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử, không cần phải đọc Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằng tất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.”
Cái nhìn của ông Phạm Công Thiên đúng hay sai, được “khoa học công nhận” chưa thì chưa bàn vội. Tôi giới thiệu đoạn trích dẫn này chỉ như là một hiện tượng xác định sự minh triết của ngôn ngữ Việt từ ông Phạm Công Thiện – một nhân vật được giới thiệu trên thư viện mở – chắc hẳn phải thông minh hơn nhiều so với Thiên Sứ tôi.
Một hiện tượng thứ hai tôi dẫn ra đây là cái tên cổ của đường Thanh Niên bên Hồ Tây và hồ Trúc Bạch ở Hanoi. Cái tên ấy bây giờ người ta gọi là “Cố (cố gắng) – Ngự (phòng ngự)”. Nhưng trước đây từ đời cụ kỵ của tất cả những người dân Hanoi sinh ra ở cõi Tràng An, đều gọi là “Cổ (Cổ xưa) Ngư (Cá)”. Vậy tại sao nó là thành “cố ngự”?
Cái sự tích nó là thế này:
Vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, có một vị sĩ phu Bắc Hà nào đó (lâu quá tôi quên mất tên vị này) phán rằng: Cổ Ngư thực ra là hiểu nhầm từ văn bản tiếng Pháp vốn ghi âm tiếng Việt không có dấu nên ghi là “Co ngu” và các cụ Nho nhà ta đã phiên âm là “Cổ Ngư”. Chứ thật ra nó là “Cố Ngự” . Căn cứ vào một số nhà ngâm cứu thì cái đường gọi là “Cổ Ngư” đó, thực chất ngày xa xưa là một quãng đê. Vậy chắc chắn nó là “Cố ngự” rồi. Tức là quãng đê này cố gắng chống lại Hà Bá sông Hồng , mỗi khi ngài dâng nước nổi cơn thịnh nộ. Chà! Có lý! Thế là từ đó người ta cứ thế mà phang khi nói đến tên cổ của đường Thanh Niên là “cố ngự” như là một sản phẩm của kiến thức hàn lâm, đã được “khoa học công nhận”.
Ngày ấy, tôi chỉ là một gã thanh niên mới lớn, đọc báo thì biết vậy, chứ cũng chẳng đủ hiểu biết để ý kiến , ý cò gì. “Cổ Ngư” hay “cố ngự” thì cũng chẳng làm phai mờ mối tình đầu dang dở của tôi. Lúc ấy, như nhiều gã thanh niên mới lớn, tôi quan tâm đến mối tình của tôi hơn nhiều thứ trên đời. Nhưng bây giờ, tình đã nhạt phai, ngồi ngẫm lại về ngôn ngữ Việt, tôi mới thấy tính hệ thống và nhất quán của ngôn ngữ cao cấp nhất trong văn minh nhân loại, chính là ngôn ngữ Việt. Và phải bắt đầu từ một địa danh này.
Tôi xin bắt đầu từ “Co Ngu”. “Co ngu” là phiên âm tiếng Tây từ tiếng Việt thì đúng quá rồi. Nhưng nếu thêm dấu để nó thành “Cố Ngự” thì có thế thêm dấu thành rất nhiều chữ khác. Thí dụ:
“Cò (Con cò) ngủ”; “Cỗ Ngự”; “Có Ngu” và tất nhiên là có cả “Cổ Ngư” nữa.
Bây giờ, theo cái nhìn của tôi thì cần đặt lại vấn đề đường Thanh Niên bây giờ có phải ngày xửa, ngày xưa là con đê chắn nước không?
Theo tôi hoàn toàn không! Bởi vì đê chắn sóng sông Hồng thì phải chạy dọc theo sông Hồng. Cho dù ngày xưa, rất xưa Hồ Tây được coi là một nhánh của sông Hồng thì cũng chằng ai mần một con đê chắn ngang Hồ Tây và chia đôi nó thánh Hồ Trúc Bạch cả. Khi mà con đê sông Hồng chạy sờ sờ bên kia Hồ Tây.
Hơn nữa, tôi nhận thấy rằng: Chùa Trấn Quốc có từ trước cả thế kỷ XV. Trước đây nó vốn là hành cung của vua Lê. Sau này, dùng làm nơi để đưa những cung nữ có lỗi ra đấy. Cuối cùng nó mới thành chùa (Theo Doãn Kế Thiện – “Cổ tích và thắng cảnh Hanoi” Nxb Văn Hóa 1959). Vậy thì cái đê “cố ngự” ấy lập nên để làm gì khi con đường vào chùa Trấn Quốc phải có từ rất lâu, ít nhất từ hàng trăm năm trước vào thời Lê Trịnh. Chứ không lẽ bơi thuyền vào cung? Giả sử nó thật sự là con đê gì đó thì nó cũng chỉ là đê phụ sau đê sông Hồng, Nhưng đê phụ thì phải trước mặt đê chính chứ không thể sau đê chính để “cố ngự” cả.
Hơn nữa, cái vô lý nó ở chỗ này: chẳng bao giờ cùng một danh từ mô tả một địa điểm, lại nửa nôm, nửa Nho như cái tên “Cố Ngự” cả.
Vấn đề này tôi xin liên hệ với một hiện tượng là nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi lập am ở Hồ Tây thì bà lấy tên là “Cổ Nguyệt” – Trăng xưa. Những địa danh ở quanh vùng đất Thăng Long xưa, có rất nhiều địa danh mang chữ đầu là “Cổ”, như: Cổ Bi, Cổ Lễ, Cổ Nhuế, Cổ Mễ…. Vậy vùng đất Thăng Long xưa có dịa danh “Cổ Ngư” hoàn toàn hợp lý trong sự nhất quán và tính hệ thống với các địa danh gần gũi liên quan.
Và quan trọng hơn cả, khi cụ Doãn Kế Thiện – người sống qua hai thế kỷ XIX và XX – trong tác phẩm của mình vẫn gọi là “Cổ Ngư”. Vậy Tây nó phiên âm tiếng Việt từ chữ “Cổ Ngư” hay “cố ngự”? Khi chính cụ – một học giả cổ xưa vẫn gọi là “Cổ Ngư”. Tức là địa danh Cổ Ngư đã có từ trước cả thời Tây xâm lược nước ta và “co ngu” không thể là “Cò ngủ”, “có ngu”, hoặc “Cố ngự”, mà chính là “Cổ Ngư”
Với địa danh “Cổ Ngư” vừa mang tính nhất quán về tính hệ thống của chữ Nho trong địa danh “Cổ” – xưa cũ, “Ngư” – cá. Chứ không như cái địa danh suy luận không có “cơ sở khoa học” là “cố ngự”, nửa nôm, nửa Việt Nho – Thói quen gọi là từ Hán Việt – này.
Vấn đề được đặt ra mà tôi muốn trình bày với bạn đọc là: tính nhất quán và tính hệ thống của tiếng Việt – ngôn ngữ cao cấp nhất trong lịch sử nhận thức được của văn minh nhân loại mà tôi xin tiếp tục trình bày dưới đây, để chứng tỏ rằng: Ngôn ngữ Việt trong đó bao hàm chữ Việt, không phải thích thì đổi loạn cào cào.
Vì là người Việt, tiếp xúc với ngôn ngữ Việt, nên học bất cứ một ngoại ngữ nào thì cảm nhận đầu tiên là: các bài tập dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt đều rất dễ. Nhưng từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài rất khó. Nhưng vì đang học tiếng nước ngoài chưa thật thông thạo, nên cứ nghĩ là tại mình chưa hiểu hết, nên khó dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài.
Tuy nhiên, tôi cần phải xác định với bạn đọc về một chân lý hiển nhiên là: một ngôn ngữ cao cấp có thể dịch tất cả các ngôn ngữ khác ra ngôn ngữ đó. Ngược lại, một ngôn ngữ kém phát triển hơn thì rất khó dịch từ ngôn ngữ đó ra ngôn ngữ cao cấp hơn. Đó là nguyên nhân chính để dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt rất dễ. Ngược lại thì rất khó là vậy.
Tiếng Việt, ngôn ngữ Việt có khả năng dịch tất cả các văn bản từ các ngôn ngữ trên thế giới ra ngôn ngữ Việt, ngược lại không phải các ngôn ngữ nào cũng có thể dịch một cách hoàn hảo các bản văn tiếng Việt ra ngôn ngữ đó.
Thực tình lúc đầu khi tìm hiểu về cội nguồn Việt sử, tôi cũng chưa nghĩ đến điều này. Nhưng vào đầu năm 2000, hay 2001 gì đó, tôi làm một trang web để trình bày những luận điểm của tôi. Tôi đặt cái tựa là Việt sử 5000 năm văn hiến. và yêu cầu bên làm web có câu tiếng Anh kèm theo. Họ nói với tôi: Trong tiếng Anh không có từ văn hiến. Lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên. Bởi vì không lẽ một ngôn ngữ quốc tế bao trùm mọi lĩnh vực mà lại không có từ này? Nhưng cho đến tận ngày hôm nay, quả là tiếng Anh không có từ này thật. Cuối cùng, để dịch thoát ý từ “văn hiến”, tôi đề nghi dùng thuật ngữ là “nền văn hóa hướng thượng”.
Ngay cả tiếng Hán, một nền văn hóa mà rất không ít người ra rả như ve sầu rằng: Nền văn hóa Việt chịu ảnh hướng từ văn hóa Hán, Hay tệ hơn, họ coi là nền văn minh Hán là chủ thể của văn hóa Việt. Cả thế giới tin điều đó. Nhưng thực ra, vấn đề hoàn toàn ngược lại: Chính nền văn hóa Việt là chủ thể của nền văn hóa Hán, sau khi nền văn minh Văn Lạng sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử. Tất nhiên, nó thể hiện ngay trong ngôn ngữ Việt.
Trước hết tôi xin nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Có thê nói cả thế giới tin rằng nó có cội nguồn từ văn minh Hán. Nhưng sự thực hiển nhiên và sờ sờ ra đấy , là các nhà nghiên cứu Hán hiện đại – tức là tri thức của họ tồng hợp cả một qúa trình lịch sử của một nền văn minh – lại không thể chứng minh được thuyết Âm Dương Ngũ hành ra đời vào lúc nào trong lịch sử văn minh Hán. Chưa hết, trong tất cả các bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay – tính từ khi nền văn minh Việt sụp đổ ở Nam Dương Tử – chưa hề có một cuốn sách Hán ngữ nào mô tả – dù chỉ là tóm tắt sơ lược nội dung của học thuyết này?! Mặc dù hệ thống phương pháp luận của nó lại thể hiện rộng khắp trên tất cả các phương pháp ứng dụng: Dự báo, gồm Tử Vi, Bốc Dịch, Thái Ất, Độn giáp….vv…hoặc kiến trúc xây dựng (Phong thủy; Y học (Đông Y)….?!
Tất cả đều rất mơ hồ và bí ẩn.
Cho nên cả thế giới hiện đại đã coi nền văn minh Đông phương vốn mặc định từ văn minh Hán, hoàn toàn là huyền bí! Ngay cả khi hai nền văn minh Tây phương và Đông phương giao tiếp thì trí thức của cả hai nền văn minh này – gồm có nền văn minh Đông phương được mặc định từ văn minh Hán với những bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay – cũng không thể phục hồi được của cái mà chính nền văn minh Hán tự nhận là của mình.
Về vấn đề này, đã nhiều năm tôi đã chứng minh rằng: Cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử.
Bởi vì, chỉ có nền văn hiến Việt với những di sản văn hoa truyền thống của người Việt – dù đã tan nát qua hơn 2000 năm lịch sử hiện đại – mới có khả năng phục hồi và làm sáng tỏ được học thuyết này. Chỉ có chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương, mới có thể làm sáng tỏ được sự bí ẩn huyền vĩ của nó.
Đương nhiên, khi Việt tộc là chủ nhân đích thực của văn minh Đông phương thì có thể xác định rằng: ngôn ngữ Việt không thể là hệ quả của ngôn ngữ Hán.
Đây là điều hiển nhiên. Bởi vì ngôn ngữ Việt khác hẳn ngôn ngữ Hán, ít nhất là cách phát âm hoàn toàn khác nhau, như tiếng Tây với tiếng Tàu vậy. Một ngôn ngữ cao cấp trong tất cả các ngôn ngữ hiện đại, nếu nó không phải là nguồn gốc của tất cả những ngôn ngữ liên quan đến nó thì nó cũng không thể có cái gọi là “nguồn gốc” từ bất cứ ngôn ngữ nào. Cho dù người ta có thể tìm thấy mối liên hệ gần giống giữa vài cách phát âm. Cũng không ít các học giả, nhà nghiên cứu cho rằng ngôn ngữ Việt có nguồn gốc từ Mã Lai, Nam đảo gì đó, vì so sánh một vài hiện tượng cục bộ.
Nếu giả thuyết về nguồn gốc Mã Lai, Nam Đảo là đúng, vậy thì cái ngôn ngữ Hán đóng vai trò gì trong việc ảnh hưởng đến ngôn ngữ Việt trong ngôn từ? Chẳng một học giả nào tìm thấy mối liên hệ giữa ngôn ngữ Việt từ ngôn ngữ Hán. Nhưng họ lại cho rằng 70% tiếng Việt có gốc là từ Hán Việt, như là một bằng chứng cho văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán. Thật là một sự mâu thuẫn đến ngược đời khi đem đặt lập luận của họ cạnh nhau.
Cụ Lê Gia thống kê có 30. 000 từ tiếng Việt có gốc Hán Việt. Cụ Lê Gia rất giỏi chữ Nho, tôi rất quý và kính trọng cụ, nhưng tôi tin cụ không giỏi tiếng Tàu. Các nhà nghiên cứu cứ bám vào số lượng từ Hán Việt từ chữ Nho để xác định văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán tộc. Nhưng rất tiếc! Cách phát âm của hơn 30. 000 chữ Nho trong ngôn ngữ Việt khác hoàn toàn ngôn ngữ Hán khi cùng đọc một ký tự, mặc dù có một số những từ gần giống. Ấy là khi dịch ra tiếng Việt thì phát âm lại càng khác hẳn.
Tôi thí dụ như câu sau đây trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đọc theo Việt Nho là:
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán *
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
Tiếng Việt khi đọc từ Việt Nho như tôi đã trình bày. Nhưng tiếng Hán lại phát âm khi đọc các từ trên như sau:
Lia lia sing khí xi xu giai shấu.
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
Zdén zdén xeo kủ xi shứ chha ooan.
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
Rõ ràng cách phát âm khác hẳn nhau giữa từ Việt Nho và tiếng Hán cho cùng một ký tự. Còn dịch ra tiếng Việt lại càng khác xa về phát âm:
Lớp lớp sông cờ hề sầu ra ải
Inh ỏi tiêu trống hề oán ly gia *
Vậy với 30. 000 từ chiếm 70 % ngôn ngữ Việt thì người Việt sao không nói luôn tiếng Hán trong suốt 1000 năm đô hộ đó, mà phải mất công Việt hóa trên 30. 000 từ để phổ biến trong tiếng Việt làm gì?! Từ đây vấn đề được đặt ra:
1/ Ngay bản thân người Hán vào đầu thế kỷ XX – tức là một xã hội rất phát triển với mọi quan hệ xã hội phức tạp, bao gồm cả đời sống sinh hoạt xã hội và quan hệ xã hội – so với hàng ngàn năm trước đó; nhưng họ chỉ cần 1000 chữ phổ thông để xóa nạn mù chữ.
Vậy xuất phát từ nhu cầu gì của người Việt để cần phải có cả một hệ thống hơn 30. 000 từ tiếng Việt Nho trong việc mô tả từ Hán?
2/ Chủ thể xuất xứ để tạo ra cả một hệ thống tiếng Việt Nho – quen gọi là từ Hán Việt ấy – là tổ chức nào trong lịch sử?
Bởi vì, để tạo ra cả một hệ thống gần 30. 000 từ đó, cần phải có một tập hợp những tri thức cao cấp, chuyên ngành làm việc một cách qui mô và có tính hệ thống trong một cơ chế tổ chức chặt chẽ.
Chưa hết, hệ thống gồm 30. 000 từ Việt Nho này còn cần những quyết định cấp quốc gia để phổ biến và lưu truyền đến ngày nay.
Nó không phải chỉ vài chữ như “bánh dầy” hay “bánh giày”, “Thúy” hay “Thúi” , “Cố Ngự” hay “Cổ Ngư” do vài nhà ngâm cứu đề xuất, mà còn rất chật vật. Đây là cả một hệ thống ngôn ngữ Việt Nho với cái mà chính những người phủ nhận truyền thống văn hiến Việt cho là : 70% tiếng Việt liên quan đến ngôn ngữ Hán. Híc!
Trong lịch sử hơn 2000 năm nay của cả Trung Quốc và Việt Nam – tức sau khi nhà nước Văn Lang của Việt tộc sụp đổ ở bờ Nam Dương Tử – không hể nói tới một tổ chức quốc gia và một tập hợp qui mô của những nhà tri thức để có hệ thống 30. 000 từ Việt Nho này. Tất nhiên, vì nó không hề xảy ra vào thời Hán tộc xâm lược và cai trị Việt tộc ở Nam Dương tử.
Chính tính qui mô của hệ thống Việt Nho và – xin lỗi – ngay thời hiện đại với tập hợp những nhà tri thức chuyên ngành với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế cũng không thể thực hiện được một cách dễ dàng. Chưa nói đến từ hàng ngàn năm trước. Điều hiển nhiên này đã bác bỏ xuất xứ Hán của hệ thống Việt Nho, không thể do người Hán tạo nên trong quá trình Hán hóa nền văn hiến Việt. mặc dù ngay từ đầu có thể không phải có ngay 30. 000 từ như vậy.
Thưa quí vị.
Nếu thời Hùng Vương chỉ là “một liên minh bộ lạc” với những người dân “ở trần đóng khố” và “địa bản sinh hoạt chỉ vỏn vẹn ở đồng bắng sông Hồng” thì không cần thiết phải Hán hóa ký tự Hán ra ngôn ngữ Việt.
HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ CỦA NHÀ VĂN KHÁNH HOÀI
Việc công bố hệ thống chữ Việt cổ của nhà văn Khánh Hoài đã gây sự chú ý đặc biệt của dư luận. Hầu hết các nhà nghiên cứu có tên tuổi đều tỏ ý phản bác và không công nhận, khiến đến nay nó bị “chìm xuồng”. Trong các ý kiến phản bác thì đáng chú ý nhất là lập luận của Giáo sư Lê Trọng Khánh. Còn các nhà khoa học khác chỉ là phản bác chung chung, theo kiểu “chưa có cơ sở khoa học”, hoặc là “ghi nhận tinh thần yêu nước”….Đối với các nhà khoa học khác, lập luận của họ không có gì để phải tranh luận. Vì họ không hề có luận điểm phản biện rõ ràng. Trên thực tế – thể hiện qua thông tin báo chí, họ chỉ lấy cái danh vị học thuật để phủ nhận chung chung.
Những luận điểm phản bác loại này, tôi đã biện minh và phản biện trong một chủ đề riêng trên diễn đàn này, quí vị quan tâm có thể tham khảo theo đường link dưới đây:
http://diendan.lyhoc…va-chu-viet-co/
Nhưng với giáo sư Lê Trọng Khánh, ông đưa ra luận điểm học thuật là: Hệ thống chữ Khoa đẩu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài có nguồn gốc từ hệ thống chữ Tày – Thái. Đây là vị học giả duy nhất đưa ra luận điểm học thuật dể phản biện nhà nghiên cứu Khánh Hoài.
Thực ra, trong bài viết của mình, tôi đã biện minh cho nhà nghiên cứu Khánh Hoài trước luận điểm của giáo sư Lê Trọng Khánh. Nhưng nó chưa mang tính hệ thống và tập trung. Nên tôi giành riêng bài này để thể hiện tính khoa học thật sự của hệ thống chữ Khoa đẩu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài và chứng minh luận điểm của giáo sư Lê Trong Khánh chỉ xuất phát từ cái nhìn cục bộ.
Giáo sư Lê Trọng Khánh là người có nhiều năm nghiên cứu về chữ Khoa Đẩu và ông có nhiều công trình nghiên cứu về loại chữ này. Ông là người tôi rất kính trọng, vì chính ông đã giới thiệu tôi với cơ quan văn hóa Lào Cai, để tạo điều kiện thuận lợi trong dịp khảo sát bãi đá cổ Sapa từ 15 năm trước. Ông cũng tặng tôi nhiều sách của ông nghiên cứu về chữ Việt cổ. Trong sự tranh biện học thuật này, tôi vẫn giữ sự kính trọng với ông, khi làm sáng tỏ chân lý của vấn đề.
Trong phản biện học thuật, nhất là đối với một công trình có tính chất phục hồi những giá trị tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc như nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền với một tính thần được gọi là “yêu nước” thì tôi nghĩ nó phải là một sự phản biện nghiêm túc của những người có bằng cấp và được gọi là học giả. Một sự phản biện nghiêm túc trong học thuật là:
Người phản biện phải chỉ ra cái sai trong hệ thống luận cứ của công trình học thuật bị phản biện.
Ở đây, qua đường link thể hiện những ý kiến của những học giả tên tuổi trên phương tiện truyền thông chính thống thì chỉ là sự phủ nhận trắng trợn với thái độ vô trách nhiệm, qua sự thể hiện không quan tâm đến văn hóa cội nguồn dân tộc, mà chí ít là chính họ cho rằng: “Thể hiện lòng yêu nước” của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền.
Chẳng phải ngẫu nhiên, cá nhân tôi sử dụng chuẩn mực Việt sử 5000 năm văn hiến để đo tất cả mọi sự kiện, hiện tượng cho đến từng hành vi của con người trên thế gian.
Cá nhân tôi, không phải dễ dàng chấp nhận ngay cả những công trình nghiên cứu có xu hướng chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến – Nếu như những công trình đó có những lập luận không chặt chẽ. Rất nhiều người công bố các công trình nghiên cứu của họ, chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, liên quan đến Lý học Đông phương. Nhưng từ nhiều năm nay, tôi vẫn chỉ trung thành với những phương pháp và luận điểm của mình.
Ủng hộ một luận điểm sai về mặt học thuật, dù cùng có một mục đích, sẽ gây ảnh hướng rất lớn đến hệ thống luận điểm của tôi. Chưa nói đến việc nó thể hiện sự hồ đồ, dốt nát khi ủng hộ một luận điểm sai.
Nhưng với vấn đề chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, tôi chiệm nghiệm rất kỹ. Tôi theo cụ Xuyền nhiều năm, từ 2007, qua những buổi trình bày của cụ, tìm hiểu và so sánh đối chiếu từ phương pháp nghiên cứu, tư liệu, những bằng chứng cụ dẫn và những luận cứ của cụ. Tôi được cụ tặng rất nhiều sách của cụ và những tư liệu liên quan, kể cả cuốn Tự điển Việt Bồ La. Khi tôi nhận thấy hệ thống luận cứ của cụ thật sự phù hợp với tính khách quan khoa học, tôi mới tích cực ủng hộ.
Tôi bỏ sang một bên tất cả sự phản đối chung chung của những học giả vô trách nhiệm, quay lưng lại với cội nguồn văn hóa dân tộc. Ở đây, tôi chỉ trình bày sự biện minh của tôi với hệ thống chữ Việt cổ của ông Đỗ Văn Xuyền trước vấn đề được đặt ra của giáo sư Lê Trọng Khánh.
Còn tiếp
http://www.thiensulacviet.com/cac-de-tai-khac/ngon-ng%E1%BB%AF-vi%E1%BB%87t
============================
* Theo wikipedia.org/wiki/Chinh_phụ_ngâm
============================
* Theo wikipedia.org/wiki/Chinh_phụ_ngâm
Khúc tụng ca tình yêu truyền chủng
Hải Miên – Vũ Ánh Dương*
Với Vĩnh Cửu, không có niềm hạnh phúc hay đau khổ nào thoát ra ngoài phạm vi mái ấm gia đình, trượt ra ngoài vòng tròn sinh – tử. Cách làm phim của Trần Anh Hùng, thoạt trông thì hào phóng vung vãi, như Thượng Đế trong bảy ngày Sáng thế, nhưng lại rất tiết chế và kìm giữ, thậm chí, khá rắn lòng, giữ cho khán giả một cái nhìn gián cách thay vì rù quến nhập thân, mù mịt khóc cười trong cái cuộc đời “trăm năm thì ngắn, một ngày dài ghê” của giống loài mình. Đó là cái nhìn của một con sóng đã rút ra xa quay nhìn về bến bãi.
Bằng hai chuyển động vuông góc, đùa cợt và thi vị - ngang trên bờ sông như kẻ ghé mắt tò mò và dọc vào gương mặt Valentine thơ ấu như người chụp hình - tôi nhanh chóng bị đẩy tới cái lịch sử không ngày tháng của gia đình Valentine. Không tình huống khởi đầu, không tình tiết dẫn dắt, lịch sử gia đình được nhắc nhớ bằng cưới xin, chửa đẻ, tang tóc. Các sự kiện đời người được vung ra như nắm thóc cho chim, song chúng không cáo chung cho gì cả. Chúng giữ cho bộ phim không đích đến, không hoàn kết, bảo tàng những cử điệu, gương mặt, nhìn ngắm… Hạnh phúc và bất hạnh, con người vừa là nhân chứng vừa thẩm thấu. Sau tiếng thét hiện tại là cái nháy mắt quá khứ. Chúng hồi đáp nhau trong vĩnh cửu. Chúng ca tụng tình yêu truyền chủng.
Một vé lên chuyến tàu vĩnh cửu
Mỗi một con người, cũng như mọi sinh vật khác, sinh ra không phải để hiến sinh - cho cái chết - mà để hiến mình cho sự vĩnh cửu của giống loài, thông qua chức năng truyền chủng. Và vượt lên mọi động vật khác, truyền chủng ở con người là đẹp đẽ, phức tạp nhất, bởi nó được bọc trong lớp vỏ êm ái của tình yêu.
Trong chùm bốn câu hỏi – bốn nỗi thao thức của nhân loại: Ta là ai? Từ đâu đến? Đến đây để làm gì? Rồi sẽ đi về đâu?, Vĩnh Cửu của Trần Anh Hùng đưa ra hồi đáp cho câu hỏi thứ ba: “Ta đến đây để làm gì” theo quan điểm của Thiên chúa giáo1 và cũng là của các nhà sinh vật học.
Chúng ta thường than vãn về sự vô nghĩa của đời người, rùng mình ớn lạnh khi đối diện với hư vô, là bởi cứ muốn đi tìm một ý nghĩa khác (cao quý hơn?) cho sự ra đời và tồn tại của mình, không muốn chấp nhận mình chỉ như một mắt xích trong chuỗi di truyền và tiến hóa, một con ốc trong cỗ máy khổng lồ, vận hành miên viễn có tên gọi “định luật bảo toàn nòi giống” mà quyền lập trình nằm trong tay Thượng Đế. Khi một cô con gái của góa phụ Valentine quyết định hiến mình cho Thiên chúa, trở thành nữ tu sĩ, giọng dẫn chuyện với điểm nhìn toàn tri, lách mũi dao cảm bình lên tiếng: “Với con gái, bà những muốn chỉ ra thứ nó đang từ bỏ, nói với cô rằng tình yêu của một người đàn ông sẽ không lơ đãng như tình yêu của Chúa. Con gái bà sẽ không có con, tình yêu ấy khiến bà đau xé”. Cô thiếu nữ ấy đã tự mình bẻ gẫy một mắt xích, thoát ra ngoài cái định luật “chúng ta sinh ra để sinh ra” bằng cách chối từ triệt để chức năng sinh sản, nhưng không ai chúc mừng cô cả, thay vào đó, chỉ là sự buồn rầu. Thái độ đó của gia đình Valentine, cũng là thái độ của nhà văn và đạo diễn, được bộc lộ qua tác phẩm của mình.
Là một bộ phim về sinh nở, mọi thời điểm trong phim đều diễn ra vào (các) mùa hè, mặt trời chiếu sáng rực rỡ, vạn vật ngùn ngụt sinh sôi, da thịt nồng nàn hơi ấm… Các nhân vật đi lại, nói cười, rơi lệ trong bối cảnh hân hoan, sung túc và đẹp đẽ như những hậu duệ của Adam và Eva an trú ở chốn Địa Đàng. Thế nhưng, bên cạnh thật nhiều lễ cưới và sinh nở, những cái chết thơ dại và trẻ trung cứ từng lúc xảy ra, đau xé trong kêu gào hay nén chịu lặng lẽ. Một con người mất đi, không chỉ là một cuộc đời dừng lại, mà còn là một mất mát đau đớn của cá thể và giống loài, khi bộ gene đó chưa kịp ký thác mình vào tương lai, chưa kịp nhảy lên chuyến tàu vĩnh cửu, và bởi thế mà thành mất hút trong dòng chảy tuyệt mù tăm tích của thời gian.
Với Vĩnh Cửu, không có niềm hạnh phúc hay đau khổ nào thoát ra ngoài phạm vi mái ấm gia đình, trượt ra ngoài vòng tròn sinh – tử. Cách làm phim của Trần Anh Hùng, thoạt trông thì hào phóng vung vãi, như Thượng Đế trong bảy ngày Sáng thế, nhưng lại rất tiết chế và kìm giữ, thậm chí, khá rắn lòng, giữ cho khán giả một cái nhìn gián cách thay vì rù quến nhập thân, mù mịt khóc cười trong cái cuộc đời “trăm năm thì ngắn, một ngày dài ghê” của giống loài mình. Đó là cái nhìn của một con sóng đã rút ra xa quay nhìn về bến bãi.
Dưới bóng rợp của một nhà duy mỹ
Không quan tâm đến dàn xếp kịch tính, không trì hoãn điều xảy ra và luôn có sự thông báo trước biến cố từ lời dẫn chuyện, Trần Anh Hùng cũng không ngần ngại sử dụng dày đặc các lựa chọn thẩm mỹ vốn đã quen thuộc khiến nó ít rung ngân, ít kì bí hơn trong nghệ thuật tạo hình của anh: sự trình diễn của nhiều scene trữ tình ngoại đề, sự lai ghép giữa montage và Jump-cut, hoàng loãng thời gian làm các cảnh phim gấp nếp rồi trượt dài trong tiết điệu ve vuốt, sự thay đổi cỡ hình không phụ thuộc vào chuyển động máy hay dựng phim mà do chủ thể được ghi…
Với sự kiên trì tái khẳng định mình như một nhà duy mỹ, tôn sùng cái đẹp hình thức, đưa cái đẹp hình thức lên vị trí hàng đầu và đôi khi là duy nhất trong mọi tiêu chí thẩm mỹ của đời sống và nghệ thuật, Trần Anh Hùng đã tạo ra không chỉ một bộ phim, rất có thể anh đã tạo ra một điển phạm nghệ thuật cho quan điểm đó. Song nó gợi ý cho người viết hai vấn đề đáng lưu tâm. Thứ nhất, sự trở lại của Trần Anh Hùng với điện ảnh thế giới và sự trở về Việt Nam chưa bao giờ hết nguội ngóng đợi, có tiếp tục nối dài cơn say nghệ thuật của anh như đã từng, với hệ quả là nhiều người tin chỉ có một cách để cảm thấu về cái đẹp trong phim, là thông qua con đường duy mỹ kia. Thứ hai, chúng ta cần gì hơn - một tác phẩm trình diễn vẻ đẹp muôn thưở nhưng không nói cho ta biết sự bức thiết của đương thời, hay một tác phẩm phản tư, có thể xộc xệch nhưng mọi chi tiết của nó đang định nghĩa cho chúng ta về thế giới đang ngày từng ngày không khỏi làm ta kinh ngạc. Khẩu vị nghệ thuật của khán giả luôn rộng hơn một quan điểm nghệ thuật nào đó. Ta yêu mến Trần Anh Hùng, một nghệ sĩ đẹp và hàm súc, miễn nhiễm với mọi thỏa hiệp thị trường. Ta cũng yêu mến những định nghĩa khác về nghệ thuật và cuộc đời, từ những đạo diễn khác. Bằng cách ấy, trở lại với Vĩnh Cửu, ta yêu âm nhạc Bach kì vĩ như toàn bộ đời sống hôn cái hôn vĩnh biệt lên sự chết cuối phim, nhưng ta cũng yêu một cảnh nhỏ xíu, đám trẻ con trùm mền trắng giả đám ma chạy quanh vườn, ở đó, mình thấy một hiển hiện vĩnh cửu, nhà là gì, nhà là nơi người sống và người chết chung sống thuận hòa.
----
1Thiên Chúa phán: “hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như ta […] Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó…”- Sách Sáng Thế.
* Biên kịch, giảng dạy cảm thụ phim tự do.
Chuyên gia Nguyễn Đình Cung: “Cứ mải mê huy động và huy động, nền kinh tế sẽ xuống hố!”
Tác giả: Bích Diệp
Cho rằng việc huy động nguồn lực của Việt Nam hiện đang ở mức cao, đặc biệt là có tới 400 tỷ USD đang nằm trong khu vực Nhà nước nhưng lại không được sử dụng hiệu quả, ông Nguyễn Đình Cung nhận định, nếu mải mê huy động, nền kinh tế sẽ xuống hố chứ không phải là sẽ bay lên.
400 tỷ USD nằm trong khu vực Nhà nước?
Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2016 “Thách thức tái cơ cấu và triển vọng” đang diễn ra tại Hà Nội sáng nay (12/10), chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) chia sẻ, sắp xếp lại, tái cơ cấu nền kinh tế là vấn đề mà ông trăn trở nhiều năm nay.
Theo ông Cung, khi nói đến tái cơ cấu nền kinh tế, nhiều người thường băn khoăn “lấy nguồn lực ở đâu”.
“Từ đó, người ta mới bắt đầu hô hào “Huy động, huy động và huy động!” nhưng tôi nghĩ cách đó không phải. Cùng với huy động, điều quan trọng hơn là phân bổ lại nguồn lực và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả để khơi thông các dòng chảy của nền kinh tế. Còn nếu cứ đi huy động mãi thì chúng ta sẽ xuống hố chứ không phải là sẽ bay lên nữa!”, ông Cung bày tỏ quan điểm.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM
Vị chuyên gia cho rằng, trên thực tế, mức huy động cho đầu tư của Việt Nam là đã ở mức cao so với chuẩn mực, tuy nhiên, hiệu quả lại thấp hơn nhiều so với các nước có cùng thời kỳ phát triển, việc cải thiện hiệu quả đầu tư diễn ra chậm, một số chỉ tiêu về môi trường đầu tư kinh doanh đang trở nên xấu đi.
Ông Cung đánh giá, huy động qua ngân sách, chi thường xuyên đều đã ở mức rất cao, đến mức huy động không đủ để chi tiêu. Chính vì thế nên nợ công cũng tăng lên rất nhanh.
Nguồn lực để tăng trưởng vấn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng lên tới 16-18%. Như vậy cứ 3 đơn vị tín dụng thì mới có 1 đơn vị tăng trưởng. Huy động FDI chiếm đến 26-28% tổng đầu tư xã hội, FDI chiếm đến 70% xuất khẩu.
Nói như thế để thấy rằng, trong vấn đề huy động vốn, Việt Nam đã làm rất tốt và đã đến tới hạn. Vấn đề bây giờ không phải chỉ là huy động nguồn lực mà phải sử dụng hiệu quả những nguồn lực đang có.
“Nếu không sử dụng tốt thì các dòng chảy sẽ khô cạn dần, không thể tạo được các dòng chảy, các dòng xoáy, mở rộng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế”, ông Cung cho hay.
Viện trưởng CIEM cũng đưa ra thông tin cho hay, hiện tại một nguồn lực rất lớn đang nằm trong khu vực Nhà nước, con số này lên tới 400 tỷ USD, đó là chưa tính đến các nguồn lực như đất đai.
“Thế nhưng đáng tiếc là hiệu quả ở khu vực này rất thấp, xói mòn tiềm lực và năng lực cạnh tranh của quốc gia. Bao nhiêu dự án đầu tư thua lỗ, mất hàng chục nghìn tỷ đồng. Tôi nhìn thấy rất nhiều dự án đầu tư đội vốn đến 2-3 lần, đó cũng là một cách làm xói mòn nguồn lực quốc gia, xói mòn sự thịnh vượng của quốc gia. Một nền kinh tế mua đắt bán rẻ, không tính đến hiệu quả”, ông Nguyễn Đình Cung nhìn nhận.
Ông Cung cũng cho rằng, sự xói mòn nguồn lực này đang khiến khu vực kinh tế tư nhân bị mất đà và mất “máu lửa”. Số doanh nghiệp thông báo thua lỗ tăng lên, số doanh nghiệp sản xuất thực sự và đăng ký mới doãng ra.
Cần ủy ban tái cơ cấu nền kinh tế do Thủ tướng đứng đầu
Theo khuyến nghị của ông Nguyễn Đình Cung, cần phải thay đổi lại tư duy, không phải là huy động nguồn lực nữa, mà phải phân bổ lại nguồn lực, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của nền kinh tế. Phải thay đổi cách thức phân bổ nguồn lực theo hướng hành chính xin – cho đang tạo lên sự sai lệch, kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát.
Trong 3 đột phá chiến lược của nền kinh tế có đột phá về thể chế, là phải thiết lập được một hệ thống thị trường về các yếu tố sản xuất – đây cần là một nhiệm vụ trọng tâm của nền kinh tế.
Trọng tâm thứ hai phải làm tái cơ cấu khu vực tài chính, phải tư duy lại rằng, không chỉ là thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước mà còn phải cơ cấu lại danh mục tài sản của Nhà nước. Nhà nước cần phải rút khỏi kinh doanh, tập trung vào xây dựng thể chế, xây dựng hạ tầng, làm đúng chức năng nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra, ông Cung cũng đề nghị, trong tái cơ cấu ngân hàng phải xử lý dứt điểm và xử lý nhanh nợ xấu. Phải tách rời nhiệm vụ xử lý nợ xấu khỏi việc trừng phạt những người gây ra nợ xấu. Theo ông Cung, đây không phải là khoan dung, cứu rỗi những tổ chức tín dụng yếu kém mà để giảm được tổn thất mà nền kinh tế phải gánh chịu, để đưa nền tài chính hoạt động trở lại một cách bình thường.
Bên cạnh đó, ông Cung cho rằng, cần thiết phải có một ủy ban, một “đội đặc nhiệm” tái cơ cấu kinh tế do Thủ tướng đứng đầu.
“Nó sẽ thay đổi cấu trúc, nguồn lực, quyền lợi nên sẽ có nhiều người phản đối, họ sẽ bảo vệ lợi ích của mình. Nên các nhà lãnh đạo phải vượt qua chính mình, phải vượt qua khỏi lợi ích cục bộ ngành địa phương… Có xu hướng là người ta chỉ làm những gì có lợi cho người ta, không có lợi thì chưa làm”, Viện trưởng CIEM cho biết.
Do vậy, theo ông Nguyễn Đình Cung, phải thay đổi lại tư duy, thay đổi cách triển khai thực hiện thì mới hy vọng mới thành công, còn không thì nền kinh tế sẽ thụt lùi.
—————
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/cu-mai-me-huy-dong-va-huy-dong-nen-kinh-te-se-xuong-ho-2016101209575349.htm
Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016
Tiếng Việt Kinh Hoàng Ở Trong Nước
Đào Văn Bình
Sở dĩ tôi nói “kinh hoàng” là vì tiếng Việt ngày nay ở trong nước:
- Pha tiếng Anh, tiếng Tây ‘ba rọi”.
- Dùng quá nhiều tiếng lóng và ngôn ngữ đường phố.
- Văn bất thành cú, bất kể văn phạm .
- Sáng chế ra những từ ngữ dị hợm, phản nghĩa
- Cường điệu, làm dáng hoặc bi thảm hóa vấn đề. Miền Nam gọi là “dốt hay nói chữ”. Chẳng hạn, “Dân Hà Nội tan tác dưới cơn mưa” (Đài Tiếng Nói Việt Nam). Đây là câu văn bi thảm hóa vấn đề. Mưa thì người ta chạy tìm chỗ tránh mưa, cái gì mà tan tác? Trong những bức ảnh lại có cả một cặp trai gái che dù đi sát bên nhau. Dường như mưa làm họ gần nhau hơn. Hình ảnh này rất lãng mạn, có gì là “tan tác” đâu? Đây là câu văn “bi thảm hóa” vấn đề.
- Câu văn tối nghĩa.
- Cắt cụt tiếng Việt hoặc thêm cái đuôi vào cả những tiếng đã thông dụng ngàn năm.
- Dùng những chữ khiến người ta sợ.
A. Câu văn pha tiếng Anh “ba rọi”
1) Báo Tuổi Trẻ ngày 4/9/2016: “ Nỗi lòng “hot teen” trường học” Đây là loại tiếng Anh ba rọi và người đọc không hiểu tác giả muốn nói gì.
2) Báo Tuổi Trẻ ngày 4/9/2016: “Bạn Khánh Ly top 5 Duyên dáng ngoại thương 2014”. Tác giả có lẽ không được học hành đàng hoàng cho nên không hiểu nghĩa hai chữ “đứng đầu” cho nên phải nói là “top”.
3) Báo Tuổi Trẻ ngày 4/9/2016: “Gara ôtô sẽ đóng cửa vì đề xuất của Bộ Công thương”. Gara là nơi chứa xe, nơi để xe, nhà để xe. Ngoài ra, lối viết hoa cũng rất là lộn xộn hoặc không biết cách viết hoa.
4) VnExpress ngày 4/9/2016: “Murray mất bốn set để vượt qua tay vợt số 40 thế giới”. Xin thưa, từ điển Anh-Việt xuất bản ở Việt Nam trong môn quần vợt, “set” có nghĩa là “ván”. Còn “game” nghĩa là “bàn”. Câu văn không lai căng sẽ là, “Murray phải mất bốn ván mới hạ được tay vợt xếp hạng thứ 40”
5) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 5/9/2016: “Top những hậu vệ cánh sở hữu kỹ thuật cá nhân điêu luyện.” Đây là loại tiếng Việt rất bát nháo, vừa pha tiếng Anh “ba rọi” (top) vừa lai Tàu (sở hữu). Câu văn không “ba rọi”, không lai Tàu sẽ là “Những hậu vệ cánh/biên hàng đầu có kỹ thuật điêu luyện”
6)VOV (ĐàiTiếng Nói Việt Nam) ngày 5/9/2016: “Muller lập cú đúp”. Câu văn không “ba rọi” sẽ là, “Muller thắng hai bàn” hay “Mullerlàm bàn hai trái”.
7) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 6/9/2016: “Lực lượng Mỹ đã sử dụng hệ thống phóng rocket cơ động”. Xin thưa “rocket” có nghĩa là “phi đạn”.
8) VnPlus ngày 6/9/2016: “Bồ Đào Nha thua sốc trận mở màn vòng loại World Cup” Thua sốc (shock) là thua thế nào? Câu văn không “ba rọi” sẽ là, “Bồ Đào Nha choáng váng vì thua trận mở màn.”
9) Báo Thanh Niên ngày 6/9/2016: “Giảm cholesterol để giảm cân”. Xin thưa, “cholesterol” là chất độc trong máu có thể gây bệnh tim (A substance in your body which doctors think may cause heart disease)
10) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 9/9/2016: “Phát động cuộc thi Video Clip “Đà Nẵng- Khoảnh khắc ấn tượng”. Trong kho tàng tiếng Việt, không có chữ nào để dịch hai chữ “video clip” sao? Xin thưa, đó là đoạn phim ngắn, là băng thu hình ngắn. Do đó, tiêu đề không lai căng sẽ là, “Phát động cuộc thi thực hiện đoạn phim ngắnvề Đà Nẵng: Khoảnh khắc đáng ghi nhớ”
11) Báo Tuổi Trẻ ngày 8/9/2016: “Trao cúp Vô lăng vàng cho tài xế cứu xe khách mất thắng”. Ông Tây về nước năm 1954 mà 62 năm sau vẫn có người viết văn lai Tây. Thế mới hay dấu ấn thuộc địa có khi cả ngàn năm vẫn chưa tẩy rửa được. Câu văn không laiTây “ba rọi” sẽ là: “Trao giải thưởng ‘tay lái vàng’ cho tài xế cứu xe đò đứt thắng/lao dốc”
12) VnExpress ngày 14/9/2016: “Hacker Nga tố WADA cho phép chị em Serena, Venus dùng doping”. Xin thưa “doping” là “dùng thuốc kich thích”.
13) VnExpress ngày 14/9/2016: “Việt Nam giành chiến thắng gây sốc trận ra quân Futsal World Cup 2016 .” Câu văn vừa tối nghĩa vừa lai căng. Chiến thắng gây sốc là chiến thắng gì và gây sốc cho ai? Cho khán giả Việt Nam à? Câu văn rõ nghĩa và không lai căng sẽ là, “Chiến thắng của Việt Nam tại Giải Túc Cầu Thế Giới Fusal 2016gây kinh ngạc cho các đối thủ”.
14) Báo Tiền Phong ngày 14/9/2016: “Điều tra lại vụ người trốn truy nã được tuyên dương trên tivi “. Có lẽ người viết bản tin này ở Mỹ lâu quá, ăn Hamberger nhiều quá cho nên quên tiếng Việt hoặc không biết tivi là truyền hình. Ngoài ra tivichỉ là phát âm của T.V. chứ trong Anh Ngữ không có danh từ tivi.
15) VOV(Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 14/9/2016: “Aguero lập hat-trick”. Xin thưa “hat-trick” là “làm bàn ba trái”, “thắng ba trái”.
16) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 15/9/2016: “Những bức ảnh tuyệt đẹp mà không cần qua photoshop”. Xin thưa, “photoshop” là chinh sửa, thêm thắt chi tiết vào một tấm hình, một hình ảnh khiến không còn giống tầm hình gốc nữa hoặc ngụy tạo một tấm hình khác.
17) Báo Giáo Dục ngày 23/9/2016: “Ca sỹ nhận cát-sê hàng trăm triệu”. Cát-sê tiếng Pháp “cachet” có nghĩa là tiền thù lao trả cho ca sĩ hay gái nhảy.
18) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 28/9/2016: “Thanh Hằng diện váy tua rua lấp lánh làm vedette” Người viết bản tin này giống như một ông Tây lai thời Thực Dân Pháp. Xin thưa “vedette” là tài tử điện ảnh, đào hát.
19) VnExpress ngày 28/9/2016: “Đỗ Mạnh Cường yêu cầu mẫu mặc đồ đen khi casting show Thu Đông”. Rồi cũng VnExpress cùng ngày, “Cặp người mẫu ngực trần catwalk trong show Hood by Air”. Tôi tin chắc rằng người viết bản tin này tiếng Anh “ ăn đong” và tiếng Việt kém cỏi cho nên không hiểu và không thể dịch ra tiếng Việt cho nên cứ để kiểu “lai căng” như thế để tỏ ra mình rành tiếng Anh lắm.
Ngày nay trong nước, kể cả BBC Việt Ngữ, bạ gì viết nấy không cần biết đúng sai và cũng không có ai quan tâm để sửa chữa. Ngày xưa Miền Nam không có Bộ Văn Hóa mà tiếng Việt đâu vào đấy. Ngày nay đất nước có Bộ Văn Hóa, Viện Ngôn Ngữ, Trung Ương Đảng có Ban Văn Hóa Tư Tưởng, đường phố, làng thôn, ngõ hẻm tràn đầy những biểu ngữ “nổ như tạc đạn” mà tiếng Việt lại trở nên lai căng, bát nháo.
Xin nhớ cho, mình chen tiếng Anh “ba rọi” để tỏ ra giống Mỹ, người ta đánh giá thấp mình. Mình viết tiếng Việt tinh ròng người ta kính trọng mình. Tiếng mẹ đẻ là linh hồn của dân tộc. Mất tiếng mẹ đẻ tức là bị đồng hóa, là diệt vong. Giả thử ngày mai cả dân tộc Việt Nam không còn nói tiếng Việt nữa và nói toàn tiếng Anh thì toàn bộ gia tài văn hóa, thi ca, văn chương, văn tự viết bằng tiếng Việt của 4000 năm đương nhiên bị hủy diệt.
Tội nghiệp trong nước! Những người văn chương lỗi lạc lại thường thừa kế và theo gót tổ tiên. Chẳng hạn tác phẩm “Nửa Chừng Xuân” của Khái Hưng, tựa đề lấy từ câu thơ “Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương” của Cụ Nguyễn Du. Rồi thi phẩm “Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng” của Phạm Thiên Thư đểu dùng văn chương bình dị, cổ văn hoặc ngôn ngữ của Thiền Tông mà rung động lòng người. Rồi Cung Trầm Tưởng làm thơ lúc còn du học ở Pháp mà không một chữ nào lai Tây. Còn những kẻ kém cỏi thường hay chế bậy, kiểu cọ, làm dáng, lai căng, dị hợm. Ngày xưa khi còn ở học tiểu học ở Hải Phòng, tôi thường đọc ra rả hai câu thơ trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư:
Văn chương phú lục chẳng hay.
Trở về làng cũ học cày cho xong.
B. Câu văn sai văn phạm:
1) Báo Kiến Thức ngày 6/9/2016: “Cách làm bánh trung thu không cần lò nướng siêu ngon”. Đây là câu văn sai văn phạm, câu văn đúng văn phạm phải là, “Cách làm bánh trung thu thật ngon không cần lò nướng.” Ngoài ra, “Thật ngon” là đủ rồi. “Siêu ngon” là cường điệu, là bắt chước, là “dổm, rởm đời”.
2) BBC Việt Ngữ ngày 4/9/2016: “Diễn văn Chủ tịch VN nhắm vào 'kẻ hung hăng”. Đây là câu văn què. Câu văn đúng văn phạm phải là, “ Diễn văn của chủ tịch Việt Nam nhắm vào kẻ hung hăng”
3) BBC Việt Ngữ ngày 3/9/2016: “Khánh Ly sắp lần đầu biểu diễn tại TP.HCM” Tôi chưa bao giờ thấy một câu văn ngớ ngẩn như vậy. Câu văn không ngớ ngẩn sẽ là, “Khánh Ly dự trù trình diễn lần đầu tại TP. HCM.”
Theo tôi nghĩ, cái gì bao gồm nhiều động tác thì gọi là “biểu diễn”, chẳng hạn như “biểu diễn máy bay”, “biểu diễn một màn nhào lộn trên không”, “biểu diễn bắn súng”…Còn hát một bản nhạc thì nên dùng hai chữ “trình bày” hoặc “trình diễn”. Chẳng hạn như : “Nữ ca sĩ Thái Thanh sẽ trình bày bản nhạc Tình Hoài Hương của Phạm Duy”, “Các nghệ sĩ đã liên tiếptrình diễn nhiều tiết mục đặc sắc”.
C. Câu văn dị hợm, phản nghĩa:
1) VOV(Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 6/9/2016: “Nữ thủ khoa đầu tiên của Đại học PCCC được phong hàm vượt cấp” Câu văn rắc rối và khó hiểu. Miền Nam trước đây chỉ cần nói ngắn gọn và dễ hiểu là, “Nữ thủ khoa đầu tiên của Đại Học Cứu Hỏa được đặc cách thăng trung úy.”
2) VOV(Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 6/9/2016: “Quảng Nam vượt quỹ khám, chữa bệnh BHYT hơn 210 tỷ đồng”. Câu văn vô cùng tối nghĩa. Câu văn rõ nghĩa sẽ là, “Số bệnh nhân quá đông, bảo hiểm y tế của Quảng Nam vượt qua mức210 triệu đồng.”
3) Báo Tuổi Trẻ ngày 7/9/016: “Tài xế xe tải dũng cảm cứu hàng chục hành khách trong xe đổ đèo mất phanh.” Hiện nay tại Việt Nam, “lạc tay lái, lạc bánh lái” được gọi là “mất lái”. Còn “thắng không ăn, thắng hư” thì gọi là “mất phanh”. Đúng là bịa đặt chữ nghĩa.
4) Báo An Ninh Thủ Đô ngày 5/9/2016: “Sát hạch lái xe tăng độ khó, tỷ lệ trượt lên tới 45%” Tại sao dùng chữ khó quá vậy? Câu văn đơn giản chỉ là, “Sát hạch lái xe khó hơn khiến 45% thi rớt.”
5) Báo An Ninh Thủ Đô ngày 6/9/2016: “Giới nghệ sĩ phía Bắc sẽ có lễ giỗ Tổ sân khấu quy mô và hoành tráng”. Diễn binh cũng “hoành tráng”, nhà cửa cũng “hoành tráng” nay lễ giỗ cũng “hoành tráng”. Vậy “hoành tráng” là gì? Đúng là văn tự nghèo nàn và bát nháo, bạ gì viết nấy. Câu văn rõ nghĩa và đơn giản chỉ là, “Giới nghệ sĩ Miền Bắc …..tổ chức lễ giỗ Tổ quy mô và trang trọng.” Dường như người trong nước, từ cấp xã lên cấp huyện, cấp tỉnh, kể cả các ông bộ trưởng, họ đều thuộc lòng, nhập tâm một số chữ rồi cứ thế ghép lại như một phản xạ tự nhiên, không hề suy nghĩ xem những điều họ nói ra có dài lòng thòng, nhức đầu và khó hiểu không? Nhiều khi không cần gặp những biến cố kinh hoàng trong đời mà người ta hóa điên. Nghe mãi những lời nói nhức đầu, dài lòng thòng, khó hiểu như vậy người ta cũng “hóa điên”. Xin nhớ cho, lời nói êm dịu, đâu vào đó làm người ta cảm thấy dễ chịu và thấm vào lòng người. Cho nên muốn ru con ngủ, người mẹ phải hát những lời nói ngọt ngào, thường là trong Ca Dao và giọng ru êm ả.
6) VnExpress ngày 8/9/2016: “Thời tiết cực đoan”. Từ cha sinh mẹ đẻ hơn 70 năm nay tôi chưa bao giờ nghe thấy ai nói “Thời tiết cực đoan”, mà chỉ nghe nói “Thời tiết khắc nghiệt”, “Thời tiết tệ hại”, “Thời tiết xấu”... Trong nước đã dịch danh từ “Extreme weather” thành “Thời tiết cực đoan”. Cực đoan là thái độ quá khích, cay nghiệt, khắc nghiệt của con người. Thời tiết vô tình làm gì có tình cảm cực đoan, cay nghiệt? Vả lại theo Từ Điển Anh Việt Hiện Đại xuất bản ở trong nước thì “extreme” có nghĩa là: Hành động cực đoan, biện pháp khắc nghiệt. Vậy thì “extreme weather “ có thể dịch là: Thời tiết khắc nghiệt, thời tiết biến động nguy hiểm.
7) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 8/9/2016: “Không gian đi bộ quanh hồ Hoàn Kiếm”. Không gian (space) ở ngoài trái đất, làm sao có thể đi bộ ở đó được? Khoa học không gian, trung tâm không gian là khoa học nghiên cứu là nơi để đưa người lên khám phá mặt trăng cùng các hành tình khác như Hỏa Tinh, Thổ Tinh…Do đó danh từ hoàn chỉnh và đúng đắn phải là, “Khu vực đi bộ quanh Hồ Hoàn Kiếm”.
8) Vnplus ngày 8/9/2016: “Đô cử Việt Nam đoạt HC vàng Paralympic 2016”.Trời đất quỹ thần ơi! Môn cử tạ đã có ở Việt Nam lâu lắm rồi, không chịu dùng lại “chế” ra “đô cử”. Chỉ có “đô vật” chứ làm gì có “đô cử”? Thật dị hợm quá mức!
9) Báo An Ninh Thủ Đô ngày 8/9/2916: “Sức nóng của vấn đề Biển Đông”. Ý tác giả muốn nói vấn đề Biển Đông đang được mọi người, mọi quốc gia chú ý nhưng lại dùng chữ “sức nóng” khiến người ta liên tưởng tới một lò lửa, lò bếp, lò than…đang cháy hừng hực. Nếu đúng ý tác giả muốn thế thì câu văn phải là, “Tầm mức quan trọng của vấn đề Biển Đông”. Xin nhớ, muốn sáng tạo danh từ phải là người kiến thức sâu rộng và ngôn ngữ thật tinh tế. Không biết thì học hỏi và đi theo bước chân của người xưa là chắc nhất. Đừng “chế” bậy.
10) Báo Kiến Thức ngày 9/9/2016: “Vẻ đẹp hút hồn của phụ nữ Sài Gòn những năm 1960”. Tôi đã sống ở Sải Gòn từ 1954-1975 và các cô ở Sải Gòn đã thay đổi nhiều kiểu áo dài và chỉ thấy “đẹp” chứ có “hút hồn” hay “mất hồn” gì đâu. Bây giờ ở Việt Nam, bất cứ cái gì đẹp cũng phải thêm cái đuôi “hút hồn”hoặc thô tục hơn “đẹp khó cưỡng”. Xin đừng cường điệu một cách rẻ tiền. Ở trong nước, ngay các bản tin trích dịch từ các hãng thông tấn AP, AFP, Reuters v.v..cũng không giữ nguyên vẹn ý mà lại cường điệu hoặc tô vẽ theo ý của người dịch. Điều này chứng tỏ làng báo Việt Nam không được dạy dỗ về lương tâm nghề nghiệp (code of ethics). Khi dịch, phảigiữ nguyên ý của tác giả, không được bịa đặt hoặc bịa ra một tiêu đề khác theo ý mình. Đọc những bản tin quốc tế bị bóp méo, xuyên tạc như thế người dân hoặc các giới chức cao cấp của chính phủ không đủ trình độ đọc nguyên bản bằng ngoại ngữ, sẽ có cái nhìn sai lệch về tình hình thế giới, từ đó sẽ có hành động không đúng và nguy hiểm!
11) Báo Tiền Phong ngày 9/9/2016: “Nho xanh 1,3 triệu/kg: Đắt vô địch, Hà thành tranh mua”. Đắt mà cũng có giải vô địch nữa sao? Đúng là loại văn chương bát nháo hay của trẻ con chưa được đi học nói chuyện với nhau. Câu văn không bát nháo sẽ là, “Nho xanh 1.3 triệu/kg: Đắt như vàng, dân Hà Thành tranh nhau mua.”
12) VOV(Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 6/9/2016: “siêu mẫu quyền lực Irina Shayk”. Thật tình tôi không hiểu cô người mẫu Irina Shayk này có “quyền lực” gì? Không biết tác giả dịch từ tiếng gì qua tiếng Việt? Rồi BBC Việt Ngữ ngày 9/9/2016: “Zuckerberg hãy làm đúng vai trò chủ biên quyền lực nhất thế giới của mình.” Người dịch bản tin này từ BBC News đã không phân biệt được thế nào là “quyền lực” thế nào là “có tầm ảnh hưởng rộng lớn”. “Quyền lực” là khả năng sai khiến người khác. Zuckerberg không có quyền và không có tư cách sai khiến ai, ngoại trừ nhân viên của mình. Nhưng những bài báo/tin được cậu ta đưa lên Facebook có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Cũng như Cô Oprah Winfrey không có quyền lực gì cả nhưng những chương trình của cô ta có tầm ảnh hưởng rộng lớn trên nước Mỹ- vì có nhiều người xem. Nếu không còn ai xem nữa thì ảnh hưởng cũng tan biến. Nhưng “quyền lực” thì không cần nhiều người xem, nhiều khán giả. Không khán giả, không độc giả, không người xem, quyền lực vẫn còn đó. Chẳng hạn quyền lực của tổng thống/thủ tướng. Còn “một nhân vậtđầy quyền thế” là một người không giữ một chức vụ nào trong chính quyền, không làm chủ bất cứ một cơ quan truyền thông nào, nhưng người ta đến quỵ lụy, xin xỏ quyền chức và đặc quyền đặc lợi…chẳng hạn như vợ, anh, em, em dâu, em vợ, anh vợ, chú, bác…của tổng thống. Chẳng hạn khi Ô. Bill Cliton làm tổng thống thì Bà Hillary là “nhân vật đầy quyền thế” của nước Mỹ.
13) BBC Việt Ngữ ngày 11/9/2016: “Tài xế 'tự sát' làm chết người ở Đài Loan”. Đây là câu văn vô cùng tối nghĩa. Câu văn sáng sủa sẽ là, “Đài Loan: Tài xế gây tai họa vì muốn tự sát”.
14) Đầu ra/đầu vào. Hiện nay input:output được trong nước dịch là “đầu ra/đầu vào” nghe không thanh tao tí nào. Trước 1975 GS. Nguyễn Cao Hách- Khoa Trưởng Đại Học Luật Khoa Sài Gòn đã dịch là “nhập lượng:xuất lượng”. Nay chúng ta cũng có thể dịch là, “vốn:thành phẩm”.
15) Đường giây nóng: Bây giờ chữ “hotline” được trong nước dịch là “đường giây nóng” hoàn toàn sai và không rõ nghĩa. Theo từ điển tiếng Anh, “hotline is a direct telephone line set up for a specific purpose, especially for use in emergencies or for communication between heads of government”. Vậy “hotline” là “đường dây thông báo khẩn cấp” giữa hai nguyên thủ quốc gia liên quan đến những biến cố cực kỷ quan trọng chứ không hề có nghĩa nóng hay lạnh gì hết. Và nó cũng không phải là đường dây nói chuyện thường nhật. Ở trong nước tiếng Anh rất kém, cứ thấy tiếng Anh viết như thế nào thì đoán mò mà dịch, không chịu tra từ điển Anh-Anh và các từ điển riêng cho mỗi nghành. Chẳng hạn “hot seat” trong nước dịch là “ghế nóng”. Trong khi “hot seat” có nghĩa là tình thế vô cùng bất lợi, chẳng hạn bộ trưởng tư pháp đang bị áp lực từ quốc hội và công luận đòi phải điều tra tổng thống. Nếu không điều tra tổng thống thì không làm đúng chức năng của một bộ trưởng tư pháp…thì nên từ chức. Còn điều tra tổng thống tức cấp chỉ huy của mình…thì chắc chắn cũng sẽ bị cất chức. Hai đàng đều chết cả.
16) Đối tác hay hợp tác? Hiện nay chữ “partner” trong nước dịch là “đối tác” như thế hoàn toàn sai và phản nghĩa. Theo Từ Điển Anh-Việt Hiện Đại xuất bản sau 1975 thì “partner” có nghĩa là: “người cùng chung phần, hội viên, bạn cùng phe, cùng hợp tác làm ăn buôn bán với nhau, cùng khiêu vũ, vợ chồng. “ Người đứng chung với mình trong trận đánh đôi quần vợt cũng gọi là “partner”. Trong khi “đối tác” là người làm công việc đối nghịch với mình. Thí dụ: đối phương, đối thủ. Do đó, “Comprehensive Partnership” là “Hợp Tác Toàn Diện”, “Strategic Partnership” là “Hợp Tác Chiến Lược”. Còn “partner” là “người hợp tác” chứ không phải “đối tác”.
17) Xa Lộ hay Cao Tốc? Hiện nay các “xa lộ” xưa của Miền Nam bị đổi tên thành “đường cao tốc” hay “cao tốc”. Tại Mỹ có hai loại đường: Freeway (Xa Lộ) và Expressway (Đường Tốc Hành, Cao Tốc). Xa Lộ nối liền hai thành phố hoặc hai tiểu bang có khi dài tới 800 dặm (1280km), tốc độ tối đa là 65 dặm/giờ nhưng xe thường chạy tới 80 dặm/giờ (128 km). Còn Cao Tốc hay Tốc Hành (Expressway) là đường huyết mạch trong thành phố, chỉ kéo dài khoảng 5 hay 10 dặm và tốc độ tối đa 50 dặm/giờ. Trong Thành Phố San Jose có haiĐường Tốc Hành: Capitol Exepressway và Almaden Expressway. Do đó đường nối liền Sài Gòn-Biên Hòa gọi Xa Lộ Biên Hòa là đúng. Còn đường vành đai hay nối hai đầu của thành phố có thể gọi là Cao Tốc hay Đường Tốc Hành. Nay hệ thống giao thông ở Việt Nam phát triển mạnh. Quốc Lộ 4 (Sài Gòn-Cần Thơ) có thể gọi là Xa Lộ 4. Còn Quốc Lộ 1 nối liền Sài Gòn-Hà Nội có thể gọi là Xa Lộ 1. Còn song song với những Xa Lộ, có những đoạn đường ưu tiên chạy nhanh hơn mà phải trả tiền gọi là Turnpike chúng ta không cần đặt tên cho đoạn đường này mà chỉ dựng bảng “Phải Trả Tiền Khi Chạy Trên Đoạn Đường Này”. Hội nhập với thế giới cũng có nghĩa là cái gì hay của nhân loại thì mình bắt chước. Chẳng hạn môn túc cầu do người Anh nghĩ ra nhưng dân Ba Tây bắt chước và bắt chước hay quá cho nên nói tới túc cầu bây giờ, thế giới nghĩ tới Ba Tây chứ không nghĩ tới Anh Quốc. Vậy thì bắt chước điều hay không phải là điều tủi nhục hay xấu hổ.
18) Văn Hóa: Chữ “culture” Có nhiều nghĩa, không phải lúc nào cũng có nghĩa là “văn hóa”. Văn hóa là một tổng hợp bao gồm rất nhiều lãnh vực của xã hội như: Hội hè, nghi lễ, nghi thức, cách ăn mặc, ăn ở, cách nói năng, cách cư xử trong gia đình, ngoài xã hội…chẳng hạn như: văn hóa Trung Hoa, văn hóa Mỹ, văn hóa Việt Nam...qua đó chúng ta thấy sự khác biệt về lối sống giữa các quốc gia. Hiện nay hai chữ “văn hóa” được dùng tràn lan, sai nghĩa và trở nên dị hợm ở trong nước khi nói: văn hóa nói dối, văn hóa tham nhũng, văn hóa đi trễ, văn hóa chen lấn, văn hóa chửi thề, văn hóa ỉa bậy, văn hóa phong bì, nền văn hóa giao thông…. Hai chữ “văn hóa” ở đây được dùng với ý xấu, ám chỉ cái gì đã trở thành cố tật thấm sâu vào não trạng và không sao thay đổi được nữa và được cả xã hội chấp thuận và làm theo. Trong khi “văn hóa” biểu tượng cho cái gì tốt đẹp đã được gạn lọc theo thời gian và là niềm hãnh diện vì là đặc trưng của một quốc gia. Theo từ điển Mỹ, “culture” ngoài nghĩa “văn hóa” còn có nghĩa khác như sau: “The set of predominating attitudes and behavior that characterize a group or organization.” Theo định nghĩa này thì “culture” có nghĩa là: Lề thói, cách cư xử, trào lưu, phổ biến, một căn bệnh, cố tật…của một tập thể, một tổ chức, một nhóm người nào đó chứ không chung cho cả một dân tộc. Xin nhớ cho, văn hóa là đặc trưng, thường là tốt đẹp chung cho cả một dân tộc. Do đó, khi phê phán người nào cư xử, hành động nói năng thô tục, khiếm nhã, thiếu lịch sự…chúng ta nói, “Đây là hành độngthiếu văn hóa”, tức văn hóa là biểu tượng cho mẫu mực và tốt đẹp chung. Chẳng hạn, “Việt Nam có một nền văn hóa cổ kính”. “Hoa Kỳ có một nền văn hóa đa dạng”. Do đó không thể dùng từ ngữ “văn hóa” để diễn tả một thói hư, tật xấu, một trào lưu của một số người chứ không phải của cả dân tộc.
Do đó không thể nói:
“Văn hóa ứng xử” mà phải nói, “cách cư xử” sao cho lễ độ, lịch sự, phải phép v.v..
“văn hóa xếp hàng” mà phải nói “thói quen xếp hàng” hoặc “ tự trọng khi xếp hàng”.
“văn hóa đi trễ” mà phải nói, “thói quen đi trễ”, “bệnh đi trễ”.
“văn hóa chửi thề” mà phải nói, “bệnh chửi thề”, “tật chửi thề” Thí dụ: Thằng cha/con mụ đó có tật hễ mở miệng ra là chửi thề. Do đó không thể nói, “Thằng cha/con mụ đó có văn hóa chửi thề” Nếu đã có văn hóa thì làm sao có thể chửi thề?
“văn hóa phong bỉ” mà phải nói “trào lưu, phổ biến”. Thí dụ: “Bác sĩ nhận phong bì của bệnh nhân đã trở thành một trào lưu không biết ngượng/phổ biến của giới bác sĩ Việt Nam bây giờ.” Do đó không thể nói, “Ông/bà bác sĩ đó có văn hóa nhận phong bì.” Mà phải nói “Ông/bà bác sĩ đó không biết xấu hổ khi nhận tiền biếu của bệnh nhân.”
“văn hóa phóng uế”mà phải nói “ thói quen phóng uế, xả rác. Thí dụ: “Xả rác và phóng uế là thói quen bất trị của người Việt Nam bây giờ.” hoặc, “Hút thuốc xong liền quăng tàn thuốc lá xuống đất là thói quen đã thấm vào não trạng/vào máu của người Việt Nam.” Do đó không thể nói “Thằng cha đó có văn hóa đái bậy/ỉa bậy”. Nếu có văn hóa thì đâu có đái bậy, ỉa bậy.
“văn hóa nói dối” mà phải nói, “thói quen nói dối, cố tật nói dối”.”bệnh nói dối”. Chúng ta không thể nói, “Thằng cha, con mụ đó có văn hóa nói dối.” mà phải nói, “Thằng cha, con mụ đó có bệnh nói dối”.
“văn hóa đi máy bay” mà phải nói, “ những điều nên làm và không nên làm khi đi máy bay”. Ngoài ra cũng không thể nói, “văn hóa ẩm thực” mà chỉ là “cách ăn uống, thói quen ăn uống, tập tục ăn uống”.
“văn hóa khinh bỉ”. Thật tình tôi không hiểu người sáng chế ra chữ này muốn nói gi? Đồng ý tham nhũng là vi phạm pháp và đáng khinh bỉ. Nhưng để “tận diệt” nạn tham nhũng, ngoài việc ngăn ngừa, trừng phạt còn phải xây dựng một lòng tự trọng là “biết khinh bỉ tham nhũng” tức xây dựng “lòng tự trọng” chứ tại sao lại sáng chế ra một từ ngữ quái đản như vậy?
“nền văn hóa giao thông” mà là “thảm trạng giao thông tại Việt Nam”. Tại sao cứ dùng hai chữ “văn hóa” để gán ghép cho những thói hư tật xấu? Giả dụ ngày mai đây hệ thống giao thông công cộng được cải thiện, người dân bắt đầu có ý thức trách nhiệm và bảo vệ an toàn trên đường phố, lái xe có trật tự hơn thì cái gọi là “nền văn hóa giao thông” đó có còn tồn tại không? Vậy đây chỉ là một thảm trạng nhất thời chứ không phải một nền văn hóa. Xin nhớ cho văn hóa là một tập tục, lề thói tốt đẹp của một dân tộc, tồn tại mãi với thời gian trong lòng cộng đồng dân tộc đó, chẳng hạn như thờ cúng tổ tiên là nét đặc thù của nền văn hóa Việt Nam.
“Sách hóa nông thôn” (BBC Việt Ngữ ngày 21/9/2016). Làm sao chúng ta có thể biến nông thôn thành quyển sách hay tủ sách được? Nhưng chúng ta có thể xây dựng các thư viện, đem sách tới cho nông thôn. Do đó câu văn giản dị và dễ hiểu sẽ là, “Sách cho nông thôn” hay “Đem sách tới cho nông thôn”.
“Tin nóng”. Tràn lan, trong và ngoài nước chỗ nào cũng thấy “tin nóng”. Tôi thật sự không hiểu tin nóng là tin gì? Tôi xin người nào dùng hai chữ “tin nóng” giải thích dùm. Theo định nghĩa của Mỹ, “Hot news primarily refers to the latest breaking news; top current events of the day.” Theo định nghĩa này thì “hot news” là tin quan trọng chợt đến, tin hàng đầu vừa tới, tin mới nhất. Nếu một vài giờ qua đi thì không thể gọi là “tin nóng” được nữa. Ngoài ra, tin nóng cũng không liên quan gì đến xác thịt.
“Kịch tính”: Bây giờ trong nước bất cứ cái gì, chẳng hạn như buổi trình diễn văn nghệ, trận đá bóng, đua xe đạp, trận đấu võ, thậm chí như vụ đánh bom ở Thủ Đô Paris, cuộc tranh luận của các ứng viên phó tổng thống Hoa Kỳ v.v… hấp dẫn, sôi nổi đều được gán cho danh từ “Kịch tính”. Thí dụ: “Cuộc tranh luận giữa “phó tướng” của bà Hillary Clinton và ông Donald Trump đã diễn ra khá kịch tính” (VOV Đài Tiếng Nói Việt Nam ngày 5/10/2016). Thật là một sự “sáng tạo” chữ nghĩa bừa bãi và xúc phạm. Kịch tính có nghĩa là mọi lời đối thoại, cách đi cách đứng, cách nói, cách cười đếu quá lố giống như vở kịch đang được trình diễn trên sân khấu. Khi người ta nói, “ Bà ấy đóng kịch.” tức lời ăn tiếng nói, bộ điệu của bà này không chân thậtmà như “đóng tuồng”. Không biết tác giả bài viết có trực tiếp coi buổi tranh luận đó không? Có đủ trình độ tiếng Anh để hiểu được nội dung của những lời đối thoại không? Và trong cử chỉ, động tác của hai Ô. Mike Pence và Tim Kaine có gì là “đóng kịch” không mà dám nói là “khá kịch tính”. Ngu dốt, thậm chí đi cày đi cấy, làm thợ hay làm công cho người ta cũng hỏng việc. Nhưng ngu dốt mà cầm bút thì di họa cho nhiều đời sau.
D. Quá nhiều tiếng lóng và ngôn ngữ đường phố:
1) Báo Tuổi Trẻ ngày 6/9/2016: “Dự án khu luyện thép Cà Ná: Dư luận ném đá do đố kỵ? Rồi VnPlus ngày 10/9/2016,“Đầu bếp người Mỹ bị ‘ném đá’ vì dạy cách ăn phở Việt Nam”. Bây giờ tại Việt Nam những danh từ như: “phê bình”, “chỉ trích”, “lên án”, “công kích” đã chết và được thay thế bằng “ném đá”. Đúng là loại ngôn ngữ “đường phố”. Ngoài ra, hai chữ “ném đá” gợi lại hình ảnh man rợ ngày xưa mà vẫn còn tồn tại ở một vài quốc gia như Ba Tư, Ấn Đô, Hồi Quốc để xét xử người đàn bà ngoại tình. Hoặc hình ảnh một lũ trẻ con hay côn đồ phá phách bằng cách ném đá những xe chạy trên đường.
2) Báo An Ninh Thủ Đô ngày 6/9/2016: “Bắt quả tang cả trăm dân chơi đất Cảng "bay lắc" điên cuồng.” Tôi không hiểu “bay lắc” ở đây là gì? Phải chăng là “quay cuồng theo tiếng nhạc ?“ hay “ say thuốc/say ma túy”? Hai chữ “bay lắc” là loại ngôn ngữ “đưởng phố” của bọn cờ bạc, buôn lậu, mánh mung, đứng bến. Trong báo chí, bài tường thuật cần dùng ngôn ngữ đứng đắn, dễ hiểu chứ không phải lời nói rỡn chơi hoặc tiếng lóng của dân mánh mung, chụp giật.
3) Báo An Ninh Thủ Đô ngày 13/9/2016: “Ổ nhóm "cú đêm" chuyên "nhảy xe" sa lưới pháp luật”. Ăn cắp xe bây giờ được thay bằng ngôn ngữ đường phố “nhảy xe”.
4) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 16/9/2016: “Vài mẹo thú vị sử dụng gậy tự sướng”. Đây chi là việc sử dụng “cây gậy cho máy tự chụp hình”, nhưng đã được diễn tả bằng loại văn chương vô cùng thô tục và bát nháo “gậy tự sướng”.
5) “Một số hình ảnh “, “một loạt hình ảnh” , “một số bài thơ” được thay thế bằng “chùm ảnh”, “chùm thơ”. Chữ “chùm” khiến người ta liên tưởng tới “chùm nhãn”, “chùm nho”, “chùm khế ngọt”, “dính chùm”. Bao nhiêu danh từ vốn đã có sẵn, vừa rõ nghĩa, vừa thanh tao không dùng lại “sáng chế” chữ mới, nhưng sáng chế một cách bát nháo. Ngày xưa để ngạo báng những người hay “nói chữ” người Miền Nam thường nói, “Thằng cha đó hay xổ nho chùm”.
6) “Nói không biết ngượng” được thay bằng, “Mồm không biết ngượng”. Thật thô lỗ quá mức!
E. Tiếng Việt có “đuôi:
Tiếng Việt trong nước bây giờ rất lạ là có thêm cái “đuôi” dĩ nhiên là cái “đuôi” thừa thãi và dị hơm.
Thí dụ:
1) “Trồng cây” trở thành “trồng cây xanh”. “Cây” trở thành “cây xanh”. “Hà Nội trồng thêm một số loại cây” trở thành “Hà Nộitrồng cây xanh”. Cây nào chẳng “xanh”, thêm chữ “xanh” là thừa. Ngoài ra có rất nhiều loại cây lá màu nâu, màu vàng…chẳng lẽ “trồng cây xanh” là không trồng những loại cây này sao?
2) “Đóng tàu” trở thành ‘Đóng mới”. “Xây nhà “trở thành “Xây mới mấy căn nhà”. Đóng tàu, xây nhà đương nhiên đóng tàu mới, xây nhà mới. Không ai đóng tàu cũ, xây nhà cũ. Do đó thêm chữ “mới” là thừa.
3) “Khách mời”. Thí dụ: “Chương trình hôm nay có một vị khách mời”. Hoặc BBC Việt Ngữ ngày 8/9/2016: “Khách mời Bàn tròn Thứ Năm bình luận về chuyến đi…” Đương nhiên mình mời người ta, sắp xếp chương trình thì người ta mới tới, mới xuất hiện. Chứ chẳng lẽ họ tự nhiên đứng ngoài cửa rồi nhảy vào chương trình của mình sao? Thêm chữ “mời” là thừa và rất kém cỏi về Việt Ngữ. Nhưng câu văn sau đây khi dùng chữ “mời” lại rất đúng. Thí dụ: “Hôm nay chúng tôimời hai vị khách để tham dự chương trình.” Một thí dụ nữa: “Tổng Thống Obama là vị khách danh dự của đại tiệc ngày hôm nay.” Dĩ nhiên muốn Ô. Obama tới thì phải mời, phải sắp xếp chương trình đâu vào đó chứ Ô. Obama đâu có lang thang ngoài đường để nhảy vào dự đại tiệc này? Do đó không thể viết, “Tổng Thống Obama là vị khách mời danh dự của đại tiệc ngày hôm nay.” Ngoài ra, nếu nói “khách mời” thì lại có “khách không mời” sao? Chẳng hạn bố mình nói, “Hôm nay nhà mình có khách đến chơi.” thì vị khách này có thể là bạn từ xa đến chơi hoặc do bố mình mời tới chơi. Khách là khách, đâu cần phải thêm chữ “mời” nữa. Do đó, câu văn đơn giản nói ở trên của BBC Việt ngữ chỉ là, “Khách tham dự bàn tròn Thứ Năm bình luận về chuyến đi…”
4) “Thăm” trở thành “Thăm chính thức”. Hai chữ chính thức có nghĩa là rõ ràng, không còn úp mở, không còn hồ nghi gì nữa. Thí dụ:
- Đôi trai gái yêu nhau đã lâu nhưng không chịu làm đám cưới, naychính thức kết hôn.
- Sau nhiều phiên họp của nội các để bàn cãi, thủ tướng chính thứcquyết định nghỉ Tết 8 ngày.
- “Thủ tướng đã chính thức lên đường công du Hoa Kỳ.” Câu văn này chỉ đúng khi thủ tướng ra phi trường, lên máy bay để đi Hoa Kỳ. Khi thủ tướng đã đặt chân tới Mỹ thì không cần phải nói “chính thức” nữa vì chính thức quá rồi. Thật buồn cười khi báo chí trong nước đăng ảnh của Tổng Thống Hollande đang duyệt đội quân danh dự mà lại viết, “Tổng Thống Pháp Hollandechính thức thăm Việt Nam”. Rồi, “Thủ tướng kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Trung Quốc”. Đọc tiêu đề này tôi thắc mắc không biết, ngoài chuyến thăm “chính thức”, ông thủ tướng còn có chuyến thăm “không chính thức”, “thăm bán chính thức” nào không? Thật là loại tiếng Việt quái đản! Nguyên do là vì không được dạy dỗ Việt Văn đàng hoàng ở Tiểu Học và Trung Học.
5) “Cặp đôi” Bây giờ ở trong nước để chỉ hai người trai hay gái đi chung với nhau làm chuyện gì đó họ đều dùng danh từ “cặp đôi”. Đây là sự ghép chữ vô cùng cẩu thả và không hiểu nghĩa “cặp” và “đôi” là gì.
Cặp là 2. Thí dụ: Một cặp vợ chồng, một cặp bánh chưng, một cặp gà, cặp bài trùng, đóng cặp là hai người đóng chung với nhau trong các vở tuồng.
Đôi là 2: Thí dụ: Đôi bạn, đôi lứa, đôi nơi, đôi ngả, đôi giày, đôi vớ, đôi gian phu dâm phụ, đi đôi là hai người đi chung với nhau. Như vậy “cặp đôi” là bốn người chứ không phải hai người.
6) “Mới sinh được tám tháng” nay có thêm cái đuôi,” Mới sinh tám tháng tuổi ”. Những người viết văn như vậy chắc chắn là không bao giờ nghe nói tiếng Việt dù họ là người Việt Nam. Ngày xưa khi các bà hỏi, “Cháu sinh được mấy tháng? “ hoặc, “Cháu được mấy tháng” tức em bé chưa đầy 1 tuổi. Khi người ta hỏi, “Cháu được mấy tuổi?” tức em nhỏ từ một tuổi trở lên. Câu trả lời sẽ là, “Cháu được 1, 2 hay 3 tuổi.”
Bây giờ dường như trong nước viết tiếng Việt bằng tiếng Anh dịch qua tiếng Việt chứ không phải bằng tiếng mẹ đẻ hay học từ thầy cô Việt Nam ngay từ Mẫu Giáo. Không phải cứ tốt nghiệp đại học là giỏi tiếng Việt. Muốn giỏi tiếng Việt phải “thiên kinh vạn quyển”, phải học suốt đời và hết sức cẩn thận chứ không phải chuyện chơi. Chính vì thế mà các tờ báo lớn của Hoa Kỳ đều có chủ bút đọc và duyệt lại tất cả các bản tin, dù bản tin này do các phóng viên gạo cội gửi về. Một câu văn ngớ ngẩn, sai văn phạm, tối nghĩa, gây hiểu lầm, xúc phạm, bát nháo sẽ làm uy tín tờ báo tiêu tan. Xin nhớ cho càng giỏi ngoại ngữ như Anh-Pháp, càng uyên thâm Hán học, tiếng Việt càng phong phú. Xưa các học giả như Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn…đều uyên thâm Hán Học và tiếng Pháp. Tôi còn nhớ, tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, các vị giáo sư, nhiều vị là Thạc Sĩ (trên Tiến Sĩ) và Tiến Sĩ, thông thạo hai ngoại ngữ Anh- Pháp thế mà giảng khóa của các vị đều thuần tiếng Việt, không một câu “ba rọi” chen vào. Khi gặp một danh từ Anh-Pháp mới chưa thông dụng, các vị đều chú thích để mong có một lối dịch thuật khác rõ nghĩa hơn. Giáo dục Miền Nam làm việc như thế đó. Và nó chính là khuôn thước cho sinh viên ra đời sau này. Những kẻ du học Âu Mỹ, ăn bánh mì và bơ sữa mấy chục năm, trở về với bằng Tiến Sĩ hay Thạc Sĩ trên tay, lại thương mến và bồi đắp cho tiếng Việt tinh ròng. Còn những kẻ vốn liếng tiếng Anh tiếng Pháp “ba rọi” ở trong nước, ngày nào cũng ăn cơm với nước mắm, lại phá nát tiếng Việt. Thật đáng buồn!
G. Tiếng Việt cụt lủn:
Tiếng Việt ngày nay một số bị cắt cụt một cách dị hợm, khiến gây hiểu lầm:
Thí dụ:
1) Đội Tuyển Việt Nam chỉ còn “Tuyển Việt Nam”
Nếu vậy: Tuyển phu = Đội tuyển chồng chăng?
Tuyển quân=Đội tuyển quân đội chăng?
Tuyển mộ=Đội tuyển mộ chăng?
Tuyển chọn=Đội tuyển chọn sao?
2) ”Chuyên môn” “chuyên ngành” chỉ còn “chuyên”. Thí dụ:THPT Chuyên Môn/Chuyên Ngành Lê Quý Đôn nay chi còn “THPT Chuyên Lê Quý Đôn”. Đọc cái tên trường như vậy tôi khó chịu quá vì làm cho tôi hiểu lầm rằng trường Trung Học này chuyên nghiên cứu về Lê Quý Đôn vì chúng ta thường nói, “Bà đó chuyên nói dối”, “Thằng cha đó chuyên ăn cắp”.
Xin nhớ cho, chữ “chuyên” đứng một mình nó có nhiều nghĩa: di dời, chuyền, chăm chú, chăm chỉ. Chỉ khi nào nó đứng chung/ghép chung với chữ “môn” nó mới có nghĩa là “chuyên môn”.
3) “Lệ phí “ nay chỉ còn “phí”. Chẳng hạn “Thu phí đường cao tốc”, “Tăng phí giữ xe”
Chữ “phí” đứng một mình nó có nhiều nghĩa, chẳng hạn, “Em tiêuphí quá” (Em tiêu hoang, tiêu tiền không đúng cách), “Vứt cái này đi thì phí quá” (Vứt cái này đi thì uổng quá). Chỉ khi nào chữ “phí” đứng chung với chữ “ lệ” thì nó mới có nghĩa là số tiền mình phải trả, chẳng hạn: Lệ phí qua cầu, lệ phi đi vào xa lộ, lệ phí qua phà, lệ phí điền đơn, lệ phí giữ xe…Tại Mỹ này khi mình nạp đơn xin phép một chuyện gì đó thì phải đóng “fee” tức lệ phí. Nếu mình nói tôi phải đóng “phí” thì người ta sẽ cười ồ lên là tiếng Việt của mình “có vấn đề” vì không ai hiểu mình nói gì.
4) ”Giá rẻ như bèo” nay chỉ còn “ bèo”, “lương bèo”, “tiển thưởng Tết bèo”, “Lương tiếp viên hàng không khủng hay bèo?” . Đây là ngôn ngữ của bọn mánh mung, đứng bến. Ngôn ngữ đứng đắn phải là: Giá rẻ như bèo, tiền thưởng Tết nghèo nàn, tiền thưởng Tết quá ít, lương thấp, đồng lương chết đói…
H. Vứt bỏ những chữ có cả ngàn năm nay và thay bằng những chữ sai nghĩa hoặc lai Tàu hoăc cường điệu, đao to búa lớn:
Thí dụ:
- Căn nhà trở thành căn hộ.
- Gia đình trở thành hộ dân.
- Quần áo lót, đồ lót trở thành nội y. Nghe hai chữ “nội y” tôi có cảm tưởng đây là ngôn ngữ của các thái giám Trung Hoa. Khi bà hoàng hậu hay quý phi mặc đồ lót, các thái giám không dám dùng hai chữ “đồ lót” vì bình dân quá cho nên phải nói là “nội y” để không phạm thượng và để tỏ ra tôn kính lệnh bà.
- Tiết kiệm, rẻ tiền trở thành kinh tế. Chẳng hạn, “Mua món nàykinh tế lắm”, rồi “Giá kinh tế” tức giá rẻ, giá bình dân. Nếu nói thế thì “Bộ Kinh Tế” là gì? Phải chăng là bộ chuyên môn mua đồ rẻ để tiết kiệm? Trong nước đã hiểu sai danh từ “economy” nên dịch là “kinh tế”. Theo Tử Điển Anh-Việt Hiện Đại xuất bản ở trong nước thì “economy”nghĩa là, “sự quản lý kinh tế, sự tiết kiệm”.
- Giảm bớt nhân viên trở thành tinh giản biên chế, thật đao to búa lớn và khó hiểu.
- Bài giảng trở thành giáo án.”Soạn bài giảng” trở thành “soạn giáo án” nghe ghê quá, tưởng chừng như án lệnh của tòa.
- Hành trình khám phá một vụ án nay trở thành “hành trình phá án”. Xin nhớ cho “phá án” là bác bỏ phán quyết của tòa dưới và yêu cầu xét xử lại cho nên quốc gia nào cũng có Tòa Phá Án (Court Of Appeals).
- Xe vận tải hạng nặng trở thành “xe siêu trường, siêu trọng”, “xe container”.
- Nước dâng cao trở thành “triều cường” nghe giống như đối thoại trong phim bộ Hồng Kông.
- Một con, một cái trở thành “một cá thể”. Thí dụ: “Một cá thể hổ”.
- Có một cái gì đó nay gọi là “sở hữu”.Thí dụ: “Hoa hậu ABCsở hữu một sắc đẹp khó cưỡng”, “Cô ta sở hữu một đôi môi đẹp”,”để sở hữu eo thon” , “Việt Nam đang sở hữu một loại quả…” (Việt Nam có một loại trái cây…) Theo tôi nghĩ, danh từ “trái cây” rõ nghĩa hơn là “quả” vì “quả” có thể là quả bóng, quả cầu, quả tạ. Quả phải đi với với bổ tức từ thì mới rõ nghia. Thí dụ: Quả chanh, quả táo, quả bưởi. Còn “trái cây” thì tổng quát và rõ nghĩa, không cần bàn cãi gì nữa.
- “Doanh nhân” trở thành ” Doanh nghiệp”. Bây giờ tất cả các hãng xưởng, công ty, tổ hợp tài chính, thương mại, tổ hợp thép, tổ hợp đóng tàu, đại công ty… đểu gom chung vào danh từ “doanh nghiệp” như thế là hoàn toàn sai. Chúng ta hãy xem:
- Nông nghiệp là nghề trồng trọt.
- Ngư nghiệp là nghề đánh cá.
- Lâm nghiệp là nghề khai thác rừng/đốn gỗ.
- Doanh nghiệp là nghề kinh doanh, buôn bán.
Xin nhớ cho “nghề” và “người hành nghề” khác nhau. Chẳng hạn nghề đánh cá là “ngư nghiệp” nhưng người đánh cá là “ngư dân” hay “ngư phủ”. Như vậy người làm ăn, buôn bán, kinh doanh là “doanh nhân/doanh gia/ thương gia” chứ không phải doanh nghiệp.
- “Nhân đạo” trở thành “nhân văn”. Khi đọc tiêu đề của một bản tin trong nước, “Giáo Hoàng khuyên Hoa Kỳ đối xử nhân văn với dân tỵ nạn”. Rồi tất cả những sự “đối xử nhân đạo” trong nước đều đổi thành “đối xử nhân văn” tôi rất ngạc nhiên và không tin vào trí nhớ và hiểu biết của mình nữa. Tôi vội tra các từ điển để tìm hiểu nghĩa của hai từ “nhân văn” và “nhân đạo”.
Nhân văn: Theo Tử Điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Văn Hóa-Thông Tin trong nước sau 1975 thì “nhân văn” có nghĩa là “văn minh loài người”.
Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh thì “nhân văn” có nghĩa là,”văn hóa của loài người”. Nhân văn chủ nghĩa lấy con người làm đối tượng chứ không phải thần linh và chủ trương nghiên cứu tư tưởng và nghệ thuật cổ Hy Lạp.
Nhân đạo: Theo Tử Điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Văn Hóa-Thông Tin trong nước sau 1975 thì “nhân đạo” có nghĩa là, “đạo người, lấy lòng thương của người này đối (xử) với người kia”.
Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức xuất bản ở Miền Nam trước 1975 thì “nhân đạo” có nghĩa là “biết thương kẻ nghèo khó, chịu chia sớt đau đớn với kẻ khốn cùng”.
Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh thì “nhân đạo” có nghĩa là, “Cái đạo lý phải tôn trọng quyền loài người như không được xâm phạm đến sinh mệnh…”.
Như vậy “nhân văn” chỉ là những nét, những đặc điểm của con người. Do đó, Khoa Học Nhân Văn khoa nghiên cứu về con người. Nhân văn không phải là một con đường, một đức tính nên theo. Còn nhân đạo là con đường, là đức tính phải theo. Hành vi cứu trợ nạn nhân các cuộc động đất, cứu trợ di dân chết trên biển, cứu trợ nạn đói… đều gọi là “cứu trợ nhân đạo” và chưa thấy ai nói “cứu trợ nhân văn”. Ngoài ra khi đối xử tử tế với nhau người ta còn nói, “đối xử có tình người”. Người trong nước đã không phân biệt được thế nào là nhân đạo, thế nào là nhân văn cho nên đã dùng bừa bãi, di họa cho các thế hệ mai sau.
“Đổi giống” trở thành “chuyển giới ”. Tôi đã cố tìm hiểu các từ điển tiếng Việt xuất bản trước và sau 1975 nhưng không thấy từ điển nào mà chữ “giới” có nghĩa là giống đực hay giống cái. Theo các từ điển này, chữ “giới” có nghĩa là giới hạn, hạn, biên giới, cương vực, sự ngăn cấm (giới luật). Còn “giống” mới có nghĩa là giống đực hay giống cái. Trong Từ Điển Anh-Việt Hiện Đại xuất bản ở trong nước sau 1975, chữ “gender” có nghĩa là: Giống đực hay giống cái. Vậy thì giải phẫu để biến đàn ông thành đàn bà và ngược lại là “đổi giống” chứ không phải “chuyển giới”. Ngoài ra cũng không được nói “giới tính” mà phải nói “phái tính” vì trước đây chúng ta thướng nói “ phái nam,phái nữ”.
“Công du” trở thành “thăm cấp nhà nước”. Trong nước tiếng Anh kém cho nên đã dịch danh từ “state visit” thành “thăm cấp nhà nước”. Mà “state visit” có nghĩa là “công du’ tức thăm viếng một quốc gia khác vì việc công, việc của đất nước. Nếu nói “Chủ tịch A thăm cấp nhà nước” thì ông bộ trưởng phải “thăm cấp bộ” rồi ông chủ tịch UBND “thăm cấp tỉnh” còn ông chủ tịch UBND huyện sẽ “thăm cấp huyện” sao? Thật tức cười quá! Xin nhớ cho hai chữ “công du” chỉ dành cho các vị nguyên thủ quốc gia. Một ông bộ trưởng thăm một quốc gia khác không thể dùng hai chữ “công du”.
I. Những từ ngữ làm người ta sợ:
Tôi không hiểu những người trong nước nghĩ gì về những từ ngữ mà họ “sáng chế” ra khi đọc lên khiến người ta sợ. Thí dụ:
1) “Giải phóng mặt bằng” khiến người ta liên tưởng tới “Giải phóng nô lệ”, “Giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân”, “Giải phóng Miền Nam”. Tại sao không dùng danh từ “giải tỏa” như Miền Nam trước đây đã dùng. Thí dụ: “Giải tỏa một khu ổ chuột”, “Giải tỏa một khu chợ quá cũ để xây chợ mới”, “Giải tỏa một nghĩa trang để xây thư viện, công viên”.
2) “Xử lý ”. Miền Nam khi ông chánh đi vắng, ông phó tạm thời thay tế người ta gọi là “Xử lý thường vụ”. Ngoài ra thì không bao giờ dùng danh từ “xử lý”. “Xử lý” theo nghĩa Miền Bắc dùng là: Giết, trừng trị, thanh toán, bỏ tù, thi hành kỷ luật v.v..Thí dụ: “Kẻ phản động đã bịxử lý thích đáng” Thế mà “xử lý” lại được dùng lan tràn trong các lãnh vực khác như: “Nhà máy xử lý chất thải”. Tại sao không dùng, “Nhà máy lọc chất thải” để tránh hai chữ “xử lý” nghe ghê quá! Rồi đá bóng cũng “Xử lý bóng kỹ thuật lừa qua hậu vệ đối phương” (Vnplus). Tại sao không viết ngắn gọn “Khéo léo lừa bóng qua hậu vệ đối phương”? Thêm cái đuôi “xử lý” vào để làm làm gì? Rồi “Cầu thủ A xử lý bóng không tốt”. Cầu thủ A để mất bóng hay đưa bóng vào chân đối phương hoặc lúng túng hoặc quá chậm, hoặc đi bóng không khéo hoặc tài nghệ kém…thì nói đại ra. Dùng danh từ “xử lý” chỉ để che giấu kiến thức nghèo nàn về môn bóng tròn. Thế mà cũng đòi tường thuật các trận đá bóng. Xem một buổi tường thuật một trận bóng tròn trong nước mà phải nghe hai tiếng “xử lý” cả ngàn lần, khiến nhức đầu, thừa thãi và vô duyên.
3) “Chốt ”. Hiện nay khi quyết định dứt khoát một việc gì báo chí trong nước dùng chữ “chốt”. Chảng hạn: “Thủ tướng đã chốt Tết Nguyên Đán nghỉ 8 ngày”. Rồi nào là, “Chốt phương án”. Chữ“chốt” đã gây kinh hoàng cho Miền Nam trong cuộc chiến tranh. Theo lời kể của một số sĩ quan chỉ huy chiến trường, “chốt” thường gồm 3 bộ đội tử thủ từ trong hầm/hào cho đến chết và không được tháo lui. Bom bỏ hay đạn pháo không ăn thua gì. Nhiều khi phải dùng cả một tiểu đội bò lên, quăng lựu đạn vào hầm mới có thể thanh toán cái“chốt” này. Chiến tranh đã qua đi 41 năm, sao còn dùng những danh từ gợi lại hình ảnh ghê rợn của chiến tranh?
4) “Cưỡng chế”. Trước đây tại Miền Nam, để giải tỏa một khu buôn bán, họp chợ bất hợp pháp, hoặc trục xuất một người chiếm ngụ gia cư bất hợp pháp…cơ quan công lực đều xin án lệnh của tòa. Cơ quan công lực có tới gỡ bỏ, đập bỏ hoặc trục xuất ai thì chỉ là “thi hành lệnh/án lệnh giải tỏa”. Nay trong nước dùng danh từ “cưỡng chế”khiến người ta sợ vì liên tưởng tới bạo lực như trói người ta lại, còng tay, đánh đập rồi tước đoạt nhà đất của người ta.
5) “Thi đấu”. Ngày nay tất cả các môn thể thao dù là bóng bàn, bóng tròn, thể dục dụng cụ, bơi lội, đua thuyền, điền kinh v.v…đều được diễn tả bằng danh từ “thi đấu”. Theo tôi nghĩ, chữ “đấu” chỉ nên dùng cho các môn như: đấu võ, đấu vật, đấu kiếm. Còn các môn thể thao nhẹ nhàng khác nên dùng các danh từ như “tranh tài”, “thi tài” hay “đua tài” “trổ tài”. Thay vì nói, “Các lực sĩ đang thi đấu ở môn điền kinh” chúng ta có thể nói, “Các lực sĩ đang tranh tài ở các môn điền kinh”. “Các cầu thủ đang đua tài trên sân cỏ”, “Các lực sĩ đang đua tài ở môn ném tạ”. “Các lực sĩ bắn cung đang trổ tàitrên trường bắn”. Ngôn ngữ nên phong phú chứ không phải chỉ chết cứng ở từ ngữ “thi đấu”.
6) Thi công: Công nhân đang làm việc trong nhà máy bây giờ được gọi là, “Công nhân đang thi công.” Tại sao công nhân lại phải thi đua với nhau? Trên thế giới này, khắp năm châu bốn biển, chẳng có chỗ nào công nhân này phải thi đua với công nhân kia. Ai có phận sự của người nấy. Một công việc phải mất bao nhiêu giờ, cần bao nhiêu nhân công, kỹ sư… chủ nhân đều biết. Cứ tuần tự mà làm. Bạn là công nhân ở Mỹ mà thi đua để làm việc thì đúng là mắc bệnh tâm thần. Nếu công việc phải 8 giờ mới hoàn tất, nay vì muốn “kiểm điểm” cố sống cố chết hoàn tất trong 6 tiếng thì lần sau ông chủ sẽ giao thêm việc cho bạn…tức mình tự giết mình mà cũng chẳng được khen ngợi hay tăng lương. Ở Mỹ chuyện gì cũng rõ ràng. Công việc phải hoàn tất trong 8 tiếng mà 10 tiếng mình mới làm xong, người ta đuổi mình vì mình không có khả năng làm việc. Công việc 8 tiếng mới hoàn thất mà 6 tiếng mình đã làm xong, người ta sẽ đưa thêm việc cho mình làm. Ở Mỹ không có chuyện ngồi chơi lãnh lương và cũng không có chuyện phải thi đua. Nếu công việc quá nhiều mà phải làm thêm giờ (over time) thì phải trả lương gấp rưỡi hay gấp đôi. Công nhân làm đúng bổn phận là đáng khen lắm rồi. Nhiều khi thi đua chỉ là gian dối rồi báo cáo láo. Thi đua nhiều quá công nhân kiệt sức, lao phổi chết oan mạng!
7) Phiên bản: Trong nước không hiểu nghĩa “phiên bản” là gì. Nếu bạn mở cuồn Từ Điển Anh-Hoa (English-Chinese Dictionary) thì “copy” người Tàu dịch là “phiên bản”. Vậy thì “phiên bản” là bản sao chép, bản chụp, sao y bản chính…thế mà “phiên bản “ được dùng ở khắp mọi nơi, chẳng hạn như “báo Nhân Dân phiên bản tiếng Việt”, thật ra nó chỉ là, “Báo Nhân Dân, bản tiếng Việt” (vì báo Nhân Dân có thể có bản tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Nhật). Nếu nó là “phiên bản” thì nó phải sao chép lại, hoặc chụp lại từ bản chính. Đúng là điếc không sợ súng, không hiểu nghĩa mà cứ viết bừa. Thật đáng sợ! Trên đời này người ta không sợ bậc trí thức mà sợ kẻ ngu dốt, Vì ngu dốt sẽ phá nát mọi thứ. Hình như Lennin nói rằng “Ngu dốt cộng với nhiệt tình là phá hoại”.
Kết Luận:
Tôi xin dùng phần cuối của bài “Thế Nào Là Tiếng Việt Trong Sáng” phổ biến ngày 24/1/2013 để tạm kết luận cho bài này:
“Ngôn ngữ và văn chương là tài sản vô giá do tiền nhân để lại, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy cho mỗi ngày thêm sáng đẹp. Do giao tiếp với nhiều nguồn văn hóa ngoại lai, những chữ nào có thể dịch sang Việt Ngữ thì phải cố mà dịch cho được để giữ gìn ngôn ngữ và văn chương Việt cho thuần khiết. Chen tiếng ngoại quốc vào tiếng Việt một cách bừa bãi khiến tiếng Việt trở nên lai căng, hổ lốn. Muốn thế thì phải học hỏi và nhất là phải cẩn thận và viết với tinh thần trách nhiệm.Trách nhiệm có nghĩa là hiểu được hậu quả của những gì mình viết ra. Nếu không giỏi thì cứ học theo người xưa mà viết, cố “sáng chế” tức viết bậy, viết nhảm. Chúng ta không nên đùa rỡn, nói mạnh hơn là phá hoại ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc.
Học tiếng nước ngoài là để giao dịch, làm ăn buôn bán và nghiên cứu những kiến thức mà sách Việt không có. Học tiếng nước ngoài không có nghĩa là để hủy hoại tiếng mẹ đẻ hoặc thỉnh thoảng “xổ” ra vài tiếng để chứng tỏ mình văn minh hơn đời hoặc có vẻ ta là “Mỹ” đây. Người Mỹ có bắt chước ai đâu? Họ đứng trên đôi chân của họ. Tại sao ta phải tự ti mặc cảm về ngôn ngữ của dân tộc mình? Chuyện “nói tiếng Tây ba rọi” đã xưa lắm rồi và bị mỉa mai suốt thời kỳ Thực Dân Pháp còn đô hộ nước ta. Sau hết, cũng xin nhớ cho muốn giữ gìn tiếng Việt trong sáng thì tâm hồn mình cũng phải trong sáng trước đã. Tâm hồn trong sáng là tâm hồn của một người yêu nước Việt và tiếng Việt. Khi mình nói mình yêu cha mẹ tức là phải làm sao cho cha mẹ sung sướng. Còn khi mình nói mình yêu tiếng Việt có nghĩa là mình phải làm sao cho tiếng Việt mỗi ngày mỗi trở nên sáng đẹp, thanh tao. “
Đào Văn Bình
(California ngày 7/102016)
Dã tâm của Trung Quốc: Một Hà Nội tứ bề thọ bệnh!
Tác giả: Nguyễn Đức Thắng
——————-
Ảnh: VNE
1) Ba nhà máy điện hạt nhân, tổng công suất 3500MW, công nghệ TQ “liền kề” với miền Bắc, với tam giác vàng động lực, trụ cột, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả vùng gồm Hà Nội, Quảng Ninh và Hải Phòng đã đi vào hoạt động.
2) Công suất tối đa của thủy điện Sơn La lớn nhất của cả nước ta là 2400MW.
3) Trên hình (bản đồ) những dấu chấm đỏ là những nhà máy qui hoạch trong tương lại nhưng chỉ là phù phép, sẽ không hình thành, không có đâu.
4) Bụi phóng xạ, dù là rất nhỏ như các quan chức luôn trấn an người dân, nhưng khổ nỗi tôi phải ở tại Hà Nội nhiều năm, cả đời, ngày nào tôi cũng hít thở 24/24 thứ bụi phóng xạ mà họ nói là luôn an toàn này.
Nếu họ nói rằng bụi phóng xạ là rất nhỏ, không đáng kể, thế tại sao TQ lại chọn xây dựng nhà máy ở nơi cực xa với khu dân cư của họ, ở những vùng này họ đâu có cần nhiều điện đến thế mà lại chọn đặt 3 nhà máy hạt nhân cực lớn sát khu dân cư đông đúc nhất, trù phú nhất, ngàn năm lịch sử của VN?
Tại sao họ không đặt tại gần nơi có nhu cầu tiêu thụ điện? Tại sao lại chọn đặt ở vùng khỉ ho cò gáy đối với họ nhưng lại liền kề với thủ đô Hà Nội? Hãy suy nghĩ cho thật thấu đáo và trả lời câu hỏi tại sao họ lại mang 3 nhà máy điện hạt nhân của họ đặt liền kề miền Bác? Tại sao họ không đặt sâu trong nước họ?
5) Mỗi đứa con cháu của chúng ta vừa mới lọt lòng ra đã phải hít thở bụi phóng xạ, cho dù các nhà chức trách có trấn an là rất nhỏ, nhưng chúng ta không sống ở đây có vài năm mà là định cư cả đời. Hít bụi phóng xạ cả đời mà không sao à? Nhà khoa học nào dám đứng ra cam đoan, đảm bảo là hít bụi phóng xạ cả đời vẫn không sao? Công nghệ TQ bụi phóng xạ là an toàn à?
6) Bụi phóng xạ, hàng trăm ngàn tấn thuốc BVTV, nhiều triệu tấn hoa quả TQ tẩm thuốc BVTV để bảo quản là những món quà mà TQ tặng chúng ta.
7) Chắc chắn tôi phải khuyên con cháu tôi tìm nơi nào có môi trường trong lành, an toàn mà sống. Tôi hoàn toàn thấy không yên tâm khi con cháu mình cả đời hít thở bụi phóng xạ. Gió mùa Đông Bắc, Đông Nam đều hất bụi phóng xạ vào Hà Nội.
Đọc thêm:
Việt Nam làm gì khi ở gần ba nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc?
Tác giả: Phạm Hương (VnExpress)
Thường xuyên trao đổi về an toàn hạt nhân với Trung Quốc, lắp đặt hệ thống quan trắc đo nồng độ phóng xạ để cảnh báo sớm…, là những việc cần làm ngay của Việt Nam.
Ba nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc nằm sát Việt Nam / Vị trí ba nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc gần Việt Nam
Ba nhà máy điện hạt nhân ở phía nam Trung Quốc vừa đi vào vận hành thương mại. Trong đó nhà máy Phòng Thành cách Quảng Ninh 50 km; nhà máy Sương Giang cách đảo Bạch Long Vĩ khoảng 100 km và nhà máy Trường Giang cách biên giới Việt Nam hơn 200 km.
Vị trí ba nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc gần Việt Nam. Đồ Họa: Tiến Thành.
Trước thông tin trên, PGS.TS Trần Thanh Minh (nguyên Viện trưởng viện khoa học kỹ thuật hạt nhân) chia sẻ ông quan ngại nhất với nhà máy Phòng Thành, bởi vị trí quá gần các khu vực đông dân của tỉnh Quảng Ninh.
Theo ông Minh, dù công nghệ hiện đại và không ai muốn sự cố xảy ra, nhưng dưới góc độ khoa học thì khi xây dựng mọi nhà máy điện hạt nhân trên thế giới, con người phải tính đến xác suất rủi ro để có các biện pháp phòng ngừa cần thiết.
“Sự cố nổ lò hiện không gây ra hậu quả nặng nề như trước, nhưng khi phóng xạ bốc lên, chỉ cần gió mùa đông bắc là nó sẽ lan tới hàng trăm km”, ông Minh nói.
TS Minh cho rằng, việc cần làm ngay là Việt Nam thiết lập cơ chế thường xuyên trao đổi với các nước láng giềng về an toàn hạt nhân, không riêng Trung Quốc mà với các nước Lào, Campuchia vì những nước này “đang rục rịch xây dựng nhà máy điện hạt nhân, không loại trừ có nhà máy gần Việt Nam”. Cùng với đó là phổ biến các kiến thức cần thiết về sự cố hạt nhân cho người dân; khi phát hiện sự cố, cơ quan chức năng cần thông báo kịp thời tới cộng đồng.
Cho rằng nếu Việt Nam chỉ tập trung vấn đề an toàn cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, mà chưa tính đến việc các nước xây dựng nhà máy áp sát biên giới là thiếu sót lớn, chuyên gia Trần Hữu Phát nhấn mạnh “không nên chủ quan” vì sự cố phóng xạ có thể không gây nguy hiểm ngay đến tính mạng người dân, nhưng nó sẽ để lại bệnh tật lâu dài.
Ông Phát khuyến nghị Việt Nam nên lắp đặt trạm quan trắc ở khu vực liên quan hướng gió từ Trung Quốc sang, đặt tập trung ở Quảng Ninh, Hà Nội chứ không chỉ Ninh Thuận. “Với công nghệ điện hạt nhân ngày nay thì người dân không nên lo lắng quá mức, tuy nhiên chúng ta cần hệ thống trạm quan trắc hoạt động thường xuyên và đội ngũ cán bộ chuyên môn tốt”, chuyên gia này nói thêm.
Kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc, nhà máy đang hoạt động (màu xanh lá cây), đang xây dựng (xanh lam) và trong kế hoạch (đỏ). Nguồn: world-nuclear.org
Phó viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Nguyễn Hào Quang cũng cho rằng Việt Nam cần sớm triển khai mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường. Mạng lưới sẽ giúp phát hiện sớm sự cố và kịp thời có phương án ứng phó, bởi phóng xạ di chuyển không biên giới và không thể nhận biết bằng mắt thường.
Tuy nhiên việc này đòi hỏi kinh phí lớn, Viện Năng lượng nguyên tử đang xây dựng dự án chia làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn một từ 2017 đến 2020, Viện đề xuất tập trung đầu tư thiết bị quan trắc tại địa phương khả năng bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra sự cố nhà máy điện hạt nhân từ Trung Quốc là Quảng Ninh (Móng Cái và Bãi Cháy), Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An và Hà Nội.
Với mạng lưới trên, Viện sẽ khai thác dữ liệu theo hai bước. Thứ nhất là xử lý dữ liệu thô tạo nên bức tranh ban đầu về môi trường phóng xạ miền Bắc. Bước tiếp theo, thông tin sẽ được xử lý bằng cách so sánh, đối chiếu, liên hệ với các thông số kỹ thuật khác. Nếu phát hiện tín hiệu phát xạ bất thường, chuyên gia sẽ biết được những tín hiệu đó do khối khí nào mang tới, từ đâu, để dự báo nguồn phát thải phóng xạ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)