STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2016
GỬI CÔ NHÂN TÌNH BÉ NHỎ
Nồng Nàn Phố
GỬI CÔ NHÂN TÌNH BÉ NHỎ
Người tình của anh!
Về với chồng đi em... kệ anh ở đây với những điều sốc nổi
Về hàn gắn những vết thương cho lành, cho lên sẹo, cho bình thường trở lại
Anh đốt thuốc nhìn đời ngang trái
Nhìn mình vô dụng không che chở nổi cho em
Về làm dâu thảo và vợ hiền
Chồng em đó... vẫn là người cưới em, đeo nhẫn cho em, hôn em, đứng bên cạnh em trong tấm hình cưới
Con em đó... vẫn là cục máu đỏ em rặn ra, em nuôi bằng sữa ấm
Còn anh... chỉ là thằng đàn ông cả đời rong ruổi
Thử ướm chân mình lên dấu chân cũ người ta
Để khi nào đó mọi thứ đi qua
Anh mới nhận ra mình đang chết mòn vì thương nhớ!
Về đi người tình của anh... đừng sợ
Mọi đớn đau, nhục nhã, đớn hèn anh đã giấu kín hết rồi
Anh thẳng bàn tay lên chỉ trời
...quá phũ!
Trời nhắm tịt mắt ngủ để hai đứa mình khổ thế này
Để anh chỉ là một thằng đàn ông... biết người mình yêu sắp rơi vào tâm bão mà giả vờ say
Giả vờ bình thường như một thằng không óc
Đừng khóc em! Về thôi
Về đi em ơi
Kệ anh mang tiếng cướp vợ, cướp mẹ, cướp bình yên nhà người khác
Kệ anh mang tiếng ác
Vô tâm...
Về đi... xin lỗi em vì ngay bây giờ anh phải điếc, phải câm
Không ngăn em lại như ngày đầu ôm em và hứa với em những điều ong mật
Không chạy tới nghiêng vai cho em dựa, cho em tủi hoàn trút vạn điều được mất
Anh đớn hèn quá phải không?
Người tình ơi... về ôm con và thương chồng
Lo bữa cơm ngon cho người gọi em là vợ
Dành cho con em nụ cười và hơi thở
...nhưng chỉ có duy nhất một điều anh xin...đừng quên anh!
Riêng anh sẽ thề với trời xanh
Đời này đã quá nhiều sai trái
Chỉ duy nhất một điều anh tin là lẽ phải
Gặp và yêu em như thể máu thịt mình
Hãy tin....đó là điều đúng duy nhất, gia tài duy nhất anh có được
Nhưng anh chỉ là thằng tập xỏ chân vào dấu chân người đi trước
.... Không vừa vặn chân mình nên anh tự chết trong lặng câm
Về đi em yêu của anh! Mai trời mưa lâm thâm
Em dựa vai chồng để biết anh đang buồn hơn mưa đó
Anh đốt điếu thuốc rực đỏ
Thiêu lòng mình thành tro...
Đời anh như con đò...
Em ngồi lên rồi ra đi để chòng chành toàn sóng dữ
Về đi cho anh nhắm mắt ngủ
Giả vờ!
P/s: Những điều lãng mạn, những câu thề sâu đậm... Tất cả đều đúng và thật lòng... Nhưng có lẽ đó là thật lòng và đúng vào một khoảng khắc nào đó... Mà cuộc đời thì dài, cần chăng những khoảng khắc thoáng qua để làm đau lòng mình và người khác...
GỬI CÔ NHÂN TÌNH BÉ NHỎ
Người tình của anh!
Về với chồng đi em... kệ anh ở đây với những điều sốc nổi
Về hàn gắn những vết thương cho lành, cho lên sẹo, cho bình thường trở lại
Anh đốt thuốc nhìn đời ngang trái
Nhìn mình vô dụng không che chở nổi cho em
Về làm dâu thảo và vợ hiền
Chồng em đó... vẫn là người cưới em, đeo nhẫn cho em, hôn em, đứng bên cạnh em trong tấm hình cưới
Con em đó... vẫn là cục máu đỏ em rặn ra, em nuôi bằng sữa ấm
Còn anh... chỉ là thằng đàn ông cả đời rong ruổi
Thử ướm chân mình lên dấu chân cũ người ta
Để khi nào đó mọi thứ đi qua
Anh mới nhận ra mình đang chết mòn vì thương nhớ!
Về đi người tình của anh... đừng sợ
Mọi đớn đau, nhục nhã, đớn hèn anh đã giấu kín hết rồi
Anh thẳng bàn tay lên chỉ trời
...quá phũ!
Trời nhắm tịt mắt ngủ để hai đứa mình khổ thế này
Để anh chỉ là một thằng đàn ông... biết người mình yêu sắp rơi vào tâm bão mà giả vờ say
Giả vờ bình thường như một thằng không óc
Đừng khóc em! Về thôi
Về đi em ơi
Kệ anh mang tiếng cướp vợ, cướp mẹ, cướp bình yên nhà người khác
Kệ anh mang tiếng ác
Vô tâm...
Về đi... xin lỗi em vì ngay bây giờ anh phải điếc, phải câm
Không ngăn em lại như ngày đầu ôm em và hứa với em những điều ong mật
Không chạy tới nghiêng vai cho em dựa, cho em tủi hoàn trút vạn điều được mất
Anh đớn hèn quá phải không?
Người tình ơi... về ôm con và thương chồng
Lo bữa cơm ngon cho người gọi em là vợ
Dành cho con em nụ cười và hơi thở
...nhưng chỉ có duy nhất một điều anh xin...đừng quên anh!
Riêng anh sẽ thề với trời xanh
Đời này đã quá nhiều sai trái
Chỉ duy nhất một điều anh tin là lẽ phải
Gặp và yêu em như thể máu thịt mình
Hãy tin....đó là điều đúng duy nhất, gia tài duy nhất anh có được
Nhưng anh chỉ là thằng tập xỏ chân vào dấu chân người đi trước
.... Không vừa vặn chân mình nên anh tự chết trong lặng câm
Về đi em yêu của anh! Mai trời mưa lâm thâm
Em dựa vai chồng để biết anh đang buồn hơn mưa đó
Anh đốt điếu thuốc rực đỏ
Thiêu lòng mình thành tro...
Đời anh như con đò...
Em ngồi lên rồi ra đi để chòng chành toàn sóng dữ
Về đi cho anh nhắm mắt ngủ
Giả vờ!
P/s: Những điều lãng mạn, những câu thề sâu đậm... Tất cả đều đúng và thật lòng... Nhưng có lẽ đó là thật lòng và đúng vào một khoảng khắc nào đó... Mà cuộc đời thì dài, cần chăng những khoảng khắc thoáng qua để làm đau lòng mình và người khác...
Tiểu cảnh mini(Kim giòn)
Tiểu cảnh mini(Kim giòn)- giá 200k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/
Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016
Trang hồng (giống mới) - giá 250k
Trang hồng (giống mới) - giá 250k-ĐT 0974548883. STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
Chưa hiểu hết cha ông thì đừng tính chuyện " soán ngôi" thơ mới
Nguyễn Trọng Bình
1. Thật buồn cười khi biết rằng hiện nay người ta đem chuyện “thơ đương đại khó hay độc giả quá khắt khe” với nó ra mà bàn tán rôm rả. Sao lại đặt vấn đề như thế nhỉ? Không phải mọi người luôn bảo nhau rằng dù muốn dù không; dù “thơ khó hay độc giả khó” gì thì “thơ vẫn sống”, vẫn “tồn tại” đó sao? Thế thì bàn chuyện này cuối cùng sẽ mang lại kết quả gì? Lẽ ra, ở chỗ này nên luận xem thơ đương đại đang “sống” ra sao, “sống” như như thế nào; “sống” với bộ phận công chúng nào; “sống” tới bao lâu; và những người làm ra nó có thể cùng “sống” với nó để lưu danh hậu thế như cha ông thời trước không? Hay là thật sự nó đang“chết trong lúc sống” như cách nói của Nam Cao trong tiểu thuyết nổi tiếng Sống mòn viết cách đây hơn nửa thế kỷ?… Những vấn đề như thế này lẽ ra phải được “mổ xẻ” thì có khi là “hợp tình hợp cảnh” hơn chăng?
Chưa hết, càng buồn cười hơn nữa khi có không ít những người làm thơ đương đại hiện nay còn “úp mở” rằng đã đến lúc làm một cuộc “thay máu” cho thơ ca kiểu như các nhà thơ Mới thế hệ 1932-1942 đã từng làm trong lịch sử thơ ca dân tộc nữa chứ? Làm gì mà phải thống thiết đến mức ảo tưởng và ngô nghê khi van nài rằng:“nên chăng độc giả hãy cho thơ đương đại cơ hội được đọc, được hiểu như thơ Mới, tới lúc đó thơ đương đại không còn khó nữa”?[1]. Trời ạ, có ai cấm cản chuyện này bao giờ đâu mà bảo “cho hay không cho”. Tuy thế, nếu chỉ dẫn ra vài trường hợp thơ đương đại viết theo lối rất tự phát hiện nay để so sánh với cả một trào lưu thơ Mới rồi yêu cầu công chúng “ban phát cho một cơ hội” thì rõ ràng chưa phải lúc nếu không muốn nói là quá ảo tưởng?!
2. Đến nay phong trào thơ Mới 1932-1942 đã trở thành quá khứ, trở thành truyền thống thơ ca của dân tộc. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết rằng để làm nên “một thời đại trong thi ca vừa đúng mười năm chẵn” này (theo cách nói của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam) thì cha ông ta đã mất đến 1000 năm để “chuẩn bị” (nếu làm tròn những con số kể từ khi chúng ta có nền văn học viết (thế kỷ X) đến thời thơ Mới – thế kỷ XX). Trong cái nhìn so sánh, nếu lấy mốc 1945 đến nay thì với khoảng trên dưới 70 năm thử hỏi những người làm thơ đương đại hiện nay đã có những bước “chuẩn bị” gì và chuẩn bị như thế nào mà đòi làm cuộc “nổi loạn” nhằm “tống tiễn thơ Mới” như kiểu các nhà thơ Mới trước đây đã tống tiễn thơ Cũ (thơ ca trung đại)? Hay nói cách khác, trong khoảng hơn nửa thế kỷ này, chúng ta đã hiểu cha ông ta chưa, hiểu như thế nào, hiểu đến mức nào… mà đòi làm cuộc “thay máu”?
Công bằng mà nói thì chúng ta có hiểu nhưng vẫn chưa hiểu hết hoặc có những chỗ hiểu nhưng hiểu rất mơ hồ hoặc có khi là vẫn không thể hiểu nổi cha ông ta thời thơ Mới đâu. Thảo nào mà chúng ta chưa kịp hiểu hết cha ông, hoặc không hiểu cha ông nên mới đưa ra những cách so sánh ấu trĩ và buồn cười thế này:
“Nếu cái tôi thơ mới chỉ dừng lại là sự khẳng định cá nhân trong nỗi cô đơn, lạc lõng giữa thế giới:“ta là một, là riêng là thứ nhất/ không có chi bè bạn nỗi cùng ta (Hy Mà Lạp Sơn – Xuân Diệu) thì cái tôi cô đơn trong thơ đương đại lại là sự khẳng định cái cô đơn ngay giữa những người thân yêu nhất:
Bố
Mặt trời nóng rực và ồn ã
Con muốn gần … lại sợ …
tan ra…
Mẹ
Mặt trăng xa
Con ngần ngại cận kề
Con
Vì sao lạc giữa
Lớn lên và sáng bằng nước mắt
Bầu trời không ngừng bão tố
Sấm, sét chớp rạch đấy…
(Những đối lập – Vi Thùy Linh)” [2]
Có thật là “cái tôi thơ Mới chỉ dừng lại” ở “sự khẳng định cá nhân trong nỗi cô đơn, lạc lõng giữa thế giới” như cách nói của tác giả đoạn trích này không? Hơn nữa, nếu lấy cái tôi thơ Mới “cô đơn lạc lõng giữa thế giới” so với cái tôi của thơ đương đại “cô đơn ngay giữa những người thân yêu nhất” (mà cô nàng “thi sĩ ái quyền” Vi Thùy Linh đang làm “đại diện”) thì cái tôi nào đáng thông cảm và chia sẻ hơn? Một đằng là lạc lỏng giữa vũ trụ khôn cùng; một đằng chỉ là sự lạc lỏng trong phạm vi của một gia đình thì liệu sự lạc lỏng nào đáng thương hơn?
Nên nhớ rằng, suy cho cùng sự ra đời của thơ Mới nói chung hay các trào lưu văn học giai đoạn 1930-1945 về sâu xa đó còn là nỗi “bức xúc” của cha ông nhằm thoát ra khỏi sự “nô lệ văn hóa” (văn hóa Trung Hoa suốt 1000 năm Bắc thuộc) bên cạnh một nỗi “bức xúc” khác đó là sự nô lệ về cương vực, lãnh thổ” (sự cay trị của thực dân Pháp). Cho nên, sự khẳng định “cái tôi” ở thơ Mới ở góc nhìn văn hóa, đó là một bước ngoặt cực kì quan trọng đối với vận mệnh dân tộc ở phương diện trình độ tư duy và nhận thức của mỗi cá nhân. Trong cái nhìn này, có thể nói các cây bút thơ đương đại chưa làm được những điều mà các nhà thơ Mới đã làm trước đó. Bằng chứng là các cây bút thơ đương đại nhìn chung vẫn viết theo lối tự phát (tôi muốn nói đến sự “tự phát” ở nghĩa rộng của từ này). Vì thế, tiếng nói của họ chưa đủ “sức nặng” để thuyết phục công chúng vì một lẽ rất đơn giản đó không phải là “tiếng nói chung của một thế hệ”. Trong khi đó, với thơ Mới tuy mỗi nhà thơ là một phong cách nhưng gần như tất cả họ đều cùng chung một “chiến tuyến” (cùng tham gia “bút chiến” với thơ Cũ), chung một mục tiêu là hướng đến việc thay đổi nhận thức nhằm “cải tạo văn hóa”; dẫn dắt dân tộc hòa nhập với những nền văn hóa khác trên con đường hòa nhập với xu hướng thế giới mở.
3. Bây giờ chúng ta thử bàn thêm một vài nét cơ bản để xem cha ông ta thời thơ Mới đã có những bước đi và chuẩn bị gì về văn hóa như thế nào trong 1000 năm để đến năm 1932 mới bắt đầu chính thức làm cuộc lật đổ “thành trì” thơ ca trung đại trước đó?
Thứ nhất, làm nên thời đại thơ Mới là những tên tuổi cụ thể như Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Kiêm, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, Huy Thông, Đoàn Phú Tứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… Tuy nhiên trước đó, để có được thành công của thơ Mới thì không thể không kể đến những người đã cất công “dò đường”, cất công “tiền trạm” tiêu biểu như “ông thần ngông” Tản Đà – người mà Hoài Thanh đã thành kính tri ân bằng việc rước “anh linh” về chứng giám trước khi cho “khai mạc Hội Tao Đàn thơ Mới”. Đó là nói về những người có công tham gia trực tiếp vào cuộc “nổi loạn” của thơ Mới còn như nói về những bước “chuẩn bị” sâu xa hơn nữa ở các phương diện như văn hóa, giáo dục, nghệ thuật… có lẽ khó mà kể hết ra đây những tên tuổi đã gián tiếp ít nhiều góp phần vào cuộc cuộc “nổi loạn” này. Chúng ta hãy nghe học giả Lưu Trọng Lư phát biểu về vấn đề này trong bài diễn thuyết ở Học hội Quy Nhơn năm tháng 6/1934 để hiểu rõ hơn sự thay đổi mang tính bước ngoặt về nhận thức và trình độ tư duy của cha ông ta như thế nào:
“Các cụ ta ưa màu đỏ choét, ta lại ưa màu xanh nhạt…các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì ta cho là mát mẻ như đứng trước một xanh đồng xanh. Cái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…” (Dẫn lại từ Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân).
Thứ hai, nhận định về các khuynh hướng của thơ Mới, Hoài Thanh viết: “Mỗi nhà thơ Việt Nam hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”. Tôi muốn nhìn nhận vấn đề ở đây với ý nghĩa tích cực của nó đó là sự tác động, ảnh hưởng của sự giao thoa văn hóa – một thực tế đã diễn ra có tác động trực tiếp đến các nhà thơ Mới. Ở góc nhìn này, tôi cho rằng; để có thể hiểu cha ông – để hiểu, để “giải mã” những phong cách thơ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương… dứt khoát chúng ta cần phải được “trang bị” về văn hóa Pháp nhất là ở phương diện triết học. Bởi với các nước phương Tây, hầu như những trào lưu văn học của họ bao giờ cũng được “dẫn dắt” bằng một triết thuyết nào đó! Ở góc nhìn này, chúng ta cần nên thành thật với nhau là đến nay ta thật sự vẫn chưa hiểu hết những gì gọi là “thơ điên”, “thơ loạn” ở Hàn Mặc Tử, ở Chế Lan Viên….; hay chúng ta tuy cũng có nói đến “thơ tượng trưng”, nói đến “thơ siêu thực” trong phong trào thơ Mới nhưng để nói cho tường tận, cho “ra ngô ra khoai” thì hầu như vẫn là vấn đề còn đang được các nhà nghiên cứu trao đổi, bàn bạc. Đó là chưa nói, một thời gian dài chúng ta bị “ức chế” vì thơ Mới bị loại bỏ ra khỏi đời sống văn học những năm cả dân tộc tiến hành “hai cuộc chiến sống còn” để thống nhất bờ cõi. Sự “ức chế” này không đơn giản chỉ là sự “ức chế” vì không được phép đề cập, không được bàn, không được ca ngợi thơ Mới mà quan trọng hơn nó là sự “ức chế triết học”; “ức chế về quan điểm và xúc cảm thẩm mỹ” vì đường hướng cách mạng dân tộc chỉ chấp nhận duy nhất một con đường, một hướng đi chung cả về “lý luận” lẫn “thực tiễn”. Và chỉ từ khi sau đổi mới (1986), chúng ta mới bắt đầu tìm lại, xem lại, đọc lại, đánh giá lại thơ Mới cũng như những hiện tượng văn học khác mà một thời vì “hoàn cảnh” mà chúng ta coi đó là những trường hợp “phức tạp”. Thế nhưng, như đã nói với chừng ấy năm sau đổi mới, thử hỏi chúng ta liệu đã đủ thời gian để giải tỏa hết những nỗi “ức chế triết học” chưa; liệu chúng ta đã hiểu hết cha ông ta thời thơ Mới chưa? Rõ ràng, chúng ta chỉ hiểu ở một vài phương diện; hoặc có khi là vẫn chưa hiểu, không hiểu, hay hiểu rất mơ hồ… Như thế, thì liệu chúng ta làm sao đủ “vốn” để mà làm những “cuộc bạo động chữ nghĩa” hay “cách tân” gì đó?
Ngoài ra, tiện thể cũng xin nói thêm, đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa hiểu và khai thác hết cái di sản văn học nghệ thuật nói chung hay thơ ca nói riêng của cha ông ở “khu vực” mà các nhà nghiên cứu hiện nay vẫn gọi đó là “văn học đô thị miền Nam” những năm đất nước còn bị chia cắt (– một di sản văn học được đánh giá là rất phong phú và đa dạng). Trong cái nhìn cầu thị và chân thành nhất, riêng ở chỗ này chúng ta cũng lại chưa kịp hiểu hết những tâm tư, tình cảm, những trăn trở của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc trên dãy đất hình chữ S thống nhất. Một lần nữa có thể nói, chúng ta vẫn chưa kịp hiểu hết cha ông mà đã vội hát câu “ví dầu tình bậu muốn thôi/bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra” rồi!
4. Có thể nói, để làm nên phong trào thơ Mới cách đây hơn nửa thế kỷ, cha ông ta đã có những bước đi và những sự “chuẩn bị” về rất kỹ về văn hóa. Nói cách khác, cha ông ta thời thơ Mới đã hiểu rất rõ cha ông ta thời trung đại trong suốt 1000 năm và họ thấy đã đến lúc phải làm cuộc “thay máu” và thực tế là họ đã đúng và đã làm được. Cha ông ta thời thơ Mới đã hiểu rất rõ cha ông thời trung đại bằng một con mắt tinh đời luôn “nhìn xa trông rộng” với một tinh thần tự giác và rất có trách nhiệm. Trên cơ sở ấy, họ mới dám tự tin làm nên cuộc “nổi loạn” nhằm giải tỏa những nỗi “bức xúc về văn hóa” ở “địa hạt” văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng.
Còn với chúng ta ngày nay – thử hỏi những nhà thơ đương đại đã hiểu cha ông ta (thời thơ Mới) đến đâu trong khoảng trên dưới 70 năm qua (tính luôn những 41 năm bị gián đoạn từ 1945 đến 1986) mà đòi làm cuộc “soán ngôi” thơ? Thực ra, thì chúng ta vẫn đang sống, vẫn đang được sưởi ấm bằng ngọn lửa âm ỉ cháy của cha ông ta từ thời thơ Mới mà có khi ta đang cố tình tự lừa dối mình để không chịu thừa nhận đó thôi. Những cái mà chúng ta gọi là “thơ khó”, thơ “tân hình thức”, “thơ hậu hiện đại” … gì đó hiện nay thì cha ông ta thời thơ Mới đã thử nghiệm hết cả rồi. Những phát ngôn theo kiểu “tôi viết những gì thuộc về chính tôi, viết cho riêng mình tôi” thì cha ông ta đã nói rồi. Thơ của Xuân Thu Nhã tập đây này:
“Lẳng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đái đĩa mùa đi nhịp hãi hà”
Chúng ta không hiểu hoặc chưa kịp hiểu cha ông đó là một cái tội. Mặt khác, không hiểu hay chưa hiểu cha ông ở phương diện nào đó cũng tức là ta không hiểu hay chưa hiểu chính bản thân ta. Mà ta không hiểu chính ta thì làm sao làm việc có hiệu quả? Cho nên, trên thực tế có khi không khéo chúng ta cũng giống như chú khỉ Tôn Ngộ Không dù có lộn đi lộn lại trăm ngàn vòng đi nữa vẫn không thoát ra khỏi bàn tay của Phật tổ?
***
Cuộc đời vốn rất công bằng, ai có tài năng và tâm huyết nhất định cuộc đời sẽ vinh danh. Chúng ta không bi quan vào sự vận động và phát triển của thơ ca dân tộc ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Tuy nhiên, có lẽ cũng không nên quá nôn nóng nghĩ đến chuyện phải làm cuộc “soán ngôi thơ” gì đó trong lúc này. Hãy dũng cảm nhìn vào một sự thật là chúng ta vẫn còn đang nợ cha ông ta rất nhiều. Bởi những di sản cha ông để lại chúng ta vẫn chưa “xử lý”, chưa “tiêu hóa” nổi. Rồi đây chắc chắn sẽ có một cuộc “thay máu” nữa thơ ca cho dân tộc. Nhưng đó là chuyện của tương lai có thể rất gần mà cũng là rất xa (vì với những gì đang diễn ra có lẽ lịch sử đã không chọn thế hệ chúng ta hiện nay để gánh vác cái “sứ mệnh thay máu” cho thơ ca dân tộc rồi). Cho nên, theo thiển ý cá nhân, người viết cho rằng nếu thật sự có trách nhiệm với thơ, thật sự yêu và kính trọng thơ, nên chăng chúng ta cần có những bước “chuẩn bị văn hóa” (chữ dùng của nhà phê bình Nguyễn Hòa) thật tốt cho con cháu mai sau. Biết đâu khi ấy cuộc đời sẽ lại vinh danh chúng ta như một người có đã công “tiền trạm” kiểu như thi sĩ Tản Đà trước đây. Được như thế, thiết nghĩ cũng đã là may mắn lắm rồi.
Tóm lại, vấn đề ở đây không phải là chuyện“thơ khó hay độc giả khắt khe” (mà dẫu nếu có chuyện này đi chăng nữa thì đây cũng là chuyện rất nhỏ) mà vấn đề là tất cả chúng ta (cả người làm thơ và người thưởng thức thơ) đã chuẩn bị gì cho thơ, đã “thay nghén” và “nuôi dưỡng” thơ như thế nào để thơ được “sống”, được can dự vào sự tiến hóa chung của con người trong thời đại toàn cầu hóa?
Ghi chú:
[1]; [2]: Bài viết “Thơ đương đại, thơ khó hay người đọc khắt khe” của Trần Thư được chúng tôi dẫn lại từ báo Văn nghệ Trẻ số ra ngày 26/2/2012
Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016
Nude, góc nhìn đa chiều “CON MẮT ĐEN NHƯNG LUÔN KIẾM TÌM NHỮNG ĐIỂM SÁNG”
Simon và Perot - Tranh sơn dầu của Rubens
Nguyễn Thành
Kể từ khi xuất hiện hội họa và sau này là nhiếp ảnh, nude luôn là một đề tài gợi lên sự tranh cãi bất tận. Có vô số luận giải khác nhau về nude, về ranh giới giữa nghệ thuật và dung tục, về khác biệt giữa cảm hứng thăng hoa và nhu cầu mang tính bản năng của con người. Có những sự đánh giá khác nhau. Liệu nude có phải là một phát hiện về những vẻ đẹp của thế giới hay không? Sự khêu gợi tồn tại ở một ý nghĩa khác của sự sáng tạo. Nhưng mỗi thực thể chúng tồn tại như một thứ nghệ thuật trần trụi, nhờ đó mà nó tạo ra sự thú vị một cách bí hiểm, và tình yêu tồn tại trên những khoảng không mung lung đó. Phải chăng “sự dung tục”, một thành tố mà nhiếp ảnh luôn luôn tìm kiếm, như là tìm kiếm vẻ đẹp của nghệ thuật?
Khi sinh ra, con người ai cũng giống ai. Họ chào đời với không một thứ che đậy trên thân. Sự tiến bộ của xã hội loài người làm ra quần áo không chỉ nhằm mục đích giữ ấm mà càng ngày càng thiên về phục vụ nhu cầu thời trang và thẩm mỹ. Vậy điều gì khiến Nude luôn là một vấn đề gây chú ý?
Francisco de Goya, một họa sỹ vĩ đại của Tây Ba Nha, sống vào thế kỷ 18. Người đàn ông ấy có một tình yêu lớn và ngang trái với một phụ nữ tuyệt đẹp, bà Maria Cayettana, một góa phụ kiều diễm và nổi tiếng nhất Madrit vào thời bấy giờ. Tình yêu giữa họ bùng cháy và để lại một kiệt tác nghệ thuật bất diệt: “Bức họa Maja khỏa thân”. Tuy nhiên, một thế lực không nhỏ ra tay ngăn cản mối tình chênh lệch về đẳng cấp ấy. Maria bị đi đầy. Còn Goya đối mặt với tòa án của giáo hội với lời buộc tội làm băng hoại đạo đức và mang trái tim tội lỗi của quỷ dữ.
Trước tòa Goya đã biện hộ: “Vẻ đẹp của người đàn bà là một kiệt tác của tạo hóa, chỉ những ai nhìn vẻ đẹp ấy với tâm hồn tội lỗi mới là kẻ mang trái tim của quỷ satan”. Vì không vị quan tòa nào muốn thừa nhận rằng mình ngắm nhìn bức họa Maja khỏa thân với những ý nghĩ đen tối nên thống nhất rằng đó là một bức họa tôn vinh cái đẹp. Ở đây cũng phải nói bức họa vẽ nàng Maja khỏa thân của Goya nằm trễ nải đợi người tình không phải không có chút gợi tình. Nhưng mọi vẻ đẹp khỏa thân, trước hết bao giờ cũng là những sự cuốn hút được xây dựng trên nền tảng của bản năng con người, nghĩa là những cảm xúc về giới tính.
Bức họa Maja khỏa thân của Francisco de Goya
Nude of Martin Zurmühle - Thụy Sĩ 1
Góc độ - NGƯỜI SÁNG TÁC
Vẻ đẹp của cơ thể con người từ rất lâu luôn là một đề tài “hot” trong lĩnh vực nhiếp ảnh. Hầu như tất cả các nhiếp ảnh gia trong đời đều mong muốn ít nhất được một lần ngắm nhìn và thể hiện vẻ đẹp ấy. Nude là một phạm trù phức tạp, vừa cụ thể vừa trừu tượng. Ranh giới giữa nude nghệ thuật và sự dung tục rất mong manh. Cùng một bức ảnh nhưng có người cho rằng dung tục, có người lại cho rằng là nghệ thuật. Dung tục hay nghệ thuật đôi lúc phụ thuộc vào cái nhìn. Thực tế ở trên đời người ta có con mắt đen nhưng luôn tìm kiếm những điểm sáng.
Có những người theo trường phái Duy mỹ (là khuynh hướng độc tôn cái đẹp cảm thụ bằng thị giác). Đó là một trào lưu mang tính phổ biến, chuộng về hình thức bề ngoài mà ít quan tâm tới chất và tính trạng của vật. "Duy mĩ" và "chủ nghĩa hình thức" thường tồn tại ở nhiều người, nhất là trong sáng tác ảnh nude. Ở Việt Nam, những nhà nhiếp ảnh xuất thân từ họa sỹ, hay có quan hệ nhiều tới lĩnh vực hội họa thường tiếp cận thành công và dễ dàng hơn với nghệ thuật nude. Bởi họ là những người được học mỹ học, sáng tác phụ thuộc nhiều vào ý tưởng. Còn các nhà nhiếp ảnh phụ thuộc nhiều vào hiện thực, vào đối tượng trước ống kính, hơn nữa hiện nay ta chưa chính thức hóa về ảnh nude nên chưa có một sự đào tạo thực sự. Phần nhiều những nhà nhiếp VN chưa tốt nghiệp đại học (nhất là đại học chuyên ngành), bởi thế nên kiến thức về Mỹ học nhiếp ảnh rất khiêm tốn, dẫn đến tình trạng là bắt trước chụp nude chứ chưa phải là sáng tác ảnh nude nghệ thuật!
Nude of Martin Zurmühle - Thụy Sĩ 3 4
Nude of Martin Zurmühle - Thụy Sĩ 3 5
Góc độ CÁ TÍNH
Hội ngộ trên bước đường đi tìm cái đẹp nghệ thuật, nhưng tính duy mỹ ở mỗi tác giả lại có những nét riêng, tạo nên cá tính. Như vậy người sáng tác trước hết phải có ý tưởng giống như một thứ triết lý của riêng mình để xây dựng hình tượng chứ không phải xây dựng hình ảnh. Đây là hai khuynh hướng khác nhau: sáng tạo và bắt chước. Để xây dựng hình ảnh người ta mặc sức thể hiện một cách trần trụi như nó vốn có. Bởi thế khoe hình thể, quảng bá cá nhân và gợi dục là điều không tránh khỏi. Với ý định xây dựng hình tượng thì người ta thoát khỏi cái cá thể để tôn thờ biểu tượng, tôn vinh cái đẹp của tạo hóa…, cái đẹp hình thể được mặc sức phô diễn với nhiều ý tưởng khác nhau mà không gợi dục.
Ta thử hình dung xem từ hàng vạn năm nay con người đã quen khoác trên mình một thứ trang phục che thân nào đó. Nó đã trở thành một thói quen, một thuộc tính. Cởi bỏ quần áo trước một người đã khó trước đám đông lại càng khó hơn. Nó không nằm trong phạm vi cá thể mà nó đã thuộc phạm trù văn hóa xã hội, nó như một sự phô diễn, một sự giao tiếp xã hội. Nhà nhiếp ảnh giỏi sẽ biết cách che đậy bằng ý tưởng và phong cách trình diễn của riêng mình một cách vô hình.
Nude of Martin Zurmühle - Thụy Sĩ 3
Góc độ THƯỞNG THỨC
Đối với ảnh nude, nghệ sỹ kén chọn người mẫu, người mẫu chọn người tạo nên tác phẩm, còn tác phẩm thì chọn người thưởng thức. Có thể nói:Nghệ thuật và cái đẹp chỉ thuộc về những người đồng cảm và yêu mến nó. Cái đẹp không sinh ra từ sự mua chuộc hay cưỡng bức. Có nhiều cảm xúc khác nhau khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ảnh Nude, những cảm xúc trái ngược nhau ấy có thể bắt nguồn từ sự mâu thuẫn giữa khát khao trong tâm tưởng với sự thực diễn ra ngoài xã hội. Đối với họ, vẻ đẹp tuyệt đối khắc sâu trong tâm trí mãi mãi là vẻ đẹp của bức tranh trong khát khao với những nét đẹp của trí tưởng tượng. Như người ta nói: Lí tưởng thẩm mĩ của các nhà lãng mạn, xem vẻ đẹp tuyệt đối chỉ tồn tại trong khao khát của tâm hồn. Và toàn bộ câu chuyện cùng những điều kì lạ, bí ẩn xảy ra chung quy lại xuất phát từ "trò đùa của cảm giác".
Thực tế về bức tranh “Cô gái trẻ để lộ bầu ngực, quần áo xộc xệch cho ông lão ngậm vú, có tên là "Simon và Perot" - Bức tranh sơn dầu của Rubens, là một ví dụ. Những người lần đầu tiên bước vào viện bảo tàng đã cảm thất kinh ngạc khi nhìn thấy bức tranh này, có người còn cười và chế nhạo. Sao có thể treo bức tranh như vậy ngay cửa chính của viện bảo tàng? Nhưng người dân nước Puerto Rico thì rất kính trọng bức tranh này, họ cảm động rơi nước mắt. Cô gái trẻ để lộ bầu ngực là con gái của ông, ông lão chính là cha cô gái. Simon trong bức tranh chính là người anh hùng đã đấu tranh đòi độc lập cho nước Puerto Rico, nhưng bị bắt giam vào ngục và bị kết tội "cấm thực". Ông già chết dần chết mòn, lúc lâm chung con gái ông vừa sinh con đến thăm cha. Nhìn thấy cơ thể suy nhược của cha, không muốn cha chết thành con ma đói. Cô đã cởi áo, đưa dòng sữa của mình cho cha bú. Cùng một bức tranh, có người cười nhạo, có người cảm động. Người không biết được câu chuyện thật sự đằng sau bức tranh sẽ chế giễu, người biết sẽ cảm thấy đau lòng.
Thư pháp trên cơ thể nude (Nhiếp ảnh TQ))
Đi xem triển lãm hội họa và nhiếp ảnh, có nhiều bức tranh khỏa thân. Bạn nhìn ngắm bức tranh ấy với cái nhìn nghệ thuật hay với cái nhìn dung tục? Sự vật tự nó không thay đổi, nhưng khác biệt là ở cách nhìn! Thực tế ở trên đời người ta có con mắt đen nhưng luôn tìm kiếm những điểm sáng.
Cơ thể trần truồng có vẻ là một trạng thái rất tự nhiên của con người,… Tuy nhiên, khi đi vào nghệ thuật, đối tượng lõa thể lại có rất ít sự liên hệ đến những hoàn cảnh đời thường kể trên mà thay vào đó, sự tái hiện phơi bày cơ thể con người một cách trọn vẹn, nguyên bản lại phản ánh một tập hợp rất phức tạp những lý tưởng thuần túy, những mối quan tâm triết học và truyền thống văn hóa. Dù phương Tây tân tiến hay Á Đông Nho giáo, không thể phủ nhận rằng hình tượng lõa thể trong các sáng tác nghệ thuật vẫn là chủ đề rất nhạy cảm bùng phát những tranh cãi hay công kích từ giới phê bình nghệ thuật cũng như công chúng.
Có hai từ “khỏa thân” (the nude) và “trần truồng” (the naked). Để phân biệt hai khái niệm này, như một tiền đề để khẳng định tính nghệ thuật vốn hay bị nhầm lẫn và phủ nhận của nghệ thuật nude. Người ta cho rằng: Trần truồng là cơ thể bị tước bỏ quần áo, mang hàm ý trong đó là nỗi hổ thẹn. Nhưng ngược lại nude lại được hiểu như là ngôn từ có văn hóa và thẩm mỹ, khỏa thân là sự khơi gợi về một cơ thể cân đối, giàu sức sống và đặc biệt là được phơi bày với sự tự tin, một cơ thể được tái tạo dưới lăng kính nghệ thuật.
Cái yếu tố then chốt làm nên giá trị nghệ thuật đích thực của các tác phẩm với ảnh khỏa thân, dù là phô diễn một cách tượng trưng, được tỷ lệ hóa, hay phơi bày chân thật, trần trụi, dù là tôn vinh vẻ đẹp hoàn mỹ, lý tưởng, sức sống trong sáng hay là vẻ đẹp trần tục và khơi gợi những cảm xúc bản năng, nghệ thuật nude cuối cùng vẫn phải là sự tôn trọng con người, tôn trọng sự nhào nặn của tạo hóa.
Tác giả : NGUYỄN THÀNH
Không thể nói rằng ảnh nude tuyệt đối không có tính dục và cũng không ai có thể áp đặt được cái nhìn! Vậy có nên xã hội hóa (triển lãm) ảnh nude không là một câu hỏi cần có lời giải đáp. Tỷ như dạy cách tránh thai, không có nghĩa là dạy cho thanh niên cách làm bậy an toàn, mà là dạy kỹ năng sống, dạy cách làm chủ bản thân. Y học có một quan niệm rằng “vết thương hở là vết thương dễ chữa lành”. Thế giới hiện nay là thế giới mở, nên mọi sự cấm đoán đều trở nên vô nghĩa. Bây giờ là lúc cần thiết phải được tuyên truyền giáo dục về nó. Một là để cho những nghệ sỹ nhiếp ảnh đi vào lĩnh vực này không bị ức chế, hai là thông qua đó giáo dục thẩm mỹ cho người thưởng ngoạn. Xã hội cũng như một cơ thể sống, cái gì không phù hợp, cái gì ngoại lai xâm nhập không đúng cách sẽ bị đào thải. Hơn nữa “món ăn” nào, tinh thần hay vật chất cũng cần phải được hướng dẫn sử dụng thì hiệu quả mới là tốt nhất. Để làm điều này cần có một đội ngũ tuyển chọn chuyên nghiệp, có đôi mắt sáng, có trình độ để thẩm định và bảo lưu.
Con người luôn là đối tượng, là trung tâm diễn tả của nghệ thuật nói chung và nhiếp ảnh nói riêng. Con người luôn bí ẩn, độc đáo và đa dạng… Và chừng nào con người còn đi tìm lời giải cho câu hỏi về bản thân mình, nghệ thuật nude sẽ vẫn còn tiếp tục đồng hành với dòng chảy nghệ thuật đương thời và phá vỡ mọi giới hạn.
Khế Nhật -350k
Khế Nhật -350k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/
Thứ Năm, 23 tháng 6, 2016
Chữ Tâm của nhà báo trong bối cảnh lịch sử hôm nay
Tác giả: Trần Văn Chánh (Văn Hóa Phật Giáo, số 227 ngày 15.6.2015)
Sau khi kể lể lại một cuộc bể dâu bằng hơn ba ngàn câu thơ lục bát, Nguyễn Du cũng chỉ kết luận cho kiệt tác Truyện Kiều của mình bằng một chữ “Tâm” đơn giản (Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài…). Mà thật, chữ Tâm đơn giản chỉ có nghĩa là “tấm lòng”, hơi khác với hai chữ lương tâm để chỉ ý thức đạo đức nhờ đó mà mỗi người có khả năng tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình cho hợp với những quy tắc đạo đức có tính phổ biến. Trong số những nhà triết học phương Đông cổ đại, có lẽ Mạnh Tử (372 – 289 TCN) là người bàn đến chữ Tâm nhiều nhất, và theo ông cả bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí đều thuộc về tâm – đó là lòng trắc ẩn, lòng thẹn-ghét, lòng từ nhượng (biết từ chối và nhường nhịn), và lòng biết phân biệt phải trái; có bốn đức ấy rồi kể như có lương tâm, hiểu theo nghĩa gốc là lòng thiện của con người.
Nói về nghề làm báo, viết báo thì chữ Tâm có ý nghĩa rất quan trọng, đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hướng dẫn hành vi và quyết định của nhà báo để đạt đến chân, thiện, mỹ. Trong trận bút trường văn, nhà báo cũng có một số điểm tương tự như nhà văn về phương diện tác nghiệp (ngòi bút, ngôn ngữ…), nên ngoài phần văn tài họ còn phải cóvăn tâm (cái tâm của văn), thiếu yếu tố sau này thì văn chương của họ dù hay ho đến đâu cũng không có hồn hướng rõ rệt, nếu không muốn nói vô ích, vì không phục vụ được cho cuộc nhân sinh ngày một thêm tốt đẹp, hài hòa.
Cái tâm của nhà báo mọi thời có thể hiểu bao gồm cả thiện tâm (lòng tốt), nhiệt tâm, công tâm, và nhất là hùng tâm (tâm chí hào hùng mạnh mẽ, muốn làm được những việc hữu ích cho đời), vì nếu thiếu hùng tâm thì nhà báo sẽ trở nên nhút nhát, cầu an, “rụt rè gà phải cáo”, không dám viết hoặc quyết định đăng những bài biết là có ích lợi cho công chúng nhưng lại sợ bị trù dập, thiệt thòi cho mình. Cái tâm của nhà báo cũng gắn liền với một số đức tính thuộc về luân lý chức nghiệp, nhờ đó mới có thái độ khách quan vô tư, can đảm bảo vệ sự thật đến cùng, không khuất phục trước uy vũ hoặc xu phụ cường quyền, hoặc thỏa hiệp và mị dân. Họ luôn yêu chuộng công bằng, dám chấp nhận lao tâm khổ trí và hi sinh, tránh được những điều trái ngược với đạo đức báo chí như khai thác những chuyện giựt gân để câu khách, phạm tội phỉ báng, mượn lý do “nghiên cứu-trao đổi”, “phản biện” dùng tư tưởng bảo thủ-giáo điều và lời lẽ xấc láo thiếu văn hóa phê bình theo kiểu vùi dập, chụp mũ chính trị đối với những người có “ý kiến khác”, hoặc xâm phạm đời tư của công dân, viết lăng nhăng tục tĩu, nói láo ăn tiền…
Cái tâm của nhà báo giúp cho họ luôn giữ được sự thăng bằng đúng mực, tôn trọng và bảo vệ con người, không vì bất cứ lý do gì mà có thể công bố những lời tố cáo không chính thức ảnh hưởng đến uy tín, đạo đức hoặc xâm phạm vào tâm tư, quyền lợi riêng của cá nhân mà không minh chứng được sở dĩ như vậy là vì lợi ích của công chúng, chứ không phải vì tính tò mò của công chúng. “Một tờ báo không thể tránh khỏi bị kết tội là thiếu trung thực nếu một khi nó bày tỏ mục tiêu đạo đức cao cả mà lại có khuyến khích đối với các hành vi thấp hèn, như có thể thấy trong việc miêu tả chi tiết các tội ác và thói trụy lạc” (“Những nguyên tắc của nghề báo”, trong quyển Bước vào nghề báo, NXB. Trẻ, 2003, tr. 359).
Một nhà báo có lòng do vậy luôn cân nhắc, nghĩ tới hậu quả của những việc mình làm, như lời nhắc nhở sau đây của hai nhà báo lão luyện – Leonard Ray Teel và Ron Taylor, tác giả của quyển sách vừa dẫn : “Ngay cả bọn trộm cướp cũng có gia đình. Cố gắng đặt bạn vào vị trí của những người bạn viết đến. Hãy nhớ rằng bạn có thể đang hủy hoại một đời người, khiến cho người ta vào tù, hoặc làm cho người ta thành kho gây cười cho những người ngang hàng”. Một lời khuyên thật nhân đạo cho những người làm báo.
Chắc có người còn nhớ câu chuyện xảy ra hơn 20 năm trước, hồi tháng 5.1993, giới báo chí Pháp và cả dư luận thế giới đã bị xúc động mạnh về cái chết của Bérégovoy (1925-1993), cựu thủ tướng Pháp. Ông đã tự tử vì tờ Le Canard Enchainé (Con vịt xiềng) tố cáo ông đã mượn số tiền 1 triệu francs không trả lãi của một người bạn để mua nhà trong thời kỳ ông còn là dân biểu ở tỉnh Nièvre. Ông Bérégovoy là một người chính trực, xuất thân bình dân nên việc ông chọn cái chết trong trường hợp nêu trên đã gây nhiều xúc động khiến người ta phải đặt kỹ lại vấn đề lương tâm và trách nhiệm của báo chí, cách thức của báo chí trong việc đưa tin và phê bình chỉ trích khi đụng đến trường hợp của một số cá nhân riêng biệt. Mọi sự chỉ trích cay độc bất chấp sự nghiên cứu sâu xa về con người hiểu như một sinh vật phức tạp tế nhị, một sản phẩm tổng hòa tích hợp từ hàng trăm mối quan hệ hình thành nhân cách, có lẽ không phải là cách chọn lựa của một nhà báo chân chính, vì bất cứ lý do nào.
Ở Việt Nam, vào năm 1990, cũng có một vụ đau lòng làm nhức nhối lương tri xã hội, tương tự câu chuyện về ông Bérégovoy nhưng tình tiết hơi khác, do sự thiếu tế nhị (nếu không muốn nói thiếu lương tâm và vi phạm đạo đức nghề nghiệp) của nghề báo gây ra. Đó là vụ án bia ôm Đường Sơn Quán (Thủ Đức) dính đến người cha là sĩ quan công an bị đưa hình lên báo, khiến đứa con gái 16 tuổi phải uống thuốc độc tự tử vì không chịu nổi tình cảnh nhục nhã khi nghe bạn bè trong lớp đàm tiếu về người cha mà em vốn cho là lý tưởng của mình, còn người vợ của viên sĩ quan đó thì cũng dở điên dở khùng vì xấu hổ…
Xét về phương diện cái tâm thì tài năng, sự thăng tiến nghề nghiệp và tiền bạc kiếm được cũng chưa phải là những tiêu chuẩn chính để đánh giá một nhà báo. Cũng không phải luôn luôn ạch đụi, nghèo rớt mồng tơi mới là nhà báo tốt, nhưng đôi khi danh lợi, tham vọng thăng tiến nóng vội và thái độ bất chấp thủ đoạn trong nghề lại đồng nghĩa với tội ác, thậm chí tội sát nhân. Năm 1934, một tấn thảm kịch cũng đã xảy ra trong chính giới Pháp mà kẻ chủ động là Carbuccia, chủ nhiệm tuần báo Gringoire với sự cộng tác, câu kết đắc lực của nhà báo Henri Béraud. Anh này vì ham tiền của chủ và muốn mau được nổi tiếng nên đã nhẫn tâm đặt điều vu cáo, vu khống Salengro là một tên lính đào ngũ. Salengro là một chiến sĩ xã hội lúc đó đang giữ chức bộ trưởng Bộ Nội vụ cho chính phủ Léon Blum, đã chọn cái chết để thanh minh cho mình.
Sau đó người ta được biết ông chủ nhiệm của Béraud chính là con rể của Jean Chiappe, Đô trưởng cảnh sát Ba Lê vốn là kẻ thù nghịch với nhà cách mạng xã hội Salengro. Thì ra ông chủ nhiệm muốn làm vừa lòng cha vợ, còn anh nhà báo thì vì số tiền thưởng kếch xù đã nhẫn tâm chửi mướn ăn tiền gây ra cái chết cho một nhân vật lỗi lạc của nước Pháp. Béraud sau việc làm này quả nhiên tiếng tăm nổi như cồn, nhưng một hôm anh ta nhận được bức thư với tuồng chữ quen quen của hai bạn đồng nghiệp là Pierre Scize và Louis Roubaud, trước đó bốn năm ở tỉnh Lyon là bạn học của Béraud lúc hàn vi và cả ba đã từng hẹn nhau bước vào nghề báo trong tinh thần thi đua xem ai đến đích trước. Nội dung của bức thư chỉ có mấy dòng ngắn ngủi: “Mày đúng là đứa đã đến trước nhất, nhưng không phải là nơi chúng tao mong chờ ở mày. Vĩnh biệt”. Câu chuyện này nhà báo lão thành Trần Tấn Quốc (1914 – 1987) đã có lần kể lại cho các sinh viên nghe trong một buổi nói chuyện để nhắc nhở các bạn trẻ nuôi mộng làm báo về cái tâm của một nhà báo chân chính, có ghi lại đầy đủ hơn trong quyển Trần Tấn Quốc, bốn mươi năm làm báo (của tác giả Thiện Mộc Lan, NXB Trẻ, 2000).
Nói về cái Tâm của nhà báo nhân Ngày Nhà báo Việt Nam 21.6, mà nội dung phong phú hơn nhiều liên quan đến cả vận nước và tương lai dân tộc chứ không chỉ có lòng trắc ẩn đối với một vài cá nhân, đặc biệt trong bối cảnh lịch sử hôm nay, chúng tôi xin trích lại mấy lời tâm huyết sau đây của một nhà báo lão thành đã quá cố:
“… Những ai muốn bước vào nghề báo, có lẽ từ lúc vỡ lòng cho tới khi buông bút, không nên nghĩ đây là một cái nghề để cầu danh, cầu lợi, mà là phương tiện để ‘hành đạo’… Những nhà báo có uy tín thường là những người không bao giờ rời sự thật (sự thật nguyên nghĩa khoa học của nó). Họ phải trần ai lai khổ, thậm chí phải ‘bỏ mạng’ để tìm đến với sự thật và bảo vệ nó. Sự thật là hạt nhân làm nổ những trái bom thông tin nhằm giải phóng các xã hội ra khỏi sự kiềm tỏa hữu hình và vô hình, đưa con người và xã hội tiếp cận với chân lý, thức tỉnh thường trực trách nhiệm của giới hữu trách, của mỗi công dân và cộng đồng, vun đắp nhân bản, nuôi dưỡng cái thiện, chống cái ác, cái xấu, cái gian dối… Người cầm bút vượt qua bao cửa ải của quyền lực cá nhân, để tôn vinh quyền lực của cộng đồng, và để không dễ dàng bị biến thành ‘bồi bút’… Những ai quay lưng trước sự thật xin chớ bước vào nghề báo”.
Đoạn vừa trích dẫn là lời bạt của nhà báo Bến Nghé (còn có bút danh Khả Minh) đặt ở cuối cuốn sách Bước vào nghề báo đã dẫn trên, trong đó tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần hai chữ “sự thật”, coi việc tôn trọng sự thật và nỗ lực tìm kiếm sự thật của người viết báo, làm báo như là một trong những thuộc tính căn bản nhất của nghề nghiệp. Thiếu thuộc tính này thì nghề báo sẽ không thể phân biệt được với những nghề nghiệp khác, do vậy nó cũng không thực hiện được chức năng, vai trò mà đáng lẽ nó phải có như xã hội đã phân công cho nó. Song hai chữ “sự thật” đối với người viết báo, làm báo tự thân nó cũng mang nhiều ý nghĩa phong phú, phức tạp, rất tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà các chủ thể của nghề nghiệp đang sống và làm việc.
Có những sự thật thuộc thông tin đơn thuần đương nhiên cần được phản ảnh đúng, không thể làm khác, nhưng cũng có những sự thật thuộc phạm vi xử lý và bình luận các thông tin, đòi hỏi sự phân tích ở chiều sâu hơn nhằm gợi ý giúp cho độc giả thấy được tầng sâu bản chất của sự vật, cũng như nguyên nhân gốc rễ của mọi hiện tượng tiêu cực làm cho xã hội băng hoại và đẩy dân chúng vào cảnh lao đao lận đận trong vòng tăm tối không lối thoát. Điều này đòi hỏi các nhà báo vừa phải trung thực, vừa có những cách biểu hiện đầy nghệ thuật và khôn khéo. Nếu hoàn cảnh ít thuận lợi hơn, chẳng hạn như phải hoạt động trong điều kiện một chính quyền nào đó không biết tôn trọng dân chủ, hoặc chỉ tôn trọng dân chủ một cách giả hiệu, mị dân, thì ngoài tính trung thực, các nhà báo còn phải có lòng can đảm nữa. Xét cho cùng, cả hai đức tính này đối với nhà báo (tính trung thực và lòng can đảm) cũng chỉ là một, hoặc chúng có quan hệ biện chứng với nhau, không thể tách rời nhau.
Nhà báo vì thế không chỉ yêu sự thật mà còn phải ra sức bảo vệ sự thật nữa. Họ không chỉ cần sự tinh thông nghề nghiệp với lương tâm trong sáng mà còn dám mạnh dạn đề xuất sáng kiến, đặt ra những vấn đề bức xúc xã hội cần giải quyết, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ, chứ không nên chỉ thụ động chờ đợi cho đến khi có cấp thẩm quyền nào đó “bật đèn xanh” rồi cứ thế tìm cách “té nước theo mưa” cho an toàn bản thân. Đây vừa là trách nhiệm vừa là lương tâm của người cầm bút, thể hiện một cách cụ thể trong quá trình viết lách, biên tập và quyết định bài vở, trên cơ sở coi lợi ích của nhân dân là luật pháp tối thượng mà không hề khuất phục bất kỳ một thế lực nào.
Nếu tính trung thực luôn gắn liền với lòng can đảm thì lương tâm và trách nhiệm cũng thế, không thể tách rời nhau được. Cũng trong lời bạt của quyển sách nghề báo nêu trên, chúng ta còn đọc thấy lời của nhà báo-nhà văn-nhà sử học Pháp lão thành Jean Lacouture (sinh năm 1921) được trích dẫn, lấy từ bản tiếng Việt của tạp chíNgười đưa tin UNESCO (tháng 9.1990, tr. 13) : “Nhà báo là một sinh vật có một lương tâm mà không một ông trùm báo chí nào, không một hệ tư tưởng thống trị nào, không một sự đồng lõa với phe đảng nào khuất phục được hoàn toàn”.
—————-
http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/chu-tam-cua-nha-bao-trong-boi-canh-hom-nay.html
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)