Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

Trang trắng- giá 100k

Trang trắng- giá 100k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2016

Linh sam bông trắng - giá 150k

Linh sam bông trắng - giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Yên lặng trên góc đồi





Đó là câu chuyện về nỗi buồn thả rong trên mặt đường
Đêm gió vỡ
Hơi thở bấu vào đôi cánh tả tơi
Điều thánh thiện chới với
Trong ngụm cafe không đường


Trên góc đồi
Con sáo tật nguyền kể cho tôi nghe
Câu chuyện còn hâm hấp nóng của lửa chiều tà
Vẫn còn mùi của ban mai
Trong một con mắt
Xoay xoay trên chiếc lá thông non
Nó chẳng tìm thấy nó ở đâu
Giấc mơ từ biệt tên mình bỏ đi biệt tích

Con sáo kể cho tôi nghe về nhiều quãng bay như thế
Chiều nay
Ý nghĩ lục lọi giấc mơ vừa bị mất cắp
Yên lặng trên góc đồi
Mắt sáo uống cạn từng đốm xanh

n.h.a.t

Liệu Nguyễn Huy Thiệp có khớp với nhãn hậu hiện đại





. PETER ZINOMAN

Tiểu luận Declassifying Nguyen Huy Thiep (Giải mật Nguyễn Huy Thiệp) của Peter Zinoman có thể coi là một trong những phản ứng nhanh sớm và kĩ lưỡng của độc giả phương Tây, đặc biệt là độc giả hàn lâm, với văn chương Nguyễn Huy Thiệp khi vừa mới được dịch ra tiếng Anh (1992). Trong tiểu luận này, Peter Zinoman đề xuất một cách đọc lại Nguyễn Huy Thiệp, khác với cách đọc cho rằng văn chương Nguyễn Huy Thiệp là biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo đó, ông chỉ ra những nguồn ảnh hưởng sáng tác (truyền thống tự sự Việt Nam và văn học cổ điển Nga, Pháp thế kỉ XIX), các tác nhân văn hóa - chính trị từ Đổi mới đến nhãn quan Nguyễn Huy Thiệp khiến ông khó lòng khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông cũng chỉ ra các thủ pháp văn chương vẫn được các nhà phê bình coi là hậu hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp có thể càng làm mờ các lớp nghĩa được ẩn giấu trong tác phẩm. Từ đó, Zinoman đưa ra các khám phá riêng của mình.
Chúng tôi xin giới thiệu một phần tiểu luận Declassifying Nguyen Huy Thiep. Các đoạn lược bỏ được để trong dấu (…), một số chú thích của tác giả, nếu thuần túy là thông tin, sẽ không dùng lại. Tiêu đề bài là của người dịch.


Năm 1989, sử gia G. Lockhart cho đăng bản tóm lược tiểu luận tiếng Việt trên tạp chí Văn học tiêu đề “Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh”. Ở bài này, Lockhart đặt việc cải dạng triệt để hình thức truyện ngắn Việt Nam của Nguyễn Huy Thiệp trong liên hệ với các dự phóng văn chương của các nhà văn G.G. Márquez, R. Kapuschinsky, M. Duras, và nhà sử học J. Spence. “Những gì chúng ta có ở đây”, Lockhart đã rất cởi mở, “là một hiện tượng văn chương mà chúng ta gọi chủ nghĩa hậu hiện đại”(1).

Trước đó một tháng, nhà phê bình Lê Xuân Giang, cũng trên tạp chí Văn học, đã xếp Nguyễn Huy Thiệp vào nhãn hiệu postmodern (hậu hiện đại), chỉ ra biểu hiện của việc sử dụng phúng dụ (allegory) trong các truyện ngắn đặc sắc Kiếm sắc (Sharp Sword), Vàng lửa (Fired Gold) và Phẩm tiết (Chastity)(2). Năm 1992, khi ảnh hưởng của tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp tỏa rộng trong cộng đồng người Việt ở Mĩ, nhà sử học Hồ Tài Huệ Tâm, trong một tiểu luận về truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, đã cho rằng sức mạnh tác phẩm “bắt nguồn từ một kết hợp khác thường về cảm thức hiện sinh” và “kĩ thuật văn chương hậu hiện đại”(3). Trên tạp chí Hợp lưu ở California, nhà nghiên cứu Đào Trung Đạo cũng cho đăng bài phân tích về những tranh luận Nguyễn Huy Thiệp và nêu lên vài vấn đề phê bình nhằm lấy cớ liên hệ giữa Thiệp, Lyotard, Eco, Kundera và Rushdie(4).

Vậy điều đặc biệt nào đã nảy sinh nhất trí đặt Nguyễn Huy Thiệp vào nhóm “hậu hiện đại” vốn là thứ vẫn tồn tại bất đồng căn bản trong việc làm sao cho khớp nhãn hiệu. Ở các trường hợp được trích dẫn ở trên, sự khác hướng có lẽ xuất phát từ những khác biệt rất lớn về nền tảng văn hóa xã hội và truyền thống học thuật trong việc đánh giá tác phẩm. Tuy nhiên, còn một lí do khác nữa nằm trong sự không rõ ràng về khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại: chủ nghĩa hậu hiện đại, như dâm thư, dễ nhận ra hơn là định nghĩa.
(…) Tiểu luận này, do đó, cố gắng chỉ ra những điểm nhấn trong các bàn luận tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, theo hướng tránh xa những mô tả ông ở vị thế đoạn cuối của văn chương tiền phong thế giới, để tiếp cận gần hơn những hình dung điều gì đã đẩy ông vào đỉnh điểm bất đồng trí thức trong xã hội Việt Nam đương đại.

Nguyễn Huy Thiệp và chủ nghĩa hậu hiện đại

(…) Đặc tính của văn xuôi hậu hiện đại có thiên hướng làm cho bản thân quá trình viết trở nên vừa sáng rõ vừa mơ hồ, và điều này là điểm sáng tạo nổi bật trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp(5). Chẳng hạn, ở Vàng lửa, truyện thứ hai trong bộ ba giả lịch sử, người kể chuyện - tác giả biết ơn vì đã nhận được một số tài liệu từ người đọc có tên là Quách Ngọc Minh, chứng cứ để phủ nhận tính chính xác của truyện đầu tiên (Kiếm sắc) và làm sáng tỏ nội dung của truyện đang viết. “Tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh”, người kể chuyện giải thích. “Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo. Về Hà Nội, tôi viết truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lí lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện”. Bằng việc tỏ ra hàm ơn vay chuyện “các tư liệu” trong khi vẫn “sửa đổi”, “sắp xếp” và “chỉnh lí” chúng, Nguyễn Huy Thiệp vừa làm sáng rõ vừa làm cho lộn xộn cái cách mà ông tạo phát văn bản chúng ta đang đọc. Cùng một phong cách như thế, người kể chuyện của Kiếm sắc đã bất ngờ kết thúc bằng chỉ dẫn lờ mờ và nguồn tư liệu mà anh ta khẳng định đã cho phép anh sáng tạo ra câu chuyện.

(…) Cảm giác không chắc chắn về “sự thật câu chuyện” thể hiện trong đoạn kết truyện Cún, một minh chứng đặc điểm khác cũng được cho là hậu hiện đại, sẽ còn có trong nhiều truyện Nguyễn Huy Thiệp. (…) Nhiều truyện Nguyễn Huy Thiệp gợi lên một bản thể bất định. Trường hợp gây ấn tượng nhất xuất hiện trong đoạn kết truyện Kiếm sắc, với một mô tả huyền hoặc về chi tiết chém đầu trung thần Đặng Phú Lân (chất lỏng như máu phun ra từ cơ thể), lại xảy ra sau mô tả hoàn toàn đáng tin về cuộc bỏ trốn thành công của Lân tránh tội hình và lẩn vào làng quê vùng cao. Truyện kết thúc mà không gắng thử hòa giải hai kết quả trái ngược hay những đời sống khác nhau mà chúng đưa ra.

(…) Giới phê bình nhạy cảm với những quy ước văn chương hậu hiện đại phong phú sẽ chú tâm nhận biết các yếu tố quen thuộc khác nữa trong truyện Nguyễn Huy Thiệp. Trò chơi trộn lẫn những chỉ dấu văn hóa bậc cao và thấp được Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rành rành trong lời nói phỉ báng, dâm tục đi kèm với vị vua Quang Trung cao quý thế kỉ XVIII ở Phẩm tiết, có khi lại bóng gió đưa Abba và Beatles vào trong Tướng về hưu. Một thứ văn chương hậu hiện đại “tự-phản thân” (xu hướng viết về sự viết) có thể tìm thấy trong lời của thầy giáo Triệu “Tôi thấy buồn vì văn học của ta ít giá trị thật. Nó thiếu tín và thẩm mĩ ngưỡng thực” (Những bài học nông thôn), trong bình luận của tướng Thuấn “Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào”, và trong thú nhận của người kể chuyện ở truyện Cún rằng không hiểu mấy về các lí luận văn học(6).

(…) Phần trên đã nhìn lại một số tu từ pháp hậu hiện đại trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, những cách đọc như vậy có thể khó hiểu hơn là tác phẩm bộc lộ. Phần dưới đây, bài viết làm rõ những gì tôi tin là các vấn đề nổi bật trong cách đọc hậu hiện đại và đồng thời đưa ra một số khả thể giải thích có tính thay thế khác.

Nguyễn Huy Thiệp và gánh nặng của lịch sử văn chương Việt Nam
(…) Có hai truyền thống tự sự riêng biệt ngự trị văn chương Việt Nam. Thứ nhất, là dạng truyền kì với các truyện kể dân gian hoang đường, huyền hoặc, nơi nhân vật lịch sử “có thật” được trộn lẫn với siêu nhiên tồn tại trong thế giới thần linh. Loại thứ hai, truyện thơ, là phiên bản trữ tình của người Việt lấy từ văn xuôi Trung Quốc. Vùng thoát khỏi chữ Hán hay còn được biết đến là văn tự Nôm bản địa (cả hai đều không có nhiều người có thể đọc), những truyện kể Nôm được xây dựng trong hình thức thơ ca tự nó dễ dàng truyền miệng và sinh sôi. Những tuyệt tác văn học cổ điển Việt Nam như Truyện Kiều và Lục Vân Tiên là ví dụ của hình thức này.

(…) Suốt những năm giữa hai cuộc Thế chiến, khi những bậc thầy hiện đại chủ nghĩa như J. Joyce, Mallarmé, E. Pound đang văng ra khỏi quỹ đạo tìm biết của châu Âu, thì hai trào lưu văn học ảnh hưởng nhất xuất hiện ở Việt Nam là phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn, rõ ràng, đều hình thành bởi mĩ cảm mơ mộng và u sầu từ chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Được viết và đọc bởi giới trẻ, rồi mở rộng ra tầng lớp trung lưu đô thị, kiểu thơ văn này biểu lộ mối bận tâm gần như ám ảnh những quan niệm của giai tầng tư sản về ái tình lãng mạn, cảm thức cái tôi và tự do cá nhân. Theo N. Jamieson, những nhà Thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu hay Chế Lan Viên hầu như đều lờ đi những vấn đề chính trị - xã hội, chọn “thám hiểm không gian tinh thần hơn là xã hội”(7). Trong khi đó, các nhà văn Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng hay Hoàng Đạo lại quẳng ra những nhà cải cách, phê phán chống lại những thiết chế xã hội và truyền thống gia đình cổ hủ, chẳng hạn như hôn nhân sắp đặt, và những di chứng đó trở thành điểm bất hòa đối với tầng lớp học thức và có tư kiến. Ngay cả Thạch Lam, với thứ văn chương cúi xuống tâm điểm đời sống dưới đáy, dường như cũng ra vẻ bề trên trong cái nhìn ngày nay.

(…) Nhận thức về giới hạn chí tử của văn học hiện đại ở Nguyễn Huy Thiệp có thể nhặt nhạnh được từ những trích dẫn mà ông đưa vào trong các tác phẩm cụ thể cũng như trong bốn tiểu luận được ông đăng từ 1988 đến 1992 đi kèm với những trải nghiệm và luận điểm của mình với tư cách nhà văn(8). Trong khi Nguyễn Huy Thiệp phải tham bác hầu hết các tác gia lớn của văn học Việt Nam cho việc viết văn của mình (Trần Tế Xương, Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm) thì đồng thời ông cũng tìm xem các nhà văn châu Âu là Stendhal, Balzac, Maupassant, Flaubert, Gogol, Pushkin, Dostoevsky, Gorki, Goethe, Tolstoy, Hugo, Diderot, Camus và Sartre. Trừ ngoại lệ là hai nhà văn sau cùng của chủ nghĩa hiện sinh Pháp, tri nền của Nguyễn Huy Thiệp về văn học phương Tây dường như đậm chắc hơn ở văn học Pháp, Nga thế kỉ XIX.

(…) Cho tới đây, bối cảnh mà bài viết phác thảo hầu như không thể duy trì luận điểm rằng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là sự phá vỡ hay sâu sắc thêm đối với chủ nghĩa hiện đại Việt Nam bản địa, hoặc đối với dăm ba hạng tác gia hiện đại (hậu hiện đại) từ lâu được “nhập nội”. Điều này quay trở lại xói mòn những nỗ lực phân loại tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp như là hậu hiện đại. Tôi thấy nhiều gợi mở hơn từ việc nối tiếp những nhà phê bình Việt Nam đọc Thiệp, và đọc tác phẩm của ông trong mối liên hệ, một mặt với phong cách và quy thức của lịch sử văn học Việt Nam tiền thực dân và mặt khác, với nét chủ đạo của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa miền Bắc. (…) Cách thức khác thường của Nguyễn Huy Thiệp là đưa truyện mình gài vào nhật kí, thư tịch, và tài liệu có tính chất lịch sử, rồi tinh quái hàm ơn việc được xáo trộn nó.

(…) Tâm thế của một nhà sử học hiện rõ trong sự chú tâm tỉ mỉ của Nguyễn Huy Thiệp dành cho ngày tháng, địa danh, và những nhân vật lịch sử danh tiếng vốn được đưa vào chủ yếu hoặc một phần trong các truyện Vàng lửa, Phẩm tiết, Kiếm sắc và Nguyễn Thị Lộ. Nếu những truyện này cho thấy Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn lại những vấn đề lớn của lịch sử chính trị Việt Nam, thì những truyện khác, như Giọt máu, vốn mô tả sự lưu chuyển lợi tức và đạo đức của một gia đình nhiều thế hệ, lại cho thấy Nguyễn Huy Thiệp gần như là sử gia xã hội. Một lần nữa, trái ngược nhau, khi Nguyễn Huy Thiệp, nhà sử học, người định giá xã hội Việt Nam đương thời thông qua giải thích lại cái nhìn quá khứ, Lỗ Tấn lại là một thầy thuốc chẩn đoán bệnh trạng xã hội Trung Hoa trong những ẩn dụ thuốc men dứt khoát.

(…) Cảm giác cô đơn, tuyệt vọng vây bủa truyện Nguyễn Huy Thiệp là trọng âm trong những trò chuyện giữa nhân vật này với nhân vật khác, và thực sự, dường như để thể hiện một giọng điệu phổ quát hơn về cõi hiện tồn bi quan. Ở Vàng lửa: “Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo khó và đau khổ trong những lí thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những mối bất hòa kì thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao. Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?”. Trong Chảy đi sông ơi: “Con người ta tăm tối lắm. Con người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường. Tôi muốn gào lên chua xót. Tôi bỗng nhiên thấy cuộc sống hiện giờ của tôi vô nghĩa xiết bao”. Trong Những bài học nông thôn: “Tôi nhận ra thế giới bao la vô cùng vô tận, bản thân tôi, sự sống và ngay cái chết đều là bé nhỏ và không có ý nghĩa gì”. Trong khi những câu này có thể đứng cùng hàng với kiểu hậu hiện đại “vô can”, “thản nhiên”, thì độc giả Việt Nam đọc Nguyễn Huy Thiệp lại cảm thấy rõ giọng điệu của chúng, sự u buồn lệch hướng đáng chào đón, khác hẳn thứ lạc quan chủ nghĩa ép buộc trong các tác phẩm được quan phương thừa nhận.

(…) Điều đáng chú ý cuối cùng khi Nguyễn Huy Thiệp vi phạm các quy tắc văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, ông chối từ việc xếp loại một cách máy móc hồ sơ tính cách các nhân vật của mình với thứ bậc giai cấp nào đó. Những người nông dân, thợ thầy, đám chài lưới của ông không đứng đắn cũng chẳng lao động hăng say gì; những thành viên đoàn thể cũng không sáng láng hay quá đức hạnh; còn thói mua chuộc của đám giàu có chỉ gây ấn tượng rằng nó chẳng qua cũng lan tràn khắp nơi ngoài xã hội. Tương tự như thế, cái nhìn xét lại của Nguyễn Huy Thiệp về các nhân vật lịch sử như Gia Long, Quang Trung, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Du và Nguyễn Trãi phá vỡ danh tiếng quan phương của họ và ngầm nhắm vào những giá trị bất khả nghi ngờ trước đây trong lịch sử Việt Nam(9).

Nguyễn Huy Thiệp và tính chất hậu hiện đại
(…) Một trong những cánh cửa rọi vào môi trường văn hóa kinh doanh của miền Bắc đương thời là chuỗi điều tra trên diện rộng được định hướng bởi nhà nhân học Lương Văn Hy tiến hành ở nhiều làng Bắc Bộ từ 1987 đến 1991. Kết quả của ông cho thấy những cải cách kinh tế của Đảng đã kích hoạt căn bản sự “cải biến về mặt văn hóa xã hội” mà biểu hiện là sự “tăng mạnh các thực hành nghi lễ”(10) ở nhiều làng quê. Ông chỉ ra sự tái sinh một cách mới mẻ các nghi lễ làng xã rất mực lề lối và thống nhất, bao hàm cả sự gia tăng đáng chú ý những phí tổn trong cưới xin, tang ma, cúng giỗ. Những phong tục đó từng bị nhà nước gạt bỏ vì quá lãng phí hoặc “phá vỡ tính thống nhất cộng đồng”, từng bị ngăn cấm theo định kì, chẳng hạn như giết trâu mổ lợn, yến tiệc hội hè, quà cáp đi lại, nay được phát sinh trở lại và tăng mạnh thêm(11). Lương Văn Hy cho rằng hiện tượng này như là một “phục hồi có chọn lọc truyền thống trước 1945”(12). Trong khi những kết luận của Lương Văn Hy có thể không cho phép diễn dịch toàn diện bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam đương đại, chúng thực sự vẫn giúp giải thích mối bận tâm chế giễu của Nguyễn Huy Thiệp đối với sự trương phình rõ rệt của thứ văn hóa ăn uống trong đời sống Việt Nam.

(…) Những tóm lược đầy mỉa mai của Nguyễn Huy Thiệp về chuyện cưới hỏi, ma chay, tết nhất và những sự kiện đặc biệt do gia đình bày biện và diễn trong Tướng về hưu cho thấy một sự dồn đuổi để chiếm lĩnh và phê phán thứ văn hóa tân thời của tầng lớp trung lưu mới nổi ở miền Bắc. Mặc dù những nghi thức mà nhà văn mô tả có thể được truy lần theo vết tích truyền thống Việt Nam (…), nhưng những biểu hiện lúc này của nó lại bị lật tẩy trong các thứ tiện nghi lòe loẹt, vô vị, vô vọng, trong cõi tinh thần trống rỗng, hay thứ sách báo ướt át. Trái ngược với Lương Văn Hy nhận định về sự tái diễn có tính “chọn lọc” các đặc trưng văn hóa, Nguyễn Huy Thiệp lại ta thán tình trạng suy đồi toàn diện và sự trương phình chủ nghĩa vật chất của văn hóa đương thời.

(…) Về cơ bản, con người bản năng, thú tính theo thuyết Darwin và việc tô đậm tính chất này trong quá trình thâm nhiễm chủ nghĩa tư bản trên miền Bắc bấy giờ được tái lặp như là những chủ đề quan trọng trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã triển khai chủ đề này ở truyệnCún. (…) Trong Muối của rừng, thậm chí Nguyễn Huy Thiệp còn làm mờ nhòe ranh giới giữa người và thú. Trong truyện, ông Diểu, một thợ săn đã lần theo đàn khỉ ở rừng sâu, quan sát những mối quan hệ phức tạp của gia đình khỉ này, những nghi thức chia thức ăn và tắm táp rất bầy đàn, trái ngược với tình thế đơn độc của ông. Ông Diểu bắn con khỉ đực từ trên chỏm núi cao, cởi quần áo ngoài leo lên để đưa nó xuống. Nhưng lúc ấy, ông bỗng thương hại và cởi chiếc quần lót đang mặc băng bó vết thương của con khỉ. Câu chuyện dừng lại với hình ảnh cuối cùng về ông Diểu, hoàn toàn trần truồng, vác con khỉ bị thương xuyên rừng, đến mức không sao phân biệt được thật rõ ràng những điểm riêng giữa ông Diểu và bầy khỉ trần trụi mà ông vừa săn đuổi.

(…) Theo ý kiến của tôi, việc ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào địa văn hóa Việt Nam có nhiều nguy hiểm, và trong thực tế, những điểm lờ mờ của nó mới dừng lại ở nét mới mẻ và thú vị trong một hiện tượng văn chương khác thường. Vì tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bây giờ mới lần đầu được chuyển ngữ sang tiếng Pháp, tiếng Anh, sẽ có nhiều cơ hội cho độc giả nước ngoài đọc và diễn dịch. Điều cốt yếu phê bình lúc này, quan trọng là không bỏ mặc những điều kiện riêng biệt và cụ thể đã hình thành nên và thấm đẫm trong cái viết của Nguyễn Huy Thiệp




MAI ANH TUẤN dịch

(Nguồn: Peter Zinoman,
“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”,
Positions: East Asia Cultures Critique 2: 2 (Fall), p. 294-317)



-------

1. Greg Lockhart, “Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh”, Tạp chí Văn học 3 (1989): 51.
2. Lê Xuân Giang, “Nhà văn đối thoại - Phong cách phúng dụ”, Tạp chí Văn học 2 (1989): 79-83.
3. Hồ Tài Huệ Tâm, “A Postmodern Critique of History and Literature in Vietnam: The Fiction of Nguyen Huy Thiep” (6/1992), 2.
4. Đào Trung Đạo, “Một vài vấn đề phê bình văn chương từ những tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp”, Hợp lưu 4 (1992): 130-146


5. Phân tích về đặc trưng này, xem Linda Hutcheon, The Polictics of Postmodernism (London: Routledge, 1989), chương 2.
6. Một bàn luận về văn chương tự-phản thân, xem Hite, “Postmodern Fiction”. Ba kĩ thuật “phá vỡ khuôn” (“frame-breaking”, thuật ngữ của Hite) của hậu hiện đại đáng chú ý có thể thấy trong truyện Nguyễn Huy Thiệp là: ba cái kết riêng biệt khác nhau trong Vàng lửa; dùng các chú dẫn thơ ca kinh viện để phá vỡ thể loại trong Nguyễn Thị Lộ; hòa trộn những nhân vật có thật và hư cấu trong các truyện lịch sử và trong vở kịch Còn lại tình yêu .
7. Jamesion, “Shattered Identities and Contested Images: Reflections of Poetry and History in Twetieth-Century Vietnam”, Crossroads: An Interdisciplinary Journal of Southeast Asian Studies7 (1992): 84.
8. Xem “Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn”, Sông Hương (4/1990): 57-61; “Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn”, Sông Hương (3/1990): 125-132; “Nhà văn và bốn trùm Mafia”, Sông Hương s.3, (4/1991): 41-45; “Con đường văn học”, Cửa Việt, s.13 (4/1992): 68-71.
9. Liên quan đến những mô tả này, xem Hồ Tài Huệ Tâm “Postmodernism Critique”, Taylor, “Locating the Boundaries”; và Zinoman, “Nguyen Huy Thiep’s Vang Lua”; Cũng có thể xem K.C.Nguyen, “Left to Write”, FEER (17/8/1989).
10. Lương Văn Hy, “Economic Reform and the Intensification of Rituals in Two Northern Vietnamese Villages, 1980-1990”, trong The Challenge of Reform in Indo-China, Borje Ljunggren và Peter Timmer biên tập (Cambridge, Mass: Harvard Institure for International Development, 1993), 259-291.
11. Lương Văn Hy, Tlđd, 270-284.
12. Lương Văn Hy, Tlđd, 270.

Chuổi ngọc- giá 100k-



Chuổi ngọc- giá 100k- ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016

Chuổi ngọc- giá 150k-

Chuổi ngọc- giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Trang vàng hoành 15cm- Giá 450k-

Trang vàng hoành 15cm- Giá 450k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

chuổi ngọc -giá 150k

chuổi ngọc -giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


https://web.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Hội nghị Thành Đô- Hồi ký Trần Quang Cơ







Trích Hồi ký Trần Quang Cơ

1. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ

Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô. Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô.

Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày trước – ngày 24.8.90 – Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ.

Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách:

a. Tất cả những hoạt động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc trong hơn 10 năm qua khẳng định chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết thực hiện “4 hiện đại”, biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới, đồng thời xác định vị trí nước lớn của mình trước hết ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược đó, Trung Quốc kiên trì tranh thủ Mỹ, Nhật, phương Tây, đồng thời bình thường hoá quan hệ với Liên Xô. Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn, mục tiêu chiến lược đó đang bị đe doạ nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ, Nhật và phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá trình cải thiện quan hệ Mỹ – Xô tiến triển rất nhanh44. Xô – Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết các vấn đề thế giới và khu vực không kể đến vai trò của Trung Quốc. Ngay trong vấn đề Campuchia, vai trò Trung Quốc cũng bị lấn át (Xô – Mỹ tiếp xúc trao đổi chặt chẽ về vấn đề Campuchia, cuộc gặp Sihanouk – Hunxen ở Tokyo là do sự dàn xếp của Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ý muốn của Trung Quốc). Phương Tây tiếp tục đòi Trung Quốc thực hiện dân chủ và giải quyết vấn đề Campuchia trên cơ sở kiềm chế Khmer Đỏ.

b. Chuyến đi Đông Nam Á của Lý Bằng (6-13.8.90) nằm trong yêu cầu chiến lược của Trung Quốc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà bình để thực hiện “4 hiện đại”, diễn ra trong bối cảnh liên minh Trung Quốc xây dựng ở Đông Nam Á trong 10 năm qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và sau khi Mỹ đã điều chỉnh chính sách. Cuộc đi thăm của Lý đã bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Các nước ASEAN vẫn rất lo ngại lý do bành trướng của Trung Quốc. Trung Quốc buộc phải cam kết nội bộ các nước trong khu vực, ủng hộ các đảng cộng sản và vấn đề Hoa kiều, tuyên bố sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối đầu với Việt Nam không còn phù hợp với chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc này nữa.

c. Sau khi Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia, các nước phương Tây, Mỹ, Nhật, ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta theo hướng không có lợi cho tính toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước tình hình đó, Trung Quốc không muốn chậm chân.

d. Về thời điểm: trong cuộc họp ngày 27 và 28.8.90 tại Nữu-ước, P5 đã thoả thuận văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia (gồm các vấn đề: các lực lượng vũ trang Campuchia, tổng tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ, nhân quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương lai của Campuchia). Văn kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến vấn đề diệt chủng, chỉ nói Campuchia sẽ “không trở lại chính sách và hành động trong qúa khứ”. Còn Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không còn đòi lập chính phủ liên hiệp 4 bên ngang nhau, phải chấp nhận vai trò lớn của LHQ. P5 thoả thuận lịch giải quyết vấn đề Campuchia: trong tuần từ 3.9 đến 9.9 họp các bên Campuchia ở Jakarta để lập SNC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ, tiếp đó họp mở rộng với các nước trong khu vực (có Trung Quốc), đến khoảng tháng 10-11.90 họp uỷ ban Phối hợp Hội nghị Paris về Campuchia để soạn thảo Hiệp định trên cơ sở văn kiện khung do P5 vạch ra, các ngoại trưởng ký Hiệp định; 15 nước trong Hội đồng Bảo An thông qua. Trung Quốc đặt cuộc gặp cấp cao Trung – Việt trong cái khung thời gian này. Tuy nhiên Bắc Kinh dấu không cho ta biết gì về những thoả thuận giữa họ và các nước lớn trong Hội đồng bảo an, mặt khác cũng giữ kín cuộc hẹn gặp ta ở Thành Đô vì không muốn làm cho phương Tây và ASEAN lo ngại khả năng đoàn kết hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Ngày 30.8.90, Bộ Chính trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Quốc. Anh Linh nêu ý kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ CNXH chống đế quốc, và hợp tác giữa PhnomPenh và Khmer đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia, mặc dù trước đó Bộ Ngoại Giao đã trình bày đề án nêu rõ là rất ít khả năng thực hiện phương án này vì phương hướng chiến lược của Trung Quốc vẫn là tranh thủ phương Tây phục vụ “4 hiện đại”. Anh Lê Đức Anh bổ sung ý anh Linh: “Phải nói về hoà hợp dân tộc thực sự ở Campuchia. Nếu không có Polpot thì vẫn tiếp tục chiến tranh”. Anh Võ Chí Công không đồng ý, nói: “Trung Quốc sẽ không nghe ta về hợp tác bảo vệ CNXH. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây”. Anh Thạch cảnh giác: “Vẫn có 3 khả năng về quan hệ giữa ta và Trung Quốc, không phải chỉ là khả năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu công thức “SNC 6+2+2+2” để nhấn rõ là có 4 bên Campuchia (trong đó Khmer đỏ là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng…” Sự thực sau này cho thấy Trung Quốc còn đòi cao hơn thế !

Ngày 2.9.90, ba đồng chí lãnh đạo cao cấp của ta đến Thành Đô đúng hẹn. Tháp tùng có Hồng Hà – Chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn – Trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng chú ý là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.

Sau 2 ngày nói chuyện (3-4.9.90), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là “Biên bản tóm tắt” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung về mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có dẫn chứng), còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Không có điểm nào theo yêu cầu của ta cả. Trong bản thoả thuận, vấn đề nổi cộm nhất là điểm 5 về việc thành lập SNC. Lãnh đạo ta đã thoả thuận dễ dàng, không do dự (!), công thức “6+2+2+2+1” (phía PhnomPenh 6 người; phía “3 phái” 7 người; 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk) mà Từ Đôn Tín vừa đưa ra ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi cho PhnomPenh, với công thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số người ngang nhau mà Sihanouk và Hunxen đã thoả thuận ở Tokyo.

Về sáng kiến “giải pháp Đỏ” cho vấn đề Campuchia mà lãnh đạo ta đưa ra, tưởng như phía Trung Quốc sẽ nhiệt liệt hoan ngênh, song Lý Bằng đã bác đi: “ Các đồng chí nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với nhau để phát huy hơn nữa. Tôi đồng ý một phần và không đồng ý một phần. Bốn bên Campuchia, xét về lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là hai đảng cộng sản, có vai trò nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ý là ở campuchia không chỉ có hai đảng cộng sản mà còn có các thế lực khác là lực lượng của Sihanouk và lực lượng của Son San. Lực lượng của họ không lớn lắm nhưng họ được quốc tế ủng hộ. Bài xích họ thì cô lập SNC, không thể đoàn kết Campuchia. Cần phải để cho hai bên kia phát huy tác dụng ở Campuchia”. Và Giang Trạch Dân cùng nói thêm: “ Các nước phương Tây rất chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt nam XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, họp với nhau bàn cái gì đây ? Vì vậy chúng tôi giữ kín chuyến đi này. Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta”.

2. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA ?

Ngay say khi ở Thành đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và Lê Đức Anh, đã bay sang PhnomPenh thông báo lại với BCT Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung. Để thêm sức thuyết phục PhnomPenh nhận Thoả thuận Thành đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc.” Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”

Nhưng câu trả lời của Heng Somrin, thay mặt cho lãnh đạo Campuchia, vẫn là: “Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải quyết”. Về “giải pháp Đỏ”, PhnomPenh nhận định: “Trung Quốc không muốn hai phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện “giải pháp Đỏ” vì “giải pháp Đỏ” trái với lợi ích của Trung Quốc”. Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục Bạn: “ Ta nói “giải pháp Đỏ” nhưng đó là “giải pháp Hồng”, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với Khmer Đỏ. Vấn đề tranh thủ Khmer Đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến lược… Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc, kéo Khmer Đỏ trở về… Ta đừng nói với Trung Quốc là làm “giải pháp Đỏ”, nhưng ta thực hiện “giải pháp Đỏ”; có đỏ có xanh…nhưng thực tế là hợp tác hai lực lượng cộng sản”. Nguyễn văn Linh bồi thêm: “Xin các đồng chí chú ý lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép Trung Quốc nên Trung Quốc cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta có giải pháp Đỏ.”

Theo báo cáo của đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn Campuchia đối với ta từ sau Thành Đô có đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định trái với sự gợi ý của ta trên nhiều việc.

Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm:

* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước;

* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mối” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.

* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông baó nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.

Ngày 7.9.90 BCT đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt – Trung và cuộc gặp cấp cao Việt – Campuchia sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc thông báo lại lập trường của Campuchia; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với Campuchia. Nếu có ai hỏi về công thức “6+2+2+2+1”, nói không biết.

Nhưng Báo Bangkok Post ngày 19.9.90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai hoá bản Thoả thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần SNC của Campuchia sẽ gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk, thành viên thứ 13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức Chủ tịch Hội đồng. Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER) số 4/10 (10.10.90) đăng bài “Củ Cà-rốt và cái gậy” viết về cuộc gặp gỡ cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô giưa TBT Đảng và Thủ tướng hai nước, cho biết hai bên đã thoả thuân công thức “6+6+1” về việc lập SNC. Phía Việt Nam có nhượng bộ nhiều hơn. Việc Ngoại trưởng hai nước khong dự họp cấp cao là đáng chú ý. Bên trong, Trung Quốc nói họ coi ông Thạch là người có quan điểm cứng rắn về vấn đề Campuchia cũng như đối với Trung Quốc. Ngày 12.10.90, nhà báo Nayan Chanda nói với anh Thạch: “Trung Quốc đang tuyên truyền rộng rãi là lãnh đạo Việt Nam đánh lừa mọi người, họ ký kết với lãnh đạo Trung Quốc về thành phần SNC nhưng đã không thực hiện thoả thuận cấp cao Việt-Trung. Việt Nam lại còn xúi dục chính quyền PhnomPenh chống việc bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC và đưa ra hết điều kiện này đến điều kiện khác.” Ngày 5.10.90, anh Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker. Baker cho biết là sau khi cuộc họp các bên Campuchia ở Bangkok vừa qua thất bại, Trung Quốc rất bất bình với lãnh đạo Việt Nam. Trung Quốc cho rằng lãnh đạo cấp cao của Việt nam đã hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Trung Quốc về con số 13 thanh viên của SNC nhưng lại nói với PhnomPenh là công thức đó là ý kiến riêng của Trung Quốc, đã không làm gì để thúc đẩy PhnomPenh thực hiện thoả thuận giữa cấp cao hai nước. Không thể tin được ngay cả lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao Việt Nam. Baker còn nói rằng Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị của lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam là Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ CNXH chống âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ CNXH cũng như đề nghị của Việt Nam về giải pháp dựa trên liên minh giữa PhnomPenh và Polpot.

Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bẵc Kinh, ngày 24.10.90, đã xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ảnh qua cuộc họp giữa các bên Campuchia ngày 10.9.90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam đã cố gắng thuyết phục PhnomPenh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc PhnomPenh đã có “một thái độ thiếu hợp tác45”.

Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và CNXH thế giới, chống lại hiểm hoạ ‘diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm ““giải pháp Đỏ”.

Sau Thành Đô, trong BCT đã có nhiều ý kiến bàn cãi về chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi BCT họp (15-17.5.91) thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”, cuộc gặp cấp cao Việt Nam – Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại Giao có câu “có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia”. Cuộc họp này đầy đủ TBT Nguyễn văn Linh; các cố vấn Phạm văn Đồng, Võ Chí Công; các uỷ viên BCT Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.

Anh Tô nói: Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để nhận định sâu sắc thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì tự kiểm điểm. Tôi ân hận là ở hai chỗ. Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói là anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng trình bày phương án “6+2+2+2+1” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói: tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng… Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối. Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được nguyên tắc “consensus” (nhất trí), còn con số không quan trọng. Tôi nghe hơi yên tâm nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa ký bản thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu, sau khi Lý bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì ta có thể có cách bàn thêm với họ. Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thoả thuận, các đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời TBT, Chủ tịch HĐBT ta sang gặp TBT, Chủ tịch Quốc vụ viện, lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn, nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của Bạn Campuchia, rất gay gắt. Tôi hiểu là Bạn khá bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho ta là làm sau lưng, có hại cho người ta.”

Anh Linh: “ Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khmer Đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước XHCN.”

Anh Thạch: “ Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho PhnomPenh. Hunxen nói là trong biên bản viết là “hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1” nhưng băng ghi âm lại ghi rõ anh Linh nói là “không có vấn đề gì”. Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu. Tại Tokyo tháng 6.90, Sihanouk và Hunxen đã thoả thuận thành phần SNC gồm hai bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang hà nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang PhnomPenh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc consensus trong SNC, anh Hunxen nói riêng với tôi: chúng tôi thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng Campuchia bị Việt nam và Trung Quốc ép. Như vậy, dù là consensus cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là PhnomPenh thắc mắc nhiều với ta. Liên xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô và nói với họ là lãnh đạo Việt nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…”

Hôm sau, BCT họp tiếp, anh Mười nói: “ Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hunxen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi Thanh Đô thì tốt hơn…”

Anh Tô: “Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như thế nào ? Ở Thành Đô, điều ta làm có thể chứng minh được nhưng Campuchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận là về sau này sẽ để lại hậu quả.”

Anh Mười: “ Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không sai. Ban Campuchia nghĩ gì về ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của bạn.”

Anh Thạch: Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô về, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô nhận consensus” (nguyên tắc nhất trí).

Anh Võ Văn Kiệt: Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”

Vốn là người điểm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu: Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.

Thoả thuận Việt Nam – Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với PhnomPenh. Trong phiên họp Quốc hội Campuchia ngày 28.2.91, Hunxen phát biểu: “Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC này rất phức tạp. Chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được”.

Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở PhnomPenh, ngày 28.9.90, Hunxen đã có những ý khá mạnh về việc nối về thoả thuận Thành Đô: “Khi gặp Sok An ở Bangkok hôm 17.9, Trung Quốc doạ và đòi SOC phải công nhận công thức mà Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận. Nhưng PhnomPenh độc lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời Trung Quốc là ý này là của Việt Nam không phải của PhnomPenh.“

Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.

Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ CNXH chống đế quốc Mỹ, thực hiện “giải pháp Đỏ” ở Campuchia là không phù hợp với Nghị quyết 13 của BCT mà còn gây khó khăn với ta trong việc đa dạng hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN, và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia. Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.

Cùng với việc ta thúc ép PhnomPenh đi vào “giải pháp Đỏ”, việc ta thoả thuận với Trung Quốc công thức SNC tại Thành Đô là không phù hợp với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ với ta với Campuchia và Lào.

3. AI LÀ NGƯỜI ĐÁNG LÝ RA PHẢI NHỚ DAI ?

Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, yêu sách chính của Trung Quốc đối với ta trong vấn đề Campuchia tập trung chủ yếu vào việc đòi ta thực hiện thoả thuận Thành Đô, tác động với PhnomPenh theo hướng: “nhận bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC gồm 13 thành viên của 4 bên Campuchia; chấp nhận văn kiện của 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an về vấn đề Campuchia.

6 giờ sáng ngày 9.9.90, đại sứ Trung Quốc đến Ban Đối ngoại (chứ không đến Bộ Ngoại giao) gặp Hồng Hà trao thông điệp báo các bên Campuchia sẽ họp ngày 10.9 tại Jakarta để bàn việc lập SNC và nhấn mạnh yêu cầu Việt Nam tác động theo hướng đã thỏa thuận tại Thành Đô. Ngay sau đó BCT đã họp trao đổi về thông điệp đó và quyết định cử tôi đi Jakarta. Trong cuộc họp này BCT đã quyết định từ nay các tiếp xúc đối ngoại về mặt Nhà nước đều phải qua Bộ Ngoại Giao và phải báo cáo với anh Thạch và bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh (?) vì cách làm của đại sứ Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại Giao một cách quá lộ liễu.

Trưa ngày 9.9.90 tôi cùng anh Huỳnh Anh Dũng đáp máy bay qua đường Bangkok sang thủ đô Inđônêxia để theo dõi cuộc họp của các bên Campuchia bàn về việc thành lập SNC. Không có “cẩm nang” nào kèm theo chỉ thị đó cả, chỉ có lời dặn ngắn gọn của TBT Nguyễn Văn Linh là cố lập được SNC.

Chiều tối 10.9.90, vừa chân ướt chân ráo từ sân bay về đến sứ quán ta ở Jakarta, tôi đã nhận được một cú điện thoại từ sứ quán Trung Quốc gọi tới. Trương Thanh gọi điện thoại đến nói là chào trước khi rời Jakarta và cảm ơn tôi đã tác động tích cực khiến cho cuộc họp các bên Campuchia này đạt được một số kết quả (!). Tôi trả lời là tôi không dám nhận sự biểu dương đó, nếu như cuộc họp kết quả tốt thì đó là do thiện chí của Nhà nước Campuchia.

Chả là lúc tôi xuống sân bay Jakarta cũng là lúc cuộc họp giữa các bên Campuchia vừa bế mạc sau khi đã thoả thuận lập SNC gồm 12 thành viên, chức chủ tịch còn để trống và tuần tới sẽ họp phiên đầu tại Bangkok để giải quyết nốt vấn đề chủ tịch SNC. Bản tuyên bố chung của cuộc họp có ghi “Các bên Campuchia chấp nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở để giải quyết cuộc xung đột Campuchia”. Tôi nghĩ rằng Bộ Chính trị bảo tôi sang Jakarta có thể là một động tác sách lược để tỏ ra với Trung Quốc là ta tích cực thực hiện thoả thuận Thành Đô. Còn Trương Thanh gọi điện cảm ơn tôi thực ra cũng là một sự vỗ về của Trung Quốc để khuyến khích tôi tiếp tục cố gắng thực hiện thoả thuận Thành Đô ! Nhưng sự khuyến khích đó lại có tác dụng trái ngược lại, làm thức tỉnh cái con người bướng bỉnh trong tôi. Từ đầu, tôi và số anh em chuyên nghiên cứu vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc trong Bộ Ngoại Giao đã rất không thông với thoả thuận Thành Đô vì nhiều lẽ, nay tôi càng thấy mình không thể hành động trái với điều mình cho là lẽ phải.

Ngày 13.9.90 tôi lại được trong nước chỉ thị đi thẳng từ Jakarta sang Bangkok để theo dõi phiên họp đầu tiên của SNC ở đó. Sáng 14.9.90 Bí thư thường trực Bộ Ngoại Giao Thái Kasem mời tôi tới Bộ Ngoại giao Thái Lan nói chuyện. Chủ đề câu chuyện vẫn là vấn đề Campuchia. Kasem hỏi dò tôi về thoả thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc về cơ chế SNC. Tôi trả lời đó chỉ là những tin đồn không căn cứ, không nên tin. Trưa hôm đó, Sok An, thứ trưởng ngoại giao Campuchia, tìm đến gặp tôi. Anh hỏi ý kiến về cuộc họp SNC ở Bankok sắp tới, thái độ ta nên như thế nào nếu đối phương đòi đưa Sihanouk làm chủ tịch SNC và là thành viên thứ 13 cuả SNC ? Tôi gợi ý cần giữ vững nguyên tắc hai bên ngang nhau. Để thiện chí, một lần nữa, ta có thể nhận cho đối phương thêm một người nhưng bên ta cũng phải thêm một người (mỗi bên 7 người). Không 12 thì 14 chứ không nhận 13. Sau đó tôi lại được anh Sok An cho biết là Kraisak, con trai Thủ tướng Chatichai và là thành viên trong nhóm cố vấn của Thủ tướng Thái, đã bảo anh rằng ông ta được Bộ Ngoại giao Thái thông báo là Việt Nam cũng ủng hộ việc lập SNC với 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu. Tôi nói với Sok An đấy là điều bịa đặt và tôi sẽ gặp Kraisak dể nói lại. Chiều hôm khi gặp Kraisak, tôi nói khá thẳng rằng: “Không thể coi ông Sihanouk là ông chủ ở Campuchia, là vua trên tất cả. Vấn đề thành phần cũng như chức chủ tịch SNC phải do người Campuchia quyết định. Việt Nam và Trung Quốc không có quyền bỏ phiếu về vấn đề đó”. Sau đó Kraisak kể lại cả cho Kasem. Kết quả là cuộc họp SNC phiên đầu tiên 17.9.90 tại Bangkok đã tan vỡ vì Hunxen không chấp nhận công thức “6+2+2+2+1”, cự tuyệt bầu Sihanouk làm chủ tịch với tư cách là thành viên thứ 13 của SNC. Hẳn Trung Quốc đã gắn trách nhiệm hoặc ít ra cũng là một phần trách nhiệm về thất bại đó cho tôi.

Hạ tuần tháng 9.90, Trung Quốc đón Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp thăm Trung Quốc và dự lễ khai mạc Á Vận Hội (ASIAD) 11 với tư cách là “khách mời đặc biệt của Chính phủ Trung Quốc” (tuy nhiên báo chí Trung Quốc vẫn đưa tin việc Trung Quốc mời Võ Nguyên Giáp là thể theo yêu cầu của ta, dù rằng ngày 4.9.90 khi tiếp đoàn cấp cao của ta ở Thành Đô chính Giang Trạch Dân đã nói sẽ mời anh Giáp dự khai mạc ASIAD như một cử chỉ thiện chí của họ). Ngày 24.9.90 khi tiếp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Lý Bằng có nói: “Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, cuộc họp Jakarta kết quả tốt, đã ra được tuyên bố SNC 13 người. Song đến khi họp SNC ở Bangkok thì không tốt. Xin nói thẳng thắn với đồng chí là chúng tôi thấy Thứ trưởng Trần Quang Cơ có tác dụng xấu trong việc này. Khi Kasem hỏi có phải thực sự giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận lập SNC gồm 13 người hay không? Trần Quang Cơ đã đáp rằng hoàn toàn không có việc đó; đó hoàn toàn là những điều dối trá. Chúng tôi không biết tại sao Thứ trưởng Trần Quang Cơ lại nói những lời như vậy, hoàn toàn truyền đạt thông tin không đúng đắn”. Anh Giáp đáp: “Khi về tôi sẽ hỏi lại về phát biểu của đồng chí Cơ. Nếu có như vậy thì đây không phải là ý kiến của Trung ương chúng tôi. Tôi không biết việc này vì tôi không phụ trách công tác ngoại giao”.

Tiện đây tôi thấy cũng nên ghi lại một chuyện có thể giúp cho chúng ta hiểu thêm đặc điểm của người Trung Quốc: sau khi đến Bắc Kinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đề nghị gặp một số tướng lĩnh trong quân đội Trung Quốc như Dương Đắc Chí (Dương là tổng chỉ huy cuộc chiến tranh đánh Việt Nam năm 1979). Nhưng Dương nói một cách bực tức: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mộ của các cán bộ chiến sĩ còn chưa xanh cỏ !”. Ngày 1.10.90 Dương cùng một số tướng lĩnh khác còn gọi điện thoại thăm hỏi động viên sĩ quan binh lính ở Vân Nam, Quảng Tây. Nhà văn quân đội Lý Tôn Bảo tác giả cuốn “Vòng hoa dưới chân núi cao” viết về cuộc tấn công vào Việt Nam tháng 2.79, phát biểu: “Xem tin Lý Bằng tiếp Võ Nguyên Giáp mà trong lòng tôi cảm thấy bứt rứt. Giờ đây chúng ta phải xem xét lại xem có gây ra cuộc chiến tranh đó không? Chẳng những phần lớn sĩ quan binh lính dưới đơn vị không thông ngay cả một số tướng lĩnh cao cấp cũng không thông nổi”.

Tư liệu trên đây tôi lấy ở bài “Võ Nguyên Giáp thăm Bắc Kinh gây chấn động” của Quan Nghiệp Thành đăng trên báo “Tranh Minh” xuất bản ở Hồng Kông tháng 11.90. Từ đó đến nay, tôi vẫn phân vân là giữa người Việt Nam và người Trung Quốc đáng lý ra ai là người phải nhớ dai hơn về sự kiện tháng 2.79 ?

4. MÓN NỢ THÀNH ĐÔ

46[Từ tháng 9.90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đòi ta thực hiện thoả thuận đó,] cụ thể là tác động với PhnomPenh nhận SNC có 13 thành viên và do Sihanouk làm Chủ tịch47. Với cách làm đó, họ khơi sâu thêm bất đồng trong nội bộ ta… Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ mới của Malaysia ngày 3.10.90 đến chào xã giao, nói với tôi là ở Bắc Kinh người ta đưa tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lãnh đạo Đảng về chủ trương đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp cao Trung Quốc không có ông Nguyễn Cơ Thạch. Sau Thành Đô, trong khi ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam thì phía Trung Quốc lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công kích lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở Bắc Kinh, không sắp xếp Đại sứ ta tham dự vào cuộc Lý Bằng tiếp anh Võ Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc với Đại sứ ta. Trung Quốc một mặt khẳng định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết thì quan hệ Trung – Việt “chỉ có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm dò và tích cực tác động đến vấn đề nhân sự và phương án chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991. Từ tháng 3.91, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Trung – Việt đã tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề Campuchia. Về vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ con số 13, tạm gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức “Sihaouk chủ trì các cuộc họp SNC”. Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya (Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang quan hệ trực tiếp với Nhà nước Campuchia, mời Hunxen thăm Bắc Kinh trong 3 ngày (22-24.7.91).48

Chiều chủ nhật 18.11.90 họp BCT về vấn đề Campuchia. Từ sau khi P5 thoả thuận về văn kiện khung (28.8.90) cuộc đấu tranh về vấn đề Campuchia đi vào giai đoạn cuối, gay gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ Ngoại giao, tôi trình bày đề án về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện khung của P5 và về vấn đề SNC để BCT cho ý kiến. Khi tôi trình bày xong, anh Thạch đề nghị BCT khẳng định 2 điểm:

1. Vấn đề SNC là vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng chủ quyền của bạn;

2. Về văn kiện khung, ta phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ. Nếu không sau này có ảnh hưởng đến vấn đề xử lý Trường Sa… Ta thấy rõ Trung Quốc và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác nhau.

Cuối cuộc họp, TBT Linh kết luận: về SNC ta không thể góp ý với bạn được… Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau thì tôi không đồng ý. Sau hội nghị Trung ương, BCT sẽ đánh giá lại một số vấn đề liên quan đến Ngoại giao như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc nói về Trung Quốc như thế nào ? Nguyễn Cơ Thạch nói luôn:Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô.

Dự thảo Hiệp định toàn bộ về Campuchia ngày 26.11.90 do P5 thảo ra đã được các thành viên SNC Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở Paris ngày 23.12.90. Chủ trương của ta là giải pháp chính trị về Campuchia, nhất là những vấn đề nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết định và chịu trách nhiệm với dân tộc Campuchia. Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ý để họ tránh được những thất bại không đáng có, nhưng ta không thể làm thay. Như vậy ta vừa hết lòng giúp bạn vừa không để Việt Nam một lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh nội bộ của Campuchia. Không để vấn đề giải pháp chính trị về Campuchia lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch sử trong quan hệ Việt Nam – Campuchia.

Theo yêu cầu của bạn, ngày 14.1.91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê Công Phụng, Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang PhnomPenh làm việc với bạn với mục đích:

a. Tìm hiểu suy nghĩ và ý định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi bạn đã chấp nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10.9.90 và chấp nhận về cơ bản dự thảo Hiệp định 26.11 của P5 tại cuộc họp Paris 23.12.90;

b. Thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền Campuchia để chỉ thaỏ luận và giải quyết trong SNC;

c. Thoả thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.

Khi tiếp tôi, anh Hunxen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh nhất là muốn có một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng, không để cho Polpot quay trở lại… Tình hình hiện nay rất tế nhị. Tình hình phức tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc. Chỉ cần chấp nhau một giải pháp như vậy thì nội bộ Campuchia đã hỗn loạn rồi chứ chưa nói là ký kết. Ta giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt. Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh tiến trình giải pháp.

Như vậy, qua các cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, thứ trưởng Dith Munty và thứ trưởng Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hunxen chiều 16.11, có thể thấy được chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh đàm hiện tại vì nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu vì trong nội bộ lãnh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp còn rất mạnh. Hunxen cho biết theo quyết định của BCT Campuchia, trong cuộc họp Trung ương ngày 17.1.91, ông ta sẽ thông báo cho Trung ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải pháp”. Tuy nhiên, tôi lại có cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động lãnh đạo Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được cho mình một đường lối rõ ràng mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước với những vấn đề trong nội bộ cũng như với đối phương.

Trong lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24.2.91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn cố ép bạn “cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh vấn đề diệt chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ tịch”. Heng Somrin về nói lại với BCT Đảng Campuchia thì tất cả đều băn khoăn và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe có thể sai sót. Thực ra, như Hunxen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng Somrin nói lại những ý kiến của anh Linh, BCT Campuchia rất lo vì thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều quá. Ngày 13.3.91 Hunxen nói với anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá Khmer đỏ, nhưng dứt khoát không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con bài mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển cử; kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm qua đều do Việt Nam gây ra cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12 hoặc 14, không thể chấp nhận con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ tịch, Hunxen làm phó, không đòi chức chủ tịch luân phiên hay đồng chủ tịch nữa”.

Trong cách làm này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là có lợi ích đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi ích của bạn không. Cách làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó lâu nay giữa ta với PhnomPenh.

Đầu năm 1991, BCT đã có cuộc họp tại T78 thành phố HCM (24-25.1.91) để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi trình bày chủ trương tách mặt quốc tế với mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ý kiến của Hunxen cho biết là BCT Campuchia quyết định không đi vào giải pháp trong năm 1991. BCT quyết định cần thăm dò khả năng họp BCT 3 nước để hướng Campuchia đi vào giải pháp, họp có tính chất trao đổi, gợi ý chứ không quyết định, ta không thể ép bạn, đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm ta bị cô lập.

Nhân dịp này, tôi đã ngỏ ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương khoá tới. Anh Thạch tỏ ý không tán thành. Đến tháng 2.91, khi có cuộc bầu đại biểu ở các tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đã gửi thư cho anh Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban Tổ chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự Đại hội VII. Lúc này tinh thần tôi đã có phần mệt mỏi vì những sự việc trong thời gian qua. Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi nhận được giấy đi dự Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6.91, tôi có giấy đi dự Đại hội Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp

tục tham gia Trung ương khoá VII.

Tình hình bất đồng ý kiến trong BCT càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay gắt. Ngày 13.4.91, trong cuộc họp BCT bàn về tình hình thế giới và đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, TBT Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại Giao) và bản trình bày tình hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương thì phải thảo luận tìnhhình trước, nhưng cách đánh gia tình hình còn khác nhau”

Cố vấn Phạm Văn Đồng: “Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của mình. BCT đã giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm nhưng lại chưa làm”.

Lê Đức Anh: “BCT nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh gía chung, mỗi ngành có đề án riêng, không làm chung được”.Nguyễn Cơ Thạch đồng ý 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác thì mỗi ngành làm.

Trên tinh thần đó, ngày 2.5.91, đã có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh và Quốc phòng để thống nhất nhận định tình hình thế giới. Dự họp về phía Quốc phòng có: Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân (thường gọi là Lân thọt), Bộ Nội vụ có: Mai Chí Thọ; Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. Còn 3 phó ban đối ngoại: Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang Tạo. Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí trong nhận định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung chung.

Chỉ còn một tháng đến ngày họp Đại hội VII, BCT họp liền gần 3 ngày (15,16 và 17.5.91) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”. BCT có mặt đông đủ. Theo dõi cuộc họp ở ghế dự thính. Số dự thính lúc đầu có 10 người, từ chiều 16.5 khi đi vào kiểm điểm việc thực hiện các Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI thì dự thính thu hẹp lại chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và tôi). Từ đầu đến cuối, tôi đã nhận rõ sự đấu tranh giữa hai quan điểm về mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường lối đối ngoại, nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc. Bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với Nghị quyết 13 của BCT (20.5.88)”, 49“giữa ta và bạn Campuchia50 đã bộc lộ sự khác nhau khá rõ rệt”, về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu bình tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô…; đã bỏ lỡ cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười sang thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi mới đi Thái), đã làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng sai trong chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn đề chống diệt chủng và “giải pháp Đỏ”.

Anh Võ Chí Công: “Về Trung Quốc rất phức tạp… BCT đã đánh giá Trung Quốc có hai mặt XHCN và bá quyền. Về XHCN cũng cần thấy là trong “nháy nháy”… Khó khăn là chưa bình thường hoá quan hệ… Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm không giải quyết nổi. Ví dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết ta không có ý đồ đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và Campuchia, gạt ta ra… Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, vì như vậy thì có nghĩa là Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ trương của họ là tranh thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá, còn gì là Trung Quốc nữa ?

Tới cuối cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm còn nói: “Chưa làm dự thảo Nghị quyết ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến BCT còn khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Đại hội đến nơi, sau Đại hội không còn BCT này nữa, tuy một số đồng chí còn ở lại…Mặc dù vậy Nguyễn Thanh Bình chủ trì cuộc họp vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.

Chú thích:


46 Phần [ ], bản 01 viết: [Từ sau cuộc gặp Thành Đô, yêu sách chính của Trung Quốc đối với ta về vấn đề Campuchia chủ yếu là thực hiện thoả thuận Thành Đô,]

47 bản 01 thêm: [chấp nhận văn kiện của P5].

48 bản 01 thêm: [Những thoả thuận cấp cao ở Thành Đô đã trở thành vô nghĩa.]

49 bản 01 thêm: “một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia”,

Chuổi ngọc- giá 100k-


Chuổi ngọc- giá 100k- ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/