PĐTT : Phát hiện về " phản vật chất " đã mở ra một hướng đi mới cho "triết học phương tây".Thiết nghĩ, nếu ta xem "phản vật chất " là vật chất có thuộc tính hủy diệt và " vật chất" là vật chất có thuộc tính sinh sôi nảy nở. Vũ trụ tồn tại bỡi 2 dạng vật chất này: một luôn phá hủy., một luôn sinh sôi nảy nở không ngừng. Vòng sinh diệt bất tật này khiến vũ trụ ổn định. Phải chăng sự va chạm của " phản vật chất" và "vật chất" đã tạo ra vụ nổ Bingbang? Các hành tinh được hình thành và một số hành tinh mang mầm "vật chất"- (Sự sống) đã sinh sôi, nảy nở và phát triển? Vậy tư tưởng phải chăng cũng là "dạng vật chất"( sinh sôi nảy nở vô tận) đối nghịch với " phản vật chất"?
Trong bài báo “Kurt Gödel: Chủ nghĩa duy vật là sai lầm”, TS John Spencer viết: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai”. Rồi Spencer đặt câu hỏi: “Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?”. Trong trường hợp này, hỏi tức là đã trả lời…
Lược sử tối giản của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa Duy vật là tư tưởng và học thuyết cho rằng toàn bộ thế giới hiện thực là vật chất và chỉ có vật chất mà thôi – không tồn tại bất cứ cái gì là phi vật chất hoặc siêu tự nhiên, không có Chúa, không có phép mầu,… Với chủ nghĩa duy vật, các khái niệm tưởng là phi vật chất như tư tưởng, tinh thần xét cho cùng cũng chỉ là sự biểu lộ của hoạt động vật chất.
Chủ nghĩa duy vật không phải là một hiện tượng mới mẻ. Nó vốn có từ xa xưa, ít nhất từ thời cổ Hy Lạp. Có lẽ ngay từ thời ấy nó đã tỏ ra kém cỏi trong khả năng giải thích thế giới nên Plato, một trong những cha đẻ của nền văn minh triết học và khoa học Tây phương, đã phải phê phán nó một cách gay gắt như đã dẫn trong bài báo của John Spencer nói trên. Đối với Plato, Cái Đẹp (The Beauty), Cái Thiện (The Goodness), Luật Đạo Đức (The Moral Law) là những giá trị phi vật chất nói lên sự hiện hữu của Chúa. Nếu không tin Chúa đã « thổi » tâm tính tốt đẹp vào con người thì sẽ rất khó giải thích vì sao con người có xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức, trong khi mọi tạo vật khác không có ý thức về những giá trị này (Chú ý rằng xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức hoàn toàn trái ngược với quy luật “đấu tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua” của thuyết tiến hóa Darwin).
Nhưng mặc dù chủ nghĩa duy vật đã có từ xa xưa, nó chưa bao giờ trồi lên mạnh mẽ như từ giữa thế kỷ 19 để trở thành một hệ tư tưởng khuynh đảo xã hội từ đó cho tới nay. May mắn thay, chính khoa học lại cung cấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chủ nghĩa duy vật không phải là một tiến bộ về nhận thức, mà hóa ra mà là một bước thụt lùi. Đó là lý do để giữa thế kỷ 20, đúng vào lúc chủ nghĩa duy vật lên đến tột đỉnh và các nhà duy vật đang ngạo nghễ đắc thắng, nhà toán học trứ danh Kurt Gödel đã hạ bệ nó bằng một tuyên bố chắc nịch: « Chủ nghĩa duy vật là sai lầm ! ».
Mãi đến cuối thế kỷ 20, khi Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness) của Gödel được thừa nhận một cách rộng rãi thì nhiều người mới bắt đầu giật mình tỉnh ngộ ra để nhìn nhận lại bản chất của chủ nghĩa duy vật. Tại sao vậy ? Vì định lý Gödel chỉ ra rằng chủ nghĩa duy vật, bao gồm logic máy móc và tư duy cơ giới thô thiển, đã tự bịt mắt trước sự thật – thế giới hiện thực rộng hơn thế giới nhận thức ; thế giới nhận thức rộng hơn tư duy khoa học; tư duy khoa học rộng hơn tư duy logic máy móc… Nói cách khác, có nhiều chân lý nằm bên ngoài thế giới nhận thức bằng thực chứng và logic – khoa học duy vật không bao giờ đủ để nhận thức được chân lý đầu tiên, chân lý cuối cùng và chân lý toàn thể. Muốn nhận thức sâu hơn và rộng hơn về thế giới, bắt buộc con người phải sử dụng nhiều phương pháp nhận thức khác nhau để tiệm cận tới chân lý. Những phương pháp nhận thức này tuy khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau, trong đó trực giác đóng vai trò định hướng dẫn đường.
Trực giác là gì nếu không phải ánh sáng của Chúa soi rọi vào mỗi con người ?
Albert Einstein là người nhấn mạnh đến trực giác nhiều nhất. Ông từng nói « Tư duy trực giác là quà tặng thiêng liêng… » (The intuitive mind is the sacred gift…). Quà tặng thiêng liêng đó là của ai, nếu không phải của Chúa ? Không thừa nhận sự thật này thì làm thế nào để giải thích sự hiện hữu của trực giác ? Computer vượt xa chúng ta về tốc độ và sức khỏe tính toán nhưng chỉ là một gã ngu đần khi đứng trước một vấn đề đòi hỏi trực giác. Chủ nghĩa duy vật không dám phủ nhận trực giác, nhưng nó lúng túng không biết làm thế nào để giải thích trực giác, vì thế nó nói bừa rằng đó là bản năng tự nhiên và nhờ “tiến hóa” mà có. Khái niệm “tiến hóa” là một khái niệm mơ hồ, bởi thực tế không bao giờ có một cơ chế tiến hóa nào có thể kiểm chứng được một cách cụ thể, rõ ràng.
Thực tế, trực giác là một trong những bí ẩn lớn nhất của tự nhiên – khả năng nắm bắt được bản chất sự vật một cách trực tiếp ngay tức khắc không thông qua lý luận. Trực giác có nhiều tầng khác nhau. Ở tầng thấp, một học trò có trực giác tốt sẽ định hướng lời giải của một bài toán hình học nhanh hơn những học trò có trực giác kém. Ở tầng cao, trực giác giúp Isaac Newton cảm thấy có lực hấp dẫn giữa các vật chất có khối lượng, Albert Einstein “nhìn thấy” quy luật tương đối chi phối tự nhiên, Louis Pasteur “cảm thấy” tính bất đối xứng của sự sống,… Ở tầng cao hơn nữa, nó giúp con người “nhìn thấy” những thế giới không nhìn thấy – thế giới siêu tự nhiên, phi vật lý, nơi phương pháp thực chứng và logic của khoa học hoàn toàn bất lực. Vì thế những thầy giáo giỏi không phải là những người truyền đạt giỏi, mà là những người giỏi đánh thức người học, giúp người học tỉnh thức để vận dụng trực giác sẵn có trong tâm mà thấu cảm chân lý, thay vì lý luận chứng minh. Đức Phật và Đức Chúa Jesus là những nhà truyền giảng và đánh thức vĩ đại. Câu nói bất hủ của Chúa Jesus, rằng “Phúc cho ai không thấy mà tin” là một lời đánh thức tất cả những ai muốn tìm chân lý, nhưng rất tiếc là có nhiều người không hiểu, thờ ơ với lời đánh thức đó. Nhưng những người như Kurt Gödel thì không như vậy. Lời nói quả quyết của ông, Chủ nghĩa duy vật là sai lầm, chứng tỏ ông là một người tỉnh thức hơn ai hết – ông phủ nhận chủ nghĩa duy vật và vô thần quyết liệt tới chừng nào.
Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều người hiểu Gödel hơn, và do đó ngày càng có nhiều người từ bỏ chủ nghĩa duy vật hơn. Tiến sĩ John Spencer, với tư cách một nhà triết học về vật lý lượng tử, đã ủng hộ Gödel bằng lập luận logic một cách mạnh mẽ đến nỗi phải trích dẫn Plato để phê phán chủ nghĩa duy vật như một thứ triết học tầm thường và ngoan cố. Lập luận của Spencer vừa mang tính khoa học vừa mang tính triết học.
Logic bác bỏ chủ nghĩa duy vật
Trong bài báo nói trên, Spencer lưu ý độc giả rằng : Kurt Gödel tuy không nổi tiếng như Albert Einstein, nhưng đừng quên rằng ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ 20, và là nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle; bản thân Einstein trong thời gian làm việc cùng với Gödel tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton đã từng công khai nói với mọi người rằng ông đến Viện nghiên cứu chỉ cốt để gặp gỡ trò chuyện với Gödel, rồi cùng đi bộ với Gödel về nhà; một bạn thân khác của Gödel tại đây là nhà toán học lừng danh John von Newman, một trong những cha đẻ của computer ngày nay.
Vậy điều gì đã làm cho một nhà khoa học bậc nhất như Gödel chối bỏ chủ nghĩa duy vật?
Spencer nói: “Chủ nghĩa duy vật, một thứ triết lý dựa trên tiên đề cho rằng chỉ có vật chất mới là cái có thật, đã trở thành nền tảng cố hữu không thể tranh cãi trong rất nhiều trường phái khoa học chính thống”.
Cái nền tảng ấy đã trở thành một xiềng xích trói buộc, một tảng đá đè nặng lên tư duy khoa học, cản trở tư duy sáng tạo đến nỗi nhà thần kinh học Mario Beauregard đã phải lên tiếng kêu gọi: “Nay đã đến lúc chúng ta phải tự giải phóng mình ra khỏi những xiềng xích trói buộc và những tấm vải che mắt của ý thức hệ duy vật cỗ lỗ sĩ” (It’s now time to free ourselves from the shackles and blinders of the old materialist ideology).
Thực ra những người tài giỏi thực sự không cần phải chờ đợi lời kêu gọi đó. Họ đã tự giải phóng mình từ lâu, đúng như Spencer nhận xét: “Trớ trêu thay, có một sự thật là nhiều nhà khoa học đi tiên phong trong khoa học hiện đại từ vài thế kỷ trước đây cho tới những nhà sáng lập cơ học lượng tử như Max Planck và Werner Heisenberg cũng đều bác bỏ chủ nghĩa duy vật”.
Ủng hộ lời kêu gọi của Mario Beauregard, John Spencer nêu lên một lập luận 9 điểm để bác bỏ chủ nghĩa duy vật:
1. Các định luật vật lý là nền tảng của tất cả mọi khoa học.
2. Các định luật vật lý là những quan hệ toán học.
3. Các quan hệ toán học phụ thuộc vào các con số.
4. Mọi con số được xây dựng từ 1 và 0 (“2” là 1 + 1, và zero là sự vắng mặt của mọi thứ)
5. Số 0 bản thân nó là phi vật lý (nó không đại diện cho bất kỳ một vật chất cụ thể nào cả).
6. Số 1 bản thân nó cũng phi vật lý. Có thể có 1 cái cây, 1 cái ôtô,… nhưng bản thân số 1 không phải cái cây hoặc cái ôtô (số 1 chỉ là một mã hoặc một thông tin).
7. Vì các số là “cái gì đó” phi vật lý, do đó các định luật vật lý thể hiện hoặc phụ thuộc vào cái gì đó phi vật lý.
8. Vậy buộc phải đi đến kết luận: hoặc a) các định luật vật lý là có thực nhưng phi vật lý, điều này cho thấy chủ nghĩa duy vật là sai; hoặc b) các định luật vật lý là phi hiện thực, điều này làm cho nền tảng của mọi khoa học trở thành phi hiện thực.
9. Bất chấp thắng lợi phi thường bề ngoài của khoa học, nếu nền tảng của khoa học là phi hiện thực thì rốt cuộc nó không thể cung cấp bất kỳ cơ sở nào cho chân lý khách quan trong hiện thực, và do đó không thể nói rằng chủ nghĩa duy vật phản ánh chân lý khách quan.
Lập luận trên đã được Spencer phát triển lên một trình độ sâu sắc hơn rất nhiều trong cuốn “The Eternal Law” (Định luật Vĩnh cửu), một cuốn sách tích hợp các tri thức triết học, khoa học và thậm chí cả tâm linh, rất đáng đọc, đã được nhà toán học và vật lý lỗi lạc Roger Penrose đánh giá là một cuốn sách làm cho người đọc cảm thấy “vô cùng khoan khoái” (enormously refreshing). Nhưng bất chấp ý kiến của những người như Penrose, các nhà duy vật vẫn ngoan cố cho rằng ngoài vật chất chẳng có bất cứ thứ gì khác. Spencer than phiền: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai. Vì thế người ta phải băn khoăn tự hỏi: Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?” [0].
Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).
Đó là một nhận định chính xác. Quan sát thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần đến Chúa; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.
Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên, vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức) – cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.
Người có cái tôi lớn thường không thừa nhận Chúa, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Chúa, thán phục Chúa. Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Chúa như thế nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau đây.
Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).
Đó là một nhận định chính xác. Quan sát thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần đến Chúa; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.
Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên, vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức) – cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.
Người có cái tôi lớn thường không thừa nhận Chúa, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Chúa, thán phục Chúa. Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Chúa như thế nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau đây.
NHỮNG NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CÓ ĐỨC TIN VÀO CHÚA
Việc Tòa án Giáo hội Công giáo La mã năm 1633 kết tội Galileo vì ông ủng hộ thuyết Nhật tâm đã trở thành một vết đen trong lịch sử Công giáo, đánh dấu một cuộc đối đầu không đáng có giữa khoa học và tôn giáo, để lại một hệ lụy vô cùng đáng tiếc cho tới tận hôm nay. Hệ lụy lớn là gây ra một sự hiểu lầm vô cùng tai hại rằng khoa học và tôn giáo là hai hệ thống nhận thức đối đầu nhau và loại trừ lẫn nhau từ trong bản chất. Hệ lụy nhỏ là gây ra sự hiểu lầm lớn rằng Galileo là người vô thần, chống đối tôn giáo. Cả hai hệ lụy đó đều bắt nguồn từ sai lầm của Tòa án Giáo hội năm 1633. Năm 1992, sau 13 năm nghiên cứu lại vụ án Galileo, Giáo hội Công giáo La mã dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Jean Paul II đã chính thức sửa chữa sai lầm của 359 năm trước: thừa nhận Tòa án Giáo hội sai và Galileo đúng, khôi phục lại mọi danh dự cho nhà khoa học chính trực Galileo Galilei. Đây là một quyết định dũng cảm, nhân bản, đề cao công lý, thể hiện rõ ý Chúa. Nhân dịp này báo chí thế giới cũng nói nhiều đến Galileo, qua đó cho thấy ông là người có Đức tin vững chắc. Thật vậy, ông tuyên bố: “Chúa được biết đến nhờ những công trình Ngài kiến tạo trong tự nhiên, và nhờ những lời dạy Ngài vén mở trong các kinh sách” (God is known by nature in His works, and by doctrine in His revealed word). Đối với Galileo, khoa học càng làm ông tin chắc vào vai trò sáng tạo của Chúa. Đây, hãy nghe ông nói: “Toán học là bảng chữ cái trong đó Chúa viết về vũ trụ” (Mathematics is the alphabet in which God has written the universe).
Newton nổi tiếng là một người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, vì thế ông cũng là người rất khiêm tốn, biết mình bé nhỏ và tầm thường trước Đấng Sáng tạo vĩ đại. Khi được hỏi làm thế nào để ông có thể khám phá được nhiều điều kỳ lạ đến thế, ông nói ông chỉ giống như một đứa trẻ dạo chơi ngoài bãi biển, say mê nhặt những vỏ sò đẹp, và mỗi khám phá của ông giống như một vỏ sò đẹp mà thôi. Khi ông khám phá ra Định luật Vạn vật Hấp dẫn rồi dùng nó để giải thích chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời, có người chất vấn ông: “Nếu không có chuyển động quán tính của hành tinh theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo thì hành tinh sẽ bị hút vào Mặt Trời, vậy chuyển động quán tính ấy từ đâu mà ra?”. Newton đáp ngay: “Đó là cú hích ban đầu của Chúa!”. Ngày xưa thầy dạy vật lý của tôi kể lại chuyện này cho học trò nghe rồi kết luận: “Newton rốt cuộc vẫn là người duy tâm”. Ý thầy chê duy tâm là kém. Lũ trẻ nhỏ chúng tôi đứa nào chẳng tin thầy? Sau này lớn lên tôi mới vỡ nhẽ ra rằng một nhận định sai của giáo dục một khi đã được nhồi nhét vào đầu trẻ em sẽ để lại một hậu quả vô cùng tai hại đối với con người, và điều đó rất khó sửa chữa. Đó chính là tình trạng của thuyết tiến hóa hiện nay. Sau này tự đọc sách, tự suy ngẫm, tôi hiểu ra rằng chỗ thầy tôi chê Newton chính là chỗ để lộ thiên tài của Newton. Thiên tài hơn người tầm thường ở chỗ cảm nhận được cái gì là có thể, cái gì là không thể. Giải thích nguyên nhân đầu tiên là không thể! Nguyên nhân đầu tiên luôn luôn thuộc về Chúa. Tôi dám phát biểu điều đó như một định lý. Sự sống đầu tiên cũng vậy. Thuyết tiến hóa SAI vì nó bịa ra sự sống đầu tiên nẩy sinh từ “nồi soup nguyên thủy”. Hơn 150 năm sau vẫn không làm thế nào mà chứng minh được chuyện bịa này là sự thật. Thay vì thừa nhận chuyện bịa đó đã thất bại, các nhà tiến hóa lại bịa ra những giả thuyết mới, chẳng hạn giả thuyết về “thế giới RNA”, và cứ thế kéo một đám đông khờ dại cả tin đi theo họ. Đám đông này bị cuốn theo đống chữ nghĩa phức tạp hàn lâm mà cứ ngỡ đó là khoa học. Trong khi đó Newton rất tỉnh táo, ông không để cho ai có thể lung lạc được ông. Ông trả lời người chất vấn ông ngay tức khắc bằng một câu trả lời cần thiết nhất, dứt khoát nhất, như một bài học dạy cho người hỏi. Newton biết rõ ai tin Chúa, ai không tin. Hãy nghe ông nói: “Người suy nghĩ nửa vời sẽ không tin Chúa; nhưng người suy nghĩ thấu đáo sẽ phải tin Chúa” (He who thinks half-heartedly will not believe in God ; but he who thinks really has to believe in God).
Tôi đã thảo luận khá nhiều về Pascal trên tất cả những diễn đàn mà tôi từng tham gia, nhưng chưa bao giờ cảm thấy là đủ, vì nhiều lý do. Một, ông quá vĩ đại để có quá nhiều điều cho hậu thế học hỏi, bàn luận; Hai, ông là người Thiên Chúa giáo có Đức tin mãnh liệt, một nhà khoa học có uy tín lớn bênh vực Thiên Chúa giáo, vì thế ông bị giới vô thần ngấm ngầm chống đối bằng cách che đậy, tảng lờ các công trình của ông về triết học và thần học, sao cho càng ít người biết tư tưởng của ông càng tốt. Chính Pascal cũng biết điều đó. Ông nói: “Người ta khinh thường tôn giáo. Họ thù ghét nó nhưng sợ nó đúng” (Les hommes ont mépris pour la réligion. Ils en ont haine et peur qu’elle soit vraie). Vì thế tôi muốn giới thiệu với mọi người càng nhiều về Pascal càng tốt, nhất là về những gì bấy lâu nay ít người biết. Càng đọc Pascal, tôi càng ngạc nhiên và choáng ngợp vì tầm vóc và chiều sâu tư tưởng của ông. Ông chính là người đầu tiên chứ không phải Kurt Gödel đã thảo luận rất kỹ về tính hạn chế của toán học nói riêng và nhận thức lý lẽ nói chung. Đó là những công trình ông viết về cơ sở của Hình học, trong đó ông chỉ ra rằng không có cách nào để kiểm tra một hệ tiên đề là đầy đủ và tuyệt đối chắc chắn. Từ đó suy ra rằng toán học nói riêng và khoa học nói chung là không đầy đủ và không tuyệt đối chắc chắn. Nhận thức muốn vươn lên cao hơn, phải vận dụng “lý lẽ của trái tim” (la raison du Coeur), Pascal nói, “chính trái tim giúp ta nhận biết Chúa chứ không phải lý lẽ” (C’est le Coeur qui sent Dieu et non la raison). Nếu Gödel có gì khác Pascal, thì đơn giản là ông sinh sau đẻ muộn hơn Pascal gần 3 thế kỷ, và biến những luận điểm triết học khoa học của Pascal thành một định lý toán học không thể tranh cãi: Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong nhiều bài viết trên PVHg’s Home: “Lý lẽ của Trái tim” (La Raison du Cœur) ngày 05/12/2013, “LỬA của PASCAL” (PASCAL’s FIRE) ngày 16/12/2013; “VỀ TÍNH BẤT TOÀN: TỪ PASCAL ĐẾN GODEL (On the Incompleteness: From Pascal to Godel)” ngày 28/05/2015. Trong những bài đó, tôi đã trích dẫn một ý kiến của Pascal mà qua đó có thể thấy Pascal đánh giá thấp tư tưởng duy vật như thế nào: “Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của tinh thần, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de force d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).
Mendel là một tu sĩ Công giáo toàn tâm toàn ý, vì thế không có gì phải nghi ngờ Đức tin của ông đối với Chúa. Trong cuốn “Các nhà khoa học có Đức tin” (Scientists of Faith), Dan Graves nhận xét về Mendel như sau: “Mặc dù ông đọc Darwin, nhưng ông không chấp nhận nhiều lý thuyết của Darwin, vì ông tin rằng Chúa sáng tạo ra thế giới và sự ngẫu nhiên mù quáng không thể là lý do tạo ra thế giới…” (Although he read Darwin, he [Mendel] did not accept many of his [Darwin’s] theories, believing that God had created the world and blind chance could not be responsible for the outcome…) [1]. Chú ý rằng thuyết tiến hóa của Darwin nói rằng sự sống đầu tiên hình thành một cách ngẫu nhiên, mù quáng, vô mục đích từ vật chất không sống. Và đó là điều Mendel không thể nào chấp nhận được! Năm 1966, trong một hội nghị lớn tại Mỹ, các nhà toán học cũng thảo luận về xác suất để sự sống hình thành ngẫu nhiên từ các phân tử không sống. Hội nghị đã đi đến kết luận rằng xác suất này vô cùng nhỏ, nhỏ gần như bằng 0, và do đó sự sống không thể xẩy ra ngẫu nhiên. Nhà toán học Anh Fred Hoyle đặc biệt quan tâm tới thuyết tiến hóa, cũng đi đến kết luận rằng sự sống không thể hình thành từ “nồi soup nguyên thủy”. Mendel rất giỏi toán, không biết ông có nghĩ tới việc tính xác suất để phủ nhận Darwin hay không, nhưng trực giác thiên tài của ông đã đủ để ông bác bỏ Darwin. Xin lưu ý độc giả rằng thông tin Mendel bác bỏ Darwin bị giới tiến hóa che đậy trong hơn 150 năm qua. Hiện nay dưới ánh sáng internet, sự thật ngày càng được sáng tỏ. Từ đó tôi dám nói rằng ai đã thực sự ngưỡng mộ Mendel thì ắt phải bác bỏ Darwin. Trường phái “Darwin mới” (Neo-Darwinism) đã phải vội vàng kết hợp học thuyết di truyền của Mendel vào thuyết tiến hóa, nhưng thực chất đã phản lại chính Darwin, vì quan điểm về di truyền của Darwin hoàn toàn khác với các định luật di truyền của Mendel. Quan niệm di truyền của Darwin tiếp thu từ Lamark là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, nhưng giới tiến hóa che đậy sự thật này, giấu nhẹm sai lầm của Darwin. Nhưng không che giấu được những người ham hiểu biết. Chỉ cần vào Google, gõ “what did Darwin learn from Lamark?”, sự thật sẽ lộ ra ngay.
Nếu phải mô tả Pasteur bằng một câu ngắn nhất thì đó là : « Pasteur : Người con ưu tú của Chúa và ân nhân của nhân loại ». Giới vô thần không yêu mến Pasteur, vì ông có Đức tin Thiên Chúa giáo sâu sắc, và vì ông chống thuyết tiến hóa một cách rõ rệt. Tương tự như cách họ đối xử với Pascal, giới vô thần cố làm cho mọi người nhắc đến Pasteur càng ít càng tốt, đơn giản vì càng nhắc đến ông càng làm cho thuyết tiến hóa lộ diện là một lý thuyết ngụy khoa học. Đó là lý do vì sao người ta không tiếc lời ca ngợi Pasteur như cha đẻ của khoa học vi sinh (microbiology) và miễn dịch học (immunology), nhưngngười ra rất ít nói đến Pasteur như một nhà khoa học lớn khám phá ra những nguyên lý cơ bản của sự sống. Cụ thể người ta rất sợ nhắc đến hai định luật cơ bản của sự sống do Pasteur khám phá: Định luật sự sống bất đối xứng (thuận tay trái) và Định luật sự sống chỉ ra đời từ sự sống (biogenesis). Lẽ ra những định luật mang tính cơ bản này phải được dạy trong chương trình Sinh học ở trường phổ thông. Nhưng chỉ có những sinh viên đại học chuyên ngành mới được học. Tại sao họ sợ hai định luật đó? Vì cả hai đều phủ nhận thuyết tiến hóa khi thuyết này nói rằng sự sống hình thành một cách tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Chương trình Sinh học ở trường phổ thông phớt lờ hai định luật cơ bản này và tiếp tục nhồi nhét vào đầu học trò kiến thức sai lầm rằng sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống, mặc dù không làm thế nào mà chứng minh được nhận định đó. Khi học trò trở thành người lớn, rất khó để sửa chữa nhận thức sai lầm này, ngay cả khi được trông thấy những bằng chứng rành rành tố cáo sự gian lận của thuyết tiến hóa. Đó là một thảm họa. Tôi tin rằng đến một ngày nào đó, khi thuyết tiến hóa hoàn toàn bị xóa bỏ, công lao của Pasteur sẽ còn được đánh giá cao hơn nữa. Nhưng bản thân ông, ông biết rõ rằng thành công của ông là nhờ có may mắn – ông “có Chúa ở bên trong”. Thật vậy, ông nói: “Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.
Khi còn là học sinh, Poincaré đã được mệnh danh là “con quỷ toán học” (monstre de mathématiques). Ở tuổi trưởng thành, giới toán học gọi ông là « Mozart của toán học ». Tổng kết cả cuộc đời, giới bác học mô tả ông như “the last Universalist” (nhà đại quảng bác cuối cùng), bởi khó có thể tưởng tượng được bề rộng của những mảnh đất toán học và vật lý mà ông đã khám phá ra hoặc đặt chân tới, rồi để lại ở đó những dấu ấn sâu sắc, những di huấn, những tư tưởng, những bài toán khổng lồ cho hậu thế tiếp tục khai phá. Nhà toán học đàn em nhưng cùng thời với ông, Bertrand Russell, người nổi tiếng với Nghịch lý Russell, không tiếc lời ngợi ca Poincaré là “nhà toán học vĩ đại nhất đang còn sống”, bất chấp sự hiện diện của những nhà toán học lớn đương thời khác như David Hilbert,… Có thể quên công trình nào đó của Poincaré, nhưng không được phép quên ông là cha đẻ của Topo Đại số, cha đẻ của Giả thuyết Poincaré, người đầu tiên định hướng cho lời giải tổng quát của Bài toán Ba Vật thể (Problème à Trois Corps), người đặt nền móng cho Lý thuyết Hỗn độn (Theory of Chaos), đồng tác giả của Thuyết Tương đối hẹp, và đặc biệt, một nhà triết học khoa học nhìn xa trông rộng, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa toán học hình thức do Hilbert cầm đầu… Chỉ cần ghé qua tiểu sử khoa học của ông, một người trung thực không thể không có cảm giác khiếp sợ trước những công trình sáng tạo vĩ đại của ông, cả về số lượng lẫn tầm vóc khổng lồ về tư tưởng. Một người vĩ đại như thế mà vẫn biết rằng có Chúa, và Chúa chính là tác giả của những quy luật vũ trụ được diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học: “Nếu Chúa nói với con người, không nghi ngờ gì nữa rằng Ngài sử dụng ngôn ngữ toán học” (If God speaks to man, He undoubtedly uses the language of mathematics), Poincaré nói [2].
Là cha đẻ của Thuyết Lượng tử, Planck ắt hẳn phải là một nhà tư tưởng. Đối với ông, Chúa là nhu cầu tất yếu của cả tôn giáo lẫn khoa học. Ông nói: “Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến Đức tin vào Chúa để phụng sự cho hoạt động của mình, hơn nữa, tôn giáo cần có Chúa ngay từ lúc khởi đầu, khoa học cần đến Chúa vào lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo, Chúa là nền tảng, đối với khoa học, Chúa là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý lẽ nào liên quan đến vũ trụ quan” (Both religion and science need for their activities the belief in God, and moreover God stands for the former in the beginning, and for the latter at the end of the whole thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the crown of any reasoning concerning the world-view).
Einstein nổi tiếng là người hay nhắc đến Chúa như Đấng Sáng tạo vũ trụ và tác giả của các định luật vũ trụ. Ông yêu Cái Đẹp và Cái Trật tự say đắm đến nỗi tin chắc rằng Chúa bao giờ cũng ngay ngắn rõ ràng mạch lạc đẹp đẽ, Chúa không thể chơi trò may rủi ú tim nước đôi lập lờ. Vì thế ông chống đối Nguyên lý Bất định đến cùng, và điều đó làm rạn nứt tình bạn vốn có giữa ông với Niels Bohr. Mặc dù Chúa của Einstein không phải là Chúa của Thiên Chúa giáo, nhưng ông cho rằng niềm tin vào Chúa của ông, Đấng Sáng tạo, là điều ắt phải có đối với một nhà khoa học. Thậm chí ông coi đó là một tôn giáo đích thực. “Khoa học không có tôn giáo là khoa học khập khiễng; tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng” (Science without religion is lame; Religion without science is blind). Hóa ra Einstein đã phát biểu một chân lý rõ ràng rằng khoa học và tôn giáo rất cần thiết có nhau, bổ sung cho nhau, thay vì loại trừ nhau như chủ nghĩa duy vật tuyên bố. Nói cách khác, Einstein đã mặc nhiên bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học tôi càng tin vào Chúa” (The more I study science, the more I believe in God).
Sau khi Einstein và Bohr mất, Heisenberg được tôn vinh như nhà vật lý số 1 của thế giới. Ông đã phạm sai lầm lớn về chính trị khi làm giám đốc chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Hitler. Có lẽ việc này để lại trong lòng ông một nỗi hối hận suốt đời. Theo những gì tôi biết, ông là người ngây thơ về chính trị, nhưng ông không phải kẻ ác. Đây là vấn đề thuộc về lịch sử, đáng để cho những ai yêu lịch sử tìm hiểu kỹ. Nhưng về triết học và vũ trụ quan, ông là người vô cùng sâu sắc. Ông nhắn nhủ các nhà khoa học rằng: “Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học tự nhiên sẽ biến bạn thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc Chúa đang đợi bạn” (Der erste Trunk aus dem Becher der Naturwissenschaft macht atheistisch, aber auf dem Grund des Bechers wartet Gott). Đối chiếu câu nói này của Heisenberg với câu nói của Pasteur ở trên (mà tôi lấy làm tiêu chuẩn đo lường tri thức của các nhà khoa học), ta thấy hai câu nói giống nhau đến mức có thể nghĩ rằng “Heisenberg nhắc lại lời Pasteur chăng?”. Không! Đó là “tư tưởng lớn gặp nhau!” (Les grands esprits se rencontrent!)
Toàn bộ bài viết mà độc giả đang đọc có thể xem như một bình luận về tư tưởng của Gödel. Có lẽ Gödel là nhà khoa học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thẳng thắn nhất, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng ta đã thấy nhiều bậc tiền bối của Gödel có những suy nghĩ rất giống ông, điển hình là Blaise Pascal, hay sau này là Max Planck. Nhưng công lao và thiên tài của Gödel là ở chỗ ông đã biến tất cả những nhận định mang tính triết học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thành những định lý toán học không thể tranh cãi được. Thiết tưởng nếu không có Định lý Bất toàn của ông thì không biết những trường phái duy vật và vô thần như Hilbert sẽ còn làm mưa làm gió đến bao giờ. Bài báo “Gödel chứng minh Chúa hiện hữu (Gödel proved that God Exists)” trên PVHg’s Home ngày 17/09/2014 đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối đầy đủ về vũ trụ quan và tư tưởng triết học và thần học của Gödel. Nhưng sau khi trình bầy 14 quan điểm triết học của Gödel (nội dung bác bỏ chủ nghĩa duy vật và khẳng định sự cần thiết của Đức tin) bài báo đã kết luận bằng lời của Thánh Thomas Aquinas rằng “Đối với người có đức tin, không cần có sự giải thích nào cả. Đối với người không có đức tin, chẳng có lời giải thích nào là đủ” (To one who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is possible). Nhận định đó thật chí lý.
Kết
Cuối thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche tuyên bố: “Chúa đã chết!”. Tuyên bố này nổi tiếng đến nỗi được coi là cột mốc đánh dấu sự chuyển tiếp của nền văn minh nhân loại từ văn minh hữu thần sang văn minh vô thần, kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi nay.
Gần đây Richard Dawkins, một môn đệ trung thành nhất và mạnh miệng nhất của chủ nghĩa Darwin, nhắc lại tuyên bố của Nietzsche dưới một dạng thức nhấn mạnh hơn: “Chúa không chết. Chúa ngay từ đầu đã không bao giờ sống!” (God is not dead. He was never alive in the first place).
Stephen Hawking cũng mạnh miệng không kém. Ông tuyên bố nhân dịp ra mắt cuốn “Grand Design” (Thiết kế Lớn) năm 2013: “Big Bang không cần Chúa” (Big Bang didn’t need God), và “Vì có một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không…” (Because there is a law such as gravity, the universe can and will create itself from nothing…).
Rất may, uy tín khoa học của những người như Nietzsche, Dawkins hoặc Hawking không thể so sánh với 10 nhân vật vĩ đại trong bảng danh sách nói trên. Vì thế sức thuyết phục kém. Tuy nhiên những ý kiến này giúp chúng ta chiêm nghiệm câu nói của Thánh Thomas Aquinas. Vậy toàn bộ câu chuyện của chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì?
Câu trả lời nằm trong ý kiến sau đây của Nicolas Tesla, một thiên tài kỹ thuật trong thế kỷ 20:
“Quà tặng về sức mạnh tinh thần đến từ Chúa, Đấng Thiêng liêng, và nếu chúng ta tập trung suy nghĩ của chúng ta vào chân lý đó, chúng ta sẽ trở nên hòa hợp với sức mạnh vĩ đại đó. Mẹ tôi dạy tôi tìm mọi chân lý trong Kinh Thánh” (The gift of mental power comes from God, Divine Being, and if we concentrate our minds on that truth, we become in tune with this great power. My mother had taught me to seek all truth in the Bible).
Và Kinh Thánh nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”
Phạm Việt Hưng