Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Gödel: Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm!


PĐTT : Phát hiện về " phản vật chất " đã mở ra một hướng đi mới cho "triết học phương tây".Thiết nghĩ, nếu ta xem "phản vật chất " là vật chất có thuộc tính hủy diệt và " vật chất" là vật chất có thuộc tính sinh sôi nảy nở. Vũ trụ tồn tại bỡi 2 dạng vật chất này:  một luôn phá hủy., một luôn sinh sôi nảy nở không ngừng. Vòng sinh diệt bất tật này khiến vũ trụ ổn định. Phải chăng sự va chạm của " phản vật chất" và "vật chất" đã tạo ra vụ nổ Bingbang? Các hành tinh được hình thành và một số hành tinh mang mầm "vật chất"- (Sự sống) đã sinh sôi, nảy nở và phát triển? Vậy tư tưởng phải chăng cũng là "dạng vật chất"( sinh sôi nảy nở vô tận) đối  nghịch với " phản vật chất"?



Trong bài báo “Kurt Gödel: Chủ nghĩa duy vật là sai lầm”, TS John Spencer viết: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai”. Rồi Spencer đặt câu hỏi: “Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?”. Trong trường hợp này, hỏi tức là đã trả lời…

Lược sử tối giản của chủ nghĩa duy vật

Chủ nghĩa Duy vật là tư tưởng và học thuyết cho rằng toàn bộ thế giới hiện thực là vật chất và chỉ có vật chất mà thôi – không tồn tại bất cứ cái gì là phi vật chất hoặc siêu tự nhiên, không có Chúa, không có phép mầu,… Với chủ nghĩa duy vật, các khái niệm tưởng là phi vật chất như tư tưởng, tinh thần xét cho cùng cũng chỉ là sự biểu lộ của hoạt động vật chất.

Chủ nghĩa duy vật không phải là một hiện tượng mới mẻ. Nó vốn có từ xa xưa, ít nhất từ thời cổ Hy Lạp. Có lẽ ngay từ thời ấy nó đã tỏ ra kém cỏi trong khả năng giải thích thế giới nên Plato, một trong những cha đẻ của nền văn minh triết học và khoa học Tây phương, đã phải phê phán nó một cách gay gắt như đã dẫn trong bài báo của John Spencer nói trên. Đối với Plato, Cái Đẹp (The Beauty), Cái Thiện (The Goodness), Luật Đạo Đức (The Moral Law) là những giá trị phi vật chất nói lên sự hiện hữu của Chúa. Nếu không tin Chúa đã « thổi » tâm tính tốt đẹp vào con người thì sẽ rất khó giải thích vì sao con người có xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức, trong khi mọi tạo vật khác không có ý thức về những giá trị này (Chú ý rằng xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức hoàn toàn trái ngược với quy luật “đấu tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua” của thuyết tiến hóa Darwin).

Nhưng mặc dù chủ nghĩa duy vật đã có từ xa xưa, nó chưa bao giờ trồi lên mạnh mẽ như từ giữa thế kỷ 19 để trở thành một hệ tư tưởng khuynh đảo xã hội từ đó cho tới nay. May mắn thay, chính khoa học lại cung cấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chủ nghĩa duy vật không phải là một tiến bộ về nhận thức, mà hóa ra mà là một bước thụt lùi. Đó là lý do để giữa thế kỷ 20, đúng vào lúc chủ nghĩa duy vật lên đến tột đỉnh và các nhà duy vật đang ngạo nghễ đắc thắng, nhà toán học trứ danh Kurt Gödel đã hạ bệ nó bằng một tuyên bố chắc nịch: « Chủ nghĩa duy vật là sai lầm ! ».

Mãi đến cuối thế kỷ 20, khi Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness) của Gödel được thừa nhận một cách rộng rãi thì nhiều người mới bắt đầu giật mình tỉnh ngộ ra để nhìn nhận lại bản chất của chủ nghĩa duy vật. Tại sao vậy ? Vì định lý Gödel chỉ ra rằng chủ nghĩa duy vật, bao gồm logic máy móc và tư duy cơ giới thô thiển, đã tự bịt mắt trước sự thật – thế giới hiện thực rộng hơn thế giới nhận thức ; thế giới nhận thức rộng hơn tư duy khoa học; tư duy khoa học rộng hơn tư duy logic máy móc… Nói cách khác, có nhiều chân lý nằm bên ngoài thế giới nhận thức bằng thực chứng và logic – khoa học duy vật không bao giờ đủ để nhận thức được chân lý đầu tiên, chân lý cuối cùng và chân lý toàn thể. Muốn nhận thức sâu hơn và rộng hơn về thế giới, bắt buộc con người phải sử dụng nhiều phương pháp nhận thức khác nhau để tiệm cận tới chân lý. Những phương pháp nhận thức này tuy khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau, trong đó trực giác đóng vai trò định hướng dẫn đường.
Trực giác là gì nếu không phải ánh sáng của Chúa soi rọi vào mỗi con người ?

Albert Einstein là người nhấn mạnh đến trực giác nhiều nhất. Ông từng nói « Tư duy trực giác là quà tặng thiêng liêng… » (The intuitive mind is the sacred gift…). Quà tặng thiêng liêng đó là của ai, nếu không phải của Chúa ? Không thừa nhận sự thật này thì làm thế nào để giải thích sự hiện hữu của trực giác ? Computer vượt xa chúng ta về tốc độ và sức khỏe tính toán nhưng chỉ là một gã ngu đần khi đứng trước một vấn đề đòi hỏi trực giác. Chủ nghĩa duy vật không dám phủ nhận trực giác, nhưng nó lúng túng không biết làm thế nào để giải thích trực giác, vì thế nó nói bừa rằng đó là bản năng tự nhiên và nhờ “tiến hóa” mà có. Khái niệm “tiến hóa” là một khái niệm mơ hồ, bởi thực tế không bao giờ có một cơ chế tiến hóa nào có thể kiểm chứng được một cách cụ thể, rõ ràng.

Thực tế, trực giác là một trong những bí ẩn lớn nhất của tự nhiên – khả năng nắm bắt được bản chất sự vật một cách trực tiếp ngay tức khắc không thông qua lý luận. Trực giác có nhiều tầng khác nhau. Ở tầng thấp, một học trò có trực giác tốt sẽ định hướng lời giải của một bài toán hình học nhanh hơn những học trò có trực giác kém. Ở tầng cao, trực giác giúp Isaac Newton cảm thấy có lực hấp dẫn giữa các vật chất có khối lượng, Albert Einstein “nhìn thấy” quy luật tương đối chi phối tự nhiên, Louis Pasteur “cảm thấy” tính bất đối xứng của sự sống,… Ở tầng cao hơn nữa, nó giúp con người “nhìn thấy” những thế giới không nhìn thấy – thế giới siêu tự nhiên, phi vật lý, nơi phương pháp thực chứng và logic của khoa học hoàn toàn bất lực. Vì thế những thầy giáo giỏi không phải là những người truyền đạt giỏi, mà là những người giỏi đánh thức người học, giúp người học tỉnh thức để vận dụng trực giác sẵn có trong tâm mà thấu cảm chân lý, thay vì lý luận chứng minh. Đức Phật và Đức Chúa Jesus là những nhà truyền giảng và đánh thức vĩ đại. Câu nói bất hủ của Chúa Jesus, rằng “Phúc cho ai không thấy mà tin” là một lời đánh thức tất cả những ai muốn tìm chân lý, nhưng rất tiếc là có nhiều người không hiểu, thờ ơ với lời đánh thức đó. Nhưng những người như Kurt Gödel thì không như vậy. Lời nói quả quyết của ông, Chủ nghĩa duy vật là sai lầm, chứng tỏ ông là một người tỉnh thức hơn ai hết – ông phủ nhận chủ nghĩa duy vật và vô thần quyết liệt tới chừng nào.

Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều người hiểu Gödel hơn, và do đó ngày càng có nhiều người từ bỏ chủ nghĩa duy vật hơn. Tiến sĩ John Spencer, với tư cách một nhà triết học về vật lý lượng tử, đã ủng hộ Gödel bằng lập luận logic một cách mạnh mẽ đến nỗi phải trích dẫn Plato để phê phán chủ nghĩa duy vật như một thứ triết học tầm thường và ngoan cố. Lập luận của Spencer vừa mang tính khoa học vừa mang tính triết học.

Logic bác bỏ chủ nghĩa duy vật
Trong bài báo nói trên, Spencer lưu ý độc giả rằng : Kurt Gödel tuy không nổi tiếng như Albert Einstein, nhưng đừng quên rằng ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ 20, và là nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle; bản thân Einstein trong thời gian làm việc cùng với Gödel tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton đã từng công khai nói với mọi người rằng ông đến Viện nghiên cứu chỉ cốt để gặp gỡ trò chuyện với Gödel, rồi cùng đi bộ với Gödel về nhà; một bạn thân khác của Gödel tại đây là nhà toán học lừng danh John von Newman, một trong những cha đẻ của computer ngày nay.

Vậy điều gì đã làm cho một nhà khoa học bậc nhất như Gödel chối bỏ chủ nghĩa duy vật?

Spencer nói: “Chủ nghĩa duy vật, một thứ triết lý dựa trên tiên đề cho rằng chỉ có vật chất mới là cái có thật, đã trở thành nền tảng cố hữu không thể tranh cãi trong rất nhiều trường phái khoa học chính thống”.

Cái nền tảng ấy đã trở thành một xiềng xích trói buộc, một tảng đá đè nặng lên tư duy khoa học, cản trở tư duy sáng tạo đến nỗi nhà thần kinh học Mario Beauregard đã phải lên tiếng kêu gọi: “Nay đã đến lúc chúng ta phải tự giải phóng mình ra khỏi những xiềng xích trói buộc và những tấm vải che mắt của ý thức hệ duy vật cỗ lỗ sĩ” (It’s now time to free ourselves from the shackles and blinders of the old materialist ideology).

Thực ra những người tài giỏi thực sự không cần phải chờ đợi lời kêu gọi đó. Họ đã tự giải phóng mình từ lâu, đúng như Spencer nhận xét: “Trớ trêu thay, có một sự thật là nhiều nhà khoa học đi tiên phong trong khoa học hiện đại từ vài thế kỷ trước đây cho tới những nhà sáng lập cơ học lượng tử như Max Planck và Werner Heisenberg cũng đều bác bỏ chủ nghĩa duy vật”.

Ủng hộ lời kêu gọi của Mario Beauregard, John Spencer nêu lên một lập luận 9 điểm để bác bỏ chủ nghĩa duy vật:

1. Các định luật vật lý là nền tảng của tất cả mọi khoa học.
2. Các định luật vật lý là những quan hệ toán học.
3. Các quan hệ toán học phụ thuộc vào các con số.
4. Mọi con số được xây dựng từ 1 và 0 (“2” là 1 + 1, và zero là sự vắng mặt của mọi thứ)
5. Số 0 bản thân nó là phi vật lý (nó không đại diện cho bất kỳ một vật chất cụ thể nào cả).
6. Số 1 bản thân nó cũng phi vật lý. Có thể có 1 cái cây, 1 cái ôtô,… nhưng bản thân số 1 không phải cái cây hoặc cái ôtô (số 1 chỉ là một mã hoặc một thông tin).
7. Vì các số là “cái gì đó” phi vật lý, do đó các định luật vật lý thể hiện hoặc phụ thuộc vào cái gì đó phi vật lý.
8. Vậy buộc phải đi đến kết luận: hoặc a) các định luật vật lý là có thực nhưng phi vật lý, điều này cho thấy chủ nghĩa duy vật là sai; hoặc b) các định luật vật lý là phi hiện thực, điều này làm cho nền tảng của mọi khoa học trở thành phi hiện thực.
9. Bất chấp thắng lợi phi thường bề ngoài của khoa học, nếu nền tảng của khoa học là phi hiện thực thì rốt cuộc nó không thể cung cấp bất kỳ cơ sở nào cho chân lý khách quan trong hiện thực, và do đó không thể nói rằng chủ nghĩa duy vật phản ánh chân lý khách quan.

 

Lập luận trên đã được Spencer phát triển lên một trình độ sâu sắc hơn rất nhiều trong cuốn “The Eternal Law” (Định luật Vĩnh cửu), một cuốn sách tích hợp các tri thức triết học, khoa học và thậm chí cả tâm linh, rất đáng đọc, đã được nhà toán học và vật lý lỗi lạc Roger Penrose đánh giá là một cuốn sách làm cho người đọc cảm thấy “vô cùng khoan khoái” (enormously refreshing). Nhưng bất chấp ý kiến của những người như Penrose, các nhà duy vật vẫn ngoan cố cho rằng ngoài vật chất chẳng có bất cứ thứ gì khác. Spencer than phiền: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai. Vì thế người ta phải băn khoăn tự hỏi: Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?” [0].

Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).

Đó là một nhận định chính xác. Quan sát thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần đến Chúa; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.

Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên, vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức) – cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.

Người có cái tôi lớn thường không thừa nhận Chúa, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Chúa, thán phục Chúa. Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Chúa như thế nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau đây.

NHỮNG NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CÓ ĐỨC TIN VÀO CHÚA

1.Galileo Galilei (1564-1642) :

 
Việc Tòa án Giáo hội Công giáo La mã năm 1633 kết tội Galileo vì ông ủng hộ thuyết Nhật tâm đã trở thành một vết đen trong lịch sử Công giáo, đánh dấu một cuộc đối đầu không đáng có giữa khoa học và tôn giáo, để lại một hệ lụy vô cùng đáng tiếc cho tới tận hôm nay. Hệ lụy lớn là gây ra một sự hiểu lầm vô cùng tai hại rằng khoa học và tôn giáo là hai hệ thống nhận thức đối đầu nhau và loại trừ lẫn nhau từ trong bản chất. Hệ lụy nhỏ là gây ra sự hiểu lầm lớn rằng Galileo là người vô thần, chống đối tôn giáo. Cả hai hệ lụy đó đều bắt nguồn từ sai lầm của Tòa án Giáo hội năm 1633. Năm 1992, sau 13 năm nghiên cứu lại vụ án Galileo, Giáo hội Công giáo La mã dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Jean Paul II đã chính thức sửa chữa sai lầm của 359 năm trước: thừa nhận Tòa án Giáo hội sai và Galileo đúng, khôi phục lại mọi danh dự cho nhà khoa học chính trực Galileo Galilei. Đây là một quyết định dũng cảm, nhân bản, đề cao công lý, thể hiện rõ ý Chúa. Nhân dịp này báo chí thế giới cũng nói nhiều đến Galileo, qua đó cho thấy ông là người có Đức tin vững chắc. Thật vậy, ông tuyên bố: “Chúa được biết đến nhờ những công trình Ngài kiến tạo trong tự nhiên, và nhờ những lời dạy Ngài vén mở trong các kinh sách” (God is known by nature in His works, and by doctrine in His revealed word). Đối với Galileo, khoa học càng làm ông tin chắc vào vai trò sáng tạo của Chúa. Đây, hãy nghe ông nói: “Toán học là bảng chữ cái trong đó Chúa viết về vũ trụ” (Mathematics is the alphabet in which God has written the universe).

2.Isaac Newton (1643-1727) :

 

Newton nổi tiếng là một người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, vì thế ông cũng là người rất khiêm tốn, biết mình bé nhỏ và tầm thường trước Đấng Sáng tạo vĩ đại. Khi được hỏi làm thế nào để ông có thể khám phá được nhiều điều kỳ lạ đến thế, ông nói ông chỉ giống như một đứa trẻ dạo chơi ngoài bãi biển, say mê nhặt những vỏ sò đẹp, và mỗi khám phá của ông giống như một vỏ sò đẹp mà thôi. Khi ông khám phá ra Định luật Vạn vật Hấp dẫn rồi dùng nó để giải thích chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời, có người chất vấn ông: “Nếu không có chuyển động quán tính của hành tinh theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo thì hành tinh sẽ bị hút vào Mặt Trời, vậy chuyển động quán tính ấy từ đâu mà ra?”. Newton đáp ngay: “Đó là cú hích ban đầu của Chúa!”. Ngày xưa thầy dạy vật lý của tôi kể lại chuyện này cho học trò nghe rồi kết luận: “Newton rốt cuộc vẫn là người duy tâm”. Ý thầy chê duy tâm là kém. Lũ trẻ nhỏ chúng tôi đứa nào chẳng tin thầy? Sau này lớn lên tôi mới vỡ nhẽ ra rằng một nhận định sai của giáo dục một khi đã được nhồi nhét vào đầu trẻ em sẽ để lại một hậu quả vô cùng tai hại đối với con người, và điều đó rất khó sửa chữa. Đó chính là tình trạng của thuyết tiến hóa hiện nay. Sau này tự đọc sách, tự suy ngẫm, tôi hiểu ra rằng chỗ thầy tôi chê Newton chính là chỗ để lộ thiên tài của Newton. Thiên tài hơn người tầm thường ở chỗ cảm nhận được cái gì là có thể, cái gì là không thể. Giải thích nguyên nhân đầu tiên là không thể! Nguyên nhân đầu tiên luôn luôn thuộc về Chúa. Tôi dám phát biểu điều đó như một định lý. Sự sống đầu tiên cũng vậy. Thuyết tiến hóa SAI vì nó bịa ra sự sống đầu tiên nẩy sinh từ “nồi soup nguyên thủy”. Hơn 150 năm sau vẫn không làm thế nào mà chứng minh được chuyện bịa này là sự thật. Thay vì thừa nhận chuyện bịa đó đã thất bại, các nhà tiến hóa lại bịa ra những giả thuyết mới, chẳng hạn giả thuyết về “thế giới RNA”, và cứ thế kéo một đám đông khờ dại cả tin đi theo họ. Đám đông này bị cuốn theo đống chữ nghĩa phức tạp hàn lâm mà cứ ngỡ đó là khoa học. Trong khi đó Newton rất tỉnh táo, ông không để cho ai có thể lung lạc được ông. Ông trả lời người chất vấn ông ngay tức khắc bằng một câu trả lời cần thiết nhất, dứt khoát nhất, như một bài học dạy cho người hỏi. Newton biết rõ ai tin Chúa, ai không tin. Hãy nghe ông nói: “Người suy nghĩ nửa vời sẽ không tin Chúa; nhưng người suy nghĩ thấu đáo sẽ phải tin Chúa” (He who thinks half-heartedly will not believe in God ; but he who thinks really has to believe in God).

3.Blaise Pascal (1623-1662) :

 

Tôi đã thảo luận khá nhiều về Pascal trên tất cả những diễn đàn mà tôi từng tham gia, nhưng chưa bao giờ cảm thấy là đủ, vì nhiều lý do. Một, ông quá vĩ đại để có quá nhiều điều cho hậu thế học hỏi, bàn luận; Hai, ông là người Thiên Chúa giáo có Đức tin mãnh liệt, một nhà khoa học có uy tín lớn bênh vực Thiên Chúa giáo, vì thế ông bị giới vô thần ngấm ngầm chống đối bằng cách che đậy, tảng lờ các công trình của ông về triết học và thần học, sao cho càng ít người biết tư tưởng của ông càng tốt. Chính Pascal cũng biết điều đó. Ông nói: “Người ta khinh thường tôn giáo. Họ thù ghét nó nhưng sợ nó đúng” (Les hommes ont mépris pour la réligion. Ils en ont haine et peur qu’elle soit vraie). Vì thế tôi muốn giới thiệu với mọi người càng nhiều về Pascal càng tốt, nhất là về những gì bấy lâu nay ít người biết. Càng đọc Pascal, tôi càng ngạc nhiên và choáng ngợp vì tầm vóc và chiều sâu tư tưởng của ông. Ông chính là người đầu tiên chứ không phải Kurt Gödel đã thảo luận rất kỹ về tính hạn chế của toán học nói riêng và nhận thức lý lẽ nói chung. Đó là những công trình ông viết về cơ sở của Hình học, trong đó ông chỉ ra rằng không có cách nào để kiểm tra một hệ tiên đề là đầy đủ và tuyệt đối chắc chắn. Từ đó suy ra rằng toán học nói riêng và khoa học nói chung là không đầy đủ và không tuyệt đối chắc chắn. Nhận thức muốn vươn lên cao hơn, phải vận dụng “lý lẽ của trái tim” (la raison du Coeur), Pascal nói, “chính trái tim giúp ta nhận biết Chúa chứ không phải lý lẽ” (C’est le Coeur qui sent Dieu et non la raison). Nếu Gödel có gì khác Pascal, thì đơn giản là ông sinh sau đẻ muộn hơn Pascal gần 3 thế kỷ, và biến những luận điểm triết học khoa học của Pascal thành một định lý toán học không thể tranh cãi: Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong nhiều bài viết trên PVHg’s Home: “Lý lẽ của Trái tim” (La Raison du Cœur) ngày 05/12/2013, “LỬA của PASCAL” (PASCAL’s FIRE) ngày 16/12/2013; “VỀ TÍNH BẤT TOÀN: TỪ PASCAL ĐẾN GODEL (On the Incompleteness: From Pascal to Godel)” ngày 28/05/2015. Trong những bài đó, tôi đã trích dẫn một ý kiến của Pascal mà qua đó có thể thấy Pascal đánh giá thấp tư tưởng duy vật như thế nào: “Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của tinh thần, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de force d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).

4.Gregor Mendel (1822-1884) :

 

Mendel là một tu sĩ Công giáo toàn tâm toàn ý, vì thế không có gì phải nghi ngờ Đức tin của ông đối với Chúa. Trong cuốn “Các nhà khoa học có Đức tin” (Scientists of Faith), Dan Graves nhận xét về Mendel như sau: “Mặc dù ông đọc Darwin, nhưng ông không chấp nhận nhiều lý thuyết của Darwin, vì ông tin rằng Chúa sáng tạo ra thế giới và sự ngẫu nhiên mù quáng không thể là lý do tạo ra thế giới…” (Although he read Darwin, he [Mendel] did not accept many of his [Darwin’s] theories, believing that God had created the world and blind chance could not be responsible for the outcome…) [1]. Chú ý rằng thuyết tiến hóa của Darwin nói rằng sự sống đầu tiên hình thành một cách ngẫu nhiên, mù quáng, vô mục đích từ vật chất không sống. Và đó là điều Mendel không thể nào chấp nhận được! Năm 1966, trong một hội nghị lớn tại Mỹ, các nhà toán học cũng thảo luận về xác suất để sự sống hình thành ngẫu nhiên từ các phân tử không sống. Hội nghị đã đi đến kết luận rằng xác suất này vô cùng nhỏ, nhỏ gần như bằng 0, và do đó sự sống không thể xẩy ra ngẫu nhiên. Nhà toán học Anh Fred Hoyle đặc biệt quan tâm tới thuyết tiến hóa, cũng đi đến kết luận rằng sự sống không thể hình thành từ “nồi soup nguyên thủy”. Mendel rất giỏi toán, không biết ông có nghĩ tới việc tính xác suất để phủ nhận Darwin hay không, nhưng trực giác thiên tài của ông đã đủ để ông bác bỏ Darwin. Xin lưu ý độc giả rằng thông tin Mendel bác bỏ Darwin bị giới tiến hóa che đậy trong hơn 150 năm qua. Hiện nay dưới ánh sáng internet, sự thật ngày càng được sáng tỏ. Từ đó tôi dám nói rằng ai đã thực sự ngưỡng mộ Mendel thì ắt phải bác bỏ Darwin. Trường phái “Darwin mới” (Neo-Darwinism) đã phải vội vàng kết hợp học thuyết di truyền của Mendel vào thuyết tiến hóa, nhưng thực chất đã phản lại chính Darwin, vì quan điểm về di truyền của Darwin hoàn toàn khác với các định luật di truyền của Mendel. Quan niệm di truyền của Darwin tiếp thu từ Lamark là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, nhưng giới tiến hóa che đậy sự thật này, giấu nhẹm sai lầm của Darwin. Nhưng không che giấu được những người ham hiểu biết. Chỉ cần vào Google, gõ “what did Darwin learn from Lamark?”, sự thật sẽ lộ ra ngay.

5.Louis Pasteur (1822-1895):

 

Nếu phải mô tả Pasteur bằng một câu ngắn nhất thì đó là : « Pasteur : Người con ưu tú của Chúa và ân nhân của nhân loại ». Giới vô thần không yêu mến Pasteur, vì ông có Đức tin Thiên Chúa giáo sâu sắc, và vì ông chống thuyết tiến hóa một cách rõ rệt. Tương tự như cách họ đối xử với Pascal, giới vô thần cố làm cho mọi người nhắc đến Pasteur càng ít càng tốt, đơn giản vì càng nhắc đến ông càng làm cho thuyết tiến hóa lộ diện là một lý thuyết ngụy khoa học. Đó là lý do vì sao người ta không tiếc lời ca ngợi Pasteur như cha đẻ của khoa học vi sinh (microbiology) và miễn dịch học (immunology), nhưngngười ra rất ít nói đến Pasteur như một nhà khoa học lớn khám phá ra những nguyên lý cơ bản của sự sống. Cụ thể người ta rất sợ nhắc đến hai định luật cơ bản của sự sống do Pasteur khám phá: Định luật sự sống bất đối xứng (thuận tay trái) và Định luật sự sống chỉ ra đời từ sự sống (biogenesis). Lẽ ra những định luật mang tính cơ bản này phải được dạy trong chương trình Sinh học ở trường phổ thông. Nhưng chỉ có những sinh viên đại học chuyên ngành mới được học. Tại sao họ sợ hai định luật đó? Vì cả hai đều phủ nhận thuyết tiến hóa khi thuyết này nói rằng sự sống hình thành một cách tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Chương trình Sinh học ở trường phổ thông phớt lờ hai định luật cơ bản này và tiếp tục nhồi nhét vào đầu học trò kiến thức sai lầm rằng sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống, mặc dù không làm thế nào mà chứng minh được nhận định đó. Khi học trò trở thành người lớn, rất khó để sửa chữa nhận thức sai lầm này, ngay cả khi được trông thấy những bằng chứng rành rành tố cáo sự gian lận của thuyết tiến hóa. Đó là một thảm họa. Tôi tin rằng đến một ngày nào đó, khi thuyết tiến hóa hoàn toàn bị xóa bỏ, công lao của Pasteur sẽ còn được đánh giá cao hơn nữa. Nhưng bản thân ông, ông biết rõ rằng thành công của ông là nhờ có may mắn – ông “có Chúa ở bên trong”. Thật vậy, ông nói: “Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.

6.Henri Poincaré (1854-1912) :

 

Khi còn là học sinh, Poincaré đã được mệnh danh là “con quỷ toán học” (monstre de mathématiques). Ở tuổi trưởng thành, giới toán học gọi ông là « Mozart của toán học ». Tổng kết cả cuộc đời, giới bác học mô tả ông như “the last Universalist” (nhà đại quảng bác cuối cùng), bởi khó có thể tưởng tượng được bề rộng của những mảnh đất toán học và vật lý mà ông đã khám phá ra hoặc đặt chân tới, rồi để lại ở đó những dấu ấn sâu sắc, những di huấn, những tư tưởng, những bài toán khổng lồ cho hậu thế tiếp tục khai phá. Nhà toán học đàn em nhưng cùng thời với ông, Bertrand Russell, người nổi tiếng với Nghịch lý Russell, không tiếc lời ngợi ca Poincaré là “nhà toán học vĩ đại nhất đang còn sống”, bất chấp sự hiện diện của những nhà toán học lớn đương thời khác như David Hilbert,… Có thể quên công trình nào đó của Poincaré, nhưng không được phép quên ông là cha đẻ của Topo Đại số, cha đẻ của Giả thuyết Poincaré, người đầu tiên định hướng cho lời giải tổng quát của Bài toán Ba Vật thể (Problème à Trois Corps), người đặt nền móng cho Lý thuyết Hỗn độn (Theory of Chaos), đồng tác giả của Thuyết Tương đối hẹp, và đặc biệt, một nhà triết học khoa học nhìn xa trông rộng, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa toán học hình thức do Hilbert cầm đầu… Chỉ cần ghé qua tiểu sử khoa học của ông, một người trung thực không thể không có cảm giác khiếp sợ trước những công trình sáng tạo vĩ đại của ông, cả về số lượng lẫn tầm vóc khổng lồ về tư tưởng. Một người vĩ đại như thế mà vẫn biết rằng có Chúa, và Chúa chính là tác giả của những quy luật vũ trụ được diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học: “Nếu Chúa nói với con người, không nghi ngờ gì nữa rằng Ngài sử dụng ngôn ngữ toán học” (If God speaks to man, He undoubtedly uses the language of mathematics), Poincaré nói [2].

7.Max Planck (1858-1947):

 

Là cha đẻ của Thuyết Lượng tử, Planck ắt hẳn phải là một nhà tư tưởng. Đối với ông, Chúa là nhu cầu tất yếu của cả tôn giáo lẫn khoa học. Ông nói: “Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến Đức tin vào Chúa để phụng sự cho hoạt động của mình, hơn nữa, tôn giáo cần có Chúa ngay từ lúc khởi đầu, khoa học cần đến Chúa vào lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo, Chúa là nền tảng, đối với khoa học, Chúa là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý lẽ nào liên quan đến vũ trụ quan” (Both religion and science need for their activities the belief in God, and moreover God stands for the former in the beginning, and for the latter at the end of the whole thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the crown of any reasoning concerning the world-view).

8.Albert Einstein (1879-1955):

 

Einstein nổi tiếng là người hay nhắc đến Chúa như Đấng Sáng tạo vũ trụ và tác giả của các định luật vũ trụ. Ông yêu Cái Đẹp và Cái Trật tự say đắm đến nỗi tin chắc rằng Chúa bao giờ cũng ngay ngắn rõ ràng mạch lạc đẹp đẽ, Chúa không thể chơi trò may rủi ú tim nước đôi lập lờ. Vì thế ông chống đối Nguyên lý Bất định đến cùng, và điều đó làm rạn nứt tình bạn vốn có giữa ông với Niels Bohr. Mặc dù Chúa của Einstein không phải là Chúa của Thiên Chúa giáo, nhưng ông cho rằng niềm tin vào Chúa của ông, Đấng Sáng tạo, là điều ắt phải có đối với một nhà khoa học. Thậm chí ông coi đó là một tôn giáo đích thực. “Khoa học không có tôn giáo là khoa học khập khiễng; tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng” (Science without religion is lame; Religion without science is blind). Hóa ra Einstein đã phát biểu một chân lý rõ ràng rằng khoa học và tôn giáo rất cần thiết có nhau, bổ sung cho nhau, thay vì loại trừ nhau như chủ nghĩa duy vật tuyên bố. Nói cách khác, Einstein đã mặc nhiên bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học tôi càng tin vào Chúa” (The more I study science, the more I believe in God).

9.Werner Heisenberg (1901-1976):

 

Sau khi Einstein và Bohr mất, Heisenberg được tôn vinh như nhà vật lý số 1 của thế giới. Ông đã phạm sai lầm lớn về chính trị khi làm giám đốc chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Hitler. Có lẽ việc này để lại trong lòng ông một nỗi hối hận suốt đời. Theo những gì tôi biết, ông là người ngây thơ về chính trị, nhưng ông không phải kẻ ác. Đây là vấn đề thuộc về lịch sử, đáng để cho những ai yêu lịch sử tìm hiểu kỹ. Nhưng về triết học và vũ trụ quan, ông là người vô cùng sâu sắc. Ông nhắn nhủ các nhà khoa học rằng: “Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học tự nhiên sẽ biến bạn thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc Chúa đang đợi bạn” (Der erste Trunk aus dem Becher der Naturwissenschaft macht atheistisch, aber auf dem Grund des Bechers wartet Gott). Đối chiếu câu nói này của Heisenberg với câu nói của Pasteur ở trên (mà tôi lấy làm tiêu chuẩn đo lường tri thức của các nhà khoa học), ta thấy hai câu nói giống nhau đến mức có thể nghĩ rằng “Heisenberg nhắc lại lời Pasteur chăng?”. Không! Đó là “tư tưởng lớn gặp nhau!” (Les grands esprits se rencontrent!)

10. Kurt Gödel (1906-1978):

 

Toàn bộ bài viết mà độc giả đang đọc có thể xem như một bình luận về tư tưởng của Gödel. Có lẽ Gödel là nhà khoa học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thẳng thắn nhất, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng ta đã thấy nhiều bậc tiền bối của Gödel có những suy nghĩ rất giống ông, điển hình là Blaise Pascal, hay sau này là Max Planck. Nhưng công lao và thiên tài của Gödel là ở chỗ ông đã biến tất cả những nhận định mang tính triết học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thành những định lý toán học không thể tranh cãi được. Thiết tưởng nếu không có Định lý Bất toàn của ông thì không biết những trường phái duy vật và vô thần như Hilbert sẽ còn làm mưa làm gió đến bao giờ. Bài báo “Gödel chứng minh Chúa hiện hữu (Gödel proved that God Exists)” trên PVHg’s Home ngày 17/09/2014 đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối đầy đủ về vũ trụ quan và tư tưởng triết học và thần học của Gödel. Nhưng sau khi trình bầy 14 quan điểm triết học của Gödel (nội dung bác bỏ chủ nghĩa duy vật và khẳng định sự cần thiết của Đức tin) bài báo đã kết luận bằng lời của Thánh Thomas Aquinas rằng “Đối với người có đức tin, không cần có sự giải thích nào cả. Đối với người không có đức tin, chẳng có lời giải thích nào là đủ” (To one who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is possible). Nhận định đó thật chí lý.

Kết

Cuối thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche tuyên bố: “Chúa đã chết!”. Tuyên bố này nổi tiếng đến nỗi được coi là cột mốc đánh dấu sự chuyển tiếp của nền văn minh nhân loại từ văn minh hữu thần sang văn minh vô thần, kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi nay.

Gần đây Richard Dawkins, một môn đệ trung thành nhất và mạnh miệng nhất của chủ nghĩa Darwin, nhắc lại tuyên bố của Nietzsche dưới một dạng thức nhấn mạnh hơn: “Chúa không chết. Chúa ngay từ đầu đã không bao giờ sống!” (God is not dead. He was never alive in the first place).

Stephen Hawking cũng mạnh miệng không kém. Ông tuyên bố nhân dịp ra mắt cuốn “Grand Design” (Thiết kế Lớn) năm 2013: “Big Bang không cần Chúa” (Big Bang didn’t need God), và “Vì có một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không…” (Because there is a law such as gravity, the universe can and will create itself from nothing…).

Rất may, uy tín khoa học của những người như Nietzsche, Dawkins hoặc Hawking không thể so sánh với 10 nhân vật vĩ đại trong bảng danh sách nói trên. Vì thế sức thuyết phục kém. Tuy nhiên những ý kiến này giúp chúng ta chiêm nghiệm câu nói của Thánh Thomas Aquinas. Vậy toàn bộ câu chuyện của chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì?

Câu trả lời nằm trong ý kiến sau đây của Nicolas Tesla, một thiên tài kỹ thuật trong thế kỷ 20:

“Quà tặng về sức mạnh tinh thần đến từ Chúa, Đấng Thiêng liêng, và nếu chúng ta tập trung suy nghĩ của chúng ta vào chân lý đó, chúng ta sẽ trở nên hòa hợp với sức mạnh vĩ đại đó. Mẹ tôi dạy tôi tìm mọi chân lý trong Kinh Thánh” (The gift of mental power comes from God, Divine Being, and if we concentrate our minds on that truth, we become in tune with this great power. My mother had taught me to seek all truth in the Bible).

Và Kinh Thánh nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”

Phạm Việt Hưng

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

NHỮNG THỜI ĐIỂM LÀM BẠN HIỂU QUY LUẬT CUỘC ĐỜI!


Hàng ngày, chúng ta đều bận rộn với học hành, công việc mà quên mất rằng
cuộc sống vẫn đang trôi qua ngoài kia, với những quy luật khắc nghiệt của nó.
Sáu thời điểm sau là lúc bạn hiểu thấu những quy luật này!



1. Khi gặp hoạn nạn

Ngày thường, xung quanh ta là biết bao nhiêu anh em, bạn bè, ai cũng cười cười nói nói, thân thiết như chung một nhà. Đến khi ta gặp chuyện không may, có người nhiệt tình giúp đỡ, có người khoanh tay đứng nhìn, nhưng cũng không thiếu kẻ mượn gió bẻ măng. Bởi vậy, chỉ trong hoạn nạn, ta mới phân biệt được lòng người ngay giả, biết được ai là người quân tử, ai là kẻ tiểu nhân. Có như vậy, ta mới hiểu thế nào là “chọn bạn mà chơi”.

2. Khi lâm bệnh nặng

Chỉ khi nào ốm đau liệt giường, ta mới thấm thía hết tầm quan trọng của sức khỏe. Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của con người, những thứ khác đều chỉ đáng xếp sau. Nếu không có sức khỏe thì giàu sang, phú quý cũng đều là vô nghĩa.
Chính vì thế, chỉ khi thoát cơn bạo bệnh, con người mới học được cách trân trọng sức khỏe, cũng như coi nhẹ của cải vật chất – những thứ mà ngày thường ta vẫn điên cuồng theo đuổi.

3. Khi bị mất chức quyền

Khi ta ở đỉnh cao danh vọng, chức trọng quyền cao thì luôn được săn đón bởi
biết bao nhiêu người. Nhưng một khi quyền lực đã không còn trong tay thì
cục diện hoàn toàn thay đổi. Những kẻ xu nịnh trước kia, nay nhìn thấy ta cũng
coi như không quen biết. Những người tưởng chừng như anh em thân thiết bỗng
cũng hóa xa lạ, lạnh lùng.
Vì thế, dù có được công danh, bạn cũng đừng nên vội đắc ý trước những lời ngợi ca, tâng bốc. Hãy học cách sống khiêm nhường để không bị sự tự cao che mờ mắt, khiến ta trở nên ích kỷ và thiển cận.

4. Khi đã về hưu

Nhiều người sau khi về hưu mới có thời gian ngồi ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình.

Tham gia công tác nhiều năm, vì ham chức ham quyền mà cấp trên chèn ép
cấp dưới, vì muốn thăng quan tiến chức mà đồng nghiệp đấu đá lẫn nhau.
Thế nhưng, những thứ đạt được cũng chỉ là vật ngoài thân, người mất đi rồi
cũng chẳng mang theo được.
Dù là lãnh đạo hay nhân viên, cấp trên hay cấp dưới, đến cuối cùng chẳng phải
cũng đều về hưu sao? Sớm biết chẳng có gì khác nhau thì trước đây hà tất
phải tranh đấu? Hãy làm tốt việc của mình, đối xử chân thành với người khác,
đó mới là việc nên làm.

5. Khi rơi vào cảnh ngục tù


Con người có thể ngộ ra điều gì khi bị giam giữ trong bốn bức tường nhà ngục?
Đó chính là “ác giả ác báo”. Luật pháp không phải trò đùa, người làm việc xấu
sẽ phải đền tội, chỉ là quả báo đến sớm hay muộn mà thôi.
Nếu một người không chịu tu thân dưỡng tính, chỉ chuyên hãm hại người khác
để tư lợi cá nhân thì sẽ có ngày chịu sự trừng phạt. Giam giữ - hình phạt tưởng chừng như nhẹ nhàng nhất cũng chính là cách tước đoạt đi thứ quý giá nhất của con người, đó là sự tự do.

6. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng


Trớ trêu thay, lâm chung là lúc con người trở nên thông suốt nhất.
Cuộc đời này quá ngắn mà cũng quá dài. Mọi ân oán tình thù đều chỉ như mây khói, ta hà tất phải cố chấp với chúng mà không học cách buông bỏ?
Khi đã hiểu được đạo lý ấy cũng là lúc con người có thể nhắm mắt xuôi tay,
ra đi thanh thản.

(ST)

Có hai thứ….




Tác giả: Đức Dalai LaMa



+ Có 2 thứ bạn nên tiết kiệm, đó là sức khỏe và lời hứa.
+ Có 2 thứ bạn phải cho đi, đó là tri thức và lòng tốt.
+ Có 2 thứ bạn phải thay đổi, đó là bản thân và nhận thức.
+ Có 2 thứ bạn phải giữ gìn, đó là niềm tin và nhân cách.
+ Có 2 thứ bạn phải trân trọng, đó là gia đình và hiện tại.
+ Có 2 thứ bạn phải tự mình thực hiện, đó là lao động và chịu trách nhiệm với việc mình làm.
+ Có 2 thứ bạn phải lãng quên, đó là đau thương và hận thù.
+ Có 2 thứ bạn phải khắc ghi, là công ơn Mẹ Cha và sự giúp đỡ của người khác.
+ Có 2 thứ bạn buộc phải có để là người thành công, đó là đam mê và lòng kiên trì.
+ Có 2 thứ bạn không được làm, đó là hãm hại người khác và phản bội lòng tin.
+ Có 2 thứ bạn phải bảo vệ, đó là danh tín và lẽ phải.
+ Có 2 thứ bạn phải chấp nhận, là cái chết và sự khác biệt.
+ Có 2 thứ bạn phải kiểm soát, đó là bản năng và cảm xúc.
+ Có 2 thứ bạn phải tránh xa, đó là cám dỗ và sự ích kỷ.
+ Có 2 thứ bạn luôn phải sử dụng mà đừng hà tiện, là tiền bạc và kinh nghiệm.
+ Có 2 thứ bạn không được sợ sệt, là cái ác và sống thật.
+ Có 2 thứ bạn phải nuôi dưỡng, là tình yêu và sự bao dung.
+ Có 2 thứ mà bạn cần phải đạt được trong cuộc sống, đó là thành đạt và hạnh phúc.
+ Có 2 thứ bạn phải luôn sẵn sàng, đó là khó khăn và ngày mai.
+ Có 2 thứ bạn phải luôn ghi nhớ, đó là thực hiện những điều trên và làm thật tốt chúng trong cuộc sống hàng ngày.

Vấn nạn không nhà





Mỗi khi mùa đông về với mưa gió lạnh lẽo, thân phận kẻ không nhà lại được chú ý đến nhiều hơn. Trước dự báo thời tiết nhiệt độ sẽ xuống đến mức đông đá, chính quyền địa phương và các cơ quan tôn giáo, xã hội tìm phương tiện đưa những kẻ không nhà vào bên dưới một mái che để tránh cái lạnh có thể gây chết người.

Nhưng từ nhiều năm qua, đi tìm một giải pháp lâu dài cho vấn nạn người vô gia cư không phải dễ dàng. Nhiều thành phố lớn ở Mỹ, nhất là ở những tiểu bang ven biển của miền tây Hoa Kỳ vẫn có nhiều người sống lang thang trên đường phố, trong những ngõ ngách, không một mái nhà che thân.



Vùng Vịnh San Francisco cũng đang phải đối đầu với vấn nạn đó. Trên đường phố ở San Francisco, San Jose, Oakland vào những buổi sáng có nhiều người không nhà co ro trong đống mùng mền trên vỉa hè, hay còn đang ngủ trong lều dựng ở một góc dưới xa lộ là nơi khô ráo và ấm nhất vì che được mưa bão.



Số người vô gia cư ở San Francisco ước chừng hơn 6 nghìn. Khi được hỏi nguyên do phải ra đường sống, nhiều người đã từng phát biểu rằng họ phải sống lang thang vì không còn khả năng trả tiền thuê nhà quá cao. Mới đây một trung tâm dịch vụ giúp người không nhà và một dự án tân trang khu gia cư để cung cấp nhà giá rẻ cho người vô gia cư đã được mở ra.



Dự án này được chính phủ liên bang chú ý tới vì coi đó là tiến bộ trong cách làm giảm số người phải sống lang thang trên đường phố San Francisco.

Theo một báo cáo của chính phủ liên bang, số người vô gia cư đông nhất ở New York, Los Angeles, Seattle, San Diego. Quận hạt Santa Clara, là khu vực San Jose, đứng thứ 5 với số người không nhà gần 7 nghìn.

Riêng San Jose có chừng 4 nghìn người vô gia cư. Cũng vì giá thuê nhà quá cao mà sau khi mất việc nhiều người phải sống lang thang vì không thể trả nổi tiền nhà với mức trung bình 3 nghìn đô một tháng.



Đôi năm trước, chính quyền thành phố San Jose đã dẹp khu vực sống tập thể của cả nghìn người vô gia cư tụ tập dọc theo một con rạch. Một số người được cấp thẻ trợ cấp tìm chỗ ở để có thể sống tạm trong một thời gian, chờ có cơ hội tìm việc hoặc được trợ cấp của chính phủ để trở về đời sống bình thường. Nhiều người không biết đi đâu nên lại lang thang ngủ vỉa hè và ngay cả ở phía sau tòa thị chính.

Cách đây mấy hôm, thành phố San Jose đã có quyết định sẽ chọn một khu đất để những người không nhà có thể tụ tập về đó sinh sống cho được an ninh hơn. Khu đó sẽ ở chỗ nào thành phố chưa quyết định.

Thành phố Seattle của tiểu bang Washington đã cho phép dựng khu lều trại cho kẻ không nhà, sau khi mấy chục người sống lang thang bị chết vì thời tiết cũng như vì an ninh. Đây cũng là một giải pháp mới cho San Jose, sau nhiều cố gắng đưa ra phương án giúp 4 nghìn người vô gia cư đang sống lang thang trong thành phố để họ có một chỗ tạm cư yên ổn, thay vì nay cắm lều chỗ này, bị đuổi lại phải tìm chỗ cắm lều sống tạm ở chỗ khác.



San Jose là thủ đô của Thung lũng Điện tử. Quanh đây có trụ sở của Apple, Yahoo, Facebook, Google và nhiều công ty điện tử khác. Bên cạnh đó là vô số những công ty nho nhỏ với những phát minh công nghệ đang nằm chờ được giới tư bản bỏ tiền vào đầu tư để phất lên hay để được một công ty lớn mua lại.

Thung lũng Điện tử bao gồm các thành phố San Jose, Santa Clara, Sunnyvale có lương trung bình cho một công nhân ngành sản xuất cao nhất nước Mỹ, 145 nghìn đô một năm, theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu Brookings đưa ra năm 2012.

Bên cạnh đó là vùng San Francisco, Oakland, Freemont có mức lương sản xuất cao thứ ba trên toàn nước Mỹ, 92 nghìn đô một năm. Đứng nhì là vùng Bridgeport của tiểu bang Connecticut với 95 nghìn đô một năm.



Hai khu vực đứng nhất và thứ ba về mức lương cao ở Mỹ nằm trong vùng Vịnh San Francisco

Nhưng nơi đây cũng được biết đến là những thành phố có đông người vô gia cư sinh sống.

Du khách đến San Francisco, Oakland hay San Jose thường thấy những người vô gia cư sống lang thang bên lề đường. So sánh với các nước Bắc Âu hay với Úc và Canada, đây là một sự bất công, một nét không đẹp của xã hội Mỹ.

Ở vùng San Jose, vấn nạn người không nhà là hệ quả của việc chính phủ để những nhà đầu tư địa ốc phát triển những khu nhà sang trọng, giá bạc triệu, cùng lúc đẩy giá nhà trong khu vực tăng nhanh hơn mức lương của những công nhân làm việc tay chân. Thêm vào đó là sự kiện người nước ngoài, trong đó có nhiều người từ Trung Cộng và Việt Nam, đem tiền mặt qua đây đầu tư vào địa ốc khiến giá nhà tăng nhanh quá độ.



Một nghiên cứu của chính phủ cho biết, San Jose với một triệu cư dân, hiện cần 16 nghìn căn hộ với giá vừa túi tiền cho những công nhân bình thường, những người với lợi tức chừng 50 nghìn đô một năm, không cao như những người làm trong ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học hay tài chánh với mức lương trên 100 nghìn.

Không giải quyết được vấn đề nhà ở cho dân là thất bại của những người làm chính sách tại Hoa Kỳ khiến vấn nạn người vô gia cư ngày càng trở nên trầm trọng.

Nhật báo San Jose Mercury News hôm 7/12/2015, trong bài viết về quyết định của hội đồng thành phố chấp thuận thành lập một khu lều trại cho người vô gia cư có kèm tấm ảnh với hai người không nhà dựng lều ngủ ngay sân sau tòa thị chính, trong đó có một người Việt tên Tam Nguyen.



Không biết trong số người không nhà quanh vùng Vịnh San Francisco có bao nhiêu người Việt. Tôi tin là không nhiều vì người mình nếu kẹt tài chánh lắm cũng có thể xin trợ cấp xã hội, tìm một chỗ “share phòng” là cũng có nơi nghỉ lưng khi đêm về. Ban ngày đến nơi cung cấp những bữa ăn miễn phí là cũng tạm đủ no.

Cách đây mấy năm, không hiểu có những suy nghĩ gì và muốn giúp gì cho người vô gia cư ở vùng Vịnh San Francisco, Tổng Lãnh sự Việt Nam Lê Quốc Hùng vào dịp Tết Canh Dần 2010 đã đi thăm và tặng quà cho một số người Việt vô gia cư ở San Jose. Ông cho đó là công tác nằm trong việc tiếp xúc và tạo quan hệ tốt đẹp với mọi thành phần người Việt sinh sống ở nước ngoài, từ trí thức, thương gia đến người nghèo và cả người không nhà.

Báo chí trong nước đã đưa tin kèm hình ảnh về chuyến viếng thăm của nhà ngoại giao Việt Nam, chắc là để dân trong nước biết xã hội Mỹ cũng có nhiều người khổ lắm, chứ chẳng phải thiên đường gì đâu mà nhiều người Việt cứ mơ ước.


Bùi Văn Phú

Nguồn yêu từ trái tim ta




 Nguyễn Hoàng Đức
.


 

Có không ít người nghĩ, yêu là dại; thậm chí người ta còn đếm kỹ rằng: lấy người yêu ta thì sung sướng hơn lấy người ta phải yêu chết mê mệt. Nghe có vẻ đúng quá, bởi vì, như người ta nói: người yêu làm nô lệ, kẻ được người yêu là chủ nô…

Người đòi yêu người ta, giống các chàng trai vẫn nói, nàng thích thế nào chỉ cần một câu tôi cũng làm đúng như vậy. Trời ơi như người ta vẫn nói: “ Sông núi dễ đổi, bản tính khó thay”, vậy mà vì si mê chàng hoặc nàng sẵn sàng đòi thay đổi vô điều kiện để đẹp lòng người yêu, như vậy khác gì nô lệ muốn làm đẹp lòng ông chủ. Ở đời ai chẳng muốn được ăn trên ngồi trốc làm ông chủ, chẳng cần làm gì sẵn có người đến yêu mình cách si mê. Nhưng chúng ta thử nghĩ xem, một người vất vả chơi đàn cho người kia được ngồi duỗi chân duỗi tay, mắt lim dim nghe những âm thanh thánh thót, liệu có thể nghĩ rằng: người chơi đàn khổ hơn người nghe? Hay người chơi đàn là nô lệ còn người nghe là chủ? Không, ngược lại mới đúng, người chơi đàn có rất nhiều thứ, từ trình độ âm nhạc, đến việc làm chủ các kỹ thuật và cảm xúc, để hiến dâng cho đời âm thanh tuyệt diệu. Trái lại người nghe chỉ thụ động, lắng nghe tiếng đàn do người khác đem đến, như vậy liệu có là ông chủ?

Chúng ta vẫn biết có những tình yêu lý tưởng yêu người đến vong thân, như Chúa Jesus đóng đinh trên thập tự, hay Đức Phật Thích Ca bỏ cung điện vàng son vợ đẹp – cung tần cũng đẹp để lao vào chốn rừng thiêng nước độc đi tìm con đường giác ngộ cho chúng sinh. Ngài còn nói, ở đâu có một con ruồi còn khổ thì ta còn đến đó. Thật là một tình yêu hiến dâng bao la vô bến vô bờ. Tất nhiên sẽ có nhiều người nói rằng: ai mà bì được với Chúa với Phật, hơn nữa đó là tình yêu của Đạo, chứ đâu phải là tình yêu của đời. Không, nói như vậy là nhầm, bởi triết gia Kant phân tích rằng, tình yêu là lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức độ người ta hiến dâng cho người khác. Người đem đến cho người khác một lòng tốt nhỏ thì sẽ có một sự nghiệp đáng yêu nhè nhẹ; nhưng một người đem đến những hy sinh lớn nhất phải có cả sự đáng yêu cũng đáng trọng lớn. Chuyện thực, mới đây chúng tôi ngồi cùng một anh bạn trẻ mới lấy vợ được vài năm, anh ta nói như đinh đóng cột:

Các anh chị thử nghĩ xem, nếu một người chồng biết làm tròn các nghĩa vụ và bổn phận của mình, thì làm sao vợ con lại không trọng và phục.
– Vậy còn đáng yêu thì sao?
Có người hỏi: Anh ta liền trả lời không chút do dự:
– Với phụ nữ, đàn ông đáng trọng và đáng phục hẳn là đáng yêu!

Yêu người hạnh phúc hơn chờ người ta yêu mình, đó là một cách nghĩ phổ biến mà người phương Tây đã lột tả qua phương ngôn: “Bàn tay tặng đóa hồng tự nó thơm trước”. Quả là chí lý, khi bàn tay đem dâng đóa hồng cho ai đó, tự nó cầm hoa trước, hưởng thụ trước vẻ đẹp và sắc hương, và cuối cung nó đem trao tặng để có được “âm vang” của niềm hạnh phúc.

 Có câu chuyện rằng, một ngày có một người bị bắt oan tống giam vào ngục. Thế rồi cả ngày anh ta cau có, nguyền rủa, chửi bới hết người này đến người kia. Càng chửi càng tức, càng tức càng chửi, khuôn mặt của anh mỗi ngày một cau có hơn. Ít lâu sau, chợt người bạn cùng giam nói với anh ta: này anh, anh chửi vậy có ai nghe thấy không, hay là phòng giam chật hẹp phản lại những âm thanh chói nhĩ hành hạ chính anh? Giờ thì anh thử hát lên, xem những âm thanh nào vọng đến tai anh? Hãy tin rằng, luật đời không bằng luật trời, nếu ai đó bắt giam anh cách bất công sẽ có luật trời xét lại. Kể từ đó, anh ta cất tiếng hát, và những bức tường phản lại những lời ca, lòng anh thấy hân hoan và bình yên kỳ lạ. Một ngày viên quan giám báo với cấp trên xem lại vì phạm nhân này sống vui vẻ ung dung tự tại theo kiểu “cây ngay không sợ chết đứng” và anh được thả.

Đây là một câu chuyện biểu tượng mà người ta nói: Tình yêu giống như cây vậy. Nếu ta đem đến tình yêu những lời oán trách sỉ vả não nề, thì những “bức tường” của tình yêu cũng sẽ đập lại tâm hồn ta oán trách sỉ vả, não nề. Còn nếu ta đem đến cho tình yêu những tiếng hát dịu dàng hân hoan say đắm và dâng hiến thì tình yêu cũng đập vách tâm hồn ta những niềm hân hoan đó. Đó chính là những nguyên lý xuyên suốt của tình yêu từ Đạo đến Đời.

Tình yêu đầu tiên phải khởi từ mình, chúng ta hãy cùng nhớ lại câu nói của người phương Tây, bàn tay tặng đóa hồng tự nó thơm trước. Đức Phật cũng nói rằng: trước hết phải Giác Thân rồi sau mới Giác Tha. Nghĩa là trước hết người ta cần tự giác ngộ mình sau đó mới có thể giác cho người khác. Tình yêu giản dị như người ta nói “đồng thanh tương ứng”, nếu ta chưa phải là một cây đàn phát ra âm thanh thì sao có thể đòi hỏi cây đàn của trái tim người khác rung theo tiếng nhạc? Người phương Tây quan niệm về tình yêu như sau: “Hãy chăm sóc người khác, Thương đế sẽ chăm sóc bạn”. Nghĩa là bạn hãy xuất phát yêu người khác, chớ có sợ thiệt, vì có thể Thượng đế “trả nợ” tình yêu cho bạn. Kinh thánh còn có câu “Người đong đấu vào ta ta sẽ đóng trả người bằng đấu ấy”. Nếu ta yêu người nhỏ giọt , ta cũng sẽ nhận lại sự nhỏ giọt, nếu ta đong ống bơ thì sẽ nhận lại ống bơ, đong thúng sẽ nhận lại thúng và đong như hải hà thì sẽ nhận lại hải hà. Một cách tương tự người Việt cũng quan niệm:

Xởi lởi trời cởi cho
So đo trời co lại


Hay là: “Có đức mặc sức mà ăn”. Tình yêu là tài sản quý giá nhất của trái tim, vậy thì khi ta đem tài sản đó đầu tư vào ngân hàng của trái tim người, chớ sợ lỗ, mà ta sẽ nhận được cả vốn lẫn lãi.

Có một lời thoại trong phim Hàn Quốc mới đây chiếu trên truyền hình, cô gái nói thẳng vào mặt chàng trai:
– Hôn nhân cũng chỉ là cuộc làm ăn.
Chàng trai lại đứng dây thẳng thắn không kém:
– Cứ cho là cuộc làm ăn đi, vây thì cô đã là được những gì?
Cô gái im bặt.

Theo cách đó, chàng trai muốn nói rằng, cho dù hôn nhân có là cuộc kinh doanh, thì người ta cũng phải biết bỏ vốn đầu tư, phải có chữ tín, phải biết thực hiện đúng theo hợp đồng, và phải chịu các điều khoản chế tài của pháp luật. Vậy thì người trong cuộc đã tìm được cái gì? Trong kinh doanh, có thể người ta luôn buôn một bán mười, nhưng nhất khoát không thể đòi tay không bắt tỷ phú. Vậy mà trong tình yêu hôn nhân vẫn có quá nhiều kẻ tham lam muốn tay trắng nổi cơ đồ hay tay không bắt giặc. Chính thế mà cũng còn quá nhiều người sợ bước vào trận đồ bát quái của tình yêu. Người ta cho rằng, làm kinh doanh còn có pháp luật bảo hiểm chứ trong tình yêu trái tim không có mảnh giáp chở che biết lấy gì bảo hiểm khi đối phương dùng đủ các mồi câu, lưỡi bẫy, và dù không mở. Bạn chớ có lo, người Việt vẫn bảo: “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà hay Thật thà là cha quỷ quái”. Nếu ta đem đến tình yêu đích thực cho đời, không chỉ có ta và nàng với nhau , mà có trời biết đất biết, thánh thần biết, người ta biết, nên “gieo cây nào sẽ hái quả ấy” chớ lo gieo cây đào lại hái phải cây sung. Người Trung Quốc quả quyết đó là luật “Quả báo”, nghĩa là người ta yêu đời sẽ được đời đáp trả tình yêu , ghét đời sẽ hái được quả ghét, chẳng thể tránh được. Tình yêu chẳng bao giờ thiệt, lại cũng chẳng bao giờ sai, chỉ có điều ngược lại mới sai. Vậy thì ta còn chờ gì mà không mở lòng với tình yêu

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Tư duy về giáo dục




Bạn đang là học sinh trung học? Bạn đang là sinh viên của một trường Đại học nào đó? Bạn đã tốt nghiệp với đủ các bằng cấp trong tay? Bạn đang là nhân viên, trưởng nhóm hay giám đốc cho một công ty, một tập đoàn nào đó?
Bạn có hài lòng với kiến thức bạn đang có? Bạn có hài lòng với những gì nhà trường, cha mẹ vàxã hộitrao cho bạn? Bạn nghĩ rằng mình đủ kiến thức và kỹ năng để tự nuôi sống bản thân?... Và nói chung bạn hài lòng với cuộc sống hiện tại của bạn?

Nếu câu trả lời của bạn là CÓ, bạn không cần phải đọc những gì tôi viết nữa. Bài viết của tôi không dành cho bạn. Bài viết của tôi chỉ dành cho những câu trả lời KHÔNG. Bài viết của tôi chỉ dành cho những ai đang thao thức với nền giáo dục nước nhà nói chung và tự giáo dục chính mình nói riêng.






Giáo dục là gì?Tôi sẽ không đi vào phân tích chữ nghĩa một cách hàn lâm. Ngắn gọn nhất có thể, tôi xin thưa với bạn rằng,GIÁO DỤC LÀ QUÁ TRÌNH TRƯỞNG THÀNH.Môi trường giáo dục chính là môi trường NUÔI DƯỠNG.


Nuôi dưỡng cái gì?Nuôi dưỡng chất NGƯỜI trong bạn.

Tại sao phải nuôi dưỡng?Tại vì chất NGƯỜI là bông hoa nằm trongCON NGƯỜI bạn. Nuôi dưỡng là ấp ủ, là phát triển, là làm lớn lên cái chất NGƯỜI còn đang tiềm ẩn trong con người bạn, ngay từ khi bạn còn đang nằm trong tử cung của lòng mẹ

Mục đích của nuôi dưỡng là gì?Là TRƯỞNG THÀNH. Trưởng thành được hiểu theo nghĩa, ngày hôm nay phải tốt hơn ngày hôm qua, và ngày mai phải tốt hơn ngày hôm nay.

Thế nào là TỐT hơn?Ấy là ngày hôm qua bạn không hài lòng về nó, bạn còn mù mờ về nó, bạn còn sợ hãi về nó, thì ngày hôm nay bạn BỚT mù mờ, vụng về, sợ hãi... đi. NÓ ở đây là ý thức, là lời ăn tiếng nói, là mọi hoạt tác trong quá trình tồn tại của bạn.

Vậy là, với cách hiểu như vậy về giáo dục, bạn không cần phải là học sinh, phải là sinh viên, phải là học viên hay nghiên cứu sinh thì mới sống trong môi trường giáo dục. Mỗi chúng ta, ai cũng đang sống trong môi trường giáo dục nào đó, hoặc là trường lớp, hoặc là trường đời, hoặc là từ thầy cô cha mẹ, hoặc là từ bạn bèxã hội, hoặc là từ khả năng quan sát học hỏi từ người khác, hoặc là từ kinh nghiệm của chính bạn.


***


Nền giáo dục hiện nay của chúng ta có gì?


Thứ nhất,ta chỉ nghĩ khi nào đến trường, vào lớp, học một bộ môn khoa học hay ngành nghề nào đó thì ta mới cần đến giáo dục. Với quan niệm như vậy, chúng ta đang đến trường, học nghề hay một bộ môn nào đó chỉ để đơn giản đáp ứng cái mục đích nhất thời hay một kỹ năng tác nghiệp cụ thể.

Thứ hai,khi ta thu hẹp phạm vi giáo dục vào một không gian nhất định như vậy, thì nghiễm nhiên sau khi tốt nghiệp hay kết thúc môn học, mỗi chúng ta tự coi như đã thoát qua cửa ải, không cần BỊ giáo dục, không cần PHẢI tiếp thu thêm những gì mình có.

Thứ ba,với nhận thức chung về giáo dục trong một không gian hẹp, các bậc phụ huynh, học sinh và mỗi chúng ta, sẽ đẩy hết trách nhiệm, nghĩa vụ cho những người tạm được coi là làm công tác CHUYÊN MÔN về giáo dục, như các nhà viết sách giáo khoa, các nhà quản lý giáo dục, và đặc biệt là những người được gọi là THẦY CÔ.

Thứ tư,khi hiểu giáo dục, theo nghĩa là cung cấp kỹ năng chuyên môn cho một lĩnh vực cụ thể, thì bất kỳ cuộc cải cách đổi mới nào, từ sách giáo khoa, cách kiểm tra bài, thi cử, cách dạy và học, não trạng sính bằng cấp... sẽ chỉ là những cuộc cải lương không hơn không kém.


***


Tôi đề nghị muốn đổi mới toàn diện nền giáo dục nước nhà, trước hết phải bắt đầu từ Ý NIỆM VỀ GIÁO DỤC

Thứ nhất,giáo dục không chỉ là cung cấp kỹ năng chuyên môn cho một ngành nghề nào đó, mà nó còn là LÀM NẢY MẦM và NUÔI DƯỠNG hạt giống NGƯỜI trong mỗi cá nhân. Thế thì không đợi phải đến tuổi cắp sách đến trường,con người mới CẦN ĐẾN giáo dục, và cũng không phải sau khi tốt nghiệp,con người KHÔNG CẦN ĐẾN giáo dục nữa.

Thứ hai,mỗi cá thể, ngay từ khi còn nằm trong tử cung của người mẹ, đã mang GENCON NGƯỜI, và vì thế nghiễm nhiên có chất NGƯỜI. Thay vì giáo dục từ nhỏ, ta phải giáo dục ngay từ khi người mẹ biết mình đang mang thai đứa con.

Thứ ba,giáo dục có tính chất rộng lớn như vậy, nên GIA ĐÌNH, cụ thể là CHA và MẸ chính là những người THẦY đầu tiên của mộtcon người. Trách nhiệm giáo dục một cá nhân, thuộc về TOÀNXÃ HỘI, không chỉ của riêng bất cứ người nào.

Thứ tư,với mỗi chúng ta, khi hiểu GIÁO DỤC là QUÁ TRÌNH TRƯỞNG THÀNH, nghĩa là nó song hành tồn tại cùng ta từ khi chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Vậy thì, HỌC HỎI từ người khác để TỰ GIÁO DỤC chính mình là một công việc thường trực, và thời gian ngồi trên ghế nhà trường chỉ đơn giản là đầu tư nhiều thời gian hơn những lúc khác.







Trở lại với phạm vi hẹp của giáo dục, ý tôi muốn nói là trong phạm vi nhà trường. Hiện nay có những bất cập gì?


Thứ nhất,học sinh đến trường là tìm kỹ năng tác nghiệp cho một ngành nghề cụ thể. Bất cập lớn nhất chính là mỗi cá nhân được giáo dục, đơn giản chỉ còn là một mắt xích trong một dây chuyền nào đó của một cỗ máy. Kỹ sư chỉ biết công việc chế tạo máy, nhà khoa học chỉ biết bốn bức tường của phòng thí nghiệm...


Thứ hai, xã hội chỉ nhìn một cá nhân nào đó qua bằng cấp anh ta thu lượm được. Bất cập lớn nhất chính là khiến mỗi cá nhân, khi đi học, chỉ chăm chăm học cho nhanh cho chóng để được cầm mảnh bằng trên tay, đôi khi chẳng biết làm gì với mảnh bằng đó, ngoài việc đóng khung treo giữa nhà nhằm khoe với bạn bè, bà con lối xóm.

Thứ ba,với định hướng và áp lực của các nhà chính trị, quyền lực và lợi ích giai cấp tham gia quá sâu vào quá trình biên soạn sách giáo khoa. Bất cập lớn nhất là, như chúng ta đã biết, nói đến lợi ích giai cấp là nói đến lợi ích chủ quan của một nhóm người hay một cộng đồng người trong một không - thời gian nhất định, trong khi, bản chất của chân lý, chúng vượt ra khỏi những giới hạn chủ quan đó. Thế nên, sách vở không còn là nơi nói ra SỰ THẬT, mà là nơi nói đến LỢI ÍCH. Sách khoa học trở thành sách tuyên truyền nhằm biện hộ cho những lý do cầm quyền của giai cấp lãnh đạo.

Thứ tư,các nhà giáo, với tư cách là công nhân viên chức nhà nước, thay vì TRUYỀN THỤ lại kiến thức, kinh nghiệm của mình và HỖ TRỢ, HƯỚNG DẪN cho thế hệ hậu học, họ lại trở thành chiếc máy phát thanh cho một đường lối nào đó.


Thứ năm,về PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC, do ảnh hưởng bởi quan điểm GIÁO DỤC là TUYÊN TRUYỀN, nó tác động đến tư duy tiếp nhận của người học, cách thức truyền trao của giáo viên, cách đánh giá năng lực của người học. Cụ thể, HỌC SINH trở thành CON CỪU trong trường lớp mà người CHĂN CỪU chính là THẦY CÔ, người khoanh vùng chăn cỏ là NHỮNG NGƯỜI BIÊN SOẠN SÁCH GIÁO KHOA và cấp cao nhất của nó chính là NHÀ NƯỚC. Điển hình rõ nét nhất cho tư duy trên, chính là: học sinh coi TẤT CẢ những gì thầy cô nói là CHÂN LÝ, và người cung cấp CHÂN LÝ đó không ai khác hơn là NHÀ NƯỚC, NGƯỜI VIẾT SÁCH GIÁO KHOA VÀ THẦY CÔ GIÁO.


***


Tôi xin kiến nghị năm điểm đổi mới sau, từ năm bất cập mà tôi đã nêu:

Thứ nhất,giáo dục phải TOÀN DIỆN. Một con người không phải chỉ là một kỹ sư, một kinh tế gia, một nhà quản lý hay một nhà khoa học. Kiến thức toàn diện là kiến thức về TỰ NHIÊN, về XÃ HỘI và về CON NGƯỜI. Thiếu một trong những kiến thức đó, dù anh có là ai, anh vẫn chỉ là một kẻ KHUYẾT TẬT, khuyết tật với tư cách một con người.

Thứ hai, năng lực là quá trình phát triển trong khi bằng cấp chỉ là một tờ giấy khô cứng. Thay vì quan tâm đến bằng cấp, hãy quan tâm đến NĂNG LỰC. Có bằng cấp chưa chắc đã có năng lực, nhưng có năng lực chắc chắn anh ta dư thừa khả năng có bằng cấp. Vì thế,xã hội và mỗi người, thay vì nhìn một ai đó qua mảnh bằng, hãy nhìn vào năng lực tác động đến tự nhiên, xã hội và chính cuộc sống của anh ta. Đó là một thứ bằng cấp linh động nhất có thể mà không ai có thể trao cho.

Thứ ba,nhà nước và các nhà quản lý nên nhìn giáo dục như là quá trình KHAI SÁNG DÂN TRÍ.Thế nào là khai sáng dân trí?nghĩa là mở mang tầm nhìn cho công dân của mình, vượt ra khỏi những giới hạn của vùng cỏ mà mình đang quản lý. Chân lý có tính cách khách quan, vượt lên trên mọi lợi ích giai cấp, thế nên, thay vì ÁP ĐẶT nội dung giảng dạy, hãy là nơi BẢO VỆ và NUÔI DƯỠNG môi trường giáo dục thật sự KHÁCH QUAN.

Thứ tư,các thầy cô giáo, thay vì là cái máy phát thanh, hãy đặt mình là NGƯỜI HỌC, chỉ khác những người ngồi ở dưới ở chỗ họ là những NGƯỜI HỌC TRƯỚC. Tất cả đều là người học, thế thì giáo viên lẫn học sinh đều có thể học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng TRƯỞNG THÀNH.

Thứ năm,về phương pháp dạy và học. Khi ta thay đổi được tư duy về bốn điều trên, thì bất kỳ phương pháp nào cũng trở nên hữu hiệu. Học sinh không còn là con cừu để bị chăn dắt, mà là NGƯỜI TÌM KIẾM. Giáo viên không còn là người chăn cừu với nhiệm vụ cung cấp chân lý, mà là người HỖ TRỢ TÌM KIẾM và đồng thời cũng là NGƯỜI TÌM KIẾM. Sách giáo khoa không còn là nơi tuyên ngôn CHÂN LÝ mà chỉ là cánh đồng cỏ bát ngát xanh, cung cấp một nguồn LƯƠNG THỰC dồi dào, một nguồn TƯ LIỆU tham khảo phong phú cho người tìm kiếm QUAN SÁT, HỌC HỎI, TIẾP NHẬN, SUY TƯ, TRẢI NGHIỆM VÀ SÁNG TẠO.





VÀ ĐIỀU CUỐI CÙNG TÔI MUỐN CHIA SẺ CÙNG BẠN
Ấy là ĐỪNG ĐỢI bất kỳ một cuộc cách mạng nào, từ bất kỳ ai
Hãy CÁCH MẠNG CHÍNH MÌNH, bắt đầu bằng tư duy TỰ GIÁO DỤC


GIÁO DỤC LÀ QUÁ TRÌNH TRƯỞNG THÀNH
VÀ MỤC ĐÍCH TỐI CAO CỦA NÓ LÀ
KHAI SÁNG CHÍNH MÌNH KHỎI VÔ MINH VÀ SỢ HÃI



Tái bút: Xin đừng đổ thừa cho bất kỳ ai, tôi hoàn toàn sống trong nền giáo dục Việt Nam và tôi tự hào với những điều đã được dạy. Tuy vậy, tôi vẫn tự tin tuyên bố rằng, mình không phải là viên gạch trong cái khuôn đúc đó.



Read more:http://www.suynghiem.vn/2013/09/tu-duy-ve-giao-duc.html#ixzz3uxB8aC51

Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

Bức thư tuyệt vời của CEO Facebook gửi con gái




"Chúng ta phải kiếm được những khoản đầu tư dài hạn cho 25, 50 năm hay thậm chí là 100 năm nữa. Thách thức lớn nhất này đòi hỏi những tầm nhìn lâu dài và không thể được giải quyết bằng tư duy ngắn hạn".

Bức thư gửi con gái mới sinh một tuần của tỷ phú Mark Zuckerberg -CEO Facebook được đăng tải trên trang cá nhân, không chỉ là tình yêu thương dành cho con gái, mà còn là những khát vọng, sứ mệnh và trách nhiệm và vợ chồng tỷ phú trẻ đặt ra cho mình, để “biến thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn cho con và cho tất cả trẻ em”.


Vợ chồng tỷ phú Zuckerberg và con gái đầu lòng

Dưới đây là toàn văn bức thư của tỷ phú Mark Zuckerberg gửi con gái:
Max thân mến,
Mẹ con và ta vẫn chưa tìm ra lời nào để diễn tả những hi vọng mà con đã trao cho chúng ta về tương lai. Cuộc sống mới của con đầy hứa hẹn, và chúng ta hi vọng con sẽ hạnh phúc và khỏe mạnh để có thể khám phá đầy đủ cuộc sống này. Con đã cho chúng ta một lý do để suy ngẫm về thế giới mà chúng ta mong muốn con được sống.
Giống như tất cả các ông bố bà mẹ khác, chúng ta muốn con lớn lên trong một thế giới tốt đẹp hơn thế giới của chúng ta bây giờ. Trong khi báo chí thường tập trung vào những thứ tiêu cực thì theo nhiều cách thế giới này đang trở nên tốt đẹp hơn. Sức khỏe được cải thiện. Đói nghèo giảm bớt. Kiến thức ngày càng rộng mở. Con người kết nối với nhau. Công nghệ tiên tiến ở mọi lĩnh vực đồng nghĩa với việc cuộc sống của con sẽ tốt hơn rất nhiều so với chúng ta hôm nay.
Chúng ta sẽ làm phần việc của mình để điều này xảy ra, không chỉ bởi vì chúng ta yêu con, mà còn vì chúng ta có trách nhiệm với tất cả trẻ em của những thế hệ kế tiếp.
Chúng ta tin rằng cuộc sống của tất cả mọi người đều có những giá trị như nhau. Xã hội chúng ta có trách nhiệm đầu tư để cải thiện cuộc sống của tất cả những sinh linh đang đến với thế giới này, chứ không chỉ cho những người đang sống.
Nhưng ngay lúc này, con người không phải lúc nào cũng chung tay đầu tư nguồn lực vào những cơ hội và vấn đề lớn nhất mà thế hệ của các con sẽ phải đối mặt.
Hãy xem xét vấn đề bệnh dịch. Hiện tại, xã hội chúng ta phải chi tiêu cho việc điều trị bệnh tật một số tiền gấp 50 lần số tiền chúng ta chi cho việc nghiên cứu để không phải mắc những căn bệnh đó.
Chỉ cần chưa đến 100 năm để y học trở thành một ngành khoa học thực sự, và chúng ta đã nhìn thấy những phương pháp chữa trị triệt để cho một số căn bệnh và một tiến trình điều trị tốt cho một số bệnh khác. Khi công nghệ phát triển vượt bậc, chúng ta có một cú đánh thực sự trong việc ngăn ngừa, điều trị tất cả hoặc hầu hết các căn bệnh còn lại trong vòng 100 năm tới.
Ngày nay, hầu hết con người chết vì 5 thứ: đau tim, ung thư, đột quỵ, suy nhược thần kinh và bệnh truyền nhiễm – và chúng ta có thể làm tiến trình tìm ra phương pháp điều trị những căn bệnh này và cả những căn bệnh khác diễn ra nhanh hơn.
Khi bố mẹ nhận ra thế hệ của con và con cháu con có thể không bị mắc những căn bệnh này, bố mẹ có trách nhiệm phải dành sự đầu tư của mình nhiều hơn một chút cho tương lai để biến những điều này thành sự thật. Mẹ con và ta muốn đóng góp phần trách nhiệm của mình.
Chữa bệnh sẽ cần thời gian. Trong khoảng thời gian ngắn từ 5-10 năm, có thể sẽ không có gì khác biệt nhiều. Nhưng trong một thời gian dài, những hạt giống được gieo trồng ngày hôm nay sẽ lớn lên, và một ngày nào đó, con và con cháu con sẽ nhìn thấy điều mà bây giờ chúng ta đang tưởng tượng: một thế giới không có bệnh tật.
Có quá nhiều những cơ hội như thế này. Nếu xã hội tập trung năng lượng của mình nhiều hơn cho những thách thức lớn này, thì chúng ta sẽ để lại cho thế hệ các con một thế giới tốt đẹp hơn nhiều.
Hi vọng của chúng ta dành cho thế hệ các con tập trung vào 2 vấn đề: Đẩy mạnh tiềm năng của con người và tăng cường bình đẳng.
Đẩy mạnh tiềm năng của con người là vấn đề mở rộng các ranh giới để cuộc sống của một con người trở nên tuyệt vời hết mức có thể. .
Con có thể học hỏi và trải nghiệm gấp 100 lần chúng ta ngày hôm nay không?
Thế hệ chúng ta có thể điều trị những căn bệnh để các con được sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn không?
Chúng ta có thể kết nối thế giới để các con có thể tiếp cận với mọi ý tưởng, con người và cơ hội hay không?
Chúng ta có thể khai thác năng lượng sạch nhiều hơn để các con có thể phát minh ra những thứ mà thế hệ chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng được mà vẫn có thể bảo vệ môi trường hay không?
Chúng ta có thể nuôi dưỡng tinh thần doanh nhân để các con có thể gây dựng bất cứ loại hình kinh doanh nào và giải quyết mọi thách thức để phát triển hòa bình và thịnh vượng hay không?
Tăng cường bình đẳng là vấn đề đảm bảo rằng ai ai cũng được tiếp cận với những cơ hội này – không phân biệt quốc gia hay xuất thân gia đình.
Xã hội chúng ta phải làm điều này không chỉ vì công lý hay từ thiện, mà vì sự vĩ đại trong sự phát triển con người.
Cách duy nhất để đạt được đầy đủ tiềm năng là tập trung vào những tài năng, những ý tưởng và đóng góp của mỗi con người trên thế giới này.
Thế hệ chúng ta có thể loại bỏ đói nghèo hay không?
Chúng ta có thể mang lại dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản cho tất cả mọi người không?
Chúng ta có thể xây dựng một cộng đồng toàn diện và cởi mở hay không?
Chúng ta có thể nuôi dưỡng những mối quan hệ hòa bình và hiểu biết giữa người dân các quốc gia với nhau hay không?
Chúng ta có thực sự trao quyền cho tất cả mọi người – phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người nhập cư và những người không có kết nối hay không?
Nếu thế hệ của chúng ta đầu tư đúng đắn thì câu trả lời cho những câu hỏi trên có thể là “có”, hi vọng là trong thời đại của con.
Sứ mệnh này sẽ đòi hỏi một cách tiếp cận mới cho tất cả những người đang làm việc vì mục tiêu này.
Chúng ta phải kiếm được những khoản đầu tư dài hạn cho 25, 50 năm hay thậm chí là 100 năm nữa. Thách thức lớn nhất này đòi hỏi những tầm nhìn lâu dài và không thể được giải quyết bằng tư duy ngắn hạn.
Chúng ta phải tham gia trực tiếp với những người mà chúng ta đang phục vụ. Chúng ta không thể trao quyền cho mọi người nếu chúng ta không hiểu nhu cầu và mong muốn của cộng đồng. Chúng ta phải xây dựng công nghệ để tạo sự thay đổi. Nhiều tổ chức đang đầu tư tiền bạc vào những thách thức này, nhưng hầu hết sự phát triển đến từ việc tăng năng suất nhờ đổi mới.
Chúng ta phải tham gia vào các chính sách và vận động chính sách để tạo tranh luận. Nhiều tổ chức không sẵn sàng làm điều này, nhưng sự phát triển phải được ủng hộ bởi các phong trào bền vững.
Chúng ta phải chấp nhận rủi ro bây giờ để rút ra những bài học cho ngày mai. Chúng ta vẫn còn sớm trong quá trình học tập. Nhiều thứ chúng ta thử nghiệm sẽ không hiệu quả, nhưng chúng ta sẽ lắng nghe, học hỏi và tiếp tục cải thiện.
Những trải nghiệm của chúng ta với vấn đề cá nhân hóa học tập, truy cập Internet, giáo dục cộng đồng và y tế đã định hình triết lý của chúng ta.
Thế hệ của chúng ta lớn lên trong những lớp học – nơi mà chúng ta học tập những thứ giống nhau với một tốc độ như nhau bất chấp sự quan tâm hay nhu cầu khác nhau của mỗi người.
Thế hệ của con sẽ đặt ra những mục tiêu cho cái mà con muốn trở thành – một kỹ sư, một nhân viên y tế, một nhà văn hay một người lãnh đạo cộng đồng. Con sẽ có những công nghệ hiểu được cách học tập tốt nhất của mình và cái gì con cần tập trung vào. Con sẽ tiến bộ nhanh chóng trong những môn học mà con quan tâm nhất, nhận được sự giúp đỡ mà con cần trong những vấn đề thách thức nhất. Con sẽ khám phá những chủ đề mà thậm chí trường học ngày nay không cung cấp. Giáo viên của con cũng sẽ có những công cụ và dữ liệu tốt hơn để giúp con đạt được mục tiêu của mình.
Thậm chí, học sinh trên khắp thế giới này sẽ có thể sử dụng các công cụ học tập cá nhân hóa qua Internet, ngay cả khi họ không sống gần những trường học tốt. Tất nhiên, để ai cũng có một khởi đầu công bằng trong cuộc sống thì không chỉ cần có công nghệ, nhưng cá nhân hóa học tập có thể là một cách đa năng để mang đến cho tất cả trẻ em một nền giáo dục tốt hơn, những cơ hội công bằng hơn.
Bây giờ chúng ta đang bắt đầu xây dựng công nghệ này và kết quả rất hứa hẹn. Học sinh không chỉ hoàn thành các bài thi tốt hơn, mà còn đạt được những kỹ năng và sự tự tin để học bất cứ thứ gì mà họ muốn. Hành trình này mới chỉ đang bắt đầu. Công nghệ và giảng dạy sẽ nhanh chóng cải thiện trong từng năm học.
Mẹ con và ta đều đang làm công việc giảng dạy, và chúng ta đều biết cần phải có những gì. Sẽ cần phải làm việc với những nhà lãnh đạo cứng rắn nhất trong ngành giáo dục để giúp các trường học trên khắp thế giới thích nghi với cá nhân hóa học tập. Sẽ cần sự tham gia của cộng đồng. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta bắt đầu ở cộng đồng Vịnh San Francisco của chúng ta. Sẽ cần phải xây dựng những công nghệ mới và thử nghiệm những ý tưởng mới. Cũng sẽ cần cả những sai lầm, những bài học được rút ra trước khi đạt được mục tiêu.
Nhưng khi chúng ta hiểu thế giới mà chúng ta có thể tạo ra cho thế hệ của con, thì chúng ta đặt ra cho mình trách nhiệm tập trung đầu tư cho tương lai để biến những điều này trở thành sự thật.
Cùng chung tay, chúng ta có thể làm điều này. Và khi chúng ta làm được, thì việc cá nhân hóa học tập sẽ không chỉ giúp học sinh ở những ngôi trường hàng đầu, mà còn giúp mang lại cơ hội bình đẳng hơn cho bất cứ ai có kết nối Internet.
Những cơ hội lớn nhất cho thế hệ của con sẽ tới từ việc trao cho tất cả mọi người kết nối Internet.
Mọi người thường nghĩ về Internet như một thứ chỉ để giải trí và giao tiếp. Nhưng với rất nhiều người trên thế giới, Internet có thể là con đường sống của họ.
Nó mang đến giáo dục nếu con không sống gần một trường học tốt. Nó mang đến thông tin về sức khỏe, cách phòng trách bệnh tật hay cách nuôi dưỡng một đứa trẻ khỏe mạnh nếu con không sống gần một bác sĩ. Nó mang đến các dịch vụ tài chính nếu con không sống gần một ngân hàng. Nó giúp con tiếp cận những công việc và cơ hội nếu con không sống trong một nền kinh tế tốt. Internet quan trọng đến mức cứ 10 người có kết nối thì có 1 người thoát khỏi đói nghèo và có khoảng 1 công việc mới được tạo ra.
Tuy nhiên, vẫn còn hơn một nửa dân số thế giới – hơn 4 tỷ người người – không có kết nối Internet.
Nếu thế hệ của chúng ta có kết nối, chúng ta có thể có hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo. Chúng ta cũng có thể giúp hàng trăm triệu trẻ em được đi học và cứu hàng triệu mạng sống bằng cách giúp họ tránh được bệnh tật.
Đây là một nỗ lực dài hơi khác có thể được phát triển bằng công nghệ và hợp tác. Sẽ cần phát minh ra những công nghệ mới để Internet có giá phải chăng hơn và mang kết nối đến những khu vực không có kết nối. Sẽ cần sự hợp tác với các Chính phủ, các doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận. Sẽ cần sự tham gia của cộng đồng để hiểu được nhu cầu của họ. Những người tốt sẽ có những quan điểm khác nhau về con đường tốt nhất phía trước, và chúng ta sẽ phải có nhiều thử nghiệm trước khi chúng ta thành công.
Tuy nhiên, nếu chung tay, chúng ta có thể đi đến thành công và tạo nên một thế giới bình đẳng hơn.
Bản thân công nghệ không thể giải quyết được các vấn đề. Xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn bắt đầu bằng việc xây dựng những cộng đồng lành mạnh và vững chắc.
Trẻ em có cơ hội tốt nhất khi chúng được học hành. Và chúng chỉ học tập tốt nhất khi chúng khỏe mạnh.
Sức khỏe được hình thành từ sớm – bằng một gia đình ngập tràn yêu thương, bằng chế độ dinh dưỡng lành mạnh, bằng một môi trường an toàn và ổn định.
Những đứa trẻ phải đối mặt với những trải nghiệm đau buồn sớm trong cuộc sống thường phát triển tâm hồn và thể xác kém lành mạnh hơn. Các nghiên cứu cho thấy những thay đổi thể chất trong sự phát triển não bộ dẫn đến khả năng nhận thức thấp hơn.
Mẹ con là một bác sĩ và là một nhà giáo dục nên cô ấy có thể tự thấy rõ điều này.
Nếu con có một tuổi thơ không lành mạnh, thì thật khó để con có được đầy đủ tiềm năng của mình.
Nếu con phải tự hỏi xem mình có thức ăn, có nhà ở hay không, phải lo lắng về việc bị lạm dụng hay tội phạm, thì thật khó để con có được đầy đủ tiềm năng của mình.
Nếu con lo sợ con phải vào tù thay vì học đại học vì màu da của con, lo sợ gia đình con sẽ bị trục xuất vì tình trạng pháp lý, hay lo sợ mình có thể là nạn nhân của bạo lực vì tôn giáo, vì khuynh hướng tình dục hay giới tính, thì thật khó để con có được đầy đủ tiềm năng của mình.
Chúng ta cần những tổ chức hiểu rằng tất cả những vấn đề này cần được kết nối. Đó là triết lý về kiểu trường học mới mà mẹ con đang xây dựng.
Bằng cách hợp tác với các trường học, các trung tâm y tế, các nhóm phụ huynh và chính quyền địa phương, bằng cách đảm bảo rằng tất cả trẻ em đều được nuôi dưỡng và chăm sóc tốt từ khi còn nhỏ, chúng ta có thể bắt đầu xử lý những bất bình đẳng này khi được kết nối. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể cùng nhau trao cơ hội bình đẳng tới tất cả mọi người.
Sẽ mất nhiều năm để hoàn thiện mô hình này. Nhưng đó là một ví dụ khác cho thấy việc thúc đẩy tiềm năng con người và tăng cường công bằng có mối liên kết chặt chẽ đến mức nào. Nếu chúng ta muốn làm một trong hai, trước hết chúng ta phải xây dựng những cộng đồng khỏe mạnh và toàn diện.
Để thế hệ của con được sống trong một thế giới tốt đẹp hơn, có quá nhiều việc mà thế hệ chúng ta có thể làm.
Hiện tại, mẹ con và ta cam kết sẽ dành cả cuộc đời mình, đóng góp phần nhỏ bé của mình để giúp giải quyết những thách thức này. Ta sẽ tiếp tục giữ cương vị CEO của Facebook trong nhiều năm tới, nhưng những vấn đề này cấp bách đến mức không thể đợi đến lúc con hay chúng ta già đi mới được bắt đầu. Bằng cách bắt đầu ngay từ khi còn trẻ, chúng ta hi vọng sẽ nhìn thấy những lợi ích trong suốt cuộc đời chúng ta.
Khi con trở thành người tiếp theo kế tục gia đình Chan Zuckerberg, chúng ta cũng bắt đầu Sáng kiến Chan Zuckerberg để cùng mọi người trên khắp thế giới thúc đẩy tiềm năng con người và tăng cường công bằng cho tất cả trẻ em thế hệ tiếp theo. Lĩnh vực tập trung ban đầu của chúng ta sẽ là cá nhân hóa học tập, điều trị bệnh tật, kết nối mọi người và xây dựng những cộng đồng vững mạnh.
Chúng ta sẽ dành 99% cổ phần của Facebook – hiện tại là khoảng 45 tỷ đô la – trong suốt cuộc đời của mình để thúc đẩy sứ mệnh này. Chúng ta biết đây chỉ là phần đóng góp nhỏ bé so với tất cả nguồn lực và tài năng của những người đang chung tay giải quyết những vấn đề này. Nhưng chúng ta muốn làm việc mà chúng ta có thể làm, chung tay với nhiều người khác.
Chúng ta sẽ chia sẻ chi tiết hơn trong những tháng tiếp theo khi chúng ta ổn định với thành viên mới của gia đình và quay trở lại với công việc sau thời gian nghỉ thai sản. Chúng ta hiểu rằng con sẽ có nhiều câu hỏi tại sao và bằng cách nào chúng ta có thể làm được việc này. Khi chúng ta trở thành cha mẹ và bước vào một chương mới của cuộc đời, chúng ta muốn nói rằng chúng ta đánh giá cao sự đóng góp của tất cả mọi người để việc này trở thành sự thật.
Chúng ta có thể làm được điều này chỉ vì chúng ta có một cộng đồng vững mạnh trên khắp thế giới đứng sau mình. Việc xây dựng Facebook đã tạo ra nguồn lực để cải thiện thế giới vì những thế hệ sau. Mỗi thành viên trong cộng đồng Facebook đều đang đóng góp phần của mình vào công việc này.
Chúng ta có thể phát triển chỉ nhờ chúng ta có những chuyên gia – những cố vấn, những đối tác và những con người tuyệt vời đã góp sức xây dựng.
Và chúng ta chỉ có thể tập trung vào việc phục vụ cộng đồng và sứ mệnh này vì xung quanh chúng ta là một gia đình tràn ngập yêu thương, những người bạn luôn ủng hộ và những đồng nghiệp tuyệt vời. Chúng ta hi vọng con cũng sẽ có những mối quan hệ sâu sắc và truyền cảm hứng như vậy trong cuộc đời mình.
Max, chúng ta yêu con và cảm thấy phải có trách nhiệm lớn lao trong việc để lại một thế giới tốt đẹp hơn cho con và tất cả trẻ em. Chúng ta mong con có một cuộc sống đầy tình yêu thương, hi vọng và niềm vui như cuộc đời mà con đã mang đến cho chúng ta. Chúng ta mong ngóng từng ngày để nhìn thấy những điều tốt đẹp mà con mang tới thế giới này.
Yêu con,
Bố mẹ của con
Nguyễn Thảo(dịch)