Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2015

Phản đề



HỒNG NHU







1.
Rồi ra tất cả chỉ là phù phiếm
là vô duyên
vớ vẩn
buồn cười
tất cả chỉ là mông muội trò chơi
dại khờ, ngu xuẩn
rách việc, cũ mèm
tôi tự phán xét mình
và bản án chỉ một mình tôi biết...

Ôi tình yêu
sự nô lệ dịu dàng
sự vuốt ve khủng khiếp
con người nào trong tôi đã chết
con người nào trong tôi nẩy sinh
tháng chạp dầm dề
nước mưa và nước mắt ngang nhau
như niềm hối hận.

Rồi ra có thể là sự thực
là đẹp sang
giòn tan
nóng hổi
tất cả đã như mặt trăng chiếu rọi
lóng lánh, ngời ngời
tròn đầy, tuyệt đích
tôi tự chiêm ngưỡng mình
huân chương trên ngực tôi dày khít
và tôi hào phóng tùy nghi phân phát...

Ôi tình yêu
sự chung thủy bọt bèo
lòng vị tha tàn ác
tôi tan ra như bánh thánh mỏng teo
và nổ xịt như pháo đùng ngòi ẩm
tháng tư giao mùa
gió bấc và gió lào song song
như hai chuyện trạng.

2.
Đi trên dây là nghệ sĩ xiếc trứ danh
(có ngã xuống cũng là nghệ sĩ
đã có lưới hứng rồi!)
đêm ngột ngạt vào tuần hạ chí
sân khấu òa thu phân
đi trên dây cũng là tôi
(nhưng không có gì để hứng)
tay dang rộng và niềm tin dựng đứng
mùa xuân rùng mình
hoa hồng nhắm mắt
tôi ngã xuống thì tôi cạp đất
thời gian đi như những chiếc gai nhọn hành quân
tìm về bí ẩn...

Ôi tình yêu
những ánh mắt vô cùng
những chuỗi hôn chóng mặt
tháng tám sương mù
sương đốt cháy áo người đi biển
người đi biển không mang theo bao la
ngoài nỗi đau trên bờ đọng lại

3.
... tôi xin em đừng nói gì
hãy rót dùm tôi một ly nước đá
và đừng nhìn tôi
để tôi nhìn em lửa lập lòe qua đầu thuốc lá...
1987

Tự do ngôn luận hay khi lũ xiểm thần lên ngôi?




1. Mượn tích người xưa mà kể chuyện Khổng Tử chém Thiếu Chính Mậu

Đây là một câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử đó là Khổng Tử chém Thiếu Chính Mậu. Nhiều người cho rằng đây cũng là một trong những nghi án lớn nhất trong lịch sử khi Khổng Tử ra lệnh chém Thiếu Chính Mậu mà không theo những quy định luật pháp cụ thể thời bấy giờ. Lũ hủ Nho xem đến đây thường bảo rằng Khổng Tử nhỏ nhen vì ghen ghét tài năng của Thiếu Chính Mậu nên mượn cớ cậy quyền mà chém Thiếu Chính Mậu. Khổng Lão Phu Tử vì ghen ghét với biện tài của Thiếu Chính Mậu, lo rằng họ Thiếu giỏi hơn mình, biện tài tốt hơn mình thì về sau đường quan lộ rộng mở, có thể uy hiếp đến vị trí của mình trên quan trường nên chém luôn như nhổ cái gai trong mắt. Nghe đến đây nhiều kẻ không đủ trí tuệ thường gật đầu một cách ngu si cho rằng Khổng Tử quả thật là người nhỏ nhen, đố kỵ, đâu có nhìn thấy được cái dụng tâm chân thật của bậc thánh nhân. Tiếc rằng lũ hủ nho và kẻ ngu thường chiếm số đông trong thiên hạ, truyền miệng nhau mà làm ô uế thanh danh bậc thánh nhân. Tự hỏi rằng nếu Khổng Lão Phu Tử tham lam chức quan nước Lỗ vậy tại sao khi Tề Cảnh Công dùng kế li gián để nước Lỗ không dùng Khổng Tử mà muốn ngài về làm quan bên nước Tề ngài lại không về Tề. Nếu Phu Tử tham lam chức quan tại sao ngài lại phải dẫn 3000 học trò bôn ba khắp xứ Trung Nguyên tuyên thuyết lễ giáo làm gì, không ở lại một nước nào đó mà làm quan. Vua Lỗ sau vời Khổng Tử về lại làm quan sao ngài không về mà vẫn tiếp tục bôn ba đến tận cuối đời mới về quê để ghi lại Lễ Giáo vì sợ hậu thế không tiếp nhận được nền giáo dục này. Như vậy có thể thấy cái nhìn của đám hủ nho, trí sĩ thời xưa tự nhận mình học thức thật thiển cận, nhưng lại có sức mê hoặc lòng người, khiến cho dân đen ngu si mà tin theo, làm oan uổng danh tiếng ngàn đời của thánh nhân.


Trở lại với chuyện Thiếu Chính Mậu cũng là như vậy, Thiếu Chính Mậu có biện tài, nói như ngày nay thì ông ta có khả năng hùng biện (hùng biện chứ không phải ngụy biện). Lời nói của ông ta nói ra lời nào đều có sức thu hút lòng người, làm cho người khác không thể không gật đầu mà tán dương con người này nói thật có lý. Đến Khổng Tử cũng nói không lại Thiếu Chính Mậu, nhưng tiếc rằng con người này lại không có nhân đức, tâm ông ta là tà ác, vì vậy mọi điều ông ta nói ra đều là mê hoặc lòng người, khiến cho người khác rơi vào trong tà đạo. Khổng Tử đã thấy rõ ràng cái tà của Thiếu Chính Mậu, sợ rằng con người này mà có thể du thuyết thì sẽ làm loạn đất nước. Vì ông ta sẽ dùng biện tài của mình để du thuyết, khiến cho luân thường đạo lý bị sụp đổ cả, khiến cho xã hội động loạn mọi người đều bị mê hoặc, mầm mống mất nước chính là đây. Nhưng Khổng Lão Phu Tử nói không lại ông ta, đến nói còn không lại thì làm sao có thể chuyển ông ta từ tà sang chánh, thậm chí chánh đạo còn bị ông ta bẻ cong đi. Vậy chẳng còn cách nào, vì thiên hạ thương sinh Khổng Lão Phu Tử chỉ còn cách chém đi Thiếu Chính Mậu, bớt một kẻ làm loạn động xã hội thì chánh đạo mới có thể thực hiện, xã hội mới có thể an ổn được. Vậy nên người có trí thực sự, thì đều hiểu cho nỗi khổ tâm của Khổng Lão Phu Tử, vì thiên hạ mà gánh chịu tiếng xấu. Thế mới thấy bậc thánh nhân suy nghĩ nào há như mấy kẻ tiêu nhân tầm thường. Loài đom đóm đâu thấy được sự vĩ đại của vầng thái dương.

Mượn tích người xưa thì thấy ngày nay Thiếu Chính Mậu là đại diện cho ai, đại diện cho bọn xiểm thần, luôn dùng miệng lưỡi hư ngụy để làm loạn quốc gia, áp bức bậc tôi trung, nói xấu người liêm khiết, bôi nhọ bậc quân tử. Xiểm thần là một trong những loại gian thần thời xưa, loại xiểm thần là bọn quan lại tuy nhận bổng lộc của vua nhưng lại không vì vua ra sức, báo đền ơn quốc gia, ngược lại hưởng thụ bổng lộc nhưng toàn buông lời dèm pha, hãm hại bậc trung lương làm cho quốc gia loạn lạc. Thông thường xiểm thần thường đi liền với nịnh thần, chúng một mặc nịnh hót, bợ đỡ kẻ trên hòng kiếm đường thằng quan tiến chức làm cho kẻ trên u mê không thể trị quốc, một mặc với bậc anh hùng nghĩa sĩ thì chúng luôn thường nói xấu, gây tổn hại đến thanh danh của họ, hãm hại họ. Nói đến một trong những xiểm thần nổi tiếng thiên hạ không thể không nhắc đến Bá Bỉ, Tần Cối. Bá Bỉ vì nhận hối lộ của Việt Vương Câu Tiễn mà dèm pha Ngũ Tử Tư khiên cho Ngũ Viên treo đầu tại cổng thành, cuối cùng khiến cho Ngô Vương Phù Sai mất đi cả nước Ngô hùng mạnh, dân chúng lầm than. Còn Tần Cối thì gièm pha Nhạc Phi, bảo rằng Nhạc Phi định tạo phản, khiến cho Tống Cao Tông triệu hồi Nhạc Phi bằng 12 đạo kim bài, gây ra vụ án oan lớn nhất tại Phong Ba Đình. Khi Hàn Thế Trung chất vấn Tần Cối đã từng nói Nhạc Phi có tội gì thì chỉ nhận được câu trả lời đó là "Có thể có" (Mạc Tư Hữu). Câu nói đã đi vào lịch sử cùng với án oan của anh hùng Nhạc Phi. Chỉ nhìn qua lịch sử cũng có thể thấy bọn xiểm thần là mối nguy hại quốc gia. Vậy ngày nay xiểm thần là ai, có lẽ chẳng cần phải nghĩ nhiều xiểm thần ngày nay chỉ có hai loại, một là những kẻ tự nhận mình là trí thức đang ngày đêm đòi phá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và hai là bọn lều báo đang dựa vào ngòi bút để phá hoại chính xã hội này. Chúng ta có thể thấy rõ ràng hình ảnh của bọn xiểm thần qua hai loại trên mà tôi xin chỉ ra ở hai câu truyện dưới đây.

2. Thoát Hán Bài Nga Đả Khổng Chống Cộng

Từ lâu đây đã là một trong các kim chỉ nam của nhóm những kẻ xiểm thần như tôi đã nói ở trên, đặc biệt là dạng người tự nhận mình là trí thức. Có thể nói trí thức hay không thì không biết, nhưng thoát Hán bài Nga là rõ rang. Những trí thức tự nhận của Việt Nam luôn rêu rao cái luận điểm là Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam còn nước Nga cũng chỉ vì quyền lợi của họ không tốt gì cho Việt Nam chính vì vậy đề cao tư tưởng thoát Hán bài Nga. Lại thêm một luận điểm nữa đó là Việt Nam quá phụ thuộc vào Trung Quốc do nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc, rằng hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường vậy nên Việt Nam bị Trung Quốc khống chế về mặt kinh tế và Nga khống chế về mặt quân sự. Vì thế để thoát Trung bài Nga thì Việt Nam phải thân với Mỹ, phải vào TPP với Mỹ, phải cùng Mỹ chống Trung Quốc trên biển Đông, nhờ có Mỹ mà Trung Quốc sẽ phải kiêng dè Việt Nam. Còn đối với Nga, họ cho rằng Việt Nam toàn phải mua vũ khí Nga, ko có được tiếp xúc với vũ khí hiện đại tiên tiến của Mỹ. Rồi Nga là nước chủ nghĩa xã hội cũ vì thế Nga là nước lạc hậu, họ giúp Việt Nam cũng chỉ vì coi Việt Nam như công cụ để chống Mỹ cho họ. Xin thưa với lũ xiểm thần hủ Nho rằng cái luận điệu này là một trong những luận điệu có thể nói khắm nhất mà tôi từng đọc. Có thể thấy trong cái luận điệu này có mấy cái ngu như sau:

- Thứ nhất bọn trí thức và lều báo ra sức tuyên truyền rằng Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc vì phải nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc. Nếu cái luận điệu này đúng thì ta sẽ có 1 mệnh đề là bất cứ nước nào mà nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc lớn nhất trong kim ngạch nhập khẩu thì đều phụ thuộc Trung Quốc. Từ mệnh đè này ta có hệ quả là những nước phải nhập khẩu nhiều từ nước khác đều là phụ thuộc kinh tế. Vậy có phải nghịch lý không Châu Âu và Mỹ là hai đối tác nhập khẩu lớn nhất hàng hóa Trung Quốc là phụ thuộc kinh tế Trung Quốc. Nhưng thực tế không như vậy, vì đơn giản chính sách của Trung Quốc là làm công xưởng cho thế giới. Từ khi thực hiện cải cách kinh tế đến nay Trung Quốc luôn đặt mục tiêu hướng tới một nền kinh tế xuất khẩu chính vì vậy hàng hóa Trung Quốc luôn hướng tới việc đa dạng, giá thành rẻ để xuất khẩu. Vì thế các nước nhập hàng hóa Trung Quốc rất nhiều, nhưng ko vì thế là phụ thuộc kinh tế Trung Quốc. Cái phụ thuộc hay không là do chính bản thân quốc gia đó có đủ sức để vươn lên một nền kinh tế mạnh hay không. Trong ngoại thương thì là sự trao đổi công bằng và tìm kiếm thị trường, ở đâu hàng hóa giá rẻ thì ở đó sẽ được ưu tiên lựa chọn. Còn Việt Nam là một nền kinh tế phụ thuộc không thể trách Trung Quốc mà có trách hãy trách chính mình. Đơn giản vì phụ thuộc kinh tế ở Việt Nam là gì, đó là không có một nền tảng công nghiệp nặng đủ mạnh. Lenin đã từng nói muốn có CNXH thì trước tiên phải có cơ khí hóa, điện khí hóa đầu tiên, nhưng Việt Nam không làm được cái đó. Từ khi Đổi mới kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng phá hoại không ít, những think tank đi đầu trong phong trào đổi mới đã đưa ra những chính sách gần như phá bỏ công nghiệp nặng, mà chạy theo công nghiệp nhẹ và tiêu dùng. Những kẻ tư vấn chính sách thời đổi mới đã góp phần lớn công trong việc phá bỏ những Gang thép Thái Nguyên, cơ khí Trần Hưng Đạo. Để thay vào đó là mời chào FDI, cuối cùng hệ quả của hàng chục năm Đổi mới vẫn là kinh tế Việt Nam không phát triển được và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Vì đơn giản làm gì có công nghiệp nặng, công nghiệp nặng ví như cái móng của một tòa nhà, nhà mà không có nền móng thì làm sao xây cao được, dù đẹp đến đâu thì cuối cùng vẫn phải sụp đổ mà thôi. Nhìn vào cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam thì thấy rõ đó là nhập khẩu chủ yếu nguyên vật liệu và máy móc. Nhà thơ Tố Hữu đã từng nhận xét Việt Nam là rừng vàng biển bạc cơ mà, sao lại phải nhập khẩu nguyên vật liệu. Đơn giản không phải là Việt Nam không có tài nguyên mà là không có công nghiệp nặng để chế biến các tài nguyên trên thành nguyên vật liệu đủ chất lượng làm ra thành phẩm. Trong khi đó Trung Quốc ngày càng vươn lên mạnh mẽ thì sự phụ thuộc là điều tất yếu. Không có cái lập luận ngu xuẩn nào bằng cái lập luận tôi học dốt là vì do thằng ngồi cạnh nó học quá giỏi cả. Tất cả chỉ là ngụy biện cho sự phá hoại nền công nghiệp nặng nước nhà của cái lũ trí thức giả tạo.

- Thứ hai: cãi lũ trí thức giả tạo có không ít kẻ được đào tạo ở bên Liên Xô và các nước XHCN cũ nhưng chúng lại đang ra sức hô hào chống Nga, cho rằng Nga là độc tài, là muốn sử dụng Việt Nam như công cụ kiểm chế Mỹ. Tất cả lý do chỉ vì Nga là thành phần của Liên Xô cũ, việc bài Nga diễn ra trên mọi phương tiện thông tin đại chúng và những phát biểu của lũ trí thức đó. Bài Nga vì sao, vì đơn giản thân Nga thì Mỹ không vui, cái chúng cần là thân Mỹ, với chúng Nga luôn là hình mẫu của một chế độ độc tài. Nhưng người Việt Nam phải nhớ rằng Liên Xô xưa là một trong những quốc gia giúp đỡ Việt Nam nhiều nhất, họ cũng giúp đỡ ta trong công nghiệp nhiều nhất. nếu không có Liên Xô giúp, từ việc xây dựng nền tảng công nghiệp cho đến giao thông thủy điện cho đến đào tạo đội ngũ khoa học. Thậm chí máu người Liên Xô đã đổ trên Việt Nam vì một Việt Nam độc lập thống nhất. Nước Nga ngày nay không phải Liên Xô trước kia nhưng họ vẫn có tình cảm với Việt Nam, vẫn chân thành muốn hợp tác cùng Việt Nam dù đã có những lúc bọn trí thức giả tạo đó ăn cháo đái bát, hy vọng Việt Nam quay lưng với nước Nga. Thực chất đơn giản đó chỉ là hi vọng làm hài lòng cho Mỹ, đặc biệt khi nước Nga ở trong những thời kỳ đen tối của thập niên 90 thế kỷ 20. Những việc làm này về cơ bản chính là vong ân bội nghĩa, thấy lợi quên nghĩa. Nó đi ngược lại với chính truyền thống của người Việt Nam. Nhưng nó đã và đang được chấp nhận, thậm chí chúng ta học lịch sử đều biết không có Lenin và nước Nga XHCN thì ko có Ucraina, Lenin mang độc lập và quyền tự quyết đến cho dân tộc Ucraina nhưng khi Ucraina dật đổ tượng Lenin bởi một nhóm những kẻ tân phát xít thì lại được lũ báo chí Việt Nam ca ngợi như cuộc chiến của những người theo chủ nghĩa tân tự do. Thậm chí việc đưa Crum trở về tổ quốc Nga cho đúng với mảnh đất quê hương cũng bị bọn xiểm thần ở Việt Nam đổ cho là hành động xâm lược. Nguyên nhân chỉ có một chỉ vì nước Nga gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội mà thôi.

Ở trên đã nói đến Thoát Hán Bài Nga, thì đó chỉ là vẻ bề ngoài mà thôi, thực chất cái việc Thoát Hán Bài Nga là lớp vỏ để che đậy cho mục đích của lũ xiểm thần đó chính là Đả Khổng Chống Cộng. Đây mới là mục đích chính, vì sao phải Đả Khổng Chống Cộng vì tư tưởng Khổng Tử và Marx Lenin còn thì đó là mũi giáo đâm thẳng vào chủ nghĩa cá nhân, là cái đem lại hạnh phúc cho toàn bộ số đông nhưng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của một nhóm những kẻ muốn hướng đất nước theo con đường TBCN để chúng có thể thỏa thuân bóc lột giá trị thặng dư trên xương máu của người dân cần lao. Để chúng có thể nô nên phè phớn hưởng sự giàu có mà không cần phải lao động nhiều. Đả Khổng Chống Cộng đã trở thành mục đích cuối cùng của lũ trí thức giả tạo và lũ lều báo Việt Nam vì đơn giản những kẻ muốn Việt Nam đi theo Tư Bản Chủ Nghĩa là những kẻ có tiền và có quyền thì sẽ đem quyền lợi, lợi ích chia sẻ một phần cho lũ trí thức và báo chí để tuyên truyền hộ chúng. Trong đó phải kể đến sự giúp ích vô cùng to lớn của Mỹ và Phương Tây thông qua các chương trình đào tạo ngắn và dài hạn. Kết quả của những chương trình này ra sao, đấy là chưa bao giờ ở Việt Nam hiện nay Khổng Marx bị đẩy xuống chỗ cùng cục của xã hội. Nếu như Marx từng nói CNCS giống như một bóng ma đang bao trùm châu Âu thì hiện nay ở Việt Nam Marx và CNXH là một thứ bệnh dịch còn đáng ghê tởm hơn cả HIV, người ta nghe đến Marx là nhăn mặt, là tránh Marx như tránh hủi. Còn Khổng thì sao, nó là thứ bệnh đậu mùa hay dịch hạch đáng lẽ phải nên chết từ mấy trăm năm trước rồi mà còn tồn tại, nên giờ càng phải tránh xa loại bệnh dịch quá khứ này.
Dưới đây là một số câu chuyện tôi kể ra hoàn toàn là sự thật có thể dẫn chứng cho các bạn thấy.

a- Cách phòng chống lây nhiễm virus "HIV biến thể Marx".

Một sự thật rõ ràng là hiện nay sách trên các giá sách tri thức chúng ta gần như không thấy sự hiện diện các tác phẩm kinh điển của Marx. Không ai bắt họ phải đọc sách có tính chất học thuật cao như sách Marx nhưng gần như không nhà xuất bản nào có hứng thú với việc xuất bản lại sách của Marx. Bạn không thể dễ dàng tìm đọc những cuốn như Chống Duyring, Tư Bản Luận, Biện chứng của Tự nhiên hay Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản, những cuốn sách là kim chỉ nam cho giai cấp vô sản trên thế giới. Tôi từng nhớ đã phải lang thang khắp các hàng sách cũ tại nhiều trường đại học chỉ để mong tìm được 1 bộ Tư Bản Luận cũ và phải mất rất nhiều tuần mới có thể tìm được. Trong khi đó sách ở Việt Nam thì tràn ngập các loại sách dạy làm giàu, sách ngôn tình, sách tâm lý nhưng tuyệt nhiên không thấy sách Marx. Có một nơi tự nhận là NXB Trí Thức khi họ ra sức tuyên truyền cho các đầu sách của họ là sách khai dân trí, chấn hưng dân trí thì tràn ngập các loại sách chống Marx như Sự Khốn Cùng Của Chủ Nghĩa Lịch Sử, Đường Về Nô Lệ, Chủ Nghĩa Tự Do mới. Một đất nước tự nhận là đi theo CNXH mà mặc nhiên sách Marx hiếm hoi như lá mùa thu thì đó là sự tự nhận giả tạo.

Ví dụ thứ hai đó chính là thái độ của thế hệ trẻ hiện nay đối với việc học Marx đó chính là đây là môn học của sự tiêu diệt sinh viên, là môn học làm ngu đi sự hiểu biết của sinh viên. Có thể nói với sinh viên việc học Marx Lenin là một cực hình, họ sợ Marx Lenin như chính sợ một thứ dịch bệnh, thậm chí nếu có ai tỏ ra thích học những môn học này thì sẽ nhận được cái nhìn kỳ thị như một người bị nhiễm HIV. Có khi còn hơn cả người nhiễm HIV vì người nhiễm HIV còn được coi là có trí khôn, có hành vi nhận thức, còn người học và yêu thích Marx thì bị coi như gặp vấn đề về mặt thần kinh. Bạn có tin không, sự thật là thế đó, tôi tin vì một người bạn của tôi đã bị như vậy. Thậm chí anh còn kể ở trường anh sinh viên nếu được cử đi thi học sinh giỏi mấy môn Marx Lenin thì giáo viên phải mời chào, phải đủ thứ ưu đãi mới chịu đi thi. Nghịch lý thay là thầy đi mời trò đi thi.

Câu chuyện thứ ba tôi kể là tôi từng có một người bạn, khi anh ta muốn đem các kiến thức Marx Lenin vào trong áp dụng chuyên ngành, anh ta nhận được cái từ chối của giáo sư trường anh ta đơn giản vì ông ta nói Marx lỗi thời rồi không còn đúng nữa mặc dù vị giáo sự đó dẫn chứng một loạt các thứ trong học thuyết Marx nhưng khi chúng tôi đối chiếu với nguyên bản thì những dẫn chứng đó một là Marx đang phê phán cái đó, hai là nó được bịa đặt một cách trắng trợn theo cách hiểu của ông ta. Một sự nhét chữ vào miêng Marx vì cãi nhau với người chết bao giờ cũng là cãi nhau dễ nhất. Một người bạn khác từng đi tham gia một số hội thảo kinh tế tại cái xứ An Nam này và anh ta nhận xét đa phần các hội thảo kinh tế đều tìm cách phủ định Marx, nếu bạn nói Marx ở đó họ sẽ cho bạn là thần kinh dù cho bạn có nói đúng đến đâu đi chăng nữa. Thậm chí nếu bạn càng nói đúng thì bạn còn có thể bị tước đoạt quyền được nói vì họ đưa ra hội thảo để nói xấu Marx chứ không phải là để họ nhận ra cái sai của họ là họ đếch hiểu gì về Marx. Với họ Marx là thứ bệnh dịch đáng sợ cần tránh xa là thứ cần phải cho vào sọt rác.

Câu chuyện thứ tư về đại dịch Marx ở cái xứ An Nam này cần phải nói đến đó chính là ai đã làm hỏng Marx ở Việt Nam. Xin thưa một phần rất lớn là từ công tác đào tạo. Những người học Marx chân chính như chúng tôi đều hiểu rằng bản thân Marx và Engels đều là những nhà khoa học tự nhiên rất giỏi, họ có các công trình khoa học đóng góp cho khoa học tư nhiên với một nền tảng tư duy logic rất tốt. Nhưng ở Việt Nam để học Marx thì đào tạo sinh viên khối nào. Xin thưa là sinh viên khối C, khối Văn Sử Địa tại trường Đại Học KHXH Nhân văn hay Học viện báo chí tuyên truyền. Đó là sự sai lầm, bài viết của tôi không có ý định châm biếm sinh viên khối C, nhưng sự thật vẫn là sự thật, khối C là khối học toán còn không xong thì làm sao mà có thể học triết được, môn học đòi hỏi sự tư duy vô cùng sâu sắc. Vậy nên chất lượng của sinh viên chuyên ngành Marx Lenin ra trường vô cùng kém, chỉ loanh quoanh mấy cái giáo trình còn không bao giờ biết nguyên bản hay hiểu nguyên bản là gì. Thậm chí có những người đã là giảng viên nhưng khi tôi hỏi thì họ hoàn toàn không thể phản biện được, đơn giản vì họ không có đủ tư duy khoa học và logic. Thậm chí có những cái của Marx họ còn không hiểu. Nhiều năm liền đào tạo như vậy thì hỏi làm sao họ có thể truyền đạt cái hay của Marx Lenin, Trong khi đó những người tôi tìm hiểu, học giỏi Marx Lenin thực sự đa phần đều là những người tự nghiên cứu và họ lại là dân khoa học tự nhiên chứ không phải khoa học xã hội, đơn giản vì đầu óc của họ đã có tư duy logic rồi.

Thực sự sau bao nhiêu năm đổi mới, giờ đây Marx trong tư tưởng nhiều người một chỉ là cái bức ảnh mà bất kỳ đại hội Đảng nào cũng cần treo lên cho có lệ từ cấp trung ương đến địa phương vì ông ý là người phát hiện ra CNCS. Nhưng bên cạnh đó còn tồn tại một ông Marx thứ 2 tại Việt Nam, đó là Marx HIV, Marx bệnh hoạn, Marx bị mọi người tránh như tránh hủi. Nếu như vào thời kỳ đầu thế kỷ 20 thì đó sẽ là ông Marx Hủi còn vào đầu thế kỷ 21 thì đó là Marx HIV. Bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ những người được đào tạo về Marx Lenin đang làm xấu đi hình ảnh của Marx, tôi vẫn từng nhớ đến câu chuyện rất nhiều người nói tôi được đào tạo chuyên ngành về Marx đây nhưng tôi không tin những gì ông ấy nói. Hình như ông ấy nói sai không còn đúng và thích hợp cho Việt Nam, cái của Marx cũ quá rồi, giờ còn ai dùng nữa. Nhờ tất cả những sự tuyên truyền từ một bộ phận lớn giảng viên Marx Lenin tốt nghiệp từ các trường Đại học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn và Học Viện Báo Chí Tuyên Truyền mà chúng ta có Marx HIV của thế kỷ 21. Thực sự không mong muốn gì hơn đó là ở cái xứ An Nam này hãy học cách nói trung thực những gì Marx nói và nếu ko tin thì đừng để tượng hay ảnh ông ý nữa còn hơn là biên Marx thành đại dịch HIV toàn cầu. Sự khốn cùng của những kẻ tiểu tư sản tại một dân tộc đã từng làm nô lệ. Thực ra ai đã đọc cách mạng và phản cách mạng ở Đức của Karl Marx đều thấy rằng giai cấp phá hoại cách mạng nhiều nhất chính là giai cấp tư sản nhưng giai cấp phản bội cách mạng nhiều nhất là giai cấp tiểu tư sản. Chúng tự cho mình là trí thức, là tinh hoa của xã hội, chúng tham gia cách mạng bằng những lời lẽ sáo rỗng và rỗng tuếch nhưng khi lại đào ngủ đầu tiên nếu cách mạng thất bại và khi cách mạng thành công thì lũ tiểu tư sản lại cố gắng nhanh chóng chiếm lấy cái thành quả lãnh đạo cách mạng và tự khoe khoang về những chiến công của giai cấp vô sản nhưng chúng tự nhận cho chính mình và làm cho ý nghĩa của cuộc cách mạng tiêu tan vì chúng không biết đưa cách mạng đi theo đường lối nào. Một đoạn ý nghĩa rất nhỏ cũng đúng với thực tại của Việt Nam bây giờ, khi mà bọn trí thức và báo chí tiểu tư sản thích hô hào thích thể hiện sự lãnh đạo với đất nước, một mặt chúng bợ đỡ bọn tư sản nước ngoài chà đạp người lao động Việt Nam, mặt khách chúng lại kích động giới cần lao cần phải hủy bỏ đi những thành quả cách mạng vô sản của Việt Nam đã đạt được thông qua những lời kêu gọi chấn hứng dân trí, khai dân trí, cải cách thể chế. Chúng dùng lời lẽ hoa mỹ đã phá hoại chính thành quả cách mạng mà Hồ Chí Minh đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đạt được. Tôn vinh những kẻ bán nước, và lợi dụng cái gọi là lỏng yêu nước giả tạo, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi để phá bỏ Marx tại Việt Nam cũng như các thành quả cách mạng cao nhất. Và nhờ có chúng Marx đã trở thành 1 đại dịch tại Việt Nam vì còn Marx thì những tư tưởng tiểu tư sản hẹp hòi, những lời lẽ hoa mỹ sáo rỗng, tính phản trắc của giai cấp tiểu tư sản và sự kiêu ngạo ngu dốt của bọn tiểu tư sản sẽ không có đất để nảy nở cho chúng.

b- Ngăn ngừa sự trở lại của "bệnh đầu mùa" Khổng Tử.

Chống Cộng đã làm thì song song với nó phải là Đả Khổng, tại sao lại là Đả Khổng mà không phải là Đả cái khác. Còn nhớ thời kỳ trước khi thực hiện cách mạng vô sản, chúng ta đã sai lầm đó là đả Khổng, một sự thiếu hiểu biết của giới cần lao cộng thêm sự thiếu chỉ dẫn đã khiến cho người Việt Nam đem tượng Khổng Tử vứt ngoài bãi cỏ, đập phá Văn miếu, những gì liên quan đến Khổng được coi như là tàn tích của chế độ phong kiến. Chúng ta vội vã quy tội cho Khổng Tử rằng ông là biểu tượng của phong kiến bảo thủ lạc hậu cần phải đập phá. Tuy nhiên xét đến cùng người Việt Nam phá Khổng mà vẫn hành Khổng. Tại sao tôi dùng cụm từ này ở đây? Bố mẹ ông bà tôi đều là những người sống dưới chế độ bao cấp và miền bắc giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa. Rất nhiều người sống dưới thời đó đều phải công nhận một điều đó là một xã hội an bình, giáo dục và đạo đức rất được coi trọng. Đi đường đánh rơi đồ vật không lo bị lấy mất, trộm cướp gần như không có, tôi từng nghe bà ngoại tôi đạp xe 40 cây số để đem lương thực lên tiếp tế cho con cái, phải đi ban đêm vì ban ngày trời rất nóng. Nhưng cả đoạn đường từ Hà Nội lên Hòa Bình không gặp một tên cướp nào, chỉ có 1 bác nông dân tốt bụng chỉ đường cho cụ vì lo sợ trời tối cụ bị lạc đường và cho cụ tá túc tại nhà một lúc để có chỗ dừng chân nghỉ ngơi. Tôi còn nhớ cả cái phường bố tôi đang sống chỉ cần một ông công an phường đảm bảo trật tự an ninh là đủ, ba năm mới xảy ra một vụ đánh nhau do anh em trong nhà bất hòa trong khi đó không hề có vụ đâm chém, cướp giật. Cô giáo dạy văn của tôi thường bảo, trẻ em đi học được học cái gì đầu tiên đó là nhân nghĩa, học cách yêu thương từ cha mẹ anh em đầu tiên rồi đến nhà cửa quên hương mình đang sống, biết trân trọng từ quyển sách đến cái bàn mình đang học. Thời đó vào đội viên khó lắm, phải thật gương mẫu mới được đeo khăn đỏ không tạp nham như bây giờ. Học sinh mà cá biệt là cảm thấy xấu hổ với bạn bè trong lớp mà tự cố gắng. Chúng ta tuy phá Khổng mà vẫn hành Khổng, xã hội đó nào có khác chi nước Lỗ thời Xuân Thu, hành theo Khổng nên ban đêm đi ngủ cửa không cần cài khóa, tội phạm thì ít mà ra đường cũng không lo mất của.

Vậy tại sao lại là phá Khổng mà vẫn hành Khổng, xin thưa Khổng không có tạo nên chế độ phong kiến, cái ông dạy là giáo dục xã hội để an định xã hội hài hòa. Còn cái hủ nho phong kiến là sau này do những kẻ hủ nho đưa lên làm sai tư tưởng của Khổng. Khổng dậy nhân chi sơ tính bổn thiện, con người đều có tính thiện, đều bình đẳng, cái khác nhau giữa người quân tử và tiểu nhân là vì nghĩa hay vì lợi. Nếu là vì nghĩa thì dù có mạt hạng phải nằm hố xí, nuốt than như Dự Nhượng vẫn là quân tử, nếu là vị lợi thì dù lời hoa tiếng ngọc, đầy một bồ chữ nghĩa như Thiếu Chính Mậu vẫn là tiểu nhân. Tiểu nhân và quân tử vốn không phân biệt sang hèn giai cấp, ít học hay nhiều chữ nghĩa, khác nhau chỉ ở chỗ tâm địa khác nhau, vì lợi hay vì nghĩa. Cũng thế Khổng đề xuất xã hội phải có trật tự, có kỷ cương, con người phải có ý thức lễ nghĩa. Nhưng đám hủ nho lại làm sai quan điểm của ông biến thành xã hội có giai cấp, giai cấp bị trị phải phục tùng giai cấp thống trị. Vậy nên mới phải có Mạnh Tử phê phán lũ hủ nho, bảo rằng vua coi dân như cỏ rác thì dân cũng ko cần phải trung thành với vua. Học thuyết Khổng Mạnh vốn là thuyết bình đẳng, nhưng qua lời bọn hủ nho đã thành biến tấu thành tàn tích của chế độ phong kiến, chính vì vậy đã có một thời ta đả Khổng mà vẫn hành Khổng bởi đó là luân lý đạo đức ngàn đời mà Việt Nam vẫn đang thực hiện theo, nó dung hòa và lặng lẽ không bài trừ nhau, sống trong chính xã hội chủ nghĩa vì về cơ bản đó đều là mang đến sự bình đẳng và bình yên cho con người.

Nếu như cách đây khoảng 30-50 năm chúng ta đả Khổng mà vẫn hành Khổng thì vẫn còn chấp nhận được vì đó là đả hình thức trọng giáo dục thực hành. Còn sau này thì sao nước ta khôi phục Văn Miếu, Quốc Tử Giám, nhưng khôi phục thật hay không? Không hề mà là khôi phục để biến nó thành nơi tham quan du lịch. Khôi phục vì lợi ích kinh tế chứ không phải vì muốn khôi phục vì giáo dục truyền thống vì luân thường đạo lý. Nói một cách khác con người hiện nay là biến Khổng thành công cụ để kiếm lời còn không muốn học Khổng, thế nên mới có việc đòi phá tượng Hồ Chí Minh, tôn vinh tượng 74 kẻ bán nước. Từ khi đổi mới đến nay, du nhập văn hóa phương Tây thì đây mới thực là Đả Khổng đích thực. Vì sao phải Đả Khổng, vì những gì Khổng dạy là theo nhân nghĩa mà bỏ danh lợi, còn bọn trí thức tiểu tư sản, bọn báo chí chúng là theo danh lợi mà bỏ nhân nghĩa, vậy làm sao chúng lại không đòi Đả Khổng. Khổng còn tức là khác nào chỉ thẳng mặt chúng mà mắng loại vô giáo dục vô liểm sỉ, Khổng bị đả mất thì tự khắc chúng đưa các lý lẽ hoa mỹ mất dạy để tôn vinh hành vi phá hoại của chúng, tôn vinh hành vi bán nước.

Có thể nói Khổng giờ là thứ bệnh đậu mùa đáng sợ đang trở lại, tượng Khổng còn đứng sững ở Văn Miếu nhưng hình tượng Khổng trong giáo dục đạo đức thì mất hết rồi. Bậc thánh nhân nào cần giữ tượng gỗ tượng đất, tượng xi măng làm gì vì họ không cần danh, cái họ cần là nhân dân học theo đạo thánh hiền để thành người tốt. Vậy nên thời xưa dù đem tượng Khổng vứt ngoài ruộng, đái lên tường Văn Miếu thì Khổng vẫn vui vì người người hành Khổng, nhà nhà học Khổng, còn ngày nay tượng Khổng xây đẹp đẽ, sơn son thiếp vàng thì Khổng lại buồn. Buồn vì người người đả Khổng, nhà nhà đả Khổng, có còn ai coi trọng giáo dục luân lý đạo đức nữa hay không. Chỉ cần lên mấy trang báo chí Việt Nam sẽ thấy nào dạy cướp chồng người khác, nào dạy ngoại tình, nào dạy con cái phải có quyền tự do cá nhân không nghe lời cha mẹ, nào dạy phải phá hoại quốc gia, dạy để trốn thuế, rồi là dạy cách kiếm tiền theo kiểu người giàu, toàn dạy danh lợi mà phá bỏ đạo đức. Đấy là chân chính đả Khổng. Tôi từng đọc trong một bài viết của luật sư Bảo Anh Thái, anh ta khá là giỏi, anh viết mà tôi rất ưng ý rất hay, Khổng có sống lại mà cầm sách Thánh Hiền đi dạy thanh niên cũng chưa chắc đã bằng Ngọc Trinh uốn mông lắc vú trên báo chí. Mà đúng thế thật, ở cái xã hội này sách của Khổng thì Ngọc Trinh nó ngồi lên cả mặt sách cũng ối thẳng hoan hô ủng hộ. Vậy nên mới có việc con đánh cha, giết cha, cha đánh con giết con, xã hội loạn động. Đả Khổng đích thực là ở đây chứ đâu, thậm chí lũ trí thức bại não còn tuyên truyền theo Khổng là theo Trung Quốc mượn cớ chống Trung Quốc để Đả Khổng chính vì vậy.

Bên cạnh đó bọn lều báo cũng ra sức tuyên truyền cho việc đả Khổng, cứ cái gì gắn với Khổng thì là gắn với Trung Quốc. Mượn cớ chống Tầu đả Khổng, vì lều báo ngày nay cũng nhiều kẻ không có kiến thức, như Xuân Dương trên báo giáo dục, cho rằng Đạo Chích và Đạo nghĩa đều là cùng một Đạo. Vì sao nhà báo lại chống Khổng đến vậy, đơn giản chỉ vì Khổng từng dậy Tâm Tịnh – Chuẩn Ngôn – Tu Thân – Tề Gia – Trị Quốc – Bình Thiên Hạ. Còn lũ lều báo hiện nay thì là Tâm Ô – Ác Ngôn – Nuôi Thân – Phá Gia – Hại Quốc – Loạn Thiên Hạ. Lũ lều báo hiện nay toàn tâm đia tàn ác ô nhiễm, nói lời thì hư ngụy dối trá dèm pha để nuôi cái thân béo nên lắm tiền, sau đó thì phá hoại luân lý đạo đức gia đình, hại quốc gia và cuối cùng làm loạn thiên hạ. Vì tiêu chí ngược nhau như thế nên bọn lều báo bây giờ đa phần đều là ở trên pháp luật, tự cho mình cái quyền coi thường luật pháp phá hoại luật pháp. Tôi từng đi xem từng thấy, người dân vi phạm luật giao thông thì nem nép chịu phạt, còn lũ lều báo thì rút thẻ nhà báo ra dọa nạt công an. Giờ nhà báo có quyền lớn lắm, đòi sửa cả pháp luật hiến pháp trong khi đó người dân lại rất tuân thủ pháp luật. Nguyên nhân thì đã giải thích ở trên, chúng làm việc gì cũng đều là để có lợi cho chúng. Vậy nên Khổng còn thì lũ lều báo không có đất sống, Đả Khổng thành công thì bọn kền kền báo chí đó tha hồ tung hoành mà phá hoại đất nước vì lợi ích cá nhân.

3. Tự do ngôn luận làm loạn quốc gia, thời kỳ mà thằng vô học đi đấu tố thằng có học, lũ lều báo đấu tố công nhân kỹ sư.

Nếu như ở trên tôi đã nói cho các bạn về phong trào thứ nhất là Thoát Hán Bài Nga Đả Khổng Chống Cộng thì ở câu chuyện thứ hai chúng ta sẽ đến với câu chuyện về thời kỳ Đại Đấu Tố đang diễn ra tại Việt Nam. Chính bè lũ tiểu tư sản đang chĩa mũi giáo về phía nhân dân cần lao với chiêu bài tự do ngôn luận. Chúng ta sẽ phân tích cái mầm mống của tự do ngôn luận là thế nào khiến cho loạn quốc gia. Để phân tích kỹ hơn chúng ta hãy đặt vấn đề tại sao hồi xưa thánh nhân không đề cao tự do ngôn luận, như Khổng Tử đã dậy Tâm Tịnh – Cẩn Ngôn. Tâm tịnh tức là bạn phải có tâm trong sáng, tâm thành thật, tâm lương thiện, có như vậy tâm đã tịnh thì tiếp theo phải là Cẩn Ngôn hay Chuẩn Ngôn, từng lời bạn nói ro phải là lời thật, hoàn toàn không có sự giả dối, phải nói thật là đầu tiên, thứ hai là phải nói phù hợp hoàn cảnh, nói tường tận rõ rãng không nói kích động, thứ ba là phải nói khách quan, nói không xen tạp tình cảm tư tưởng cá nhân vào vì nếu xen tạp tình cảm tư tưởng cá nhân vào thì tức là lời nói của bạn đã là sai lầm. Vì thế thánh nhân xưa không đề cao tự do ngôn luận mà đề cao là cẩn ngôn. Chính vì vậy Khổng Tử cả đời, học vấn cả đời của lão nhân gia đều là Thuật Nhi Bất Tác chính là thuật lại trung thực lời dạy của cổ thánh tiên hiền hoàn toàn không xen tạp ý cá nhân, hoàn toàn không có chút hư ngụy. Vậy tại sao sau này lại đề xuất tự do ngôn luận, vì ở châu Âu trải qua hàng ngàn năm tồn tại dưới chế độ phong kiến và giáo hội, kìm kẹp mọi thứ phát triển. Sự kết hợp giữa giáo hội và phong kiến đã làm hòn đá tảng cản trở sự phát triển của châu Âu, những nhà khoa học, nhà tư tưởng tiến bộ đều bị xử phạt rất nặng, như chúng tay đã thấy có Copecnic, Galileo hay Thomas More. Chính vì vậy không khí này bao trùm cả châu Âu, nó khiến cho người ta không dám nói thật, không dám thách thức uy quyền của giáo hội Thiên Chúa Giáo. Chính vì vậy mới cần có phong trào tự do ngôn luận, cho phép những nhà khoa học chân chính, những nhà tư tưởng cách mạng được thẳng thắn nói thật và trình bày các quan điểm hệ tư tưởng của mình. Mục đích của tự do ngôn luận thực chất là tạo điều kiện cho nhà khoa học nhà tư tưởng được nói sự thật.

Ngày nay tự do ngôn luận đã bị biến thành môi trường của việc tự do nói và không phải chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Chính điều này lại đã phản tác dụng khiến cho cái xứ An Nam này và nhiều nơi khác trên thế giới rơi vào sự giả dối vì không ai phải chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Tôi đã từng nói với mấy anh bạn trẻ rằng nếu có cái nghề nào mất dậy nhất ở xứ An Nam thì đó chính là nghề lều báo, vì nó đang làm ngu đi dân trí Việt Nam. Thực ra làm ngu dân có hai cách, cách một khá nổi tiếng đó là không cho dân tiếp cận với thông tin, còn cách thứ hai là cho dân tiếp cận với mớ thông tin của tự do ngôn luận. Cách một có vẻ khá tàn nhẫn và nổi tiếng với chính sách không cho dân biết đọc biết viết nhưng cách hai thì thực chất làm dân ngu dễ dàng hơn nhiều và làm cho xã hội loạn động nhiều hơn. Nói đến đây không thể không bội phục tài trí của Mao Trạch Đông, người đời chửi Mao là kẻ độc tài tàn ác còn tôi thì thấy Mao là người có tầm nhìn xa. Lãnh đạo một đất nước thời bấy giờ gần 1 tỷ dân, việc giữ cho xã hội ổn định là vô cùng khó, trước bối cảnh đó Mao triệt để áp dụng chính sách ngu dân thứ nhất, đến bây giờ Trung Quốc vẫn vậy kiểm soát chặt chẽ mọi nguồn thông tin. Tại sao vậy người Trung Quốc xưa vẫn có cách giáo dục nhu vậy đó là trước khi cho nó ra ngoài trường đời thì phải cho nó đóng cửa 5-10 năm cạnh lão sư để học để biết được phân biệt đúng sai phải quấy. Bạn thử xem các bậc kỳ nhân của Trung Quốc xưa đều là đóng cửa trên núi tu học 5-10 năm mới được sư phụ cho xuất sơn. Vì sao vì ở đời là chốn thị phi, trắng đen lẫn lộn, nếu không có sự nhận thức đẩy đủ thì lập tức sẽ là đúng sai phải quấy lẫn lộn, làm ác tưởng thiện mà thấy thiện lại không làm vì cho là ác. Giáo dục như thế quả thật quá hay quá tốt, khi con người đã đủ khả năng phân biệt phải trái trắng đen thì nào có thể bị ô nhiễm trước các thông tin đúng sai phải quấy nữa chứ. Lúc đó lão sư sẽ cho bạn xuất sơn tham học. Còn nếu chưa đủ khả năng thì tốt nhất nên làm tờ giấy trắng bên cạnh lão sư. Giấy trắng thì dễ vẽ còn giấy đã rớt mực thì vẽ thế nào. Ý nghĩa chân thực nằm ở chỗ này, chính vì vậy thà để dân ngu như tờ giấy trắng còn hơn để dân ngu vì bị đầu độc thông tin, giấy đã nhoe nhoét mực thì chỉ có thể vứt đi chứ nào dùng được nữa còn giấy trắng thì vẫn luôn luôn dùng được. So sánh hai cách ngu dân thì mới thấy cái tầm suy nghĩ của Mao Trạch Đông quả thực vô cùng sâu sắc, nếu Trung Quốc mở của thông tin sớm thì sẽ lại giống như xứ An Nam bị bọn Tây lông đầu độc, cuối cùng càng ngày càng có nhiều bọn suy nghĩa không cần dùng não. Thế thì chẳng cần đến 100 năm mà có thể trong vòng 1 năm với 1 tỷ dân thì Trung Quốc đã chia năm sẻ bảy rồi, không có một đất nước Trung Quốc hùng mạnh như hiện giờ. Bạn có thể so sánh giữa Hồng Kông và Đại Lục có thể thấy sự khác biệt, người Đại Lục có ý định phục vụ tổ quốc nhiều hơn là người Hồng Kông vì đơn giản họ đã được giáo dục rất kỹ, kể cả đi ra nước ngoài cũng tìm cách trở về. Trong khi đó người Hồng Kông đặc biệt là giới trẻ lại rất kỳ thị Đại Lục, muốn hướng về Anh Mỹ mà từ chối dòng máu Hoa Hạ, biểu tình ở Hồng Kông là một ví dụ rất lớn, tuy nhiên thanh niên Đại Lục lại rất coi thường cái biểu tình này. Đơn giản Hồng Kông sau 100 năm ở với nước Anh đã bị ngu dân hóa thông qua quá trình đầu độc thông tin. Vậy nên càng tự do ngôn luận thì càng là môi trường thích hợp để cho ngu dân chứ không phải khai dân trí gì cả và mầm mống bạo loạn là từ đây.

Có thể thấy tự do ngôn luận ở xứ An Nam này đã khiến cho thị phi trắng đen bị đảo lộn, khiến cho người có học thì bị kìm kẹp mà kẻ vô học nhưng giỏi khoa môi múa mép thì thăng tiến. Đấy là một sự thật đang diễn ra hàng ngày mà tôi phải nói, và thể hiện ở những hậu quả sau đây.

a- Tự do ngôn luận dẫn đến xét lại lịch sử:

Tự do ngôn luận là xét lại lịch sử, là điều kiện để vinh danh những kẻ bán nước, giống như Ucraina đã từng rất anh hùng trong chiến tranh Vệ Quốc, nhưng nhờ có tự do ngôn luận mà giờ bọn phát xít lên nắm quyền và đang xét lại lịch sử. Chúng ngang nhiên ca ngợi những kẻ từng là tội phạm chiến tranh. Việt Nam bây giờ cũng thế, nhờ có tư do ngôn luận mà Nguyễn Ánh đã đứng ngang hàng với Quang Trung, Lê Văn Tám suýt bị xóa đi chiến công anh hùng trong lịch sử. Nhờ có tự do ngôn luận mà việc xây tượng đài Hồ Chí Minh từ 7 tỷ thành 1400 tỷ trong khi đó 1400 tỷ là để xây dựng một cơ sở hạ tầng cho trung tâm một tỉnh tại Việt Nam. Ở đây tôi không nói việc xây dựng cơ sở hạ tầng này hiệu quả hay không, có tham ô hay không vì cái này phải có điều tra bằng chứng rõ ràng và có tính toán kinh tế cụ thể mới trả lời được. Cái tôi muốn nói là tượng đài Hồ Chí Minh là gì, là thể hiện sự biết ơn với chủ tịch Hồ Chí Minh, người đem lại nền độc lập tự do cho Việt Nam. Nhưng lũ xiểm thần trí thức giả tạo và bọn kền kền lều báo lại nhân việc đó để chửi Hồ Chí Minh, cho rằng dựng tượng đài là quá đủ. Xin thưa đủ hay không thì do nhân dân quyết định và dù cả nước này có dựng mỗi tỉnh 2 tượng đài cũng không để so với công lao Hồ Chí Minh. Định dùng con số 1400 tỷ đánh lập lờ để chửi Hồ Chí Minh thì đúng là ngu si. Xin thưa rằng không có Hồ Chí Minh thì ngày nay sẽ không có Giáo Sư Ngô Bảo Châu được học tập làm việc tại các trường đại học danh tiếng của Pháp gì đâu mà sẽ chỉ có thằng cửu vạn Ngô Bảo Châu đang làm nô dịch cho người Pháp, bị sai liếm giầy vẫn phải liếm mà thôi. Bài báo 1400 tỷ là phát súng đầu tiên mà lũ xiểm thần đã dùng để tấn công vào tượng đài Hồ Chí Minh, để định xóa tên Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc Việt Nam, giống như những gì đã từng làm với Karl Marx, Engels, Lenin, Stalin những lãnh tụ cộng sản.

Một sự xét lại lịch sử nữa cần phải nói đến chính là sự đòi tôn vinh 74 kẻ bán nước ở Hoàng Sa. Mặc dù hồi ký của Lê Văn Thự đã ghi rất rõ ràng là quân lực VNCH tự bắn vào nhau và hèn nhát không dám chống lại quân Trung Quốc dù hỏa lực mạnh hơn. Tuy nhiên những kẻ xét lại muốn đòi lại sự công nhận chính thể thối nát của VNCH vẫn luôn muốn tạo cơ hội vinh danh những kẻ VNCH đã chết ở Hoàng Sa, việc xét lại lịch sử này hoàn toàn đang có ý nghĩa muốn thay đổi vai trò lịch sử, làm sai lệch đi các thông tin lịch sử cũng như viết lại vai trò lịch sử của các chế độ. Có thể nói nếu thà bỏ ra 1400 tỷ để xây dựng cơ sở hạ tầng và tượng đại Bác Hồ để giữ lại lịch sử còn hơn là xây những đài tưởng niệm, cho bọn ngụy VNCH đã chết ở Hoàng Sa. Vì việc xét lại và xóa bỏ lịch sử còn nguy hiểm hơn rất nhiều, nó sẽ là mầm mống cho việc ngu dân và bạo loạn. Hơn nữa xây nhà tưởng niệm 74 tên lính ngụy chết ở Hoàng Sa là cái tát đau đớn vào mặt các anh hùng thương binh liệt sĩ đã dành trọn tuổi xuân và cuộc đời phấn đấu vì nền độc lập dân tộc. Trong khi họ còn nhiều mảnh đời bất hạnh, còn chưa được nhà nước quan tâm thích đáng thì những kẻ bán nước lại được vinh danh. Điều này có khác nào đập miếu Trần Hưng Đạo mà tôn thờ Trần Ích Tắc không.

b- ­Tự do ngôn luận là cơ sở của đấu tố kỹ sư và giới cần lao

Tự do ngôn luận giờ là thời kỳ của đấu tố kỹ sư và giới cần lao, kỹ sư ở đây là bao gồm tất cả kỹ sư làm việc trong toàn bộ các ngành khoa học kỹ thuật. Tôi không có thời gian đưa các bài báo cụ thể nhưng có thể điểm ra một vài sự kiện để mọi người tự động kiểm chứng.

Thứ nhất: ai chịu trách nhiệm cho cái chết của hơn trăm em bé tại bệnh viện nhi vì dịch sởi bùng phát năm 2014. Nhiều người đổ trách nhiệm cho ngành y tế nhưng thực chất kẻ phải chịu trách nhiệm chính là bọn báo chí lều báo. Chúng ra sức tuyên truyền nào là trẻ tử vong do vắc xin kém chất lượng, do đội ngũ y tế không có y đức. Ai làm ngành y tế cũng hiểu rằng rủi ro là không thể tránh khỏi, nhưng dưới con mắt bọn báo chí chúng tuyên truyền như rằng đã tiêm vác xin phòng sởi ở Việt Nam là sẽ chết vì vác xin kém chất lượng. Kết quả rất nhiều bố mẹ đã không mang con đi tiêm phòng, chính vì vậy khi dịch sở bùng phát thì đã có rất nhiều trường hợp đáng tiếc xảy ra. Trong lúc các đội ngũ y bác sĩ đều ngày đêm lo lắng cho mạng sống của từng cháu nhỏ thì bọn lều báo lại tiếp tục bài ca cũ cho rằng dịch sởi là lỗi của ngành y tế. Thật là hẹn hạ mặt dày vô liêm sỉ với lũ báo chí này.

Thứ hai: đấu tố kể cả những bác sĩ có ý đức nhất, vụ việc con nhãi ranh cộng tác viên của một tờ báo đấu tố bác sĩ Vũ Bá Quyết, một vị bác sĩ có y đức và tay nghề cao trong ngành thông qua việc gài bẫy rồi đăng loạt bài từ chối mổ cấp cứu. Trong khi sự thật đây là mổ dịch vụ không phải mổ cấp cứu. Điều này cho thấy để kiếm tiền, để giật tít câu view, lũ kền kền không từ thủ đoạn nào để đấu tố các nhà khoa học. Trong khi chúng là lũ ngu dốt về mặt chuyên môn thì lại luôn tỏ ra hiểu biết để thách thức dư luận.

Thứ ba: vu khống người yêu nước chân chính, khi mà một nhóm các bạn trẻ Vietvision muốn tổ chức phản đối việc tuần hành tưởng niệm thực chất là kích động bạo loạn của lũ dân chủ trở cờ thì thông qua ngòi bút của tay Xuân Dương tại báo giáo dục thì các bạn trẻ yêu nước trở thành những kẻ tội đồ, còn bọn mong muốn bán nước làm cách mạng màu thì lại thành yêu nước. Cần nói thêm rằng Xuân Dương là một trong những kẻ ngu nhất trong làng báo chí khi không phân biệt được chữa Đạo Chích và Đạo Nghĩa. Cái này tôi đã từng chỉ thẳng mặt con bò Xuân Dương ở báo giáo dục.


Thứ tư: đấu tố kỹ sư, từ việc đường sắt trên cao phải xây dựng uốn lượn để tận dụng nguyên lý con lăn cho đến khe hở trên cầu Phú Mỹ để đối phó với sự nở vì nhiệt của bê tông cốt thép. Với những người công nhân kỹ sư thì sự việc đó là đúng quy trình kỹ thuật. Nhưng lũ lều báo ngu dốt không bao giờ đạt nổi điểm 3 vật lý lại bảo đó là tham nhũng, là lãng phí hãy rút ruột công trình. Giờ đây những thằng ngu vật lý lại được có quyền tự do ngôn luận để đấu tố những người làm việc chân chính thật sự.

Thứ năm: bọn truyền hình thì ra sức tuyên truyền về kinh tế thị trường tự do và thương mại tự do mà đòi bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thằng không có tý kiến thức kinh tế nào cả lại cho mình cái quyền được đấu tố định hướng XHCN, chúng nó không hiểu chính thị trường tự do và thương mại tự do là cơ sở khiến cho kinh tế khủng hoảng, Hy Lạp là một ví dụ vì không có định hướng phát triển XHCN nên nền kinh tế ra bã. Nhưng chúng nó lại mơ tưởng rằng kinh tế và thương mại tự do sẽ đem đến cho VN một sự cất cánh kinh tế với tốc độ tăng trưởng 30%/năm, cái chỉ xảy ra ở Liên Xô dưới thời Stalin khi làm kinh tế kế hoạch. Thật là sự ngu dốt không thể chối cãi vì nếu không có sự thay đổi về phương thức sản xuất thì không thể có sự thay đổi đột biến về tăng trưởng như vậy được. Chính vì thế cái ảo tưởng về tăng trưởng 30%/năm chỉ là ảo tưởng chừng nào Việt Nam vẫn còn đi theo phương thức sản xuất TBCN với thị trường tự do và thương mại tự do.

c- Tự do ngôn luận phá hoại ổn định xã hội và nguy cơ cách mạng màu

Cái cuối cùng mà tôi muốn đề cập ở đây chính là tự do ngôn luận là mầm mống của phá hoại ổn định xã hội và nguy cơ cách mạng màu. Cái này thì quá rõ ràng, bởi vì khi tự do nói và không chịu trách nhiệm về lời nói của mình thì đó là lúc bọn xiểm thần đấu tố trung thần. Khổng Tử biết được cái này nên ông ta mới chém Thiếu Chính Mậu. Ngày nay cũng thế, bọn báo chí, bọn trí thức rởm đời đang ra sức cổ vũ cho tự do ngôn luận. Chúng tự cho mình quyền phán xét lại lịch sử, hàng loạt các công thần có công dựng nước như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng đều đã và đang bị xúc xiểm, bị bôi đen trong lịch sử thông qua những cái diễn đàn tự do ngôn luận hay xã hội dân sự của lũ trí thức rởm đời.

Cái thứ hai chính là việc đổi trắng thay đen lịch sử, chúng ta thấy từ lâu nay bọn xiểm thần chỉ ca ngợi công lao của Đảng trong thời kỳ 1986 trở về sau, đây là cách để chúng gián tiếp chỉ ra rằng thời kỳ trước 1986 Đảng là sai lầm về đường lối, là một hành động vô ơn vô cùng. Nếu bạn hiểu kỹ lịch sử thì bạn sẽ biết thời kỳ trước Đảng còn có công lao lớn hơn nhiều so với năm 1986.

Chúng tìm cách đổi trắng thay đen, liên tục Đả Khổng Chống Cộng để làm chệch hướng tư tưởng của nhân dân. Chúng muốn biến Việt Nam thành nước thuộc địa kiểu mới cho bọn Tư bản, chúng liên tục ca ngợi các nước thuộc địa kiểu mới, ca ngợi các cuộc cách mạng màu trên thế giới. Dù ta biết hậu quả của cách mạng màu là Ucraina đã sụp đổ hoàn toàn nền kinh tế, người dân Lybia đời sống chỉ còn bằng ¼ trước cách mạng màu hay Iraq rơi vào vòng nội chiến liên miên. Chúng tìm cách ca ngợi những thẳng nhãi con như Josua tại Hồng Kông như người hùng thực chất chỉ là thằng ranh con rẻ tiền ăn bám xã hội và làm loạn xã hội. Qua miệng lưỡi của lũ xiểm thần thì người tốt biến thành kẻ xấu còn kẻ xấu thì biến người tốt. Đó là cách làm khiến cho người dân bị đầu độc thông tin. Điều đáng buồn là những loại người bán nước như Quang A, Đoan Trang, Huy Đức vẫn nhởn nhơ để khua môi múa mép làm loạn thiên hạ. Nhờ có miệng lưỡi của lũ xiểm thần và bọn xét lại đã làm cho Luật Lao Động không bảo vệ giới cần lao, công đoàn biến thành tay sai để phục vụ giới chủ để bóc lột tận xương tủy giai cấp vô sản. Các nhà nước vì nhân dân bị biến thành nước độc tài, đưa những thông tin sai lệch về các nước XHCN để làm hủy hoại con đường đi lên CNXH của Việt Nam, những nước từng là anh em cống hiến máu và sinh mạng cho Việt Nam như Nga, Cu Ba hay những nước từng là đồng chí như Bắc Triều Tiên bỗng biến thành địa ngục, thành dân tộc hèn hạ yếu đuối trong mắt con dân xứ An Nam. Dù thực tế còn rất lâu Việt Nam mới làm được những sự vĩ đại như họ. Cuối cùng là nhờ có lũ xiểm thần, lũ trí thức ngu độn và lũ lều báo chó lợn mà một thằng trùm tư bản bẩn thỉu như Steve Jobs lại có thể được thần thánh hóa ngang với chủ tịch Hồ Chí Minh trong con mắt của bọn trẻ trâu xứ An Nam. Nếu không thay đổi thì chính bọn chúng sẽ làm mầm mống làm hại đất nước, làm mất nước như Liên Xô đã từng bị. Vì vậy Thánh hiền xưa không đề xuất tự do ngôn luận vì họ nhìn thấy cái bị họa của loạn ngôn.

Kết lại cho bài viết này, tôi cảm thấy thật đau xót khi mà lũ xiểm thần đang ngày ngày ra sức phá hoại đất nước. Nhưng cảm thấy bất lực khi không làm được gì để ngăn cản sự phá hoại của bọn này. Tâm có thừa nhưng sức chẳng đủ, buồn lòng làm bạn với thiên nhiên và thi ca.
Thả hồn vào với mỹ nhân mà cảm xúc dạt dào, vừa mang trong mình cái lãng mạn của Lý Bạch nhưng lại đau xót trước cảnh bụi mờ che khuất cầu Hàm Dương của Đỗ Phủ. Bọn trẻ con thích Ngọc Trinh khoe mông khoe vú, còn tại hạ chắc chỉ dám ngắm nhìn từ xa đóa mẫu đơn Đặng Thu Thảo thôi. Nàng mang trong mình cái đẹp thanh tao, nhẹ nhàng của con gái xưa, trong như nước mà tươi như hoa trong cái nắng chiều đẹp đẽ nổi bật giữa dòng đời xuôi ngược:

“Đường vắng cô đơn lạnh buốt lòng
Lặng lẽ thuyền quyên gót sen hồng
Mỹ nhân đứng đó đùa với nắng
Xao động trái tim khách lữ hành
Muốn hỏi muôn người em ở đâu
Mẫu đơn khoe sắc trong chiều vắng
Hoa ghen liễu hờn vì thua kém.
Nhẹ nhàng từ xa ngắm mẫu đơn.”

Hà Nội ngày 8 tháng 11 năm 2015
TTCS

Read more: http://www.dlv.vn/2015/08/tu-do-ngon-luan-hay-khi-lu-xiem-than.html#ixzz3imYSq0dp

Bàn về giấc mơ


Tác giả: Chiếu Viễn

I. Khái luận:

Giấc mơ là một đề tài mà mọi người vẫn hay đề cập tới trong cuộc sống hàng ngày, và đây cũng là vấn đề vô cùng phức tạp. Dường như ai ai cũng từng nằm mơ, và có rất ít người không nằm mơ, cho nên đối với con người mà nói, đây cũng là một loại bản năng khi sinh ra đã có sẵn rồi. Khoa học hiện đại lý giải về giấc mơ như sau, giấc mơ là một loại trải nghiệm của bản thân con người, là những hình ảnh, âm thanh, suy nghĩ hay cảm xúc mà người đó tưởng tượng ra khi ngủ, thông thường là không tự nguyện.

Đây là nhận thức bề mặt nhất, cũng là nhận thức rất khách quan về giấc mơ. Nhà triết học thời Hy Lạp cổ đại Plato cho rằng: “Giấc mơ là sự nối tiếp cuộc sống hàng ngày của con người.” Ngành tâm lý học hiện đại của phương tây cũng rất quan tâm nghiên cứu về giấc mơ, họ cũng đưa ra rất nhiều cách giải thích khác nhau. Dưới cái nhìn của nhà tâm lý học, giấc mơ là sự thể hiện những tình cảm bị chôn sâu trong ý thức, việc nhớ lại những mảnh ghép của giấc mơ có thể giúp tiết lộ những tình cảm bị chôn giấu. Cũng có người cho rằng giấc mơ chủ yếu là để xử lý những tín tức có liên quan đến sự sinh tồn của con người, vì thế giấc mơ có thể giúp chúng ta có lý giải sâu sắc để đưa ra cách giải quyết các vấn đề liên quan đến sinh tồn. Còn có người cho rằng giấc mơ là quá trình đại não xử lý các tín tức mà ban ngày người ta đã tiếp xúc được, nó giúp chúng ta loại bỏ đi những tín tức vô dụng, từ đó giúp cho đại não tránh bị hỗn loạn tín tức. Còn có người cho rằng giấc mơ là một loại huyễn tượng không có nghĩa lý gì, một loại huyễn tượng sinh ra trong lúc đại não xử lý các tín hiệu ngẫu nhiên của cảm giác, v.v. nói chung là có rất nhiều cách giải thích khác nhau. Theo tôi thấy, những cách giải thích trên đều có lý nhưng chưa toàn diện và thấu đáo.

Về vấn đề này, nhận thức của người Trung Quốc cổ đại so với nhận thức của khoa học hiện đại có sự khác biệt rất lớn. Ví như trong cuốn Hoàng Đế Nội Kinh cho rằng: khi khí âm của cơ thể người quá thịnh thì có thể mơ thấy mình vượt qua sông lớn, đồng thời có cảm giác sợ hãi. Khi khí dương của cơ thể quá thịnh, có thể mơ thấy lửa cháy lớn, đồng thời còn cảm thấy hơi nóng bức bối. Khi khí âm và khí dương của cơ thể đều thịnh, thì có thể mơ thấy cảnh tượng tàn sát lẫn nhau. Khi các bộ phận phía trên cơ thể người có khí quá thịnh thì có thể mơ thấy cảnh tượng bay lượn; còn khi các bộ phận phía dưới cơ thể người có khí quá thịnh, có thể mơ thấy cảnh rơi từ trên cao xuống. Ăn quá no, có thể mơ thấy mình đưa đồ ăn cho người khác. Khi quá đói có thể mơ thấy người khác đưa đồ ăn cho mình. Khí ở gan quá thịnh, có thể mơ thấy sự việc gây cáu giận. Khí ở phổi quá thịnh, có thể mơ thấy sự việc đau lòng mà khóc lóc.

Đây là từ góc độ y học mà nhận thức về giấc mơ, nhiều lúc rất khớp với tình huống thực tế của chúng ta. Nhưng chẳng qua đây cũng chỉ là cách giải thích về giấc mơ bị hạn cuộc bởi nguyên nhân sinh lý của cơ thể người. Cũng có người cho rằng, ban ngày nghĩ điều gì thì ban đêm sẽ nằm mơ thấy điều đó, điều này cũng có lý, nhưng loại giải thích này chỉ thích hợp với giấc mơ có điều kiện. Bởi vì có rất nhiều giấc mơ không có quan hệ gì với những trải nghiệm trong cuộc sống và phương thức tư duy của chúng ta, ví dụ như những giấc mơ có thể báo trước tương lai, những giấc mơ có liên quan đến các sinh mệnh cao tầng hay các sinh mệnh cấp thấp v.v. Sau khi thu thập và nghiên cứu rất nhiều tài liệu lịch sử có liên quan đến giấc mơ, tác giả bài viết cho rằng nguyên nhân hình thành giấc mơ và mục đích con người nằm mơ đều vô cùng phức tạp, nếu chúng ta suy xét góc độ lịch sử có lẽ sẽ phát hiện thấy rất nhiều giấc mơ mang ý nghĩa lịch sử trọng đại, cho nên không thể đánh đồng nguồn gốc các giấc mơ đều như nhau.

Đương nhiên có rất nhiều giấc mơ không có ý nghĩa gì, chẳng hạn như những giấc mơ mà sau khi tỉnh dậy lại quên sạch không nhớ chút nào, hoặc giấc mơ có thể kể lại rõ ràng và đơn giản nhưng xác thực không có ý nghĩa gì. Những giấc mơ loại này không thuộc phạm vi bàn luận của chúng ta trong bài viết này, cho nên tạm thời không nhắc tới. Nhưng có nhiều giấc mơ mà nếu chúng ta đối đãi nghiêm túc và suy nghĩ kỹ lưỡng một chút, có lẽ sẽ phát hiện ra nó thật sự có ý nghĩa và có mục đích.

Chúng ta cũng biết rằng không thể đoán được mình sắp nằm mơ điều gì, cũng không thể tự nguyện nằm mơ điều gì. Có nghĩa là chúng ta đều bị động với hầu hết các giấc mơ, vậy thì chúng ta thử suy nghĩ xem liệu có nhân tố bên ngoài nào tham dự vào giấc mơ của chúng ta, thậm chí khống chế việc chúng ta mơ chăng? Nếu vậy thì giấc mơ chắc chắn không chỉ đơn giản là hiện tượng sinh lý hoặc hiện tượng tâm lý của mỗi cá nhân. Cũng có thể có sinh mệnh cao cấp đang lợi dụng giấc mơ để can thiệp trực tiếp vào cuộc sống cá nhân của chúng ta và sự phát triển của lịch sử xã hội nhân loại, nói đến đây có thể mọi người cảm thấy ngày càng huyền hoặc. Vậy trước tiên chúng ta hãy xem lại rất nhiều ghi chép lịch sử trong và ngoài Trung Quốc từ xưa đến nay liên quan đến giấc mơ, sau đó mọi người hãy suy ngẫm xem những điều tôi nói có lý hay không.

II. Các loại giấc mơ:

Trước khi đưa ra ví dụ, chúng ta hãy cùng thảo luận về các loại giấc mơ. Người Trung Quốc xưa trong các thời kỳ lịch sử khác nhau đều có các cách phân loại giấc mơ khác nhau. Ví như trong Châu Lễ thời Chiến Quốc phân giấc mơ thành 6 loại, gồm: chính mộng, ác mộng, tư mộng, ngụ mộng, hỷ mộng, cụ mộng (giấc mộng sợ hãi). Cuốn sách Mộng Liệt thời Đông Hán lại phân giấc mộng thành 10 loại gồm: trực mộng, tượng mộng, tinh mộng, tưởng mộng, nhân mộng, cảm mộng, thời mộng, phản mộng, bệnh mộng, tính mộng. Thời kỳ giữa triều Minh xuất hiện cuốn Mộng Chiêm Dật Chỉ cho rằng giấc mơ có thể quy thành 9 loại: khí thịnh, khí hư, tà ngụ, thể trệ, tình dật, trực diệp, bỉ tượng, phản cực, lệ yêu. Các cách phân loại trên đều mang tính chuyên sâu. Ngoài ra, trong giới y học, giới tôn giáo cho tới giới học thuật đều có những phương pháp phân loại khác nhau, ở đây chúng ta không liệt kê chi tiết.

Trên đây là các cách phân loại giấc mơ của các thầy bói chuyên nghiệp thời cổ xưa. Vấn đề mà chúng tôi muốn thảo luận có sự khác biệt với người xưa, cho nên để thuận tiện cho việc chứng minh các quan điểm của mình, chúng tôi cũng cần có phương pháp phân loại riêng.

Theo tôi thấy, xét về mặt chỉnh thể, giấc mơ của con người có thể phân thành hai loại: loại thứ nhất là có ý tứ rõ ràng, loại thứ hai là loại có ẩn chứa huyền cơ. Nhưng hai cách phân loại này đều rất chung chung, nếu nói chi tiết, cụ thể hơn có thể phân thành hơn 10 loại như sau: giấc mơ dự ngôn về tương lai, giấc mơ truyền đạo thụ nghiệp, giấc mơ có liên quan đến sinh nở, giấc mơ liên quan đến tử vong, giấc mơ liên quan đến người đã mất, giấc mơ liên quan đến quỷ thần, giấc mơ liên quan đến động vật, giấc mơ liên quan đến chữ viết, giấc mơ có liên quan đến tôn giáo, giấc mơ có ý nghĩa cảnh báo và giấc mơ đặc thù, v.v, phương pháp phân loại này vừa giúp cho mọi người dễ lý giải, vừa giúp làm rõ quan điểm của chúng tôi.

Trước khi đưa ra ví dụ để thuyết minh quan điểm của chúng tôi, cần phải nói rõ với mọi người một điểm, trong số những ví dụ được kể ra trong bài viết, rất nhiều ví dụ có nguồn gốc trong chính sử, chẳng hạn như Sử Ký, Hán Thư, Tư Trị Thông Giám v.v, ngoài ra còn có rất nhiều những ghi chép của các văn nhân. Ví như Sưu Thần Ký của nhà sử học nổi tiếng Can Bảo thời Lưỡng Tấn, Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký của Kỷ Hiểu Lam – học giả nổi tiếng triều Thanh, v.v. Người cận đại coi Sưu Thần Ký của Can Bảo là tiểu thuyết ghi lại những câu chuyện quái dị, thực ra không hề đơn giản như vậy. Lý do Can Bảo viết Sưu Thần Ký thì trong Tấn Thư có ghi chép: “Phụ thân Can Bảo khi còn sống rất sủng ái một thị nữ, vì thế mà thị nữ này bị mẹ của Can Bảo ghen tức, đến khi cha Can Bảo qua đời, mẹ của Can Bảo liền đẩy thị nữ đó xuống mộ chôn cùng chồng. Khi đó anh em Can Bảo vẫn còn nhỏ tuổi nên không hiểu chuyện gì. Mười mấy năm sau, mẹ của Can Bảo cũng qua đời, khi họ mở phần mộ của cha ra để chôn mẹ xuống cùng, thì nhìn thấy người thị nữ nằm sấp trong quan tài và sắc mặt vẫn như còn sống, họ liền chở cô về nhà, một ngày trôi qua cô tỉnh lại. Cô nói là cha của Can Bảo thường xuyên cung cấp cho cô đồ ăn thức uống, ông vẫn yêu thương cô như lúc còn sống, hơn nữa cô có thể kể lại mọi việc tốt việc xấu trong nhà, sau khi kiểm chứng phát hiện cô đều nói rất đúng, cho dù bị chôn dưới đất nhưng cô vẫn có thể biết mọi chuyện. Sau này nhà Can Bảo gả cô đi, cô còn sinh được một đứa con. Còn một người anh em của Can Bảo mắc bệnh chết, đã tắt thở mấy ngày rồi mà cơ thể vẫn ấm, rồi sau đó tỉnh lại, và kể về việc đã nhìn thấy quỷ thần, giống như mơ một giấc mơ, nhưng lại không biết mình đã chết rồi. Từ đó Can Bảo viết một bộ sách tập hợp các câu chuyện thần tiên quỷ quái biến hóa kỳ dị, đặt tên là Sưu Thần Ký, tổng cộng có 30 cuốn.” Vì thế chúng ta biết được nguyên nhân Can Bảo viết Sưu Thần Ký là do ông đã trải nghiệm những điều thần kỳ xung quanh mình, hơn nữa Sưu Thần Ký lại có độ tin cậy rất cao. Trong Tấn Thư còn ghi chép: “Trong lời tựa cuốn sách, Can Bảo viết: Mặc dù dựa theo trí nhớ mà ghi chép lại, thu thập những câu chuyện thất truyền thời đó, đa phần không phải đích thân tai nghe mắt thấy nhưng cũng dám chắc là không mất đi tính chân thực.” Thái độ của Can Bảo tại đây rất nghiêm túc, cẩn thận, ông cố gắng đảm bảo tính chân thực và có thể tra cứu, dù cho có chút sai lệch cũng chỉ rất nhỏ.

Kỷ Hiểu Lam là học giả nổi tiếng triều đại nhà Thanh, ông nổi tiếng với kiến thức uyên bác và khả năng nghiên cứu chặt chẽ, cẩn thận, cho nên một người như ông không cần phải tạo ra những câu chuyện vô căn cứ để tự hạ thấp bản thân mình. Còn một số những ví dụ về giấc mơ là bút ký có nguồn gốc từ những người tu hành thời cổ đại, cho nên chúng tôi cũng có thể xác định đây đều là những sự việc chân thực đáng tin.



Kỷ Hiểu Lam (Nguồn: Secret China)

1. Giấc mơ báo trước tương lai

Loại giấc mơ báo trước tương lai này rất hay gặp, chẳng hạn mọi người có thể từng có trải nghiệm thế này, chúng ta có cảm giác vô cùng quen thuộc đối với một cảnh tượng nào đó trong cuộc sống thường ngày, dường như đã gặp cảnh này ở đâu đó, thậm chí chúng ta có thể nhớ rất rõ những chi tiết nhỏ như cách ăn mặc, trang điểm, tư thế tay, ánh mắt, lời nói của người nào đó. Tuy nhiên, nguồn gốc của những tín tức này đa phần đều đến từ những giấc mơ, nhưng do lúc đó không có quan hệ trực tiếp với mình nên chúng ta cũng không để ý. Tất nhiên cũng có rất nhiều cảnh tượng trong giấc mơ để lại ấn tượng sâu sắc, những ví dụ như thế này đều xuất hiện ở cả trong và ngoài nước Trung Quốc từ xưa đến nay, và cũng xuất hiện ở nhiều phương diện, dưới đây chúng tôi đưa ra ví dụ để làm rõ hơn.

Ví dụ 1: Theo Sử Ký ghi chép, Phó Thuyết là hiền thần nổi tiếng thời kỳ Ân Thương, vốn phải chịu nô dịch cực khổ. Vua nhà Thương là Vũ Đinh sau khi gặp ông trong mộng, đã đi tìm ông. Nhờ sự giúp đỡ của Phó Thuyết, thời thịnh thế huy hoàng nổi tiếng trong lịch sử “Vũ Đinh trung hưng” của triều Thương đã được gây dựng, sự việc cụ thể như sau:

Sau khi hoàng đế Tiểu Ất nhà Ân qua đời, con trai ông là Vũ Đinh lên kế vị. Vũ Đinh muốn phục hưng nhà Ân nhưng mãi vẫn không tìm được đại thần phụ tá phù hợp. Thế là trong ba năm Vũ Đinh không có chủ trương chính trị gì, chính sự đều do chủng tế (tên chức quan) quyết định, còn bản thân ông cẩn thận quan sát tình hình đất nước. Một đêm ông mơ thấy một vị Thánh nhân tên là Thuyết. Hôm sau, ông chiểu theo hình dáng người ông nhìn thấy trong mộng mà quan sát quần thần và bách quan, nhưng không có một ai giống như vị Thánh nhân kia. Ông bèn phái các quan đi tìm khắp nơi, cuối cùng tìm thấy Thuyết tại Phó Nham. Lúc đó Thuyết đang phục dịch sửa đường tại Phó Nham, quan viên liền dẫn Thuyết tới cho Vũ Đinh xem, Vũ Đinh nhìn thấy liền nói chính là người này. Sau khi tìm thấy Thuyết, Vũ Đinh liền nói chuyện với ông thì phát hiện quả đúng là vị Thánh hiền, và cho ông đảm nhận chức tướng quốc, nhà Thương từ đó mà được trị vì rất tốt. Vì thế ông đã dùng tên địa danh Phó Nham làm họ của Thuyết, gọi là Phó Thuyết.

Ví dụ 2: Theo Hậu Hán Thư ghi chép, Trương Hoán thời Đông Hán giữ chức thái thú của quận Vũ Uy, vợ của ông mơ thấy bà đang mang theo ấn quan của chồng leo lên thành lầu ca hát. Tỉnh dậy, bà đem chuyện này kể lại cho Trương Hoán, Trương Hoán kêu người bói quẻ, người bói quẻ nói: “Phu nhân sắp sinh con trai, về sau nó sẽ cai quản quận này và chết trên lầu này.” Sau đó vợ Trương Hoán sinh được người con trai tên là Trương Mãnh. Trong những năm Kiến An của Hán Hiến Đế, Trương Mãnh quả nhiên nhậm chức thái thú quận Vũ Uy, giết chết Hàm Đan Thương—thứ sử quận Ung Châu, sau đó quân của Hàm Đan Thương vây kích quận Vũ Uy, Trương Mãnh không chịu nhục bị bắt làm tù binh, liền leo lên thành lầu tự thiêu mà chết.

Ví dụ 3: Cháu trai của nhà thư pháp triều Tấn —thánh thư Vương Hy Chi— là Vương Tuần (350-401), làm đến chức thượng thư lệnh, Hiếu Vũ Đế Tư Mã Xương Minh, thường ngày thích đọc sách cổ, Vương Tuần và Ân Trọng Kham, Từ Mạc, Vương Cung, Si Khôi, v.v. đều nhờ tài học văn chương mà được Hiếu Vũ Đế biết đến. Tấn Thư có ghi chép ông từng mơ thấy một người tặng ông cây bút Như Chuyên, tỉnh dậy ông kể lại: “Giấc mơ này báo sẽ có việc ghi chép lớn.” Ý nghĩa là điều này dự báo sắp có nhiệm vụ ghi chép to lớn nặng nề. Không lâu sau có tin tức hoàng đế băng hà, trong thời gian lo việc tang, tất cả những điếu văn kể về công lao sự tích của vua đều do một mình Vương Tuần viết. Việc này được ghi chép trongTấn Thư quyển 65 “Vương đạo liệt truyện – Vương Tuần”.

Ví dụ 4: Sau khi bắt được cha con Đặng Ngải, Chung Hội đến Thành Đô trục xuất Đặng Ngải rồi làm phản loạn. Sau khi Chung Hội bị giết, tướng sĩ thuộc bản doanh của Đặng Ngải đuổi theo xe tù đang áp giải Đặng Ngải và đón ông trở về. Vệ Quán phái Điền Tự đón đường để thảo phạt Đặng Ngải, dự tính rằng tại Miên Trúc mượn rượu để tương ngộ với Đặng Ngải, và giết chết ông. Con trai Đặng Ngải là Đặng Trung cùng Đặng Ngải đều bị giết chết, những người con khác của ông ở Lạc Dương cũng đều bị sát hại, còn vợ và cháu thì bị lưu đày tới Tây Vực.

Mới đầu, khi Đặng Ngải đang chinh phạt nước Thục, mơ thấy mình đang ngồi trên núi, mà trên núi lại có nước chảy, ông đem cảnh tượng thấy trong mộng hỏi ý Điển Lỗ Hộ Quân Ái Thiệu. Ái Thiệu nói: “Theo quẻ tượng trong Kinh Dịch, trên núi có nước gọi là ‘Kiển’. Lời trong quẻ Kiển nói: ‘Kiển lợi vu tây nam, bất lợi vu đông bắc.’ (Quẻ Kiển lợi theo hướng tây nam, bất lợi theo hướng đông bắc). Tôn Tử nói: ‘Kiển lợi theo hướng tây nam, biểu thị phía trước dù đi chỗ nào cũng sẽ có công lao lợi lộc; bất lợi theo hướng đông bắc, biểu thị đã đi tới đường cùng.’ Lần này ngài đi chinh phạt ở tây nam nhất định sẽ đánh chiếm được Thục Quốc, nhưng có lẽ không trở về được nữa!” Đặng Ngải tâm trí hoang mang buồn rầu. (Trích từ Tam Quốc Chí)

Ví dụ 5: Theo Thái Bình Quảng Ký thời đầu Bắc Tống ghi chép, thừa tướng Triệu Cảnh triều Đường khi làm phó sứ đi sứ sang nước lân cận, đã nói với hai vị phán quan họ Trương: “Xa phía trước vài dặm có một con sông, ven sông có một cây liễu, có một vị quan viên đứng dưới gốc cây liễu.” Rồi họ đi được một lát, quả nhiên nhìn thấy cảnh vật giống hệt như Triệu Cảnh nói, vị quan viên đó chính là quan quản lý trạm dịch (trạm dịch là nơi mà người truyền văn thư đi giữa đường đổi ngựa nghỉ ngơi). Hai vị phán quan hỏi Triệu Cảnh làm sao biết được. Triệu Cảnh nói: “Trước lúc ta 30 tuổi đã mơ thấy chuyến đi này, cho nên ta không oán trách thừa tướng lúc đó.” Thừa tướng Triệu Cảnh gần trước lúc chết, các binh lính giữ các cổng thành Trường An đều nhìn thấy một đứa trẻ đeo tạp dề da báo và một sợi dây ngũ sắc, đi tìm thừa tướng Triệu Cảnh, những người nhìn thấy đứa bé đó đều biết là điềm không may. Vài ngày sau Triệu Cảnh chết.

Ví dụ 6: Vương Phan thời Đường, năm thứ năm Nguyên Hòa (Nguyên Hòa: niên hiệu của Đường Hiến Tông Lý Thuần) thi đỗ tiến sĩ, một hôm ông mơ thấy mình làm quan ở Hà Nam, ban ngày khi ông đang xử lý công việc thì có hai người khách đến, một người mặc quần áo màu tím ngồi hướng đông, một người mặc quần áo màu đỏ ngồi hướng tây. Người mặc quần áo màu đỏ hỏi người mặc quần áo màu tím: “Luân Bang xử trí thế nào?” Người mặc quần áo tím trả lời: “Đã đánh 20 gậy, đuổi ra khỏi khu vực Lạc Dương rồi.” Tỉnh dậy, Vương Phan ghi chép sự việc mơ thấy vào phía sau cuốn sổ nhật ký công vụ. Hai mươi năm sau, quả nhiên ông làm phủ doãn Hà Nam. Sau ông khi nhậm chức, có hai vị huyện lệnh Lạc Dương và phân tư Lang Quan (phân tư: vào triều Đường Tống, quan viên trung ương nhậm chức ở Lạc Dương, gọi là phân tư) đều là bạn cũ trước đây, trong tiệc rượu mọi người đều thoải mái nên nói năng tùy tiện. Lang Quan hỏi huyện lệnh: “Luân Bang xử trí thế nào?” Huyện lệnh đáp: “Đã đánh 20 gậy, đuổi ra khỏi khu vực Lạc Dương rồi.” Vương Phan nghe xong, lập tức chạy vào trong phòng, hồi lâu vẫn không thấy ra. Hai vị khách kinh ngạc nói: “Hai người chúng tôi vừa nãy nói năng hơi tùy tiện, có lẽ Vương phủ doãn không vui.” Lát sau, Vương Phan cầm ra cuốn sách ghi chép công vụ, lật ra những ghi chép năm xưa cho hai người họ xem. Thì ra người vừa nói đến hồi nãy là gia nô của Lang Quan gia, hắn ăn cắp đồ của Lang Quan gia và bỏ trốn, sau khi bị bắt và giải đến huyện nha, huyện lệnh đã đưa ra phán quyết như vậy. (Trích từ Thái Bình Quảng Ký)

Ví dụ 7: Thôi Nguyên Tông sau khi tòng quân ở Ích Châu, muốn kết hôn, thời gian đã định xong, bỗng nhiên có một giấc mơ, trong giấc mơ có một người nói với anh: “Người con gái nhà này không phải nàng dâu nhà anh, nàng dâu của anh hôm nay mới chào đời.” Trong mơ anh bèn đi theo người trong mộng này đến một hộ gia đình ở ngã tư phố Tây Đạo Bắc, phường Lữ Tín ở Đông Kinh, tiến vào căn phòng phía đông trong sân, anh nhìn thấy một người phụ nữ vừa hạ sinh một bé gái. Người dẫn anh đến đó nói với anh: “Đây mới là nàng dâu của anh.” Thôi Nguyên Tông kinh ngạc từ trong mơ tỉnh dậy, nhưng anh không tin sự việc trong giấc mơ. Lúc này có tin báo rằng người con gái mà anh muốn lấy làm vợ đột nhiên tử vong. Từ đó về sau anh thăng quan cho đến hàng quan tứ phẩm, đến 58 tuổi mới kết hôn với em họ của thị lang Vi Trắc. Tân nương khi đó mới 19 tuổi. Mặc dù nhà gái thấy tuổi tác của Thôi Nguyên Tông đã lớn nhưng vẫn gả cho anh. Hôn lễ được tổ chức tại nhà của họ Vi ở phường Lữ Tín, hóa ra tân nương tử ở phòng phía đông. Tính ra thời gian mà cô sinh ra cũng chính là ngày mà Thôi Nguyên Tông nằm mơ, Thôi Nguyên Tông sau này thăng quan làm đến quan tam phẩm, sống đến 90 tuổi. Vi phu nhân sống cùng ông đến đầu bạc răng long, họ sống cùng nhau được 40 năm, hưởng tận vinh hoa phú quý. (Trích từ Định mệnh lục)

Ví dụ 8: Tiểu thuyết gia Trương Trạc thời Đường từng mơ thấy một con chim lớn màu tím, từ trên bầu trời bay xuống đậu trước cổng nhà ông không muốn rời đi. Ông kể chuyện này với ông nội mình, ông nội nói: “Đây là điềm báo may mắn đấy! Năm xưa Thái Hằng nói: ‘Loài chim Phượng có 5 loại, trong đó màu đỏ là chim Phượng, màu xanh lam là chim Loan, màu vàng là chim Uyên, màu trắng là chim Hồng Hộc (Thiên Nga), màu tím gọi là Nhạc Trạc Phượng Hoàng.’ Loại mà con thấy là phụ trợ của Phượng Hoàng, tương lai con có thể phò tá đế vương chấp chính đấy.” Vậy là ông bèn lấy tên cho cháu là Trương Trạc. Sau khi Trương Trạc thi đỗ tiến sĩ, đi đến Hoài Châu, mơ thấy chòm mây cát tường che trên người ông. Trong năm này ông ứng đáp câu hỏi của triều đình, quan chủ khảo thấy ông có học vấn cao thâm, xứng đáng là đệ nhất thiên hạ, sau đó ông trở thành thuộc hạ của Kỳ Vương. Buổi tối, ông mơ thấy mình mặc quần áo màu đỏ cưỡi trên thân lừa. Trong giấc mơ ông còn trách mình, mình nên mặc xiêm y màu xanh và cưỡi ngựa chứ, sao lại mặc đồ màu đỏ và cưỡi lừa được? Khoa cử năm đó ông lại thi đỗ, được nhậm chức Hồng lư thừa. Về sau không cần thi ông lại được ban cho chức quan ngũ phẩm. Điều này đã ứng nghiệm giấc mơ mơ thấy con chim lớn khi xưa. (Trích từ Triều Dã Thiêm Tải quyển 3)

Ví dụ 9: Phan Giới đã từng nói, trước mỗi lần tham gia thi cử tuyển quan chức, nhất định sẽ có mộng báo trước. Năm đó, ông và Triệu Tự Cần cùng đi ứng thí, bài thi đều đã trình lên công đường, nhưng thời gian dài vẫn chưa công bố kết quả. Sau đó Phan Giới nói, ông đã nằm mơ thấy rồi, kết quả sắp được công bố. Ông mơ thấy mình và Triệu Tự Cần đều được chọn, hai người cùng đến cảm tạ quan chủ khảo, ông đi trước, Triệu Tự Cần đi theo sau. Đến trước công đường, Phan Giới ở hướng đông, Triệu Tự Cần ở hướng tây, hai người nhìn nhau cùng cười. Mấy ngày sau, kết quả thi cuối cùng cũng được công bố, Phan Giới được phong làm ngự sử, Triệu Tự Cần được phong làm thập di. Cùng một ngày hai người họ cùng đến cảm tạ quan chủ khảo. Quan chủ khảo dẫn hai người tiến cử cho hoàng đế, Phan Giới đi phía trước, Triệu Tự Cần đi theo sau. Đến điện, Phan Giới đứng phía đông, Triệu Tự Cần đứng phía tây, hai người nhìn nhau mỉm cười, giống hệt như trong giấc mơ. (Trích từ Định Mệnh Lục)

Ví dụ 10: Tháng 10 năm thứ hai tại Túc Tôn, Hiếu Xương, thứ sử Dương Châu Lý dâng tấu chương nói: “Môn hạ đốc Châu Phục Hưng tháng 07 năm ngoái bị bệnh nên xin nghỉ về nhà, đến đêm ngày 11 mơ thấy vượt qua Phì Thủy, đi đến phía nam Thảo Đường Tự, xa xa nhìn thấy bảy người, một người cưỡi ngựa mặc áo đỏ thắm, đội mũ quan, sáu người theo sau. Châu Phục Hưng đứng bên trái đường, đợi bảy người đến gần liền làm lễ hai vái. Họ liền hỏi Châu Phục Hưng là người như thế nào. Châu Phục Hưng trả lời: ‘Lý Công môn hạ đốc, tạm thời nhận lệnh đến Hiệp Thạch.’ Người kia nói với Châu Phục Hưng: ‘Anh có thể quay về, ta là trung thư xá nhân của Hiếu Văn Đế, nhận lệnh đến nói chuyện với Khuê Tắc, không cần lo lắng việc ngăn giặc, trong tháng này nhất định đánh bại chúng.’ Châu Phục Hưng đi được hai bước, người đó lại hỏi danh tính Châu Phục Hưng, rồi để Châu Phục Hưng nhanh chóng trở về báo cáo. Sau khi Châu Phục Hưng tỉnh dậy, trời sáng ông bèn trở về Thành Quả, đem những điều thấy trong mộng báo lên trên. Ngày 27 tháng 07, kẻ địch quả nhiên bị đánh tan.” (Lấy từ Ngụy Thư)

Ví dụ 11: Nhà văn nổi tiếng triều Thanh —Kỷ Hiểu Lam— trong tác phẩm tiêu biểu Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký của ông có ghi chép một chuyện như thế này: Năm Càn Long thứ 42, cử nhân Qua Trọng Phường có tham gia thi hương, trong mơ ông đến một nơi, nhìn thấy đề trên bình phong mấy bài thơ tứ tuyệt. Tỉnh lại ông vẫn nhớ hai câu trong đó: “Tri thị Bồng Lai đệ nhất tiên, nhân hà thanh thiển kỷ đa niên?” Năm Càn Long thứ 57, ông gặp người Cảnh Châu họ Lý tại Hà Gian, bỗng nhiên nói về việc này. Người họ Lý kinh ngạc nói: “Đây là bài thơ Vịnh mai mà người thân viết lên bức bình phong cho gia đình tôi, câu thơ không có gì xuất sắc, không biết sao lại lọt vào giấc mơ của ngài.”

Ví dụ 12: Thẩm Quát là nhà khoa học, chính trị gia nổi tiếng thời Bắc Tống. Năm cuối đời tại Mộng Khê Viên ở Trấn Giang đã viết cuốn Mộng Khê Bút Đàm. Về lai lịch hai chữ “mộng khê” này, trong phần mở đầu của Mộng Khê Bút Đàm có ghi lại như sau:

Khi ông gần 30 tuổi, từng nằm mộng thấy đi đến một nơi, leo lên một ngọn núi nhỏ, hoa cỏ cây cối như tấm vải lụa che phủ, dưới núi có nước trong vắt nhìn thấy đáy, trên núi lại có cây đại thụ tỏa bóng che mát. Trong mộng ông vô cùng thích nơi này, muốn được quay lại đây. Từ năm đó trở đi, một hai lần hoặc ba bốn lần ông đều nằm mơ đến nơi đó, quen thuộc như thể thường ngày vẫn dạo chơi qua. Hơn 10 năm trôi qua, ông bị giáng chức đến Tuyên Thành làm thái thú, nơi đó có một Đạo nhân kể cho ông nghe về cảnh đẹp sông núi ở Kinh Khẩu, còn nói rằng trong huyện có người đang muốn bán một khu vườn. Vậy là Thẩm Quát liền dùng 30 vạn quan tiền để mua nó, nhưng lại chưa từng đến đó lần nào. Lại sáu năm trôi qua, Thẩm Quát vì thương nghị việc chiến thủ vùng biên giới mà chịu tội bị giáng chức, mua một căn nhà tại Uất Đẩu Động ở Tầm Dương, dự định sẽ ngao du ở Lư Sơn đến cuối đời. Năm đầu Nguyên Hựu, Thẩm Quát đến Kinh Khẩu, đến khu vườn mà vị Đạo nhân đã chuẩn bị, phảng phất như nơi này đã từng du lãm qua trong mộng. Ông cảm thán nói: “Duyên phận của ta chính là ở nơi đây.” Vậy là ông đã từ bỏ căn nhà tại Tầm Dương, dựng một chỗ ở tại vùng ven Kinh Khẩu. Nơi đây cây cối tươi tốt um tùm, nước từ khe núi chảy ra, quanh co uốn lượn, nên được gọi là “Mộng Khê”…



Bìa cuốn Mộng Khê Bút Đàm bản dịch tiếng Anh, dịch bởi Gil McElroy (Nguồn: Amazon)

Ví dụ 13: Sử quan Hàn Lâm Viện Uông Thủ Hòa thời còn là chư sinh (học sinh đỗ tú tài được chọn để học tiếp), có một đêm nằm mơ thấy ông ngoại Sử Nhĩ Huề đưa một người đến nhà ông, ông ngoại chỉ vào người này và nói với Uông Thủ Hòa: “Người này là đồng niên của ta, tên Kỷ Hiểu Lam, tương lai ông ấy sẽ là thầy của con.” Uông Thủ Hòa trong mộng liền lặng lẽ ghi nhớ tướng mạo và trang phục của Kỷ Hiểu Lam. Sau này Uông Thủ Hòa tham gia khoa cử của triều đình, vừa khéo lại gặp Kỷ Hiểu Lam duyệt bài, ông chấm cho Uông Thủ Hòa đỗ cao. Uông Thủ Hòa được trao chức quan và sau đó yết kiến Kỷ Hiểu Lam, bèn nhắc tới sự việc trong mơ, mô tả tướng mạo và trang phục của Kỷ Hiểu Lam giống hệt như trong giấc mơ. (Trích từ Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký)

Ví dụ 14: Lý Nguyên Trung là người quận Bá Nhân nước Triệu. Ông cố nội Lý Linh nhậm chức thứ sử và cự lộc công ở Ngụy Định Châu. Ông nội Lý Khôi, nhậm chức Trấn Tây tướng quân. Cha là Lý Hiển Phủ, nhậm chức thứ sử An Châu. Thời kỳ đầu khi Nguyên Trung sắp làm quan, có mơ thấy tay mình cầm đuốc tiến vào mộ huyệt của cha, nửa đêm kinh hãi tỉnh dậy, không thích giấc mơ đó. Trời vừa sáng, Nguyên Trung đem giấc mơ này kể lại cho thầy mình, thầy của Nguyên Trung bói quẻ rồi nói: “Đại cát, giấc mơ này nói rằng con sẽ làm rạng rỡ tổ tiên, cuối cùng sẽ phú quý phát đạt đấy.” Cuối cùng con trai Lý Nguyên Trung là Lý Tao được kế thừa bổng lộc và chức quyền. (Trích từ Bắc Tề Thư)

Ví dụ 15: Thời kỳ Bắc Tống, thời niên thiếu Vương Hậu Chi từng mơ thấy có người nói với ông, tương lai ông sẽ làm học sĩ Hàn Lâm, hơn nữa mấy anh em ông cũng làm trong Hàn Lâm Viện. Nguyên Hậu Chi nghĩ bản thân mình trước nay không có anh em nào, cho rằng giấc mơ này không đúng. Trong những năm Hy Ninh, Hậu Chi được làm học sĩ, những học sĩ trước sau cùng ông vào Hàn Lâm Viện có: Hàn Duy, tự Trì Quốc; Trần Dịch, tự Hòa Thúc; Đặng Quán, tự Văn Yêu; Dương Hội, tự Nguyên Tố. Thêm Nguyên Hậu Chi, tự Nguyên Giáng, tên của năm người đều có bộ “mịch – 系” trong đó, Nguyên Hậu Chi mới hiểu cách nói mấy anh em đều làm trong Hàn Lâm Viện trong giấc mơ. (Trích từ Mộng Khê Bút Đàm)

Ví dụ 16: Năm Đinh Mão, thời Minh Chính Tông, ở Hồ Quảng có một vị quan viên trên đường đi nhậm chức mơ thấy trên bảng vàng bỗng nhiên viết: Đứng đầu bảng, Bành Thời. Khi đó cuộc thi chưa bắt đầu, vị quan viên này tỉnh dậy bán tín bán nghi, liền viết chuyện này ra giấy. Sau này, một thí sinh tên Bành Thời quả thật đã trở thành trạng nguyên. Trước cuộc thi một tháng, hoàng đế Anh Tông cũng có giấc mơ tương tự, mơ thấy ba nhân vật Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo tiến đến phía trước bái yết. Sau khi Anh Tông tỉnh dậy, lo sợ nghi hoặc không hiểu thế nào. Sau này khi công bố danh sách xong mới đột nhiên tỉnh ngộ. Thì ra ba người này chính là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa của năm đó. Thi đỗ trạng nguyên là nho sĩ Bành Thời, bảng nhãn Trần Giám thuở nhỏ từng ở nhờ tại Thần Lạc Quan, thám hoa Khâu Chính thuở thiếu thời từng làm người ghi chép trong Khánh Thọ Tự. (Trích từ Trạng Nguyên Sự Lược)

Ví dụ 17: Hoàng hậu Cao Thị (Cao Chiếu Dung) của hoàng đế Hiếu Văn Chiêu là em gái của tư đồ công Cao Triệu. Cha là Cao Dương, mẹ là Cái Thị, có bốn con trai và ba con gái đều sinh ra ở vùng biên giới xa xôi phía đông. Năm đầu Cao Tổ, cả gia đình mới chuyển về phương tây, đến Long Thành trấn, vị tướng cai quản trấn đó dâng tấu nói rằng hoàng hậu đức hạnh thiện lương, nhan sắc diễm lệ, có thể tiến vào hậu cung. Sau khi đến cung, thái hậu Văn Minh đích thân đến Bắc Bộ Tào, nhìn thấy dung mạo hoàng hậu, bà cho rằng cô rất đặc biệt, thế là cho phép nhập cung, năm đó hoàng hậu Hiếu Văn 13 tuổi.

Năm xưa, khi hoàng hậu còn nhỏ từng mơ thấy mình đứng trong đường thất (nhà chính), ánh sáng Mặt Trời từ cửa sổ chiếu vào bà, sáng rõ mà lại vô cùng nóng, hoàng hậu tránh đông tránh tây, nhưng ánh Mặt Trời vẫn chiếu vào người không dừng. Cứ như vậy mấy đêm, hoàng hậu cảm thấy kỳ lạ, liền đem chuyện kể lại cho cha là Cao Dương, Cao Dương đem chuyện này đi hỏi Mẫn Tông người Liêu Đông. Mẫn Tông nói: “Đây là điềm báo đặc biệt kỳ lạ, tôi không thể diễn tả bằng lời.” Cao Dương nói: “Dựa vào đâu mà biết chứ?” Mẫn Tông nói: “Mặt Trời là đức tính của quân chủ, là tượng trưng của đế vương. Ánh sáng chiếu lên người của con gái ông, nhất định có sắc phong cho cô ấy, cô ấy tránh nhưng vẫn bị ánh mặt trời chiếu rọi, là quân chủ đến cầu hôn trước, cô ấy bất đắc dĩ phải đồng ý. Lúc trước đã từng có người mơ thấy Mặt Trăng tiến vào bụng, và sinh hạ Thiên tử, huống hồ đây là điềm báo ánh Mặt Trời chiếu rọi chứ? Cô gái này tất sẽ phải nhận sắc phong của hoàng đế, còn sinh con cho quân chủ nữa.” Cuối cùng cô sinh hạ được hai trai một gái, tức Bắc Ngụy Tuyên Võ Đế Nguyên Cách, Quảng Bình Võ Mục Vương Nguyên Hoài và con gái Trường Lạc Quận Trường công chúa Nguyên Anh. (Trích từ Ngụy Thư)

Ví dụ 18: Theo truyền thông đưa tin, Carl Gustay Jung, là người sáng lập trường phái “Tâm lý học phân tích” và là một bác sĩ khoa thần kinh nổi tiếng Thụy Sỹ. Ông có những thành tựu xuất sắc về phương diện lý giải các giấc mơ. Theo ước tính của ông, bản thân ông đã lý giải tổng cộng hơn 80.000 giấc mơ.

Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Gustay Jung đã mơ thấy cảnh tượng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thực ra trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, rất nhiều người châu Âu cũng đều mơ thấy cảnh tượng chiến tranh bùng nổ.

Ví dụ 19: Đầu năm 2010, khi đó tôi đang dạy lớp luyện thi tốt nghiệp, sau khi công bố kết quả vòng một kỳ thi cấp ba ở khu vực, thành tích của trường chúng tôi hơi kém một chút so với thành tích của trường bạn được coi là đối thủ cạnh tranh, nên tổ trưởng tổ bộ môn của chúng tôi Tiểu Điền đã bị lãnh đạo phê bình, lại còn yêu cầu lần thi sau nhất định phải vượt thành tích của trường kia. Lúc đó Tiểu Điền bị áp lực rất lớn, cậu ấy muốn nhờ tôi bói một quẻ xem lần thi tới có thành tích cao hơn không. Lúc đó tôi cũng không xem quẻ, có điều tối hôm đó trước khi đi ngủ có nghĩ về vấn đề này, do đó tôi đã mơ một giấc mơ. Trong mơ tôi thấy các đồng nghiệp trong phòng tôi cùng các thầy cô của trường bạn kia cùng nhau tham gia hoạt động nghiên cứu, trong mơ lúc đó có một cảnh tượng làm tôi ấn tượng rất sâu sắc, đó là nhìn thấy Tiểu Điền đang đứng trước mặt tổ trưởng tổ bộ môn của trường bạn và nói gì đó, hơn nữa vẻ mặt lộ ra nụ cười đắc ý. Sau khi tỉnh dậy tôi mới hiểu được ý nghĩa của giấc mơ này, ngày hôm sau đi làm tôi nói với Tiểu Điền: “Anh cứ yên tâm đi, lần thi sau thành tích của chúng ta sẽ vượt họ.” Quả đúng là trong vòng thi thứ hai toàn thành phố, thành tích của chúng tôi cao hơn trường bạn. Sự việc này hơn 10 đồng nghiệp trong phòng chúng tôi đều biết.

Ví dụ 20: Hè năm 2010, trước kỳ thi đại học khoảng một tháng, tổ trưởng Tiểu Điền nửa đùa nửa thật nói với tôi: “Lần này có thể phiền cậu lại mơ xem đề thi thế nào không?” Lúc đó tôi cười nói với anh ấy: “Nằm mơ khó lắm, không giống như làm văn xác định chủ đề trước rồi nội dung đâu, nhưng tôi cứ thử xem sao.” Tối hôm đó, tôi nghĩ về vấn đề đó trước khi đi ngủ và mơ một giấc mơ rất rõ ràng: Khi trời vừa mới tờ mờ sáng, tôi đi ra ngoài tản bộ, nhìn thấy thủ tướng đương nhiệm họ Ôn đang vội vã đi phía trước, tôi đi theo phía sau ông ta, còn nhìn thấy bên đường có mấy người lớn tuổi đang ngồi nói chuyện, trong đó có một ông lão chào hỏi ông: “Thủ tướng đi đâu vội vã thế?” Thủ tướng nói với ông lão: “Tôi phải đi đến hội nghị ở phía trước để diễn giảng”. Ông lão hỏi tiếp: “Diễn giảng vấn đề gì vậy?” Thủ tướng nói: “Là liên quan tới ‘Phú Xuân Sơn Cư Đồ’.” Ông ấy vừa nói dứt lời, tôi liền tỉnh dậy. Ngày hôm sau đến phòng làm việc, tôi nói với Tiểu Điền: “Tôi mơ thấy một đề mục, có lẽ sẽ xuất hiện trong đề thi đại học, là ‘Phú Xuân Sơn Cư Đồ’, hãy bảo các giáo viên mỹ thuật của chúng ta chuẩn bị các tài liệu liên quan tới đề mục này, rồi phát cho học sinh bảo chúng chịu khó ôn tập.” Vậy là đồng nghiệp của tôi đi chuẩn bị kỹ lưỡng, về sau, trong đề thi đại học của tỉnh Sơn Đông năm 2010 phần kiểm tra kiến thức cơ bản thật sự có chủ đề này, và chiếm hai điểm. Năm đó, khoa của chúng tôi đạt thành tích thi đại học vượt xa trường bạn, hơn nữa lớp tôi phụ trách có số học sinh đạt điểm cao môn kiến thức cơ bản nhiều nhất. Khi đó các đồng nghiệp trong phòng của chúng tôi đều biết về sự việc này, trong các học sinh cũng có em biết.

Những giấc mơ có thể nhìn trước tương lai vẫn thường xảy ra với tôi ngay cả cho đến nay, chỉ là có năm nhiều năm ít. Ví như khoảng thời gian năm 2004, tôi phát hiện ra có mấy chục sự việc đã biết trước trong mơ rồi, hơn nữa đều là những việc nói chuyện với những người không quen biết ở những nơi xa lạ. Khoảng thời gian kể từ khi mơ cho đến khi sự việc xảy ra cũng khác nhau, có việc được mơ trước nửa năm, có việc mơ trước hai, ba tháng, có sự việc lại mơ trước chỉ mấy hôm. Con người, hoàn cảnh cũng như nội dung mà chúng tôi nói chuyện trong đời thực không sai chút nào so với trong mơ. Về sau tôi thường hay nói về chủ đề này với các đồng nghiệp, bạn bè cho đến cả học sinh của mình, mọi người cũng đều công nhận rằng thường hay có giấc mơ như thế xuất hiện.

Vậy chúng ta hãy thử nghĩ xem đó có thể nói là sự việc ngẫu nhiên chăng? Phải chăng rất nhiều bí ẩn của sinh mệnh và vũ trụ chứa đựng bên trong những giấc mơ đó?

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2015/04/21/144901.说梦(1):概论.html

Khái quát về các không gian khác

Khái quát về các không gian khác



Tác giả: Xinfaming

 Các không gian khác với không gian chúng ta đang sống luôn là một điều bí ẩn đối với con người. Vậy thì các không gian khác trông như thế nào? . Phật Thích Ca Mâu Ni (Phật Siddarth Guatama) đưa ra thuyết ‘Tam thiên đại thiên thế giới’. Ông nói rằng trong một hạt cát có 3.000 thế giới rất giống với thế giới của chúng ta.

Vậy một thế giới trong một hạt cát trông như thế nào? Trên thực tế, chúng ta đề cập đến ở đây là một thế giới trong một không gian vi quan. Không chỉ một hạt cát có nhiều thế giới, mà bên trong các vật chất khác cũng có nhiều thế giới. 

Tôi nhặt một mảnh gỗ nhỏ và nhìn thật sát vào nó. Bỗng nhiên một cảnh tượng hiện ra trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy một sân bay ở bên trong với các đường băng và máy bay. Trên bầu trời, một vài máy bay đang hạ cánh. Có một chiếc trực thăng, giống như trực thăng trong thế giới chúng ta, đang lượn vòng quanh phía trên sân bay, có vẻ như nó vừa mới cất cánh. Một điều lạ là có một con rùa to bằng chiếc trực thăng cũng đang bay phía sau nó. Hình dáng của con rùa trông giống như rùa mà chúng ta biết trong thế giới của chúng ta, ngoại trừ cái đuôi của nó trông lớn hơn. Chú rùa này cũng có thể bay trên bầu trời.

“Thích Ca Mâu Ni giảng rằng trong một hạt cát có tam thiên đại thiên thế giới. Học thuyết của ông nói rằng trong hệ Ngân Hà này của chúng ta có ba ngàn tinh cầu, trong đó lại có con người có trí tuệ giống như nhân loại chúng ta. Ông còn giảng rằng trong một hạt cát cũng có tam thiên đại thiên thế giới như thế này. Nếu đúng như lời ấy, mọi người thử nghĩ xem, tại mức vi quan, một hạt cát cũng giống như hệ Ngân Hà này, cũng có xã hội nhân loại. Nếu cứ nhìn thật sâu xuống, chẳng phải trong hạt cát ấy cũng có sông và cát phải không? Như vậy bên trong hạt cát kia cũng còn có tam thiên đại thiên thế giới phải không? Vậy thì mỗi hạt cát bên trong hạt cát kia cũng còn có tam thiên đại thiên thế giới phải không? Vậy nên, đến tầng Như Lai mà nhìn cũng không đến tận cùng của nó được. Con người chỉ có thể nhìn thấy chân tướng của vũ trụ nếu tránh dùng cặp mắt thịt này do phân tử tạo thành. Tầng càng cao thì càng nhìn được vi quan hơn, và càng nhìn được ở phạm vi rộng lớn hơn. Thích Ca Mâu Ni không nhìn thấy được vật chất nhỏ nhất của vũ trụ, cũng không thấy được biên giới tối hậu của vũ trụ. Do đó vào những năm cuối đời, ông đã giảng một câu: “Kỳ đại vô ngoại”, ông không biết được vũ trụ rốt cuộc lớn ngần nào, và “kỳ tiểu vô nội”, vật chất nhỏ đến mức ông không thể nhìn thấy tận cùng.” (Chuyển Pháp Luân Pháp Giải) (tạm dịch)

Vật chất trong không gian của chúng ta đều được cấu thành từ phân tử. Dưới phân tử là nguyên tử, hạt nhân nguyên tử, proton, neutron (trung hòa tử), electron (điện tử), quark và lạp tử nhỏ nhất mà con người biết được là neutrino (trung vi tử), trên thực tế vẫn còn rất xa mới đến được thành phần nhỏ nhất tồn tại. Chẳng phải hình ảnh các electron quay quanh hạt nhân nguyên tử giống với hình ảnh Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời sao? Thực ra, chúng đều được kiểm soát bởi cùng một cơ chế. Liệu có các sinh mệnh sống trên bề mặt các electron không? Nếu thiên mục người ta mở đến một tầng cao nào đó thì có thể nhìn thấy họ. Hiện nay, người ta gọi sự chuyển động của các electron là các ‘đám mây electron’. Đó là vì họ không có thiết bị nào để đo quỹ đạo của electron. Thiết bị của chúng ta đều được cấu tạo từ phân tử, vì thế nó không thể thấy được các sinh mệnh sống trên các electron. Con mắt thứ ba của người tu luyện được cấu thành từ các lạp tử cao năng lượng, vì thế họ có thể quan sát các cảnh tượng này.

Thực ra, ‘tam thiên đại thiên thế giới’ mà Thích Ca Mâu Ni giảng là chỉ nói đến một phần của kết cấu theo chiều ngang của vũ trụ, trong đó các sinh mệnh sống thuộc về một tầng thấp, hoặc trong lớp vỏ ngoài của vũ trụ. Kết cấu của vũ trụ rất phức tạp. Nó còn bao gồm một số hệ thống khác nữa. Các thế giới của Phật và Thần đều không tồn tại trong hệ thống này; chúng ở trong các không gian theo chiều dọc. Các thế giới này được cấu thành từ các thành phần vi tế hơn và mức năng lượng cao hơn. Con người không thể hiểu được chúng trừ phi con người tu luyện.

 “Tư tưởng chỉ đạo về nghiên cứu và phát triển của khoa học nhân loại hiện nay chỉ có thể hạn cuộc trong thế giới vật chất. Sự vật được nhận thức rồi thì nó mới được nghiên cứu. Người ta cứ theo lề lối ấy. Nhưng tại không gian chúng ta có những hiện tượng tuy nhìn không thấy sờ không được, nhưng tồn tại một cách khách quan, và lại có khả năng phản ánh đến không gian vật chất chúng ta, có biểu hiện hết sức thực tại, người ta lại khước từ không động chạm đến, cho đó là những hiện tượng bất minh”.
Cách duy nhất để hiểu được các hiện tượng này là thông qua Phật Pháp. “Từ nghìn xưa đến nay, có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian vật chất tồn tại, sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ, thì chỉ có Phật Pháp”. (“Luận ngữ”, Chuyển Pháp Luân)

Dịch từ http://www.pureinsight.org/node/988

Hạt giống sự thật


 Cách đây rất lâu, có một quốc vương vốn là một con cóc thành tinh, ngoại hình vô cùng xấu xí. Ban ngày nó khoác lên lớp da bên ngoài của con người, biến hóa thành hình dáng giống như con người vậy. Nhưng vẫn là cặp mắt lồi, môi vành miệng rộng, bụng bự căng tròn. Nó đã làm rất nhiều chuyện xấu, muôn dân trăm họ chỉ dám căm tức trong lòng chứ không dám nói ra, vậy nên mọi người đã lén lút đặt biệt danh cho nó là: vua cóc ghẻ.

Một ngày kia, có một tiên nữ vô cùng xinh đẹp từ trên trời giáng hạ xuống, ánh mắt của cô giống như các vì sao, y phục của cô giống như những áng mây lành rực rỡ, mái tóc đen dài xõa xuống đến tận đầu gối, trên đầu đội vòng hoa bảy màu. Vị tiên nữ này cất lên những bài ca hay nhất thế gian. Cô đi qua sa mạc, sa mạc liền biến thành ốc đảo; cô băng qua những đồi núi hoang vu, những đồi núi hoang vu đó lập tức biến thành những cánh đồng phì nhiêu màu mỡ. Cô đi đến nơi nào thì nơi đó sẽ không còn ưu sầu, không còn thù hận. Những ai chỉ cần gặp được cô, đều có thể trở nên khỏe mạnh và hạnh phúc. Mọi người yêu mến cô vô cùng.

Việc này đã nhanh chóng lan truyền đến tai của vua cóc ghẻ, nó vừa căm tức vừa đố kỵ, cái bụng bự trắng bệch tức đến nỗi gióng lên từng hồi từng hồi. Nó điên cuồng la hét: “Cái gì chứ! Mọi người đều ca ngợi nó sao? Đều yêu mến nó sao? Hừ! Một nhãi ranh nhỏ bé, nó lại mê hoặc biết bao nhiêu thần dân của ta như vậy sao! Uy vọng của nó lại dám vượt qua cả một quốc vương đường đường như ta hay sao!” Lòng đố kỵ khiến cho tên quốc vương xấu xa độc ác này phát cuồng, tròng mắt của nó trợn tròn và dựng ngược, cái bụng bự tức đến muốn nổ tung cả lên.

Vua cóc ghẻ quyết định sẽ giết chết vị tiên nữ này, nhưng luôn luôn muốn tìm một lý do thỏa đáng. Thế là vua cóc ghẻ vắt óc tìm kế, tiến hành phỉ báng vu khống đối với vị tiên nữ này, rồi nói với mọi người rằng: “Vẻ đẹp của tiên nữ là do ma quỷ biến thành, sẽ mang đến tai họa cho mọi người.” Đồng thời còn ra lệnh cho đám nhạc công của nó khua chiêng đánh trống thổi kèn suốt cả ngày, mọi người bèn tin theo những lời dối trá rợp trời dậy đất ấy.

Vị tiên nữ lo lắng những lời dối trá ác độc sẽ hủy diệt nhân loại. Cô biết rằng: chỉ có hạt giống sự thật mới có thể đánh thức tâm hồn mê mờ của mọi người, mới có thể cứu vãn sinh mệnh của mọi người. Bất chấp sự đuổi bắt của đám yêu binh, tiên nữ vẫn mang “hạt giống sự thật” đi truyền rộng. Lúc mới bắt đầu, rất nhiều người không dám tin tưởng cô, dần dần mọi người phát hiện ra vị tiên nữ này chẳng những trông rất xinh đẹp, mà còn rất chân thành, thiện lương. Mọi người đều biết mình đã bị lừa.

Có một ngày, tiên nữ đã đi rất nhiều nơi, vừa mệt vừa đói. Cô đến nhà của một người nghèo khổ, nhà này chỉ có một bà cụ hai mắt đã bị mù và một đứa cháu nhỏ. Họ đã dâng lên tô cháo duy nhất cho tiên nữ. Vị tiên nữ ăn xong mỉm cười cảm tạ họ, còn gửi lời chúc phúc cho họ. Đôi mắt của bà cụ đột nhiên sáng trở lại, bà phát hiện rằng cái tô đã biến thành vàng.

Tiên nữ lại đi đến một làng quê, đám yêu binh đuổi theo sau rất gấp. Một người nông dân mời cô đến nhà của mình để ẩn núp, người nông dân vừa ra khỏi cửa, đám truy binh đã đến trước cửa rồi.

“Ngươi có nhìn thấy một yêu nữ đi ngang qua đây không?” Truy binh hỏi.

“Ồ, có phải người mà các ông nói là một cô gái vô cùng xinh đẹp không? Tôi có thấy, cô ấy hình như đi về hướng đông. Bên đó có con đường, bây giờ chắc đã ra khỏi thôn rồi.”

Tiếng vó ngựa xa dần, người nông dân đi vào trong nhà, cung kính nói với vị tiên nữ rằng: “Xin cô hãy ở lại một khoảng thời gian, trong thôn vẫn còn rất nhiều người chưa có được ‘hạt giống sự thật’.” Tiên nữ đã đồng ý, người nông dân lên núi đốn củi, trên đường đi đột nhiên một ngọn núi bị sạt lở, rất nhiều người bị đè chết, chỉ có người nông dân là bình an vô sự.

Người nông dân vừa bước vào cửa nhà, đứa con nhỏ vui mừng chạy đến nói: “Cha ơi! Hãy mau đến xem này!” Đi theo đứa con, người nông dân phát hiện người vợ nằm bệnh liệt giường suốt mấy năm nay, giờ đã sắc mặt hồng hào mà đứng lên trở lại.

Người nông dân có phần không dám tin vào mắt mình nữa: “hạt giống sự thật” lại thần kỳ đến như vậy sao!

Người vợ nói: “Bây giờ em đã hoàn toàn khỏi hẳn rồi, hôm nay em sẽ chuẩn bị cơm trưa cho mọi người.” Vợ của người nông dân mở nắp nồi ra, cả nhà kinh ngạc phát hiện trong nồi toàn là những hạt cơm gạo trắng như tuyết nóng hổi dậy mùi thơm phức.

Hàng xóm A Điêu của người nông dân ấy là một kẻ lưu manh chơi bời lêu lổng, một ngày nọ y thua bạc trở về nhà, nghe nói rằng ai tố cáo tiên nữ có thể được thưởng rất nhiều tiền, thế là y liền chỉ điểm cho vua cóc ghẻ.

Vua cóc ghẻ vô cùng mừng rỡ, đã thưởng cho A Điêu rất nhiều vàng, và còn muốn giữ y ở lại làm quan lớn. Quốc vương sai hai thị vệ bên cạnh mình là A Miêu và A Cẩu đi bắt người tiên nữ xinh đẹp kia. Nhưng sự việc này vừa khéo lại bị người hầu rót trà tên A Quải (quải tức là què) nghe thấy. A Quải từ sớm đã nghe nói đến dung mạo xinh đẹp, tấm lòng thiện lương, còn cứu giúp rất nhiều người tốt của tiên nữ, cậu quyết định lập tức đi báo tin cho cô.

Trên đường đi, A Quải ngạc nhiên phát hiện rằng đôi chân của mình không còn bị què, hơn nữa còn có thể đi nhanh như bay. Khi A Miêu, A Cẩu đuổi đến nơi, tiên nữ đã an toàn rời khỏi từ lâu rồi, hai tên thị vệ trên đường trở về hoàng cung đã bị một chiếc xe ngựa chạy như bay đụng phải, chết rất thê thảm.

Vua cóc ghẻ vừa nghe xong liền nhảy dựng lên lồng lộn, rút thanh kiếm đeo trên lưng ra, trách mắng A Điêu vì tiền thưởng mà đưa tin vịt, A Điêu sợ đến ướt cả quần, quỳ mọp xuống đất: “Xin hãy tha cho tiểu nhân, xin hãy tha cho tiểu nhân!” A Điêu bị đâm chết, vàng từ trong ngực lăn ra, rơi vãi khắp sàn.

Vị tiên nữ nói với mọi người một bí mật to lớn: vì vua cóc ghẻ đã phạm nhiều tội ác, lại có rất nhiều người đã đồng lõa mà hùa theo nó, vậy nên Thiên Thượng sẽ trừng phạt loài người. Khi cái cây khô trăm năm ở trước cung điện kia nở hoa, những người mà không có được “hạt giống sự thật” sẽ bị tai họa giáng xuống đầu.

Sau khi vua cóc ghẻ nghe được lời đồn này liền cười ầm lên. Nó nghĩ: “Chỉ cần khi cây khô nở hoa mà kiếp nạn vẫn không đến, mọi người tự nhiên sẽ không tin vào lời của tiên nữ nữa.” Nó liền sai người đi loan tin khắp nơi: ba ngày sau cây khô sẽ nở hoa, gọi mọi người đến xem.

Hôm đó, vua cóc ghẻ dẫn theo người đến trước cung điện từ sớm. Nó đem những bông hoa giả đã làm sẵn gắn lên trên cành cây, khi gắn đến bông hoa thứ chín, vua cóc ghẻ đột nhiên hiện nguyên hình, biến thành một con cóc ghẻ ba chân. Lúc này mọi người từ bốn phương kéo đến, mọi người vừa nhìn thấy đã biết rõ chân tướng của tên quốc vương, bèn hô lên: “Giết nó đi! Giết nó đi!”

Con cóc ghẻ nhảy vào trong nước hòng bỏ trốn, trên trời bắn ra vô số mũi tên màu vàng, thi thể của nó ngã xuống nằm ngửa bụng, nổi lên trên mặt nước.

Lúc đó, đại hồng thủy từ trên trời giáng xuống! Mọi người vừa kêu khóc, vừa chen lấn nhau bỏ chạy để bảo toàn tính mệnh.

Vị tiên nữ xinh đẹp đứng trên mây ngũ sắc, vòng hoa trí huệ trên đầu lấp lánh ánh quang, cô khẽ động cánh tay áo mấy cái, trong nước xuất hiện những bông sen cực lớn. Những người đã có được “hạt giống sự thật” đều đứng ở chính giữa. Hoa sen càng dâng càng cao, những người không chịu tiếp nhận “hạt giống sự thật” không ngừng chìm xuống dưới, chìm xuống dưới, rơi vào trong hồng thủy sóng gió cuồn cuộn.

Đại hồng thủy rút đi, những người lương thiện được giữ lại, bắt đầu khai hoang trồng trọt, dựng nhà bắc cầu, kiến tạo cuộc sống mới trên vùng đất đã được hồng thủy tẩy sạch.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2005/01/29/30893.寓言:真理的种子.html

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

CỨ ĐỂ LÒNG THANH THẢN

Lý Thừa Nghiệp





Quảy gánh lên vai lòng phiêu hốt
Đường sen kia xanh đã ngút ngàn
Em ở lại cứ tạc vòng giếng ngọc
Rót hương vào từng vạt nắng vàng thơm.

Cứ bỏ đó,cứ để lòng thanh thản
Mưa chiều nay lất phất gió muôn chiều
Cười với lá mùa xuân hay mùa hạ
Phía cuối đời sẽ vỡ lẽ tình yêu.

Pha chút lệ sẽ nồng nàn hương muối
Những mùa xuân ẩn náu ở tay người
Sẽ ngây ngất mở toan vòm ngực mới
Vị ngọt bùi mây nước chín từng rơi.

Quảy gánh lên vai hề! ly biệt
Sân bay sương tỏa mờ cố hương
Người cũ ngàn năm đâu ai biết
Dốc núi sương pha, máu cạn nguồn.

Thơ Lữ Thị Mai




Nhà thơ Lữ Thị Mai - 2015




Không lời



Em khóc trên ngực anh
bằng đôi mắt của ngàn năm về trước
nơi chúng mình gặp nhau miệng vực
thấy cánh sao rụng xuống lưng chừng

trên ngực anh là chùm hoa rã cánh
chớ chạm vào mùi hương sẽ tan
em đang gối đầu lên hoang mang nhịp đập
cô đơn rất cần im lặng

im lặng
để em khóc trên ngực anh
để nụ hôn còn hồng sen tháng Sáu
để mình ngỡ có được nhau

im lặng
để em khóc trên ngực anh
để em tự chắt mình thành hạt muối
đậu vành môi se xót thật thà

im lặng
để cùng trôi ra biển
kiếp thuyền buồm rong ruổi khơi xa
bài thơ ấy không cần ngôn ngữ

cần đau
và nỗi sợ
không lời.




Bài thơ chưa đánh thức





Bấy giờ tháng Bảy
mùa vàng phai mịt mùng giấc mơ
cánh đồng hoa hướng dương vẩn mùi da thịt cháy
ta nhìn nhau sâu ruỗng ngày hè

phải bắt đầu lãng mạn thế nào đây
hỡi mặt người muôn đời nức nở
ta chỉ biết xót xa và hoảng loạn
trang giấy xưa ngôn ngữ đã trắng màu

từng bước chân tự do đang rớm máu
giữa cánh đồng hướng dương hoa bay
những chuyến đi muôn đời lỗi hẹn
gióng hồi chuông chết lịm giữa lưng trời

đó là một bài thơ chưa đánh thức
như rặng cúc tần âm ỉ xanh
như khóm ngâu hoa rụng kín chân tường
như bất chợt thương mình không ai biết


Lữ Thị Mai