" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015
sự chết – và vài đề tài lân cận (phần 2)
Nguyễn Nhân Trí♦
Vùng Biên Giới giữa “Sống” và “Chết” ở Môi Trường Vi Mô
Chúng ta cũng có thể nhìn thấy sự mơ hồ giữa “sống” và “chết” kể trên xảy ra ở những cấu trúc cơ bản nhất bắt đầu cho sự sống. Đó là các tế bào và những cấu trúc nền tảng cấu tạo của chúng, đó là phân tử và nguyên tử.
Có thể nói đây là vùng biên giới giữa sự “sống” và “không sống”. Ai cũng công nhận quy định chung sau đây: những vật thể như gạch, đá, sắt, nước, v.v. được xem là vô cơ (tức là không có sự sống), trong khi đó động thực vật được xem là hữu cơ (tức là có, hay liên quan đến, sự sống). Tuy nhiên tất cả vật chất, vô cơ cũng như hữu cơ, sống cũng như không sống, đều được tạo thành bởi những nguyên tử và phân tử. Khi những phân tử nầy kết hợp với nhau tạo thành các vật thể trên, chúng đều tuân theo các quy luật vật lý hóa học giống hệt nhau. Tuy vậy, khi lên đến một giai đoạn nào đó thì tập hợp một số phân tử được xem là có sự sống trong khi một tập hợp khác lại không có sự sống. Thế thì đường ranh giới chính xác thật sự giữa một vật thể có sự sống và một vật thể không có sự sống là gì?
Tương tự như các vấn đề trong định nghĩa theo y khoa về sự chết của một người, kiến thức vật lý và sinh vật học ngày nay cho thấy không có một ranh giới chính xác rõ ràng giữa những vật thể “sống” và những vật thể “không sống” ở môi trường vi mô (nghĩa là nói về phân tử, nguyên tử). Khi khảo nghiệm tính chất và cấu trúc ở kích thước nầy, những vật thể “sống” cũng giống y hệt như những vật thể “không sống”; ngoại trừ một điều là chúng được xếp đặt và vận hành một cách khác biệt nhau.
Sự “sống” ở những kích thước nầy cũng hiện hữu ở nhiều mức độ khác nhau chớ không phải xảy ra ở một biến đổi rõ ràng đột ngột. Có nghĩa là khi quan sát thiên nhiên ở trạng thái cơ bản nầy, chúng ta không thể nào xác định được một lằn ranh rõ rệt để tuyên bố rằng “ở một bên đường ranh giới nầy không có sự sống và ở bên kia là nơi sự sống bắt đầu”. Chúng ta chỉ có thể thấy một “vùng” trung gian mơ hồ lẫn lộn trong đó có cấu trúc của những vật thể được xem là “sống” và những vật thể được xem là “không sống”.
Chất liệu tạo thành cấu trúc cơ bản của sự sống là những hợp chất của carbon. Carbon là nguyên tố duy nhất trong tất cả hàng trăm nguyên tố thiên nhiên hiện hữu trong bảng phân loại tuần hoàn có khả năng tự kết hợp hàng ngàn nguyên tử lại với nhau để tạo thành những tập hợp rất lớn gọi là siêu phân tử. Các loại protein trong mọi sinh vật chính là một dạng của những siêu phân tử nầy.
Protein là thành phần cơ bản trong cấu trúc của mọi sự sống. Cơ thể con người có hơn một trăm ngàn loại protein khác nhau. Nhưng điều nầy không có gì đặc biệt cả vì tất cả mọi sinh vật khác cũng đều có cấu trúc tương tự. Và hầu như tất cả mọi sinh vật đều được tạo thành bởi các loại protein nói chung giống y hệt nhau. Hơn nữa ở tầng mức cơ bản nầy, protein của tất cả mọi sinh vật đều trải qua những quá trình vật lý hóa học hoàn toàn giống nhau để sinh sản và vận hành.
Người ta quan sát thấy rằng những protein cần phải kết hợp với nhau thành các tập hợp lớn đủ đến kích thước nào đó thì chúng mới bắt đầu có thể vận hành như một vật thể được xem là có sự sống. Nói chung, kích thước tối thiểu nầy thường khoảng 5 ngàn đơn vị Angstrom. Một đơn vị Angstrom dài 1 phần 10 tỉ của một mét. Có nghĩa là 20 ngàn vật thể nầy nằm kế sát nhau sẽ chiếm một khoảng cách cỡ 1 cm, bằng bề ngang móng tay của một người lớn. Có thể nói là các vật thể nhỏ hơn kích thước tối thiểu nầy thường không có những sinh hoạt và cách vận hành được xem là của một sinh vật.
Tuy vậy, có những vật thể nhỏ chỉ bằng 1/2 hay có khi 1/50 của kích thước tối thiểu kể trên nhưng vẫn mang một số các sinh hoạt và dấu hiệu của sự sống.
Một thí dụ là vi trùng (virus). Vi trùng là những tập hợp cực kỳ cơ bản. Vi trùng cần phải lấy nguyên liệu và năng lượng từ bên ngoài cơ thể chúng để mới có thể tự sinh sản được; và do đó chúng tấn công và chiếm đóng tế bào của các vật thể sống khác để tước đoạt nguyên liệu và năng lượng nầy. Sau khi xâm nhập vào một tế bào khác, vi trùng sẽ đóng chiếm cơ cấu sản xuất các chất cần thiết của chủ nhà và biến đổi nó thành bộ máy chế tạo thêm ra nhiều vi trùng nữa. Nói cách khác, vi trùng không thể tự sinh sản được nếu không có sự hiện diện của các sinh vật khác. Tuy vậy, với những sinh hoạt và cách vận hành như vừa thấy, dù muốn dù không thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng vi trùng là một vật thể có sự sống.
Một vật thể khác với kích thước “ngoại lệ” tuy không thể tự sinh sản nhưng vẫn thường được xem là một vật thể có sự sống, đó là hồng huyết cầu trong máu động vật (mặc dù nếu so sánh một cách nghiêm khắc thì có thể nói rằng hồng huyết cầu mang ít “tính chất sống” hơn vi trùng). Một giọt máu nhỏ chứa đựng khoảng 5 triệu hồng huyết cầu. Chúng mang ô-xy từ phổi đến các bộ phận trong cơ thể. Vì chúng là một loại tế bào không có “nhân” nên không thể tự sinh sản được. Tuy vậy chúng vẫn không thể bị xem là không có sự sống. Trong thiên nhiên có vô số những sinh vật không sinh sản được (như giống la, là con của lừa và ngựa, và nhiều cá nhân trong loài người cũng vậy) nhưng không ai xem chúng là không có sự sống.
Năm 1935, Wendell Stanley của học viện Rockefeller Institute ở New York rút nhựa của một số cây thuốc lá bị nhiễm bệnh để phân ly các vi trùng gây bệnh ra và cô đọng chúng lại thành một dạng tinh thể. Những tinh thể của loại vi trùng nầy có hình ốm dài và giống y hệt như dạng tinh thể của nhiều chất vô cơ khác, thí dụ như tinh thể đường ăn. Các tinh thể nầy có thể được nghiền nhỏ nát ra thành bột và chất giữ nhiều năm trong lọ kín. Cả hai loại bột đường và bột vi trùng nầy sau đó đều có thể làm cho “sống” lại và tự kết tinh lại thành dạng tinh thể ban đầu, tuy nhiên bằng hai phương pháp khác hẳn nhau. Chỉ cần pha nước rồi tiêm bột vi trùng vào một cây thuốc lá đang sống thì chúng sẽ lập tức lan tràn khắp toàn cây và sinh sôi nẩy nở ra vô số vi trùng mới nữa. Trong khi đó với bột đường thì người ta cần phải giữ nó ở một nhiệt độ cố định thích hợp trong một thời gian lâu trước khi các tinh thể đường có thể từ từ xuất hiện.
Trong cả hai trường hợp trên đều có một hiện tượng “tái sinh” và tái sản xuất xảy ra, tuy nhiên cách thức tổ chức và vận hành của mỗi trường hợp rất khác biệt nhau. Sau khi được tái sinh và tái tạo lại dạng tinh thể nguyên thủy, số lượng đường không hề thay đổi so với khi nó còn là dạng bột. Trong lúc đó sau khi được chích vào cây thuốc lá sống, vi trùng từ dạng bột lập tức tác động bằng các phản ứng sinh hóa học chẳng những tạo nhiệt mà còn sản xuất ra các vi trùng mới với một số lượng vĩ đại. Lý do là vì trong trường hợp bột đường chúng ta chỉ có một quá trình phản ứng nhiệt động học kín (closed thermodynamic process) tức là hoàn toàn cô lập với môi trường chung quanh. Trong trường hợp vi trùng thuốc lá, chúng ta một quá trình phản ứng nhiệt động học mở (open thermodynatic process) tức là có sự trao đổi vật chất, và do đó năng lượng, với môi trường chung quanh. Đây là điểm khác biệt chính yếu giữa các sinh vật có sự sống và các vật thể hữu cơ không có sự sống. Cả hai nhóm đều bị chi phối bởi những định luật sinh hóa lý học cơ bản giống nhau tuy nhiên cách áp dụng của các định luật nầy lên chúng lại rất khác nhau.
Vì vậy, như đã nói ở trên, những vật thể như vi trùng hay hồng huyết cầu được xem là mang nhiều tính chất sống hơn chết là nhờ các cấu trúc phân tử của chúng được xếp đặt và vận hành một cách khác biệt so với những vật thể không có sự sống. Những cấu trúc và cách vận hành của chúng, nói chung, tuân theo những trình tự, những thiết kế đã có sẵn và có khả năng thu nhận năng lượng từ bên ngoài vào để duy trì một mức độ trật tự cần thiết để chúng có thể tiếp tục hiện hữu và vận hành như một sinh vật. Những vật thể không có sự sống, hay những vật thể đã chết, không có các tính chất trên.
Sự Bất Tử, Tình Dục và Sự Chết trong Quá Trình Tiến Hóa của Chủng Loại
Ở gần trong vùng biên giới giữa chất hữu cơ và vô cơ còn có một dạng vật thể đáng kể nữa đó là vi khuẩn (bacteria).
Không như vi trùng, vi khuẩn có đầy đủ các tính chất rõ ràng của một sinh vật. Do đó có thể nói vi khuẩn là một dạng sinh vật “cao cấp” hơn vi trùng. Vi khuẩn sống thích hợp nhất trong những môi trường ấm áp và ẩm thấp, tuy vậy chúng cũng có thể hiện diện ở hầu hết mọi nơi khác. Nhiều loại vi khuẩn sống không cần ô-xy, có những loại có thể sống trong nước nóng gần sôi và hầu như tất cả vi khuẩn đều có thể tồn tại vô thời hạn ở các nhiệt độ rất thấp dưới 0 độ C. Một số loại vi khuẩn dùng ánh sáng mặt trời để sản xuất thức ăn và năng lượng (giống như thực vật), tất cả loại khác tiêu thụ chất hữu cơ để sống.
Vi khuẩn làm cho các chất hữu cơ phức tạp trong thiên nhiên mục rữa đi và phân hủy thành những chất hữu cơ đơn giản. Vi khuẩn sẽ tiêu thụ một số những gì cần thiết và thải trả ra phần còn lại. Những sản phẩm hữu cơ đơn giản nầy cần thiết cho sự sống còn của nhiều sinh vật khác và thường không thể tự sản xuất được trong thiên nhiên nếu không nhờ có quá trình tiêu hóa của vi khuẩn.
Có thể nói là vi khuẩn hầu như bất tử. Sau khi trưởng thành (thường chỉ cần khoảng 20 phút), một vi khuẩn sẽ tách làm đôi tạo thành hai vi khuẩn mới có thể lập tức bắt đầu tiêu thụ thức ăn để lớn lên để lại tiếp tục tách đôi ra nữa. Trong môi trường lý tưởng, nếu không bị giết chết bởi hóa chất, hay bởi vi trùng, hay bởi bạch huyết cầu, v.v. thì không có vi khuẩn nào chết cả. Chúng cứ tiếp sinh sản bằng cách tách đôi mãi mãi như thế. Đối với những cá thể đơn giản nhất biểu tượng cho sự sống nầy, sự chết không có ý nghĩa gì cả. Trong quá trình tiến hóa ở đây, vật chất vô cơ vô sinh dường như chỉ cần bước một bước ngắn là đã đạt đến một sự sống tự tái tạo và tồn tại vĩnh viễn.
Không chỉ có vi khuẩn, hầu hết các vi sinh thể gồm chỉ một tế bào đơn giản cũng đều sinh sản bằng cách tách đôi tương tự. Mỗi vi sinh thể mẹ tách đôi ra thành hai con gái, mỗi con mang đầy đủ các đặc tính cá biệt di truyền từ vi sinh thể mẹ. Cũng có những loại vi sinh thể thay vì tách đôi thì lại có thể tách ra mỗi lần thành nhiều con nhỏ khác nhau, và mỗi con vi sinh thể mới nầy hầu như có thể lập tức tiếp tục tách thêm ra thành nhiều con mới nữa. Đây là trường hợp ký sinh trùng protozoan sinh ra bệnh sốt rét. Chính khả năng sinh sản nhanh chóng cấp kỳ nầy gây ra sự bùng nỗ dân số cấp nhân với hàng tỉ các ký sinh trùng nầy tràn ngập đột ngột trong máu của bệnh nhân làm cho họ lên cơn sốt kịch liệt.
Khi được sinh sản theo lối tự phân, mỗi vi sinh thể mới được tạo thành ra đều mang tất cả tính chất đặc thù của mẹ nó và các thế hệ trước nó. Vì không có gì và không cần gì để phải thay đổi cấu trúc nội tạng nên sự sinh sản theo lối nầy có lợi điểm lớn là xảy ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên, điều nầy cũng có một nhược điểm không nhỏ. Nếu có biến đổi gì thất lợi trong môi trường sống thì tất cả mọi con vật có chung cấu trúc cơ thể giống hệt nhau có thể sẽ cùng bị ảnh hưởng xấu đồng loạt nhau. Và nếu sự thất lợi trên nghiêm trọng đủ thì toàn thể các sinh vật trên có thể bị tiêu diệt chung cùng lúc với nhau.
Quá trình tiến hóa của chủng loại và sự tuyển chọn bởi thiên nhiên đưa đẩy sinh vật đến một lối thoát cho vấn đề trên. Đó là phương pháp sinh sản qua tình dục. Trong khi hầu hết tất cả vi khuẩn đều sinh sản theo lối tách đôi ra kể trên, một số ít vi khuẩn đi theo một con đường khác. Những vi khuẩn nầy đôi khi trao đổi các đơn vị căn bản của chất liệu di truyền trong người chúng với nhau. Thí dụ như khi quan sát vi khuẩnEscherichia coli (một loại vi khuẩn hiện diện rất nhiều trong ruột già con người) chúng ta có thể thấy hai loại: loại đực dài ốm và loại cái tròn ngắn. Chúng ta thỉnh thoảng thấy một vi khuẩn đực mọc ra một cái vòi dài đến gần một vi khuẩn cái và đâm cái vòi nầy để tiêm một ít chất liệu di truyền vào trong thân con vi khuẩn cái. Diễn biến xảy ra khoảng 6 lần lâu hơn quá trình sinh sản bằng cách tự phân đôi thường thấy.
Các vi khuẩn được sinh ra từ con vi khuẩn cái kể trên đều mang một hỗn hợp các đặc tính của cả con vi khuẩn đực lẫn con vi khuẩn cái. Đây cũng là giai đoạn đầu tiên trong quá trình tiến hóa chủng loại mà một sinh vật có cả cha lẫn mẹ (thay vì chỉ có mẹ mà thôi như trong quá trình tự phân của đa số vi khuẩn).
Khi hai con vật đực và cái giao cấu với nhau, chúng đóng góp các tính chất đặc thù của chúng lại chung để tạo nên những con vật mới. Những con vật mới nầy có cấu trúc khác ít nhiều so với cha lẫn mẹ chúng. Phương pháp sinh sản qua tình dục nầy dần dần tạo thành nhiều cá thể khác biệt nhau trong mỗi thế hệ. Chính sự khác biệt nầy là một phương cách bảo vệ hữu hiệu nhất để một chủng loại không bị tiêu diệt đồng loạt nếu môi trường sống của chúng thay đổi xấu. Thí dụ như khi bị tấn công bởi một bệnh dịch truyền nhiễm, mỗi cá thể có khả năng đề kháng khác biệt nhau do đó toàn thể chủng loại sẽ có xác suất cao hơn để sống còn.
Lợi thế trên, tuy vậy, phải trả bằng một giá không nhỏ. Đó là sự chết. Khi mỗi cá thể không còn tái tạo bằng cách tự tách ra vô hạn số lần nữa, chúng sẽ chỉ có thể tiếp tục sống trong cùng một cơ thể cho đến khi cơ thể nầy già yếu đi rồi chết.
Nói chung trong nhiều môi trường sống, lối sinh sản qua tình dục vẫn có lợi điểm về sinh tồn hơn so với lối sinh sản bằng cách tự phân. Do đó, trong giai đoạn đầu của quá trình tiến hóa của chủng loại, càng lúc càng nhiều sinh vật đi theo con đường nầy và dần dần phát triển trở thành những sinh vật đa tế bào phức tạp như các động thực vật ngày nay.
Tế bào trong cơ thể mọi sinh vật, trong đó có con người, cũng là một dạng cá thể cơ bản cao cấp và cũng sinh sản bằng phương pháp tự phân tương tự như vi khuẩn. Tuy trong mỗi sinh vật có nhiều loại tế bào khác nhau nhưng mỗi tế bào đều có chứa đầy đủ mọi chất liệu di truyền cần thiết để tái tạo và xây dựng thành tất cả các bộ phận trong cơ thể. Điểm khác biệt giữa các loại tế bào trên là chúng tự được kiểm soát và điều khiển bởi những chuỗi mã di truyền để có các nhiệm vụ và cách vận hành khác nhau.
Khái Niệm của một Cá Thể và Vạn Vật Chung Quanh Nó
Khi xét về một sinh vật đa tế bào thì khái niệm và định nghĩa của một cá thể nhiều khi rất mơ hồ.
Sinh vật học gia Claiborne Jones cho rằng rất khó định nghĩa một cách thỏa đáng và chính xác một cá thể là gì. Ông lấy thí dụ con ong mật không phải là một cá thể thật sự vì một con ong mật không có khả năng sinh sản và không thể sinh tồn nếu sống độc lập một mình nó. Trong khi đó một tổ ong hiện hữu, sinh hoạt và vận hành như một cá thể có sự sống. Tuy nhiên nếu như vậy thì khi một con ong bị giết thì chúng ta xem rằng con ong đó đã chết hay chỉ một phần nhỏ không đáng kể của cá thể “tổ ong” đã chết? Sự sống còn của cá thể tổ ong nầy lệ thuộc bao nhiêu vào sự sống còn các cá nhân ong? Cần phải lấy bao nhiêu con ong ra khỏi một tổ ong trước khi tổ ong đó được xem là chết?
Sự mơ hồ trong khái niệm “cá thể” dẫn đến sự mơ hồ trong khái niệm “sống chết”. Thí dụ như nếu chúng ta có thể phá vỡ một tổ ong ra mà không làm chết một con ong nào cả mà chỉ đem tất cả chúng đi tản mát khắp mọi nơi trong rừng. Nếu mỗi tổ ong là một cá thể thì khi tổ ong trên không còn tồn tại nữa thì cá thể đó có được xem là đã chết hay không? Nếu tất cả các con ong đã bị tản mát vào rừng được thu nhận vào sống trong những tổ ong khác thì tổ ong nguyên thủy của chúng được xem là đã chết hay vẫn còn sống? Nếu đã chết thì tại sao tất cả các con ong của nó đều vẫn còn sống? Nếu còn sống thì tại sao bản thân nó không còn tồn tại nữa?
Những câu hỏi, những vấn đề về trường hợp tổ ong ở trên cũng tương tự với trường hợp con người. Mỗi người là một sinh vật độc lập riêng biệt, đồng thời cũng là một tập hợp hàng tỉ tế bào có sự sống riêng biệt của chúng. Khi định nghĩa về sự sống hay chết của một người thì làm sao chúng ta có thể phân biệt được sự sống hay chết nào của cơ thể người ấy và sự sống hay chết nào của các tế bào trong cơ thể ấy?
Chúng ta cũng có thể thấy sự mơ hồ về khái niệm và định nghĩa của một cá thể qua các thí nghiệm sau đây.
Bọt biển (marine sponge) là những sinh vật đa tế bào rất nhỏ. Chúng sống chung cận sát bên nhau thành từng tập thể lớn có hình dáng cố định, sinh hoạt và vận hành như một cá thể riêng biệt. Những mảnh bọt biển (có khi nhìn giống như các khối san hô nhỏ) chúng ta thường thấy bày bán ở chợ chính là xác khô của những tập thể nầy. Nếu một mảnh bọt biển còn sống bị bầm nhỏ ra và bóp vắt qua một màng vải mịn thì từng sinh vật bọt biển tí hon sẽ bị tách rời ra riêng biệt khỏi các láng giềng của nó. Tất cả các vi sinh thể nầy lúc bấy giờ chỉ là một khối lỏng sệt không có hình dáng nhất định. Tuy nhiên nếu để yên ít lâu, khối chất lỏng sệt của vô số từng vi sinh vật riêng biệt nầy sẽ tự động xếp đặt và kết hợp với nhau để trở thành lại một mảnh bọt biển như lúc đầu.
Người ta thí nghiệm dùng hai loại bọt biển có màu khác hẳn, một loại màu đỏ đậm Microciona prolifera và một loại màu vàng tươi Clona celata, và trộn lẫn hoàn toàn hai khối lỏng sệt của chúng với nhau. Sau 24 giờ đồng hồ, những vi sinh thể màu đỏ và màu vàng đã tự phối hợp nhau lại tạo thành hai khối bọt biển riêng biệt có hai màu đỏ và vàng giống như nguyên thủy. Vài câu hỏi được đặt ra ở đây. Thứ nhất, hai cá thể bọt biển riêng biệt nguyên thủy đã chết hay vẫn còn sống khi bị trộn chung thành một khối chất lỏng sệt? Thứ hai, nếu khối lỏng sệt lẫn lộn đỏ và vàng nầy được xem là còn sống thì nó là cá thể nào? Đỏ hay vàng hay một cá thể mới? Thứ ba, ở thời điểm nào trong quá trình tái tạo lại thành hai khối bọt biển giống như nguyên thủy thì có phải mỗi khối ban đầu đã thật sự “tái sinh” trở lại? Và chúng ta giải thích thế nào về việc có lúc sau khi “tái sinh” thì có một số tế bào màu nầy lẫn lộn vào và vẫn sinh sống bình thường trong khối bọt biển màu kia?
Có người sẽ giải thích rằng mỗi khối bọt biển không phải là một cá thể thật sự mà chỉ là một cộng đồng tập thể của vô số các sinh vật tí hon. Tuy vậy, bác học sinh vật Mỹ Theodore Hauschka đã thí nghiệm tương tự với loài chuột, và không ai có thể phủ nhận rằng mỗi con chuột là một cá thể riêng biệt. Ông lấy các bào thai từ một con chuột cái lúc 13 ngày sau khi đậu thai và đem chúng đi nghiền nhỏ đến độ trở thành chất lỏng. Ông tiêm chất lỏng nầy vào bụng nhiều con chuột cái khác đồng giống và còn trinh. Số các chuột cái nầy lớn hơn hẳn so với số bào thai được dùng. Sau 5 tuần, trong bụng tất cả các con chuột cái nầy đều có những khối xương và thịt tương tự như những bào thai chuột đã lớn khoảng một tuần. Điều nầy cho thấy rằng các tế bào trong những bào thai ban đầu tuy đã bị phân tách ra riêng rẽ nhưng vẫn còn có khả năng tập hợp với nhau lại và phát triển thành những bộ phận của từng bào thai chuột. Nhưng câu hỏi ở đây là những bào thai chuột “mới” nầy có phải là những bào thai nguyên thủy hay không? Nếu phải thì giải thích làm sao khi con số bào thai mới nầy lớn hơn con số bào thai ban đầu? Và chuyện gì đã xảy ra khi các bào thai nguyên thủy bị nghiền nát ra thành nước? Không phải là chúng đã chết rồi hay sao?
Như đã thấy, khi xét về một sinh vật đa tế bào thì định nghĩa của sự chết trở thành rất phức tạp. Mỗi tế bào trong cơ thể một sinh vật đều là một cá thể có những vận hành và sinh hoạt riêng của nó. Đồng thời, tuy là một cá thể độc lập về lãnh vực sống chết, mỗi tế bào cũng là một thành phần cơ bản của cấu trúc, thân thể và sự hiện hữu của một con vật. Có một quan hệ vừa tuyệt đối cách biệt vừa cực kỳ mật thiết giữa mỗi tế bào trong thân thể một cá nhân và chính cá nhân đó. Sự chết có thể xảy ra riêng rẽ đến một tế bào mà không hề ảnh hưởng đến cá nhân đó và ngược lại. Vì thế khi phát biểu rằng một cá nhân nào đó đã chết thì phát biểu nầy chỉ có giá trị tương đối.
Tất cả những vấn đề mơ hồ, phức tạp, tương đối về sự sống chết giữa con người và tế bào cũng xảy ra ở kích thước của tế bào và các phân tử, nguyên tử cấu tạo nên chúng. Những nguyên tử, phân tử cấu tạo thành một tế bào có thể bị hủy hoại vì lý do gì đó nhưng không hề ảnh hưởng đến tế bào trên, và ngược lại.
Từ đó chúng ta cũng có thể thấy một sự liên hệ rộng lớn và mật thiết giữa tất cả cá thể trong vũ trụ.
Trong thiên nhiên, mọi sinh vật đều cần phải tiêu thụ nhiều sinh vật khác để thu lấy năng lượng cần thiết cho sự sống của mình. Hiện tượng nầy dẫn đến việc các nguyên tử, phân tử cấu tạo thành những chất liệu có sự sống được luân chuyển trong vô số chu kỳ không ngừng nghỉ từ sinh vật nầy sang sinh vật khác. Cây lá hấp thụ chất dinh dưỡng từ các chất hữu cơ cũng như vô cơ trong đất, nước và năng lượng mặt trời. Sâu bọ ăn cây lá và rồi bị chim chóc ăn. Chim nhỏ bị chim lớn ăn thịt. Chim lớn bị các động vật khác như cáo, mèo ăn thịt. Các động vật trên vì bệnh tật, tai nạn, v.v. chết nằm xuống bị các giun bọ tiêu thụ và tan rữa vào trong đất. Cây cỏ lại mọc lên ra từ đất. Những nguyên tử vật chất do đó được lưu truyền bất tận trong vòng sinh tử liên tục từ vật thể nầy đến vật thể khác trong thiên nhiên.
Nói cách khác, khi một sinh vật được cho là chết thì một số các tế bào cấu tạo nên cơ thể sinh vật đó có thể vẫn còn mang sự sống. Ngay khi các tế bào nầy bị hư hủy đi thì các nguyên tử, phân tử cấu tạo nên chúng vẫn còn hiện hữu và luân hành từ sinh vật nầy sang sinh vật khác trong thiên nhiên.
Tất cả các sự kiện được trình bày cho đến đâydẫn đến một số câu hỏi triết lý sau đây.
Khi một người đã được bác sĩ xác định là chết rồi thì thật sự họ đã chết chưa? Đó là vì định nghĩa chết theo y khoa chỉ có nghĩa là một số bộ phận trọng yếu trong cơ thể người nầy đã ngưng hoạt động mặc dù nhiều bộ phận khác có thể vẫn còn vận hành. Trong nhiều trường hợp, một người sau khi đã bị bác sĩ cho là chết rồi vẫn có thể hồi sinh. Các bộ phận trọng yếu bác sĩ cho là đã hoàn toàn ngưng hoạt động vẫn có thể hồi phục lại. Và ngay cả khi các bộ phận trọng yếu trên không hồi phục lại và họ không thể hồi sinh được nữa thì, như đã nói, vì một số bộ phận khác trong cơ thể họ vẫn còn hoạt động thì có thể theo những định nghĩa khác, bởi các tiêu chuẩn y khoa khác, ở những thời điểm trong tương lai khác nào đó khi kỹ thuật y học tiến triển hơn, v.v. thì có thể nào xem rằng người nầy vẫn chưa thật sự chết hay không?
Ngay khi cơ thể một ông A đã bị hoàn toàn tiêu hủy, thí dụ như sau khi hỏa táng, nếu các bộ phận đã từng trong cơ thể ông ấy được lấy ra trước đó và cấy tháp vào cơ thể của những người khác thì có thể nào xem rằng một phần cơ thể của ông A vẫn còn sống? Và tùy theo định nghĩa, có thể nào xem rằng một phần của ông A vẫn còn sống?
Rồi ngay cả khi tất cả bộ phận, tất cả tế bào trong cơ thể của một người đã tan rữa hết thì các phân tử, nguyên tử của chúng, như đã nói, vẫn còn tồn tại và vận hành trong những sinh vật khác trong thiên nhiên. Như thế thì có thể xem như một phần cơ thể hay một phần của người đó vẫn còn tồn tại?
Khi lý luận theo lối nầy thì chỉ có thể định nghĩa sự chết bằng một thước đo có nhiều mức độ khác nhau. Sự chết trở thành bất khả chẩn định. Sự chết và sự sống dường như hiện diện lẫn lộn với nhau một cách không thể phân biệt được. Lãnh thổ của sự sống được càng lúc càng mở rộng thêm ra và khoa học kỹ thuật đã cho phép nhiều, nếu không phải là tất cả, trường hợp chết đều có thể cứu vãn được, ít nhất là trên lý thuyết. Biên giới giữa sự sống và sự chết do đó tùy thuộc vào kiến thức và quan điểm của một người, đó là chưa kể đến phong tục, tập quán và tín ngưỡng của người đó.
Các sự kiện đã được trình bày cho đến đây cũng dẫn đến vài nhận xét sau.
Như đã thấy, việc một người được cho là đã chết rồi nhưng vài ba hôm sau “sống lại” là một việc tương đối bình thường. Ngay cả với kỹ thuật khoa học hiện đại mà việc nầy cũng xảy ra khá thường xuyên, ngay cả những bác sĩ nhiều kinh nghiệm ngày nay vẫn còn đôi khi lầm lẫn trong việc chẩn định. Tuy vậy ở vài ngàn năm trước đây đối với những dân quê không hề có kiến thức y khoa thì hiện tượng một người chết vài hôm rồi sống lại có thể được xem là một phép lạ. Và như chúng ta thấy, dạng “phép lạ” nầy có thể được xem là cực kỳ huyền bí, đủ để góp phần tạo dựng nền móng cho một hệ thống tín ngưỡng còn tồn tại đến ngày nay gọi là Thiên Chúa Giáo.
Mặt khác, cũng như đã thấy, một người tuy đã chết nhưng những phân tử vật chất đã từng là cấu trúc của một phần cơ thể họ có thể sẽ luân chuyển mãi mãi từ sinh vật nầy đến sinh vật khác trong thiên nhiên. Sự kiện nầy có vẻ phù hợp với quan niệm của một số hệ thống tín ngưỡng cho rằng sau khi một người chết thì họ có khi sẽ “tái sinh” trở lại dưới nhiều dạng thể khác nhau. Và có lúc những phân tử trên thay vì trở thành một phần của các sinh vật khác thì chúng cũng có thể tản mác trong không khí, trong đất đá, trong sông suối, v.v. Sự kiện nầy có vẻ phù hợp với quan niệm tín ngưỡng cho rằng sau khi một người chết thì họ sẽ trở về với vũ trụ bao la (thí dụ như cái trong Phật Giáo gọi là “đại thể”).
Sự Chết luôn luôn Hiện Diện Song Song với Sự Sống
Trong cơ thể một người trưởng thành có khoảng 60 tỉ (1 tỉ = 1 triệu triệu) tế bào. Mỗi ngày số tế bào chết đi có thể đong đầy một chén súp nhỏ. Tuy vậy, một số tế bào khác cũng được sinh ra với số lượng tương ứng để thay thế.
Mỗi lần lớp da trên cơ thể chúng ta va chạm một vật gì chẳng hạn thì sẽ có hàng trăm ngàn tế bào da bên ngoài rơi rớt ra. Lớp tế bào da nằm bảo vệ bên ngoài nầy được liên tục thay thế bằng những tế bào da mọc thêm ra từ bên dưới. Mỗi lần chúng ta nhai nuốt thức ăn thì hàng chục ngàn tế bào nằm trên màng da trong miệng chúng ta tróc ra và bị nuốt trôi theo. Mỗi ngày hầu như toàn thể tấm màng da trong miệng mỗi người bị nuốt và tiêu hóa mất đi nhưng chúng ta không hề cảm biết vì nó được bồi đắp liên tục bởi những tế bào mới sinh ra từ bên dưới. Màng bao tử, màng ruột, màng trong của mỗi mạch máu, v.v. cũng vậy. Tế bào của hầu như tất cả mọi bộ phận trong cơ thể đều bị hao mòn và chết đi trong quá trình hoạt động hàng ngày và được thay thế liên tục.
Trong một đứa trẻ thì số tế bào sinh ra mỗi ngày sẽ lớn hơn số tế bào bị chết đi nên cơ thể đứa trẻ mới có thể càng ngày càng to lớn khỏe mạnh hơn. Trong một người già thì số tế bào thay thế sẽ không đủ số lượng và không đủ chất lượng để thay thế hoàn toàn số tế bào chết đi, vì vậy cơ thể người già càng ngày càng tàn lụn xuống.
Sự chết do đó hiện diện ngay trong người chúng ta hàng ngày, hàng giờ, hàng phút. Đây là phương cách vận hành và tiến triển của sự sống: một phần của cơ thể phải chết đi để được đổi mới và tăng trưởng.
Sự chết ở tầm mức tế bào nầy thật ra bắt đầu trước khi chúng ta chào đời.
Trong quá trình phát triển của bào thai, tế bào tuân theo những quy luật đã định sẵn trong các chuỗi DNA của nó để tự tách ra bội phần rồi kết hợp lại thành những nhóm, những bộ phận khác nhau của cơ thể. Tuy vậy, vài bộ phận trong quá trình phát triển của một bào thai chỉ hiện hữu một thời gian ngắn thôi. Thí dụ khi một bào thai trong bụng mẹ được khoảng 4 tháng thì nó bắt đầu mọc nhiều lông tơ khá dầy và dài bao phủ toàn thân kể cả chân tay. Đến vài tuần trước khi sinh ra, bộ lông nầy tự biến mất đi không còn dấu vết gì nữa.
Đây là vì loài người và loài khỉ vượn ngày nay đã cùng tiến hóa từ một tổ tiên chung và chủng loại tổ tiên nầy có nhiều lông lá bao phủ cả thân thể chân tay. Trong khi loài khỉ vượn ngày nay vẫn còn mang đặc tính lông lá nầy, loài người đã tẻ nhánh trên con đường tiến hóa vài trăm ngàn năm trước đây trở thành một chủng loại có rất ít lông trên thân thể. Tuy vậy, ngay cả ngày nay trong quá trình phát triển của bào thai của con người, một số nhóm tế bào vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi cấu trúc của nguồn gốc xưa cũ để sản xuất ra một bộ lông dầy như tổ tiên của chúng đã từng làm. Bộ lông nầy, và những tế bào tạo dựng lên nó, rồi sẽ tự tiêu hủy đi một thời gian ngắn trước khi đứa trẻ sinh ra đời.
Tương tự, trong thời kỳ phát triển của bào thai, ngoài bộ lông tơ vừa nói trên, một bộ phận khác có hình dạng giống như bộ mang (như của loài cá) cũng được lập thành sơ khởi trong một thời gian ngắn trước khi tự tiêu hủy đi. Bộ mang nầy không phải để thai nhi thở trong bầu nước của bụng mẹ như một số người lầm tưởng (đó là vì tất cả những gì cần thiết để sống đều đã được cung cấp trực tiếp từ người mẹ qua cuống rún của nó). Đây chỉ là vì loài người, cũng như mọi động vật có xương sống khác, đã tiến hóa từ những sinh vật đã từng sống dưới nước. Một số nhóm tế bào trong thai nhi ngày nay vẫn còn chịu ảnh hưởng của tổ tiên chúng nên vẫn phối hợp lại sơ khởi theo đường hướng tạo thành một bộ mang để rồi tự tiêu hủy đi trước khi bộ phổi được tạo hình. Tương tự, bào thai của con người có một thời gian có một đuôi khá dài (giống như của loài khỉ vượn) trước khi khúc đuôi nầy tự biến mất.
Nói chung, trong quá trình tạo thành của bào thai, sự chết của những nhóm tế bào trên cần phải xảy ra để toàn thể hệ thống đi đúng theo con đường tiến hóa đã đạt được bởi loài người. Trong suốt thời gian sống, tế bào và các cơ bắp trong cơ thể một người chết đi và được thay thế liên tục theonhững quy định đã được ghi chép sẵn trong cấu trúc chuỗi DNA của họ.
Như đã thấy, sự chết và sự sống luôn luôn hiện hữu cùng lúc và liên tục trong mọi cơ thể động vật. Ngoài ra, sự chết cũng rất cần thiết cho sự sống cho sinh vật.
Thí dụ như bộ da đang bao phủ cơ thể chúng ta, nói chung là nó gồm có hai lớp chính: lớp tế bào “sống” nằm bên trong và lớp tế bào bảo vệ nằm bên ngoài. Lớp tế bào “sống” bên trong rất mỏng manh; chúng không thể chịu đựng được sự tiếp xúc trực tiếp với không khí, bụi bặm và các va chạm hàng ngày. Lớp tế bào bảo vệ bên ngoài mang dạng những tấm vẩy tinh thể màu trong đục được gắn dính với nhau bằng một lớp dầu mỏng; chúng làm bằng chất keratin (tương tự như chất sừng) khá cứng và do đó theo định nghĩa được xem là các tế bào “chết”. Tính chất nầy cần thiết để chúng có thể chịu đựng được môi trường bên ngoài và bảo vệ lớp tế bào da mỏng manh hơn bên trong. Mỗi ngày có khoảng 500 ngàn triệu các tế bào “chêt” nầy tróc ra khỏi bộ da của chúng ta. Mỗi khi một số tế bào da chết bên ngoài mất đi thì các tế bào sống bên trong được đẩy ra lên trên để thay thế, và chúng tự chế tạo chất sừng keratin đầy trong thân thể của chúng, có nghĩa là tự biến thể từ trạng thái sống sang trạng thái chết để làm tròn nhiệm vụ bảo vệ cần thiết của chúng.
Tương tự như đã nói ở trên, tế bào của các cơ quan trong nội tạng chúng ta cũng cần phải liên tục chết đi và được thay thế trong khi thi hành vai trò của chúng.
Dĩ nhiên hiện tượng sự chết hiện hữu song song và cần thiết cho sự sống vừa kể trên xảy ra với con người cũng như với vô số động vật khác. Một thí dụ thường thấy nhất là quá trình biến đổi từ trứng qua nòng nọc đến trưởng thành của loài cóc nhái. Nòng nọc sống dưới nước, di chuyển và săn mồi bằng đuôi của chúng. Đến khoảng 14 tuần thì một số tế bào trong đuôi chúng bỗng chuyển qua tấn công, tiêu diệt và tiêu thụ (nghĩa là ăn sống) các tế bào đồng loại chung quanh. Kết quả là cái đuôi nầy dần dần biến đi trong khi bộ chân phát triển ra và con nòng nọc dưới nước trở thành một con cóc/nhái có thể sinh sống, di chuyển dễ dàng trên bờ.
Tóm lại, rất nhiều khi sự sống cần phải tự giết nó đi để mới có thể tiếp tục tồn tại được.
Sự chết cũng cần thiết để bảo tồn sự cân bằng trong môi trường sống.
Nếu không có sự chết thì dân số của mọi sinh vật sẽ gia tăng mãi mãi. Chủng loại nào sinh sản nhanh chóng nhất sẽ chiếm đóng tất cả lãnh thổ trên địa cầu. Trong mỗi phân khối của đất có chứa vài trăm triệu các vi khuẩn đủ loại. Chúng liên tục tranh giành thức ăn, không gian sống, v.v. và giết hại, tiêu thụ lẫn nhau. Nếu không có sự chết thì chỉ một vi khuẩn duy nhất trong vòng vài tiếng đồng hồ có thể từ nó sản xuất ra một số lượng vi khuẩn con cháu tương đương với khối lượng một con người. Chỉ trong vòng vài ngày thì toàn thể bề mặt địa cầu sẽ bị bao phủ bởi một lớp dầy của đủ loại vi khuẩn sặc mùi hôi thúi và đầy màu sắc sặc sỡ.
Tương tự, nếu không có sự chết thì bất cứ loại vi sinh vật cao cấp hơn vi khuẩn nào khác cũng có thể đưa địa cầu đến một tình trạng tương tự bằng dân số của chúng trong khoảng 40 ngày. Loài ruồi nhà cần khoảng cần khoảng 4 năm. Loài chuột cần khoảng 8 năm. Phần đông mỗi loài dây leo cần 11 năm. Loài voi cần khoảng một thế kỷ.
May mắn thay, sự sinh sôi nẩy nở và bành trướng của nhiều chủng loại được tự kềm chế bởi chính sự sinh hoạt và vận hành của chúng. Trong trường hợp thực vật, mọi cây cỏ đều phát triển mạnh mẽ trong đất có ít chất lượng nitrogen. Khi một giống thực vật gặp được một khu đất có ít lượng nitrogen dân số nó sẽ bột phát và bành trướng nhanh chóng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, mọi cây cỏ đều thải ra nitrogen vào trong đất mà chúng đang sống. Do đó, sau không bao lâu thì môi trường sống của giống thực vật trên chứa quá nhiều nitrogen (mà chúng ta gọi nôm na là khu đất đó đã “chết”) nên chúng sẽ không còn phát triển được thêm nữa và dân số chúng sẽ dần dần cằn cỗi đi và thu nhỏ lại.
Những chủng loại không có các cơ cấu tự kềm chế và kiểm soát nầy thì sẽ có những sinh vật khác sử dụng chúng như nguồn tài nguyên (nghĩa là thức ăn) để sống. Khi dân số một chủng loại A trong một môi trường sống bộc phát đến mức độ nào đó, nguyên tắc tranh đấu để sống còn trong quá trình tuyển chọn bởi thiên nhiên luôn luôn dẫn đến sự kiện có ít nhất một chủng loại B sẽ tiến hóa trở thành có khả năng tiêu thụ năng lượng sống của chủng loại A. Dân số chủng loại B sẽ dần dần gia tăng trong khi dân số chủng loại A sẽ bị kềm chế và dần dần giảm xuống. Đến một mức độ nào đó chính chủng loại B cũng sẽ bị ít nhất một chủng loại C khác sử dụng cùng một nguyên tắc trên để làm cho dân số chúng ngừng phát triển.
Tóm Lược Tiểu Luận 1:
1. Những giới hạn trong y học và sinh vật học xưa nay đã dẫn đến vô số trường hợp chẩn định lầm lẫn về một người đã chết hay chưa. Điều nầy dẫn đến việc nhiều bệnh nhân tuy bị xem là đã chết vẫn có khi hồi sinh lại sau một thời gian ngắn. Điều nầy cũng dẫn đến việc nhiều bệnh nhân bị mai táng khi họ thật ra vẫn còn sống. Hiện tượng trên hiện thỉnh thoảng vẫn xảy ra ngay tại những quốc gia tân tiến nhất.
2. Việc chẩn định sự chết rất phức tạp. Sự tiến bộ của kiến thức và kỹ thuật y học ngày naythật ra không nhất thiết làm vấn đề nầy trở thành dễ dàng hơn mà còn có thể dẫn đến nhiều định nghĩa chết khác nhau. Biên giới giữa sự sống và sự chết trở thành rất mơ hồ và hầu như không thể nào khẳng định rõ rệt được.
3. Sự chết của một người thường không phải là một quá trình xảy ra trong tích tắc mà xảy ra qua nhiều giai đoạn. Có thể nói là có nhiều mức độ chết khác nhau. Cũng có thể nói là sự chết có tính chất từng phần. Đó là tùy bộ phận nào trong cơ thể đã ngưng hoạt động rồi, và đã ngưng hoạt động vĩnh viễn không còn cách gì cứu chữa hay chưa. Nói cách khác, khi một người được bác sĩ xác định là đã chết thì không hẳn tất cả bộ phận trong cơ thể họ đã ngừng hoạt động hoàn toàn và vĩnh viễn. Có khi có những bộ phận nếu được hỗ trợ bởi dụng cụ y khoa vẫn có thể hồi phục hoàn toàn và tiếp tục làm việc lâu dài.
4. Sự chết của một người thường không hẵn là một hiện tượng tuyệt đối mà chỉ là một liên hệ tương đối giữa người nầy và một, hay nhiều, người khác. Tất cả do đó đều tùy vào trình độ kiến thức và kỹ thuật y học cũng như tiêu chuẩn và định nghĩa khác nhau được dùng để xác định sự chết. Nói cách khác, một người nằm hôn mê hoàn toàn trong bệnh viện vẫn có thể được máy móc giữ cho “sống” ở tình trạng đó mãi mãi cho đến khi bác sĩ hay gia đình quyết định rằng họ đã trở thành tương đương với “chết” và tắt máy đi. Nói cách khác, một người có thể được một bác sĩ tại một bệnh viện ở một quốc gia cho là đã chết trong khi một bác sĩ khác tại một bệnh viện khác ở một quốc gia khác cho là vẫn còn sống. Sự chết của một người do đó là một sự kiện tương đối và tùy thuộc vào sự phán xét của người khác.
5. Sự mơ hồ của biên giới giữa sự sống và sự chết cũng có thể nhìn thấy được ở môi trường vi mô. Vi trùng, vi khuẩn, v.v. là những dạng sinh vật cơ bản nhất. Có thể nói là chúng nằm ở đầu cầu nối liền giữa các vật thể có sự sống và các vật thể không có sự sống. Khi nhìn sâu hơn nữa, ở cấp bậc phân tử và nguyên tử, thì hai dạng vật thể “sống” và “không sống”nầy đều có cấu trúc vận hành hoàn toàn giống nhau. Khi quan sát các dạng vật thể ở kích thước nầy, người ta không thể nào phân biệt được sự “không sống” chấm dứt ở đâu và sự “sống” bắt đầu ở đâu.
6. Cấu trúc phân tử của các vật thể có sự sống được xếp đặt và vận hành một cách khác biệt so với những vật thể không có sự sống. Cấu trúc và cách vận hành của các vật thể có sự sống tuân theo những trình tự, những thiết kế đã có sẵn và có khả năng thu nhận năng lượng từ bên ngoài để duy trì một mức độ trật tự cần thiết để chúng có thể tiếp tục tồn tại và vận hành như một sinh vật. Những vật thể không có sự sống, hay những vật thể đã chết, không có các tính chất trên.
7. Vi trùng cũng như hầu hết vi khuẩn và vi sinh vật đơn tế bào đều sinh sản bằng cách tự phân trực tiếp. Mỗi cá thể mẹ có thể tự tách ra thành hai hay nhiều cá thể con gái khác với cấu trúc và chất liệu hoàn toàn giống hệt như mẹ. Trong một môi trường sống lý tưởng, chúng có thể tiếp tục tự tái tạo cách nầy và sống vĩnh viễn. Nói cách khác, với cách sinh sản nầy, mỗi cá thể của chúng trở thành bất tử.
8. Một số vi khuẩn và vi sinh vật cũng có thể trao đổi các chất liệu di truyền giữa những cá thể dạng “đực” và dạng “cái” trong quá trình sinh sản của chúng. Đây là bước đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của chủng loại khi sinh vật bắt đầu đi theo con đường sinh sản qua tình dục. Phương pháp sinh sản nầy tạo ra những cá thể có các đặc tính và chất liệu di truyền khác biệt với cha lẫn mẹ chúng. Đây là một lợi điểm lớn trong sự sinh tồn và bành trướng của chủng loại. Tuy nhiên phương pháp sinh sản nầy cũng không cho phép mỗi cá thể tự tái tạo và sống vĩnh viễn, chúng trở thành già cỗi đi và chết. Nói cách khác, sinh vật đã trả giá cho khả năng tình dục bằng sự chết.
9. Tế bào trong cơ thể mọi sinh vật cũng là một dạng cá thể cơ bản sinh sản bằng phương pháp tự phân tương tự như vi khuẩn. Trong mỗi tế bào đều có chứa đầy đủ mọi chất liệu di truyền cần thiết để tái tạo và xây dựng thành tất cả các bộ phận trong cơ thể của sinh vật đó. Tuy vậy mỗi tế bào đều được tự kiểm soát và điều khiển bởi những chuỗi mã di truyền để có các nhiệm vụ và cách vận hành khác nhau.
10. Khi xét về một sinh vật đa tế bào thì quan niệm về cá thể và định nghĩa của sự chết trở thành rất phức tạp. Mỗi tế bào trong cơ thể một sinh vật đều là một cá thể có những vận hành và sinh hoạt riêng của nó. Đồng thời, tuy là một cá thể độc lập về lãnh vực sống chết, mỗi tế bào cũng là một thành phần cơ bản của cấu trúc, thân thể và sự hiện hữu của một con vật. Nói cách khác, có một quan hệ vừa tuyệt đối cách biệt vừa cực kỳ mật thiết giữa mỗi tế bào trong cơ thể một cá nhân và chính cá nhân đó. Sự chết có thể xảy ra riêng rẽ đến một tế bào mà không hề ảnh hưởng đến cá nhân đó, và ngược lại.
11. Tất cả những vấn đề mơ hồ, phức tạp, tương đối về sự sống chết giữa con người và tế bào cũng xảy ra ở kích thước của tế bào và các phân tử, nguyên tử cấu tạo nên chúng. Những nguyên tử, phân tử cấu tạo thành một tế bào có thể bị hủy hoại vì lý do gì đó nhưng không hề ảnh hưởng đến tế bào trên, và ngược lại.
12. Chúng ta có thể thấy một sự liên hệ rộng lớn và mật thiết giữa tất cả cá thể trong vũ trụ. Trong thiên nhiên, vì mọi sinh vật đều tiêu thụ các sinh vật khác để thu lấy năng lượng cần thiết cho sự sống của mình nên các nguyên tử, phân tử cấu tạo thành những chất liệu có sự sống được luân chuyển trong vô số chu kỳ không ngừng nghỉ từ sinh vật nầy sang sinh vật khác. Nói cách khác, khi một sinh vật được cho là chết thì một số các tế bào cấu tạo nên cơ thể sinh vật đó có thể vẫn còn mang sự sống. Ngay khi các tế bào nầy bị hư hủy đi thì các nguyên tử, phân tử cấu tạo nên chúng vẫn còn hiện hữu và luân hành từ sinh vật nầy sang sinh vật khác.
13. Sự chết do đó chỉ có thể định nghĩa bằng một thước đo có nhiều mức độ khác nhau. Sự chết trở thành bất khả chẩn định. Sự chết và sự sống dường như hiện diện lẫn lộn với nhau một cách không thể phân biệt được. Lãnh thổ của sự sống được càng lúc càng mở rộng thêm ra và khoa học kỹ thuật đã cho phép nhiều trường hợp chết (hay hầu như tất cả) đều có thể cứu vãn được, ít nhất là trên lý thuyết. Nói cách khác, biên giới giữa sự sống và sự chết do đó tùy thuộc vào kiến thức và quan điểm của một người, đó là chưa kể đến phong tục, tập quán và tín ngưỡng của người đó.
14. Sự chết và sự sống luôn luôn hiện hữu cùng lúc và liên tục trong mọi cơ thể động vật. Trong người chúng ta hàng ngày, hàng giờ, hàng phút có hàng trăm triệu tế bào chết đi và hàng trăm triệu khác sinh ra. Ngoài ra, sự chết cũng rất cần thiết cho sự sống cho sinh vật. Có nhiều trường hợp một phần của cơ thể phải chết đi để được đổi mới và tăng trưởng. Trong nhiều trường hợp khác sự chết cần thiết để bảo tồn sự cân bằng trong môi trường sống. Đó là phương cách vận hành và tiến triển của sự sống. Do đó, một người khi hiểu được điều nầy sẽ có thể giảm bớt sự sợ hãi và khuynh hướng né tránh việc suy ngẫm bàn luận về vấn đề chết của họ. Có một câu nói cho rằng “nếu một người chưa hiểu biết về sự chết, họ chưa hiểu biết về sự sống”.
(còn tiếp)
Về chữ Lạc 貉 trong Lạc Long Quân 貉龍君
ĐÌNH VĂN TUẤN
Theo truyền thuyết và sử sách, thủy tổ người Việt Nam là Lạc Long Quân, có tên húy là Sùng Lãm, là con trai của Kinh Dương Vương và Long nữ (con gái của Động Đình Quân).
Ảnh: internet
Lạc Long Quân kế nghiệp cha, làm vua nước Xích Quỷ, sau lấy Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, được 100 người con trai, là tổ tiên của Bách Việt. Cuối cùng, Lạc Long Quân và Âu Cơ chia ly, Lạc Long Quân đem 50 con về thủy phủ còn Âu Cơ và 50 người con trai đến ở đất Phong Châu, cùng tôn người anh cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang. Lạc Long Quân được viết chữ Hán là 貉龍 君, trong đó, chữ 貉 (bộ trĩ) mà người Việt, theo truyền thống từ ngàn xưa đến nay vẫn đọc là “lạc”. Tiền nhân Việt dường như đã cố tình dùng chữ 貉 dành cho Lạc Long Quân và không đọc theo đúng phiên thiết từ thư Hán là hạc (thú giống như con cầy), mạch (tộc ở phương bắc Trung Quốc) nhưng nhất định là “lạc” chắc hẳn phải có một dụng ý sâu kín nào đó và cho đến nay vẫn còn là bí ẩn văn tự. Bài viết này, cố gắng tìm hiểu lý do nào cổ nhân đã cố ý viết chữ 貉 nhưng lại đọc không theo phiên thiết là “lạc” và LẠC có ý nghĩa, tượng trưng gì? Mục đích của chúng tôi là cố gắng giải mã bí ẩn của chữ LẠC trong Lạc Long Quân với giới hạn của huyền sử, sử liệu và văn tự, ngữ âm chứ không bàn luận hay khẳng định gì về nguồn gốc dân tộc Việt.
1. Chữ 貉 và âm đọc “lạc” qua tài liệu Việt - Hoa
Chữ Lạc 貉 trong Lạc Long Quân 貉 龍君, xuất hiện lần đầu tiên trong Lĩnh Nam chích quái(1) (khuyết danh, khoảng đời Trần), sau đó có thể kể đến Đại Việt sử ký toàn thư(2) (Ngô Sĩ Liên, 1697), Việt sử diễn âm(3) (khuyết danh, khoảng đời Mạc), Thiên Nam minh giám(4), Thiên Nam ngữ lục(5) (khuyết danh, khoảng đời Lê-Trịnh), Đại Nam quốc sử diễn ca(6),
Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái, Việt sử tiệp lục diễn Nghĩa(7) (khuyết danh), Việt sử cương mục tiết yếu(8), Đặng Xuân Bảng, (đời Nguyễn),… đều thống nhất tự dạng 貉 (không tìm thấy tự dạng khác như 雒 hay 駱). Về sách viết bằng chữ Quốc ngữ, ký âm chữ La tinh thì sớm nhất hiện còn là tập chép tay về lịch sử nước An Nam của Bento Thiện(9) viết vào năm 1659, tiếp đến là Notes historiques sur la nation annamite của P. Le Grand de La Liraÿe (1866), Tóm lại về sự tích các đời vua nước Annam, Trương Vĩnh Ký (1877), Lược biên Nam Việt sử ký lịch triều niên kỷ (1894), Georges Maspero (cũng viết chữ Hán là 貉), Quảng tập viêm văn (1898), Edmond Nordemann (cũng viết chữ Hán là 貉, Nam Việt lược sử, Nguyễn Văn Mại (1919)(10), Tối tân Quốc văn tập đọc(11) (Văn thơ Đông Kinh Nghĩa Thục, 1907, cũng viết chữ Hán là 貉)… tất cả đều ký âm chữ La tinh là “Lạc”. Đặc biệt là chữ 貉 còn thấy dùng để viết thay cho 駱, 雒 (Âu Lạc, Lạc hầu, Lạc tướng) trong Lĩnh Nam Chích quái, Việt điện u linh và chắc chắn phảiđọc là LẠC chứ không thể là HẠC hay MẠCH. Điều này chứng tỏ các văn bản khoảng đời Trần còn lưu lại đã xác định 貉 được tiền nhân đọc là LẠC. Chữ Lạc 貉 cũng xuất hiện trong sách học Hán Nôm xưa và các bộ từ, tự điển như Ngũ thiên tự dịch quốc ngữ(12), 1909 của Nguyễn Bỉnh, đã ghi: “貉 Lạc, cầy hương” và Việt Nam tự điển (Hội Khai Trí Tiến Đức)(13), 1931: “Lạc Long Quân 貉龍君”; Hán Việt từ điển giản yếu(14) của Đào Duy Anh, 1932, sách này được hai nhà Nho là Phan Bội Châu và Lâm Mậu duyệt lãm, từ điển ghi: “貉 Lạc: Một loài thú giống con ly và “貉龍君 Lạc Long quân”; Nam Hoa tự điển(15) của Nguyễn Trần Mô, 1940: “貉 (Lạc) con lạc”. Không chỉ người Việt đọc 貉 là “lạc”, chúng tôi thấy tiếng Quảng Đông cũng đọc là [lok3], Khách Gia là [log6], Triều Châu là [log8](16), vậy rất có khả năng cả Việt lẫn Lưỡng Quảng… đã lưu lại vết tích Hán âm thượng cổ. Thật vậy 貉 có âm thượng cổ(17) là [glaag] (Trịnh Trương Thượng Phương 郑张尚芳, Phan Ngộ Vân 潘悟云) ta thấy [glaag] rất giống với “lạc”. Đây chính là những chứng cứ xác thật khẳng định một truyền thống từ ngàn xưa mà không hề có một nhàNho uyên thâm Hán học nào, cho dù đó là một bậc vua chúa hay các sử thần, các văn nhân… mọi thờiđại lên tiếng phản đối hay tự ý sửa lại. Như thế, cách đọc “lạc” 貉 là một cách đọc chữ Hán của người Việt cổ xưa chứ không phải là một sự sai lầm truyền kiếp.
Không một nhà Nho hay một người biết chữ Hán nào dám đọc 貉 ra “lạc” được, trong khi từ thư Hán chỉ có âm “hạc”, “mạch” nếu không có một sự thật là: chữ 貉, thời cổ đại có âm “lạc” vì thế dân gian truyền khẩu biết bao đời nay về tên thủy tổ luôn là “Lạc” Long Quân. Từ trước đến nay, có lẽ chỉ có An Chi là khẳng định chữ 貉 trong 貉龍君 không thể đọc là “lạc” mà là “hạc” qua một bài viết đăng trên một tờ báo không chuyên về lịch sử, ngữ văn, như sau: “Tên của “Lạc Long Quân” 貉龍君 bị đọc sai ở chữ 貉. Chữ này tuyệt nhiên không có âm “lạc”, tác giả dựa vào Hán ngữ đại tự điển đã ghi 3 âm: “1. mạch (mạc bạch thiết 莫白切); 2. hạc (hạ các thiết 下各 切); 3. mạ (mạc giá thiết 莫駕切)” để khẳng định 貉 không hề có âm “lạc”. Từ đó ông đã đi đến giả định: “chữ 貉 phải được đọc theo âm nào? Chúng tôi cho rằng đó là âm “hạc” vì thiển nghĩ cái tên “Hạc Long Quân” hẳn phải có liên quan đến địa danh Bạch Hạc 白鶴 (…) chữ hạc 貉 ở đây có thể “thông” với chữ hạc 鶴 về mặt ngữ âm trong tâm thức của người ghi chép truyền thuyết thì đây chỉ là cái tên của một loài chim thuộc bộ Hạc mà thôi.”(18) Như trên chúng tôi đã xác nhận: cách đọc “lạc” 貉 là một tập truyền xưa nay của tổ tiên người Việt chứ không đơn giản là một sự sai lầm truyền kiếp, cho nên nếu chỉ dựa vào từ thư, phiên thiết mà không tham chiếu những tài liệu liên quan về lịch sử, văn tự, ngữ âm xưa nay sẽ là một phương pháp phiến diện, chủ quan. Cách đọc “hạc” 貉 tuy đúng “phiên thiết” nhưng lại sai về ngữ âm lịch sử. Tên gọi “hạc” 鶴 (loài chim) là rất phổ biến, nghĩa là nếu viết về chim hạc, tự nhiên sẽ viết ngay là chữ 鶴 hay dị thể 鹤 chứ không có chuyện dùng chữ đồng âm, khác nghĩa được. Cho nên không thể suy đoán tùy tiện rằng: “về mặt ngữ âm trong tâm thức của người ghi chép truyền thuyết” để cho hạc 貉 có thể “thông” với hạc 鶴 nên muốn viết sao thì viết. Xưa nay, tài liệu chữ Hán ở Việt Nam không thấy ghi nhận dùng hạc 貉 thay cho hạc 鶴, trái lại chỉ có chuyện dùng 貉 thay cho 駱, 雒 (Âu Lạc, Lạc hầu, Lạc tướng) vì chúng đồng âm “lạc”. An Chi hay bất cứ ai biết chữ Hán đều không thể cả tin vào phiên thiết rồi máy móc đọc một cách phản lịch sử là Âu Hạc,Hạc hầu, Hạc tướng được! Đây là một chứng cứ góp phần phủ nhận chữ 貉 trong 貉龍君 phải đọc là “hạc” theo An Chi. Thực ra, trước đây trong bài viết Hùng Vương hay Lạc Vương?(19), An Chi với bút hiệu Huệ Thiên đã từng tin vào âm đọc “lạc”: “Chúng ta là con cháu đức Lạc Long Quân, thuộc nòi giống Lạc Việt, lại làm “vua” của Lạc dân (= dân Lạc)…” và sau này ông đã tự phủ nhận bằng một định kiến về 貉 phải đọc là “hạc” rồi từ đó ông đã phê phán, kết tội cổ nhân một cách trịch thượng, vô căn cứ(20). An Chi còn suy đoán “Lạc” trong Lạc Long Quân có thể chỉ về chim Hạc dựa vào tên đất Bạch Hạc (Phong Châu). Nhưng, thật ra, theo truyền thuyết, sau khi Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Sùng Lãm cai trị nước Xích Quỷ, thì tên gọi Lạc Long Quân mới xuất hiện. Đến khi Lạc Long Quân gặp Âu Cơ rồi sinh 100 con trai và sau khi hai người chia tay mới có chuyện 50 con theo mẹ về đất liền là đất Phong Châu nay là Bạch Hạc và đất này trở thành kinh đô nước Văn Lang của vua Hùng.
2. Ý nghĩa của chữ Lạc 貉 trong Lạc Long Quân 貉龍君
Trước đây dựa vào chữ 雒 chỉ loài hậu điểu, ở miền Giang Nam, Đào Duy Anh(21) đã nêu giả thuyết vật tổ chim Lạc của người Lạc Việt thời văn minh Đông Sơn và hầu như tác giả coi mọi chữ Lạc 貉 (viết lầm từ 駱), 駱, 雒 và chữ Hùng 雄 (viết lầm từ 雒) đều là một. Nhưng theo chúng tôi, nguyên ý của Quảng Châu ký, Giao Châu ngoại vực ký, ngay từ đầu đã nhấn mạnh về Lạc điền, ruộng có tên là “Lạc” chứkhông nhấn mạnh về một tộc người mang tên Lạc và Lạc phải là một tên gọi trồng cấy một thực vật nàođó trên ruộng có nước triều lên xuống, nên ở ngữ cảnh này nếu chỉ về loài chim là không thích hợp. Hơn nữa, tự hình 雒 của Giao Châu ngoại vực ký chưa chắc là tự hình ban đầu. Chữ Lạc viết bằng 2 tự dạng 雒 và 駱. Theo Khang Hy tự điển(22) thì 雒: “雒音洛, 本作駱” (âm lạc, vốn viết là 駱), vậy đây là 2 chữ đồng âm khác nghĩa. Liên quan đến chữ “Lạc” ở Giao Chỉ còn thấy chép là Lạc - Việt 駱-越 ở các sáchTiền Hán thư, Hậu Hán thư, Thủy kinh chú(24). Hai văn bản Giao Châu ngoại vực ký và Quảng Châu kýcó lẽ xuất hiện cùng thời vì chính Thủy Kinh chú đã từng trích dẫn Quảng Châu ký (裴淵,廣州記曰…, Bùi Uyên, Quảng Châu ký chép…). Nhưng, chúng tôi cho rằng, đoạn văn cô đọng từ Quảng Châu ký với chữLạc 駱 và dựa vào các sách xưa hơn là Sử ký, Hán thư đều viết là chữ Lạc 駱 rất có thể xuất hiện sớm hơn (hoặc gần nguyên gốc) đoạn văn sáng sủa của Giao Châu ngoại vực ký với chữ Lạc 雒. Như thế, luận cứ của Đào Duy Anh không thuyết phục vì đã ngộ nhận chữ 雒 như một chữ gốc và dựa vào ý nghĩa để lập giả thuyết mà thực ra dù là 駱 hay 雒 chúng chỉ là chữ ký âm mà thôi.
Chữ 貉, nguyên nghĩa chỉ về động vật (như con cầy) và các dân tộc phương Bắc hay Đông Di, Triều Tiên chắc chắn không phù hợp với cổ Việt cho nên cần phải tìm hướng khác về ngữ âm để truy nguyên. TheoKhang Hy tự điển dẫn Tập vận, Vận hội, Chính vận cho biết chữ 貉: “本作貈” (vốn viết 貈). Chữ 貈 này đáng chú ý ở phần bên phải là chữ 舟 (thuyền), khiến ta liên tưởng đến những chiếc thuyền trên trống Đồng Đông Sơn. Phải chăng đây chính là ẩn ý của chữ 貉 ám chỉ tộc người sinh sống ở vùng sông nước, thường gắn bó với việc giao thông bằng thuyền? Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, có tài xuống thủy phủ, lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ rồi sinh ra Sùng Lãm - Lạc Long Quân. Sùng Lãm sinh ra dưới thủy phủ và thường sống gắn bó với thủy phủ hơn là trên đất liền. Sau khi lên ngôi, Sùng Lãm lấy danh hiệu là LẠC Long Quân, vua Rồng LẠC. Lạc Long Quân là nòi giống rồng, đứng đầu thủy tộc và sau khi chia tay với Âu Cơ, đã đem 50 con về thủy phủ chia trị các nơi. Chúng tôi suy đoán rằng: LẠC là một tên gọi ám chỉ cội nguồn của vua, con của Rồng, sinh ra từ thủy phủ và âm “lạc” là cách đọc tiếng Hán ở cổ Việt của chữ Hán là 貉 hay 貈. Vậy 貉 hay 貈 là chữ ký âm tiếng cổ Việt, nhưng tiếng ấy là gì? Âm Hán thượng cổ của 貈 được phục nguyên là [gloowg] và của 貉 là [glaag](25), cả 2 âm này đều tựa như “lạc” của người Việt và của các tộc Hoa Nam [lok3], [log6], [log8]. Từ “lạc” (Lạc Long Quân) trong tiếng Việt xưa nay là một từ mất nghĩa nhưng dựa vào suy luận trên về cội nguồn của vua Rồng sinh ra và sống gắn bó với thủy phủ, ta có thể xác định đó là môi trường, quê hương NƯỚC. Vậy, LẠC Long Quân chính là vua Rồng - NƯỚC. Chữ Lạc 貉 là một dạng ký âm tiếng cổ Việt của “nước” hay “nác”(26). Theo Nguyễn Tài Cẩn(27), Nguyễn Ngọc San(28), phụ âm đầu “n” bắt nguồn từ dr, r, d, t, đa số Mường nói nước là “dac”, “tac” nhưng ở tiếng Mường Thải, Tân Phong phát âm “nước” là [drac] và đặc biệt là các Mường Vang, Mặc, Khênh, Thịnh Lang, Cao Dương, Tăm, Nèn, Khơi(29)... lại phát âm theo “r” là “rac”. So sánh âm Hán thượng cổ của 貉 [glaag] và âm Mường-Việt [rac] ta thấy tương đồng: “gl” đọc lướt sẽ như “l”, vì âm Hán xưa không có âm rung “r” nên thường dùng “l” để ký âm, chẳng hạn như An Nam tức sự(30) đời Nguyên đã dùng 掠 [liɑk] để ghi âm tiếng cổ Việt chỉ 水 (nước) là [rac] hay An Nam dịch ngữ đời Minh đã dùng 弄 [luŋ] để ký âm cho tiếng Việt chỉ 闊 là rộng và ở chữ Nôm, ký âm “rồng” bằng long 龍. Kết quả này phù hợp với giả thuyết trước đây của Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc(31) về cách đọc “lạc” trong Lạc điền, Lạc dân, Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng và kể cả Lạc Long quân, Lạc Việt là một từ tố Việt-Mường rac: nước. Tác giả hiểu rằng, tên gọi Lạc điền ám chỉ về ruộng rặc, rộc = ruộng nước vì lẽ, tài liệu Hán cho biết Lạc điền là ruộng có nước triều lên xuống mà yếu tố nước rất quan trọng cho việc trồng cấy. Một nhà nghiên cứu khác cũng đã từng đồng thuận với cách đọc hiểu của chữ Lạc là “nước” như Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đó là Lê Hữu Mục: “chữ Lạc theo chữ nôm là LÁC và hiểu LÁC là nước theo quá- trình phát-triển của nó từ LÁCđến ĐÁC và từ ĐÁC đến NÁC để dừng lại cuối cùng ở âm NƯỚC như ta biết hiện nay” và tác giả cũng nhìn nhận: “Từ nước từ ngàn xưa đã nằm sẵn trong những danh-xưng LẠC ĐIỀN 貉田 và LẠC DÂN 貉民”(32).
Tuy nhiên, luận cứ Lạc = nước của các tác giả trên, theo chúng tôi có mấy điểm không thuyết phục: Tài liệu Hán như Quảng Châu ký, Giao Châu ngoại vực ký, ngay từ đầu đã nhấn mạnh về Lạc điền, ruộng cótên là “Lạc” chứ không phải ám chỉ về sự lên xuống của thủy triều. Nước triều lên xuống chỉ là một thuộc tính của ruộng Lạc. Cả người Hán lẫn Việt thời thượng cổ đều đã biết sử dụng ruộng nước để trồng cấy. Yếu tố “nước” luôn cần thiết với các dân tộc sống bằng nông nghiệp. Nên theo chúng tôi, nước triều lên, xuống không gây chú ý bằng tên một sản vật địa phương mà người Hán chưa biết. Do đó Lạc điền nên hiểu là ruộng trồng cấy một loài thực vật nào đó ở ruộng có nước triều lên xuống. Hơn nữa, giả thuyết này chưa giải quyết thỏa đáng về sự phức tạp của các tự dạng 貉 (Lạc Long quân), 駱, 雒 (Lạc điền, Lạc dân…) và đặc biệt là 雄 (Hùng điền, Hùng dân…) trong Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn. Theo quan điểm chúng tôi, chữ 貉 không có cơ sở để đánh đồng với các chữ 駱,雒,雄. Chữ Lạc 貉 trong Lạc Long Quân 貉龍君 có phải là Lạc 駱, 雒 trong Lạc điền, Lạc vương… và cổ nhân Việt cố ý gán ghép vào Long quân? Trong thư tịch Hán, chữ 貉 xuất hiện duy nhất trong sách Thông Điển (đời Đường) với Lạc Việt 貉越 nhưng Lạc Việt lại ở huyện Trung Lư, không thuộc Giao Chỉ, tuy nhiên sách Đông quán Hán ký (thời Đông Hán), Hậu Hán thư khi chép về Lạc Việt Trung Lư lại không viết là 貉越 mà dùng 駱越. Vậy có thể 貉 và 駱 có tự dạng giống nhau nên dễ lầm lẫn (chỉ một lần trong thư tịch Hán). Sử liệu Hán viết Lạc Việt 駱越 để phiếm chỉ dân sống ở Giao Chỉ, Cửu Chân và ở Trung Lư và có khi cho Lạc Việt 駱越 là Tây Âu 西甌 nên không chắc rằng chữ “Lạc” dù ở văn cảnh nào, thuần túy chỉ dân Lạc ở cổ Việt (như Giao Châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký). Trường hợp này cũng như tên gọi Việt, phiếm chỉ các tộc thuộc Bách Việt vùng Hoa Nam, trong đó kể cả Lạc Việt ở Giao Chỉ. Không thể tùy tiện cho rằng nhà Nho Việt đã đọc Thông Điển rồi bắt chước cách viết 貉 = 駱 để ghi chép về Lạc Long Quân trong Lĩnh Nam chích quái. Học giả Đào Duy Anh cũng đã từng nhận định rằng sử sách Việt đã lộn từ chữ 駱 sang chữ 貉 vì tự hình giống nhau. Trong thư tịch Việt, có nhiều chỗ đã dùng 貉 khi chép về Âu Lạc, Lạc Hầu, Lạc Tướng chứ không dùng 駱, 雒, tuy nhiên Đại Việt sử ký toàn thư khi viết về Trưng Trắc lại viết giống sách Hán với chữ 雒, họ Lạc 雒, con gái của Lạc tướng 雒將 huyện Mê Linh. Hiện tượng này có thể là do thói quen viết chữ của nhà Nho Việt khi thấy chữ Lạc 貉 trong Lạc Long quân là chữ đồng âm với Lạc (駱,雒) nên hễ thấy chỗ nào có “lạc” là cũng viết là 貉. Do đó, theo chúng tôi, chữ Lạc 貉 trong 貉龍君 không phải là chữ Lạc 駱,雒 trong Âu Lạc, Lạc Hầu, Lạc Tướng(32).
Chúng tôi chỉ đồng thuận với Nguyễn Kim Thản, Vương Lộc và Lê Hữu Mục về sự tương đồng ngữ âm Hán - Việt khi đoán định LẠC= NƯỚC. Nhưng bằng một truy nguyên khác, dựa vào gốc tích, huyền sử, chúng tôi xác định NƯỚC (nác, rac) chỉ gắn liền với danh hiệu LẠC Long quân mà thôi.
3. Lời kết
Danh hiệu Lạc Long Quân 貉龍君 của huyền sử Việt Nam từ bao đời nay, đã để lại cho hậu thế một bí ẩn từ chữ Hán là 貉 vì chữ này không đọc theo từ thư, phiên thiết Hán là “hạc”, “mạch” mà lại là LẠC. Kế tiếp các công trình khảo cứu trước đây của các học giả, nhà nghiên cứu sử học, bằng một truy nguyên khác, chúng tôi đã đi đến một kết luận: Chữ 貉, xưa vốn là chữ 貈, có lẽ người cổ Việt đã chọn tự dạng này vừa để ký âm vừa gợi nhớ đến cuộc sống gắn bó với thuyền trên sông nước như vẫn còn lưu dấu tích trên trống đồng Đông Sơn. Do văn tự biến đổi theo thời gian, nên đến khoảng đời Trần, soạn giả Lĩnh Nam chích quái đã lưu lại tự dạng 貉 là chữ đồng âm của 貈. Âm Hán thượng cổ của 貈[gloowg] và 貉[glaag] rất gần với cổ âm người Việt là “lạc” nên có khả năng dùng để ký âm cho tiếng Mường - Việt là [rac], nghĩa là NƯỚC (nác). Cách đọc “lạc” 貉 của tiền nhân Việt là đúng đắn chứ không phải là một cách đọc sai lầm vì có căn cứ ngữ âm lịch sử của tiếng Hán [glaag] và phương ngôn tiếng Hán như Quảng Đông [lok3], Khách Gia [log6], Triều Châu [log8]. Vậy, ban đầu, ở thời kỳ giao tiếp Hán - Việt (Triệu Đà đến Hán thuộc), 貉 được người cổ Việt phát âm là “lạc” và dùng để ký âm cho tiếng Mường-Việt là [rac] và 貉龍君 sẽ là vua Rồng (龍 君) mang tên NƯỚC [rac] (貉). Ý nghĩa của NƯỚC rất phù hợp với danh hiệu LẠC Long Quân vì theo huyền sử, Lạc Long Quân là người sinh ra từ NƯỚC, thủy phủ bởi mẹ là là Long nữ, con gái của vua hồ Động Đình vì thế khi Kinh Dương Vương truyền ngôi lại cho con trai là Sùng Lãm, Sùng Lãm đã xưng danh hiệu là LẠC Long Quân để luôn nhớ về quê mẹ, nguồn cội sinh ra từ NƯỚC của mình. Lạc Long Quân rất thường hay sống ở thủy phủ và sau khi chia tay với Âu Cơ, vua đã đem 50 người con trai trở về quê ngoại ở thủy phủ. Âu Cơ đã đem 50 người con trai khác lên vùng đất liền, cao ráo ở Phong Châu và tôn người con trưởng lên làm vua gọi là vua Hùng (Hùng Vương). Huyền sử lại cho biết, dân Văn Lang khi xuống nước đánh cá, thường hay bị loài giao xà làm hại nên vua Hùng đã truyền dạy lấy mực xăm lên mình giống hình Long Quân để không bị thủy quái hại nữa. Sử sách cho biết tục xăm mình theo hình rồng gọi là “thái long” đến đời Trần vẫn còn thịnh hành. Đây cũng là một dấu tích nhớ đến cội nguồn, thủy tổ người cổ Việt là Lạc Long Quân.
Đ.V.T
(SDB17/06-15)
.....................................................
1. Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (chữ Hán), nguồn: Vietnamese Nôm Preservation Foundation (VNPF), http://lib. nomfoundation.org/collection/1/
2. Đại Việt sử ký toàn thư (tập IV, kèm nguyên bản chữ Hán), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1993.
3. Nguyễn Tá Nhí (Sưu tầm, chú thích, biên dịch), Việt sử diễn âm (bản chữ Nôm), Nxb. Văn Hóa Thông Tin, 1997.
4. Thiên Nam minh giám - Gương sáng trời Nam (bản chữ Nôm), Hoàng Thị Ngọ (phiên âm, chú giải), Nxb. Văn Học. 1994.
5. Nguyễn Thị Lâm (khảo cứu, sưu tầm, biên soạn) Thiên Nam ngữ lục (bản chữ Nôm), Nxb. Văn học & TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001.
6. Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca (bản chữ Nôm), Lã Minh Hằng (khảo cứu, phiên âm, chú thích), Nxb. Văn Học. 2008.
7. Việt Sử Tiệp Lục Diễn Nghĩa, bản chữ Nôm, nguồn: http://www.trangnhahoaihuong.com.
8. Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu (bản chữ Hán), Hoàng Văn Lâu (dịch), Nxb. Khoa học xã hội, 2000.
9. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 - 1659 (tái bản), Nxb. Tôn giáo, 2008.
10. Nguồn sách của các tác giả P. Le Grand de La Liraÿe, Trương Vĩnh Ký, Edmond Nordemann từ các website: Archive. org, Gallica.bnf.fr, Books.google.com, Persee.fr.
11. Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục. Cục Lưu trữ nhà nước Việt Nam & Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, Nxb. Văn hoá, 1997.
12. Ngũ thiên tự dịch quôc ngữ 五千字譯國語, Nguyễn Bỉnh, nguồn: http://hannom.nlv.gov.vn.
13. Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt Nam tự điển, Ha Noi, Imp. Trung Bac Tan Van, 1931.
14. Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển giản yếu, Nhà in Tiếng dân, Huế, 1932.
15. Nguyễn Trần Mô, Nam Hoa tự điển, (Imp. Thuy-ky), Hà Nội, 1940.
16. Nguồn tự điển: http://dictionary.sina.com.hk/p/word/%B8%E8#top. www.mogher.com/. Zdic.net
17. 上古音查询, www.eastling.org/OC/oldage.aspx
18. An Chi, Lạc Long Quân nghĩa là gì? Đương Thời Xuân Nhâm Thìn 2012.
19. Huệ Thiên, Hùng Vương hay Lạc Vương? Đăng trong Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm, Nxb. Trẻ, 2004.
20. Sau bài Lạc Long Quân nghĩa là gì?, đến bài Cả dân gian lẫn trí thức đều có thể sai, nguồn: http://petrotimes.vn. An Chi đã ngầm chỉ trích cổ nhân đã sai lầm, ông viết: “Chúng tôi không cho rằng, các cụ ta ngày xưa lại dốt đến độ không biết rằng chữ [貉] không thể đọc thành “lạc”, có nghĩa là, thực tế xưa nay mọi người (kể cả dân gian, trí thức) đã lưu truyền âm đọc “lạc” là vì dốt nát! Đáng tiếc hơn, ông đã lấy tên tuổi của học giả Trần Trọng Kim với Việt Nam sử lược để quy tội: “chúng tôi vẫn cho rằng sở dĩ cách đọc đó trở nên phổ biến là do quyển sử của học giả họ Trần”. Nhưng, như chúng tôi đã chứng minh trong bài, luận điểm của An Chi không khoa học vì thiếu thuyết phục, phiến diện và đầy chủ quan, cảm tính.
21. Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đại Việt Nam, Nxb. Văn Hóa Thông Tin, 2005.
22. Khang Hy tự điển, Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1997.
23. Các tài liệu chữ Hán như Thủy kinh chú, Thái Bình quảng ký, Hán thư… tham khảo từ trang mạng Chinese Text Project, website: http://ctext.org/pre-qin-and-han
24. Các âm Hán thượng cổ tra cứu theo 上古音查询, www.eastling.org/OC/oldage.aspx
25. Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb. Khoa học Xã hội, 1991.
26. Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb. Giáo Dục (tái bản), 1997.
27. Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử (Tái bản có bổ sung và sửa chữa), Nxb. Đại học Sư phạm, 2003.
28. Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi (nhiều tác giả), Nxb. Ủy ban huyện Tân Lạc, Sở VHTT Hà Sơn Bình, 1988.
29. An Nam tức sự 安南即事, nguồn: http://ctext.org/wiki.pl?if=en&chapter=224481&remap=gb
30. Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc, Thử tìm hiểu nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố “Lạc” trong Hùng vương dựng nước (tập IV), Nxb. Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
31. Lê Hữu Mục, Nước, đặc trưng hình thái của tư tưởng Việt Nam (1), nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn.
32. Chữ Lạc 貉 trong Lạc Long Quân 貉龍君 không phải là chữ Lạc 駱,雒 hoặc Hùng 雄 trong Lạc/Hùng điền, Lạc/Hùng dân, Lạc/Hùng vương, Lạc/Hùng hầu, Lạc/Hùng tướng được sử sách Hán - Việt ghi chép. Về danh xưng Lạc 駱,雒 và Hùng 雄 chúng tôi sẽ viết một khảo cứu khác.
Gió miền Trung
P.N.THƯỜNG ĐOAN
Ảnh: internet
Gió miền Trung
em không tin mình là chiếc xương sườn của Ađam xưa...
truyền thuyết chỉ là truyền thuyết!
em không tin Eva tội lỗi
bởi tình yêu phải đến từ hai đầu...
cuộc rong chơi trên thế gian nào có nghĩa gì đâu
khi vườn xưa không còn mắt rắn
con mãng xà tinh không có tội
khi đưa anh đến cho em
khi anh dắt em về dải đất miền Trung
khô cằn sỏi đá
mặt trời nóng ran da thịt
gió thổi khô mắt ướt đa tình, gió thắt ruột đêm
em lại tin trái tim anh đang nói lời chân thật
trước biển đen trái tim anh rực xanh màu tinh tú
soi đường vào vườn xưa
trước biển đêm em ngập ngừng khi thấy hoa lá cũ
sợ hãi lối quen
con rắn buồn khoanh tròn nghe sóng vỗ
chờ Eva về.
khi theo anh về tắm nắng miền Trung
em nhớ thuở hồng hoang
trần trụi một thiên đàng
trần trụi hai con người đi tìm hơi thở
thương hòn đá ngậm sương bạc rêu
trong lốc nắng
đang cháy hết mình cho một tình yêu
có gì đó rực trong anh
Ađam của em?
có gì đó đang giấu trong trái tim anh
Ađam của em?
gió miền Trung
đêm nay sao dịu dàng thế…
Đời tóc
VI THÙY LINH
Trong các phần của cơ thể con người, tóc thuộc về ngoại hình mà câu chuyện tóc liên quan, ảnh hưởng tới nhiều mặt, từ mỗi con người tới lịch sử nghệ thuật, xã hội. Tóc rụng hằng ngày nhưng mấy ai thương tóc. Đời tóc đi qua những đời người.
Ảnh: Phạm Bá Thịnh
Mùa Hè, thời tiết nóng, hễ nghĩ đến tóc, người ta thường muốn cắt ngắn hoặc làm sao cho gọn. Hình thức, độ dài, kiểu tóc do nhu cầu, hoàn cảnh của chủ nhân. Khi làm mẹ, tôi mới thực sự hiểu sâu về ý nghĩa của từ sinh sôi, đánh đổi và hy sinh. Mỗi ngày, tôi quét nhà tối thiểu 3 lần, không muốn gặp tóc vương vãi. Cứ chải đầu, đi gội đầu, thấy tóc rụng mà tiếc. Sau khi con đầu lòng chào đời, tóc tôi rụng nhiều hơn.
Theo khoa học, tóc mọc và dài ra từng ngày. Khác việc xé lịch mỗi ngày thành quán tính, việc mỗi sáng thức dậy thấy tóc mình và tóc con như tơ vương trên gối, tôi xót lắm! Cuộc sống bao thứ để tiếc và muốn giữ, làm sao xuể. Tôi từng viết câu thơ: Những sợi tóc tự tử trên răng lược. Tóc tự tử hay cách chải giằng mạnh bức tử chúng? Không riêng tóc, tuổi thọ của những loài cây, thú vật ngày nay đều phụ thuộc vào ứng xử của loài người. Tóc trụ được trên đầu bao lâu không do khả năng của nó trên lý thuyết khoa học mà ở cách chăm sóc, cường độ chải, sự thay đổi kiểu, loại dầu gội, đặc thù công việc, thời gian ngủ, tác động tâm lý. Thuyết tương đối của A.Einstein có thể ví dụ với tóc. Vài trăm hay vài nghìn sợi trên cái đầu hói được xem là quá ít tóc; gặp vài sợi trong bát cơm canh, đĩa thức ăn sẽ là nhiều và phản cảm.
Gần đây ở khu nhà tôi, cứ buổi chiều lại có một phụ nữ đi xe đạp chở cái loa cũ ở giỏ xe phía trước, vừa đi vừa rao bằng loa: “Có tóc dài, tóc rối bán không cô ơi/ Có tóc dài, tóc rối bán không chị ơi/ Ai tóc dài, tóc rối bán nào.” Giọng rao buồn, thảm thiết. Từ cổ chí kim đâu hiếm kẻ trông chờ vào việc bán tóc, như nhân vật Cosette trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của đại văn hào V.Hugo đành phải bán tóc và răng vì nghèo đói, bệnh tật nơi góc tối tăm cùng quẫn ở Paris vào phần cuối cuộc đời bất hạnh. Tóc gắn với hoan lạc, vinh quang; là chứng nhân của những trầm luân, cực khổ; là tiêu chí đánh giá về sức khỏe (cùng với răng) từ thời Trung Cổ, định giá khi mua bán nô lệ... đến thử ADN xác định huyết thống thế kỷ XX ở thời hiện đại.
“Cái răng cái tóc là góc con người”. Tóc đẹp trước hết phải sạch và óng mượt. Răng đẹp phải là răng đều, trắng sáng. Cái góc con người ấy đây chỉ để đánh giá dung nhan, tóc còn là tiêu chí suy xét tướng mạo, tư cách. Chuyện của tóc là câu chuyện miên man chẳng khi nào hết. Tóc không chỉ điểm xuyết như chi tiết miêu tả mà còn là đặc điểm, nét đặc trưng, ấn tượng về mỗi người, tham gia, can dự vào các câu chuyện, bối cảnh của đời thường và sáng tạo. Nguồn cảm hứng, đề tài, tóc đi vào bảy loại hình nghệ thuật, nhất là trong điện ảnh và sân khấu, tay nghề của họa sĩ hóa trang cao hay không còn do trình độ thiết kế tóc tạo hình nhân vật. Tóc xác định việc từ giã cõi trần bụi bặm khi ai đó muốn xuống tóc quy y. Tóc - tín hiệu của cuộc sống yên bình thành thị lẫn thôn quê. Mỗi sợi tóc tựa kim giây. Thuốc nhuộm tóc hàng nghìn loại thì “che giấu thời gian” càng thuận tiện, giúp con người ta thay đổi hình thức và nếu muốn giấu tuổi, cách giấu thật hiện đại, công phu. Sợi tóc mỏng manh tải cả lịch sử của công nghiệp mỹ phẩm. Các nhà thiết kế thời trang tóc với cây kéo và các loại thuốc, gel tha hồ trổ tài biến ảo cho khách hàng. Hàng vạn câu chuyện thú vị về tóc từ cổ tích, thần thoại đến hiện thực. Có người, dù xã hội thay đổi đến đâu cũng chỉ dùng cách gội truyền thống bồ kết, hương nhu, hay gội lá mùi dịp Tết. Tóc chịu đựng cùng ta, tóc trắng sau đêm trắng âu lo đau khổ. Màu tóc thật là màu thời gian của mỗi đời người. Tóc đuôi gà, đuôi ngựa, húi cua, tóc vấn, búi, tết, cặp, buông xoã, uốn sấy, tóc là cơ hội sáng tạo của những bàn tay khéo và bộ óc tưởng tượng, tiết lộ trạng thái hôn nhân (phụ nữ dân tộc Thái khi có chồng búi tóc lên gọi là tằng cẩu), tôn giáo (phụ nữ đạo Hồi phải dùng khăn che tóc vì Hồi giáo coi tóc là dấu hiệu gợi dục, để lộ là không đoan chính). Một số kiểu tóc đơn giản, cổ điển xuyên qua mọi thời đại; có những kiểu tóc nhìn vào phản ánh thời gian, niên đại, đặc thù xã hội. Tóc còn là niềm tự tôn dân tộc như Quang Trung qua bài hịch bố cáo với binh sĩ và nhân dân trước khi xuất quân ra Bắc quyết chiến giặc Thanh ở thế kỷ XVIII: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng”, đánh tan giặc để dân Việt được trở về bản sắc của mình, thoát khỏi âm mưu đồng hóa. Sự đối lập màu tóc của mỗi chúng ta từ ấu nhi đến trưởng thành với mái tóc của cha mẹ ta khác nào tấm gương thời gian. Tóc rụng mỗi ngày nên hình như chẳng mấy ai tiếc nhớ, lo lắng, trừ ai bệnh rụng tóc hoặc bị xạ hóa/ xạ trị, ung thư.
Mỗi sự vật đều có linh hồn. Mỗi bộ phận đều có tiếng nói. Tóc nói lên nhiều điều sau sự hiện diện tưởng như thầm lặng. Tóc phản ánh thể trạng, tuổi tác, kể cả điều kiện - hoàn cảnh sống, thói quen vệ sinh. Tóc xanh là hoán dụ về tuổi trẻ, thời thanh xuân. Tóc pha sương, điểm bạc, nhuốm màu sương gió, muối tiêu... là dấu hiệu, biểu trưng của trung niên, về “chặng sau” của kiếp sống. Tóc bảo chứng lời thề (tóc thề). Nuôi tóc, giữ tóc bao thế kỷ nay đã vượt khỏi tính đơn nghĩa là do sở thích của chủ nhân, thành giao ước. Thời buổi ngày càng thực dụng, mấy ai thề bằng tóc, giữ tóc của nhau. Lớn hơn, da và tóc là yếu tố để xét nghiệm genes, xác định chủng tộc, sắc tộc.
Thời mẹ, bà tôi trở về trước, mỗi lần gội đầu, chải đầu đều cuốn tóc rụng thành cuộn nhỏ, nhét vào đâu đó hay vứt cho gọn. Tóc rối và trứng gà luộc nóng dùng để đánh gió. Mấy ai tích tóc để đánh gió hay chờ người mua. Từ thời Pháp thuộc đã có hàng rong: Ai tóc rối đổi kẹo đây! Vì nhiệm vụ, điệp vụ, do hoàn cảnh... người con gái nào phải cắt tóc để giả trai, chia lìa mái tóc thì thật là can đảm. Tóc đuôi sam - mốt bền qua những chuyển giao thời đại, với các thiếu nữ, nữ sinh, nào phân biệt nông thôn, thành thị. Tóc thường dẫn đầu khi lựa chọn làm thành tố để biểu thị quan niệm, trào lưu mốt qua tư suy sống nên trước 1945 mới có từ “tóc tân thời” (moderne) chỉ các bà các cô cắt ngắn, uốn quăn “phi-dê” (frisé). Mái tóc - vũ khí, phương tiện bằng sự biến đổi của cảnh huống sống. Tóc dấu hiệu thông thường nhận biết, phân biệt phái tính, giới - “phe tóc dài” để chỉ phái đẹp, một đặc sắc của nữ tính. Tất nhiên phụ nữ có thể vẫn nữ tính khi để tóc ngắn, thậm chí rất ngắn, nhưng tóc dài sẽ dễ thao tác nhiều kiểu. Thời trang tóc trong lịch sử thời trang thế giới luôn hấp dẫn với người thiết kế và thưởng ngoạn. Sợi tóc mỏng manh lại là hình ảnh cao trào kịch tính của hoàn cảnh, tình huống cam go nguy hiểm “ngàn cân treo sợi tóc”. “Nhỏ như sợi tóc” lại là lằn ranh tinh tế phân định những trạng thái, tính chất, lựa chọn, đòi hỏi cân não đến mức cách nhau một sợi tóc thôi: chọn bên nào, ngả về đâu là sự hệ trọng thuộc về nhân cách. Tóc - biểu tượng của cái Đẹp, tín hiệu thẩm mỹ toàn nhân loại. Dòng tóc, suối tóc hằng được ngợi ca, nguồn cảm hứng sống và sáng tác, tiêu chí xét giải trong nhiều cuộc thi Hoa hậu. Người ta mến, mê, nhớ nhau, được gợi nhớ khi ngắm mái tóc người này nơi này lại liên tưởng mong chờ gặp lại. Cảnh nào lãng mạn hơn khi giữa thiên nhiên khoáng đạt, đầy màu sắc, chim hòa ca, gió có hương của hoa, của cây và tóc lùa miên man. Tóc bay trong gió là hình ảnh hồn nhiên tự do và thơ mộng. Trong kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du lại tả tóc Thuý Kiều: “Mây thua nước tóc” đến thi sĩ đồng quê Nguyễn Bính đã nhân cách hóa cầu Trường Tiền: “Sông dài như chiếc lược ngà/ Cầu cong mái tóc cung nga buông hờ”. Làm sao kể hết những tác phẩm văn chương ngợi ca hay dùng tóc làm chất liệu nghệ thuật thành những tuyệt tác. Song tôi đã nhớ đoạn văn trong tùy bút Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân từ lần đầu đọc: “Sông Đà như mộtáng tóc trữ tình mà đầu tóc chân tóc ẩn trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Sợi tóc “buộc” tình yêu, tình cảm và “buộc” cả đời người.
Tóc nói với mỗi chúng ta và giúp chúng ta nói với nhau nhiều hơn lời hiển ngôn. Tóc kể với chúng ta dòng chảy sự sống, chiều sâu văn hóa và lịch sử không chỉ nhìn thấy, chạm vào mà qua những tấm ảnh, bộ phim, bức họa. Người ta yêu nhau nhiều khi cũng vì yêu mái tóc và muốn rời bỏ nhau lại dùng tóc để tỏ thái độ hay lý do.
Tóc mọc hồn nhiên lúc ấu nhi. Tóc xõa qua vai thời thiếu nữ, tóc ngắn gọn gàng, khỏe khoắn. Tóc buồn vui theo tâm trạng con người. Gió vờn tóc hay tóc múa đôi với gió. Tóc chứa nặng những nghĩ suy dưới những mũ, khăn. Tóc nằm trên gối một mình mơ đôi lứa, sum vầy. Tóc hòa tấu cùng ta những bản nhạc tâm hồn. Tóc níu giữ hợp quần những phút giây hạnh ngộ. Giá trị lớn nhất của nghệ thuật là nâng con người tới sự cao thượng và đắp bồi cái Đẹp. Chẳng gì ý nghĩa hơn sống để yêu thương nhau, nhân ái với đồng loại, thiên nhiên, loài vật trong sự cống hiến. Cặp uyên ương dù cách xa chỉ hoài niệm để mong lại đến ngày “Trên tay anh đêm nào tóc em cũng ngủ” (ViLi). Dẫu ngặt nghèo, thử thách đến đâu, nếu biết Bình yên là quý nhất, thì chỉ hình ảnh ấy, chỉ cần được như thế thôi, đã hạnh phúc tuyệt vời. Sợ thời gian và không muốn mất thời gian nhiều để đỏm dáng, chăm chút ngoại hình, tôi ít soi gương; cũng không thể không soi mỗi ngày trong phòng tắm.
Nhưng hôm nay, với những sợi tóc rụng trong tay, Linh tuổi 35 trong gương đang nhìn tôi ứa lệ. Soi gương im lặng... thấy chân dung mình đối thoại cùng ta. Tóc kể chuyện đời...
Văn học miền Nam: Bùi Giáng
Định mệnh rất trớ trêu, thường xuyên rất trớ trêu.
Bùi Giáng không phải nhân vật tôi đặc biệt thích, nhưng cái gì của Bùi Giáng cũng tìm cách chạy về với tôi:
Đây là còn chưa muốn bỏ công lục cả một tập đoàn thơ, rất nhiều André Gide, Othello, Ngộ nhận Albert Camus, Mùi hương xuân sắc Gérard de Nerval, Tô Mạn Thù vân vân và vân vân.
Bộ bình luận văn chương cổ Việt Nam:
Món "vũ hiệp" từng khiến Bàng Giúi than vãn: nó làm tôi phát điên; quyển sách này là một món cực kỳ được săn đón, truy lùng trong giới giang hồ sưu tầm sách vở:
Chữ ký, thủ bút của Bùi Giáng trên tập Mưa nguồn, bản in đầu:
Thơ của Bùi Giáng luôn luôn làm tôi vui, nhưng không thực sự "chạm" đến tôi. Vui là một chuyện, chạm đến lại là một chuyện khác. Bùi Giáng cũng thích những nhà văn nước ngoài mà tôi không mấy thích: André Gide, Albert Camus, Martin Heidegger (à trừ Gérard de Nerval thì tôi có thích, rất thích).
Nhưng với tôi, Bùi Giáng lúc nào cũng rất hấp dẫn, rất đặc biệt. Sau này phê bình của tôi nếu còn lại một ít bài thì trong đó sẽ có bài viết về Bùi Giáng :p (xem ở đây).
Và thế giới Bùi Giáng là một thế giới có thể khám phá không ngừng. Mới gần đây, vì có người bạn hỏi tôi nghĩ gì về các bản dịch của Bùi Giáng, cách dịch của Bùi Giáng, nên lại thêm có một dịp tôi được suy nghĩ thêm về con người ấy.
Tôi lấy làm lạ, tại sao người ta không hiểu ngay tức khắc: Bùi Giáng là một dịch giả tuyệt vời.
Tôi từng chọn lấy những đoạn Bùi Giáng dịch Gide, những đoạn tiếng Việt nhìn qua là biết khi ấy Bùi Giáng đang nghiêm túc, và thử so xem. Bùi Giáng hiểu Gide một cách sâu sắc, và diễn đạt tiếng Việt một cách thần kỳ. Những đoạn phiêu bồng cũng có sao đâu, vẫn ở trong phong thổ văn chương ấy, vẫn mang những đặc tính ấy, nhưng nhiều lúc được Bùi Giáng kích hoạt cả những mầm, những nụ mới chỉ còn e ấp. Làm thế nhất định là không nên, nhưng thật ra chẳng làm sao cả. Bùi Giáng dịch giỏi đến mức tôi tin không phải ai cũng biết nhiều quyển, Bùi Giáng đâu có dịch hết, mà chỉ có một phần, nhưng đọc phần ấy thôi đã đủ lắm rồi nên độc giả tưởng luôn là đã hết. Đã hết đâu, ví dụ Con người phản kháng, mới chỉ có một phần thôi, cuốn sách của Camus còn dài.
Nói một cách dễ chấp nhận hơn: Bùi Giáng là một cực. Bùi Giáng là đại diện cho một phía lỏng hết mức của dịch thuật. Muốn biết thế nào là đối nghịch thì phải tìm đến một nhân vật khác: Thư Trung Trần Phong Giao. Trần Phong Giao dịch Albert Camus vô cùng cẩn thận. Ai đã đọc Sứ mệnh văn nghệ hiện đại thì biết Trần Phong Giao chặt chẽ, cân nhắc, cẩn thận đến thế nào. Và kết quả là càng cân nhắc thì càng sai, và về tổng thể đó là một bản dịch ngớ ngẩn.
Trần Phong Giao, bởi quá chặt, nên ngoài những đóng góp trong điều hành một tờ tạp chí lớn (Văn), viết cũng hỏng mà dịch cũng hỏng nốt.
Khó mà nói trước điều gì lắm.
Trong khi Bùi Giáng thì, với toàn bộ sự lỏng nhiều lúc đáng bực, lại đúng nghĩa là một con người văn chương, rất hiểu mà vẫn chơi bời thoải mái.
Nhưng, không chỉ có vậy, lần nghĩ lại về Bùi Giáng này còn dẫn tôi đến một điều nữa: ai cũng biết rằng vụ cháy nhà mất hết sách đã tác động lớn thế nào đến tinh thần Bùi Giáng. Hình như sau đó Bùi Giáng chính thức phát điên.
Nhưng chuyện có thực sự như thế không? Theo tôi thì không phải. Nhìn lại câu chuyện, dùng tất cả những gì mà tôi hiểu về thế giới sách vở, về mối liên hệ nhiều lúc kỳ diệu giữa vài con người với thế giới sách vở, tôi tin ý nghĩa của vụ cháy đối với Bùi Giáng khác hẳn: bởi vì Bùi Giáng là một người như vậy, một nghệ sĩ đích thực, một người có mối quan hệ đẹp đến thế với sách vở, nên vụ cháy ấy là một phần thưởng của thế giới sách vở cho Bùi Giáng. Những quyển sách cháy đi để thực sự nhập hết vào bên trong con người Bùi Giáng, vì con người ấy đủ sức chứa những tinh túy đó. Những quyển sách đã tặng hết cho Bùi Giáng. Và hơn thế nữa, chúng chuẩn bị sẵn cho Bùi Giáng, giúp ông sống trước cuộc phần thư sau này. Khi đã gánh chịu (thật ra là được hưởng) điều ấy, cuộc phần thư lớn không còn có thể gây quá nhiều đau khổ nữa. Bùi Giáng là người duy nhất được chọn theo cách ấy, là người duy nhất thoát được một số phận chung.
Số phận ấy sau này rất ám ảnh: ta đọc được trong tập Thủy Mộ Quan, nhà thơ Viên Linh có một câu thơ vô cùng đau khổ: "Ta thân xác phần thư".
Tôi cũng sắp đi đến cuối chặng đường "văn học miền Nam" rồi. Trong đối sánh với Bùi Giáng, tôi chỉ muốn đặt duy nhất một nhân vật: Thanh Tâm Tuyền:
Văn học miền Nam: Thanh Tâm Tuyền
Bộ bình luận văn chương cổ Việt Nam:
Món "vũ hiệp" từng khiến Bàng Giúi than vãn: nó làm tôi phát điên; quyển sách này là một món cực kỳ được săn đón, truy lùng trong giới giang hồ sưu tầm sách vở:
Chữ ký, thủ bút của Bùi Giáng trên tập Mưa nguồn, bản in đầu:
Thơ của Bùi Giáng luôn luôn làm tôi vui, nhưng không thực sự "chạm" đến tôi. Vui là một chuyện, chạm đến lại là một chuyện khác. Bùi Giáng cũng thích những nhà văn nước ngoài mà tôi không mấy thích: André Gide, Albert Camus, Martin Heidegger (à trừ Gérard de Nerval thì tôi có thích, rất thích).
Nhưng với tôi, Bùi Giáng lúc nào cũng rất hấp dẫn, rất đặc biệt. Sau này phê bình của tôi nếu còn lại một ít bài thì trong đó sẽ có bài viết về Bùi Giáng :p (xem ở đây).
Và thế giới Bùi Giáng là một thế giới có thể khám phá không ngừng. Mới gần đây, vì có người bạn hỏi tôi nghĩ gì về các bản dịch của Bùi Giáng, cách dịch của Bùi Giáng, nên lại thêm có một dịp tôi được suy nghĩ thêm về con người ấy.
Tôi lấy làm lạ, tại sao người ta không hiểu ngay tức khắc: Bùi Giáng là một dịch giả tuyệt vời.
Tôi từng chọn lấy những đoạn Bùi Giáng dịch Gide, những đoạn tiếng Việt nhìn qua là biết khi ấy Bùi Giáng đang nghiêm túc, và thử so xem. Bùi Giáng hiểu Gide một cách sâu sắc, và diễn đạt tiếng Việt một cách thần kỳ. Những đoạn phiêu bồng cũng có sao đâu, vẫn ở trong phong thổ văn chương ấy, vẫn mang những đặc tính ấy, nhưng nhiều lúc được Bùi Giáng kích hoạt cả những mầm, những nụ mới chỉ còn e ấp. Làm thế nhất định là không nên, nhưng thật ra chẳng làm sao cả. Bùi Giáng dịch giỏi đến mức tôi tin không phải ai cũng biết nhiều quyển, Bùi Giáng đâu có dịch hết, mà chỉ có một phần, nhưng đọc phần ấy thôi đã đủ lắm rồi nên độc giả tưởng luôn là đã hết. Đã hết đâu, ví dụ Con người phản kháng, mới chỉ có một phần thôi, cuốn sách của Camus còn dài.
Nói một cách dễ chấp nhận hơn: Bùi Giáng là một cực. Bùi Giáng là đại diện cho một phía lỏng hết mức của dịch thuật. Muốn biết thế nào là đối nghịch thì phải tìm đến một nhân vật khác: Thư Trung Trần Phong Giao. Trần Phong Giao dịch Albert Camus vô cùng cẩn thận. Ai đã đọc Sứ mệnh văn nghệ hiện đại thì biết Trần Phong Giao chặt chẽ, cân nhắc, cẩn thận đến thế nào. Và kết quả là càng cân nhắc thì càng sai, và về tổng thể đó là một bản dịch ngớ ngẩn.
Trần Phong Giao, bởi quá chặt, nên ngoài những đóng góp trong điều hành một tờ tạp chí lớn (Văn), viết cũng hỏng mà dịch cũng hỏng nốt.
Khó mà nói trước điều gì lắm.
Trong khi Bùi Giáng thì, với toàn bộ sự lỏng nhiều lúc đáng bực, lại đúng nghĩa là một con người văn chương, rất hiểu mà vẫn chơi bời thoải mái.
Nhưng, không chỉ có vậy, lần nghĩ lại về Bùi Giáng này còn dẫn tôi đến một điều nữa: ai cũng biết rằng vụ cháy nhà mất hết sách đã tác động lớn thế nào đến tinh thần Bùi Giáng. Hình như sau đó Bùi Giáng chính thức phát điên.
Nhưng chuyện có thực sự như thế không? Theo tôi thì không phải. Nhìn lại câu chuyện, dùng tất cả những gì mà tôi hiểu về thế giới sách vở, về mối liên hệ nhiều lúc kỳ diệu giữa vài con người với thế giới sách vở, tôi tin ý nghĩa của vụ cháy đối với Bùi Giáng khác hẳn: bởi vì Bùi Giáng là một người như vậy, một nghệ sĩ đích thực, một người có mối quan hệ đẹp đến thế với sách vở, nên vụ cháy ấy là một phần thưởng của thế giới sách vở cho Bùi Giáng. Những quyển sách cháy đi để thực sự nhập hết vào bên trong con người Bùi Giáng, vì con người ấy đủ sức chứa những tinh túy đó. Những quyển sách đã tặng hết cho Bùi Giáng. Và hơn thế nữa, chúng chuẩn bị sẵn cho Bùi Giáng, giúp ông sống trước cuộc phần thư sau này. Khi đã gánh chịu (thật ra là được hưởng) điều ấy, cuộc phần thư lớn không còn có thể gây quá nhiều đau khổ nữa. Bùi Giáng là người duy nhất được chọn theo cách ấy, là người duy nhất thoát được một số phận chung.
Số phận ấy sau này rất ám ảnh: ta đọc được trong tập Thủy Mộ Quan, nhà thơ Viên Linh có một câu thơ vô cùng đau khổ: "Ta thân xác phần thư".
Tôi cũng sắp đi đến cuối chặng đường "văn học miền Nam" rồi. Trong đối sánh với Bùi Giáng, tôi chỉ muốn đặt duy nhất một nhân vật: Thanh Tâm Tuyền:
Văn học miền Nam: Thanh Tâm Tuyền
Điển tích "mọc sừng" và "cắm sừng" từ đâu mà có?
Rất nhiều người dân Việt Nam dùng từ “mọc sừng” hay “cắm sừng” để chỉ người chồng/vợ bị người bạn đời của mình phản bội, ngoại tình. Thế nhưng từ “mọc sừng” bắt nguồn từ đâu và nguyên nghĩa là gì không phải ai cũng biết.
Ảnh minh họa.Xuất hiện từ thời Pháp thuộc
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội cho rằng, từ “mọc sừng” xuất hiện ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc, được dịch từ tiếng Pháp là Cocu. Đối với Người Pháp, khi chế giễu người đàn ông “mọc sừng” (bị cắm sừng) người ta thường dùng từ “Cocu hay Coucou”. Theo truyền thuyết Âu châu từ xa xưa, chữ “cocu hay cocou” xuất phát từ tiếng Pháp, chỉ con chim coucou, một giống chim không biết làm tổ, chuyên đi đẻ nhờ vào tổ chim khác. Chuyện con coucou đi đẻ ở một ổ khác được người ta hiểu theo cách giống như một người đàn ông bị vợ phản bội, đi quan hệ với một người đàn ông khác. Nghĩa là không phải người ta đến cướp vợ/chồng mà đó là hành động tự nguyện.
GS.TS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng dân gian Việt Nam cho rằng, có những câu nói cửa miệng hàng ngày nhưng rất ít người để ý và biết nguồn gốc nó xuất phát từ đâu. Từ “mọc sừng” cũng là một loại như vậy, có rất nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của từ này, tuy nhiên cách lý giải nào là đúng nhất thì không ai chứng minh được. Có những tài liệu phân tích cũng có lý rằng ngày xưa trong thần thoại Hy Lạp, các vị thần được tái hiện đều có sừng trên đầu, như một biểu trưng của sức mạnh.
Theo các luận cứ đó, ý nghĩa xấu xa của câu “bị cắm sừng” khởi đầu liên quan tới hoàng đế Andromic I Comin xứ Vizantin, nắm quyền trong một thời gian ngắn từ năm 1183 - 1185. Chỉ trong 2 năm trị vì, Andromic đã cai trị dân chúng bằng những biện pháp tàn khốc, trả thù một cách man rợ những người chống đối cũ và rất có biệt tài chinh phục phụ nữ một cách dâm loạn. Nhà vua tống chồng các cô nhân tình vào ngục để dễ bề thỏa chí dục vọng, còn trước cửa nhà họ, cho đặt đầu hươu nai, hoặc thủ cấp động vật có sừng khác mà ông kiếm được trong những dịp đi săn. Từ đó xuất hiện câu “Để người ta cắm sừng lên đầu mình” đồng nghĩa với những nỗi bất hạnh mà các ông chồng kia phải gánh chịu. Tới năm 1185, thất trận, vua bị nhục hình nhổ răng, nhổ tóc, móc lòi một bên mắt, chặt đứt một cánh tay và chết ngày 11/9/1185.
Nhiều giả thuyết khác nhau
Trong văn học, người Hy Lạp, La Mã cổ đại cũng dùng từ “mọc sừng” để chỉ những gã chồng khờ, có vợ ngoại tình mà không biết. Nhà văn Nicétas viết tiểu sử hoàng tử Andronicus có đoạn: “Ngài treo nhiều cặp sừng thú mà ngài săn được trên các cây cột trong nhà để giễu cợt những vị anh hùng bị mọc sừng”. Sách cũng kể rằng: “Cặp sừng đặc biệt đó giống như sừng dê, một con vật được coi là dâm dật nhất trong tất cả các loài thú”. Truyền thuyết cổ Ai Cập cũng kể chuyện về vị thần cai quản thượng giới là Jupiter đã biến ra con bò có sừng để trăng hoa với người đẹp Europe, khiến hoàng hậu thời đó là Pasiphac hạ sinh cho vua Minos một hoàng tử có sừng. Tất cả những truyền thuyết trên, những sự tranh cãi về sự ra đời của chiếc sừng, thật ra, cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Trong thế giới của các thần trên đỉnh Olympia, cho tới thế giới trần gian, cặp sừng đã có và sẵn sàng cắm lên trán bất kỳ ai lơ đễnh. Vị hoàng đế được cắm nhiều sừng nhất là Claude, nhà vua thứ ba trong dòng Ceasar ở La Mã. Trong lúc ngài xông pha trận mạc, chinh phục xứ Gaule, vợ của ngài là hoàng hậu Messali hạ sinh được một đứa con trai. Khi trở về, biết chuyện, ông cũng đã xử tử vợ, nhưng cặp sừng trên trán thì vẫn bị chế giễu, không sao nhổ đi được.
Sau đó, vua Claude tục huyền với nàng Agrippine, một thiếu phụ chuyên cắm sừng chồng, bà này có đứa con riêng là Néron, bà đã đầu độc vua Claude và đưa Néron lên ngôi thành một bạo chúa. Ngay đại anh hùng Pháp quốc, như Napoleon, khi chiến chinh xa cũng bị hoàng hậu Josephine liên tiếp cho mọc sừng trên đầu nhưng ông vẫn tha thứ.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ, tất cả các giả thuyết đó được đưa ra đều có cơ sở. Còn nguồn gốc từ “mọc sừng” ở Việt Nam chắc chắn là do người Pháp du nhập vào mà có, chứ không xuất phát từ bất cứ một điển tích nào trong nước.
Bị “cắm sừng” là ngu?
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, ở Việt Nam, việc một người đã có gia đình rồi mà ngoại tình là “tội tày trời”, đáng “gọt gáy bôi vôi” thả trôi trên sông nước. Người đàn ông mà bị “cắm sừng” thì bị coi là một người yếu kém, “ngu” vì bị vợ lừa bỏ đi theo trai mà không biết. Những con có sừng như con bò, con trâu, vốn được coi là những con vật ngu ngốc, “ngu như bò”. Dân gian ta cũng vốn ví những người có trí tuệ kém giống như con vật có sừng là trâu, bò. Vì thế, khi nói đến việc đàn ông bị cắm sừng, tức là những người đàn ông trí tuệ kém. Đây là quan niệm dù có những thay đổi nhưng có lẽ xuất phát từ đó mà từ “mọc sừng” được mặc nhiên công nhận gắn cho những người có chồng/vợ ngoại tình. Bản thân những câu chuyện đưa ra lý giải cho từ này cũng chưa có gì chắc chắn là thật, có thể chỉ là hư cấu nhưng ít nhiều đó là những cách lý giải làm thỏa mãn trí tò mò muốn biết của con người.
TS Ngô Đức Thịnh cho biết, giống như chúng ta vẫn nói “sư tử Hà Đông”, rõ ràng địa danh Hà Đông trong câu nói đó là ở Trung Quốc chứ không phải Hà Đông ở Việt Nam, nhưng người ta quen miệng dùng nên nó thành phổ quát. Từ “mọc sừng” có lẽ cũng như vậy, tại sao lại là sừng chứ không phải là bộ phận nào khác? Có lẽ cách lý giải gần gũi với văn hóa người Việt nhất là những con vật được ví như ngu nhất thường có sừng, nên người đàn ông có vợ ngoại tình bị so sánh như con vật có sừng ngu ngốc đó. Mãi sau này, từ “cắm sừng” mới sử dụng cho cả đàn bà. Rất khó để truy nguyên nguồn gốc cặn kẽ, thực sự của từ đó, tùy theo quan niệm của mỗi người, mỗi vùng mà tin vào cách lý giải nào gần gũi với mình nhất. Phong Lâm
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, ngày nay, rất nhiều quan niệm xã hội thay đổi, định kiến về những việc như ngoại tình, có con ngoài giá thú... cũng đã khác dù xã hội lên án, không ủng hộ. Việc người ta sử dụng từ “mọc sừng” khi nói về một người chồng/vợ bị phản bội đa phần là câu cửa miệng, chứ cái hàm nghĩa mắng là ngu dốt, tầm nhìn hạn hẹp, năng lực yếu kém... gần như rất hiếm gặp.
http://vietbao.vn/The-gioi/Dien-tich-moc-sung-va-cam-sung-tu-dau-ma-co/150530831/162/
GS.TS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng dân gian Việt Nam cho rằng, có những câu nói cửa miệng hàng ngày nhưng rất ít người để ý và biết nguồn gốc nó xuất phát từ đâu. Từ “mọc sừng” cũng là một loại như vậy, có rất nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của từ này, tuy nhiên cách lý giải nào là đúng nhất thì không ai chứng minh được. Có những tài liệu phân tích cũng có lý rằng ngày xưa trong thần thoại Hy Lạp, các vị thần được tái hiện đều có sừng trên đầu, như một biểu trưng của sức mạnh.
Theo các luận cứ đó, ý nghĩa xấu xa của câu “bị cắm sừng” khởi đầu liên quan tới hoàng đế Andromic I Comin xứ Vizantin, nắm quyền trong một thời gian ngắn từ năm 1183 - 1185. Chỉ trong 2 năm trị vì, Andromic đã cai trị dân chúng bằng những biện pháp tàn khốc, trả thù một cách man rợ những người chống đối cũ và rất có biệt tài chinh phục phụ nữ một cách dâm loạn. Nhà vua tống chồng các cô nhân tình vào ngục để dễ bề thỏa chí dục vọng, còn trước cửa nhà họ, cho đặt đầu hươu nai, hoặc thủ cấp động vật có sừng khác mà ông kiếm được trong những dịp đi săn. Từ đó xuất hiện câu “Để người ta cắm sừng lên đầu mình” đồng nghĩa với những nỗi bất hạnh mà các ông chồng kia phải gánh chịu. Tới năm 1185, thất trận, vua bị nhục hình nhổ răng, nhổ tóc, móc lòi một bên mắt, chặt đứt một cánh tay và chết ngày 11/9/1185.
Nhiều giả thuyết khác nhau
Trong văn học, người Hy Lạp, La Mã cổ đại cũng dùng từ “mọc sừng” để chỉ những gã chồng khờ, có vợ ngoại tình mà không biết. Nhà văn Nicétas viết tiểu sử hoàng tử Andronicus có đoạn: “Ngài treo nhiều cặp sừng thú mà ngài săn được trên các cây cột trong nhà để giễu cợt những vị anh hùng bị mọc sừng”. Sách cũng kể rằng: “Cặp sừng đặc biệt đó giống như sừng dê, một con vật được coi là dâm dật nhất trong tất cả các loài thú”. Truyền thuyết cổ Ai Cập cũng kể chuyện về vị thần cai quản thượng giới là Jupiter đã biến ra con bò có sừng để trăng hoa với người đẹp Europe, khiến hoàng hậu thời đó là Pasiphac hạ sinh cho vua Minos một hoàng tử có sừng. Tất cả những truyền thuyết trên, những sự tranh cãi về sự ra đời của chiếc sừng, thật ra, cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Trong thế giới của các thần trên đỉnh Olympia, cho tới thế giới trần gian, cặp sừng đã có và sẵn sàng cắm lên trán bất kỳ ai lơ đễnh. Vị hoàng đế được cắm nhiều sừng nhất là Claude, nhà vua thứ ba trong dòng Ceasar ở La Mã. Trong lúc ngài xông pha trận mạc, chinh phục xứ Gaule, vợ của ngài là hoàng hậu Messali hạ sinh được một đứa con trai. Khi trở về, biết chuyện, ông cũng đã xử tử vợ, nhưng cặp sừng trên trán thì vẫn bị chế giễu, không sao nhổ đi được.
Sau đó, vua Claude tục huyền với nàng Agrippine, một thiếu phụ chuyên cắm sừng chồng, bà này có đứa con riêng là Néron, bà đã đầu độc vua Claude và đưa Néron lên ngôi thành một bạo chúa. Ngay đại anh hùng Pháp quốc, như Napoleon, khi chiến chinh xa cũng bị hoàng hậu Josephine liên tiếp cho mọc sừng trên đầu nhưng ông vẫn tha thứ.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ, tất cả các giả thuyết đó được đưa ra đều có cơ sở. Còn nguồn gốc từ “mọc sừng” ở Việt Nam chắc chắn là do người Pháp du nhập vào mà có, chứ không xuất phát từ bất cứ một điển tích nào trong nước.
Bị “cắm sừng” là ngu?
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, ở Việt Nam, việc một người đã có gia đình rồi mà ngoại tình là “tội tày trời”, đáng “gọt gáy bôi vôi” thả trôi trên sông nước. Người đàn ông mà bị “cắm sừng” thì bị coi là một người yếu kém, “ngu” vì bị vợ lừa bỏ đi theo trai mà không biết. Những con có sừng như con bò, con trâu, vốn được coi là những con vật ngu ngốc, “ngu như bò”. Dân gian ta cũng vốn ví những người có trí tuệ kém giống như con vật có sừng là trâu, bò. Vì thế, khi nói đến việc đàn ông bị cắm sừng, tức là những người đàn ông trí tuệ kém. Đây là quan niệm dù có những thay đổi nhưng có lẽ xuất phát từ đó mà từ “mọc sừng” được mặc nhiên công nhận gắn cho những người có chồng/vợ ngoại tình. Bản thân những câu chuyện đưa ra lý giải cho từ này cũng chưa có gì chắc chắn là thật, có thể chỉ là hư cấu nhưng ít nhiều đó là những cách lý giải làm thỏa mãn trí tò mò muốn biết của con người.
TS Ngô Đức Thịnh cho biết, giống như chúng ta vẫn nói “sư tử Hà Đông”, rõ ràng địa danh Hà Đông trong câu nói đó là ở Trung Quốc chứ không phải Hà Đông ở Việt Nam, nhưng người ta quen miệng dùng nên nó thành phổ quát. Từ “mọc sừng” có lẽ cũng như vậy, tại sao lại là sừng chứ không phải là bộ phận nào khác? Có lẽ cách lý giải gần gũi với văn hóa người Việt nhất là những con vật được ví như ngu nhất thường có sừng, nên người đàn ông có vợ ngoại tình bị so sánh như con vật có sừng ngu ngốc đó. Mãi sau này, từ “cắm sừng” mới sử dụng cho cả đàn bà. Rất khó để truy nguyên nguồn gốc cặn kẽ, thực sự của từ đó, tùy theo quan niệm của mỗi người, mỗi vùng mà tin vào cách lý giải nào gần gũi với mình nhất. Phong Lâm
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, ngày nay, rất nhiều quan niệm xã hội thay đổi, định kiến về những việc như ngoại tình, có con ngoài giá thú... cũng đã khác dù xã hội lên án, không ủng hộ. Việc người ta sử dụng từ “mọc sừng” khi nói về một người chồng/vợ bị phản bội đa phần là câu cửa miệng, chứ cái hàm nghĩa mắng là ngu dốt, tầm nhìn hạn hẹp, năng lực yếu kém... gần như rất hiếm gặp.
http://vietbao.vn/The-gioi/Dien-tich-moc-sung-va-cam-sung-tu-dau-ma-co/150530831/162/
Nhà gom Lá Bàng đang cố " phi tang" " việc " Đạo văn"
Ảnh Nhà gom Lá Bàng chuyên gia " đạo văn"( Nữ nhân không phải Ái nữ)
Gã giáo sư " Triết học dỏm" Nhà gom Lá Bàng đã dùng đủ các chiêu trò , viết bài tung hỏa mù, dùng Nick Người Hà nội bên blog Tiếng việt tung tin đồn nhảm...hòng lấp liếm hành vi "đạo văn" của gã, cũng như che đậy sự bịp bợm và dốt nát của gã về " triết học" mà tôi đã phanh phui ra. Gã không chỉ tháo gỡ
714. Nhận định của tôi về bài diễn văn 'Tổ quốc tôi, ông là ai?' của Vương Khả Nhi
để phi tang đoạn tôi "trích dẫn : "2) Còn mình nói 'chơi blog không được cái gì cả' là để đối lại:-cái ý định bươi móc của một blogger nào đó: tôi có lãnh lương của ai đó đâu mà tôi phải viết để làm hoàn toàn hài lòng kẻ đó!,
-lại có người... thách thức tôi làm thay đổi ý thức hệ của người VN!: tôi chỉ là một blogger vô danh,
-lại có vài học giả - thấy tôi phát biểu rất… mới/lạ và có lý/triển vọng mạnh - đã gửi gấm và muốn tôi làm thay đổi hệ tư tưởng/hệ thống ý niệm, hay nói cách khác là thay đổi toàn diện nền triết lý (ngàn năm) của VN! Họ rất chân thành, nhưng tôi bảo 'tôi chỉ là một kẻ tầm thường, nếu tôi làm tốt thì ai sẽ khen/động viên tôi, còn nếu tôi bị ném đá thì liệu các cụ có đứng ra bảo vệ cho tôi không?, hay có tài trợ đồng nào để tôi sống qua ngày mà viết không?', không có câu trả lời!"
Không chỉ thế, gã c4ng đã tháo gỡ hàng loạt bài liên quan đến triết học. Buồn cười nhất, trong đó có loạt bài được cô nàng Ái nữ Blog Hơi Thở Vũ Trụ, Tác giả của Sử ký dân gian trường thiên tiểu thuyết " Ngày Tận Thế huyền bí" trang trọng " giới thiệu. Bạn có thể đọc
Cảm nhận:
1. Cảm nhận từ: Ái Nữ [Blogger] 11.04.15@23:12
Chú thích: Truyện cổ "Mèo đi hia" được kể tóm tắt Ở ĐÂY. "Việt Nam không có triết gia" là loạt bài viết mới tinh của blogger Nhà Gom Lá Bàng gồm 4 phần: - Phần 1: Việt Nam không có triết gia. - Phần 2: Bùi Giáng chọn Đỗ Long Vân là... triết gia. - Phần 3: "Nhà triết học số 1 của Châu Á". - Phần 4: Tư duy kiểu con kiến. |
Chương 2 - Mèo Ainu đi tìm bông hồng có phép lạ)
Thật ra, thằng lưu manh và dốt này chỉ "tự thú" với thiên hạ bản chất hạ lưu của gã mà thôi.
Chúng ta hãy chờ xem cặp đôi này tiếp tục " diễn trò" thế nào.
Nhân tiện cũng giới thiệu với các bạn http://nhahatburatino.blogspot.com( nhahatburatino.blogspot.com)
Một Blog do cặp đôi này lập ra. Các bạn vào đọc và nhận xét!
Nhà Hát Buratino
MẪU NGƯỜI QUÂN TỬ: CON NGƯỜI TOÀN THIỆN TRONG “LUẬN NGỮ” CỦA KHỔNG TỬ
Nguyễn Thị Kim Chung
Giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc của những dục vọng, từng bước nâng cao tri thức của mình về vạn vật (cách vật), về thế giới con người (biết người, yêu thương con người) là con đường hoàn thiện chân chính của Quân tử.
Bốn tác phẩm kinh điển nổi tiếng của Nho giáo mà bất kỳ người nào nghiên cứu học thuyết này cũng đều biết đến là Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử, được nhà triết học nổi tiếng đời Tống là Chu Hy (1130 – 1200) sắp xếp, kế thừa cách chú giải của các nhà tư tưởng Tống Nho đi trước, cũng như chú giải của chính ông thành bộ sách có tên chung là Tứ thư tập chú, trong đó Luận ngữ được xem là một trong những tác phẩm khởi đầu quan trọng cho một nền Nho học Trung Hoa do Khổng Tử sáng lập. Đây là cuốn sách đề cập đến các vấn đề của triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức… Có thể nói, những tinh tuý được rút ra từ những vấn đề đó nhằm mục đích xây dựng con người toàn thiện, toàn mỹ cho một xã hội phong kiến lý tưởng theo học thuyết của Không Tử. Trong bài viết này, từ bình diện triết học, chúng tôi muốn làm rõ mẫu người quân tử – con người toàn thiện trong Luận ngữ của Khổng Tử.
Để làm rõ mẫu người quân tử – con người toàn thiện trong học thuyết Khổng Tử, chúng ta cần phải lý giải tại sao ông lại chọn đối tượng quan tâm trong học thuyết của mình là con người và các quan hệ của con người. Song, trong khuôn khổ của một bài viết, chúng tôi không thể thực hiện được điều đó mà chỉ muốn nói rằng, bất kỳ ai khi nghiên cứu học thuyết của Khổng Tử cũng đều thống nhất ở điểm cho rằng, đứng trước một xã hội đang phải hứng chịu sự suy thoái về đạo đức của con người (cái mà Trời phú cho con người khi con người xuất hiện và được đặt nó vào vị trí trung tâm của Vũ trụ), xác định đối tượng quan tâm của mình ở trần thế, Khổng Tử muốn làm cho con người thấy được chính bản thân mình, thấy được sự băng hoại về bản tính đạo đức (tính bản thiện) vốn giống nhau khi nó mới được sinh ra nhưng cũng ngay lập tức bị phân hoá, đồng thời dạy cho con người biết cái căn bản nhất của nó là Nhân tính. Chính vì vậy mà ông không đề cập, hay nói đúng hơn là cố ý tránh đề cập đến những vẫn đề sống – chết, mà chỉ chú ý đến bậc trí giả, đó là người biết “chuyên vào việc nghĩa để giúp dân, kính trọng quỷ thần nhưng tránh xa” (Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi – Luận ngữ, VI, 20).
Khổng Tử cũng không thích nói về những điều kỳ diệu, về sự hiện diện của thần thánh. Điều này chúng ta có thể biết được qua cuộc đối thoại giữa Quý Lộ và Khổng Tử. Quý Lộ hỏi về việc thờ quỷ thần, Khổng Tử nói rằng: “Thờ người còn chưa nổi, làm sao thờ được ma?”. Thưa: Dám hỏi về sự chết. Khổng Tử nói: “Sống còn chưa biết rõ, làm sao biết được sự chết?” (Quý Lộ vấn sự quỷ thần. Tử viết: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ”? Viết: “Cảm vẫn tử”.Viết: ” Vị tri sinh, yên tri tử”? Luận ngữ, XI, 11). Tuy nhiên, để giữ gìn trật tự xã hội nói riêng, Vũ trụ nói chung, Khổng Tử không phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần. ông kêu gọi phải kính tổ tiên và biết trọng quỷ thần: “Tế tổ tiên coi như tổ tiên đang có mặt, tế thần coi như thần đang có mặt” (Tế như tại, tế thần như thần tại – Luận ngữ, III, 12).
Qua đó, chúng ta thấy, Khổng Tử hạn chế nhiệm vụ của mình ở việc phục vụ mọi người, quan tâm đến công việc quốc gia, nhưng ông vẫn cho rằng, cuộc sống của mọi người, của dân tộc lại phụ thuộc vào đường lối lãnh đạo đúng đắn hay sai lầm của thiên tử và hệ thống quan lại. Đường lối đó là Đạo. Khác với quan niệm của Lão Tử – “Đạo khả đạo, phi thường đạo”, đạo mà Khổng Tử đưa ra là đạo của thế giới hiện tượng, là cái cần được nắm bắt để áp dụng vào việc trị nước. Đạo đó có nhiệm vụ uốn nắn những người có nhận thức sai lầm, “cong vậy” thành ngay thẳng. Khi con người trở nên chân thành, ngay thẳng thì mọi quan hệ đều trở nên tốt đẹp, bởi vì bản thân con người là linh hồn, là trung tâm của vạn vật trong trời đất.
Vậy ai là người có thể thực hiện sứ mệnh nói trên trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa ? Trước hết, chúng ta đọc được trong Đạo đức kinh của Lão Tử: “Đạo lớn… nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là “không”, vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi (vô hình), muôn vật quy về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại của nó” . Người nắm được đạo cao và có đức cả là Thánh nhân (Đạo nhân). Đó là người “biết hoà thì gọi là bất biến (thường), biết bất biến thì gọi là sáng”. Còn Khổng Tử thì lại thấy mẫu người (Đức cả) đó là người nắm được đạo Trung, họ thật hiếm trong dân chúng thời bấy giờ: “Trung dung quả là một đức tính, rất mực tốt đẹp? Đã lâu dân chúng không theo nổi” (Trung dung chi đức dã, kỳ chí dĩ hồ! Dân tiễn cữu hĩ – Luận ngữ, VI, 27).
Trong Kinh Dịch đã có khái niệm con người toàn thiện hay thiện nhân. Đó là người biết theo đạo trung chính, biết giá trị của hạng cao sĩ. Thế nhưng, Dịch không bỏ qua mẫu người đối lập với con người hoàn thiện như hai thế lực tự nhiên âm và dương. Đó là sự đối lập giữa quân tử và tiểu nhân. Nguyễn Hiến Lê đã nhận định một cách đúng đắn rằng, “Dịch muốn đào tạo hạng người quân tử, khuyến khích tiểu nhân cải tà quy chính (quẻ Bác): “Dịch vị quân tử mưu” là nghĩa vậy, cho nên tôi cho đạo Dịch là ‘đạo của người quân tử”. Nếu ngay từ đầu, tiểu nhân và quân tử là hai hạng người đối lập nhau và sự đối lập đó là hoàn toàn mang tính tự nhiên thì làm thế nào để tiểu nhân cải tà quy chính được? Khổng Tử là người đã khắc phục vấn đề đó bằng cách vượt khỏi lập luận của Dịch về sự hình thành hai thế lực đối lập. Nhìn thẳng vào cuộc sống xã hội hiện thực, ông đã khẳng định rằng, “Bản tính người ta gần giống nhau, thói quen khiến xa nhau (Tính tương cận dã, tập tương viễn dã – Luận ngữ, XII, 2). Nghĩa là, nếu “giáo đục” con người, có thể uốn nắn đạo đức của họ, tẩy đi những tham dục nảy sinh trong cuộc sống của họ, đưa họ về với bản tính (thiện) ban đầu và nâng cao phẩm hạnh của họ bằng “ngũ thường”. Tuy nhiên, với kẻ tiểu nhân thì sự “giáo dục” đó chỉ có hiệu quả khi phát hiện kịp thời sự suy thoái đạo đức “bởi thói quen” của nó và khi sự suy thoái đó chưa đến mức tột cùng của sự hèn hạ. Khổng Tử nói rằng: “Chỉ có hạng thượng trí và hạng trí ngu là không thay đổi (tính tình)” (Duy thượng trí dữ hạ trí ngu bất di Luận ngữ, XVII, 3). Hạng thượng trí ở đây chi thánh nhân, đó là những người nắm được quy luật của trời đất (Cửu trù) để làm ra các phép tắc dạy người. Bậc thấp hơn là quân tử, tức là người giữ đúng phép tắc trong hành xử của mình. Bậc cuối cùng trong sự phân hạng người là tiểu nhân, tức là những kẻ mà trong cuộc sống, bất chấp mọi giá trị đạo đức, sẵn sàng làm bất cử điều gì, miễn là có lợi cho họ.
Mọi điều hay lẽ phải trong phép ứng xử đạo đức đã được các thánh nhân đời xưa vạch ra. Khổng Tử chỉ là người thuật lại và mong muốn học thuyết của mình có người thực hiện. Người đó chính là bậc quân tử, hay còn gọi là con người toàn thiện. Chữ “quân” trong cụm từ “quân tử” thường dùng để chỉ người đàn ông đạo đức, người toàn thiện hoặc “siêu nhân”. Ngoài ra, chữ “quân” đó còn đùng để chỉ các bậc quân vương. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Quân tử động khẩu, tiểu nhân động thủ”, tức là: “Quân tử dùng lời, tiểu nhân dùng tay”.
Mâu thuẫn giữa hai mặt trái ngược nhau của con người đã có từ lâu. Song, đối với Khổng Tử, nó trở nên cực kỳ quan trọng và cấp bách. Lúc nào ông cũng dành sự quan tâm của mình xung quanh vấn đề con người, xem sự xa rời bản tính (Trời sinh) ban đầu như là nguyên nhân dẫn đến sự đảo lộn trật tự thế giới và đó chính là sự xa rời Đạo. Giữ mình theo Đạo, người quân tử bao giờ cũng tỏ ra thư thái như đạt được sự giải thoát khỏi những ràng buộc, cám dỗ của đời thường – cái vốn làm mọi người xa nhau. Khổng Tử nói: “Người quân tử thư thái mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái ” (Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái – Luận ngữ, XIII, 26). Tuy nhiên, sự thư thái đó chỉ là tương đối, bởi người quân tử bao giờ cũng thấy rõ trách nhiệm của mình trước xã hội, giống như Bồ Tát trong đạo Phật. Khi “làm sạch” mình, làm trong sạch từ bên trong, người quân tử đồng thời làm sạch cái không gian quanh mình, làm cho môi trường sống khỏi bị ô nhiễm bởi những thói đời hèn hạ, giải thoát cho mình đồng thời với giải thoát cho những người khác. Chính vì vậy, Khổng Tử khẳng định, kẻ tiểu nhân không tự giải phóng cho mình (hạ trí ngu bất di). Ông nói: “Đức của người quân tử như gió, đức của kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ rạp xuống” (Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển – Luận ngữ, XII, 18).
Người quân tử có sức mạnh biến cải nhân dân đến chỗ tốt hơn. Sức mạnh đó không chỉ là lời nói, mà còn là sức mạnh bên trong, là đạo đức. Người quân tử lấy đạo đức làm động cơ thúc đẩy nhân dân hành thiện. Khổng Tử nói: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành” (Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ, đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách – Luận ngữ, II, 3).
Ngôn ngữ là biểu hiện của tư duy khi sự biểu hiện đó không phù hợp thì tư duy của người phát ngôn có thể không lành mạnh cũng có khi việc phát ngôn quá chất phác, không đủ sức thuyết phục người nghe cũng bất lợi. Vì vậy, khi nêu ra đặc trưng của người quân tử, Khổng Tử đã xem xét mối tương quan giữa tính chất phác (Trời cho) với học vấn: “Chất phác thắng văn vẻ thì quê mùa, văn vẻ thắng chất phác thì cứng nhắc. Văn vẻ và chất phác đều nhau, mới nên quân tử” (Chất thắng văn tắc đã, văn thắng chất tắc sử, văn chất bân bân nhiên hậu quân tử – Luận ngữ, VI, 16).
Một trong những đặc điểm nổi bật của con người toàn thiện là mối quan hệ của nó với cộng đồng xã hội. Khổng Tử nói: “Quân tử thân với khắp mọi người mà không tư vị, kẻ tiểu nhân tư vị mà không thân với khắp mọi người”(Quân tử chu nhi bất tị, tiểu nhân tị nhi bất chu – Luận ngữ, II, 14). Câu này được địch theo nhiều cách khác nhau. Nếu xét trên bình diện triết học thì câu này mang ý nghĩa sâu sắc về cấu trúc. Chữ chu ở đây chỉ sự chu tất, chu toàn, có thể hiểu là tính cách của con người toàn thiện và chỉ có con người toàn thiện mới có khả năng thể hiện được chủ ý của Vũ trụ. Vì vậy, theo chúng tôi, dịch chữ chu là thân khắp với mọi người không thể hiện đủ nghĩa của từ.
Con người chu toàn có thể được xem như là tấm gương, là chủ thể của mọi thiện chân, cho nên ai cũng kính nể. Khi được tất cả kính nể thì trong quan hệ không thể thiên lệch với bất kỳ người nào, nhóm nào, bè đảng nào. Tiểu nhân thì hoàn toàn ngược lại. Vì không có tính chu toàn, nên kẻ tiểu nhân chỉ có thể cấu kết với những người đồng tâm, đồng ý với mình, chính vì thế mà xã hội dễ bị phân chia thành phe nhóm khác nhau, đấu tranh cho quyền lợi của phe nhóm mình và chèn ép các nhóm khác, thậm chí đẩy tới mức thù hằn nhau. Như vậy, xét về mặt cấu trúc hệ thống, tiểu nhân có thể được coi là những bộ phận trong một chỉnh thể, luôn nằm trong sự thống nhất biện chứng và bản thân nó không thể đại diện cho một chỉnh thể xác định, tức là luôn bị ràng buộc bởi các mối quan hệ bắt buộc, không tự do, nó được xem như Ià công cụ để phục vụ cho những mục đích nào đó. Ngược lại, “quân tử không thể là công cự (quân tử bất khí – Luận ngữ, II, 12).
Bảo tồn được tính thiện cao cả ban đầu là điều kiện để người quân tử trở nên phổ biến. Đã là phổ biến thì người quân tử có thể chi phối cuộc sống một cách toàn vẹn. Mặt khác, chính vì giữ được tính thiện cao cả đó mà người quân tử thể hiện mình như là người hoàn thiện với đầy đủ phẩm cách tốt đẹp trong việc thi hành đạo nhân: “Nết hiếu và nết để có phải là gốc của việc thi hành đạo nhân đó chăng”? (Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư – Luận ngữ, 1,2).
Từ việc đề cao đức hiếu, đễ, Khổng Tử đi đến thuyết Chính Danh. Đối với câu hỏi cái gì cần cho đường lối trị quốc đúng đắn, Khổng Tử trả lời: “Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử – Luận ngữ, XII, 11). Câu trả lời thật là đơn giản, song lại hàm chứa một nội dung khá đầy đủ về chính danh. Khổng Tử nhận thấy, trong một xã hội thịnh trị, có những đẳng cấp xã hội, thì bổn phận của mỗi con người phải được phân định một cách rạch ròi, trình độ tri thức của họ cũng phải tương ứng với công việc mà họ đảm nhận: “Hiểu biết là hiểu biết, không hiểu nhận là không hiểu. Thế cũng là đã hiểu rồi vậy” ( Tri chi vi tri chi,bất tri vi bất tri. Thị tri dã – Luận ngữ, II,17). Đặc biệt, đối với bậc quân tử lại càng phải thận trọng trong cuộc sống. Điều gì chưa nắm chắc, chưa rõ thì không nên cả quyết một cách vội vàng: “Người quân tử đã nêu được tên gọi (danh chính) ắt nói được ra lời, đã nói được ra lời ắt làm được. Đối với lời nói ra, người quân tử không bao giờ cẩu thả vậy” (Quân tử danh chi tất khả ngôn dã, ngôn chi tất khả hành dã. Quân tử ư kỳ ngôn vô sở cầu nhi dĩ hĩ – Luận ngữ, XIII, 3).
Theo Không Tử, con người toàn thiện là người có phẩm chất đạo đức phù hợp với ngũ thường, trong đó nhân tính được đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy, người quân tử “Có khi còn quyên sinh để giữ trọng đạo nhân” (Hữu sát thân dĩ thành nhân – Luận ngữ, XV, 8), hoặc “Người quân tử lấy đạo nghĩa thành làm căn bản, dùng lễ để thi hành, biểu lộ bằng đức khiêm tốn, hoàn thành nhờ chữ tín” (Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi – Luận ngữ, XV, 17).
Vậy Lễ là gì mà có thể làm cho thế giới này trở nên trật tự hài hoà? Lễ trước hết là cái làm cho vạn vật trong thế giới này có được vị thế phù hợp. Do vậy, con người là một trong vạn vật đó cũng phải tuân theo lễ, phải biết ” Khắc kỷ phục lễ”, bởi “Người mà không có lòng nhân, dùng lễ sao được? Người mà không có lòng nhân dùng nhạc sao được?” (Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà? Luận ngữ, III, 3), hoặc “Cung kính mà thiếu lễ thì khó nhọc, cẩn thận mà thiếu lễ thì nhút nhát, cương dũng mà thiếu lễ thì loạn, thẳng thắn mà thiếu lễ thì nóng gắt” (Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ. Dũng nhi vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giáo – Luận ngữ, VIII, 2). Như vậy, lễ là cái đóng vai trò điều chỉnh hành vi con người, làm cho con người ứng xử với nhau tốt hơn trên cơ sở lấy “Thứ” làm trọng. Nhờ có “thứ” mà con người biết “Điều gì mình không muốn [người khác làm cho mình], chớ áp dụng cho người” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Luận ngữ, XV, 23).
Như vậy, Quân Tử chưa phải là người lý tưởng (mặc dù các nhà tư tưởng Tống Nho đã đặt nó ngang hàng với Thánh Nhân). Bản thân người quân tử cũng tự nhận thấy mình chưa phải là người hoàn thiện, nên họ luôn tự xác định phải thường xuyên hoàn thiện hoá bản thân để trở nên tốt hơn. Trong cuộc sống hàng ngày không ai có thể tránh được sai lầm, song người quân tử là người biết sai để sửa và đó cũng là một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người Toàn Thiện. Khổng Tử nói: ” Có lỗi mà không sửa mới thật là lỗi”, “Quá nhi bất cải, thị ví quá dã – Luận ngữ, XV, 29). Khác với quân tử, tiểu nhân không nhận thấy lỗi của mình và nếu nhận ra cũng không chịu sửa, thậm chí còn dấu diếm. Người quân tử luôn nghiêm khắc với mình, luôn tự truy tìm nguyên nhân ở mình, ngược lại, tiểu nhân thường đổ lỗi cho người khác: “Người quân tử trông ở mình, kẻ tiểu nhân trông ở người” (Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân – Luận ngữ, XV, 20). Đó là quan hệ giữa nghĩa và lợi. Quân tử trọng nghĩa mà luôn sửa mình, còn tiểu nhân vì lợi mà trốn tránh trách nhiệm: “Quân tử rành về điều nghĩa, kẻ tiểu nhân rành về điều lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi – Luận ngữ, IV,16).
Quân Tử là mắt khâu liên kết giữa Thánh Nhân và người thường, là sợi chỉ nối quá khứ với hiện tại. Quân tử “Sợ ba điều: Sợ mệnh Trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời nên không sợ, [mà còn] khinh nhờn bậc đại nhân, diễu cợt lời của thánh nhân” (Quân tử hữu tam uý: Uý thiên mệnh, uý đại nhân, uý thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất uý dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn – Luận ngữ, XVI, 8). Quả thật, nếu không biết sợ, không cảm nhận được sự hiện diện của Trời, sỉ vả quá khứ và coi thường những điều thánh thiện thì tất thảy những cái đó sẽ dẫn tới tai hoạ nghiêm trọng. “Chẳng biết được mệnh Trời, không lấy gì để làm người quân tử. Chẳng biết lễ, không lấy gì để lập thân. Chẳng biết phân biệt nổi lời phải trái, không lấy gì để biết người” (Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã, bất tri lễ vô dĩ lập dã. Bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã – Luận ngữ, XX, 3). Quân tử khác với tiểu nhân là ở chỗ biết lễ do đi theo đường chính, nắm được đạo Trung Dung, biết được mệnh Trời mà “vươn lên” để đạt đến cao thượng, đến trạng thái hoàn thiện và làm cho người khác cùng hoàn thiện thêm. Khổng Tử nói: “Người quân tử đạt tới chỗ cao thượng, kẻ tiểu nhân đạt tới chỗ thấp hèn” (Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt – Luận ngữ, XIV, 24).
Sự “vươn lên” đến trạng hoàn thiện là một quá trình tự cải tạo của người quân tử Con đường khó khăn của sự nghiệp cải tạo đó xuất phát từ nghiên cứu vạn vật, không ngừng nâng cao hiểu biết về mọi mặt và làm cho ý mình thành thật, tiến tới chính tâm để tu thân, tề gia, trị quốc và cuối cùng là bình thiên hạ. Từ bậc thiên tử cho tới thường dân ai cũng phải lấy sự tu thân làm gốc. Vì vậy, khi Tử Lộ hỏi Quân tử phải làm gì, Khổng Tử đáp: “Sửa mình để nên người kính cẩn”. Lại hỏi: Có vậy thôi ư? Đáp: “Sửa mình kính cẩn để yên mọi người”. Lại hỏi: “Có vậy thôi ư? Đáp: Sửa mình kính cẩn để yên trăm họ. Sửa mình để yên trăm họ, việc đó dẫu vua Nghiêu, vua Thuấn cũng chưa làm cho trọn” (Tử Lộ vấn quân tử, Tử viết: “Tu kỷ dĩ kính”. Vấn: “Như tư nhi dĩ hồ?” Viết: “Tu kỷ dĩ an bách tính.Tu kỷ an bách tính, Nghiêu Thuấn kỳ do bệnh chu”- Luận ngữ, XIV, 45). Qua đoạn đối thoại trên đây, chúng ta thấy, quan điểm của Khổng Tử về con đường hoàn thiện hoá là vô tận, đến các bậc thánh nhân, như vua Nghiêu, vua Thuấn, vẫn chưa thực hiện được trọn vẹn. Sự vận động để đến với bản thân với tư cách con người toàn thiện đều thông qua sự hoàn thiện hoá bản thân.
Con đường hoàn thiện hoá là con đường giải thoát. Ở các tôn giáo khác nhau, quan niệm về giải thoát cũng khác nhau song mục đích chỉ là một – đó là khắc phục quan niệm coi tự kỷ là trung tâm. Trong tư tưởng của Khổng Tử, đó là sự chiến thắng của con người đối với chính bản thân mình, vượt lên trên mình, là sự phục hồi lễ, khôi phục thiện nhân khởi thuỷ. Con đường giải thoát đó phải do chính người quân tử thực hiện thông qua sự tự hoàn thiện mà phương pháp và mục tiêu của sự tự hoàn thiện đó đã được thánh nhân vạch ra. Khi Nhan Uyên hỏi về Nhân, Khổng Tử giải thích: “Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân. Một ngày dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ, cả thiên hạ [chịu cảm hoá] quay về về với điều nhân vậy” (Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên. Nhân do kỷ nhi do nhân hồ tai? – Luận ngữ, XII, 1).
Giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc của những dục vọng, từng bước nâng cao tri thức của mình về vạn vật (cách vật), về thế giới con người (biết người, yêu thương con người) là con đường hoàn thiện chân chính của Quân tử. Chiến thắng bản thân có nghĩa là chiến thắng những gì trong con người đang cản trở nó quay về với toàn bộ phẩm chất tất đẹp ban đầu mà Trời ban cho. Việc làm đó là phù hợp với Quân Tử – con người Toàn Thiện, vốn chỉ cầu ở mình chứ không bao giờ cầu ở người.
Nguyễn Thị Kim Chung
Thời của hai chữ “đạo văn”
Hoàng Tuấn Công
“Đạo văn” là gì?
Chữ Hán 盜 [đạo] cổ văn vẽ hình người đang nhỏ nước dãi, cúi nhìn cái liễn đựng thức ăn vẻ thèm muốn, nghĩa gốc là trộm cắp.[1]"Thuyết văn giải tự": “盜-私利物也[đạo-tư lợi vật dã] (đạo nghĩa là [lấy] vật làm lợi riêng). "Hán Việt từ điển"-Đào Duy Anh giải nghĩa: “Đạo 盜: lấy trộm của người. Lấy cái vật mình không đáng được lấy”. "Hán Việt tự điển"-Thiều Chửu: “Đạo 盜: Ăn trộm ăn cắp, cái gì không phải của mình mà mình lấy đều gọi là đạo cả.” ...
Vậy, “đạo văn” hiểu đúng theo nghĩa đối dịch là ăn cắp văn của người khác.
Có thể nói “đạo văn” là “ngón nghề” xuất hiện khá muộn ở Việt Nam. Xưa kia, các cụ làm sách lưu truyền hậu thế chủ yếu bằng chép tay hay khắc in ở các cơ sở tư nhân, không ai chứng nhận tác quyền. Thế mà chẳng ai sao chép, trộm cắp của ai. Ngược lại, lịch sử văn học Việt Nam để lại khá nhiều tác phẩm khuyết danh (vô danh thị). Một số tác phẩm giá trị gây tranh cãi về tác giả, nhưng đều do nguyên nhân khách quan. Mấy ngàn năm chế độ phong kiến cho tới gần trọn thế kỷ XX, khái niệm “đạo văn” dường như hãy còn xa lạ, hãn hữu với môi trường văn chương, học thuật dựa trên nền tảng tài năng, ý thức sáng tạo và lòng tự trọng của người cầm bút. (Xin chớ lầm sự vay mượn, vận dụng điển cố, điển tích tài tình, có sáng tạo của người xưa với nghĩa của hành vi “đạo văn” tràn lan hiện nay).
Từ điển thường đi sau thực tế ngôn ngữ đời sống một bước (dài, ngắn tùy khả năng cập nhật). Nhưng, những gì các nhà biên soạn thu thập và giải nghĩa chính là con dấu xác nhận cho vấn đề nào đó từng tồn tại, diễn ra trong xã hội đương thời. Các cuốn từ điển tiếng Việt tên tuổi xuất bản ở Việt Nam trước năm 1945 (như: Từ điển Việt-Bồ-La-A.D.Rhodes; Đại Nam quấc âm tự vị-Huình Tịnh Paulus Của; Việt Nam tự điển (Hội khai trí Tiến Đức), Hán Việt từ điển-Đào Duy Anh...) thu thập rất nhiều loại “đạo”: thâu đạo, án [ăn] tlộm [trộm](người ăn trộm-Từ điển Việt-Bồ-La), đạo chích (kẻ trộm), đạo tặc (trộm cắp, giặc giã), đạo kiếp (trộm và cướp), đạo đồ (bạn trộm cắp) đạo táng (chôn trộm, chôn giấu vào chỗ đất cấm) đạo danh (ăn cắp tên người làm tên của mình)... Chủ yếu là "đạo" của cải vật chất, và không thấy có từ “đạo văn”. RiêngHán Việt từ điển-Đào Duy Anh (XB lần đầu 1932) có từ “đạo thi” giảng theo nghĩa hẹp: “Dùng trộm câu thơ của kẻ khác”. Sau Đào Duy Anh có “Từ điển Việt Nam” (Thanh Nghị-Vĩnh Bảo, Sài Gòn 1951): “đạo văn (đt) đánh cắp văn”; “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức (cũng xuất bản ở Sài Gòn) trước 1975: “Đạo văn (đt) Chép văn của người khác làm văn của mình.” Tuy nhiên, ở miền Bắc, các cuốn Từ điển tiếng Việt, Từ điển tiếng Việt thông dụng, Đại từ điển tiếng Việt, Từ điển từ và ngữ Việt Nam do các tác giả Văn Tân, Hoàng Phê, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Đạm, Nguyễn Lân... chủ biên hoặc biên soạn, ấn hành những năm 1968, 1995 đến 1998-2000 vẫn chưa thấy từ“đạo văn” xuất hiện (điều này không có nghĩa trong thực tế chưa có chuyện đạo văn xảy ra, nhưng chắc chắn là hãy còn hãn hữu).
Xã hội phát triển, thời đại internet, các loại sách báo, tạp chí, loại hình xuất bản “bung ra” ra.“Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Nhiều tài năng sáng tạo xuất hiện, nhưng thành phần bất tài, lưu manh chữ nghĩa ăn theo cũng không ít. Năm 2000, TĐTV (Hoàng Phê) tái bản, lần đầu tiên thu thập từ “đạo văn”,nhưng kèm lời chú “ít dùng” và giảng theo nghĩa hẹp: “đạo văn đg (id) Lấy hoặc căn bản lấy sáng tác văn học của người khác làm của mình”. Giống từ điển của Lê Văn Đức, ở đây nhà biên soạn (dường như) đã tránh không đối dịch từ “đạo văn” [ăn cắp văn] trước khi giảng nghĩa từ. Nếu Lê Văn Đức dùng từ“chép văn” thì TĐTV Hoàng Phê lại thay "ăn cắp văn" bằng "lấy sáng tác văn học" để mô tả khá “lịch sự”, nhẹ nhàng hành vi “đạo văn”. Mặt khác, cái mở ngoặc lưu ý “ít dùng” (từ điển Hoàng Phê) phải chăng phản ánh môi trường của văn chương, học thuật sáng tạo ở Việt Nam ít nhiều còn trong sạch? Tuy nhiên, dấu ấn “rơi rớt” đó sẽ mau chóng bị chuyện lưu manh văn chương, chữ nghĩa xô đổ...
Dường như “thời” của hai chữ “đạo văn” đã đến!
Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, từ “đạo văn” được hầu hết các cuốn từ điển tiếng Việt ghi nhận. "Đạo văn" đã trở thành từ thông dụng xuất hiện trên báo chí, ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Thậm chí “đạo văn” trở thành vấn đề nhức nhối của văn chương, học thuật (hiện nay nếu gõ hai chữ “đạo văn” trên google sẽ có hiển thị hơn 1 triệu kết quả). TĐTV xuất bản 2005 (Nguyễn Kim Thản-Nguyễn Đức Dương-Hồ Hải Thụy): “Đạo văn: Lấy cắp lời văn từ tác phẩm (đã công bố) của tác giả để đưa vào sáng tác của bản thân: Lên án gay gắt thói đạo văn.” Ở đây, nhà biên soạn đã mạnh dạn dùng từ “lấy cắp” để chỉ thẳng bản chất vấn đề. Tuy nhiên “chép văn”, “lấy sáng tác văn học” hay “lấy cắp lời văn” đều mới chỉ nghĩa hẹp của “đạo văn”. Bởi thế, lần tái bản năm 2007, TĐTV (Hoàng Phê) đã lược bỏ giới hạn loại hình “văn học” để giảng nghĩa rộng hơn: “đạo: lấy hoặc căn bản lấy sáng tác của người khác làm thành của mình: đạo văn, đạo thơ, đạo nhạc”. Thế nhưng, cố gắng cập nhật của các nhà biên soạn từ điển dường như vẫn không theo kịp tốc độ phát sinh của các loại “đạo” trong thời buổi loạn sách báo, các loại hình xuất bản.
Người xưa thật tài tình, tinh tế khi dùng hình ảnh một người nhỏ nước dãi thèm muốn và cái liễn đựng thức ăn để làm nghĩa biểu đạt hành vi "đạo". Thực tế, hành vi trộm cắp dù là của cải vật chất hay sản phẩm trí tuệ đều có chung một điểm giống nhau: nhòm ngó, thèm thuồng và cuối cùng không cưỡng nổi ý đồ chiếm đoạt cái của người khác làm của mình. Bởi vậy, có thể nói trên đời có bao nhiêu loại trộm cắp, trong văn chương, học thuật có bấy nhiêu loại “đạo”. Người “đạo” một cách kín đáo, kẻ lại cực kỳ manh động. Có “đạo” thuộc hàng “đại bợm” (bê nguyên văn), có loại chỉ “ăn cắp vặt” (lấy từng đoạn, từng ý).“Đạo” theo kiểu “Đói ăn vụng, túng làm càn” có; đạo để “làm giàu” danh vị, mở “mày mở mặt” với thiên hạ cũng không ít. Điều đáng nói, phần lớn các vụ “trọng án” lại chỉ được “lật tẩy” một cách tình cờ tựa như cách “phát lộ” một di chỉ khảo cổ vậy.
Ở các nước phát triển, tội đạo văn (tiếng Anh: plagiarism) có thể bị đuổi học, phạt tiền, truy tố, tiêu tan sự nghiệp. Có thể lấy ví dụ ở Mỹ: Với sinh viên đạo văn, nhẹ thì bị trừ điểm, đánh trượt, tạm đình chỉ việc học, nặng thì bị buộc thôi học, ghi vào hồ sơ lý lịch, học bạ như là một vi phạm nặng về đạo đức. Nếu đang làm việc sẽ bị giáng chức, nặng hơn là sa thải và khó có cơ hội tìm việc làm nơi khác. Tên tuổi người vi phạm sẽ bị thông báo rộng rãi trong giới học thuật, khiến cơ hội công bố các công trình nghiên cứu hầu như khép lại. Nếu gây hậu quả nghiêm trọng và bị kiện (ăn cắp công nghệ, sáng tạo) người vi phạm có thể sẽ bị xử theo tội danh hình sự. Với một sản phẩm sáng tạo, điều trước tiên người ta phải nhờ đến hệ thống dịch vụ kiểm tra để phát hiện hoặc giúp người cầm bút chuyên nghiệp tránh xa hai chữ “đạo văn”, dù vô tình hay cố ý.
Trông người lại ngẫm đến ta. Nạn “đạo văn” diễn ra tràn lan trong thời gian qua có một nguyên nhân không nhỏ đó là luật pháp không nghiêm, thiếu quy định cụ thể. Những trường hợp bị thu hồi văn bằng, giải thưởng hoặc kỷ luật, đuổi việc ở Việt Nam rất hãn hữu. Phần lớn người đạo văn (hoặc cơ quan báo chí đăng bài) chọn giải pháp im lặng, bao che người vi phạm. Nếu làm gắt thì đưa ra lời xin lỗi. Những trường hợp xin “nộp” lại tiền giải thưởng, nhuận bút, kèm lời xin lỗi tác giả coi như đã “lịch sự” lắm rồi! Trong tình hình nhộn nhạo, “khổ chủ” đành xem như “công lý” đã được “thực thi”.
Có lẽ hành vi trộm cắp đầu tiên của con người đơn giản chỉ là miếng ăn, sau đó mới đến của cải vật chất; cuối cùng, và “cao cấp” hơn cả là ăn cắp trí tuệ! Tuy nhiên, xét bản chất hành vi thì ăn cắp trí tuệ đáng phê phán và đáng hổ thẹn nhất. Bởi những người đạo văn đều có chữ, được học hành, giáo dục tử tế, đáng ra là lực lượng trí thức sáng tạo của đất nước. Vậy mà họ lại trộm cắp trí tuệ, giết chết văn chương, học thuật sáng tạo-học theo cái nghề thượng cổ vốn là vụng trộm miếng ăn, miếng uống của kẻ “bần cùng sinh đạo tặc”!
Tục ngữ có câu “Gái đĩ già mồm, kẻ trộm lắm gan”. Tuy mức độ manh động có khác nhau, nhưng có thể nói “gan” kẻ “đạo văn” to hơn gan kẻ trộm nhiều. Bởi xưa nay, có đạo chích, đại bợm nào sau khi đột nhập lại dám để lại tên tuổi, địa chỉ đàng hoàng như kẻ “đạo văn”? Dường như kẻ “đạo văn” không tự thấy mình phạm tội ăn cắp, và nhiều cơ quan báo chí cũng xem “trộm văn” là chuyện bình thường?
Nếu luật pháp vẫn nhân đạo, xã hội vẫn nương tay với thành phần lưu manh chữ nghĩa, chắc “thời” của hai chữ “đạo văn” vẫn sẽ còn dài dài...[2]
Hoàng Tuấn Công
Từ điển thường đi sau thực tế ngôn ngữ đời sống một bước (dài, ngắn tùy khả năng cập nhật). Nhưng, những gì các nhà biên soạn thu thập và giải nghĩa chính là con dấu xác nhận cho vấn đề nào đó từng tồn tại, diễn ra trong xã hội đương thời. Các cuốn từ điển tiếng Việt tên tuổi xuất bản ở Việt Nam trước năm 1945 (như: Từ điển Việt-Bồ-La-A.D.Rhodes; Đại Nam quấc âm tự vị-Huình Tịnh Paulus Của; Việt Nam tự điển (Hội khai trí Tiến Đức), Hán Việt từ điển-Đào Duy Anh...) thu thập rất nhiều loại “đạo”: thâu đạo, án [ăn] tlộm [trộm](người ăn trộm-Từ điển Việt-Bồ-La), đạo chích (kẻ trộm), đạo tặc (trộm cắp, giặc giã), đạo kiếp (trộm và cướp), đạo đồ (bạn trộm cắp) đạo táng (chôn trộm, chôn giấu vào chỗ đất cấm) đạo danh (ăn cắp tên người làm tên của mình)... Chủ yếu là "đạo" của cải vật chất, và không thấy có từ “đạo văn”. RiêngHán Việt từ điển-Đào Duy Anh (XB lần đầu 1932) có từ “đạo thi” giảng theo nghĩa hẹp: “Dùng trộm câu thơ của kẻ khác”. Sau Đào Duy Anh có “Từ điển Việt Nam” (Thanh Nghị-Vĩnh Bảo, Sài Gòn 1951): “đạo văn (đt) đánh cắp văn”; “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức (cũng xuất bản ở Sài Gòn) trước 1975: “Đạo văn (đt) Chép văn của người khác làm văn của mình.” Tuy nhiên, ở miền Bắc, các cuốn Từ điển tiếng Việt, Từ điển tiếng Việt thông dụng, Đại từ điển tiếng Việt, Từ điển từ và ngữ Việt Nam do các tác giả Văn Tân, Hoàng Phê, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Đạm, Nguyễn Lân... chủ biên hoặc biên soạn, ấn hành những năm 1968, 1995 đến 1998-2000 vẫn chưa thấy từ“đạo văn” xuất hiện (điều này không có nghĩa trong thực tế chưa có chuyện đạo văn xảy ra, nhưng chắc chắn là hãy còn hãn hữu).
Xã hội phát triển, thời đại internet, các loại sách báo, tạp chí, loại hình xuất bản “bung ra” ra.“Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Nhiều tài năng sáng tạo xuất hiện, nhưng thành phần bất tài, lưu manh chữ nghĩa ăn theo cũng không ít. Năm 2000, TĐTV (Hoàng Phê) tái bản, lần đầu tiên thu thập từ “đạo văn”,nhưng kèm lời chú “ít dùng” và giảng theo nghĩa hẹp: “đạo văn đg (id) Lấy hoặc căn bản lấy sáng tác văn học của người khác làm của mình”. Giống từ điển của Lê Văn Đức, ở đây nhà biên soạn (dường như) đã tránh không đối dịch từ “đạo văn” [ăn cắp văn] trước khi giảng nghĩa từ. Nếu Lê Văn Đức dùng từ“chép văn” thì TĐTV Hoàng Phê lại thay "ăn cắp văn" bằng "lấy sáng tác văn học" để mô tả khá “lịch sự”, nhẹ nhàng hành vi “đạo văn”. Mặt khác, cái mở ngoặc lưu ý “ít dùng” (từ điển Hoàng Phê) phải chăng phản ánh môi trường của văn chương, học thuật sáng tạo ở Việt Nam ít nhiều còn trong sạch? Tuy nhiên, dấu ấn “rơi rớt” đó sẽ mau chóng bị chuyện lưu manh văn chương, chữ nghĩa xô đổ...
Dường như “thời” của hai chữ “đạo văn” đã đến!
Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, từ “đạo văn” được hầu hết các cuốn từ điển tiếng Việt ghi nhận. "Đạo văn" đã trở thành từ thông dụng xuất hiện trên báo chí, ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Thậm chí “đạo văn” trở thành vấn đề nhức nhối của văn chương, học thuật (hiện nay nếu gõ hai chữ “đạo văn” trên google sẽ có hiển thị hơn 1 triệu kết quả). TĐTV xuất bản 2005 (Nguyễn Kim Thản-Nguyễn Đức Dương-Hồ Hải Thụy): “Đạo văn: Lấy cắp lời văn từ tác phẩm (đã công bố) của tác giả để đưa vào sáng tác của bản thân: Lên án gay gắt thói đạo văn.” Ở đây, nhà biên soạn đã mạnh dạn dùng từ “lấy cắp” để chỉ thẳng bản chất vấn đề. Tuy nhiên “chép văn”, “lấy sáng tác văn học” hay “lấy cắp lời văn” đều mới chỉ nghĩa hẹp của “đạo văn”. Bởi thế, lần tái bản năm 2007, TĐTV (Hoàng Phê) đã lược bỏ giới hạn loại hình “văn học” để giảng nghĩa rộng hơn: “đạo: lấy hoặc căn bản lấy sáng tác của người khác làm thành của mình: đạo văn, đạo thơ, đạo nhạc”. Thế nhưng, cố gắng cập nhật của các nhà biên soạn từ điển dường như vẫn không theo kịp tốc độ phát sinh của các loại “đạo” trong thời buổi loạn sách báo, các loại hình xuất bản.
“Đạo luận án” có thể xếp vào hàng “đại bợm”, sẵn sàng bê nguyên xi hàng chục trang viết của người khác. (Đa số các công trình này đều "xếp kho" sau khi "bảo vệ" xong nên rất ít khi bị phát hiện). “Đạo nhạc” ưa hành nghề ở phương xa, “cuỗm đồ” của người ngoại quốc về "lắp ghép" (Chỉ đến khi có người tình cờ nghe ca khúc ngoại quốc mới phát hiện ra. Mời đọc tại đây).
“Đạo thơ” có khi là ý tứ, cảm xúc, một vài từ, vài câu, cho đến cả khổ thơ, bài thơ rồi ung dung đem in báo, dự thi, thậm chí là...đem tặng! (mời đọc "Lại một nghi án đạo thơ cần làm sáng tỏ-Trịnh Anh Đạt) “Đạo báo”, xào xáo tin tức diễn ra thường ngày ở nhiều cấp độ. “Đạo ý tưởng” tinh vi và rất khó bề kiểm soát...Thời buổi intetnet, báo mạng phát triển trở thành mảnh đất lý tưởng cho “đạo văn”hành hoành. Chỉ cần vài cái “nhấp chuột”, kẻ đạo văn đã biến sản phẩm trí tuệ của người khác thành của mình, không mất chút mồ hôi, công sức. Hai tiếng“đạo văn” trở thành nỗi ám ảnh của những người cầm bút sáng tạo.
Trông người lại ngẫm đến ta. Nạn “đạo văn” diễn ra tràn lan trong thời gian qua có một nguyên nhân không nhỏ đó là luật pháp không nghiêm, thiếu quy định cụ thể. Những trường hợp bị thu hồi văn bằng, giải thưởng hoặc kỷ luật, đuổi việc ở Việt Nam rất hãn hữu. Phần lớn người đạo văn (hoặc cơ quan báo chí đăng bài) chọn giải pháp im lặng, bao che người vi phạm. Nếu làm gắt thì đưa ra lời xin lỗi. Những trường hợp xin “nộp” lại tiền giải thưởng, nhuận bút, kèm lời xin lỗi tác giả coi như đã “lịch sự” lắm rồi! Trong tình hình nhộn nhạo, “khổ chủ” đành xem như “công lý” đã được “thực thi”.
Dường như đạo văn thật dễ dàng và vô tội! Bởi thế, có kẻ học hàm, học vị tới PGS, TS, Hiệu phó một trường đại học vẫn còn đạo văn! (Xem tại đây) Trên báo chí thì có hẳn một “lực lượng” cầm bút trẻ, chuyên “dạo chơi” trên mạng, sục sạo vào các trang báo địa phương, nhìn ngó các trang Blog, FB cá nhân, thấy gì “ưng mắt” là “chôm” ngay tức khắc (xem tại đây).
Tục ngữ có câu “Gái đĩ già mồm, kẻ trộm lắm gan”. Tuy mức độ manh động có khác nhau, nhưng có thể nói “gan” kẻ “đạo văn” to hơn gan kẻ trộm nhiều. Bởi xưa nay, có đạo chích, đại bợm nào sau khi đột nhập lại dám để lại tên tuổi, địa chỉ đàng hoàng như kẻ “đạo văn”? Dường như kẻ “đạo văn” không tự thấy mình phạm tội ăn cắp, và nhiều cơ quan báo chí cũng xem “trộm văn” là chuyện bình thường?
Nếu luật pháp vẫn nhân đạo, xã hội vẫn nương tay với thành phần lưu manh chữ nghĩa, chắc “thời” của hai chữ “đạo văn” vẫn sẽ còn dài dài...[2]
Hoàng Tuấn Công
bay đi!
Chiêu Anh Nguyễn
Bay đi nào
cánh chim Hải âu không còn đại dương để than thở
bay đi
chiều nay biển không còn sóng
lũ ruồi nhặng tha hồ vầy vọc
nỗi ghê sợ ùa về
rác rến ùa về
bay đi
đền đài mù mịt
rên xiết
thây ma
dòng sông cuộn những đợt triều tanh tưởi
bay đi
thành phố lịm giữa những ngọn đồi
tiếc gì ngày mai
tiếc gì quá khứ
bầu trời nứt những khe huyệt tử
bay đi
khi
cánh chim còn có thể
đọc thấy tự do
trong ánh hoàng hôn cuối
bay đi.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)