Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015

Trò Hề Dân Chủ Dưới Chiêu Bài Lật Đổ Chính Quyền



Cũng như mọi đề tài xã hội, đề tài lật đổ một chính phủ có rất nhiều ý kiến khác nhau. Trong bài viết này tôi chỉ trình bầy nhận định của cá nhân tôi, hy vọng quý độc giả tham khảo thêm những quan điểm khác.
Lật đổ một chính quyền cũng gần giống như thay đổi cầu thủ trong một trận đá banh, điều khác biệt duy nhất là trong bóng đá khi thay đổi cầu thủ chúng ta biết ngay cầu thủ vào sân sẽ là: Hậu vệ, trung phong hay tiền đạo, còn trong chính phủ thường chúng ta không biết được người được thay đổi sẽ giữ vị trí nào: Thân Mỹ, Nga … và ai là người “huấn luyện viên” chiụ trách nhiệm cho việc thay người này thì càng khó nhận biết hơn nữa, có khi chúng ta chỉ có thể dựa trên những sự kiện để kết luận mà hoàn toàn không có bằng chứng chắc chắn 100%.
Để hiểu rõ vấn đề tôi xin đơn cử vài ví dụ: Dễ thấy nhất với người Việt Nam là cuộc đảo chánh chính phủ Ngô Đình Diệm, ban đầu chúng ta chỉ biết cuộc đảo chánh này đứng đầu là một số tướng lãnh lúc bấy giờ vì bất bình những đường lối cũng như chính sách của gia đình họ Ngô. Nhưng về sau chúng ta được biết thêm ngườì chủ mưu thật sự đứng sau cuộc đảo chánh này là chính phủ USA và CIA (Sự kiện này tôi không cần đưa ra bằng chứng vì có qua nhiều sách báo đã viết.).

Mới đây nhất là cuộc đảo chánh tại Ukraina vào năm 2014. Chính quyền Wiktor Fedorowytsch được thay thế bằng chính quyền của Petro Oleksiyovych Poroshenko. Phần đông chúng ta sẽ cho rằng cuộc thay đổi chính quyền đó là do nhân dân Ukraina làm cách mạng vùng lên lật đổ một chế độ độc tài thối nát...( với đa số người Việt Nam sẽ hỏi thằng đó là thằng nào – Ukraina ở đâu – rỗi hơi chuyện Việt Nam không lo – lo chuyện Ukraina....).
Trước khi đi sâu vào đề tài Ukraina tôi muốn định nghiã thế nào là lật đổ chính quyền: Lật đổ chính quyền hay còn gọi là đảo chánh – không đơn thuần chỉ thay vị tổng thống này bằng vị tổng thống khác. Một yếu tố quan trọng mà phân đông các cuộc lật đổ chính quyên (đảo chánh) trong gian đoạn này (cận sử) đó là những thế lực “bên ngoài” đóng vai trò quyết định, với hy vọng qua việc đảo chánh sẽ thay đổi cục diện bàn cở chính trị tại nơi xẩy ra đảo chánh hòng có lợi cho chúng.
Tại Ukraina: Yanukovych được thay thế bằng Poroschenko, trong bóng đa thì đơn giản chúng ta co thể biết ngay vai trò của cầu thủ được thay vào trân. Nhưng trên bàn cờ chính trị thế giớ việc nhận định vai trò của cầu thủ mới sẽ phức tạp hơn nhiều. Và được các nhà bình luận chính trị tranh cãi không hoàn toàn thống nhất vị trí của người được thay, trong trường hợp Ukraina cũng vậy. Nhưng ít nhất họ thống nhất vơi nhau: Yanukovych là một người thân Nga, ông ta không muốn Ukraina gia nhập liên minh Châu Âu. Còn Poroschenko là một người “bạn” của USA, ông ta muốn Ukraina tham gia khối Nato. Chỉ cần phân tích một ít chúng ta cũng thấy sự thay đổi này đã làm cục diện ván bài thay đổi hoàn toàn.
Đi sâu hơn nữa tôi mượn lời tuyên bố của cưu nhân viên CIA Ray McGoven tại Berlin vào 09.2014: “ Không có gì để hoài nghi nữa: Đây là một cuộc đảo chánh được tài chợ bởi phưong Tây”. Ở đây phương Tây nghiã là những nước trong khôi Nato dưới sự lãnh đạo của USA. ( Ray McGoven làm việc nhiều năm cho CIA và là người phân tích tình hình soạn thảo tin tức hàng ngày cho tổng thống. Nói cách khác ông ta là người nắm khá rõ tình hình chính trị thế giới).
Chỉ ba ngày sau khi Poroschenko nhậm chức, ông ta lập tức tuyên bố trong cuộc họp báo khi phong viên hỏi: Ông có muốn gia nhập khối Nato không? - Poroschenko trả lời rằng:”Hiện tại trong nước chưa được đại đa sô đồng ý cho việc này. Nhưng chúng ta cần liên kết đồng minh với USA và khôi liên minh Châu Âu để bảo đảm an toàn cho Ukraina ngay cả trong lãnh vực quân sự. Tôi, với cương vị là tổng thống đồng ý và làm mọi cách để có được các mối liên minh này và sẽ bắt đầu làm việc này ngay lập tức.” ( 05.2014 trả lời phóng vấn với toà báo Bild của Đức).
Khi nói về nguyên nhân đảo chánh tại Ukraina chúng ta không thể không nhắc tới hiệp ước “Ukraine–European Union relations” được ký kết vào 09.09.2008. Nhưng vào 09.2013 Yanukovych và EU không đi tơi được thoả hiệp chung, nói tom lại: Hiêp ước giữa Eu và Ukraina đã diễn ra không thành công. Đây không chỉ đơn thuần là một thoả hiệp giữa Ukraina và liên minh Châu Âu về kinh tế mà còn cả về quân sự. Chúng ta thấy rõ hơn phần nào của sự việc, một mặt “phương tây” muốn Ukraina gia nhập khối Nato mặt khác qua thoả hiêp “Ukraine–European Union relations” khối EU muốn can thiệp quân sự trực tiếp vào Ukraina. Dĩ nhiên việc làm này sẽ không được sự đồng ý của Liên Xô. Như Gabriede Krone Schmalz, cựu đại diện đài truyền hình ARD (Đức) tại Liên xô có nói: “Vào thời điểm ban đầu của cuộc khủng hoản Ukraina thì ai cũng nhắc tơi hiệp định giữ Ukraina và Eu, ....nhưng không ai nhắc tới điều 7 nói về liên minh quân sự của hiệp định này....chúng ta những nhà báo đúng ra phải thông tin về điều này vì chính hiệp định này đã làm chia rẽ Ukraina”.



Ở đây tôi đồng ý với bà Gabriede một nửa, bà lên án phóng viên không làm hết trách nhiệm ( đạo đức ) nghề ghiệp của họ. Nhưng phần lớn phong viên của các phương tiện truyền thông chính quy ngày hôm nay đều như vậy, họ viết theo đơn đặt hàng hoặc viết vừa lòng toà soạn ...điều này chắc chắn không lạ lùng với bà, đúng ra câu hỏi ta nên đặt ra là cách tiếp nhận thông tin của chúng ta như thế nào? Phần lớn chúng ta tiếp nhận thông tin rất thụ động, chúng ta ngồi chờ sẵn để họ rót những tin tức vào chúng ta nhưng hầu hết mặc định những điều họ nói là đúng không hề chất vấn hay kiểm chứng. Nếu chúng ta kiểm chứng cách đón nhận thông tin của chúng ta bằng cách nghi lại những thông tin sau khi coi tin bản tin đầu giờ thì sẽ hiểu. Hầu hết sẽ chỉ nghi lại được: Ngày mai trời mưa, nắng... nhiều hơn nữa là đội FC Bayern München thắng. Muốn thấy rõ hơn nữa thì chúng ta thử viết lại hôm qua có những thông tin gì? Câu trả lời sẽ là: Hơi đâu mà nhớ! Chúng ta không thể mong mỏi những tên vô đạo đức tự thay đổi để chúng ta “hạnh phúc” hơn. Vì vậy trước tiên chúng ta phải thay đổi cách tiếp nhận thông tin, chúng ta phải chủ động tìm kiếm thông tin – với kỹ thuật điện toán ngày hôm nay cho phép mỗi chúng ta làm việc này một cách dễ dàng. Cũng là tiếp nhận thông tin nhưng nếu chúng ta chủ động tìm kiếm thông tin sẽ hoàn toàn khác với thụ động đón nhận thông tin người khác mớm cho chúng ta.

Câu hỏi được đặt ra: EU đã đóng vai trò như thê nào trong cuộc chiên tranh hiện nay tai Ukraina? Có phải chính EU là một trong những nguyên nhân chính gây ra cuộc chiến hiện nay tại Ukraina qua hiêp định “Ukraine–European Union relations”? Câu trả lời này chắc rằng không ai dám khẳng định, cá nhân tôi cũng không ngoại lệ. Ngoài ra tôi muốn bô xung thêm là thoả hiệp “Ukraine–European Union relations” được Poroschenko ký vào tháng 09.2014.
Tôi xin mượn lời nhận định của một nhà nghiên cứu chính trị Canada Ivan Katschnoski thay cho lời kết về Ukraine: “ Cuộc thảm sát vào ngày 20.01... là yếu tố quyết định cho việc lật đổ một chính quyền tham nhũng nhưng được nguời dân bầu lên...”
Tiếp tục tôi muốn nhắc tới cuộc đảo chánh chính được bầu dân chủ do Mossadegh lãnh đạo (08.1953). Cuộc đảo chánh này được lãnh đạo bởi CIA và cơ quan tình báo Anh M16. Chỉ vì ông ta muốn quốc hữu hoá các mỏ dầu, mà hầu như toàn bô các mỏ dầu lúc này nằm trong tay đại tâp đoàn BP (British Petroleum). Fazlollah Zahedi người lên thay thế cho Mossadegh đã làm gì sau khi năm chính quyển? Tất nhiên sẽ thu hồi luật quốc hữu hóa mỏ dầu lại.Và lẽ tất nhiên sau cuộc đảo chánh thì USA và Anh Quốc đã chia nhau “chiến lợi phẩm”(có thể là năm mươi năm mươi ) - đó là chuyện hiển nhiên chiến lợi phẩm được chia đều cho kẻ cướp- Nhưng dù sao 50 năm sau thì Mỹ cũng xin lỗi Iran ( dù hơi muộn nhưng có còn hơn không) qua lời phát biểu của cựu bộ trưởng bộ ngoại giao Mỹ Madeleine K. Albright: “ Thật dễ hiểu khi nhiều người Iran căm phẫn với hành động USA xâm nhập vào nội bộ của họ” (16.04.200). ( tham khảo thêm Operation Ajax -TPAJAX )
Ôn lại sự kiện: Yanukovych không muốn tham gia khối Nato và không đạt được tiếng nói chung trong hiệp định “Ukraine–European Union relations” Poroschenko lên muốn vào khối Nato – ký liền hiệp định “Ukraine–European Union relations”. Mossadegh quốc hữu hoa mỏ dầu – Fazlollah lên thu lại luật quốc hữu hoá mỏ dầu.
Tiếp tới là cuộc đảo tại Guatemala, một nước nhỏ nặm tại Trung Mỹ. Vào năm 1954 chính phủ của tổng thống Jacobo Arbenz bị lật đổ. Chỉ vì ông ta ra đạo luật: Mỗi người chỉ được làm chủ nhiều nhất 270 hetar đất những ai có hơn sẽ bị tịch thu và đền bù. Để chia đất cho những người nông dân không có đất, giải quyết nạn thất nghiệp tại đây. Vì qua đó ít nhất nông dân có thểít nhất tự lo cho mình. Việc làm này dĩ nhiên làm cho đại công ty United Fruit Company của USA ( ngày hôm nay tên la Chicita) không đồng ý vì họ làm chủ rất nhiều đồn điền chuôi tại đây. Thế là CIA đã lật đổ chính phủ Guatemala vào năm 1954, những kẻ chủ mưu trong cuộc đảo chánh này là cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao John Foster Dulles và Tổng Thống Eisenhower. Thay vào đó là Castillo Armas và liền sau đó ông ta thu hồi đạo luật quy hoạch đất đai. (tham khảo thêm OPERATION PBSUCCESS the United States and Guatemala 1952-1954 )
Rồi năm 1962 Cuba, Mỹ muốn Fidelcastro phải bị lật đổ, kết quả là Cuba bị tân công qua sự kiện vịnh Con Heo dưới sự lãnh đạo của CIA, tuy kế hoạch đảo chánh này không thành công nhưng tôi muốn nhắc lại nó vì trong sự kiện Cuba chúng ta có bằng chứng trên văn bản việc chính phủ Mỹ âm mưu giết hại chính người dân mình để hợp thức hoá tấn công Cuba, lật đổ Fidelcastro đó là kế hoạch “Operation Northwoods” : “We coutld develop a Communist Cuban terro campaign in the Miami area....”.

Chilê năm 1971, tại đây chúng ta có chính phủ của tổng thống Savador Allende, ông là một bác sĩ, được bầu làm tổng thống theo phương thức dân chủ vào năm 1971. Chỉ vì ông ta “dám” thân với Fidelcastro, điều này làm phật ý Henry Kissinger cũng như Nixon, đã quyết định đảo chánh lật đổ Savador. Vào 11.09.1973 dinh tổng thống Chile bị đánh bom, Savador nhìn thấy tình hình vô phương cứu chữa, việc này đã đưa đến quyết định tự tử của ông ta trong cùng ngày. Thay thế cho Savador là Pinochet. Một tên độc tài gian ác, theo số liệu hôm nay của Chile công bố thì Pinochet đã giết khoảng trên dưới 3200 người cũng như có trên 38.000 vụ tra tân dã man người Chile. Nhưng Pinochet là người “bạn tốt” của USA và được USA giúp đỡ – ủng hộ trong việc lật đỏ một chính phủ được bâu dân bầu lên. Quá đó chúng ta thấy rõ hơn chính phủ đó như thế nào (dân chủ-độc tài ...) nếu không làm theo ý USA thì sẽ bị USA tìm mọi cách để lật đổ.
Có thể quy độc giả đang nói tôi “bới lông tìm vết” hoặc hỏi còn chuyện đảo chánh lật đổ chính quyền trong thơi gian gần đây không? Câu trả lời của tôi sẽ là: Bạn ở trên sao hoả trong thời gian qua? Dĩ nhiên là có, vi dụ như: Afganishtan, Cuộc đảo chánh ở đây liên quan trực tiếp tơi sự kiến 09.11 tại USA. Chính phủ USA nói Biladen là người chủ mưu trong sự kiện này ( mặc dù chính FBI không kết tội danh này cho Biladen, và ngoài ra sự kiện 09.11 còn là một đề tài tranh cãi, đặc biệt nhất là tại sao tòa nha WT 7 bị sập mặc dù không bị máy bay đâm vào – quý vị có thể tham khảo thêm về 09.11 trong trang nhà, trong khuôn khổ bài này tôi sẽ không đi sâu vào vấn đề 09.11). Chỉ cần USA nói Biladen đang lẩn trốn tại Afganishtan, thế là chúng kéo quân đến ném bom Afganishtan vào ngày 07.10 có nghiã là chưa đầy 3 tuần sau sự kiện 09.11 thì quân đội USA đã tấn công vào Afganishtan. Vào ngày 11.11.2001 Kabul Mohammed Omar bị lật đổ thay thế vào đó là Hamid Karzai, điều lý thú ở đây là Hamid Karzai được bầu lên tại Bonn một thành phố Đức trong một cuộc hội nghị. Chuyện gì xẩy ra khi tông thống USA được bầu tại Việt Nam? Chăc là vui lắm! Ngày hôm nay Aganishtan không chỉ chìm đắm trong nội chiến mà biến thành một căn cư quân sự của USA và EU. Viết bằng chữ thì quý vị thấy như đang đọc huyền sử – nhưng từ 2001 cho tới hôm nay đã có hơn 220.000 người Aganishtan chết. Nếu bạn có người thân trong số 220.000 người này bạn sẽ nghĩ gì, còn là huyền sử nữa không?


Rồi tới Irag 01.2003 Bush tuyên bố chúng ta phải đánh Irak vì Irag có vũ khí giết người hàng loạt (Chắc chắn trong số những nước có nhiều vũ khí giết người hàng loạt nhất thì USA đứng không nhất thì nhì và hơn thế nữa ngày hôm nay chúng ta biết là Saddam không có vũ khí giết người hàng loạt). Để rồi quân đội USA dội bom – đổ quân vào Irak giết chết Saddam. Thay vào đó là Nouri Al-Maliki, chúng thay một tên độc tài này bằng một thằng độc tài khác. Chỉ vì thằng trước không biết nghe lời của chúng. Kết quả của việc lật đổi chính phủ Sadam là gì? Tính đến nay hơn 1 triệu người chết, Nhiều thành phố của Irak bị nhiễm phóng xạ nặng nề.


Tôi không nhắc tơi những việc làm của Liên Bang Xô Viết trong thời gian Ba Lan, Tiệp Khắc .. còn trong khối liên minh Xô Viết. Vì Liên Xô giải quyết vấn đề rất đơn giản, họ chỉ việc kéo xe tăng của họ đến là xong mọi chuyện không cần nguỵ tạo bằng chứng chính đang hoá hành động của Liên Xô cho mất công.
Qua một loạt dẫn chứng, chúng ta thấy rõ cho dù chính phủ Tây hay Đông – Nam hay Bắc – Mỹ, Anh, Pháp, Đức hay Liên Xô, Trung Quốc, … đều bạo ngược như nhau, đểu lừa bịp người dân. Hệ thống thông tin chính quy chỉ còn là công cụ phục vụ – bao che cho bọn nhà nước. Để tranh giành quyền lực bọn chúng không từ một thủ đoạn nào vì “ Quyền lực có khuynh hương lũng đoạn và quyền lực tuyệt đối tức là lũng đoạn tuyệt đối” ("power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely" Lord Action ). Như chúng ta thấy hiện tại USA là một nước mạnh nhất nhưng còn có một sức mạnh mạnh hơn cả sức mạnh của USA, đó là nhận thức của quần chúng. Khi nào quần chúng còn cần có một nhà nước cai trị bằng quyền lực chính trị – thì những thảm cảnh tôi nêu trên sẽ mãi còn tiếp diễn và rất có thể sự man rợ sẽ ngày càng tăng.
Chỉ tới khi phần đông con người nhận ra được giá trị thực sự của CON NGƯỜI không phải là sức mạnh, mà chính là NHÂN BẢN thì chúng ta sẽ không còn là công cụ giết nhau phục vụ âm mưu bành trướng quyền lực của một nhóm người nào đó.


Thiên Chương


Nguồn tham khảo:


http://derstandard.at/1376533770386/Operation-Ajax-US-Putsch-im-Iran
http://nsarchive.gwu.edu/NSAEBB/NSAEBB4/
https://www.youtube.com/watch?v=-ZH30_143Jw
https://www.youtube.com/watch?v=22mFeOo3G-s
http://de.euronews.com/2015/04/17/noam-chomsky-die-usa-sind-ein-schurkenstaat-europa-ist-extrem-rassistisch/
http://deu.anarchopedia.org/Noam_Chomsky

Thứ Năm, 25 tháng 6, 2015

Thơ Nguyễn Thị Hoàng Bắc





Cổ Tích


Đôi khi nhớ nhau
Cụm lau phơ phất
Quặn thắt
Bên đường tàu
Máy dầu xình xịch
Đôi khi nhớ thắt
Bỗng nhiên
Cành cây ven rừng
Thò xuống quẹt mặt
Gió thổi phù phù
Qua ô cửa sổ
Đưa hết mặt ra hứng gió
Vết bầm đau
Chuyến tàu xuôi bắc về nam lúc ấy
Rầm rầm
Có hàng lau lâm râm
Có bàn tay gãy khô rồi mọc lại
Ôi trời
Cổ tích
Xa Xăm




NGỌN CỎ



tiếng nước đái
nhỏ giọt
trong bồn cầu tí tách
thứ nước ấm sóng sánh vàng
hổ phách
trong người tôi tuôn ra
phải rồi
tôi là đàn bà
hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ
bây giờ
được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ
tương lai không chừng tôi sẽ
to con mập phệ
tí tách như mưa
ngọn cỏ gió đùa





Bữa đó



Nỗi bí mật giữa hai hòn đá ù lì
chạm nhau
bất thần xẹt lửa
bí mật giản dị giữ em và anh xa lạ
cầu kỳ
đột nhiên
một bữa

Bữa đó
đất trời ánh sáng
tiếng động lặng im
ngày đêm
xao xuyến
ngân vang nhạc ngựa tất tả đường trường

Bữa đó
lên đường
tóc lòng bay gió mới

Không thệ hải
không dây lòi tói
buộc đời nhau
bằng một chiếc phao

Hỡi phao
hãy đừng trôi
nơi nao.





Ánh chớp


có trái dừa tươi cây rựa cán dài giơ lên
chặt chặt
nước dừa trong suốt vọt
mạch thanh xuân
nhựa con gái
tuôn tràn

chén chè mật đường
vàng hạ óng
hột đậu ván tròn căng nứt mộng chảo đồng

đám núi xanh lơ gần
chiều giông kéo tới
biến ảo lùi xa

thành quách tường hoa
nhatrang dựng đứng dốc ngược vượt lên
mái chùa biến hiện
mây đổ xuôi hình ngoằn ngoèo trôi xa ra biển

khối than hồng treo cao ngụt lửa
hừng hực
bão cát xoáy tròn
mẩu bánh tráng nướng dòn phồng môi thổi

thịt da nhà ga
những chuyến đi xa
chuyến trở về
lần nào nheo mắt nhìn nhatrang cũng mới
bàng hoàng
thành
phơi phới hương càn khôn

mùi phân bò phân ngựa ướp hương
Trần Quí Cáp vàng son
cặn nước mía sủi tăm
ép những cơn khùng thời mới lớn
ruổi xe rông hét lên con đường trống

mộng ước
vói tay
vẽ vời tưởng tượng
đôi cánh chớp lập lòe bay lên
bay lên
nhatrang
ánh chớp lập lòe u ẩn sáng trong đền thờ ngày đêm

trái tim
ôi những ngày chuyển giông
làm sao mưa được.

hãy buông tay em


SÂU LẮNG VÀ MỀM MẠI NHỮNG TRANG THƠ CỦA NỮ THI NHÂN VIỆT NAM



Cầm trên tay hai cuốn sách nặng trĩu “Phái đẹp cuộc đời và cây bút” in tuyển tập thơ, văn của các nhà văn nữ Việt Nam, vì thời gian chỉ có mấy ngày, nên tôi thấy chỉ có thể viết được về phần thơ thôi. Đơn giản là vì thơ ít chữ nhưng lại khó viết, nhất lại là thơ của phái nữ, với thiên tính nhạy cảm, ý nhị và tinh tế…
Vốn là một cán bộ ở một viện nghiên cứu số phận đưa đẩy tôi đến với văn chương, như mắc thói quen nghề nghiệp, tôi đã đến với văn chương không chỉ bằng cảm tính mà bằng cả lý tính, nên về thơ tôi đã luôn đặt câu hỏi “Thế nào là thơ hay?”. Tôi đã tìm câu trả lời từ Chế Lan Viên. Một nhà thơ tài năng hàng đầu và thông thái như Chế Lan Viên, câu thơ như thế nào ông sẽ cho là hay? Trong bài “Nói chuyện thơ đầu xuân” trong cuốn tiểu luận của ông Nghĩ cạnh dòng thơ (Nxb. Văn Học, 1981), Chế Lan Viên đã chọn hai câu của Xuân Diệu: “Ngày hóa bếp hồng em chụm thổi/ Đêm thành lụa tuyết để em thêu” để khen là “văn chương tuyệt vời đẹp đẽ”. Đúng là cách dùng ngôn ngữ hình ảnh tuyệt vời, chỉ một nhà thơ giàu trí tưởng tượng cỡ Xuân Diệu mới có thể viết ra được như thế. Nhưng Chế Lan Viên cũng thích những câu thơ rất thực, không có một chút tưởng tượng nào cả, tôi không nhớ ông nói trực tiếp với tôi hay viết trong một cuốn sách nào đó hai câu: “Tay trồng cây cửu lý hương/ Ba năm hai lá người thương gội đầu”. Như vậy hai câu này hay ở cái ý chứ không phải ở ngôn ngữ. Chàng trai phải yêu cô gái đến như thế nào mới kỳ công bỏ ra cả 3 năm trồng cây để lấy được chỉ có hai cái lá thôi cho người yêu. Còn với ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên, tôi từng nói thẳng với ông: “Cháu rất thích cái câu này của chú: “Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”; lấy cánh cò thực đắp đã là lạ rồi còn cánh cò trong câu thơ của chú lại ở tận trong lời ru cơ”. Ông có vẻ khoái chí nói với tôi: “Con Thắm, con Thắm đó”, ý là ông viết về Thắm, cô con gái của ông.
Từ vốn liếng ban đầu đó, đến nay tôi viết cả đã in và chưa in đến vài ngàn trang phê bình rồi, vậy mà hôm nay vẫn cảm thấy bối rối trước những trang thơ của những nữ thi nhân Việt Nam. Biết là thơ chọn bài nào cũng có cái hay nhưng viết phê bình không ai có thể viết hết ra được, nên tôi chỉ có thể viết đôi dòng cảm nhận về những bài thơ, những câu thơ gây cho tôi ấn tượng nhất mà thôi. Để khách quan tôi sẽ bắt chước vòng giấu mặt của cuộc thi hát trên truyền hình, đọc thơ trước rồi mới xem tên tác giả sau.
Nhà thơ Bùi Kim Anh, tác giả đầu tiên của cuốn sách, có bài lục bát “Gánh buồn đem bán chợ vui”. Bài thơ có phong vị ca dao, có chút kịch tính, chị viết về nỗi buồn nhưng lại có nét vui, hóm hỉnh, hài hước. Hai câu kết:

Gánh buồn đem bán chợ vui
Những tưởng ế lại lời ơi là lời

Đọc thật thú vị, nhà thơ thật tinh tế khi chỉ ra trong chuyện tình cảm có những điều phi lý mà có lý. Nỗi buồn của con người, nếu có sự đồng cảm, sẻ chia của người thân, của bạn bè, nó sẽ được hóa giải. Nhà thơ dễ dàng “bán” đi được nỗi buồn của mình và cái “lời ơi là lời” chính là sự vui lây niềm vui của mọi người, nhận được tình cảm của mọi người.
Một nhà phê bình để thẩm định toàn diện và khách quan một bài thơ người ta phải vượt lên trên cảm tính cá nhân, phải thẩm định bằng cả nền tảng tri thức và cái khó hơn là sự trải nghiệm. Nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh có bài “Rừng Miền Đông và con gái tôi”. Với những người chưa từng trải qua những năm tháng gian khổ và ác liệt trong chiến trường thật khó mà đồng cảm được một cách sâu sắc với tác giả. Tên bài thơ xem chừng chả có thơ mộng gì hết, nhưng tôi với tư cách một người cũng có một năm ở chiến trường thì thật xúc động khi đọc bài thơ. Ngày nay, nhất là ở các đô thị, các bà mẹ trẻ sinh nở được chăm sóc “đến tận răng”, nhưng với Đặng Nguyệt Anh thì:

Rừng Miền Đông
Là nơi chôn nhau cắt rốn của con

Dù vậy không thiếu niềm vui và sự rạng rỡ chào đón một sinh linh mới chào đời:

Chọn một bình minh mùa hạ
Con ra đời
Sáng nay tiếng chim rừng ríu rít
Nắng chan hòa mặt đất
Trời xanh hơn mọi ngày
Bố con mừng cuống quit
Mọi người trong cứ đều vui
Nhưng:
Lần đầu tiên làm mẹ
Nâng niu con trên tay
Hạnh phúc tràn nước mắt
Mẹ lo ngày mai sao đây?

Người mẹ trẻ làm sao không lo cho được khi “Con thì bé bỏng quá chừng!/ nhà lại không phên, không vách/ xung quanh con rất nhiều thế lực”.
Chữ “thế lực” đọc thấy vui mà thật hay, bởi với người mẹ trẻ thì tất cả những gì có thể gây hại cho con, dù to, dù nhỏ, đều là “thế lực” như kẻ thù cả:

Mẹ sợ con rắn độc
Mẹ lo con kiến bọ nhọt
Con rết rừng to hơn ngón chân
Con bò cạp sao mà ác thế
Lũ ve, lũ vắt, muỗi rừng…
Đêm nay
Trời không trăng không sao
Biết đâu lũ biệt kích
Biết đâu giặc lại đi càn
Mẹ sợ cơn mưa rừng
Mẹ thương con đang sốt
Tắc kè bò trên mái trung quân làm mẹ hoảng hốt
Con sóc rung cây mẹ cũng giật mình

Đọc những câu thơ mà muốn khóc lên được. Bài thơ Đặng Nguyệt Anh làm 5/1974 nghĩa là tôi cũng có mặt nơi chị sinh con được 5 tháng, có thể rất gần nữa vì tôi ở Ban Quân huấn, thuộc Quân khu bộ, Quân khu Miền Đông. Bài thơ thực tế chỉ như những trang nhật ký riêng tư nhưng nó lại mang tính biểu tượng nhân văn lớn lao. Thì ra chúng ta đã kiên trì chiến đấu không chỉ bằng gian khổ mà bằng cả tình yêu, trong ác liệt không chỉ có chết chóc mà sự sống vẫn sinh sôi.
Nữ thi sĩ Võ Thị Kim Liên có bài thơ “Trái tim người mẹ” có kết cấu và tình tiết như một truyện ngắn. Bài thơ kể về câu chuyện có một người mẹ có con trai là liệt sĩ:

Ngày anh đi tuổi vừa tròn mười tám
Mũ tai bèo vời vợi vành trăng
Bảy mươi tuổi mắt mờ chân chậm
Khóc chồng con tận đáy đắng cay

Giờ đây mẹ rất mừng khi nhận lại hài cốt của đứa con tưởng đã thất lạc nhưng:

Chợt mẹ thốt lên run rẩy:
-Sao lại mười ngón tay?

Bởi:

Thằng Út chặt dừa mất ngón cái
Bây giờ mẹ vẫn còn đau!

Nghĩa là người mẹ nhận được bộ hài cốt không phải của con mình.
Tưởng được gặp lại con hóa ra lại không phải, giống như mẹ lại mất con một lần nữa, nỗi đau lại nhân đôi. Nhưng rồi lòng vị tha, lòng nhân từ, tình người đã hóa giải tất cả:

Nắng sông Tiền buổi ấy xiêu xiêu
Phù sa đỏ đôi bờ mịn mát
Nén hương thơm và hoa trái ngọt
Cho đứa con không tên thành Út quê nhà!

Và rồi nữ thi sĩ đã nhận ra tấm lòng bao la của một người mẹ, một người mẹ cụ thể nhưng cũng mang dáng vóc của một người mẹ Việt Nam, những Bà mẹ Việt Nam anh hùng:

Tôi sững lặng trước trái tim người mẹ
-Thằng Út nào cũng máu thịt sinh ra!

Có một bài thơ tên là “Nhẫn cỏ”:

Ngón gầy nhẫn cỏ tôi mang
Ấm như có ngón tay chàng chạm tay

Trong muôn vàn sắc thái của tình cảm, có loại tình cảm chỉ biết cho đi mà không cần phải nhận về, lấy hạnh phúc của người mình yêu làm hạnh phúc của mình:

Đã từng yêu rất thiết tha
Vẫn chưa ai khiến lệ sa nghẹn ngào
Dẫu chàng biệt tích nơi nao
Dẫu chàng êm ấm ngọt ngào vợ con…

Đây là tình cảm vị tha chứ không phải vị ngã, ngược với tình yêu ích kỷ. Đây cũng chính là phẩm chất của con người mà Đạo Phật răn dậy người ta tu sửa, cần phải bỏ đi cái chấp ngã mà hướng đến. Nếu đạt được cái tâm thế ấy, người ta sẽ trở thành giầu có nhất trên đời bởi họ coi sự giầu có của thiên hạ là của mình; họ sẽ hạnh phúc nhất vì họ coi hạnh phúc của thiên hạ là của mình. Khi ấy, chiếc nhẫn cỏ cũng hóa thành nhẫn kim cương. Nhưng ai mà lại làm được bài thơ “đẳng cấp” như vậy? Tôi tra tên thì hóa ra của nữ thi sĩ lừng danh Phan Thị Thanh Nhàn. Tôi hơi bị dị ứng với những người quá nổi tiếng vì người ta được nói đến quá nhiều, nên họ không còn gì để mà khám phá nữa. Nhưng với Phan Thị Thanh Nhàn tôi đã lầm. Hai câu thơ như nỗi khao khát của một nửa nhân loại đối với lũ đàn ông hư đốn, một điều không hay ho gì nhưng tiếc là lại là sự thật:

Ước gì yêu được một người
Để đêm không vỡ để ngày chẳng nghiêng


Ước gì cười nói vô tư
Đếm niềm vui của từng giờ bay ngang

(Bài Ước gì)


Là người ai cũng có mẹ, ai cũng lo sợ cái cảnh “Mẹ già như chuối chín cây”, tôi cũng đã phải đau khổ trải qua cái ngày mất mẹ, tôi đã viết lại toàn bộ những gì diễn ra trong đám tang mẹ tôi thành một truyện ngắn, đăng lên đã lấy được không ít nước mắt của bạn đọc, nhất là những người phụ nữ. Con trai mất mẹ đã thế, con gái hiểu mẹ hơn, đồng cảm với mẹ hơn vì cùng có sự trải nghiệm làm mẹ, chắc chắn sự đau khổ của con gái mất mẹ sẽ sâu sắc và thấm thía hơn nhiều. Nữ thi sĩ Phạm Dạ Thủy trong bài Mẹ ơi viết về nỗi đau mất mẹ:

Cho con một cuộc đời hoa
Mẹ giành phận lá úa già tháng năm
Mẹ đau bao nỗi đau thầm
Mẹ vui theo mỗi bước chân con về
Bây giờ mẹ bỏ lại quê
Mảnh vườn đầy gió bộn bề nhớ thương
Bây giờ chiều với mình con
Đơn côi với khúc sông buồn mồ côi
Mẹ về với đất với trời
Buồn vui gởi lại cho đời, mẹ ơi!

Đoàn tụ là một điều thuộc về hạnh phúc của con người nhưng con người trong cuộc sống lại luôn phải chia ly. Chế Lan Viên đã viết hai câu thơ bất tử: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Nữ thi sĩ Tôn Nữ Thu Thủy cũng có bài thơ viết về sự chia ly, chia ly với cha mẹ, với gia đình, với cố đô, thành phố quê hương. Vì tâm trạng chia ly mà chị thấy mưa đã làm “nhòa mắt” cả biển, đến núi non cũng đứng lại “ôm ghì lòng đau”:

Mưa gần ướt đẫm bàn tay
Mưa xa nhòa mắt biển ngày ra đi
Dốc đèo cao mãi chia ly
Núi non đứng lại ôm ghì lòng đau
Hạt nào rơi xuống vườn sau
Rung trong sân trước một mầu xanh xanh
Mái nhà cha mẹ thôi đành
Xa xăm ở giữa nội thành xa xăm

(Bài Mưa qua Hải Vân)


Khi có thiên hướng viết lý luận phê bình, tôi không chỉ đọc những tác phẩm của các nhà lý luận phê bình mà còn, như đã viết ở trên, tôi đọc những trang phê bình của Chế Lan Viên. Các nhà lý luận phê bình có thể rất bài bản nhưng đọc các nhà sáng tác viết phê bình, nhất là cỡ Chế Lan Viên, ta sẽ biết được cái “bí kíp” làm nghề của họ. Chế Lan Viên cho những câu thơ chân thực, tự nhiên cũng có thể hay, nhưng chúng phải là những viên ngọc kết tinh từ môi trường thấm đẫm sự sống; ngược lại có những câu thơ hay do sự sáng tạo độc đáo từ thiên tư, từ năng khiếu của nhà thơ. Những câu thơ này thường giàu hình ảnh từ trí tưởng tượng của nhà thơ. Vi Thùy Linh là nữ nhà thơ trẻ có nhiều cố gắng bứt phá ra khỏi khuôn khổ cũ. Câu thơ “Cài then tiếng khóc em bằng đôi môi anh” là một ví dụ. Có điều tôi bất ngờ trong tập thơ nữ này là không phải cứ trẻ thì mới “quậy” mà nữ thi sĩ Phi Tuyết Ba, người có thể làm mẹ Vi Thùy Linh được, cũng có bài thơ “Người đàn bà ngồi vá bóng đêm” với ngôn ngữ rất độc đáo, sáng tạo, giàu hình ảnh, thể hiện sâu sắc nhất thân phận của người phụ nữ:
Người đàn bà ngồi vá bóng đêm

Chiếc kim trên tay
Chị vá lại đời mình
Vá lại bóng đêm đã hai mươi năm
Rách từng mảnh trống

Những mũi kim cứ vụng về vá víu
Sợi chỉ trên tay rối bời
Đêm chẳng lành hơn
Chỉ có miếng vá nỗi đau này
Chồng lên miếng vá nỗi đau kia
Ngày một dày thêm
Hai mươi năm chị khâu nhẫn nại.

Bộ ngực là bảo vật mà Tạo hóa tạo cho người phụ nữ để nuôi con, đồng thời bộ ngực trinh nữ cũng là biểu tượng của sắc đẹp. Từ bao đời, các nghệ sĩ thuộc các lĩnh vực nghệ thuật văn chương, hội họa, điêu khắc cả Đông Tây, kim cổ trên thế giới đã say mê diễn tả nó mà dường như còn chưa thỏa và có lẽ mãi mãi còn như thế. Chính tôi đây cũng từng viết:

Nhớ buổi chiều năm nao em làm ta lấm áo
Em đã đền nụ cười sáng cả chiều quê
Bộ ngực trinh nguyên đã rung lên dưới lớp áo mờ

Còn nữ thi sĩ Ánh Tuyết đã viết:

Gió bỡn cợt hất tung vạt áo
Em gái má ửng hồng, làm cỏ lúa
Ngực căng tròn, môi mọng như hoa

Riêng mình, nữ thi sĩ cũng rất mạnh bạo, hiện đại thể hiện bản năng dục tính một cách đầy tinh tế, ý nhị:

Lẽ nào chưa hết đàn bà
Bồi hồi ngực áo… làn da phập phồng

Ngại ngùng…e ấp… điệu đàng
Hình như… ta vẫn còn đang đàn bà

Bài viết có lẽ đã quá dài đối với một cuộc hội thảo, còn bao hạt ngọc thi nữ nữa mà tôi không thể nói ra, đành đổ lỗi cho thời gian vậy. Xin chúc các chị, các em trẻ mãi không già, đẹp mãi theo thời gian, làm mãi những vần thơ hay. Xin cảm ơn sự lắng nghe của mọi người!
19-6-2015

ĐÔNG LA

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015

Lan man nghĩ về sự học



Nghiêm Lương Thành


Lười học là sự đáng chê. Thất học là việc đáng buồn. Vô học là sự rất không đáng trọng. Có học mà sự học chưa đến nơi là điều đáng tiếc. Học với định ý “sống chết mặc bay” là cái học của kẻ trọc. Học để cùng bảo nhau thấu hiểu lẽ tự nhiên và đi theo con đường sáng là cái học của người hiền. Học để làm cho cuộc sống vật chất và văn hóa của con người ngày càng đầy đủ và trong trẻo hơn cũng vẫn là cái học của người hiền. Năm Cam, tuy là phạm nhân xã hội màu nhận án tử hình, nhưng có công nâng tầm khái quát về quyền năng bất khả trắc của đồng tiền. “Dân gian” biến ảo khôn lường là chuyên gia phát hiện các loại kẽ hở kỹ thuật, cũng là tác giả thiết kế ra các khe hở, là kỳ nhân bỏ qua giai đoạn học tập tích lũy tri thức, tiến thẳng lên nền văn minh bằng sắc nuôn hồng ngàn tía.

Các bậc tiên nhân bảo: “Người không học khó mà biết và hiểu được lẽ tự nhiên”. Được học mà vẫn không phân biệt được đúng sai, phải quấy rồi làm càn làm bậy vẫn là hạng vô học. Được học và biết được thiên lý mà vẫn nhũng nhiễu, vơ vét, cướp bóc, hà hiếp, chà đạp lên nhân phẩm con người đều bị coi là giặc. Những kẻ bán rẻ đất nước, đồng bào mình cho ngoại bang chỉ cốt cầu lấy sự vinh thân phì gia chính là giặc. Bầy ngoại bang kéo bầy kéo lũ đến xâm lược đương nhiên là giặc. Chống giặc, diệt giặc, chẳng ai thay được người dân. Dân vốn lành. Người lành chỉ làm việc lành. Trừ giặc, vượng quốc là việc rất lành. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều là con em của dân lành.

Ưỡn ngực mà “téno” ra những điều lớn lao cao cả chưa bao giờ được coi là khó; từ vua quan sáng choang đến thứ dân đen đúa, dù trên đại diễn đàn cao thâm huy hoàng hay bên chõng nước chè so dúi úi sùi nơi vỉa hè góc chợ, ai cũng có thể tự mình bốc bùng tỏa sáng. Giặc giã và đại ngôn tùng xòe mang tính hỏa, dân chúng và đại hành thiên lý là dòng chảy lớn cuồn cuộn phù sa. Trong Dịch Học, tượng của lửa ngoài cứng trong rỗng, tượng của nước thì ngược lại. Với tượng của nước: lớp ngoài là phù sa hiền hòa, chủ về nuôi dưỡng, chở che, khuyến khích; phần bên trong dung chứa những khát vọng tự do, công lý, tri thức, tình yêu và năng lực hiện thực hóa những khát khao đó.
*
Kể từ thuở dựng nước, trong khoảng vài chục năm gần đây, chưa bao giờ nước ta có tỷ lệ người xông pha vào nơi trường bút trận nghiên cao đến thế và, cũng chưa bao giờ, nước ta có được số người đạt học vị cao lại đông vui đến thế; đông đến mức ... thấy ngại, vui đến mức ... không cười được. Từ xưa, chưa thấy ai chê học tập là việc xấu. Ngày nay, quả thực, tỷ lệ người mù chữ là thấp hơn rất nhiều so với thời Pháp thuộc, nhưng tỷ lệ kẻ mù nghĩa, rón rén mà nói, hình như, e rằng, có vẻ ... không giống thế.
Cái dạy và học thời phong kiến chỉ chủ về một mặt Nhân học nên mặt Kinh tế-kỹ thuật của xã hội khó phát triển. Cái dạy và học thời nay được tuyên ngôn là phủ đều trên cả hai mặt nhưng, không hiểu làm sao, chúng ta vẫn phải nhập khẩu từ cây kim cho phụ nữ lấy cái thêu thùa may vá; hàng hóa đem đi bán cho các nước vẫn là tài nguyên thô, nửa thô và những loại hàng có hàm lượng cơ bắp cao. Phải chăng chúng ta vốn dĩ căm hờn và xa lánh Lợi nhuận siêu ngạch? – Tôi rất tin vào tính chân thực của câu chuyện về một thủ tướng Hàn Quốc đã khóc khi lần đầu tiên Tổ quốc của ông xuất khẩu được công nghệ kỹ thuật ra nước ngoài.
Trong khoảng vài ba thập kỷ trở lại đây, người trong nước, đâu đâu cũng thấy than phiền quá nhiều về các vấn nạn xã hội; người nước ngoài xếp nước ta vào hàng những quốc gia đang phát triển. “Đang phát triển” là một cụm thuật ngữ, là cách nói hàm chứa một tinh thần sư phạm cao cả. Người nói hài lòng với lối diễn đạt, còn người nghe thấy thuận tai và cảm nhận được đầy đủ các vị đắng cay, chua chát. Trong ẩm thực, dường như người Phương Đông giỏi dùng và thưởng thức những đồ gia vị hơn người phương Tây. Nhưng, sự đời vẫn thế, lẽ bù trừ vẫn vậy, chỗ này lõm thì tất có chỗ khác lồi: Nước ta có nhiều dầu mỏ, có vịnh Hạ Long đệ nhất kỳ quan thiên nhiên thế giới, có tượng Phật bằng đồng to nhất khu vực Đông nam Á. Nước ta lọt vào “top” các quốc gia được đánh giá là luôn sử dụng, một cách cập nhật, những sản phẩm đại trà tiên tiến nhất của nền công nghệ tin học nhân loại; chỉ còn một điều băn khoăn nho nhỏ là làm sao phát huy được hết công năng nhân văn và các tiện ích kỹ thuật của nó.
*
Vì đã từng nếm trải vị trần ai, nên muốn tránh cho nền hành chính quốc gia không bị già cỗi và bị thoái hóa, các nền cộng hòa trên thế giới đều đã đặt ra quy định cụ thể về khoảng thời gian cho một nhiệm kỳ và số lượng nhiệm kỳ tối đa cho người điều hành cao nhất của nhà nước. Người được chọn vào vị trí dẫn dắt quốc gia dứt điểm là người có tâm với đất nước, có thực học; người đó thường xứng đáng với lá phiếu bầu chọn của các cử tri trong một môi trường bầu cử ngay thẳng. Và trong thời gian ngắn ngủi của nhiệm kỳ, vì danh dự, vì sự thịnh vượng của quốc gia, vì danh dự của chính mình, họ không chỉ nỗ lực, gắng gỏi đưa đất nước của mình lên mức phát triển hơn nữa mà còn tính toán sao cho có thể tạo lập và để lại được những tiền đề vật chất và tinh thần tốt đẹp, tạo đà cho xã hội và người kế nhiệm tiếp tục cuộc hành trình về phía có nhiều ánh sáng. Đấy là kiểu tư duy đại cục của người có đức, có thực học, có văn hóa ư?
Đọc Giả Bình Ao bên Trung Hoa, thấy viết: “Ngày trước, có những nông dân ra khỏi nhà, có buồn đi đại tiện, cũng cố nín để về hố xí nhà mình; nếu không nín nổi, phải “bĩnh” ra, thì cũng lấy gạch đá để ném cho be bét, không để ai hót”. Mắc cười, nhưng, sâu thẳm trong bụng, bỗng dấy lên chút phân vân: Tư duy nhiệm kỳ là như vậy chăng? Nếu thế, thứ tư duy này, quả thực, luôn làm mất vệ sinh môi trường. Công sức của người dân, đúng ra là để làm cho môi sinh của mình ngày càng trong lành tươi đẹp hơn thì, trái lại, phải dùng để dọn vệ sinh công cộng. Mà cứ lơ là, cứ nhãng đi là đã thấy ùn lên cả đống ngập ngụa, thập thành xú khí, tác yêu tác quái; không cẩn thận, biết dọn đến bao giờ mới xong?! – Đành phải nghĩ: Có chữ nhưng mù nghĩa hoặc cố tình không hiểu nghĩa mà tư duy hành xử theo lối sống chết mặc bay thì chỉ có thể là giặc; loại giặc này, ngày nay, đã tự tiện bổ sung cho động từ bày đặt một nghĩa mới đầy tính kỹ thuật: thiết kế.
*
Thời còn học phổ thông, thường nghe Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa thì lấy làm băn khoăn: Cụ là nhà chính trị, đánh giặc cứu nước, dựng nền độc lập, xây nền dân chủ chứ làm văn hóa hồi nào? Nhưng lại nghĩ: người nước ngoài cũng nói về cụ như thế; nhất định phải dựa vào đâu chứ. Tôi cố tự tìm hiểu, nhưng đầu óc vốn bé nhỏ nông cạn nên không sao lý giải được. Thế là đánh bạo, liều hỏi thày giáo dạy văn. Cứ tưởng bị thày cười rồi phê cho một trận đã đời; nhưng không, thày mỉm cười hiền vui, xoa đầu tôi rồi, bằng giọng nói trầm ấm, thong thả, thày nói: “Mọi người đều hiểu Văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần của mình”. Tôi đỏ mặt lúng búng: “vâng ạ”. Thày gật đầu hài lòng, nói tiếp: “Thời Pháp thuộc, nước ta không có độc lập, dân ta sống trong vòng nô lệ tủi nhục, chỉ được phép cúi đầu tuyệt đối tuân phục mà không được quyền phản đối nhà nước. Trong cái chế độ trung cổ bán thuộc địa được khoác cái áo dân chủ bằng mạng nhện ấy, mạng người dân bị coi như cỏ rác, nhân phẩm bị chà đạp và đầy đọa đến nhục nhã; cuộc sống luôn nghẹt thở bức bối bởi sự khủng bố chính trị luôn rình rập cùng bao quyền tự nhiên bị cấm đoán và bị bóc lột lấy được bằng cả núi thuế khóa ... Mà, oái oăm thay, những tiền thuế ấy lại được dùng để nuôi sống chính bộ máy chính quyền ngông cuồng ngược ngạo bạo hành người dân hoặc bày đặt ra những trò vu vạ hèn hạ và khủng bố tàn bạo vô lối đối với những người yêu nước thương nòi, có thực học, luôn mong cho dân mình được ngẩng cao đầu, sống như những con Người. Nói gọn lại, thời ấy, dân mình bị đói khổ, thất học và không có quyền làm người. Quyền làm Người là nhu cầu văn hóa lớn nhất của nhân loại. Hồ Chí Minh là người cả đời đấu tranh để đem lại và thực thi cái quyền ấy cho người Việt Nam. Giới học giả vinh danh cụ là nhà văn hóa là vì thế”.
Sau này lớn khôn hơn, được đọc Văn bản Tuyên ngôn độc lập, được đọc sáu điều Bác dạy ngành công an, được biết những điều Bác nói về dân chủ ... tôi càng thấy thấm thía về những điều thày dạy tôi. Văn kiện Những Yêu Sách Của Nhân Dân An Nam được Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hòa hội Versailles ngày 18 tháng 6 năm 1919 với những nguyện vọng về tự do và dân chủ đã để lại trong tôi những ấn tượng tốt đẹp không thể phai mờ:
1.Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng đuợc quyền đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu, xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
7. Thay chế độ các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ”.
Như một quy luật của đời sống, cái tốt và lòng tin luôn bị lợi dụng. Chính phủ thuộc địa Pháp, những kẻ lưu manh sang trọng, luôn ẩn núp dưới bóng của những tư tưởng cao cả và những bậc hiền minh, tay lần thánh giá mà giấu dao nhọn trong người. Chính phủ này, khi bị lộ diện, bị vạch trần bản chất dối trá đã cậy vào súng đạn, bất chấp phải trái, nhâng nháo vô sỉ, quyết liệt làm càn, không từ một thủ đoạn hạ tiện nào và tự cho mình dự vào hàng “không độc không phải kẻ làm việc lớn”. Ngày nay, Gadhafi thuộc “típ” biết chữ mà không hiểu nghĩa lý, không có khả năng nhận thức thiên lý và tiếp thu những bài học của lịch sử.
*
Chu Văn An, Hồ Chí Minh, Tạ Quang Bửu ... là những người học với mục tiêu đạt đến sự hiểu biết thấu đáo. Các Ngài đều được nhân dân ngợi ca như những nhà văn hóa, nhà giáo dục, một vinh dự của các bậc đức cao thực học, suốt đời thực hành cái sở học của mình giúp dân giúp nước.
Theo lẽ thường, trong nhà vừa có người đỗ đạt cao, có ai không mừng rỡ? Vậy mà khi hay tin con trai mình (cụ Trần Bích San) đỗ đầu cả ba kỳ thi, cụ Nghè Trần Doãn Đạt lại thấy lo âu phấp phỏng. Nỗi lo đó được thể vào bài thơ cụ viết ngay sau đó và tức tốc gửi cho con để kịp căn dặn, nhắc nhở. Bài thơ có câu:

Hữu thức vô nan nan thức đáo
Vô danh bất hoạn, hoạn danh phù
(Biết không khó, cái khó là hiểu đến nơi đến chốn
Không có danh chẳng đáng lo, chỉ lo cho thứ danh không thực).

Nỗi lo của cụ là nỗi lo của một trí thức trải đời, lo vì người có tài thường dễ tự mãn, kiêu căng, đoạn chí học hành tu thân, dễ làm điều ngông cuồng thất đức, hại dân hại nước rồi rước họa vào thân. Người ỷ tài mà sinh lòng tự mãn đã đành là thế; thử hỏi: kẻ bạo tâm, bất tài; kẻ vô học hoặc kẻ hữu thức mà không thức đáo nhưng lại tự cho mình là nhất tuyệt thì cái họa mà dân nước phải gánh chịu sẽ đến mức nào đây?

Vừa đủ



TRẦN NHƯƠNG




Em vừa đủ để anh khao khát
Vừa đủ làm cho anh thật là anh
Trời chớm thu vừa đủ nét xanh
Quả chua ấy cũng vừa đủ ngọt.


Em vừa đủ để qua thời non nớt
Nét thục hiền vừa đủ chút đành hanh
Trong vững bền vừa đủ sự mong manh
Trong đằm thắm vừa đủ lòng nghi kỵ.


Em đàn bà vừa đủ men thi sĩ
Em trang đài vừa đủ nét chân quê
Thích cộng vào vừa đủ biết đem chia
Lòng ngay thẳng vừa đủ mưu che đậy.


Em già dặn vừa đủ điều non bấy
Em tươi vui vừa đủ nét ưu phiền
Em lạnh lùng vừa đủ để thôi miên
Em gìn giữ vừa đủ lòng nổi loạn


Anh khao khát với trái tim lãng mạn
Mong suốt đời vừa đủ để yêu em...

CÚC ÁO CỦA MẸ




Truyện ngắn: NHẤT BĂNG (Trung Quốc)
Vũ Phong Tạo dịch

Anh ấy còn nhớ, năm tổ chức lễ sinh nhật 12 tuổi, anh ấy vẫn còn đang đi học, thầy giáo tự nhiên chẳng có lý do gì cho cậu ta nghỉ học. Vừa sáng tinh mơ, mẹ cậu đã kéo cậu ra khỏi chăn, cậu lẩn tránh bàn tay lạnh cóng của mẹ, còn nằm rán trên giường một lát, thì đã nghe thấy mẹ nói: "Con trông đây là cái gì?"
Cậu mở to mắt, trước mặt là một chiếc áo mới, kiểu quân phục như cậu từng mơ ước, hai hàng cúc đồng, trên vai áo có ba vạch màu xanh, đó là mốt quần áo "thịnh hành" trong học sinh. Cậu bỗng mừng rơn, vội mặc áo quần, ngay bát miến trường thọ cũng ăn vội vội vàng vàng. Cậu muốn đến lớp, đến trường ra oai với các bạn học, rằng cậu cũng có một chiếc áo mới của mình, mà là một bộ "mốt" nhất nữa.
Cần hiểu rằng, từ nhỏ đến lớn, cậu toàn mặc quần áo cũ của anh, vá chằng vá đụp nữa!
Quả nhiên đúng như dự kiến của cậu, khi cậu bước vào lớp học, ánh mắt của các bạn đều trố lên, các bạn đều không ngờ được rằng, cậu lúc nào cũng mặt mày lọ lem, đầu bù tóc rối bụi bặm cũng có lúc vẻ vang rạng rỡ như thế này.
Ngồi trên vị trí của mình, cậu hoàn thành tiết học đầu tiên một cách vui vẻ, hởi lòng hởi dạ. Trong giờ giải lao, các bạn ấy đều vây quanh cậu, vạch xem quần áo mới của cậu. Có bạn bỗng hỏi:
- Ô hay! Tại sao khuy áo của bạn không giống của chúng mình nhỉ?
Lúc ấy, cậu mới nhìn kỹ cúc áo của mình, quả thật không giống cúc áo của người khác hai dãy thẳng đứng. Còn cúc áo của cậu lại nghiêng lệch, hai dãy xếp thành hình chữ "vê" (V).
Các bạn lật xem áo của cậu, bỗng đều cười òa lên. Thì ra, chỗ đính khuy trên chiếc áo trắng của cậu là một miếng vải cũ màu vàng. Cậu cũng hiểu ra, chắc là mảnh vải mẹ mua không đủ may áo, đành phải lót bên trong bằng mảnh vải khác, sợ người khác nhìn thấy, cúc áo đành phải đính sang bên cạnh. Và cũng để người khác không nhìn thấy, mẹ đã khéo léo đính chéo hàng cúc kia, tự nhiên thành hình chữ "vê" (V).
Biết rõ sự thực, các bạn cười òa lên, ánh mắt lại giễu cợt như trước. Những ánh mắt ấy làm cho lửa giận bốc lên ngùn ngụt trong lòng cậu. Buổi trưa về đến nhà, trước mặt khách đến thăm, cậu cắt nát vụn chiếc áo mới của mình. Mẹ cậu lao đến trước mặt con, giơ cao tay, nhưng cuối cùng không giáng xuống. Cậu liếc nhìn, thấy nước mắt mẹ chảy quanh trong khóe mắt, vội quay đầu chạy biến…
Cậu rõ ràng cảm thấy, từ hôm ấy trở đi, mẹ hình như biến thành một người khác. Mẹ làm nghề xay đậu phụ, thường ngày mẹ rất ít ngơi tay, từ đó về sau đến thời gian xả hơi mẹ cũng không giữ lại cho mình. Cậu tận mắt thấy mẹ gầy sọp đi, tận mắt nhìn thấy mẹ nằm bẹp rồi ra đi mãi mãi… Cậu rất muốn nói một câu: “Con xin lỗi mẹ”, mà không còn cơ hội nữa.
Song, cậu thừa kế được tính khí kiên cường và cần cù phấn đấu của mẹ. Cậu cố gắng học tập, làm cho cuộc đời của cậu phát sinh biến đổi một trời một vực. Cậu có rất nhiều rất nhiều tiền, trùng tu tôn tạo phần mộ của mẹ nhiều lần.
Có một hôm, cậu tham gia một cuộc triển lãm trình diễn thời trang, đó là những mẫu thiết kế của nhà thiết kế thời trang bậc thầy, đỉnh cao thế giới. Trong đó, có một người mẫu nam bước lên sàn diễn, mắt cậu bỗng căng lên, đầu óc kêu ong ong hỗn loạn. bộ áo màu trắng ấy với hai dãy khuy đồng hình chữ "vê" (V).
- Bên trong có phải là…?
Cậu không làm chủ mình được nữa, lao lên sàn diễn, lật ra xem tấm áo của người mẫu nam, lót bên trong tự nhiên cũng là một mảnh vải vàng!
Cậu ta quỳ sụp trước mặt người mẫu nam, òa khóc thống khổ.
Sau khi nghe anh ta kể hết câu chuyện, tất cả những người có mặt tại hội trường đều trầm ngâm suy nghĩ mãi.
Cuối cùng, một nhà thiết kế bậc thầy nói: "Thực ra, tất cả những người mẹ đều là các nhà nghệ thuật!".

Ngô Đình Diệm Là Nguyên Nhân Của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam



Duyên Sinh


Trích tập sách: "Người Quốc Gia Cuội" http://www.duyensinh.com/files/pdf/NGUOI_QUOC_GIA_CUOI.pdf


Cuộc di dân một triệu người Ca-tô Rô-ma giáo vào Nam đã làm Hồ Chí Minh choáng váng. Chẳng những Hồ Chí Minh choáng váng, mà Ngô Đình Diệm cũng choáng váng! Tuy nhiên đây không phải là do công lao tuyên truyền của Diệm, mà do sự hoạt động bí mật của Đại Tá Edward Lansdale. Lansdale cho CIA tung ra tiếng đồn là mỗi gia đình Ca-tô Rô-ma giáo di cư vào Nam sẽ được cấp 5 acres (mẫu) đất và một con trâu.


Edward Geary Lansdale

Sau khi đã vào Nam, người Ca-tô Rô-ma giáo đi tới đâu cũng hỏi về 5 mẫu đất và một con trâu, mà hầu như không có ai hỏi han gì tới chuyện “Đức Mẹ Đồng Trinh” đã vào Nam.

Mùa Xuân năm 1955, sau khi lên làm thủ tướng, đe dọa mạnh nhất đối với Diệm trong những ngày tháng đầu, là vấn đề khủng hoảng tôn giáo (sects crisis). Sự thật về khủng hoảng tôn giáo đã xảy ra trước khi Diệm lên làm thủ tướng, mà Pháp không thể giải quyết.

Cao Đài có 2 triệu tín đồ và 20 ngàn quân, căn cứ đặt tại đồng bằng sông Cữu Long, có nhiệm vụ kiểm soát chính trị địa phương.

Hòa Hảo có 1 triệu tín đồ và 15 ngàn quân, căn cứ cũng đặt tại vùng đồng bằng Sông Cửu Long, cũng có nhiệm vụ kiểm soát chính trị địa phương giống như Cao Đài.

Bình Xuyên là một tổ chức giống như Mafia, có một đội quân lớn hơn Cao Đài và Hòa Hảo cộng lại, 40 ngàn quân. Họ là công an cảnh sát Sài Gòn Chợ Lớn, nhưng nguồn lợi tức của họ thâu hoạch từ các nhà “chứa đĩ”, các sòng “cờ bạc”, và các phòng hút “á phiện”. Bình Xuyên chẳng những buôn bán á phiện cho họ, mà còn phải lo lót cho Bảo Đại 1,25 triệu đô la Mỹ.

Người Pháp bất lực. Họ không thể điều khiển nổi ba thành phần Cao Đài, Hòa Hảo, và Bình Xuyên, vì thế cho nên Pháp phải để cho họ được “tự trị”. Khi Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng, ba thành phần này tiếp tục từ chối đặt dưới quyền kiểm soát và chỉ huy của Diệm.



Nhiều tháng trước cuộc chiến, Ngô Đình Diệm và Lê Văn Viễn (thủ lãnh Bình Xuyên) - 1954

Vì muốn được sự yểm trợ của Cao Đài và Hòa Hảo, Diệm nhượng bộ “một cái”, và đòi hỏi Cao Đài và Hòa Hảo phải nhượng bộ “một cái”. Cái mà Diệm nhượng bộ là cho Cao Đài và Hòa Hảo được đóng quân tại địa phương như cũ. Cái mà Diệm muốn Cao Đài và Hòa Hảo nhượng bộ là Cao Đài và Hòa Hảo phải đặt dưới quyền chỉ huy của Diệm, vì Diệm là thủ tướng.

Tuy nhiên cả hai, Cao Đài và Hòa Hảo vẫn không chịu! Họ cảm thấy họ vẫn bị lỗ lã, vì khi không khi khổng họ bị Diệm lấy mất đi “một cái”, họ chỉ còn lại “một cái”. Cao Đài và Hòa Hảo muốn hết luôn cả hai cái!... Tức là họ muốn hoàn toàn tự trị!...

Một buổi sáng mùa Xuân năm 1955, cả ba đội quân Cao Đài, Hòa Hảo, và Bình Xuyên sẵn sàng tác chiến, với áo giáp, súng, đạn… Họ đã chuẩn bị rất chu đáo và đã chiếm giữ các địa điểm quan trọng và hiểm yếu, hướng về dinh độc lập từ bên trong thành phố.



Quân đội của Bình Xuyên nằm dọc các cây cầu ở Sài gòn trong trận đánh (với lính nhảy dù của Pháp võ trang cho Bảo Đại) 1955

Về phía Diệm, thì Diệm được hỗ trợ của lính Lê Dương, Lính Khố Đỏ, Lính Khố Xanh của Pháp. Họ cũng rất sẵn sàng, và cũng chông súng về phía các giáo phái và chờ lệnh.

Khi có tiếng “tấn công” và tiếng pháo kích bắt đầu nổ ầm lên, cả hai chỉ huy Cao Đài và Hòa Hảo đều đột nhiên phóng loa tuyên bố xin “đầu hàng” trong khi lính của họ chưa bắn phát súng nào! Trong dinh độc lập, mặt của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vừa mới tái mét, rồi đổi qua tái xanh, rồi lại hết xanh, chỉ trong vài chục giây đồng hồ!... Đại tá Edward Lansdale thì luôn miệng hô to: “Prime Minister Diem, a miracle man!...”, “Prime Minister Diem, a miracle man!...” (Thủ tướng Diệm, một người kỳ diệu …”, “Thủ tướng Diệm có phép lạ!...).

Ngay sau trận đánh, Mỹ khen thủ tướng Ngô Đình Diệm đáo để!.. Nào là thủ tướng Diệm được quân đội trung thành và ủng hộ; Diệm đánh trận giỏi hơn cả Pháp; và “Diệm có phép lạ…”, có dư sức chống Cộng… Mỹ sẽ “cúp” viện trợ Pháp, và viện trợ thẳng cho VNCH, v.v…

Diệm nở cái lỗ mũi không được bao nhiêu ngày, thì lại phát giác ra chính cái thằng cha đại tá “mắc dịch” Edward Lansdale đã làm chuyện bí mật.

Số là trước khi Diệm và các giáo phái dàn quân đánh nhau, đại tá Edward Lansdale đã truất quỹ CIA của ông một số tiền mặt khổng lồ 3 triệu đô la. Lansdale mang 3 triệu đô la tới lo lót cho cấp chỉ huy Cao Đài và Hòa Hảo, và yêu cầu họ đầu hàng trước khi đánh. Khi không mà có 3 triệu đô la, hai chỉ huy Cao Đài và Hòa Hảo mừng húm, dại gì mà không nhận?

Cuộc chiến rốt cuộc chỉ diễn ra giữa Bảy Viễn và Diệm. Vì cô thế, Bảy Viễn bị Lính Khố Đỏ uy hiếp quá, phải bỏ chạy… Bảy Viễn được Pháp giải cứu và chở về Pháp để tị nạn.

Và bắt đầu từ đó, Ngô Đình Diệm được các giới chính trị Mỹ gọi là “The Miracle Man”.

Kết quả cuộc xung đột, có khoảng: 500 dân chết; 20 ngàn người không nhà cửa. Bảo Đại bị Diệm đảo chánh trong lúc vắng mặt. Ngô Đình Diệm tổ chức “Trưng Cầu Dân Ý Cuội” bằng bầu cử gian lận, rồi tự xưng làm tổng thống VNCH với sự hỗ trợ của Mỹ.

Vietnam a History viết:

[Gần hai ngàn người, bao gồm cấp chỉ huy và binh lính Bình Xuyên, Cao Đài, và Hòa Hảo tiếp tục lẫn trốn quanh quẩn trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Những người này, cùng với một số người Cộng Sản khác, đã lập ra Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam][59].

Tới đây thì bạn đọc hiểu ngay Ngô Đình Diệm là nguyên nhân của sự thành hình Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN). MTDTGPMN đã cho Diệm nếm hương vị “Quốc Gia” lần đầu trong trận Ấp Bắc. MTDTGPMN là những người Quốc Gia bị Ngô Đình Diệm, là bọn tay sai của thực dân Pháp và thực dân Vatican, “đẩy” qua phe của Cộng Sản.

Sau năm 1975, có một người trong MTDTGPMN định kiện Bắc Việt ra tòa án quốc tế vì Bắc Việt đã vi phạm Hiệp Định Paris, tấn chiếm Miền Nam năm 1975. Họ nói họ là người Quốc Gia Miền Nam. Họ không chấp nhận Cộng Sản, khống chấp nhận “bù nhìn” của Mỹ, và cũng không chấp nhận làm “con chiên” của Vatican. Nhưng tiếc thay, chiến tranh đã gây ra không biết bao nhiêu nhầm lẫn, biết chừng nào mối hận nầy mới được nguôi!...

Dân Bắc Kỳ một thời đã gọi lá cờ này là cờ “Ba Que Đỏ” hoặc cờ “Ba Que Sốt Huyết” [49].



NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/French_colonial_flags

Khi lên ngôi tổng thống, Ngô Đình Diệm cũng “chôm” Quốc Kỳ và Quốc Ca giống y như Bảo Đại. vẫn tiếp tục bản nhạc “Tiếng Gọi Sinh Viên”[48] của Việt Cộng Lưu Hữu Phước; tiếp tục cờ ba que đỏ Tiểu Bang Tonkin của nước Đông Dương Thuộc Pháp.

Báo chí điện tử và truyền thông xã hội



TCCSĐT - Những năm qua, sự phát triển nhanh chóng của loại hình báo chí điện tử và truyền thông xã hội (thông tin trên mạng internet) đã đặt ra những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu và giải pháp quản lý. Đây vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức rất lớn đối với công tác văn hóa, tư tưởng.


Sự phát triển của báo chí điện tử và truyền thông xã hội

Sự phát triển các dịch vụ thông tin trên nền internet thời gian qua đã đem lại cho người dân trên thế giới những lợi ích không thể phủ nhận. Đây là xu thế phát triển chung của thời đại khoa học - công nghệ. Nhân loại trở nên gần nhau hơn, người dân có thể dễ dàng tiếp cận với những kho dữ liệu khổng lồ, phong phú và đa dạng được cập nhật hằng ngày, hằng giờ từ khắp nơi trên thế giới. Internet tăng cường khả năng giao lưu, trao đổi thông tin giữa mọi người với nhau, thúc đẩy xã hội phát triển.

Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến hết năm 2014, Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển internet nhanh trên thế giới với hơn 32 triệu người sử dụng internet, tương đương tỷ lệ 35% số dân. Cùng với đó, thông tin điện tử trên mạng internet, bao gồm báo chí điện tử và truyền thông xã hội cũng có sự phát triển rất nhanh chóng. Tính đến cuối năm 2014, nước ta có 90 báo, tạp chí điện tử, 215 trang tin điện tử tổng hợp của các báo, tạp chí, đài phát thanh - truyền hình. Về truyền thông xã hội, có hàng nghìn trang tin điện tử, hơn 300 mạng xã hội đã đăng ký hoạt động. Bên cạnh đó, một số lượng rất lớn các blog cá nhân cũng góp phần đáng kể phát triển truyền thông xã hội. Kết quả nghiên cứu của một công ty chuyên về điều tra xã hội học trong lĩnh vực internet cho thấy, hơn 95% số người truy cập internet để đọc thông tin, chủ yếu thông qua các website tổng hợp và các mạng xã hội (MXH); và một tỷ lệ tương tự sử dụng công cụ tìm kiếm thông tin khi sử dụng internet. Theo đó, nhu cầu tìm kiếm và sử dụng thông tin là nhu cầu chủ đạo của người dùng internet. Điều đó cho thấy, internet đã trở thành phương tiện truyền thông rất quan trọng, và thậm chí đang từng bước lấn át các phương tiện truyền thống, nhất là đối với báo, tạp chí in. Hơn nữa, những số liệu thống kê không chính thức cũng cho thấy các website truyền thông xã hội chiếm đến 80% số lượng người sử dụng thường xuyên trong số 10 website lớn nhất ở Việt Nam.

Như vậy, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình thông tin trên mạng internet; trong đó, truyền thông xã hội đang ngày càng trở nên quen thuộc và trở thành kênh tìm kiếm thông tin ngày càng phổ biến đối với cộng đồng.

Một số vấn đề đặt ra

Thứ nhất, internet từng bước khẳng định vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, thúc đẩy phát triển internet là xu thế tất yếu.

nternet ngày nay đã trở thành môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin cho mọi người dân và đang thâm nhập vào cuộc sống của con người khắp nơi trên thế giới. Nó đang trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống, tác động một cách trực tiếp, làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển của toàn xã hội.

Hầu hết các quốc gia đều nhận thức được xu thế phát triển và tầm quan trọng của internet trong kỷ nguyên thông tin đối với sự phát triển xã hội và đều có những chính sách phù hợp để khai thác thế mạnh của internet phục vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Thúc đẩy phát triển internet phục vụ lợi ích của xã hội loài người đã trở thành một xu thế được khẳng định với những cam kết quốc tế mạnh mẽ của các quốc gia. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.

Thứ hai, tính hai mặt của nội dung thông tin trên internet.

Truyền thông xã hội có ưu thế tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và cho phép cá nhân tham gia cung cấp thông tin mà không cần công khai danh tính, cập nhật thường xuyên, nội dung thông tin phong phú, đa dạng. Thông tin trên truyền thông xã hội được phát tán, lan truyền rất nhanh thông qua các mạng xã hội, hầu như không có giới hạn về biên giới, lãnh thổ; dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng. Bên cạnh đó, truyền thông xã hội còn tạo ra khả năng giao lưu, chia sẻ, kết nối cộng đồng rất thuận lợi. Đây là tính năng đặc biệt hấp dẫn đối với giới trẻ ngày nay. Vì vậy, truyền thông xã hội đang ngày càng thu hút đông đảo người dùng internet, nhất là trong những năm gần đây và đang có sự dịch chuyển thói quen tìm kiếm thông tin từ các website thông tin chính thống sang các website truyền thông xã hội, nhất là các trang thông tin điện tử tổng hợp.

Bên cạnh những ưu thế, truyền thông xã hội cũng bộc lộ những mặt trái, đó là: thông tin không chính thống, mang tính cá nhân, thiếu chọn lọc, dàn trải, vụn vặt; khó xác định nguồn tin, khó kiểm chứng; thông tin dễ lồng động cơ, mục đích cá nhân nhằm xuyên tạc, lừa đảo, vu khống. Vì vậy, truyền thông xã hội khi được sử dụng vào các mục đích lừa đảo, vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội, đe dọa an ninh quốc gia thì hậu quả cũng vô cùng lớn, nhất là khi người sử dụng đa số là giới trẻ, còn thiếu bản lĩnh, tỉnh táo khi tiếp nhận thông tin trên internet.

Về bản chất công nghệ, môi trường internet là môi trường mở, cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin. Vì vậy, tùy thuộc vào động cơ, mục đích và nhận thức của cá nhân, tổ chức sử dụng mà thông tin đưa lên internet là tích cực, hoặc tiêu cực, hoặc thậm chí đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội. Ngày nay, trên internet cũng tồn tại không ít những thông tin sai, độc hại với các tính chất khác nhau, không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục; thông tin có tính chất tội phạm tin học, lừa đảo trên mạng; thông tin xuyên tạc có tính chất chính trị, đe dọa an ninh quốc gia.

Nhận thức được tính hai mặt của nội dung thông tin trên giúp chúng ta có định hướng chính sách và giải pháp quản lý thông tin phù hợp với tính chất thông tin, nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của thông tin sai trái, độc hại.


Thứ ba, tính hai mặt của sự phát triển công nghệ internet.

Do bản chất công nghệ, internet cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin mà không có giới hạn về địa lý, lãnh thổ. Trong đa số các trường hợp, thông tin về cá nhân của người dùng không cần xác thực. Điều đó một mặt tạo điều kiện thuận lợi một cách tối đa cho người muốn cung cấp, sử dụng thông tin trên internet, loại bỏ những ràng buộc về pháp lý, những mặc cảm trong ý thức để tham gia vào môi trường thông tin trên internet. Song, mặt khác nó cho phép những tổ chức, cá nhân với động cơ xấu có thể che giấu danh tính để cung cấp thông tin sai trái, độc hại, thậm chí xóa bỏ dấu vết để thực hiện hành vi tội phạm, lừa đảo, trong đó phổ biến nhất là những hành vi tội phạm xuyên quốc gia. Việc phát hiện, ngăn chặn những hành vi sai trái trên môi trường internet toàn cầu như vậy về phương diện kỹ thuật là rất khó khăn, đòi hỏi sự phối hợp tích cực của các quốc gia. Tính hai mặt của công nghệ internet đang là thách thức đối với những quốc gia muốn thực thi luật pháp của mình để điều chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật trên mạng internet toàn cầu.


Thứ tư, tác động qua lại của truyền thông xã hội với báo chí ngày càng phức tạp.

Truyền thông xã hội là nơi cung cấp thông tin, đề tài để báo chí nhận diện, phát hiện những vấn đề nóng đang nổi lên, đang diễn ra và được dư luận quan tâm. Từ đó, các nhà báo sẽ chắt lọc những vấn đề hấp dẫn đối với độc giả, phù hợp với tôn chỉ mục đích của báo mình để làm tin, bài. Khi có bài báo được đăng tải, nếu được các thành viên của mạng xã hội tiếp nhận, truyền bá và thảo luận thì sẽ tạo sức lan truyền tin tức rất mạnh, bài báo sẽ đến được với số lượng độc giả gấp nhiều lần so với việc bài báo đó chỉ được đăng tải trên trang báo chính thức. Tin tức trên báo chí sau khi phát đi được các thành viên mạng xã hội tiếp nhận, truyền bá và thảo luận sẽ tạo ra làn sóng tin tức mới. Mạng xã hội cũng tác động khiến các cơ quan báo chí thay đổi cách suy nghĩ từ làm báo một chiều sang đối thoại hai chiều với độc giả. Và chính báo chí là nơi tiếp nhận, lựa chọn, kiểm chứng mức độ tin cậy của thông tin, “chính thống hóa” thông tin trên mạng xã hội.


Như vậy, thông qua mạng xã hội, nếu các cơ quan báo chí, các nhà báo nhanh nhạy, nắm bắt được những vấn đề mà xã hội đang thực sự quan tâm, để cung cấp những thông tin kịp thời, đáp ứng được sự quan tâm của người sử dụng; khi được các thành viên của mạng xã hội tiếp nhận, thảo luận, truyền bá, sẽ tạo ra làn sóng tin tức mới, góp phần định hướng thông tin và có tác động lớn đối với xã hội.

Một số bất cập trong công tác quản lý

Nhận thức được sự phát triển mạnh mẽ của nội dung thông tin trên internet với những đặc thù phức tạp, những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã tăng cường công tác quản lý đối với thông tin trên internet. Tuy nhiên, trên thực tế, internet đang thể hiện ngày càng rõ nét đặc trưng của một xã hội ảo, phản ánh ngày càng toàn diện các hoạt động của đời sống thật ở mức độ tự do hơn cho mỗi cá thể, phức tạp hơn cho công tác quản lý.


Trước tiên là, công tác xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp luật. Internet là lĩnh vực đặc thù có sự phát triển nhanh, mạnh, gắn liền với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quản lý lĩnh vực này cũng đòi hỏi phải được bổ sung, điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu quản lý. Đến nay, hệ thống văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc cung cấp, sử dụng thông tin trên internet đã được bổ sung, hoàn thiện đáng kể song còn chưa đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể để phân định rõ ràng, chính xác các hành vi vi phạm pháp luật. Việc xây dựng quy định, chính sách chưa theo kịp sự phát triển.

Vấn đề khó khăn trong việc áp dụng chính sách, pháp luật là do tính chất không biên giới của internet. Một hành vi trên internet có thể vi phạm pháp luật của một nước, nhưng lại là được phép ở một quốc gia khác, vì vậy việc xử lý vi phạm, yêu cầu gỡ bỏ thông tin sai trái trên môi trường mạng cũng bị giới hạn, chỉ có tác dụng nhất định khi người vi phạm, hành vi vi phạm xảy ra ở quốc gia đó.

Thứ hai là, năng lực quản lý nhà nước chưa theo kịp sự phát triển. Việc tổ chức thu thập thông tin, phát hiện thông tin sai phạm là công việc quan trọng đầu tiên để xác định các nội dung thông tin xấu trên internet cần xử lý. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, công việc này còn nhiều hạn chế do đội ngũ cán bộ quản lý thông tin trên internet từ Trung ương đến địa phương còn thiếu về số lượng và yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc lưu trữ phân tích, đánh giá thông tin sai phạm còn nhiều hạn chế. Chưa có cơ chế khuyến khích, phát huy sự phát hiện của cộng đồng mạng và người sử dụng dù đây là kênh quan trọng nhằm phát hiện kịp thời và hiệu quả các sai phạm. Bên cạnh đó, cơ chế thẩm định, kết luận nội dung thông tin sai phạm còn cứng nhắc, chưa linh hoạt; công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm tuy đã được tăng cường nhưng năng lực bộ máy thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm còn hạn chế, thiếu về số lượng thanh tra chuyên ngành; năng lực kỹ thuật xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm từ các máy chủ đặt tại nước ngoài còn nhiều bất cập. Chế tài xử lý chưa đủ mạnh, chưa đạt được hiệu quả răn đe cần thiết. Hơn nữa, ý thức phối hợp của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy cập internet trong việc xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm chưa cao; chế tài bắt buộc phối hợp chưa đủ mạnh. Điều đó càng làm giảm hiệu quả ngăn chặn thông tin sai phạm từ nước ngoài.

Thứ ba là, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung trên internet trong nước và nước ngoài có môi trường pháp lý không bình đẳng. Các doanh nghiệp trong nước chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của luật pháp Việt Nam, trong khi đó các doanh nghiệp của nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam bị điều chỉnh hạn chế. Điều đó vô hình chung đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài, làm cho dịch vụ nước ngoài trở nên hấp dẫn hơn, có lợi thế cạnh tranh lớn hơn và ngày càng thu hút nhiều người dùng Việt Nam, nhất là dịch vụ mạng xã hội, dịch vụ tìm kiếm, giải trí điện tử trên mạng. Điều đó gây khó khăn cho công tác nắm bắt thông tin người sử dụng, khó khăn cho việc định hướng dư luận thông qua các nhà cung cấp dịch vụ.

Thứ tư là, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức người dùng internet chưa cao. Công tác tuyên truyền về pháp luật chưa đạt hiệu quả cao do thông tin còn dản trải, nguồn lực cho tổ chức thông tin tuyên truyền còn hạn chế, chưa có sự vào cuộc đồng loạt của các phương tiện truyền thông; hình thức truyền thông chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa phù hợp với từng lứa tuổi, nhất là tầng lớp thanh, thiếu niên.

Hệ thống các giải pháp

Do tính mở của công nghệ, tính hai mặt của thông tin trên internet và do nhu cầu tất yếu sử dụng dịch vụ và nội dung thông tin trên internet, các giải pháp quản lý phải hướng tới việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của internet. Vì vậy, chính sách quản lý phải là sự kết hợp đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, bao gồm cả giải pháp hành chính, giải pháp kỹ thuật và giải pháp tuyên truyền giáo dục, trong đó tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của người sử dụng internet là giải pháp thường xuyên, liên tục, lâu dài và đóng vai trò chủ đạo để người dùng internet từng bước thích ứng một cách tích cực với môi trường mạng, biết sàng lọc thông tin xấu, tiếp nhận thông tin hữu ích. Các nhóm giải pháp chủ yếu bao gồm:

Một là, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và bình đẳng cho mọi đơn vị, cá nhân cung cấp và sử dụng thông tin internet trên lãnh thổ Việt Nam. Rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả các văn bản hiện có phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Xây dựng các văn bản mới phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Nghiên cứu đề xuất, đàm phán các cơ chế phối hợp giữa các quốc gia trong việc quản lý các dịch vụ thông tin xuyên biên giới phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu hội nhập.

Hai là, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam, tạo ra nhiều dịch vụ hấp dẫn, lành mạnh về thông tin và giải trí để thu hút người sử dụng trong nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của thông tin xấu. Do môi trường pháp lý không bình đẳng về quản lý nội dung thông tin trên internet giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, dịch vụ internet của các doanh nghiệp Việt Nam không thu hút được người dùng Việt Nam như dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, cần có cơ chế đặc thù khuyến khích phát triển một số dịch vụ internet quan trọng để thu hút người dùng Việt Nam; tập trung phát triển các dịch vụ quan trọng nhất như mạng xã hội, công cụ tìm kiếm và các dịch vụ giải trí trực tuyến.

Ba là, nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về tổ chức, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại bảo đảm triển khai có hiệu quả các biện pháp quản lý về cả hành chính và kỹ thuật để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các sai phạm theo pháp luật. Đối với các thông tin sai phạm từ nước ngoài, do không điều chỉnh được bằng luật pháp Việt Nam, vì vậy biện pháp kỹ thuật trở thành chủ đạo và cơ bản nhất để hạn chế những thông tin sai phạm từ nước ngoài. Cần khẳng định, biện pháp ngăn chặn kỹ thuật cũng chỉ có hiệu quả nhất định, không giải quyết được triệt để thông tin sai phạm từ nước ngoài. Tuy nhiên, đây là biện pháp duy nhất mà ta có thể chủ động tiến hành, đồng thời nó cũng có ý nghĩa răn đe tốt khi cần công khai xử lý những trường hợp đặc biệt.


Bốn là, tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng. Đây là nhóm giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài nhằm nâng cao dân trí một cách toàn diện. Nhóm giải pháp này đòi hỏi phải xây dựng một đề án thông tin riêng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, đời sống, trình độ nhận thức và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, bảo đảm tính đa dạng, hấp dẫn, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, kết hợp với truyền thông xã hội, với gia đình, nhà trường, các tổ chức đoàn thể nhằm hướng dẫn, nâng cao ý thức sử dụng thông tin trên internet của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ để tự mình sàng lọc những nội dung xấu, khai thác những thông tin phục vụ nhu cầu thông tin và giải trí lành mạnh.

Năm là, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng với các tổ chức, đoàn thể, giữa gia đình và nhà trường, giữa ý thức cá nhân với các phong trào mang tính cộng đồng, hướng tới một văn hóa internet lành mạnh, đóng góp ngày càng tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của toàn xã hội./.



Đỗ Quý Doãn

Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sản xuất vaccine nhiều nhất trên thế giới




Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhận Giấy chứng nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế từ đại điện WHO. Ảnh: vov.vn

Trưởng đoàn chuyên gia WHO khẳng định: trong 20-30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sản xuất vaccine nhiều nhất trên thế giới”.

Bộ Y tế Việt Nam long trọng tổ chức “Lễ công nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế của Tổ chức Y tế thế giới” vào chiều tối 22-6 tại Hà Nội.

Việt Nam tự sản xuất được 10/12 loại vaccine

Như vậy, sau 14 năm chuẩn bị, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 39 được WHO công nhận đạt tiêu chuẩn cơ quan quản lý quốc gia về vaccine trong tổng số 43 nước có sản xuất vacine trên thế giới.

Tại buổi lễ công nhận, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam nhấn mạnh: “Chúng ta rất tự hào, nếu các bạn nhìn thấy, phần lớn những chỉ tiêu đánh giá của các tổ chức thế giới về các mặt kinh tế, xã hội của Việt Nam thường đứng từ 70-90 trong các nước, việc Việt Nam là 1 trong số 39 quốc gia được công nhận đạt tiêu chuẩn NRA hết sức có ý nghĩa. Nó không chỉ thể hiện sự làm việc nghiêm túc của cả hệ thống quản lý của ngành Y tế mà còn là công sức của rất nhiều nhà khoa học, những kết quả đã được thể hiện qua việc chúng ta tự sản xuất được 10/12 loại vaccine trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Đó là: lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván, sởi, viêm gan B, viêm gan A, viêm não Nhật Bản B, tả, thương hàn, tiêu chảy”.

Việc được WHO đánh giá và công nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine (NRA) đạt tiêu chuẩn quốc tế là thành tựu đáng tự hào của Bộ Y tế Việt Nam. Để đạt được thành tựu này, Việt Nam đã chuẩn bị một thời gian dài rất kỹ lưỡng, và bắt đầu tăng tốc cách đây gần 2 năm. Hơn 1 năm qua, Bộ Y tế đã mời 30 chuyên gia của WHO và các tổ chức quốc tế đến Việt Nam hỗ trợ cho việc nâng cao năng lực của cơ quan quản lý quốc gia về vaccine để đạt tiêu chuẩn quan trọng này. Để bảo đảm các sản phẩm vaccine có chất lượng và an toàn, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các nội dung theo bộ công cụ tiêu chuẩn đánh giá năng lực của cơ quan quản lý quốc gia về vaccine của WHO.

Các tiêu chí trong bộ công cụ nhằm hướng dẫn các quốc gia tự đánh giá về việc thực hiện các chức năng quản lý để hướng tới mục tiêu cao nhất là vaccine sản xuất ra bảo đảm an toàn, chất lượng theo tiêu chuẩn thống nhất của quốc tế.


Mở ra cánh cửa xuất khẩu vaccine “Made in Việt Nam”

Vaccine là vũ khí hữu hiệu bảo vệ con người trước các dịch bệnh nguy hiểm. Trung bình mỗi năm thế giới có khoảng 3 triệu người được cứu sống nhờ được tiêm chủng. Vaccine là loại dược phẩm đặc biệt góp phần rất lớn vào việc đẩy lùi bệnh tật và giảm tỷ lệ tử vong cho con người, giảm chi phí chăm sóc y tế, nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Trong những năm qua, Việt Nam đã không ngừng triển khai hoàn thiện hệ thống tiêm chủng quốc gia, nhằm ngăn ngừa những bệnh dịch nguy hiểm. Theo thống kê của Bộ Y tế, hiện nay đã có gần 30 bệnh truyền nhiễm có thể dự phòng được bằng vaccine.

Với việc đạt chứng nhận NRA, Việt Nam đang đứng trước một cơ hội rất lớn để phát triển ngành công nghiệp vaccine. Thay vì chỉ phục vụ thị trường nội địa mà chủ yếu là khoảng 1,7 triệu trẻ em mới sinh hàng năm, nay các nhà sản xuất vaccine trong nước có cơ hội nâng cao năng lực, sản xuất vaccine để xuất khẩu sản phẩm đi khắp thế giới, đặc biệt cho các chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia cần nguồn vaccine giá thành phải chăng và bảo đảm chất lượng, độ an toàn. Đồng thời, với thành tựu này, các nước cũng sẽ quan tâm hơn đến đầu tư sản xuất vaccine tại Việt Nam. Bởi vì, một trong các điều kiện tiên quyết để xuất khẩu vaccine là không chỉ nhà máy đạt chuẩn, mà hệ thống quản lý quốc gia về vaccine cũng phải đạt theo tiêu chuẩn của WHO.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến khẳng định: “Đây được coi là bước tiến quan trọng của Bộ Y tế Việt Nam, mở ra cánh cửa xuất khẩu vaccine “Made in Việt Nam” ra thế giới, góp phần cung cấp vaccine phòng, chống dịch bệnh cho khu vực và thế giới”.

Ông Lahouari Belgharbi, Trưởng đoàn chuyên gia WHO khẳng định: “Đến thời điểm này, Việt Nam là 1 trong 39 quốc gia trên thế giới được công nhận NRA đạt theo tiêu chuẩn của WHO, chuẩn mực quốc tế. Với năng lực của Việt Nam về hệ thống quản lý chất lượng vaccine, đội ngũ nhà khoa học cùng với chiến lược đầu tư, phát triển phù hợp, trong 20-30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sản xuất vaccine nhiều nhất trên thế giới”.

Theo ông Lahouari Belgharbi, sau khi NRA đạt chuẩn của WHO, vaccine sản xuất tại Việt Nam có đủ điều kiện để tiền thẩm định trước khi xuất khẩu. Tới đây, WHO sẽ mời chuyên gia Việt Nam tham gia đoàn đánh giá năng lực của hệ thống quản lý quốc gia về vaccine của một số quốc gia như: Nga, Australia.

Việt Nam có hy vọng phát triển ngành công nghiệp vaccine

Với việc đạt NRA, Việt Nam là một trong số 39 quốc gia sản xuất vaccine có đủ điều kiện xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam có 4 nhà máy sản xuất vaccine với trang thiết bị, dây chuyền và công nghệ hiện đại đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất của WHO. Việc sử dụng vaccine sản xuất ở Việt Nam trong chương trình tiêm chủng mở rộng đã và đang tiết kiệm cho nhà nước hàng nghìn tỷ đồng do không phải nhập khẩu vaccine. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất vaccine của Việt Nam đã cung cấp nhu cầu trong nước và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Đến nay, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu được 1 số loại vaccine như: viêm não Nhật Bản, sởi, viêm gan A, viêm gan B và tả…

Nói về cơ hội mới của ngành sản xuất vaccine của Việt Nam, TS. Trương Quốc Cường, Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế), trong bản báo cáo của đoàn đánh giá WHO đã nhận định, Việt Nam có tiềm năng sản xuất vaccine rất lớn. WHO xếp Việt Nam vào 1 trong 25 quốc gia sản xuất vaccine chiếm 90% doanh số của toàn cầu, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, sản xuất vaccine đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Được coi là ngành công nghiệp có giá trị thặng dư cao, công nghiệp sản xuất vaccine đem lại doanh thu lớn cho các quốc gia phát triển mạnh ngành này. Theo một báo cáo của tác giả Alison (đăng trên tạp chí của Cục Quản lý dược, Bộ Y tế - PV), 10 năm trước (năm 2002), thị trường vaccine toàn cầu đạt 5,7 tỷ USD/1 năm, đến năm 2012 đã tăng lên 27 tỷ USD, dự kiến tốc độ tăng trung bình đến năm 2015 là 10,3%, trong đó doanh số một số loại vaccine đứng trong top 10 là vaccine PENTACT - HIB của Công ty Sanofi với doanh số 1,3 tỷ USD/năm; Pediarix (ngừa bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm gan B, bại liệt) của công ty GSK là trên 1 tỷ USD/năm; vaccine ngừa viêm gan A, viêm gan B của GSK là 1 tỷ USD…




Trong các ngày từ 13-4 đến 17-4-2015, Đoàn chuyên gia độc lập của Tổ chức Y tế thế giới gồm 16 thành viên đến từ 12 quốc gia trên thế giới đã tiến hành đánh giá chính thức chức năng hệ thống quản lý quốc gia về vaccine tại Việt Nam với kết quả đánh giá tất cả các chức năng đạt trên 90%; trong đó có những chức năng đạt 100%./.

Theo: vov.vn