Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

Bản Chất của Quyền Lực: Nền Tảng của Định Chế







Ngày 15- Tháng 6 -2015 là ngày kỷ niệm 800 năm bản văn kiện "nổi tiếng" hiện đang là nền tảng của bản hiến pháp bất thành văn của Anh Quốc. Văn kiện này được ký kết vào năm 1215, giữa đội ngũ võ trang quyền lực của các lãnh chúa và vua Anh quốc King John - giới lãnh chúa dùng áp lực quân sự buộc Vua Anh phải ký kết tuân thủ một bản "luật" qui định quyền hành giữa Vua và các Lãnh Chúa về "nền tự do cá nhân" dĩ nhiên chỉ là đặc quyền của các giới lãnh chúa quí tộc và giáo sĩ Kito giáo bấy giờ.

Qua năm tháng nó tiến triển mở rộng không chỉ là quyền của các giới quyền hành quí tộc tăng lũ giáo hội mà thành quyền phổ quát đến tất cả mọi cá nhân con người: trở thành nền tự do cá nhân của mọi người trong xã hội Anh quốc. Từ thế kỷ 17 nó mở ra cánh cửa cho một hình thức "quốc hội" ra đời. Và sau đó những người Anh bỏ Anh quốc để đến thuộc địa Mỹ đã dùng nó để hình thành nền dân chủ gián tiếp với quốc hội đại biều tại xứ này trong nền tảng một bản hiến pháp thành văn và 10 điều tu chính DÂN QUYỀN qui định rõ ràng nền DÂN QUYỀN và TỰ DO CÁ NHÂN của CÔNG DÂN đối trọng quyền lực Nhà Nước (Bill of Rights). Thật là một "truyện tình"!

Ông Paul Craig Roberts đã cảm kích viết một bài nhận định ghi dấu sự kiện lịch sử này như một thành quả lớn. Nhưng mỉa mai một cách cay đắng, phần lớn ông nhấn mạnh hiện trạng chính Anh và Mỹ,cả nhà nước lẫn đa số quần chúng, đều đang dẫm lên "thành quả 800 năm" này. Nghĩa là càng ngày càng chẳng coi Hiến pháp ra cái gì nữa.

Ông Paul Craig Roberts, một cựu đảng viên bảo thủ Cộng Hòa, không chỉ là khoa bảng sư phạm, nhà báo mà từng giữ chức vụ cao cấp đặc biệt về chính sách kinh tế quốc gia của Mỹ, trong bài "điếu văn 800 năm" cho bản Magna Carta này đã giận giữ nói đến những tội phạm và tội ác của hai nhà nước "được đặt dưới nền luật trị hiến định" của Magna Carta trong suốt mấy trăm năm qua. Nhất là cái chủ nghĩa tư bản của hai xứ sở này.

Một cách gián tiếp ông Paul Craig Roberts đã thừa nhận tính "vô hiệu lực, vô tác dụng" của văn bản Magna Carta cũng như cái bản Hiến pháp của Mỹ trước sự vi phạm coi thường bạo ngược ngang nhiên của nhà nước và hệ thống chủ nghĩa tư bản của hai nhà nước Anh Mỹ.

Tại sao bản Magna Carta và Hiến Pháp Mỹ vô hiệu lực với quyền chính mà nó được viết ra, theo định nghĩa, để giới hạn quyền nhà nước và bảo vệ dân quyền tự do cá nhân?

Đơn giản bởi nó được soạn ra để phân chia vị thế "chính quyền" và tập trung "quyền chính" vào định chế Nhà Nước, chứ không phải mục tiêu là trả lại CÁI QUYỀN TỰ DO TỰ CHỦ CÁ NHÂN về lại quần chúng, dĩ nhiên là với những mỹ từ văn hoa của bọn phù thủy luật gia (legalese). Các văn bản này thực chất là phục vụ đắc lực hơn cho giới quyền chính, vì nó chính đáng hóa quyền chính và vô hiệu hóa quyền đối kháng của NGƯỜI DÂN bằng "luật" và pháp quyền của nhà nước chính phủ qua hàng trăm ngàn điều luật chi tiết qui định chi phối từng hành xử của mỗi một người dân (sinh, tử, y tế, giáo dục thực phẩm, cư trú, xây nhà, giao thông, quan hệ hôn nhân, nuôi con, dạy con, hành nghề, nhà cửa, đi xe nói chuyên v.v)...Điều mà Lão Tử Đạo đức Kinh gọi nôm na mất tự do công lý " rồi mới đặt ra hiến luật... để "chính đáng hóa cái " mất tự do đó". NHỮNG THỨ RÀNG BUỘC CAI TRỊ mà người dân được nhồi nhét qua tín lý Nhà nước để "tự nguyện" tuân thủ thành "bổ phận công dân- thượng tôn pháp luật, và mặc nhiên trao cho thiểu số gọi là chính phủ nhà nước cái quyền...trấn áp chính bản thân họ!

Rõ ràng mầm mống quyền lực một khi đã được định chế hóa, định chế trở thành nền tảng sinh tồn của quyền lực. Quyền lực tự bản chất băng hoại (power corrupts) và khi nó được chính đáng hóa qua định chế, dù dân chủ hay không dân chủ, nó băng hoại tận cùng. Bởi cái tính tuyệt đối của nó được chính đáng hóa bằng chủ nghĩa nhà nước trên hết mà dân chúng mặc nhiên tôn thờ như một hệ thống tín lý, chứ không cần một ông Vua độc đoán. TỰ NGƯỜI DÂN bị lừa dối để TỰ NGUYỆN BỊ CAI TRỊ . Mà nền pháp quyền nhà nước trở thành độc đoán qua bàn tay của chính phủ (government) nhân danh nhà nước (the State) bảo vệ dân (the People) qua giao ước xã hội (social contract). Cả một cuộc gian trá đầy ngoạn mục!

Ông Paul Craig Roberts và rất nhiều người trân trọng Hiến Pháp và vẫn phẫn nộ trước những hành động của các nhà nước coi thường Hiến pháp chà đạp nhân quyền dân quyền như chúng ta đang thấy... Nhưng không chất vấn tại sao lại xảy ra như vậy, nếu Hiến pháp thật sự là quyền năng hiệu lực? Nghĩa là không đặt câu hỏi tại sao nhà nước lại có khả năng tùy nghi tôn trọng hiến pháp theo tính tùy tiện quyền lực của nó? tại sao người dân, theo định nghĩa là chủ thể, lại không có cái khả năng này, và hoàn toàn bị động theo sự tùy nghi diển giải và hành xử của chính phủ nhà nước?

Trên khắp thế giới có nhà nước chính phủ nào là không vi phạm hiến pháp? Không một nơi nào tôn trọng hiến pháp của nó. Ngoại trừ Thụy Sĩ là CHƯA VI PHẠM, hay nói cho đúng là Nó, Nhà nước chưa cần vi phạm, chứ không phải KHÔNG THỀ VI PHẠM, nhưng đang có khả năng vi phạm. Khi quyền chính còn đó trong định chế nhà nước còn đó và vẫn còn được công nhận, nó chỉ cần một biến động để tuyên bố pháp quyền tuyệt đối của nó.

Tại chính bản "hiến pháp hiến luật" đó, chính là những ràng buộc người dân vào tín lý nhà nước và rồi mặc nhiên tự nguyện tuân thủ tuyệt đối định chế quyền lực dưới sự phán quyết tùy nghi của (định chế chính phủ tam quyền) như là "bổn phận công dân thượng tôn pháp luật (law-abiding citizen) với nỗi đe dọa, nỗi sợ từ Nhà nước: Tịch Biên Tài Sản, Tù Tội, Tử Hình. Ngược lại đinh chế nhà nước bất tử và bất khả gia hình, (người dân có thể là tội đồ trước pháp luật, nhưng chính phủ nhà nước không bao giờ dù là luôn vi phạm pháp luật và tội ác) nhưng mặc nhiên có quyền hành bắt bớ xét xử gia tội quần chúng tùy tiện dân chúng- đúng cũng như sai. Nói ngắn gọn lại, như cảnh sát quân đội có quyền đánh bắn giết "nhầm" dân, nhưng dân không được quyền cưỡng chống hay bắn trả "nhầm". Nhà nước chính phủ có quyền làm sai phạm pháp rồi xin lỗi, nhưng dân chúng không có quyền làm sai phạm pháp rồi ...xin lỗi! Nghĩa là BẠO LỰC ĐƯỢC CHÍNH ĐÁNG HÓA trong tình trạng vùa TẬP TRUNG TRONG TAY THIỂU SỐ vùa MỘT CHIỀU, nghĩa là TUYỆT ĐỐI.

Không một văn bản nào có thể điều khiển ngăn cản được quyền lực khi nó đã dược mặc nhiên chính đáng hóa tập trung một chiều vào một nhóm thiểu số. Chỉ có tháo gỡ nó. Trả quyền lực tự chủ về mỗi cá nhân trong nguyên lý phi quyền chính. Nghĩa là nguyên lý phi quyền lực.

Trong xã hội phi quyền chính, thì giả thiết ngay cả khi có áp chế quyền lực xảy ra, thì nó cũng cân bằng vì nó ở trong tình trạng hai chiều đối trọng, mỗi cá nhân (hay nhóm) bình đẳng trong cái quyền TỰ VỆ CHỐNG TRẢ- không một ai, hay nhóm nào, bị tước đi cái quyền, khả năng tự vệ đáp trả- hay ở thế thượng phong áp đảo tuyệt đối người khác chỉ vì được "pháp quyền nhà nước" bảo vệ hoặc có "pháp quyền" trong tay! Bất công bạo ngược áp chế đã được chính đáng hóa bởi "luật nhà nước pháp quyền" này.(thí dụ, nó đã từng và đang hủy diệt áp chế biết bao nhiêu cuộc đời những con người đồng tính)

Lịch sử quyền chính của nhân loại, từ hình thái quân quyền phong kiến, độc tài cá nhân cho đến pháp quyền dân chủ với định chế nhà nước ... chưa bao giờ văn bản Hiến pháp hay Hiến luật nào được nhà nước chính phủ tôn trọng và tuân thủ..Ngày nào còn mơ tưởng một nhà nước hiến luật ngày ấy quyền chính còn tồn tại và bạo lực bất công chiến tranh còn xảy ra. Từ Khổng Tử, Plato cho đến các tất cả nhà tư tưởng chính trị chủ trương theo định chế nhà nước (statism) cho đến hiện tại đã bị chính những hành xử pháp quyền của định chế nhà nước minh chứng họ đã sai lầm- sai lầm qua từng thời kỳ cho đến hiện đại hôm nay.

Đã đến lúc phải thực hành một mô thức (paradigm) mới, hay thật ra rất cũ, phi quyền chính. Hay nói rõ ràng và đơn giản, chỉ cần tháo gỡ cái QUYỀN CHÍNH hiện tại đang hoành hành. Hay nói cách khác mọi người đồng thuận không công nhận cái QUYỀN CHÍNH của hệ thống nhà nước nữa và khởi đầu hành xử với nhau trên NGUYÊN LÝ tự do tự nguyện bình đẳng không cưỡng chế, là bước đầu không thể thiếu để giải quyết được vấn đề.

NKPTC

NGẮM NGHỆ THUẬT NUDE VIỆT ĐỂ TRONG SÁNG HƠN


 


( nGUỒN: INTERNET)

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

“Ám ảnh” giang hồ trong làng báo









Tác giả: Như Thổ


Gọi là nỗi “ám ảnh”, hay gọi là “nỗi nhục” cũng không ngoa. Chưa bao giờ mà làng báo lại “run rẩy” vì giang hồ như thế. Đơn giản là đã có kẻ giang hồ chui được vào làng báo và có cả những cơ quan báo chí sử dụng chúng làm phóng viên. Cứ có chuyện xảy ra là những người làm báo chân chính lại yếu thế, “xẹp lép như con tép”.

Một thực trạng buồn không ai muốn nói ra khi ngày 21-6 đang tới gần.


Trước đây, dân giang hồ Sài Gòn vẫn đồn câu chuyện Năm Cam mỗi buổi sáng vẫn xách giày ra công viên chạy bộ, chỉ đơn giản là để lân la, làm quen được với mấy nhà báo cũng hay tập thể dục ở đây. Rồi buổi ăn nhậu nào mà Năm Cam mời được 1, 2 anh nhà báo ra uống vài chén rượu thì ông trùm lấy làm hãnh diện và lên mặt với đàn em lắm…



Còn bây giờ thì chỉ vài tay dân chơi “oi khói” ở Hà Nội cũng đã có thể “vặt lông” hẳn một ông nhà báo không thương tiếc. Nguy hiểm hơn, trong hàng ngũ làm báo lại có những người có máu anh chị và có quan hệ mật thiết với dân giang hồ. Những người này đã vô tình “hạ giá” tư cách của những người cầm bút.

“Doanh nghiệp đó là của tao, mày tránh ra cho xa”.

đã được trình báo lên cơ quan công an và cảnh sát hình sự đang được giao trực tiếp thụ lý vụ việc.



Chưa bao giờ làng báo lại “run rẩy” trước giang hồ như thời điểm này, (Ảnh minh họa).

Trao đổi với Báo Năng lượng Mới – PetroTimes, Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung – Giám đốc Công an Hà Nội cho biết sẽ chỉ đạo xử lý nghiêm vụ việc vì đây không phải là lần đầu tiên tay phóng viên anh chị này gọi côn đồ “xử” đồng nghiệp.

Thượng tá Võ Hồng Phương – Trưởng Công an quận Đống Đa cũng cho biết đã triệu tập tay phóng viên côn đồ này và đây không phải lần đầu tiên cơ quan công an làm việc với gã.

Điều đáng thất vọng là phóng viên bị đánh cũng đã không dũng cảm, không chịu nổi áp lực, đã rút đơn tố cáo và tự “đầu hàng” trong việc bảo vệ chính mình. Tuy nhiên, cơ quan công an cũng có thể căn cứ vào hành vi và mức độ vụ việc để chủ động xử lý.

Buồn hơn là ông “sếp” của tay phóng viên có lối hành xử giang hồ kia, biết nhân viên của mình côn đồ, làm bậy nhưng cũng không xử lý gì, tệ hơn còn đứng ra dàn xếp, xin xỏ các báo không đăng bài. Rồi còn ngỏ ý để 2 bên dàn hòa mà không đưa vụ việc ra pháp luật.

Như vậy là lòi ra: Không chỉ có chuyện côn đồ đội lốt phóng viên mà còn có cả chuyện tổng biên tập để cho kẻ có máu giang hồ hoạt động trong cơ quan báo chí. Rồi lại có cả ông tổng biên tập cũng “gan thỏ đế”, nhắm mắt không dám bảo vệ quyền lợi của anh em làm báo chân chính.

Kể như vậy để biết: Nói giang hồ ám ảnh làng báo cũng không ngoa.

Nhà báo, vốn được kỳ vọng là đại diện cho cái tốt, cái đúng, đại điện cho sự thật và đứng về những người yếu thế cần bảo vệ. Nhưng trong làng báo hiện nay, đến cái thân mình, nhà báo còn không tự bảo vệ được thì còn nói gì đến chuyện bảo vệ ai?

Nguyên nhân của việc này là do làng báo tự làm yếu mình bằng việc dung nạp những người mà nghề ngỗng đâu chưa thấy, nhưng đã sớm có lối hành xử kiểu chợ búa, côn đồ.

Thế mới có chuyện nhà báo bảo kê doanh nghiệp sai phạm, bảo kê công trình xây dựng sai phép, bảo kê buôn lậu…

Thực trạng phóng viên dọa dẫm, “bóp nặn” doanh nghiệp đã được nói đến rất nhiều. Trong thời gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã thẳng tay xử lý rất kiên quyết đối với những tờ báo, phóng viên có việc làm sai, có trường hợp phải chuyển sang cơ quan pháp luật xử lý. Tuy nhiên, thực trạng này xem ra vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm.

Và hệ lụy là nó lan sang cả cách hành xử của những người làm báo với nhau.

Trên hết trong vấn đề này, trách nhiệm thuộc về các ông Tổng biên tập. Người đứng đầu cơ quan báo chí đã dễ dãi trong khâu tuyển dụng, lơ là trong quản lý phóng viên để các đối tượng có lối hành xử côn đồ có đất sống.

Điều này dẫn đến việc làng báo tự làm yếu, tự vấy bẩn nghề nghiệp vốn cao quý của mình.

———-

http://petrotimes.vn/news/vn/dam-luan-doi-thoai/am-anh-giang-ho-trong-lang-bao.html

Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?


Có một ngôi chùa, nhân vì thờ một xâu chuỗi Phật Tổ từng đeo mà nổi tiếng.
Nơi thờ phụng sợi chuỗi chỉ có thầy trụ trì và 7 đệ tử biết.


Ảnh chỉ mang tính minh họa. Nguồn: Trên mạng

7 người đệ tử đều rất có ngộ tính, thầy trụ trì cảm thấy tương lai đem y bát truyền cho bất kỳ người nào trong bọn họ, đều có thể làm rạng rỡ Phật Pháp. Không ngờ, xâu chuỗi đột nhiên biến mất.



Thầy trụ trì bèn hỏi 7 đệ tử: “Các ngươi ai đã lấy xâu chuỗi, chỉ cần trả về vị trí cũ, ta sẽ không truy cứu, Phật tổ cũng không trách tội.” Các đệ tử đều lắc đầu.

7 ngày trôi qua, xâu chuỗi vẫn không được trả về. Thầy trụ trì lại nói: ”Chỉ cần ai đó thừa nhận, xâu chuỗi sẽ thuộc về người đó.“ Lại trải qua 7 ngày, vẫn không ai thừa nhận.

Thầy trụ trì rất thất vọng: “Ngày mai các người hãy rời khỏi chùa xuống núi hết đi, riêng kẻ đã lấy xâu chuỗi ta cho phép ở lại đây.“
Qua ngày hôm sau, 6 đệ tử thu dọn xong hành lý, thở nhẹ một hơi dài, nhẹ nhàng ra đi. Chỉ có một người ở lại.
Thầy trụ trì hỏi đệ tử ở lại :
– Xâu chuỗi đâu ?
– Con không lấy.
– Vậy tại sao chịu mang lấy tiếng trộm cắp?
– Mấy ngày nay các huynh đệ đều nghi ngờ lẫn nhau, nếu có người đứng ra, mới giải thoát cho chuyện này.
Lại nói:
– Xâu chuỗi tuy mất , Phật vẫn còn đây.
Thầy trụ trì cười, lấy xâu chuỗi từ tay áo mình ra, đeo vào tay người đệ tử.

Đây là câu chuyện làm tôi cảm ngộ rất lâu.
Không phải mọi việc đều cần nói rõ ràng, cái quan trọng hơn nói rõ ràng đó là: có thể gánh vác, có thể hành động, có thể hóa giải, có thể sắp xếp, có thể thay đổi, nghĩ về mình, càng phải nghĩ cho người khác, đây chính là Phật pháp.

Người hiểu bạn, không cần phải giải thích,

Người không hiểu bạn, giải thích cũng vô ích.

Đây không chỉ là một loại cảnh giới, mà hơn hết là một loại đại trí huệ.

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Tiếng ta lang thang



Trần Chiến


Ngôn ngữ chứng tỏ gốc văn hóa của một dân tộc, xem nó dày mỏng đến đâu, “ăn cóp” cái gì của nước người. Căn cứ vào câu này mà nhìn tiếng Việt ta thì phải rất tự ty. Nam Giao Học Tổ là một ông Trung Hoa, có dễ trước khi Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang thì sử chỉ là huyền thoại, truyền thuyết truyền mồm nhau, ông kể khác cụ, truyền từ bố sang con đã thất bản lắm rồi. Có chữ, tức chữ Hán, sau lại có đạo, tức đạo Khổng đạo Phật đạo Lão, mọi thứ được “chỉnh đốn”. Sự học mới cho phép mở ra khoa thi, chọn người tài nói năng, nghĩ ngợi lắm lúc hệt những khuôn mẫu trong sách vở Bắc quốc.


Dường như phải ở cạnh một Trung Hoa lắm tham vọng mà nảy nở ra những phản ứng (?) tự tôn, hoặc một nhu cầu tự vệ văn hóa. Chữ Nôm được hình thành, rồi chính thức khai sinh, có thể trở thành một “biểu tượng dân tộc” nhưng dường như chưa đủ tầm để thế chữ Hán. “Dòng” Hán Nôm vì thế ra đời chăng?

Kể ngần nấy ra thì thấy tự ty, không mạnh miệng dân mình có gốc rễ ngôn ngữ sâu xa. Nhất là khi xem phim Tây du Trung Quốc làm, thấy Tôn Ngộ Không cứ “sư phò” mà réo Đường Tăng; từ đấy mà sang “sư phụ” có một téo.

Nhưng rồi ta lại có chữ “tiếp biến văn hóa” nó hỗ trợ, chống lưng cho. Lấy này kia trong văn hóa của người thành của mình thì có gì phải xí hổ, nhất là khi “phát huy” chúng lên thành những điểm mạnh còn hơn cả ở đất gốc. Sự nhào trộn cả tam giáo được gọi rất khéo là “đồng nguyên”, “phối kết hợp” với đạo Mẫu thuần bản địa vẫn cho ra tâm hồn dân tộc đấy thôi. Kíp khi ông nhà văn Mác – két “tung” ra khái niệm “văn hóa lai” thì mọi thứ ổn cả. Cả châu Mỹ hợp phối văn hóa da đỏ với những “thức”của châu Âu, do các chị trốn tù anh đào vàng lão quý tộc thất sủng đem sang, chả sống khỏe đây thây, việc gì mà ta xét nét mình quá nó mất cả hồn nhiên đi.

Trên đây là chút chút mào đầu “ný nuận” cho sự kể tiếng ta trôi thế nào. Và cũng chỉ kể những gì được những cái người chứng kiến kể lại thôi, xa xưa nữa đâu có tường…

*

Khoảng năm 1915 – 1917, những hoạt động khoa cử theo Nho giáo cuối cùng diễn ra. Giai đoạn phổ biến tiếng Pháp cho tầng lớp trên, sau đó là Quốc ngữ cho đại chúng bắt đầu. Quốc ngữ, trên một chừng mực, mang theo tinh thần dân tộc, đ­ược cách mạng tận dụng triệt để trong công cuộc chống ngoại xâm, đã có sức sống mạnh mẽ. Vả chăng nó có những lợi thế rõ ràng để phổ cập: đánh vần đ­ược, âm thanh thì vẫn ta mà con chữ lại “gần gần” của ngư­ời Tây phương. Tức là học nó rất dễ, nâng cao dân trí, tuyên truyền cách mạng nhanh chóng. Trong thôn h­ương, bên cạnh những ông đồ lại có trí thức bình dân, trình độ cao hơn cộng đồng nh­ưng “ăn nói dễ hiểu, ít tầm chương trích cú”. Giáo sư­ Đặng Văn Ngữ kể chuyện khi trở về n­ước, thấy dân làng nọ phải đánh vần “a bờ cờ” đ­ược mới có thể đi qua trạm kiểm soát để vào chợ, ông đã run lên vì cảm động.

Tuy chả phải độc tôn, chủ yếu ở tầng lớp trên, tiếng Pháp vẫn là tấm “thông hành” để trở thành trí thức thượng lư­u hay chiếm vị trí quyền lực thực sự trong bộ máy cai trị (chỉ chữ Nho không thì nhiều khi chỉ có h­ư quyền). Chả thế mà có một tầng lớp làu thông cả Nho lẫn Pháp, như­ “Tứ hổ Tràng An” Quỳnh - Vĩnh - Tố – Tốn, không chỉ có thể phiên dịch mà còn t­ư duy đ­ược bằng hai ngữ ấy. Nhưng chữ Nho “đứt” dần. Văn hoá Pháp, lợi quyền làm quan quyến rũ lớp ng­ười trẻ. Ng­ười Việt, hình như­ không có âm “pờ”, bắt đầu làm quen với “pin” (pile), “pích” (pique), “poóc – ba – ga” (porte-bagages), “ping – pông” (pingpong), “pê – nan – ty” (penalty)... Người “có chữ” là phải biết đến chấm, phảy, xuống dòng, mệnh đề, khác hẳn mấy sinh đồ trẻ đố nhau đánh dấu một văn bản. Giới bình dân biết đến những “xà phòng”, “phi dê” đã Việt hóa, hát “Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô” rất thuần thục.

Giống như­ mọi xứ, sự tiếp biến ngôn ngữ ở ta cũng có sắc thái hài hư­ớc, tức là pha trộn theo nguyên tắc phải gây c­ười. Các cụ Nho – Tây làm thơ tứ tuyệt bằng âm “tây” rất đúng âm luật:

Đờ puy cờ giơ tơ cổn nét

Giuýt ki xì xít xết an nê

Ẳng tăng đồng xíp lê xà lúp

Tú xơ là xà cúp mông cơ

(Từ khi em biết anh đến nay đã sáu bẩy năm rồi, (giờ) nghe tiếng còi tầu thuỷ thét vang nh­ư xé tim em)

Đây chắc là “cõi lòng” của một “me” khi gã “quỷ hồng mao” “ngư­ợc” về trời tây. Có những câu khác, mang sắc thái chế giễu nhiều hơn, nhắc lời bồi ta tả con cua cho chủ tây: “Luý to cẩm manh, luý a uýt cẳng đơ càng, luý cắp đau chết cha, rô ti luý thơm cẩm nư­ớc hoa, măng giê luý bố cu bồng quên chết”, tức là “nó to bằng bàn tay, tám cẳng hai càng cắp đau chết cha, rán lên thơm như­ nư­ớc hoa, ăn ngon quên chết”. Lại có những “từ” đ­ược phiên sang âm Hán, chả biết nghiêm túc đến đâu, như­ gọi máy chữ là “cơ khí tự”, đánh máy chữ là “đả cơ khí tự”, ng­ười đánh máy là “đả cơ khí tự viên”.

Rồi đánh Pháp, tinh thần dân tộc, tinh thần giai cấp trên hết, tiếng Tây lắm lúc như­ hủi. Những đốc tờ thầy cãi theo kháng chiến gặp nhau nói tiếng Tây như ăn cắp, chỉ sợ bị đánh giá. Chiến dịch Biên giới nổ ra, cùng với những ảnh hư­ởng của Trung Quốc, âm Hán (bạch thoại?) hoặc trở lại hoặc tràn vào, nh­ư “phư­ơng vị” của pháo binh, “thổ cải” thời cải cách ruộng đất. Những “hoả xa”, “lý trình” của ngành giao thông còn mãi đến ngày nay.

Tiếng Nga có vị thế từ những năm sáu mư­ơi, l­ưu học sinh mang về, nhà trư­ờng cũng dậy. Văn hoá Nga làm thổn thức bao thế hệ, lính đánh Mỹ ra trận nhiều ng­ười trong ba lô có thơ tình Ôn – ga Béc – gôn. Như­ng quá khó, và việc dậy dỗ cũng tam khoanh tứ đốm, nó ch­ưa kịp mọc rễ đã bị tranh chỗ khi thời thế thay đổi. Phải nói là trong khoảng ba chục năm của thế kỷ trước, từ ’60 đến ’90, việc dậy ngoại ngữ trong tr­ường phổ thông, đại học ở Hà Nội tạo ra một lớp trí thức “kinh qua” cả Trung Nga Anh Pháp văn như­ng ngữ nào cũng ngọng. Chữ Hán thì hoàn toàn mù tịt rồi, thành thử vư­ơn ra thế giới hiện đại thì khó quá, mà quay về với quá khứ lại tắc tị. Nghĩa là nẻo vào các nền tri thức khác bít kín. “Tắm ao ta” nghìn phần trăm, tù đọng.

Tiếng Nga nay còn lại trong ng­ười vui tính, có lẽ là những “Tình hình xây chác (bây giờ) có gì nố vư­i (mới)?”, hay “I a tôi cũng tố gie”.

*

Vụt cái đã sang thời của tiếng Anh. Nói thế vì bao ng­ười “sôi Nga nấu Pháp”, thoắt cái thấy mình lạc hậu. Tài liệu, thông tin, môi trư­ờng làm ăn, giao tiếp..., đâu đâu cũng là “thằng” Ăng lê. Cách chuyển ngữ tạo ra những thắc mắc kiểu sao cái nhà cao lại gọi “tháp”, cái nhà thật to gọi “thành phố”… Thế kỉ XXI sập đến với những “com piu tơ”, “lép tóp”, mạng “gút gồ”, chả biết tiếng Anh thì “thôi rồi nghỉ cho khoẻ”. Những chuyên gia lành nghề phải nhả suất du học cho đứa trẻ ranh. Những bộ tr­ưởng về hư­u cố một học bổng Anh quốc. Những giáo viên tiếng Nga đang nuôi con nhỏ giằn lòng chuyển sang tiếng Anh. Không chỉ là chìa khoá mở vào tri thức, văn hoá, nó còn là phương tiện sinh nhai hay tiến thủ đến quyền lực.

Lại giống cách nay dăm bẩy chục năm, con đ­ường phổ biến tiếng Anh cũng có sắc thái hài hư­ớc. Học sinh, thanh niên, do nhu cầu học mà chơi, chơi mà học, “sáng tạo” ra những “giải pháp thông dịch” đánh đố nhau. Sugar you you go, sugar me me go tức là “đ­ường anh anh đi, đ­ường tôi tôi đi”. “Rùng rợn” hơn, I love toilet you go go là “tôi yêu cầu anh đi đi”. Nhả nhớt, nghịch ngợm, dư­ờng như­ là một phẩm chất không thể thiếu của sự tiếp biến văn hoá nghiêm túc.

*

Trôi giữa các dòng chẩy không thể nói là hiền hoà, tiếng Việt ta đã tiếp nhận, biến đổi thật nhanh. Sinh ngữ như­ một cơ thể hồn nhiên, chịu ảnh h­ưởng của thời thế - cái liên tục thay đổi. Và càng là đô thị thì thay đổi càng chóng mặt. Có cái cảm giác ngư­ời Việt tiếp nhận những ảnh h­ưởng ngôn ngữ rất hồn nhiên, và bộc lộ luôn sự tự ty về văn hoá. Thứ tiếng cổ, thuần khiết chỉ còn nơi những bà còng tỉ mẩn gà qué ở quê, cụ mà lên tỉnh khéo lắm khi thành ra đi nư­ớc ngoài. Lắm nhà văn, lắm ông nghiên cứu ngôn ngữ thích đôi hồi với các cụ là vì sợ tuột mất những nôm na, ph­ương ngữ...

“Trôi” về đâu, nh­ư thế nào, thì rất bộn bề, và nó dành cho nhà nghiên cứu. Trên ph­ương diện một nhà báo, ngư­ời viết cứ “dựng” tạm lên mấy xu h­ướng sau:

- Bình dân hoá. Cách nói, viết không cần chuẩn, cốt hiểu đư­ợc. Từ mới phát sinh theo những “quy luật” thật vui: “vấn nạn”, “cảnh báo”, “hơi bị hay”... Do tiếng Việt dậy trong trư­ờng phổ thông, thậm chí tr­ường báo chí khá nham nhở, nhiều tòa soạn dùng bài sử dụng từ sai, câu không đủ thành phần. Quy tắc viết hoa, phiên âm dường như­ không có. Nhiều hàng ăn, có lẽ nghĩ đến câu “ăn cơm Tàu”, dựng biển có chữ “quán” sau cùng, thậm chí cả “Dân tộc quán” dù cách ghép từ này chả hề dân tộc. Văn viết là vậy, văn nói – chủ yếu trên truyền hình – lại càng lơ lớ. Lơ lớ như­ng lại là thời thư­ợng.

-Quốc tế hoá. Thời tiếng Tây, ng­ười đô thị học nói “phi dê”, “gác đờ bu”, “sếp”. Sang thời nay, câu bị động sử dùng nhiều: “Nàng bị quấy rối tình dục bởi giám đốc”, “hội ăn thịt chó dẫn đầu bởi kẻ vừa trúng mánh...”. Chả biết đến một lúc ng­ười ta có nói “mắm tôm dậy mùi bởi chanh” không? “Đến từ” là một cách nói sành điệu thì vừa rối rắm lại rất đáng ngờ về sự chính xác. “A. xếp sau B. trong danh sách phá lưới với 3 bàn ít hơn” thật lơ lớ nhưng rất được ưa dùng. Sắc thái, tiếng vang trong âm nước ngoài thấy rõ trong những “xâu (show) diễn”, “đi toa lét”, “nâu (no) vấn đề”... Lối thoại cộc, ít từ phái sinh kiểu “à ư­ nhỉ nhé”, có lẽ ảnh h­ưởng từ văn hoá bình dân Mỹ đ­ược dùng nhiều. Và một điều không thể không lan đến tiếng ta là cách xư­ng hô dân chủ, ít tôn ty, chỉ dùng có vài đại từ nhân xư­ng của ng­ười Âu Mỹ. Có thể vì điều này mà những ngư­ời của công chúng, khi xuất hiện trước đám đông th­ường xư­ng tên, vừa giản tiện vừa không mất khiêm như­ờng. Cái cách xưng tên này cũng đư­ợc đã vài lão sáu mư­ơi sử dụng, đã sinh ra hiệu quả hài h­ước.

- Cá thể hoá. Những tập ng­ười khác nhau về tuổi tác, văn hoá, tầm mức kinh tế... có cách “lập ngôn” khác nhau rõ ràng. Rõ nhất là trong câu thoại, diễn ra trong cộng đồng của họ. Văng tục đa phần bị cho là thiếu văn hoá, nhưng nhiều ng­ười bảo không thể trộn nó với cách nói tục; “nói” khác với “văng”, có chọn lựa, để thể hiện một nội dung không có cách thể hiện khác. Báo “Ngư­ời cao tuổi” không “híc híc” như­ “Hoa học trò”, báo Đảng nghiêm trang, giọng giầu chính luận hơn báo đoàn thể. Cùng một báo, chuyên mục này luôn phải giữ tính định hư­ớng, giáo huấn, trong khi chuyên mục khác cứ phải bông phèng mới xong. Lứa 8X nói khác lứa 9X. Lại có loại “văn” chít chát, nhắn tin, tất nhiên lấy ngắn gọn làm đầu, tỉ như­ “j” là “gì”, “ko” là “không”, “k” là “nghìn (đồng)”. Có ng­ười đặt vấn đề về vai trò “văn mạng”, nhưng cho đến lúc này, những “tác phẩm” đ­a lên mạng mà đứng lại đư­ợc đều phải chỉn chu cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Còn đâu, do chả ai biên tập, chả phải chịu trách nhiệm nhiều lắm, đa phần mỏng manh tr­ước thử thách tr­ường tồn; nghĩa là giá trị chính của mạng vẫn là ở chỗ “ai đến ai đi cũng được”, nghĩa là còn lâu nó mới trèo được đến vị trí của “văn học giấy”.

*

Tiếng Việt dễ tiếp nhận các ảnh h­ưởng, và ngư­ời Việt cũng hồn nhiên giữa các tiếp biến. Vì thế, rất khó đoán các xu hư­ớng trên phát triển đến đâu. Như­ng chúng ở ngoài ta, ghét hay thích chúng cứ độc lập vận động. Sinh ngữ là vậy, luôn luôn mở, ngọ nguậy đón chào không nghỉ, cái vừa là mới đã có thể thay bằng cái khác. Có lẽ vì thế mà sách, tạp chí, nhất là báo (báo mạng thì “thôi rồi”) không ai có thể chuẩn hoá đư­ợc việc viết hoa, để nguyên hay phiên âm tiếng n­ước ngoài... Không ổn định tức là không định hình, thì chuẩn hóa thế nào, dù ai ai cứ gào lên mãi.

( Nguồn :VHNA)

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Đá vỡ





đêm nhẵn mặt nỗi buồn?
nỗi buồn nhẵn mặt đêm?
chết giấc trong một cơn say
tiếng gió vực đêm lên
gian nhà nồng sặc mùi rượu

chẳng nhớ nổi ranh giới
khi bình minh cũng mang dáng vóc của sóng
buổi chiều yên ắng bên sông
vô định...

người chụm ngày trên ấm chè xanh
chụm cơn khát trên mùi lá cỏ
khói vằn lên mắt đục
xương rồng chọi nắng thinh không

chẳng nhớ nổi ranh giới
khi bình yên dậm chân nên nỗi ngày đá vỡ
hiền dịu
u mê
giọng nói trăm năm khẩu hình ,mắt bét nhè

người đừng nhìn chim sẻ giật mình bay lên
đừng hát cứ để ngày trôi trên tóc
đừng ngả nón để cây đời chết yểu
đừng bặm môi cười dưới một đêm trăng

mùi rượu
đêm nhẵn mặt
hay
nỗi buồn
ngất ngây!

Trương Thị Bách My

Lắng nghe những lời thị phi






Với góc nhìn nhân văn, tất cả mọi thứ đều có nguyên do của nó. Nhưng với tính bảo thủ, cố hữu, ích kỷ tồn tại ít nhiều trong mỗi con người thì thật khó lòng tiếp nhận những lời thị phi, xoi mói thay cho những ngôn từ hoa mỹ, ngọt ngào. Nếu ai đó khen ta, ta có biểu hiện đỏ mặt, nở mũi, mở cờ trong bụng. Còn ai đó chê ta, ta có tâm trạng buồn, ấm ức, mặt ỉu xìu như xe xẹp lốp, rồi tìm đủ mọi cách để “trả thù” cho hả dạ. Trả thù xong ta cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Rồi cuộc hành trình ấy cứ tiếp diễn như người bơi ngược nước, để sinh tồn buộc ta phải cố sức chống chọi với dòng nước dữ, hay là đầu hàng số phận, phó thác cho nước lũ cuốn trôi vào vô định.

Người nào chửi ta mà ta không nghe, không hề bận tâm lo nghĩ thì lời chửi ấy lại quay về với chính họ mà thôi. Chẳng khác gì họ ngửa mặt nhổ nước bọt lên trời, tiếc thay, nước bọt không thấu trời mà rơi xuống trên mặt họ. Nhưng thử hỏi mấy ai đủ kiên nhẫn hành trì việc đó, không đáp trả tức thời thì cũng chờ cơ hội phản ứng, hoặc nao nao cố giữ trong lòng từ ngày này qua tháng nọ, năm kia. Thế thì, tại sao chúng ta không biết lắng nghe những lời thị phi, đủ can đảm để đối diện với thực tế, dùng lý trí để phân tích, dùng thực tiễn cuộc sống để kiểm chứng, để sống vững vàng hơn.

Ngạn ngữ có câu: “Bảy mươi chưa hết què, chớ vội khoe mình lành”. Thế nên, đồng hành với những lời hay ý đẹp, ngôn từ hoa mỹ, sự ca tụng tán thán là sự chỉ trích, châm chỉa, xoi mói theo kiểu “vạch lá tìm sâu” cũng là điều dễ hiểu trong đời sống thường nhật của con người phàm tục. Vấn đề là chúng ta phải chấp nhận, tiếp nhận và xử lý nó thế nào cho khôn khéo, tinh tế, đòi hỏi năng lực thích nghi với môi trường sống, như hiện tượng sống chung với lũ, lũ qua rồi thì đất sẽ khô thôi!

Biết lắng nghe những lời thị phi, nghĩa là chúng ta đã dũng cảm thực hiện phương châm “Hãy bỏ qua những lỗi nhỏ của người khác, nhưng phải nghiêm khắc lỗi nhỏ của chính mình”, để rồi ta được “lớn” thêm một chút, trưởng thành, chững chạc hơn trên con đường vươn tới giá trị sống Chân-Thiện-Mỹ. “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Rồi mai đây nếu có còn phải nghe những lời thị phi khác, nghe âm thanh gầm rú của những ngôn từ chát chúa, đanh đá… thì ta không còn ngỡ ngàng, hoặc bối rối như chưa hề được nghe lời thị phi. Tuy nhiên, có những lời thị phi không xác đáng thì chớ bận tâm, vì nó thiếu cơ sở minh chứng, kiểu vu khống, vu oan nhằm làm hại người khác, để thực hiện ý đồ xấu xa của họ. Trong trường hợp này chúng ta im lặng là vàng, mỉm cười chờ sự thật hiển hiện phơi bày là thượng sách.

Tốt hơn hết, bạn hãy làm tốt công việc mình đang làm, thiết tha yêu cuộc sống mà mình đang sống, nâng niu giá trị sống từng ngày. “Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy/ Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”. Đồng thời ta biết lắng nghe tiếng gọi của trái tim mình, cùng sẻ chia, hướng những điều tốt đẹp đến với mọi người xung quanh, đặc biệt là phải kiên nhẫn luyện lòng: “Người tưới nước lo phần dẫn nước/ Thợ cung tên lo chuốt cung tên/ Thợ hồ tô vách xây nền/ Cũng như người trí ngày đêm luyện lòng”.
Trên hành trình tìm kiếm giá trị đích thực cuộc sống, bên cạnh con đường nhung lụa, bằng phẳng là những đoạn đường chông gai, khúc khuỷu. Chúng ta hãy can đảm để lắng nghe những lời thị phi như một phần tất yếu của cuộc sống. Hết mưa thì nắng ửng lên thôi! Sự thật rồi cũng trở về tự thân vốn có của nó: tinh khôi, nõn nà, trong sáng như giọt sương mai hay tràn đầy nhựa sống như chồi non xanh biếc của xuân lòng bất tận…

Võ Văn Dần

Quan tòa




Hai anh đầy tớ ngồi cãi với nhau

Anh thứ nhất bảo : 1+1= 2

Anh thứ hai bảo : 1+1 = 3

Không anh nào chịu anh nào bèn quyết định đến nhờ Quan tòa phân xử

Sau khi nghe, Quan phán ngay :

- Thằng 1+1=3 được về cày ruộng tiếp.

_ Thằng 1+1= 2 lôi ra đánh 50 roi rồi cho về tiếp tục đi ở đợ

Anh thứ nhất chịu đòn xong không phục hỏi Quan : Thưa quan, sao con trả lời đúng mà bị phạt đánh đòn?Quan thủng thẳng trả lời : Mày biết là đúng rồi còn tốn thời gian cãi với thằng ngu kia làm gì. Cái tội của mày là làm lãng phí thời gian của chủ mày. Mày đã ngu còn cố chấp thì tao cho thêm đòn nữa.

Anh thứ nhất chưa chịu nói : " Thằng đó nó ngu sao quan không dạy nó". Quan cười bảo : " Mày đúng là ngu mà. Nếu những thằng như bọn mày mà khôn thì tao làm quan làm gì?".

25 CÂU NÓI CỦA AYN RAND – MỘT TRONG NHỮNG TRIẾT GIA HÀNG ĐẦU CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO





KU BÚA

Ayn Rand là một trong những triết gia tiêu biểu nhất của chủ nghĩa tự do, cho dù bà ta không bao giờ chấp nhận ngôn từ đó. Triết lý của bà đã là cảm hứng có các thế hệ doanh nhân và lãnh đạo trong thế kỷ 20 trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Bà tin vào sự tự do tuyệt đối cho con người và xem chính phủ là một thứ ma quái.

Kho tàng văn học của bà quá lớn để có thể tóm tắt lại. Nhưng xin mời đọc giả đọc 25 danh ngôn của bà để hiểu được một phần về bà cũng như những giá trị bà bảo vệ. Đọc giả nếu muốn đọc thêm những tác phẩm của Ayn Rand có thể bắt đầu với cuốn Suối Nguồn (The Foundtainhead) và Atlas Shrugged, hai tác phẩm tiêu biểu nhất của bà.

1. Chính phủ là sự đe dọa nguy hiểm nhất đối với quyền con người; nó giữ quyền lợi độc quyền về việc sử dụng bạo lực đối với những nạn nhân (nhân dân).


2. Hãy tự hỏi bản thân bạn rằng giấc mơ của thiên đường và sự vĩ đại có nên chờ đợi chúng ta ở dưới đáy mộ – hay nó có thể thuộc về chúng ta ở đây và ngay bây giờ trên trái đất này.

3. Văn minh là sự tiến triển hướng đến một xã hội của sự riêng tư. Sự tồn tại của loài người hoang dại bấy lâu nay đều xảy ra trong sự công khai, điều hành bởi luật lệ của bộ lạc. Văn minh là quá trình giải cứu con người khỏi con người.

4. Đừng bao giờ nói rằng sự khát khao làm việc tốt bằng sự ép buộc là một động lực cao cả. Sự tham muốn quyền lực và sự ngu dốt đều không phải là động lực cao cả.

5. Từ những thứ nhỏ nhất cho đến những giá trị tôn giáo cao cả nhất, từ cái bánh xe cho tới tòa nhà chọc trời, tất cả mọi thứ chúng ta đang có đến từ một hành động của con người – chức năng của tâm trí lý luận của anh ta.

6. Chính phủ giúp doanh nghiệp cũng thảm họa như khi chính phủ kết tội ai đó. Cách duy nhất để chính phủ trở thành một dịch vụ cho sự thịnh vượng quốc gia là đừng xen tay vào.

7. Tôi thề, bởi cuộc sống của tôi và tình yêu của tôi cho nó, rằng tôi sẽ không bao giờ sống vì một người khác, và cũng không hỏi một người khác sống vì tôi.

8. Quyền lợi cá nhân không phải là một thứ của các lá phiếu bầu cử; đa số không có quyền gì để lấy đi quyền lợi của thiểu số; chức năng chính trị của quyền lợi là để bảo vệ thiểu số từ sự đàn áp của đa số. Thiểu số nhỏ nhất trên trái đất chính là ‘mỗi cá nhân’.

9. Nơi nào có sự hy sinh, nơi đó có người nào đó thu thập thành quả của những hy sinh đó. Nơi nào có sự phục vụ, nơi đó có người nào đó được phục vụ. Người nào nói với bạn về sự hy sinh là đang nói về người nô lệ và chủ nô lệ, và muốn trở thành người chủ nô lệ.

10. Tính đặc trưng của con người là, khi các con thú tìm cách tồn tại bằng hòa mình vào môi trường xung quanh, con người tồn tại bằng cách thay đổi môi trường xung quanh theo ý mình.

11. Tiền bạc là cái thước đo sự cao thượng của một xã hội.

12. Chỉ có người nào không cần, mới đủ khả năng nhận tài sản thừa kế, đó là người có thể làm ra của cải cho dù anh bắt đầu ở bất cứ nơi đâu.

13. Con người tự đặt ra câu hỏi vì họ quá sợ hãi để nhìn thẳng. Bạn chỉ cần nhìn thẳng là thấy con đường, và khi bạn thấy nó, đừng ngồi đó mà nhìn – hãy bước đi.

14. Lý luận không phải tự động. Những ai bác bỏ lý luận không thể nào được nó chính phục. Đừng mong chờ gì từ họ. Hãy để họ yên.

15. Hãy bỏ chạy từ những người nào nói với bạn rằng tiền bạc là tội lỗi. Đó là dấu hiệu của một người ăn cắp đang dần hiện mặt.

16. Người nào cho phép một người lãnh đạo chỉ hướng cho anh ta là một thứ tàn trụi đang được kéo đến bãi hoang.

17. Quyền lực duy nhất bất cứ một chính phủ nào có được là quyền lực để săn lùng tội phạm. Khi không có đủ tội phạm, chính phủ làm ra tội phạm. Họ tuyên bố quá nhiều thứ thành phạm pháp đến mức con người không thể nào sống mà không cần vi phạm luật lệ.

18. Mục đích của đạo đức là để dạy bạn, không phải để chịu đựng và chết, mà để bạn tận hưởng và sống.

19. Câu hỏi ở đây không phải là ai sẽ cho phép tôi làm, mà là ai sẽ ngưng tôi làm.

20. Vấn đề gì cũng có hai mặt: một mặt là đúng và mặt kia là sai, nhưng ở giữa luôn là tội lỗi.

21. Có một cấp độ của sự hèn hạ thấp hơn những kẻ thích nghi: những kẻ thích nghi theo trào lưu.

22. Chúng ta đang nhanh chóng tiến đến giai đoạn tối cao của sự đảo ngược: giai đoạn khi chính phủ được tự do để làm bất cứ điều gì họ muốn, trong khi công dân chỉ có thể hành động với sự cho phép của chính phủ; đó là giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử nhân loại, giai đoạn của sự cai trị bởi quyền lực.

23. Khi tôi chết, tôi hy vọng sẽ được đi Thiên Đường, mặc dù đó là một Địa Ngục nào đó.

24. Sự thịnh vượng là sản phẩm của tư duy con người.

25. Loại người vô nghĩa nhất là những người không có mục đích sống.

BIỂN ĐÔNG: Cái Gía của Tín Lý Nhà Nước Quốc Gia: Chiến Tranh, Nghèo Đói , Áp Bức và Đế Quốc




Không kể khi một cuộc chiến tranh xảy ra, đặc biệt trong chiến cảnh liên quốc khu vực, hàng triệu sinh mạng sẽ bị hy sinh và tạo nối dài những khổ đau bất hạnh và căm thù phân hóa cho những người sống sót, với những gián đoạn rối loạn kinh tế đời sống, mà riêng người Việt đã liên tục trải qua trong hơn nửa thế kỷ qua- tín lý quốc gia nhà nước buộc quần chúng phải tự hủy giá trị cần thiết căn bản của đời sống hiện tại hàng ngày để phục vụ "định chế mê tín" vì "quyền lợi quốc gia" này - mà thật sự chỉ là phục vụ một nhóm thiểu số quyền lực gọi là "chính phủ"
Cái gọi là "đe dọa chiến tranh" tại biển đông và sự bành trướng của Trung quốc đã khiến cả khủ vực dồn tài nguyên nhân lực vào mua sắm "kỹ nghệ chiến tranh".

Riêng Việt Nam, trong quá khứ đã từng mua vũ khí từ Trung Quốc và sau này từ Nga (2013) (khoảng 3 tỉ rưỡi Mỹ kim trang bị quân sự - như mua chiến đấu cơ Sukhoi Su-27 và Su-30 của Nga và các chiến cụ vũ khí khác).

Dưới "áp lực"( toan tính) chính trị và quyền lợi kinh tế hiện nay giữa Trung Quốc, Nga, Mỹ và Liên Âu (NATO) lượng mua bán vũ khí từ Nga có khả năng giảm, và Việt Nam đã đang điều đình với nhà nước Mỹ và các công ty sản xuất vũ khí của Mỹ và Liên âu như Airbus, Lockheed Martin và Boeing để mua vũ khí. Cần hiểu rằng đây không chỉ đơn thuần là "mua vũ khí" mà chính là "quan hệ kinh tế, đặc biệt chính trị, trực tiếp" giữa hai định chế nhà nước. Cũng có nghĩa bàn cờ chính trị, hay "quyền ảnh hưởng chính trị" tại khu vực đang đổi thay.

Trong cùng lúc đó, đời sống an sinh hàng ngày của dân chúng như y tế, vệ sinh, giáo dục, nhà cửa, hộ khẩu v.v chưa được quan tâm đầy đủ. Bệnh viện với hàng dẫy người la liệt nằm chờ nơi hành lang thiếu kém chăm sóc. Dân chúng ăn ở chen chúc, không nơi cư ngụ, thiếu điều kiện vệ sinh căn bản. Những chăm sóc nếu quan tâm nâng cấp, chi phí cũng không chỉ không vượt quá chi phí quân sự, an ninh rình mò mà còn có năng lực sinh ra nguồn lợi tức kinh tế đa phương bù đắp trong sinh hoạt phát triển xã hội, ngược lại khi mua sắm vũ khí là chi phí gia tăng một chiều hàng chục ti mỹ kim làm tổn hại nguồn tài nguyên nhân lực vốn đã khan hiếm khó khăn của xã hội.

Chưa kể một thực tế, mua sắm gia tăng quân sự và an ninh kềm chế nội chính trên dân chúng của mình đơn phương, KHÔNG BAO GIỜ là giải pháp đối kháng ngoại xâm hay bảo vệ "quốc gia"- mà giải pháp nền tảng lâu bền là tạo điều kiện để dân sinh thăng tiến- làm cho dân chúng văn minh tiến bộ sung túc, trong đó nền tảng là nền tự do tự chủ sinh hoạt  của quần chúng.

Sức mạnh của một xã hội hay quốc gia, không bao giờ nằm ở chính phủ mạnh quyền, hay công an đông đảo rình mò bắt bớ giỏi, và quân đội nhiều vũ khí, mà ở quần chúng tự do và văn minh nhận thức tiến bộ và sung túc. Cứ nhìn "sức mạnh" thật của các xã hội nhỏ-đất-ít - dân Âu Châu, Hàn, Nhật và "sức mạnh" của con "khủng long" Sô Viết đã chết, và hiện nay của "con rồng thật nhưng mất khả năng bay" Trung Quốc với một nhà nước và quân đội mạnh quyền to lớn với khối dân khổng lồ nheo nhúc đang chép nhặt văn minh kỹ thuật tích lũy là giầu nhanh gọn, và nỗ lực di chuyển tài sản, di dân và "du học" khi có thể, để ra khỏi cái "tổ quốc hùng mạnh" đó, là bằng chứng điển hình. Dĩ nhiên tạm gác sự đối kháng đang âm ỉ trong bao tử con- rồng- bò này. Vì nó không thể bay và đang bò, nên nó cần khè lửa hù dọa thị oai với chính nó để tự an tâm và nhát dọa bầy con cái "se sẻ" lối xóm !

Lịch sử tương tranh trong khung cảnh định chế nhà nước đã cho thấy giải pháp quân sự luôn luôn đã không giải quyết được vấn đề mà còn tạo thêm vấn nạn lớn hơn trong tương lai. Sự căng thẳng tranh chấp đã đưa đến các cuộc chiến, hàng trăm ngàn, hàng triệu nhân mạng đã bị hy sinh oan uổng, tài nguyên phí phạm, hận thù gia tăng và vấn đề vẫn đang căng thẳng hôm nay, chính là bằng chứng điển hình và rõ rệt về bản chất thất bại của giải pháp quân sự. Căng thẳng tranh chấp lãnh thổ chủ quyền đều có thể được giải quyết bằng thương thảo và vận động quần chúng- không phải tuyên truyền chính qui từ nhà nước -( điển hình là đảo Sakhalin của Nhật, Nga đang chiếm giữ, hay giữa Nhật, Hàn và nhìn qua Ukraine sẽ hiểu).

Cái gọi là "tranh chấp" giữa các nhà nước quốc gia, chỉ nổi lên khi có nhu cầu củng cố vai trò chính phủ đang phải đối đầu với những thách đố từ quần chúng. Sự vụ tranh chấp giữa Trung Nhật về Senkaku Islands và Nhật Hàn vềLiancourt Rocks, hoặc Angkor WAt Preah Vihear Temple giữa Thái Miên v.v cũng nằm trong mục tiêu này.

Riêng "biển đông" nằm ở một kích thước lớn hơn, bởi nó KHÔNG CHỈ liên đới cả một khu vực nhiều quốc gia và đường hải hành lẫn không lưu của khu vực những quốc gia này. Đó là chưa nói đến những "đồ đoán lượng định" về "tiềm lực tài nguyên" của vùng biển, mà là cả một vùng ảnh hưởng chính trị lâu dài trong bối cảnh "cường quốc đế quốc" Mỹ đã và đang mở rộng sự bao trải toàn cầu với hơn ngàn căn cứ quân sự khắp lục địa và đại dương (Guam, Diego Garcia) và "sự đang vươn ra" của Trung Quốc hôm nay- (Nga dù mạnh hơn Trung Quốc- tự biết và tự kềm chế với khối Âu Châu có quần chúng vững mạnh, nhưng đang bị Âu Mỹ khiêu khích trấn ngược).

Nghĩa là "hành động biến cố" nó có "lợi điểm" tạo sợ hãi" và "tăng cường vai trò chính phủ" một cách nhanh, mạnh hơn và là vấn đề "bất khả tư nghị" của chính phủ độc quyền hơn bất cứ "mối đe dọa" tranh chấp quốc gia nào- và dĩ nhiên, vì là tranh chấp KHU VỰC, nên sự chọn lựa giải pháp cho vấn đề không còn chỉ là "yêu nước ta" chống địch mà còn nằm nền tảng ở sự tự nguyện chọn lựa một "đàn anh", hay đế quốc chủ trì hậu thuẫn cho nước ta nữa. Vấn đề nền tảng nằm ngay ở đây.

"Đế quốc Mỹ", hay "chuẩn đế quốc Tầu cọp giấy" bỗng nhiên được chính đáng hóa làm hai ứng viên quốc tế-đế quốc chính đáng để các KHỐI QUẦN CHÚNG chọn "phe" nằm dưới, và mặc nhiên quên hẳn mối đe dọa chung của tính 'ĐẾ QUỐC" dù bất cứ đế quốc nào, kiểu nào!

Khi nhìn bản đồ "biển đông", gác bỏ cảm tính chủ nghĩa quốc gia tổ cò, một cách công tâm sòng phẳng, cái tuyên bố chủ quyền về hai quần đảo Trường Hoàng rõ là vớ vẩn lằng nhằng vì tham vọng tự ái chủ nghĩa và quyền lực giữa các định chế nhà nước hơn là giữa các "dân tộc". Và nó không thể giải quyết hẳn hòi thỏa đáng dù là "công pháp" hay bạo lực- Trường Sa thì nó xa Việt Nam và xa hẳn khỏi Trung Quốc nhưng gần sát Mã , Phi nhiều hơn ai hết! Nhưng cả 5 quốc gia đều gào thét là của RIÊNG mình!!! Hoàng Sa lại nẳm giữa Trung Quốc và Việt Nam và chẳng dính gần "con ma" nào khác, VÀ  NHÀ NƯỚC NÀO CŨNG ĐÒI LÀ CỦA RIÊNG MÌNH. Với hàm ý LÀM CHỦ ĐẤT ĐẢO sẽ ĐƯƠNG NHIÊN theo CÔNG PHÁP được chủ quyền thêm vài trăm hải lý mặt biển. Và dân chúng thì hầu như đại đa số chẳng hề thấy biết mặt mũi cái phần "linh thiêng sông núi" này, và chẳng hề quan tâm... cho đến khi  nhà nước các nơi nổi trống la làng... mọi người dân mọi bên bắt đầu rên rỉ xót xa cho lãnh thổ linh thiêng...rồi gào thét căm thù lẫn nhau!







Những trò hề diễu dở nhất, nhưng lại là "nỗi sợ ăn khách" nhất là cái "lưỡi bò" Trung Quốc tuyên bố. Cái tuyên bố chủ quyền mà ngay người "Trung Quốc" nếu tỉnh táo cũng thở dài. Vì nó không thể thực hiện và vững bền được dù là công pháp hay bạo lực, dù có Mỹ hay không có Mỹ phản đối. Trong hoàn cảnh liên lập kinh tế và khả năng mua bán kỹ nghệ kỹ thuật quân sự hiện đại của thế kỷ 21, nó không cho phép bất cứ cường quốc nào chiếm cứ bằng bạo lực và lưu giữ lâu bền một khu vực hải dư như thế, kể cả Mỹ - sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc thực dân cũ đã qua (tự bản thân "Đế quốc Hán", La Mã, Mông Cổ, Anh v.v ) trong lịch sử đã minh chứng rõ ràng. Giới quyền lực "tỉnh táo thuộc sử" cũng như khoa bảng Trung quốc chắc chắn hiểu điều này. Nhưng tại sao nhà nước Trung Quốc lại tuyên bố khơi khơi như thế? Và tại sao Âu Mỹ, đặc biệt Obama Mỹ, lại vờ vĩnh và à ơi dí dầu, lấp lửng nửa chống nửa thuận:

"Sư thật là Trung Quốc đang thành công, to lớn và mạnh mẽ, dân chúng Tầu tài giỏi và siêng năng, và có lẽ một vài tuyên bố chủ quyền của TQ là chính đáng... Nhưng TQ không nên chỉ thực hiện điều này dựa vào sức mạnh sô lấn người khác.. Nếu thật sự những tuyên bố chủ quyền của TQ là chính đáng, người ta sẽ công nhận nó"..(The truth is, is that China is going to be successful, it's big, it's powerful, its people are talented and they work hard and, and it may be that some of their claims are legitimate,". "But they... shouldn't just try to establish that based on throwing elbows and pushing people out of the way." "If in fact their claims are legitimate, people will recognize them," OBAMA

Hệ quả và diễn biến toàn diện trong tương lai ra sao chưa rõ, nhưng hệ quả đầu tiên là các quốc gia đang nghèo, đang cần tiết kiệm tập trung tài nguyên nhân lực vào đầu tư phát triển kinh tế, nâng cao dân sinh, (y tế, giáo dục, việc làm), đã phải đình trệ hay giảm tốc chuyển tài nguyên nhân lực và nội chính vào quân sự mua vũ khí. Và các "đế quốc đàn anh" chưa cần giải quyết căng thẳng khu vực, đã thu lượm hàng trăm tỉ mỹ kim tiền bán vũ khí, thúc đẩy nền kỹ nghệ và chiến tranh của chúng. (Xin tham khảo về bảng giá cả các chiến cụ vũ khí, máy bay, tầu chiến, súng đạn v.v cũng như chi phí bảo trì vũ khí--Phải Cảnh Giác: Chiến Tranh Nền Tảng của Quyền Lực..)

Quan trọng nhất, các bậc đàn em sau khi chọn đàn anh, mua vũ khí, đồng nghĩa với lệ thuộc không chỉ kỹ thuật sử dụng bảo trì và sử dụng, cũng như thường trực mua bổ xung đạn dược cho các loại vũ khí này, mà còn trở thành lệ thuộc quyết định chính trị ngoại giao và ngay cả chính sách nội chính khi có nhu cầu của "đàn anh đế quốc". Bài học miền Nam, Nam Hàn, Úc v.v với Mỹ và miền Bắc với Nga Tầu là điển hình. Như vậy, một chiến cảnh phân chia quyền lực khu vực đa dạng, chi tiết, và HƯ ẢO hơn cuộc "chiến tranh lạnh" đang được hình thành.

Chi tiết, đa dạng và "Hư ảo" vì khi nhìn vào thượng tầng cấu trúc quyền lực "quốc gia và đế quốc tương tranh" này, là cả một mối "hợp tác liên lập chặt chẽ" trong lãnh vực AN NINH và NGOẠI THƯƠNG như bản thống kê ngoại thương giữa Mỹ, Liên Âu, và Trung Cộng đã cho thấy (The Great Decoupling-China and the New World Order-Tham Khảo Số Liệu Kinh Tế Ngoại Thương Mỹ và Các Quốc Gia-Tham Khảo Số Liệu Kinh Tế: Trung Quốc -Liên Âu-Tham Khảo Số Liệu Kinh Tế: Mỹ -Trung Quốc). Hay nói một cách ra vẻ "khệnh khạng hàn lâm khoa bảng" là nguyên lý nghịch thuẫn của quyền lực khống trị đang hình thành tận dụng (Antony Cyril Sutton Nguyên Lý NGHỊCH THUẪN) -

(Quí độc giả khi tham khảo các số liệu ngoại thương, cần tự hỏi tại sao Mỹ và Liên Âu "thản nhiên" chấp nhận thâm thủng cán cân ngoại thương hàng trăm tỉ "thua thiệt" hàng năm về phía Trung Quốc? Nhưng vẫn bình chân mạnh khỏe tiến hành chiến tranh? Nếu là kẻ thù và căng thẳng đến cường độ chiến tranh, con số lợi nhuận ngoại thương của Trung Quốc từ Mỹ và Liên Âu, con số trao đổi ngoại thương đang giúp giữ vững "nền kinh tế cường quốc" của Tầu, có tồn tại để ổn định 1.4 tỉ dân số với ba (3) vùng đối kháng âm ỉ- Tân Cương, Nội Mông, Tây Tạng- để làm cường quốc không?)

Quần chúng CẦN CÓ KẺ THÙ để tăng mức phân hóa, dễ dàng ổn định, giảm đối kháng, củng cố tính chính đáng không chỉ cho định chế nhà nước quốc gia mà vai trò ĐẾ QUỐC để khống trị. Cứ nhồi nhét một lập luận tổ quốc bị đe dọa, dân chúng bị tấn công , mọi chuyện sẽ dể dàng cho việc tận dụng tài sản và sinh mạng của quần chúng: cai trị hữu hiệu!


""Cuối cùng thì những kẻ lãnh đạo của đất nước, sẽ quyết định chính sách, và điều này luôn luôn là vấn đề đơn giản lôi kéo quần chúng theo, bất kể là trong nền dân chủ hay độc tài phát xít, hay dân chủ quốc hội, hay độc tài cộng sản. Có tiếng nói của dân hay không tiếng nói của dân, quần chúng luôn luôn được lôi vào vòng xếp đặt của giới lãnh đạo. Điều này dễ dàng thôi. Tất cả bạn phải làm chỉ là nói với quần chúng rằng họ đang bị tấn công, đồng thời lên án những ai kêu gọi hòa bình là không yêu nước là đặt đất nước vào tình trạng lâm nguy. Điều này hiệu nghiệm như nhau ở bất kỳ xã hội đất nước nào" (But, after all, it is the leaders of the country who determine the policy and it is always a simple matter to drag the people along, whether it is a democracy, or a fascist dictatorship, or a parliament, or a communist dictatorship. Voice or no voice, the people can always be brought to the bidding of the leaders. That is easy. All you have to do is tell them they are being attacked, and denounce the peacemakers for lack of patriotism and exposing the country to danger. It works the same in any country.') Hermann Göring

Cái giá và cái bẫy của nguyên lý nghịch thuẫn quyền lực nhà nước quốc gia giăng ra cho nhân loại là như vậy.