Theo: Boomsbeat.com, Sondoongcave.org
" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Năm, 21 tháng 5, 2015
KẺ THÙ LỚN NHẤT của KIẾN THỨC
-"Kẻ Thù lớn nhất của KIẾN THỨC không phải là sự THIẾU HIỂU BIẾT, mà chính là ẢO TƯỞNG KIẾN THỨC (The greatest enemy of knowledge is not ignorance, it is the illusion of knowledge.)
=======
Khi MỘT kẻ NÔ LỆ đang nghĩ là mình ấm no, an toàn, thì bằng chứng, sự thật đủ loại, hắn cũng chẳng bao giờ lắng nghe ai hết- Vì hắn đang có ẢO TƯỞNG KIẾN THỨC- hắn cho là hắn hiểu và biết những gì chung quanh- cho đến khi kẻ NÔ LỆ này bắt đầu cảm giác được hoàn cảnh bấp bênh hiểm nguy của hắn. Hắn sẽ chẳng thấy có lý do hay động lực nào CHẤT VẤN HIỆN TRẠNG CHUNG QUANH hắn, và sẽ chẳng bao giờ NỖ LỰC DẤN THÂN thay đổi hiện trạng ảo giác của hắn cho đến khi HẮN CẢM NHẬN RA được là hắn đang mất. Hắn sẵn sàng thỏa hiệp với tất cả, miễn hắn cho rằng hắn giữ được những gì nguyên trạng hiện tại.. Và bất cứ ai KHÔNG THỎA HIỆP để giữ đúng giá trị nguyên lý TỰ DO đều bị hắn và đồng loại lên án là CỰC ĐOAN và có tính NỔI LOẠN!
Quy luật #1: Không bao giờ được nghĩ là mọi thứ tốt đẹp có sẵn và không cần nỗ lực. (Never Take Anything For Granted).
-Không bao giờ được nghĩ là mọi thứ đã có sẵn, hay tự nhiên tốt đẹp mà chẳng cần nỗ lực gì nữa. Hoặc những gì tốt đẹp đã được rồi, sẽ chẳng bao giờ mất đi- hoặc đã có tự do rồi, không cần phải đấu tranh nữa.
Quy luật #2: Tự Trau Dồi Kiến Thức Hiểu Biết.
-Đừng bao giờ trở thành một kẻ ngu dốt hữu ích cho bọn cai trị rồi sống theo bầy đàn không dám theo tư duy độc lập của mình. Lúc nào cũng chất vấn và tham cứu để tự nâng kiến thức. Phải chất vấn hoài nghi những thứ gọi là "kiến thức" khi nó được trao cho bạn từ bên trên thuộc nguồn chính qui.
Bởi những loại kiến thức này có mục đích không có gì khác hơn là muốn bạn ngu đi, và lôi cuốn bạn vào chiều hướng khác xa rời sự thật. Phải tự học hỏi trau dồi hiểu biết không ngừng. Câu đầu môi "KHÔNG CÓ THỜI GIAN" không bao giờ là lý cớ chính đáng bào chữa cho sự thiếu hiểu biết. Tự sắp xếp thời gian để trau dồi kiến thức. Ai cũng có thời gian bằng nhau. Vấn đề là TỒ CHỨC SẮP XẾP hợp lý.. không phí thời gian vào những chuyện vặt vãnh vô bổ.
Quy luật #3: Đừng Nhút Nhát - Ẻo Lả Õng Ẹo- Phải Can Đảm Táo Bạo-Don’t Be A Pansy
-Tự Do không dành cho những loại yếu bóng vìa nhút nhát. Khí khái can đảm là đỉnh cao đến Tự Do. Dám tạo tranh luận, không sợ bị dèm pha xúc xiểm, không sợ bị để ý trù dập- can đảm lôi kéo sự ý thức dù chỉ từ một hay hai người. Can đảm thể hiện hành động chính trị xã hội của mình- không thuần phục tuân thủ-sẵn sàng tự vệ- tất cả những hành động này là những mặt không thể thiếu của một xã hội con người muốn gìn giữ tự do. Nếu bạn không sẵn sàng dấn thân chấp nhận hiểm nguy mất mát- bạn chẳng có cơ hội nào để chiến thắng. Nếu bạn tự nhận mình là người vận động chính trị xã hội mà lại chẳng dám dấn thân bương trải đấu tranh chấp nhận thiệt thòi hy sinh, thì bạn đã thất bại ngay cả trước khi bạn khởi đầu. Lời Nói phải dẫn đến hành động. Đừng bao giờ chỉ lên án xuông tội ác xấu xa mà không sẵn sàng đối diện đấu tranh với nó- nếu không sẽ mất tất cả.
Quy luật #4: Không chờ đợi ai làm trước- Hay chỉ vẽ cho mình làm gì- Phải tự hỏi chính mình phải làm gì và quyết định làm gì.
-Nền Tự Do có một yếu tố then chốt là tản quyền và phân quyền lãnh đạo và những cao trào hoạt động đặt nền tảng ở tính mềm lỏng UYỂN CHUYỂN và tính tự phát ứng của hành động, thay vì là một ĐÁM ĐÔNG ĐỨNG ĐỰC RA CHỜ "một MINH QUÂN, LÃNH TỤ". Mỗi cá nhân hiểu biết tự hành động và những hành động này sẽ tự nối kết từ tính NĂNG ĐỘNG DẤN THÂN của mỗi cá nhân. Những kẻ bàng quang chờ thời viện cớ chờ đủ "THIÊN ĐỊA NHÂN" chỉ là những kẻ dõi nhìn LỊCH SỬ chứ chẳng làm nên lịch sử. (Người Ai Cập -Thái Lan đã và đang làm lịch sử)
Quy luật #5: Vứt bỏ những thứ vụn vặt KHÔNG CẦN THIẾT, chỉ giữ những gì hũu hiệu. Tránh không rơi vào nợ nần những thứ vớ vẩn.
-Trong cuộc sống tiêu thụ, chúng ta thường đã và đang TỰ RÀNG BUỘC MÌNH vào những thứ tiêu thụ không cần thiết- những thứ được tuyên truyền quảng cáo thường trực làm cho chúng ta NGHĨ RẰNG KHÔNG THỂ THIẾU, hoặc phải CÓ ĐỂ CHO GIỐNG MỌI NGỪOI CHUNG QUANH- để rồi bị trói buộc nợ nần và làm mất thời gian, năng lực- mà thật ra nếu không có chúng ta còn có thể sống tốt hơn hạnh phúc thoải mái hơn.
Tóm lại là nên VẤT BỎ những gì không hũu ích phục vụ mình, mà ngược lại, chính mình lại phải lệ thuộc phục vụ chi trả tốn giờ cho nó, chỉ vì "mọi ngừoi chung quanh làm thì tôi cũng làm" (Người Viêt hay mở miệng lý sự "Bây giờ ở đây ngừoi ta đều như vậy" hoăc " Ai cũng làm như vậy mà!" - Họ quên là cả nhân loại từng tin là quả đị cầu vuông-chỉ có Bruno- Galillei là "lập dị" muốn "nổi loạn" muốn "khác mọi người".
Loài người từng tin là QUYỀN LÃNH ĐẠO CHÍNH TRỊ là do TRỜI BAN- CHÚA ĐỊNH- chân mạng ĐẾ VƯƠNG- chỉ có "vài kẻ ĐIÊN KHÙNG" không chịu tin và đã nỗ lực dấn thân XÂY CHO BẰNG ĐƯỢC nền DÂN CHỦ như chúng ta đang thấy hôm nay- Con Người- NGƯỜI DÂN QUYẾT ĐỊNH TẤT CẢ..
Quy luật #6: PHẢI BIẾT Tảng lờ -(Bơ đi- hoặc phớt lờ đi) không thèm để tâm những danh hiệu chê bai của Nhà Nước, báo chí, Chính Qui... Hay những kẻ a dua bầy đàn.
-Những danh hiệu mỉa mai như "cực đoan"-"Nói gở" "Hâm" "Gàn Dở" , "Thuyết Âm Muu" "Phản Động" "Bị Xúi Dục" "diễn biến ..." "manh động" v.v được đặt ra để đánh vào tâm lý khiến ngừoi ta tự kềm hãm và tự kiểm duyệt, không dám mở miệng nói "khác" tranh luận chất vấn khác đi. Nghĩa là không chỉ muốn khóa miệng những ai dám chất vấn, mà còn NGĂN CHẶN sự tham dự tìm hiểu của những ai đang có ý muốn thắc mắc, tìm hiểu.. Những CHÊ BAI này, NẾU KHÔNG PHÓT LỜ ĐI, sẽ làm cho MỘT NGƯỜI đang muốn học hỏi bị chùn chân, bỏ cuộc.
Quy luật #7: Thái độ Bi Quan Hư Vô chủ nghĩa là con đường đến thất bại.
-Tinh thần Phê phán rất cần thiết, nhưng để kết luận là tất cả chẳng có cái gì ý nghĩa chính đáng cho nên BUÔNG XUÔI, nhưng vẫn CHỈ CHÊ BAI KHÔNG THỪA NHẬN HIỆN TẠI, KHÔNG THÈM LÀM GÌ NỮA HẾT- Thái độ này không chỉ giúp cho TỘI ÁC và KẺ XẤU VỮNG MẠNH THÊM mà còn đi dến tự hủy diệt nhận thức chính mình- Vì đây chính là tính NGỤY TÍN dùng Hư Vô Chủ Nghĩa để bào chữa khỏa lấp cho SỰ YẾU HÈN ,KÉM CỎI và HÈN NHÁT ÍCH KỶ của chính mình... Vì nếu thật sự đã theo HƯ VÔ CHỦ NGHĨA.. Thì bạn đã chẳng thèm màng đến cái gì nữa, kể cả không thèm "phí lời" phê phán chê bai sự kiện chung quanh- không thèm "chạy đua" tạo lập vật chất sự nghiệp với cuộc đời này nữa!
Phải luôn nhớ KHÔNG CÓ CUỘC ĐẤU TRANH NÀO CHẤM DỨT khi VẤN NẠN chưa CHẤM DỨT.. Có nghĩa là vẫn phải đấu tranh LIÊN TỤC, MIÊN TỤC và MIÊN VIỄN..
Quy luật #8: - Quyền hành, quyền lực- Chính Đáng đến từ sự Tôn Trọng- phải ĐẠT ĐƯỢC bằng sự đồng thuận, chứ không bằng sự mua chuộc, cưỡng chế hay cướp đoạt.
-Cho nên những tên CHÍNH TRỊ GIA, QUAN CHỨC NHÀ NƯỚC tham ô, hoặc bọn khoa bảng văn nghệ sĩ tay sai tham nhũng- thật ra cũng chỉ là những tên cướp cạn ăn mặc đồng phục hoặc đẹp đẽ mà thôi. Bọn này không xứng đáng để chúng ta TÔN TRỌNG hay SỢ HÃI chúng nó... Không những chúng ta KHÔNG THÈM TÔN TRỌNG SỢ HÃI mà còn phải tìm cách TỐ CÁO chúng nó với CÔNG CHÚNG và nỗ lực LOẠI BỎ bọn này khỏi những chức vụ xã hội để KHỎI TIẾP TỤC LÀM BĂNG HOẠI XÃ HỘI, gây ĐAU KHỔ cho bao nhiêu người khác.
Quy luật #9: Hãy xem việc xã hội chính trị là chuyện của chính mình.
-Khi bạn bị kẻ khác ăn cắp của bạn, hoặc đánh bạn, trừ khi bạn là một kẻ ngớ ngẩn mất trí, còn chắc chắn bạn sẽ phẫn nộ. Thế thì tại sao lại không phẫn nộ với bọn Nhà Nước Chính phủ khi chúng nó cũng an cắp, ăn cướp và làm bạn tổn thương đủ thứ mà còn tệ hại hơn một hai cá nhân hàng xóm hay tên trộm vặt? Phải chăng khi bạn phẫn nộ với thằng cắp vặt hay ngừoi hàng xóm vi phạm quyền lợi của bạn thì bạn được sự "đồng thuận" của chung quanh, và không có ai dèm xiểm với nhũng danh từ nhãn hiệu tiêu cực?
-Trong khi nếu bạn phẫn nộ với bọn quan chức chính phủ nhà nước - thì bạn sẽ bị cả một tập tính bầy đàn gọi bạn là "CỰC ĐOAN" "phản động" "nổi loạn" "Nói Xấu Chống lại Tổ Quốc Dân Tộc" v.v đủ các loại tên khiến bạn bị triệt tiêu ý chí ĐỐI KHÁNG.. À ! thì rõ ràng bọn CƯỚP NGÀY, bọn nhà nước chính phủ RẤT SỢ sự PHẪN NỘ của bạn. Vì từ hành động can đảm của bạn, nó có khả năng lôi kéo quần chúng thức tỉnh và tổng hợp đánh xụp cả một chế độ bạo ngược- như người Ai cập- Tunisie- Thái Lan v.v. Từ nguyên lý này, bạn cũng dễ nhận ra được những tên phù thủy chữ nghĩa, bọn khoa bảng tay sai, những kẻ TÌM ĐỦ MỌI CÁCH ĐỂ NGĂN CHẶN SỰ PHẪN NỘ của BẠN.. và khuyên bạn nên CHỜ THỜI- điển hình là những tên như Tô Cống, tên già tưởng mình hết hèn, và những kẻ "tiền bối đấu tranh", những "lão thành" đang khệnh khạng khuyên nhủ chúng ta từ tốn thượng tôn pháp luật, chờ phát triển kinh tế v.v
Quy luật #10: Cuối cùng, Bạn nên nhớ Bạn chính là NGƯỜI ĐẦU TIÊN và cũng là NGƯỜI CUỐI CÙNG trong hàng ngũ đấu tranh và bảo vệ giá trị tự thân.
Không có 1 thì không thể có 2, 3, 4, hay 10 hay 100, 1 triệu v.v Những cái tên của 2, 3, 4, 5 hay trăm ngàn, triệu, tỉ v.v chỉ sự TỔNG HỢP của những cái 1. Bạn lấy 1 ra khỏi 100, nó sẽ biến đi chỉ còn 99. Và cứ thế, nếu cứ lấy đi 1 thì cái TẬP THỂ sẽ mất tên. Cũng như ĐƯỜNG THẲNG chỉ là TẬP HỢP của NHỮNG CÁ NHÂN ĐIỂM mà thôi.
Chính vì vậy, CÁ NHÂN mới là NỀN TẢNG. Và như thế, mỗi cá nhân đều quan trọng và cần thiết như nhau khi cùng hành động. Chúng ta không thể thoát ra tình trạng bị trị, mất nhân phẩm mà KHÔNG ĐẤU TRANH, CHỊU HY SINH MẤT MÁT.. không có bọn BẠO NGƯỢC nào tự thay đổi để thành DÂN CHỦ hết... Không có NGHỊ TRƯỜNG nào thay đổi tốt cho QUẦN CHÚNG khi chính QUẦN CHÚNG đó không DẤN THÂN ĐẤU TRANH để TẠO ÁP LỰC CHUYỂN HÓA...
Và CẦN nhớ rằng CHÍNH SỰ HIỀU BIẾT TRÂN QUÍ TỰ DO nơi cá nhân mỗi chúng ta, nhận thức từ bên trong mỗi chúng ta mới là sức mạnh nền tảng KHÔNG CHỈ ĐỂ CHỐNG NHÀ NƯỚC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI BẢN XỨ, mà còn là NỀN TẢNG của SỨC MẠNH CHỐNG bất kỳ thế lực NGOẠI XÂM nào.
-Công dân Athens Hy Lạp khi xưa chống ngoại xâm vì yêu quí TỰ DO của họ chứ không vì TỔ QUỐC...
- Người Mông Cổ sống du mục thảo nguyên đã chống bất cứ ai cướp đi sự TỰ DO ĐỘC LẬP của họ chứ họ KHÔNG vì TỔ QUỐC..
TỰ DO DÂN CHỦ NHÂN PHẨM của BẠN mới đúng là TRÊN HẾT..
Nhân chủ
-----------
BÀI THAM KHẢO:
The Essential Rules Of Liberty
By Brandon Smith
July 08, 2011 "Information Clearing House" -- There is nothing worse in this world than an enslaved man who naively believes himself free, except, perhaps, trying to explain to that same man his predicament. You can lay truth after truth before his feet. You can qualify your every position with cold hard irrefutable data. You can plead and scream and raise veritable hell, but before he will ever listen, he must first become aware of his own dire circumstances. As long as he views himself as “safe and secure”, as long as he imagines his chains to be wings, he will see no reason to question the validity of the world around him, and he will certainly never invest himself into changing his own deluded destiny.
Unfortunately, there are many such men crawling and scraping about here in what was once a land graced with a self sufficient and independently minded public majority. The great lie that has been perpetuated in this country over the past several decades is that we can defer our responsibilities of vigilance and place our well being and our futures into the hands of others for the sake of “collective efficiency”, or leisure. We have been conditioned to live in a state of constant indifference, a society which prizes compromise over principle and steadfast resolve. Those who refuse to compromise that which is honorable for the sake of ease and comfort are indicted as “extremist” or even criminal. The idea of personal revolution is treated with discomfort, and all we claim to stand for becomes muddled in a fog of inaction and cynicism. As Americans, we have forgotten what it means to earn and protect our own freedoms. We have forgotten that in liberty, there are standards that must be defended.
This, however, does not mean we cannot yet again remember ourselves. The desire for freedom is as inborn and natural as our own heartbeat, as our own breath. It is instinct. It cannot be erased from within, only oppressed from without. The tide has always been against tyranny, always, though we may find that hard to believe. If liberty was not ingrained into our very DNA, humanity would have succumbed to bondage and self destructed long ago. This is not the case. Stretching under the surface of our superficial force-fed mainstream culture are the roots of something real, and honest. Simmering beneath our so called “civilized” veneer, many Americans are finally rediscovering their wild and defiant origins. In the recent past we have been taught to feel ashamed of our rebelliousness. Now, we are learning to hold it quite dear.
For those of us who are awake, and for those who are on the verge of understanding, certain rules come into play that strengthen our stance and shield us from folly. Liberty is not a self perpetuating social condition. It requires guidelines, and effort, and sacrifice. Liberty will not survive without our willingness to maintain it. If you are not ready and willing to fight for your own independence, then you are not truly free.
Let’s examine some of the inherent laws and guidelines of free will and free action that will allow us to not only win back our self determination, but to keep it for generations to come. You want liberty? This is what it takes…
Rule #1: Never Take Anything For Granted
A lot of people today seem to have serious issues with expectation and assumption; what we in the alternative media often refer to as “normalcy bias”. We have grown used to the idea of abundance and relative safety. So much so, that we fail to notice when our abundance and safety begin to disappear. We assume that the condition of the world today will be the condition of the world tomorrow, and for all time. In the U.S., we have even come to expect not only that our prosperity and our freedom are inevitable, but that they will also increase exponentially with each passing generation. This is a relatively new and narrow cultural mindset likely caused by the explosion in industrial growth after WWII which seemed to erase all memory of the Great Depression in our society, leaving us with the belief that surely, our circumstances would never become so desperate again.
Those who are truly independent realize that nations, no matter how affluent, can self destruct at a moment’s notice, especially when they fail to recognize their own weaknesses and confront their own demons. Never suppose that that which is good and just will remain without your own initiative. Never wait for others to fix those problems which you could just as easily solve yourself. Never expect that freedoms won cannot also be easily lost. Always prepare for the worst outcome, and strive for the best outcome.
Rule #2: Educate Yourself
Never become a useful idiot, or a waste of oxygen. Being a part of the herd is nothing to be proud of. Strive for knowledge, and thirst for the truth every moment of every day. Many of the things we deem “important” in modern society are in the grand scheme hollow attempts to fill our lives with distraction, only wasting time until we finally bite the dust filled with regret. Pretending to further the depth of one’s life is not the same as actually doing so. I can’t think of anything more horrifying than becoming a man who rushes around frantically every waking moment, but ultimately accomplishes nothing.
Do not assume that you already have a tangible grasp of the truth, especially if all your knowledge has been handed to you. Instead, research that knowledge for yourself. Put that which you have been taught to the test. Only in this way will you finally learn. Expand your horizons. Learn something useful. Remove unnecessary distractions for at least part of your day and focus on increasing your awareness of the environment you live in. There are very few things in this world more important than this, and self education should take precedence over everything else except your family. “Lack of time” is no excuse for ignorance. Make time! The ignorant are led. The knowledgeable lead themselves.
Rule #3: Don’t Be A Pansy
Liberty is not for the faint of heart. Emotional courage is paramount to freedom, and it can be expressed to incredible effect by even the most unlikely heroes. I’ve seen children with more courage and tenacity than some full grown men.
If one recognizes the gravity of the situation we face as a people, if one understands the considerable danger involved in the fall of a Republic to the depths of fear and autocracy, but still does nothing, that person has not only failed the world, he has also failed himself. “Making waves”, or drawing the ire of “authority”, is the least of our worries. If you have utilized an objective eye, and know you are right in your position, then there is no reason to fear criticism from anyone.
Sociopolitical action, nonconformity, noncompliance, and self defense, are unavoidable aspects of a society that wishes to maintain its freedoms. There is no way around it. If you are not willing to stick your neck out and expose yourself to risk, you remove all chance of possible gain. If you are a self proclaimed activist that refuses to sacrifice, that refuses to struggle, then you have failed before you even began. Talk must lead to balanced action. Never thumb your nose at the devil without being ready to trade punches as well, or all is lost.
Rule #4: Stop Waiting For Others To Tell You What To Do
Independent people not only consider and implement the solutions of others, they also work on their own. Complaints abound lately in the Liberty Movement;
“When is someone going to do something!? What are YOU going to do about our predicament!?”
This is the question of a slave, not a free man. A free man asks, “What am I going to do about this predicament? What is MY solution to the problem?” Therein is the key to liberty; decentralized leadership and movements based on fluidity and spontaneity of action, instead of a great mass of people standing around stiffly waiting for orders on high, or a self styled messiah to engineer their world view. As soon as you place your very initiative under the control of others, you have lost the fight. Always consider the solid strategies of intelligent people, and adopt them if they are useful, but do not remain idle because you are too frightened to exert the effort to solve problems bigger than yourself. Spectators only witness history, they do not make history.
Rule #5: Cast Off What Is Unnecessary, Keep What Is Effective
Yes, I stole this rule from Bruce Lee, but it is just as applicable to social movements and economic stability as it is to the martial arts. Invasive debt creation, for instance, is a tool for subversion, and no people forced to bear the burden of liabilities they can never repay is free. Therefore, exorbitant debt must be avoided, or cast off completely.
In our personal lives, how many useless goods do we accumulate on a daily basis, instead of useful items that we may one day desperately need? How much of our life is spent accumulating garbage in order to keep up with “socially acceptable” levels of consumer behavior? How many of us cling to careers we hate in order to service our needless consumption? The ability to prioritize must become a virtue once again, and, we all need to shut off the cable television…
This rule also applies to governments. If a government no longer fulfills its sworn duties to the people, and no longer serves the purposes to which it was originally intended, then it too must be cast off and replaced with one that does serve the people, or, it must be forced to return to its inherent foundations. Today, this kind of talk is often referred to as “extremism”, or insurgency, no matter how correct it might be, which brings us to our next rule…
Rule #6: Ignore Establishment Labels
Tactical name calling is only effective if we actually care what other people think of us. Labels like “homegrown terrorist”, “extremist”, “doomer”, or “conspiracy theorist”, are designed to shame people into self censorship. That is to say, they pigeonhole movements and their participants into categories of public shame, causing said movements to fear social reprisal. They are also meant to forcefully assign “outsider” or “fringe” status to particular political positions in order to marginalize and weaken the resolve of those who hold them. Never mind that almost every powerful and honorable cultural movement in history once started out as “fringe”.
Early in our lives, we are taught that it is far better to be accepted, and to avoid standing out, even at the expense of our individualism. Unfortunately, many adults never outgrow this childish belief, and thus become vulnerable to tactics as absurd as simple ridicule. At bottom, being slandered by a thieving bureaucracy infested with soulless parasites bent on centralization at the expense of innocent human life is a bit laughable (this goes for you too, SPLC). Globalists, along with their media cronies and their think-tank sock puppets, will say ANYTHING to get what they want. Empty words and false labels cannot stop the truth, or a movement driven by the truth.
Rule #7: Cynicism Is The Path To Defeat
It is good to be critical, but not to the point of nihilism. America’s past is riddled with mistakes, bad judgments, horrible crimes, and downright stupidity; that doesn’t mean that the principles on which this country was founded are any less vital. We hear often from cynics that humanity has become too stupid and complacent to do what is right. However, stupidity and complacency are not inherent qualities. That’s an elitist fantasy with no basis in fact. Stupidity and complacency are learned behaviors, and they can be unlearned. What IS inherent is our ability to choose what path we will take. For adherents of liberty, we need only remind people that they have this choice. We can whine and cry all day long about how nobody pays attention and how there is no hope, or, we can exhaust all options before throwing in the proverbial towel. We don’t need to “like” society the way it is, but we do need to recognize the underlying potential of all people to become something much more than what they currently are (I can’t stand blind ignorance either, but I’m certainly not ready to accept it as a fact of American life). Remember, no fight is over until it is over.
Rule #8: True Authority Is Derived From Respect That Is Earned, Not Bought, Or Taken
A corrupt politician is just a criminal conman in a nice suit. A law enforcement officer who refuses to follow Constitutional Law is just a petty little tyrant in a black uniform. An economist who knowingly skews data to fit his own political bias or to serve the political biases of men above him is just a liar or an inept buffoon with an embossed piece of paper from an expensive university. A lab scientist or doctor who flubs experimentation to support the interests of the corporate world rather than the needs of the public is just a quack in a white coat. All too often, though, we find ourselves taking these cretins seriously all because they talk the talk and wear the costume. They are just people, and if they cannot do their jobs honestly, then they are useless people, who deserve our disdain, not our respect. We should never allow such men to wield positions of authority over us.
Rule #9: Take It Personally
When someone tries to steal from you, hurt you, or enslave you, unless you are some kind of nut, you take it pretty personally, right? Why should it be any different when a government commits the same grievances? Americans should be furious over the destruction of their economy, their currency, their infrastructure, and their Constitutional freedoms! They should be enraged over the endless wars overseas that are bankrupting the nation. They should be bellowing to the rooftops over the cooption of their political system by a slimy brood of corporate bankers. Is this “extremist” behavior? Who cares!? If your anger is not visible then it is not worth a damn. Don’t just get active, get emotional! This is about your life, and the lives of those you love. That’s not to say that we should take out our frustrations randomly and haphazardly, but if we can’t at least make known our anger over the misdeeds of government, then what the hell is the point of calling ourselves free?
Rule #10: You Are The First And Last Line Of Defense
Like it our not, this is our job. We have inherited a country on the verge of disaster, and we are tasked with cleaning it up, otherwise, there will be little left to pass on. We do not get to bask in illusory prosperity for the rest of our days. We do not get to feed off the entitlement program trough until we are fat and contented. We are not going to retain our rights without blood, sweat, and tears. We will not be building magical floating cities in the clouds or skyscrapers on Mars. We will NOT be remembered fondly as members of some fantastical “golden era”.
We have been thrust into the muck and the mire. We are being molded as the lost children of an age better forgotten. We have been slapped in the face with a dilemma so volatile and so incredible it may one day be called the greatest crisis of all time. We have drawn the short straw.
This could be viewed as some terrible doom. It could be held as a star crossed act of ferocious fate. We could fall to our knees and lament with despair, overcome with woe at our unbearable lot. But, this would be in violation of rule #3, and nobody wants to be a sobbing pansy. On the contrary, every “bad luck generation” is only so if they refuse to see the great fortune at their fingertips; if they refuse to seize the moment and conquer the giants of their day. The greater the hardship, the greater the enemy, the greater the heroes. We are faced with possibly the most unrelenting antagonists and the most treacherous obstacles in recent memory, or even distant memory. In the same spark of confrontation, we are also presented with unparalleled opportunity to change the course of the world forever. Whether or not we succeed, is entirely up to us.
You can contact Brandon Smith at: brandon@alt-market.com
Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015
ĐỒNG NĂM XU VÀ BÌNH HOA BA VẠN TỆ
“Tâm trạng chiếc ly rỗng” là một quyển sách mấy năm gần đây tôi càng ngày càng muốn viết.
Ý tưởng viết cuốn sách này nảy ra từ khi tôi trải qua một chuyện khó quên trong khi giảng bài trên lớp ở Đại học Thanh Hoa.
Hôm ấy, tôi giảng về “Tu luyện tâm linh của một nhà quản lý thiền tông học và doanh nhân”, khi giảng đến phần “Hiểu rõ, bỏ xuống, thanh thản”, một nữ tổng giám đốc đứng lên kể câu chuyện của mình.
Vào một ngày, cô ấy đang nấu ăn trong bếp, đột nhiên nghe thấy tiếng kêu hoảng hốt của thằng con trai bốn tuổi từ phòng khách vọng đến: “Mẹ ơi! Mẹ lại đây nhanh lên!”.
Vừa thoáng nghe, không biết có chuyện gì, cô ấy liền vội vã chạy ra thì thấy tay thằng con trai bị mắc kẹt trong chiếc bình hoa, không rút ra ngoài được. Nó rên rỉ kêu đau.
Cô muốn giúp con trai rút tay ra khỏi chiếc bình, nhưng cố hết sức mà không được. Nước mắt thằng bé chảy đầm đìa trên mặt. Cô rất lo lắng nên tìm một cái búa, thận trọng đập vỡ chiếc bình hoa.
Cuối cùng thì tay của thằng bé cũng rút được ra ngoài. Lúc ấy, cô thấy bàn tay nhỏ bé của nó vẫn nắm chặt, bảo thế nào cũng không mở ra.
Cô vô cùng sợ hãi nghĩ rằng bàn tay của đứa trẻ ở trong chiếc bình quá lâu nên đã bị biến dạng chăng?
Cô đợi một lúc thấy nắm tay cậu bé cũng từ từ xòe ra. Hóa ra cũng thật đơn giản: trong lòng bàn tay bé nhỏ của nó có một đồng năm xu.
Thấy vậy, cô dở khóc dở cười, bởi vì cái bình vừa bị cô vừa phá là một bình hoa cổ trị giá ba vạn nhân dân tệ.
Nguyên do là cậu bé nghịch ngợm, vô ý đánh rơi đồng xu vào chiếc binh. Nó thò tay vào cố lấy đồng xu ra. Do nắm tay của nó to hơn miệng bình thì làm sao mà rút tay ra được.
Cô nói với cậu con trai:
- “Sao con không thả tay bỏ đồng xu ra? Con phải thả tay như vậy thì mới có thể rút ra ngoài được, mà mẹ cũng sẽ không phải đập vỡ chiếc bình hoa!”
Cậu con trai trả lời:
- “Mẹ ơi, chiếc bình sâu lắm, con sợ bỏ tay ra, đồng xu lại rơi vào mất!”
Vì một đồng năm xu, đập vỡ bình cái bình trị giá ba vạn nhân dân tệ, chuyện này nghe ra thấy thật tức cười.
Nhưng sau khi cười xong rồi, mọi người đều nhận xét rằng: Mặc dù câu chuyện này diễn ra với một đứa trẻ 4 tuổi, nhưng trên thực tế hiện tượng này ở người lớn cũng gặp rất phổ biến.
Có rất nhiều người, nhất là những người có chức danh, thường nắm cái gì đó trong tay quá chặt, cuối cùng dẫn đến chuyện “tham bong bóng bỏ bọng trâu”, thậm chí còn dẫn đến những bi kịch.
Đương nhiên, trong tay họ nắm chặt lấy “đồng tiền”, không phải là 5 xu, mà là điều vô cùng quan trọng theo quan điểm của họ, chẳng hạn như: thành tựu, quyền lực, lợi ích, thể diện, học thức ...
Sở dĩ họ nắm chặt “đồng tiền” không chịu bỏ tay ra là bởi hai lý do chính:
Thứ nhất, đã có những thứ được coi là của riêng mình rồi, thì dù phải chết cũng nắm thật chặt..
Thứ hai, chỉ sợ bỏ tay ra, những điều này sẽ không còn nữa, do đó càng hoảng sợ.
Chúng ta thấy một đứa trẻ nắm chặt đồng năm xu, và cuối cùng chiếc bình 3 vạn tệ bị đập vỡ rất buồn cười, thấy rất đáng tiếc, nhưng chúng ta cũng suy nghĩ: Trong một vài thời điểm, mình không bỏ đi một cái gì đó hoặc là một vài đồng xu bố thí cũng không chịu bỏ, kết quả là mất đi cơ hội và phát triển lớn hơn, thậm chí có thể tạo thành bi kịch không đáng có?
Câu chuyên “5 xu và chiếc bình hoa 3 vạn tệ” này, không phải là một câu chuyện có thực, chỉ là câu chuyện ngụ ngôn trong cuộc sống mà thôi, chẳng lẽ nó không có giá trị để mỗi người nhìn lại chính mình?.
Phạm Thanh Cải dịch
Từ nguyên bản tiếng Hoa trên internet
Nguồn: lz.book.sohu.com
Phạm Thanh Cải
Chung quanh vấn đề nhận thức và đánh giá Hồ Chí Minh hiện nay
Lê Kỳ Sơn
Bốn mươi lăm năm đã qua kể từ ngày Hồ Chí Minh qua đời, lịch sử dân tộc và nhân loại đã trải qua bao biến thiên dữ dội, sự kiện lớn nhất là sự sụp đổ nhanh chóng, bất ngờ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từng tồn tại hơn 70 năm – như một cuộc động đất chính trị, có thể sánh ngang với sự sụp đổ của đế chế La Mã hồi đầu công nguyên.
Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp thống nhất đất nước với cái giá máu xương phải trả được coi là chưa từng có trong lịch sử kháng chiến của dân tộc. Nhưng thắng lợi quá lớn đã làm cho những người chiến thắng say sưa, sinh ra chủ quan, kiêu ngạo; thiếu tinh thần khoan dung của người thắng cuộc để chủ động thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc ; ta cũng đã không biết tận dụng sức mạnh của niềm vui, niềm tự hào chiến thắng, sự yêu mến, cảm phục và sẵn sàng viện trợ của bạn bè quốc tế để tranh thủ đưa cả nước chuyển sang một thời kỳ mới: chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại Tổ quốc, sớm đi tới phồn vinh, thịnh vượng.
Trái lại, cũng do chủ quan, hẹp hòi, tầm nhìn thiển cận, chúng ta đã liên tiếp mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong chính sách đối nội và đối ngoại. Tiếng súng vừa mới im được vài năm, ta đã phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc; việc đem quân vào Campuchia, rồi sa lầy ở đó hơn 10 năm; vụ ‘nạn kiều” và hàng triệu người Việt ồ ạt bỏ nước ra đi,…dẫn đến Việt Nam bị thế giới bao vây, cấm vận, làm cho nền kinh tế đất nước và đời sống của nhân dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn chưa từng thấy. Gỡ ra được cũng đã bị chậm đi mất vài chục năm.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”, với những cơ chế bất cập do “lỗi hệ thống” gây ra, đã tạo điều kiện cho các “nhóm lợi ích” trong bộ máy công quyền lợi dụng thao túng, nền kinh tế đất nước ngày càng suy thoái, tụt hậu, thua kém cả Lào và Campuchia. Nạn tham nhũng lan tràn từ trên xuống dưới, quan to ăn to, quan nhỏ ăn nhỏ, đám thư lại thả sức hạch sách, nhũng nhiễu dân đen, không chuẩn mực đạo đức và pháp lý nào tiết chế nổi. Dân oan khiếu kiện mất đất, mất nhà,…diễn ra hàng ngày ở huyện, ở tỉnh, không ít đoàn kéo lên ăn chực, nằm chờ ở cổng phủ Chủ tịch,…Tiếng kêu than vang vọng đến cả trời xanh, nhưng không vụ việc nào được giải quyết triệt để. Trí thức lên tiếng góp ý, phê phán, đấu tranh, chính quyền đã không chiụ nghe, lại còn bị đe dọa, bắt bớ. Chưa bao giờ phản ứng của người dân lại trở nên công khai, gay gắt, quyết liệt như hiện nay. Phải chăng đó là những nhân tố đang tạo nên những “tổ mối hổng” có thể dẫn đến “sụt toang đê cũ”?
Điều gì đã gây ra bi kịch này, nguyên nhân sâu xa là từ đâu? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự trì trệ, suy thoái nghiêm trọng của đất nước và nguy cơ sụp đổ của chế độ?…Trả lời những câu hỏi đó không tránh khỏi ít nhiều có liên quan đến vấn đề đánh giá vai trò và trách nhiệm cá nhân của Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh lòng dân ly tán hiện nay, sự đánh giá Hồ Chí Minh đang diễn ra theo hai chiều đối nghịch, vậy cần có nhận thức và đánh giá như thế nào để đạt tới sự chính xác, công bằng, khách quan, phù hợp với thực tế lịch sử?
Công lao to lớn của Cụ Hồ đối với sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc là điều không ai có thể phủ nhận. Từ đưa Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles đến Tuyên ngôn Độc lập, rồi chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu,…chặng đường đấu tranh nửa thế kỷ ấy gắn liền với tên tuổi huyền thoại của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Cụ vẫn được coi là người Cha tinh thần đã khai sinh ra chế độ này, vậy Cụ có thể có những liên đới trách nhiệm gì với thực trạng đáng buồn hiện nay không?
Những người phê phán Hồ Chí Minh thường cho rằng mọi tai họa mà dân tộc và đất nước phải gánh chịu hơn nửa thế kỷ qua, phải được xét từ gốc, từ nhân tố khởi nguyên: ấy là do Hồ Chí Minh đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam! Sự thật là như thế nào rất cần được làm rõ.
Đánh giá vai trò của một học thuyết hay một vĩ nhân cần đứng vững trên quan điểm lịch sử cụ thể. Lịch sử không đứng yên, mà luôn luôn vận động, biến đổi. Chủ nghĩa tư bản ở thời kỳ hoang dã, đi xâm chiếm thuộc địa, thì từ đầu đến chân nó đều thấm bùn và máu; khác với chủ nghĩa tư bản hiện đại, biết phát huy sức mạnh của văn hóa, khoa học-công nghệ, dân chủ, pháp quyền,…để dần dần lột xác, trở thành văn minh. Cũng như vậy, chủ nghĩa cộng sản đầu thế kỷ XX và Quốc Tế 3 thời Lênin cũng khác với chủ nghĩa cộng sản đã bị Stalin hóa, Mao-ít hóa sau này. Nếu Quốc Tế 3 không công khai ủng hộ các dân tộc thuộc địa – nếu cũng chỉ như Quốc Tế 2 – chắc gì Nguyễn Ái Quốc đã ngả theo chủ nghĩa cộng sản?
Thứ hai, cũng cần phân biệt điều mà Hồ Chí Minh tự giác, chủ động lựa chọn với điều mà tình thế bắt buộc ông phải chấp nhận (khi không còn con đường nào khác), lại càng khác xa vớinhững điều người khác nhân danh Hồ Chí Minh đã làm!
Vai trò của vĩ nhân là ở chỗ có biết nắm bắt thời cơ và tận dụng được thời cơ do thời cuộc mang lại để thành đạt mục tiêu độc lập, thống nhất hay không; còn cá nhân một lãnh tụ, dù lỗi lạc đến đâu – nhất là lãnh tụ của một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu như nước ta – làm sao có thể vượt qua được vị thế yếu kém của mình, để tác động vào thời đại, nhằm thực hiện thắng lợi lý tưởng, hoài bão mà mình theo đuổi?
Người viết thử mạo muội góp phần đưa ra mấy kiến giải sau đây.
Ai là người đầu tiên đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam?
Chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu tư tưởng, một khuynh hướng chính trị hình thành từ nửa cuối thế kỷ XIX; khi chủ nghĩa tư bản đã hiện nguyên hình tàn bạo, đáng nguyền rủa của nó, thì chủ nghĩa cộng sản đang là một khuynh hướng chính trị-xã hội cấp tiến, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với phần đông trí thức Châu Âu thời bấy giờ. Sang đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nó bắt đầu được truyền tới Trung Quốc bởi những trí thức Tây học như Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Cù Thu Bạch,…dẫn tới việc thành lập Đảng CS Trung Quốc năm 1921.
Ở Việt Nam, vào thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc là người dân đầu tiên của một nước nô lệ, sau những thất bại của lớp chí sĩ cha anh, đã rời nước ra đi tìm một con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Cái khó của Hồ Chí Minh là cái khó của người đi trước thời đại. Vào đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa, vẫn còn là một vấn đề quá mới, chưa có lời giải. Chính Engels đã từng viết (đại ý): Các dân tộc thuộc địa rồi sẽ được giải phóng, khi một dân tộc này đi áp bức một dân tộc khác, dân tộc đó không có tự do. Nhưng “quá trình ấy sẽ phát triển như thế nào, điều này thật là khó nói”; “về điều này, tôi nghĩ rằng hiện nay chúng ta chỉ có thể đề ra những giả thuyết khá bâng quơ mà thôi”[1].
Vào thời điểm Nguyễn Tất Thành ra đi khảo sát thế giới, từ Á sang Âu, chưa có dân tộc bị áp bức nào đấu tranh giành được tự do, chưa có tấm gương thắng lợi nào để soi vào. Ở phương Tây, các đảng Xã hội thuộc Quốc tế II, sau chiến tranh thế giới 1914-1918, do chủ nghĩa dân tộc bản vị, về cơ bản họ vẫn ủng hộ chính sách thuộc địa của các chính phủ tư sản nước mình, họ cũng “đề ra những nghị quyết rất hay (về vấn đề thuộc địa) nhưng để sau đó đưa vào các viện bảo tàng”!
Chỉ duy nhất có Đảng CS Nga, với Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, công khai tuyên bố ủng hộ và giúp đỡ thiết thực cuộc đấu tranh của các dân tộc phương Đông bằng những việc làm cụ thể. Nguyễn Ái Quốc đã từng đặt chân tới nhiều nước phương Tây, từng chìa bàn tay hữu nghị ra với họ, nhưng không được ai nắm lấy! Chính lúc ấy, ông đã tìm thấy ở Luận cương của Lênin một chỗ dựa, một hướng đi mới, nên đã ngả theo Quốc tế 3, gia nhập hàng ngũ cộng sản, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một thực tế ai cũng đều đã biết.
Nhưng Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa cộng sản không phải với động cơ của một người đi tìm chủ thuyết, như một bộ phận trí thức cấp tiến phương Tây thời bấy giờ, chán ghét bất công của chế độ tư bản, họ đã tìm thấy ở chủ nghĩa cộng sản một viễn cảnh đầy hy vọng về một “mùa xuân mới của nhân loại”. Còn ông Nguyễn đến với Quốc Tế 3 từ một nhu cầu cấp bách của dân tộc là đi tìm một phương sách, một con đường cứu nước mới, sau khi các phong trào Đông du và Duy tân đã hoàn toàn thất bại, chứ không phải ông đến với Quốc Tế 3 từ sự giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cộng sản. Vào thời điểm ấy, ông chưa có điều kiện nghiên cứu chủ nghĩa Mác một cách hệ thống, nên đã không được thừa nhận là một người cộng sản thuần thành, vì người ta thấy ông rất ít trích dẫn kinh điển mácxít, màchỉ chú trọng vào vấn đề dân tộc thuộc địa.
Nói Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Việt Nam đầu tiên có thể đúng, nhưng là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam lại là một nhận định cần được xem xét kỹ. Hãy nhìn lại, từ bài phát biểu ở Đại hội Tours, đến các bài báo trên Le Paria, rồi tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản tại Pháp năm 1925,… không có bài viết nào trực tiếp tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản, tất cả đều đứng trên lập trường người dân thuộc địa mất nước mà tố cáo tội ác cai trị tàn bạo, cướp bóc man rợ của chủ nghĩa thực dân; kêu gọi đồng bào thức tỉnh, đứng dậy, đoàn kết đấu tranh giành lại độc lập, tự do.
Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô lần đầu tiên để tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân, tiếp theo là Đại hội V Quốc tế Cộng sản, rồi Đại hội các tổ chức quần chúng như Thanh niên Quốc tế, Phụ nữ Quốc tế,…Nội dung các bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc tại các diễn đàn này nói chung đều không đề cập đến những vấn đề đang đặt ra trong phong trào cộng sản bấy giờ, mà chỉ tập trung vào một chủ đề duy nhất: “Tôi đến đây để không ngừng thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”! Điều này đã gây cho Staline ấn tượng không mấy thiện cảm về Nguyễn Ái Quốc, coi ông “không phải một người cộng sản chân chính mà là một người còn mang nặng tinh thần dân tộc chủ nghĩa ít có”[2].
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, với danh nghĩa thành viên trong phái bộ của Borodine, để xúc tiến công tác tổ chức và huấn luyện, ươm mầm những hạt giống cho cách mạng Việt Nam, sau đó lập ra Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng (chứ chưa phải lập Đảng cộng sản). Theo Trần Dân Tiên viết trong “Hồ Chí Minh truyện” thì từ tôn chỉ, mục đích đến điều lệ của Hội đều được ông mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.[3]
Trong nội dung các bài giảng cho các lớp huấn luyện chính trị tại đây (sau được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh” ) cũng như trong các bài viết của ông trên báo Thanh Niên, chưa thấy nói gì đến mục tiêu thực hiện chủ nghĩa công sản ở Việt Nam, tất cả chỉ chú trọng nói đến nội dung của dân tộc cách mệnh(như khẳng định: dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, sĩ nông công thương đều nhất trí chống lại cường quyền); cách mệnh muốn thành công phải có đảng cách mệnh, đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, phải đoàn kết, lấy công nông làm gốc, vì họ là số đông nhất và bị áp bức nặng nề hơn cả; muốn làm tròn nhiệm vụ cách mệnh, người cách mệnh phải có đạo đức cách mệnh, phải bền gan, phải hy sinh,…
Nói chung, nội dung lý luận của những sách báo đó đều còn sơ giản, để phù hợp với trình độ của phần đông hội viên thanh niên lúc bấy giờ, nên sau này đã bị Hà Huy Tập – người thấm nhuần lý luận “giai cấp chống giai cấp” của Đại Hội VI Quốc tế Cộng sản – phê phán là “cực kỳ sơ đẳng, mang dấu ấn của thứ lý luận hợp tác giai cấp, không xác định động lực của cách mạng Đông Dương, và không hiểu đúng vai trò độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản,…”[4].
Năm 1927, Quảng Châu khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Áí Quốc phải theo phái bộ Borodine trở về Moscow, sau đó cả phái bộ đều bị Staline cách chức, rồi lần lượt bị thanh trừng. Nguyễn Ái Quốc bị bỏ rơi, phải tự tìm đường về Xiêm để hoạt động. Năm 1928, Đại hội QTCS lần thứ VI khai mạc, Nguyễn Ái Quốc không được triệu tập về dự.
Đảng CS Việt Nam thành lập, có phải do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng?
Đầu năm 1930, trước sự xuất hiện và chia rẽ của ba nhóm cộng sản ở trong nước (điều này ngoài dự kiến của Nguyễn Ái Quốc, vì theo ông, điều kiện ở Việt Nam chưa chín muồi cho việc thành lập ĐCS); song với vai trò, trách nhiệm của mình, ông vẫn đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, vì vậy ông được suy tôn là người sáng lập. Các văn kiện do ông thảo ra, như Chính cương, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng, Lời kêu gọi, dưới ký tên: Nguyễn Ái Quốc: Thay mặt QTCS và Đảng CS Việt Nam, đều thấm nhuần những quan điểm của Lênin đã nêu ra trong Luận cương. Nhưng khi gửi sang Liên Xô báo cáo, đã bị QTCS bác bỏ, bởi vì lúc này họ đã xa rời những quan điểm ấy của Lênin, chỉ nhấn mạnh một chiều lý luận “giai cấp chống giai cấp” theo tư tưởng chỉ đạo của Staline tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản 1928.
Sau đó, Trần Phú được cử về, triệu tập Hội nghị TƯ tháng 10-1930, phê phán Hội nghị hợp nhất “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”, lại còn “chia địa chủ ra làm đại, trung và tiểu địa chủ”, lại nói “phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng” cùng một số “sai lầm” khác, rồi ra nghị quyết thủ tiêu các văn kiện của Hội nghị hợp nhất, thông qua Luận cương Chính trị 1930, đổi tên đảng thành Đảng CS Đông Dương, bầu ra BCH TƯ mới, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Cương lĩnh, Điều lệmới đều quán triệt quan điểm “giai cấp chống giai cấp”. Phải chăng, chính khuynh hướng “tả” của Luận cương Trần Phú, sau khi được phổ biến xuống tới các địa phương, đã là một trong những tác nhân góp phần thổi bùng lên phong trào Xô viết ở Nghệ-Tĩnh?
Cần nói thêm rằng, phong trào đó có thể còn bị ảnh hưởng bởi một tổ chức mácxít khuynh tả nữa là Liên Đoàn CS Nam Dương – một chi nhánh của Đảng CS Trung Quốc đã hiện hữu tại Đông Nam Á và Nam Việt Nam từ những năm 1928-1930. Ta được biết, sau Đại hội VI QTCS, Lý Lập Tam, nguyên là đại diện của ĐCS Trung Quốc bên cạnh QTCS, một nhân vật cực tả, đã được Staline chú ý, đưa vào Ban Chấp Hành QTCS, rồi trở thành người đứng đầu Đảng CS TQ. Chính nhân vật này đã đưa Đảng CS TQ đi vào con đường phiêu lưu tả khuynh trong một thời gian dài, gây nên những tổn thất to lớn cho Đảng của họ. Chính họ Lý đã chỉ đạo đẩy mạnh việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, xây dựng và phát triển tổ chức CS trong người Hoa ở Thái Lan, Mã Lai, Nam Việt Nam ,…( trụ sở đặt tại Singapore, nên tổ chức này còn có tên gọi làLiên Đoàn Tân Gia Ba), nhằm phát huy ảnh hưởng của ĐCS Trung Quốc tại Đông Nam Á. Khi Đảng CS Đông Dương thành lập, cử ra Ban TƯ lâm thời gồm bảy người, theo quan điểm quốc tế, họ đã mời một đại diện của tổ chức CS người Hoa ở Sài-Gòn-Chợ Lớn tham gia BCH, đó là Lưu Lập Đạo (tức “A Lầu”). Phải chăng, khẩu hiệu cực tả “trí, phú, địa, hào-đào tận gốc, chốc tận rễ” là do ảnh hưởng từ Liên đoàn này? (Đây là vần đề cần được nghiên cứu thêm).
Những sự việc nói trên đều diễn ra ngoài ý muốn của Nguyễn Ái Quốc , vì lúc này, ông vẫn đang ở nước ngoài và đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa, chỉ còn là “cái thùng thư” chuyển tiếp giữa Quốc tế CS và Ban TƯ trong nước. Góp phần tuyên truyền cho chủ nghĩa CS ở Đông Dương còn phải kể đến báo chí công khai ở Việt Nam thời bấy giờ. Năm 1926, Phan Văn Trường, lần đầu tiên ở Việt Nam, đã cho đăng toàn văn Tuyên ngôn đảng cộng sản của Marx-Engels trên tờ La Cloche Féléecủa ông, từ số 53 đến số 60 (bằng tiếng Pháp). Báo chí của chính quyền thuộc địa, lo sợ trước nguy cơ bùng phát mạnh mẽ của phong trào cộng sản, cũng cho đăng nhiều bài xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa cộng sản để cảnh giới, răn đe, vô tình cũng đã làm một việc tuyên truyền không công chủ nghĩa CS. Đó là chưa nói đến hoạt động và sách báo tuyên truyền của nhóm đệ tứ của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,…và nhà xuất bản Hàn Thuyên trong những năm 1930 sau này. Trong khi đó, Chính cương, Sách lược vắn tắt,…do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, gửi đi Moscow, bị coi là không quán triệt đường lối “giai cấp chống giai cấp”, nên đã bị thủ tiêu ngay từ trong trứng, chưa mấy ai được biết đến các văn kiện này (cho tới khi lần đầu tiên được đưa vào Hồ Chí Minh Toàn tập, t.1, xuất bản lần đầu năm 1980).
Để hiểu được Hồ Chí Minh, cần thiết phải nhận thức trong sự so sánh quan điểm, đường lối của ông với đường lối tả khuynh của Staline và QTCS sau khi Lênin qua đời, nhất là từ sau Đại hội VI 1928. Đặc điểm của chủ nghĩa tả khuynh dưới sự áp đặt của Staline là nhấn mạnh độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, nôn nóng thực hiện ngay cách mạng vô sản khi các điều kiện kinh tế-xã hội chưa chín muồi, đề cao chuyên chính vô sản và bạo lực cách mạng, sử dụng guồng máy chuyên chính để đàn áp, sẵn sàng bắt bớ, thủ tiêu những người có ý kiến khác biệt; mang nặng chủ nghĩa biệt phái, đề cao công nông nhưng không trọng dụng trí thức; không cho phép các ĐCS được liên minh tạm thời với các Đảng Dân chủ Xã hội, không đánh giá đúng mức sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc ở thuộc địa, không cho phép người cộng sản hợp tác tạm thời với các đảng phái yêu nước và dân chủ ở các nước họ…Nói chung là Staline đã từ bỏ những quan điểm đúng đắn của Lênin mà Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và kiên trì bảo vệ.
Quan điểm, đường lối chính trị của Hồ Chí Minh hình thành từ nền tảng văn hóa phương Đông của ông. Sớm đi sang phương Tây, văn hóa Hồ Chí Minh còn là sự chưng cất tinh hoa văn hóa ÂuTây, đặc biệt là lý tưởng Tự do-Bình đẳng-Bác ái của cách mạng Pháp, vì vậy, tư tưởng chính trị của ông cũng không đóng khung trong một học thuyết duy nhất nào. Hồ Chí Minh từng viết: “Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn Dật Tiên,…đều có những điểm chung giống nhau, đó là cùng mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Tôi cố gắng là người học trò nhỏ của các vị ấy”[5]. Như vậy, mọi lý thuyết, chủ nghĩa đối với ông đều có cái hay, đều cần phải nghiên cứu, tham khảo, học lấy cái đúng, cái tốt, nhưng tất cả đều chỉ là phương tiện để đạt mục đích là giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là tóm tắt học thuyết “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh.
Nói cách khác, tư duychính trị Hồ Chí Minh luôn phấn đấu hướng theo những giá trị chung của nhân loại. Cuốn sách đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc dịch sang tiếng Việt không phải “Tuyên ngôn đảng cộng sản” mà là “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu!
Do đó, tuy đã gia nhập hàng ngũ cộng sản, nhưng trong căn cốt, ông vẫn là người yêu nước, ông dám vượt qua một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản ngay cả khi đang sống giữa trung tâm của nó ở Moscow. Sau khi phân tích những đặc điểm kinh tế-xã hội-văn hóa-lịch sử của các dân tộc Viễn Đông, ông khẳng định:“Cuộc đấu tranh giai cấp ở đó (tức Đông Dương) không diễn ra giống như ở phương Tây”, “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…,người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[6].
Ông không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất mà lấy đại đoàn kết dân tộc làm trọng; không nhấn mạnh chuyên chính vô sản mà đề cao nhà nước dân chủ; đề cao và tin dùng trí thức, kể cả trí thức cũ. Ông chủ trương lấy dân làm gốc, lúc nào cũng tâm niệm: Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết, nhân dân trên hết; lợi ích của giai cấp, của bộ phận phải phục tùng lợi ích chung của cả quốc gia, dân tộc. Học thuyết của ông có thể tóm tắt trong 9 chữ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
Dựa theo những cứ liệu đó, nhà sử học Pháp Pierre Brocheux – người đã dành cả cuộc đời nghiên cứu về Hồ Chí Minh – từng đưa ra ý kiến riêng: “Tôi cho rằng ông Hồ Chí Minh về bản chất thực ra là một người theo Khổng giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng giáo – một truyền thống ý thức hệ Đông Á – với các dòng tư tưởng châu Âu, từ chủ nghĩa Mác đến chủ nghĩa Lênin…Theo tôi, trước sau ông là một người tốt, một người Khổng giáo. Những gì người ta nói về ông ở Việt Nam hiện nay, chỉ đúng một phần thôi. Ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân văn và tính công bằng xã hội theo kiểu Khổng giáo”[7]. Đó là một ý kiến được nhiều học giả trong, ngoài nước chú ý và chia sẻ.
Sau những trải nghiệm đau buồn riêng của Nguyễn Ái Quốc qua hai thời kỳ sống, hoạt động, học tập ở Liên Xô, niềm tin của ông vào Liên Xô và QTCS như là chỗ dựa duy nhất cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, không còn nguyên vẹn như xưa. Ông nhận thấy cách mạng Việt Nam có thể và cần phải có thêm nhiều chỗ dựa khác, do đó cần chủ động tìm ra những phương thức liên minh tạm thời, hợp tác rộng rãi (theo tinh thần của Lênin) nhằm tranh thủ mọi sự giúp đỡ có thể và có lợi cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.
Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô cuối năm 1938, tình hình thế giới đã có những biến chuyển lớn: chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Liên Xô đã hợp tác với Anh, Mỹ , Pháp,…hình thành phe Đồng minh chống phát xít; năm 1943, QTCS tuyên bố tự giải tán, để các ĐCS được quyền chủ động hơn, phù hợp với điều kiện của mỗi nước. Ở Trung Quốc, hai phe Quốc-Cộng lại hợp tác với nhau lần thứ hai để cùng chống Nhật. Sau khi bắt được liên lạc với tổ chức Đảng trong nước, Nguyễn Ái Quốc lập tức tranh thủ về nước chỉ đạo phong trào.
Lúc này, Ban TƯ cũ chịu ảnh hưởng của xu hướng Trần Phú, Hà HuyTập hầu hết đã bị bắt và hy sinh, Ban TƯ lâm thời được thành lập trên cơ sở Ban lãnh đạo Xứ ủy Bắc Kỳ- gồm những người vốn có quan điểm “ôn hòa” hơn (Ban Xứ ủy Bắc Kỳ thời kỳ Trịnh Đình Cửu làm bí thư, vẫn cho rằng đường lối của QTCS mà Trần Phú là đại diện, không phù hợp với thực tế Việt Nam, nên không tán thành, không tích cực thực thi, thường bị Trần Phú nhắc nhở, phê phán, đe dọa kỷ luật). Nguyễn Ái Quốc trở về trong hoàn cảnh Ban TƯ lâm thời tự lập, do Trường Chinh đứng đầu, đang cần được thừa nhận chính thức, nên đã xem Nguyễn Ái Quốc như là đại diện của Quốc tế và suy tôn như là lãnh tụ tối cao của Đảng. Có thể coi đây là cuộc gặp gỡ lịch sử, nếu không có cơ sở quần chúng cách mạng do Xứ ủy Bắc Kỳ gây dựng, không có sự suy tôn và nhất trí hợp tác của Trường Chinh, chưa chắc Cách mạng tháng Tám 1945 đã có thể bùng nổ thuận lợi và thành công như đã diễn ra!
Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị TƯ 8 – 1941 đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc; còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng bước và phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Nghị quyết Hội nghị vạch rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải được đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc; không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[8]. Nghị quyết Hội nghị TƯ 8 – 1941 thực chất là sự trở lại với đường lối, quan điểm đã được Nguyễn Ái Quốc vạch ra trong Chính cương, Sách lược vắn tắt từ Hội nghị hợp nhất đầu năm 1930.
Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc viết thư kêu gọi: “Hỡi đồng bào! Hỡi các bậc phụ huynh! Hỡi các bậc hiền huynh chí sĩ! Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! [9], nghĩa là nhằm vào mọi tầng lớp nhân dân, chứ không phải chỉ chú ý kêu gọi Hỡi công nông như Trần Phú ngày trước. Ta hiểu vì sao, sau năm 1945, Hồ Chí Minh đã thực tâm dùng Cựu hoàng Bảo Đại làm Cố vấn tối cao, đã mời các trí thức, quan lại trong chính quyền thực dân, phong kiến cũ, tham gia vào Chính phủ mới sau cách mạng; đã trả lại tự do cho Ngô Đình Diệm, cũng như sau này đã không loại trừ khả năng sẵn sàng đàm phán với ông ta để tìm ra một giải pháp cho công cuộc hòa bình, thống nhất đất nước…
Việc ông Nguyễn chủ động liên hệ với Tướng Claire Chennault-Tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ mang tên “Cọp bay” đóng ở Côn Minh và với đơn vị OSS (Cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ )- nhân vụ trao trả trung úy phi công Shaw cho họ – là một cơ hội để tuyên truyền, giới thiệu, nêu cao thanh thế của phong trào Việt Minh, nhằm tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của lực lượng Đồng minh – ít nhất là trên danh nghĩa – cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Việc ông lên đường đi Trùng Khánh năm 1942 để tìm gặp Tưởng Giới Thạch, cũng là nhằm tìm kiếm sự hợp tác chống kẻ thù chung của hai dân tộc Hoa-Việt là phát xit Nhật,…Tất cả những việc làm đó đều nằm trong chiến lược tranh thủ liên minh, hợp tác quốc tế rộng rãi của Hồ Chí Minh, nhất là trong điều kiện Quốc tế 3 đã tuyên bố tự giải tán.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập nhưng không được một quốc gia nào công nhận. Quá khứ cộng sản của Hồ Chí Minh đã làm các nước Đồng minh e ngại. Tình báo Xô viết thừa biết Hồ Chí Minh là ai, nhưng Kremlin vẫn giữ thái độ im lặng, thực tế như đã bị bỏ rơi. Lúc này, để vượt qua nguy cơ mất còn, Hồ Chí Minh đã khôn khéo thi hành một đối sách hòa hoãn cực kỳ mềm dẻo mà cũng phi thường dũng cảm, đó là:
– Đối với Tầu Tưởng, ông tuyên bố Đảng CS Đông Dương tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Hai là, chấp nhận cải tổ Chính phủ, rút bớt các thành viên cộng sản ra ngoài, lui ngày Tổng tuyển cử, tạo điều kiện cho các đảng đối lập có thêm thời gian chuẩn bị tham gia; sau bầu cử, lại chấp nhận cho họ thêm 70 ghế đại biểu không qua bầu cử; trên cơ sở đó Quốc hội cử ra Chính phủ liên hiệp gồm 10 bộ, trong đó Việt Minh 2, Dân chủ 2, Việt quốc 2, Việt cách 2, không đảng phái 2 (vẻ như Việt Minh chỉ là thiểu số).
– Đối với thực dân Pháp, Hồ Chí Minh biết rõ người Pháp chưa chịu từ bỏ chính sách tái thuộc địa hóa Đông Dương, họ đàm phán với Tưởng rồi ký Hiệp định Pháp-Hoa ngày 28-2-1946, bằng cách trả lại những tô giới thuộc Pháp trên đất Tàu, bán lại đường sắt Lào Cai-Vân Nam, cho phép Tưởng dùng cảng Hải Phòng để vận chuyển hàng hóa quá cảnh miễn thuế qua đường Việt Nam, …Đổi lại quân đội Pháp được phép đem quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng. Nhưng muốn đem quân ra Bắc êm thấm, không gặp đụng độ quân sự, Pháp buộc phải điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Tình thế trên đây đặt ra câu hỏi: ta phải quyết đánh hay tạm hòa với Pháp?
Cân nhắc tương quan lực lượng, Cụ Hồ chọn giải pháp tạm hòa. Từ cuối tháng 2-1946, hai bên xúc tiến đàm phán. Điều khoản gay cấn nhất là ta đòi Pháp phải thừa nhận quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam; còn Pháp chỉ muốn công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị. Nếu Hiệp định Pháp- Việt chưa được ký kết thì quân Tưởng chưa thể rút đi, quân Pháp chưa được phép đổ bộ vào Hải Phòng, xung đột đổ máu giữa các bên sẽ vẫn tiếp tục nổ ra. Để tháo gỡ tình hình, Hồ Chí Minh đưa ra giải pháp nhân nhượng:
– Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre, thay cho từ indépendance,độc lập) có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, ở trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp phải cam đoan thừa nhận kết quả của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.
– Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp được vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa và sẽ phải rút hết sau thời hạn 5 năm.
Đây là một giải pháp “Câu Tiễn”, nhờ đó, Hiệp định sơ bộ 6-3 đã được ký kết. Nhưng các đảng phái đối lập lại muốn phá, vì nếu đánh nhau, Việt Minh sẽ thua, họ sẽ được lợi, nên đã ra sức vu cáo Hồ Chí Minh là “bán nước”. Nhưng đại đa số dân chúng Việt Nam lại chấp nhận một thỏa hiệp tạm thời với Pháp cốt để đuổi được gần 20 vạn quân Tầu về nước, bởi chính họ mới là kẻ thù truyền kiếp của dân ta, đã mấy ngàn năm nay, chưa bao giờ họ từ bỏ dã tâm xâm lược và đồng hóa dân tộc ta. Vì vậy, ở thời điểm này, Hồ Chí Minh đã phải nói ra một câu – mà báo chí “lề phải” ở Việt Nam chưa bao giờ dám nhắc lại:“Thà chịu ngửi phân của người Pháp trong 5 năm còn hơn là phải ngửi phân của người Tầu trong hàng nghìn năm!”[10]. (Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh không mơ hồ gì về kẻ thù truyền kiếp của dân tộc).
Nếu Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 được Pháp nghiêm chỉnh thực hiện thì Việt Nam đã không phải tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ và chủ nghĩa thực dân Pháp đã không bị chôn vùi ở Điện Biên Phủ; Việt Nam sẽ ở trong Khối Liên hiệp Pháp (Union Français) và biết đâu, chắc gì Việt Nam đã buộc phải ngả theo CS Tàu sau năm 1949, trong khi Staline vẫn ngoảnh mặt làm ngơ? Là một nhà chính trị thực tiễn, Cụ Hồ đã nhận thấy mục tiêu cộng sản là điều còn rất xa vời, nên từng nhiều lần tuyên bố: “Tôi là người cộng sản, nhưng điều quan tâm lớn nhất của tôi là nền độc lập của Việt Nam. Tôi bảo đảm với các ngài rằng sau 50 năm nữa, chủ nghĩa cộng sản vẫn sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam !”[11].
Do thái độ không thức thời của giới cầm quyền Pháp lúc đó, tiêu biểu là De Gaulle, nên cơ hội này đã bị tuột mất. Hai mươi năm sau, chính De Gaulle đã có sự nhìn nhận muộn màng về trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương thời đoạn 1945-1946. Trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1966, ông viết: “ Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau Đại chiến thế giới 2 thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giày xéo đất nước Ngài hôm nay”[12].
– Đối với Mỹ và phương Tây: Sự kiện Tổng thống F. Roosevelt tuyên bố sau chiến tranh kết thúc sẽ không trao trả các thuộc địa cũ ở Đông Dương cho Pháp, mà sẽ cho các nước này được hưởng chế độ “ủy trị” của Liên Hiệp quốc; rồi người Mỹ đã đi trước thực hiện trao trả độc lập cho Philippines ngay sau chiến tranh kết thúc,… Những sự kiện đó đã có sức hấp dẫn rất lớn đối với Hồ Chí Minh, nên thông qua mấy nhân vật quen biết trong nhóm OSS, Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập của Việt Nam .
Trong 2 năm 1945-1946, Hồ Chí Minh đã viết 8 bức thư gửi tới Tổng thống Harry Truman và 3 thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao James Byrnes, nhằm kêu gọi Mỹ, với tư cách một quốc gia bênh vực và bảo vệ Công lý thế giới, sẽ có những bước đi mạnh mẽ trong việc ủng hộ nền độc lập của Việt Nam; đồng thời bày tỏ nguyện vọng của Việt Nam muốn được hợp tác toàn diện với Mỹ, muốn được gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ học tập, nhằm tiếp thu thành tựu kỹ thuật hiện đại của Mỹ. Ông cũng tuyên bố sẵn sàng để cho Mỹ đặt căn cứ hải quân tại Cam Ranh,…Chính Hồ Chí Minh đã sớm chủ động cho thành lập Hội hữu nghị Việt-Mỹ, và tham dự lễ ra mắt của Hội này tại Hà Nội, cùng với sự có mặt của tướng Mỹ Gallagher, v.v..
Đầu tháng 12-1946, Hồ Chí Minh đã tiếp Abbott Low Moffatt, giám đốc Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Mỹ, được cử sang Đông Dương tìm hiểu tình hình. Sau buổi tiếp, Moffatt đưa ra nhận xét: “Hồ Chí Minh trước hết là một người yêu nước, nhiệt tình đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, ông có thể được coi như là một Titô ở châu Á”[13].
Những ứng xử trên cho thấy Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước thức thời, ôn hòa, giỏi ứng biến, chứ đâu phải là một người cộng sản cứng nhắc, cực đoan! Nếu những nỗ lực trên của Hồ Chí Minh được phía Mỹ tiếp nhận thì Việt Nam đã là một nước cộng hòa dân chủ không bị chia cắt, đã mở cửa, sớm phát triển nền kinh tế thị trường, Mỹ đã không phải đổ của, đổ người vào cuộc chiến tranh Việt Nam, rồi sa lầy tại đây trong khoảng hơn 20 năm! Tiếc thay, lịch sử lại không hề biết đến chữ “nếu”!
Bên cạnh đó, Cụ Hồ còn cử nhiều phái đoàn thân thiện của Việt Nam đi thăm các nước khác: Phạm Văn Đồng dẫn đầu Đoàn đại biếu Quốc hội Việt Nam đi thăm hữu nghị nước Pháp; cử Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ (là đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng trong Chính phủ Liên hiệp) dẫn đầu Đoàn ngoại giao, trong đoàn có Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy, sang Trùng Khánh để xin tiếp kiến Tưởng Giới Thạch; cử Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch-với tư cách đại diện đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh – sang Pháp gặp M. Thorez, sang Ý gặp Đại sứ Liên Xô Koulajenkôp, đến Ấn Độ gặp J. Nehru, để thông báo về tình hình Việt Nam và đề nghị giúp đỡ vật chất, tinh thần cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Tiếc rằng các hoạt động đó đều không đạt kết quả mong muốn.
Hồ Chí Minh tái hòa nhập với Moscow và phe xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nào?
Do đánh giá sai tình hình, Pháp muốn đánh nhanh, thắng nhanh vào lúc lực lượng vũ trang của Việt Nam vừa thành lập, số lượng nhỏ, trang bị kém, khó có thể chống lại một quân đội nhà nghề được trang bị tối tân như quân đội Pháp, giỏi lắm cũng chỉ tồn tại được trong vài ba tuần lễ! Họ ra sức khiêu khích, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu đối với đồng bào ta ở nhiều nơi, buộc ta phải chống lại. Chiến tranh đã nổ ra. Để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ thành phố, rút về nông thôn, lên miền núi, xây dựng căn cứ địa, thực hiện phương châm “kháng chiến trường kỳ”.
Thu-Đông 1947, ta bẻ gãy được cuộc tiến công 2 gọng kìm của Pháp lên chiến khu Việt Bắc, địch tổn thất nặng nề, nhưng xuýt nữa, quân nhảy dù của họ bắt được cơ quan đầu não của ta! Nếu họ đủ sức mở tiếp cuộc tiến công thứ 2, liên minh được với Tưởng, thực hiện dưới đánh lên, trên đánh xuống, thì cuộc kháng chiến của quân dân ta có nguy cơ bị dập tắt hoàn toàn! Bởi lấy gì mà chống lại, khi số vũ khí, đạn dược ít ỏi ta lấy được của Nhật, mua lại của Tầu, đã được dùng hết! Ta lại đang trong thế bị bao vây tứ bề, thoát ra bằng cách nào? Tình hình đó buộc Cụ Hồ phải tìm cách cầu hòa với Chính phủ Tưởng Giới Thạch, nếu không được giúp đỡ thì cũng phải trung lập hóa vai trò của họ. Một phái đoàn được cử sang Nam Kinh, với lễ vật hậu hĩnh, để thuyết phục Tưởng tuân theo tôn chỉ “phù nhược, ức cường” của Tôn Trung Sơn, ủng hộ các dân tộc nhược tiểu đang đấu tranh chống các cường quốc thực dân, giành lại độc lập dân tộc.
Chuyến đi chưa được giải mã, chỉ biết rằng sau đó tình hình quốc tế có những chuyển biến rất nhanh chóng: Giải phóng quân Trung Quốc “thần tốc Nam hạ”, buộc quân Tưởng phải bỏ chạy ra Đài Loan; tháng 10-1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, rồi nước CHDC Đức cũng ra đời, hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ Tây sang Đông.
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc khiến cho Mỹ lo ngại: nếu Pháp thất bại ở Đông Dương, dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á có khả năng ngả theo con đường cộng sản hóa, Mỹ thấy đã đến lúc phải can thiệp vào Đông Dương. Một mình ta đánh nhau với Pháp đã khó, nay lại có thêm sự can thiệp của Mỹ, ta sẽ đối phó thế nào, phải hành xử ra sao?
Nhẫn nại, kiên trì hòa hoãn mãi với phương Tây mà không thành, để thoát khỏi nguy cơ xấu nhất, Hồ Chí Minh chỉ còn một con đường duy nhất: bắt mối quan hệ với Đảng CS Trung Quốc, thông qua họ để nối lại quan hệ với Kremli, tái hòa nhập phong trào cộng sản quốc tế.
Mao hưởng ứng ngay, vì phù hợp với ý đồ của họ: cần có một “phên dậu” ở phía Nam, giúp Trung Quốc tránh phải đụng độ trực tiếp với đế quốc – điều kiện cần để họ tập trung vào xây dựng và phát triển trong hòa bình.
Song việc thuyết phục Staline đồng tình lại không đơn giản. Thứ nhất, Việt Nam là một nước nhỏ, lại ở quá xa Liên Xô, chưa có vai trò gì trong chiến lược đối ngoại của Liên Xô lúc bấy giờ. Hai là, Việt Nam vốn là thuộc địa cũ của Pháp, mà Pháp hiện đang là đối tác chiến lược Liên Xô cần tranh thủ ở Tây Âu, hai nước đã ký với nhau Hiệp định hợp tác,bất tương xâm Pháp-Xô (1944-1964) hiện vẫn đang còn giá trị; đối với Staline, Việt Nam không quan trọng bằng Pháp. Ba là, bản thân Staline vốn từ trước đã không mấy tin tưởng vào Hồ Chí Minh; nay theo báo cáo của KGB thì Hồ Chí Minh có vẻ như đang muốn ve vãn phương Tây, nhất là qua hai bức thư của Trần Ngọc Danh (em trai Trần Phú) gửi Staline, phê phán Hồ Chí Minh đang đi theo con đường của chủ nghĩa dân tộc tư sản, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản và học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác,…Vì vậy, ban đầu Staline đã từ chối không nhận tiếp Hồ Chí Minh. Sau nhờ sự kiên trì thuyết phục của Mao và Chu, Staline đồng ý tiếp, nhưng không công khai, mà tiếp trong phòng làm việc riêng của mình, với sự có mặt hạn chế của vài nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Chính phủ Liên Xô.
Trong cuộc tiếp, Staline đã thẳng thắn phê bình Hồ Chí Minh ba điều: vấn đề tự ý giải tán Đảng, vấn đề thành phần Chính phủ (lắm nhân sĩ, trí thức, quan lại cũ, …ý nói không phải chính quyền công nông), việc không chịu tiến hành cải cách ruộng đất. Sau đó, yêu cầu Hồ Chí Minh phải viết một bài tự phê bình về các vấn đề trên, để đăng trên tờ báo của Cục thông tin Quốc tế Cộng sản (Kominform) “Vì một nền hòa bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân”[14] . Còn vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, Staline phân công cho Trung Quốc đảm nhiệm, vì ở ngay sát Việt Nam, đồng thời nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Rõ ràng là Liên Xô không muốn công khai dính líu đến vấn đề Việt Nam ở thời điểm nhạy cảm này.
Dù chỉ được đón tiếp lạnh nhạt, chuyến đi của Hồ Chí Minh đến Liên Xô đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi thế cô lập, tái hòa nhập với phong trào CSQT, mở ra hậu phương lớn, nhờ đó đưa cuộc kháng chiến của ta đi đến thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Nhưng cũng từ đây sẽ phát sinh những hệ lụy phức tạp mà Hồ Chí Minh phải gánh chịu về sau này. Sự viện trợ về quân sự và kinh tế đi liền với những áp đặt về quan điểm chính trị, về cơ chế, tổ chức,…theo mô hình của Trung Quốc. Từ đây, Hồ Chí Minh rất khó có thể giữ được hoàn toàn độc lập, tự chủ như ở giai đoạn trước.
Mặc dù có sự thúc ép rất mạnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh vẫn nấn ná, trì hoãn trong thực hiện các chỉ thị của Staline. Phải sang đầu năm 1951, ông mới tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ II, đưa Đảng CS ra công khai, nhưng đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam; năm 1953 mới phát động quần chúng thực hiện giảm tô, năm 1954 mới thí điểm cải cách ruộng đất ở một vài vùng trung du; sau hòa bình 1955-56 mới triển khai rộng rãi trên toàn miền Bắc. Đặc biệt, họ đòi ta phải cải tổ quân đội, đặt ra hệ thống chính ủy, ép ta phải thay thế những tướng tá, cán bộ chỉ huy các cấp có nguồn gốc xuất thân trí thức, tiểu tư sản bằng những cán bộ gốc gác công nông! (thực ra là muốn tạo ra một đội ngũ tướng tá mới để dễ bề thao túng hơn). Vị tướng phụ trách Tổng cục cán bộ đã trình lên Hồ Chí Minh một danh sách hàng trăm người phải thay thế, trong đó có cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp! Song Cụ Hồ đã kiên quyết phản đối: “Gạt ra một lúc từng này người, lấy ai mà chỉ huy? Phải đốt ngay danh sách đó đi!”. Nhưng rồi có điều Cụ cũng phải nhượng bộ, chấp nhận đề bạt thêm một đại tướng xuất thân công nông, phụ trách chính trị để cân bằng với Võ Nguyên Giáp! (mà theo lý thuyết của Mao thì chính trị vẫn cao hơn quân sự).
Dưới sức ép của các cố vấn Trung Quốc, hàng loạt sai lầm tả khuynh đã diễn ra sau đó, đau đớn nhất là sai lầm trong cải cách ruộng đất; là không khí đấu tố căng thẳng trong chỉnh huấn, chỉnh quân, có người đã phát điên, có người phải tự vẫn! Nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, xuất thân gia đình lớp trên, lo sợ, đã từ bỏ kháng chiến về thành. Sau Hiệp định Giơ-ne 1954, hàng chục vạn đồng bào đã bỏ quê hương di cư vào Nam. Cụ Hồ rất đau đớn trước nhưng tổn thất đó, Người đã phải khóc, nhận lỗi trước Quốc hội và thực tâm Cụ muốn điều chỉnh lại chính sách. Nhưng phía Trung Quốc đã có phản ứng tiêu cực. Chu Ân Lai từng phát biểu thẳng với ta (đại ý): Thắng lợi trong cải cách là cơ bản, còn oan sai-dù có lên tới ngàn vụ- nếu so với cải cách ruộng đất ở Trung Quốc liệu có thấm thá gì mà phải làm ầm ỹ đến như thế! Lưu Thiếu Kỳ thì đã phát biểu trong Hội nghị TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 25-03-1963 rằng: “Hồ Chí Minh xưa nay vẫn là tay hữu khuynh…Sau chiến cuộc 1954, ông ta vẫn còn chần chừ, không dứt khoát chọn chế độ tư bản hay xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta (tức ĐCS Trung Quốc) đã phải quyết định cho ông ta”[15]!.
Một dân tộc nhược tiểu muốn đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, không thể không tranh thủ liên minh, liên kết quốc tế, lợi dụng sức mạnh thời đại để chiến thắng kẻ thù, theo sách lược phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Mặc dù đã rất khôn khéo điều chỉnh và chấp nhận thỏa hiệp nhất định với thực tế cay nghiệt của hoàn cảnh nhằm đạt được mục tiêu cao cả nhất là độc lập, thống nhất cho dân tộc, song Hồ Chí Minh đã không thể dự kiến hết được mọi diễn biến phức tạp về sau, nên đã phải gánh chịu những điều tiếng nặng nề, nhất là về sau này, khi “người đồng chí quốc tế vô sản” đã hiện nguyên hình là “kẻ thù xâm lược bành trướng Đại Hán”!
Nhưng không thể vì những éo le đó của lịch sử, mà đi đến quy kết những nhân nhượng của Cụ Hồ khi phải ký Hiệp định sơ bộ 6-3 là hữu khuynh; không thể coi việc từng bước phải chấp nhận những áp đặt đường lối của Mao sau 1950, là đã rơi vào “tả” khuynh; cũng như không thể cho là đã mắc sai lầm khi phải chấp nhận ký vào bản Hiệp định Genève 1954 mà kết quả của nó không phản ánh đúng tương quan lực lượng trên chiến trường, …Đơn giản vì xưa nay một nước nhỏ, trong thế phụ thuộc vào những nước lớn, khó có thể tự quyết định được số phận của mình. Đó là những ràng buộc khắc nghiệt của hoàn cảnh mà Hồ Chí Minh và Đảng CS Việt Nam đã không thể vượt qua. Chân lý “không gì quý hơn độc lập, tự do” được Cụ đúc kết từ những trải nghiệm qua nhiều mối quan hệ, trong đó có cả quan hệ với ông bạn “vàng” từng được coi “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Cảm quan về nỗi “cay đắng” này từ sớm đã được Cụ viết ra thành thơ:
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ,
Để người ta dắt tựa trâu bò.
(“Nhật ký trong tù”)
Vai trò và trách nhiệm của Hồ Chí Minh giai đoạn sau 1954.
Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu được coi là một trong những sự kiện lớn nhất của thế kỷ XX, nó đã đào mồ chôn chủ nghĩa thực dân Pháp đồng thời mở đầu cho sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi của hệ thống thuộc địa trên phạm vi toàn thế giới, làm cho tên tuổi Việt Nam –Hồ Chí Minh được cả loài người biết đến và hết lòng khâm phục. Nhân loại đã nhất trí suy tôn Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà yêu nước vĩ đại của Việt Nam , đồng thời là chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa”! Có lẽ, đây là sự vinh danh cao cả nhất, đúng đắn nhất, xứng đáng nhất với Hồ Chí Minh – một người đã nửa thế kỷ không ngừng đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Một cuộc đời như thế, tuy chưa thật trọn vẹn, nhưng có thể nói là đã hoàn toàn xứng đáng đứng vào hàng các vĩ nhân của nhân loại trong thế kỷ XX.
Nhưng khi đất nước chuyển sang thời kỳ hòa bình, xây dựng, thực hiện thống nhất nước nhà, vai trò của Hồ Chí Minh như thế nào, Cụ có những nhược điểm, hạn chế gì không?
Như một tấm huân chương có mặt phải, mặt trái; con người cũng có mặt ưu, mặt nhược, mà như người ta thường nói: có khi nhược điểm lại là cái bóng nối dài của ưu điểm. Vĩ nhân cũng chỉ là một con người, mà con người nào chẳng bị giới hạn bởi đời sống trần thế. Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử nên cũng chịu sự ràng buộc của điều kiện lịch sử. Ông là người Việt Nam nên cũng chung đúc cả tinh hoa lẫn nhược điểm của dân tộc Việt Nam. Từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã phải liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, những nhân vật được nhân dân phong “thánh”, từ Thánh Gióng, Đức thánh Trần, đến Hồ Chí Minh,…đều là những anh hùng chống ngoại xâm. Trí tuệ dân tộc dồn tất cả cho sự nghiệp giữ nước, nên thành tựudựng nước không mấy dồi dào, lịch sử nước ta thiếu những nhân vật “kinh bang, tế thế” lỗi lạc, mở ra cho dân tộc những thời kỳ phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa, tư tưởng,… Do bị ngoại thuộc sớm ngay khi vừa lập quốc, trong hàng ngàn năm Bắc thuộc, ta chưa kịp sáng tạo ra chữ viết riêng, nên cũng không có triết học riêng, tôn giáo riêng,… nói chung là đều du nhập,vay mượn từ nước ngoài, mà ta cũng không tiếp thu cái gì cho thật hoàn chỉnh, sâu sắc, hệ thống để từ đó vượt lên, sáng tạo ra cái riêng, với tư cách là sản phẩm của Việt Nam.
Vì vậy, các nhà nghiên cứu suy tôn Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận, hay nhà văn hóa,…kèm theo những tính từ rất cao, cũng chỉ là một cách bồi dưỡng niềm tự hào cho nhân dân mình, còn Hồ Chí Minh – với bản chất khiêm nhường – ngay từ lúc còn sống, Cụ đã khước từ mọi danh hiệu người đời gán cho. Ví như Cụ từng nói: Nhà thơ gì tôi? Trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế thôi! Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất.
Để góp phần đánh giá khách quan về Hồ Chí Minh ở thời kỳ sau hòa bình, ta hãy thử xét qua một vài phương diện cơ bản:
A. Về xử lý mối quan hệ giữa đức trị và pháp trị:
Hồ Chí Minh vốn là một môn đệ của Nho giáo, nên rất coi trọng đức trị, lấy đức làm gốc; bản thân suốt đời nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư,…Trong kháng chiến, Cụ chưa có điều kiện chăm lo đến xây dựng nền pháp trị. Dù đã từng lập ra Bộ Tư pháp ngay từ năm 1945, song chịu sức ép của quan điểm mao-ít, lại giải thể nó đi trong hơn 10 năm, nên đến lúc qua đời năm 1969, Cụ Hồ cũng chỉ mới thông qua được có 16 đạo luật, còn lại, toàn là sắc lệnh.
Song không phải Cụ coi nhẹ vai trò của pháp luật, khi cần nghiêm khắc, Cụ vẫn rất nghiêm khắc để giữ vững kỷ cương, phép nước, như đã từng ký lệnh xử tử hai cán bộ cao cấp (Đại tá Trần Dụ Châu và Thứ trưởng Trương Việt Hùng), điều mà những người kế tục ông sau này chưa ai theo được tấm gương ấy – mặc dù mức độ tham nhũng và sa đọa của những kẻ phạm pháp hiện nay còn lớn gấp trăm nghìn lần hơn so với hai nhân vật được nhắc đến ở trên.
Không hình thành được ý thức và tập quán “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”trong cán bộ và nhân dân, có nguyên nhân sâu xa từ trong truyền thống “phép vua thua lệ làng” của xã hội phong kiến-tiểu nông ngày xưa (có lúc còn được ta đề cao như là biểu hiện của tinh thần phản kháng). Dù sao Cụ Hồ cũng phải chia sẻ một phần trách nhiệm trong vấn đề này, vì chưa nhận thức được nhược điểm cố hữu của dân tộc, để sớm xử lý đúng đắn mối quan hệ tương hỗ giữa pháp trị với đức trị.
Người ta thường nói: pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa. Trong môi trường làng xã nhỏ hẹp ngày xưa, các gia đình, dòng họ sống với nhau nhiều đời, hiểu biết về nhau rất kỹ, chỉ làm một việc xấu, dù nhỏ, cũng lan đi rất nhanh, cả làng đều biết. Sống ở làng, dư luận có vai trò điều tiết đạo đức rất lớn, nên ai cũng phải giữ gìn. Nhưng đi vào xã hội đô thị hiện đại, chỉ riêng đạo đức thôi không đủ, phải tăng cường vai trò của pháp luật, phải luật hóa những chuẩn mực đạo đức tối thiểu, buộc ai cũng phải tuân theo, để từ cưỡng chế trở thành thói quen tự giác của toàn xã hội.
Đạo đức cách mạng không phải là những chuẩn mực bình thường, mà là những yêu cầu đạo đức rất cao, không thể đạt được chỉ bằng kêu gọi và nêu gương, mà phải được quán triệt vào trong cơ cấu, thể chế, tổ chức, biến nó thành pháp luật,…buộc ai cũng phải thực hiện, nếu không muốn bị pháp luật trừng trị hay đào thải. Do những chuẩn mực đạo đức không sớm được thể chế hóa thành luật, nên bản thân tấm gương đạo đức của Cụ Hồ cao đẹp, hấp dẫn đến như thế mà vẫn không đủ sức ảnh hưởng, thấm sâu vào ngay các đồng chí, học trò gần gũi chung quanh mình, thì làm sao ảnh hưởng tới được đông đảo cán bộ và nhân dân bên dưới?
Ở phương Tây, người ta đâu có rao giảng nhiều về đạo đức, kể cả Mác, nhưng họ lại rất coi trọng xây dựng thể chế, tổ chức, pháp luật, khép con người vào quy củ, dùng cưỡng chế của pháp luật, biến đạo đức thành tập quán, thành nếp sống tự nhiên của toàn xã hội. Ai làm trái đều bị công luận lên án, pháp luật xử trí, từ đó mà dẫn đến sự hình thành văn hóa tự xử: Quan chức có sai lầm thì lập tức tự nguyện xin từ chức, thậm chí có người còn đi đến tự vẫn (do xấu hổ, không chịu nổi áp lực phê phán của xã hội). Một xã hội hình thành được những thể chế và tập quán như thế sẽ “làm cho những lời kêu gọi về đạo đức trở nên thừa”.
Ở ta hiện nay, tuy văn bản pháp luật không thiếu, nhưng đang bị vô hiệu hóa, người ta xét xử không nhân danh Công Lý, mà nhân danh Nhà nước, nên xét xử như thế nào đều ở trong sự dàn xếp giữa các “nhóm quyền lực”, Thần công lý chỉ còn là một anh hề, vì vậy chưa thể nói đến bao giờ ta mới có văn hóa tự xử!Các quan chức tham nhũng, tha hóa, đồi trụy vẫn cứ nhơn nhơn, đâu biết xấu hổ là gì mà phải tự vẫn! Trong bối cảnh ấy mà cứ kêu gọi “đẩy mạnh học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách hình thức và nhàm chán, một khi “trái núi chỉ đẻ ra những con chuột” tham nhũng thì dễ biến thành một trò hề, hơn nữa còn là một sự nhạo báng đối với Cụ.
B. Về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc:
Vào những năm 60 thế kỷ trước, tâm trí Cụ Hồ có phần dành nhiều hơn cho miền Nam và sự nghiệp thống nhất đất nước, song đây vốn là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước; có lẽ do thiếu cả lý luận lẫn thực tiễn, Đại hội III (1960) của Đảng vẫn chưa thể vạch ra được một chiến lược rõ ràng và đầy đủ cho một “tổng lộ tuyến” đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
Xây dựng chủ nghĩa xã hội có nội dung quan trọng hàng đầu là kinh tế, đây lại là mặt yếu của nhà chính trị Hồ Chí Minh. Theo đuổi mục tiêu cứu nước, Cụ Hồ chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu các học thuyết kinh tế của A. Smith, D. Ricardo, kể cả Tư bản luận của Marx, chưa nói gì đến các học thuyết kinh tế hiện đại. Nho giáo xưa vốn rất ít bàn về sản xuất và kinh tế. Vì vậy, chưa thể nói đến tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh một cách đầy đủ và hệ thống, bản thân Cụ cũng chưa từng một lần nhắc đến khái niệm kinh tế thị trường.
Hồ Chí Minh sống đến 1969, khi đó Quốc tế xã hội chủ nghĩa, sau chiến tranh, đã phục hồi và phát triển, tới Đại hội thứ 23, đã có 170 tổ chức thành viên từ 126 nước tới dự, trong đó có 29 đảng đang cầm quyền, 23 đảng tham gia liên minh cầm quyền. Chủ nghĩa xã hội dân chủ kiểu Bắc Âu ngay từ sinh thời Cụ đã có những thành tựu được cả thế giới biết đến. Hồ Chí Minh do bị chi phối bởi tư tưởng đối đầu thời kỳ chiến tranh lạnh, chưa có điều kiện tìm hiểu, nên chưa biết đến những thành tựu này của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Tuy sinh thời, Hồ Chí Minh từng nói: Việt Nam chúng ta không giống với Liên Xô và Trung Quốc, ta cần thiết phải tìm ra con đường khác để đi lên chủ nghĩa xã hội. Song đây chỉ có ý nhấn mạnh là phải biết xuất phát từ đặc điểm riêng của mỗi nước, chưa phải do đã nhận thức được những nhược điểm, sai lầm, khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội cực quyền của Staline – cái mà ngày nay chúng ta gọi là “những lỗi của hệ thống”! Vì vậy, trong các phát biểu, cả trong Di chúc, chưa thấy Cụ Hồ có cảnh báo nào phải đề phòng, để tránh không mắc vào những khuyết tật ấy. (Di chúc có nói đến “phải chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, nhưng chưa đề cập tới hai chữ “đổi mới” với hàm nghĩa như là phải cải tổ).
Nhận thức về vai trò và sức mạnh của khoa học và công nghệ:
Nếu so sánh có thể thấy: sinh thời Marx còn chưa biết đến đèn điện, thời Engels chưa có máy bay, thời Lênin đã có điện ảnh, vô tuyến điện, nhưng chưa có vô tuyến truyền hình,… sinh thời Hồ Chí Minh đã được chứng kiến những thành tựu khoa học-công nghệ làm thay đổi thời đại: sức mạnh năng lượng nguyên tử, máy điện toán, công nghệ thông tin, công nghệ biến đổi gien, con người đã bay vào vũ trụ,… Tuy nhiên, Hồ Chí Minh còn ít nói về vai trò và sức mạnh của khoa học-công nghệ, có nói, nhưng chưa đủ, chưa đến độ, nhất là chưa ráo riết trong tổ chức, đào tạo, nghiên cứu, vận dụng, phát triển khoa học-công nghệ , để nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Có thể đổ tại hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt,…nhưng nếu so với Bắc Triều Tiên cùng hoàn cảnh như ta, mà từ lâu họ đã chế tạo được vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo, đã có nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, khiến cho các cường quốc láng giềng phải vì nể. Trong khi đó, đến nay ta vẫn chưa có một nền công nghiệp cơ khí chế tạo đủ sức tự sản xuất hoàn chỉnh một chiếc ôtô, một cái máy chuyên dùng cho công nghiệp hay nông nghiệp,… thế mà cứ “hồn nhiên, vô tư” nói rằng đến năm 2020 (tức là chỉ 5 năm nữa) nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại!
Hiện nay, ta đã có hai viện hàn lâm khoa học nhưng lại không có những “viện sĩ” đúng nghĩa; có nhiều giáo sư, tiến sĩ nhưng lại không có phát minh, sáng chế được quốc tế biết đến và công nhận,…Đó không phải là lỗi của cá nhân mà thuộc lỗi của đường lối, của tầm nhìn lãnh đạo, chưa vạch ra được một chiến lược quốc gia về phát triển khoa học-công nghệ với những định hướng mục tiêu cơ bản cần đạt trong các kế hoạch trung hạn và dài hạn.
Con người Việt Nam vốn thông minh, năng động, khéo tay nhưng cũng mang những hạn chế của một cư dân nông nghiệp sản xuất nhỏ (giỏi bắt chước nhưng kém độc lập, sáng tạo) lại cộng thêm di chứng của Nho giáo, trọng danh hơn trọng thực, nên mới có tình trạng thừa thầy mà thiếu thợ, thừa quan chức mà thiếu chuyên gia, như Cụ Hồ nói: thừa người đi tuyên truyền mà thiếu người giỏi quản trị hành chính; sính làm thơ, sáng tác “văn chương” hơn là say mê, tìm tòi, phát minh khoa học-kỹ thuật,…(Vì vậy, đã có người phải loa lên rằng “Toàn dân yêu thơ, sơn hà nguy biến!). Trong hoàn cảnh đó, những anh “Hai Lúa” chế ra được máy bay trực thăng, tàu ngầm mini, cải tiến xe bọc thép,…đáng phong anh hùng lao động sáng tạo, lại không được Nhà nước tuyên truyền, đề cao, nên ta mới chỉ có loại anh hùng “sao văn tế”!
Khoa học-công nghệ của ta muốn phát triển, giáo dục-đào tạo phải khắc phục được những nhược điểm cố hữu nói trên của con người Việt Nam, nhất là Nhà nước phải tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế, chính sách đang là rào cản sự phát triển của khoa học-công nghệ hiện nay:
– một là, lựa chọn, cắt cử người lãnh đạo khoa học-công nghệ phải là những nhà khoa học tâm huyết, có thực tài, có khát vọng sáng tạo, tìm tòi cái mới và truyền được khát vọng đó cho đồng nghiệp và học trò (như thế hệ các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu,… thời Cụ Hồ ngày xưa). Muốn thế, phải biết quý, biết trọng những người có bộ óc lỗi lạc, có tầm vóc khoa học, chứ không phải coi họ như những “sai nha” quen xun xoe, nịnh hót quanh mình.
– hai là, phải hình thành đồng bộ một đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành có trí tuệ, có sức sáng tạo mạnh, có công trình nghiên cứu được thế giới biết đến, có quan hệ rộng rãi với các nhà khoa học nước ngoài, có khả năng đào tạo được các nhà khoa học trẻ, đảm bảo tính kế thừa và phát triển tiếp nối ở mỗi chuyên ngành nghiên cứu. Đáng tiếc, ở ta hiện nay đang có sự đứt gãy, hụt hẫng giữa các thế hệ, lớp sau không kế thừa được lớp trước.
– ba là, phải làm trong sạch môi trường học thuật đang bị ô nhiễm nặng: các chuẩn mực khoa học không được triệt để tôn trọng; nạn “học giả, bằng thật”, nạn mua bằng, bán điểm; nạn lũng đoạn, tham nhũng đáng xấu hổ trong việc giành giật các chương trình, đề tài nghiên cứu, …Muốn thế, phải trả lương cho các nhà khoa học đủ sống để họ có thể theo đuổi lý tưởng sáng tạo khoa học, biết đứng cao hơn mọi cám dỗ vật chất, danh vị, tiền tài; phải tiến tới xóa bỏ “nền khoa học bao cấp”, bỏ “cơ chế xin cho” trong nghiên cứu khoa học!
Không coi trọng chỉ đạo và đầu tư tương xứng cho khoa học-công nghệ, tức là không quán triệt trong thực tế quan điểm coi cách mạng khoa học-công nghệ là then chốt, đó là lỗi của Đảng và Nhà nước, trong đó có phần nào trách nhiệm của người đặt nền móng, là Cụ Hồ.
*
Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại không ít tên tuổi sáng chói của những anh hùng cứu nước, chống ngoại xâm, như hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…GS Hoàng Xuân Hãn, trong một thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có đoạn viết: tuy nước ta có nhiều cuộcchiến thắng ngoại xâm, nhưng “chỉ có hai cuộc giải phóng mà thôi: thời 1416-1427 với Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi và thời 1945-1975 với Bác Hồ cùng các Anh” [16] . Ý GS Hãn muốn nói: cần phân biệt giữa chiến thắng chống ngoại xâm với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, một bên có sẵn một hệ thống nhà nước với quân đội hùng hậu được trang bị và tổ chức chặt chẽ, được nhân dân cả nước sẵn sàng góp người, góp của để bảo vệ Tổ quốc; với bên kia là cuộc đấu tranh giải phóng đất nước (đang bị ngoại bang thống trị với hệ thống cảnh sát, máy chém, nhà tù), phải khởi sự từ hai bàn tay trắng, phải bí mật nhen nhóm, thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù của nhân dân, phải rất giỏi tổ chức quần chúng, từ nhen từng đốm lửa nhỏ đến đốt cháy cả đồng cỏ rộng…Muốn thế, người lãnh tụ phải có đạo đức rất cao mới hấp dẫn được quần chúng đi theo mình; lại phải rất trí tuệ, rất tài năng trong phân tích tình hình, khéo liên minh, liên kết, biết thêm bạn, bớt thù, giỏi nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ để giành lấy thắng lợi cuối cùng.
Nếu kể từ ngày Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đến 1941 trở về gây dựng và làm cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, rồi lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm, kết thúc vẻ vang với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, là gần trọn 45 năm! Đó là một sự nghiệp vô cùng gian nan, cực khổ nhưng cũng vô cùng vinh quang.Vào nửa đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam không một nhân vật lịch sử nào có thể so sánh với tầm vóc của Cụ được!
Lịch sử rất công minh trong phán xét ai là kẻ có tội, ai là người có công. Chúng ta vững tin rằng năm tháng qua đi, hận thù được xóa bỏ, dân tộc hòa hợp lại, lịch sử sẽ đánh giá đúng công lao, sự nghiệp của Hồ Chí Minh: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà yêu nước vĩ đại, chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”./.
Tháng 5-2015
Chú thích:
[1] Thư Enghels gửi Karl Kautsky ở Viên. Xem Mác-Ănghen Tuyển tập, t. V, nxb Sự Thật, Hà Nọi, 1983, tr. 684-85
[2] Dẫn lại theo A. Schenalder, trong sách Chủ thuyết của chúng ta, ấn hành tại CHDC Đức 1981, tr. 83.
[3] Xem Trần Dân Tiên giả, Hồ Chí Minh truyện, Trương Niệm Thức dịch, Bát nguyệt xuất bản xã ấn hành 6-1949, bản Trung văn, tr. 90.
[4] Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 4, tr. 367.
[5] Xem Hồ Chí Minh truyện, sđd, tr. 90.
[6] Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Hồ Chí Minh Toàn tập, xb lần thứ 2, t. 1, tr. 464-466.
[7] Bài nói chuyện của ông về cuốn sách mới có tựa đề “Việt Nam Exposé and New biography of Hồ Chí Minh “, tại Toronto, Canada, ngày 29-10-2003. Dẫn lại theo bản tin BBC, Ban Việt ngữ.
[8] Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 7 (1940-1945), Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, năm 2000, tr. 113.
[9] Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 3, tr. 198.
[10] Dẫn lại theo P. Messmer, trong cuốn Les blans s’en vont, Albin Michel, 1998, p. 35. Nguyên văn tiếng Pháp: “Plutôt flairer la crotte des Français pendant cinq ans, que flairer celle des Chinois pendant mille ans”!.
[11] Ý này Hồ Chí Minh nói 2 lần, lần đầu với Trương Phát Khuê tại Liễu Châu 1944, lần 2 với các ký giả Pháp tại Paris 1946. TBT Nguyễn Phú Trọng nay còn có tầm nhìn xa hơn: “Chưa biết đến cuối thế kỷ này (21), chúng ta đã có chủ nghĩa xã hội đích thực hay chưa!”.
[12] Dẫn theo Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2002, tr. 91.
[13] Dẫn lại theo Tucker, Spencer ed., The Encyclopedia of the Vietnam War, NY, Oxford University Press, 2000, p. 422.
[14] Xem bài Thư từ Việt Nam, ký tên LIN, trong Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 7, tr. 100.
[15] Trich tham luận của Yang Kuisong “Mao Zedong and the War in Indochina” (Mao Trạch Đông và chiến tranh Đông Dương), đọc tại Hội tháo Khoa học tại Hong Kong ngày 11,12 tháng 1 năm 2000. Dẫn lại theo P. Brocheux, trong cuôn tiểu sử của ông về Hồ Chí Minh , Nxb Biographie Payot, Paris, 2003, p. 245.
[16] Thư của GS Hoàng Xuân Hãn gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 2 tháng 1 năm Bính Tý 1996.
ĐỘNG BƯỚM
Phút say đắm tột cùng em mở toang động bướm
Giữa khu rừng rậm rạp nguyên sơ
Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma…
Có ai chưa em đã vào khai phá?
Để bướm vẫy vùng, bướm thỏa ước ao
Và khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
Bờ bãi đời người bướm vẫn lượn như sao.
Thân nhi nữ một thế giới mênh mông hoang dại
Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
Lạc vào vườn em trái cấm ngọt hương tươi.
Tình yêu từ đâu anh không biết?
Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
Nhưng yêu nhất là bướm em
có sức chinh phục diệu huyền
Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ…
Bướm của em trên đời mãi còn quý giá
Đến lúc cần bướm lại sinh con…
Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em
Nam-mô-a-di-đà!
Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015
Lời mở đầu- Dưỡng sinh Năng lượng (1)
Mỗi người trong chúng ta đều có một năng lực tiềm ẩn mà chúng ta chưa biết đến nên chưa có cơ hội để khai thác. Các tiềm năng này ở một số người đã được sử dụng mà không mảy may ý thức được. Thường đa số chúng ta không nhận ra nó bởi trực giác còn mơ hồ mà chỉ ở một số người phát hiện được khả năng này. Mục đích của Học Viện Nghiên Cứu Tâm lý (Institut détudes psychiques - Houston, Texas, USA) nhằm làm sáng tỏ các khả năng đặc biệt của con người
Cuộc nghiên cứu của chúng tôi giúp chứng minh rằng nhờ trung gian của một chất thể vật lý do cơ thể quản lý mà các khả năng này sẽ được hiện ra nhờ tập luyện. Đó là chất thể mà chúng ta gọi là “Năng lượng thể hào quang “Nội lực tự sinh“, cũng là loại chất thể mà các “yogi” gọi là “Prana”, các môn đồ của giới võ thuật gọi là “Khí” và các liệu pháp tâm lý gọi là “Năng lượng sinh học – Bio-Énergie”.
Mọi sinh vật đều tự sản sinh năng lượng nội tại. Năng lượng Sinh học là căn bản đối với mọi hoạt động sống và tham gia vào tất cả các giao tiếp giữa các vật thể với con người. Năng lượng sinh học là một chất liệu cụ thể, một cái trụ chống đỡ tinh vi, nhẹ nhàng và phân tán mà con người có thể tập hợp và tạo thành hình ảnh giúp cho các giác quan của con người có thể cảm nhận được. Năng lượng sinh học hiện diện khắp mọi nơi trong cuộc sống của chúng ta. Sự cảm nhận và kiểm soát được năng lượng sinh học rất cần thiết cho sự phát triển hài hoà khả năng của năng lượng tinh thần.
Muốn phát triển tiềm năng nội tại, điều cần thiết phải tập luyện, biết sử dụng nó một cách có ý thức để có thể làm chủ được Năng lượng nội tại (năng lượng ý thức). Tất cả điều này có thể thực hiện được khi sự tự chủ (thần khí) được thực hành liên tục và chính xác. Cần luyện tập và trau dồi tài năng trên các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy nhằm làm thăng hoa một cách trọn vẹn.
Học Viện Nghiên Cứu Tâm Lý cho biết rằng sự phát triển các khả năng tinh thần đã giúp cho rất nhiều người trong các hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống hàng ngày. Chúng tôi muốn chia sẻ quan điểm ấy, tức là khả năng tinh thần phải được thể hiện một cách tự nhiên và dễ dàng để có thể giúp cho cuộc sống và các giao tiếp được thuận tiện hơn. Cũng vì mục tiêu ấy mà Bộ môn Năng lượng Cảm xạ học được thành lập và bắt đầu hoạt động từ tháng 12/1998, trực thuộc Liên Hiệp Khoa Học - Công Nghệ Tin Học Ứng Dụng UIA và Hội Đồng Khoa Học UIA , mục đích thực hiện đề tài : Nghiên cứu và Thực nghiệm Dưỡng sinh Năng lượng Cảm xạ học (đề tài khoa học 812/LH.UIA).
Mục tiêu thực hiện đề tài gồm 4 điểm chính:1. Triển khai phương pháp phòng chống bệnh bằng sự luyện tập phương pháp Rung động thư giãn với Năng lượng Cảm xạ học.2. Khai thác những người có khả năng về Cảm xạ.3. Xây dựng Năng lượng Cảm xạ học thành môn Dưỡng sinh Năng lượng học một cách khoa học, có hệ thống và đại chúng.4. Góp phần bổ sung kinh nghiệm trong việc chẩn đoán và điều trị Y học Cổ truyền Dân tộc Việt Nam.
Chương trình nghiên cứu này được mở ra nhằm giúp cho các bạn thấy rằng có sự hiện diện thực sự của năng lượng nội tại mang tính vật lý và các khả năng tinh thần mà nó sản sinh ra được sẽ mang lại nhiều lợi ích đáng kể trong cuộc sống.
Các bài tập trong quyển sách này được dự trù cho 2 hay nhiều người cùng tập. Luyện tập với một người khác sẽ nhận được sự phản hồi (feed-back). Lần lượt qua các bài tập bạn sẽ cảm nhận được các phản ứng do năng lượng tạo ra trên cơ thể bạn và bạn có thể quan sát được các tiến bộ của người cùng tập. Các bài tập được sắp xếp theo một trình tự tiệm tiến có sự liên kết mạch lạc cộng với sự tập luyện hàng ngày sẽ giúp cơ thể bạn có đủ những năng lượng cần thiết cho các công việc quan trọng hơn. Những bài tập bổ túc tiếp theo dành cho những ai có những cảm xạ viên sống quanh mình muốn cùng thực hành với bạn. Các bài tập này đi từ dễ đến khó, từ giản đơn đến phức tạp.
Các tiến bộ sẽ đạt được lần lượt qua việc tập luyện cũng như các điều bạn thực hành cần phải được bạn ghi lại trong nhật ký. Có thể là sau đó, do thiếu luyện tập hoặc siêng năng luyện tập, nhật ký này sẽ giúp bạn nhận rõ sự tiến bộ hay không.
Điều quan trọng khác là bạn phải luôn thoải mái trong lúc tập luyện. Nếu bạn không cảm nhận được bất cứ năng lượng nào hoặc tưởng rằng năng lượng nội tại không có thật thì vô tình bạn đã làm đình trệ mọi nhận thức có thể có. Cần nhấn mạnh là bạn đừng bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào, cần phải kiên trì và khách quan trong việc phân tích các kinh nghiệm sống của bạn. Nhật ký sẽ cấu thành một trong nhiều yếu tố quan trọng giúp đánh giá một cách khách quan sự tiến bộ của bạn.
Phải biết điều khiển và chế ngự năng lượng nội tại của chính bạn, của người khác và của môi trường nơi bạn đang sinh sống. Cần có sự chuyển đổi năng lượng liên tục giữa người này với người khác và với thiên nhiên. Sự chuyển đổi này cực kỳ quan trọng mặc dầu thoạt nhìn trông rất bình thường. Việc nhận thức được năng lượng bao quanh ta cũng tương tự như loài cá ý thức được môi trường nước nơi nó tung tăng. Đó là một thực tế mà con người chưa để ý đến.
Học được cách chế ngự khả năng nội lực của bạn, bạn sẽ thấy rằng chúng rung động trên các tần số khác nhau, kéo theo các cảm xúc và các thông tin khác nhau. Ngoài ra bạn còn thấy rằng năng lượng của mỗi người hoạt động trên một tần số nào đó phản ánh sự rung động của cá nhân người ấy mà thôi, không hề có sự giống nhau cho tất cả mọi người. Do đó đôi lúc, để có thể liên lạc với những tần số năng lượng sóng khác với năng lượng sóng của chúng ta, bạn phải tìm một tần số chung với chúng. Đây là phần trọng yếu của khoá học và là một yếu tố cần thiết cho sự nhận thức. Hơn nữa bạn có thể làm gia tăng khả năng trực giác và cảm nhận mà không làm lộ các nhược điểm của bạn nhờ sử dụng kỹ thuật tự bảo vệ (bảo vệ thần khí).
Nhờ khoá học, bạn sẽ nhận thức được các thông tin truyền đạt từ năng lượng nội tại. Các vật dụng, các tư trang có thể được xem như vật truyền mang năng lượng nhằm cung cấp thông tin cho bạn. Bạn sẽ học cách đọc và khai thác các thông tin từ các vật chứng này cũng như bạn tập đọc và khai thác các nguồn thông tin của người khác. Bạn sẽ thấy rằng các liên hệ ấy là những trạm thông tin giúp cho việc liên lạc được dễ dàng và cũng là để thực hiện sự hoà điệu bên trong cộng đồng.Với các bài tập trong tập tài liệu này, người cùng tập với bạn dần dần sẽ gia tăng về sức mạnh tinh thần rồi từ đó khả năng cảm nhận cũng như sự kiểm soát năng lượng nội tại của bạn và người cùng tập sẽ được dễ dàng hơn. Bạn sẽ khám phá được các khả năng nội tại của bạn nằm trong khu vực nào để bạn có thể tăng cường tập luyện để khai mở các vùng yếu kém. Chúng tôi tin chắc rằng các bài tập trong quyển sách này sẽ làm bạn hài lòng và giúp bạn gặt hái nhiều thắng lợi.
Cuộc nghiên cứu của chúng tôi giúp chứng minh rằng nhờ trung gian của một chất thể vật lý do cơ thể quản lý mà các khả năng này sẽ được hiện ra nhờ tập luyện. Đó là chất thể mà chúng ta gọi là “Năng lượng thể hào quang “Nội lực tự sinh“, cũng là loại chất thể mà các “yogi” gọi là “Prana”, các môn đồ của giới võ thuật gọi là “Khí” và các liệu pháp tâm lý gọi là “Năng lượng sinh học – Bio-Énergie”.
Mọi sinh vật đều tự sản sinh năng lượng nội tại. Năng lượng Sinh học là căn bản đối với mọi hoạt động sống và tham gia vào tất cả các giao tiếp giữa các vật thể với con người. Năng lượng sinh học là một chất liệu cụ thể, một cái trụ chống đỡ tinh vi, nhẹ nhàng và phân tán mà con người có thể tập hợp và tạo thành hình ảnh giúp cho các giác quan của con người có thể cảm nhận được. Năng lượng sinh học hiện diện khắp mọi nơi trong cuộc sống của chúng ta. Sự cảm nhận và kiểm soát được năng lượng sinh học rất cần thiết cho sự phát triển hài hoà khả năng của năng lượng tinh thần.
Muốn phát triển tiềm năng nội tại, điều cần thiết phải tập luyện, biết sử dụng nó một cách có ý thức để có thể làm chủ được Năng lượng nội tại (năng lượng ý thức). Tất cả điều này có thể thực hiện được khi sự tự chủ (thần khí) được thực hành liên tục và chính xác. Cần luyện tập và trau dồi tài năng trên các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy nhằm làm thăng hoa một cách trọn vẹn.
Học Viện Nghiên Cứu Tâm Lý cho biết rằng sự phát triển các khả năng tinh thần đã giúp cho rất nhiều người trong các hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống hàng ngày. Chúng tôi muốn chia sẻ quan điểm ấy, tức là khả năng tinh thần phải được thể hiện một cách tự nhiên và dễ dàng để có thể giúp cho cuộc sống và các giao tiếp được thuận tiện hơn. Cũng vì mục tiêu ấy mà Bộ môn Năng lượng Cảm xạ học được thành lập và bắt đầu hoạt động từ tháng 12/1998, trực thuộc Liên Hiệp Khoa Học - Công Nghệ Tin Học Ứng Dụng UIA và Hội Đồng Khoa Học UIA , mục đích thực hiện đề tài : Nghiên cứu và Thực nghiệm Dưỡng sinh Năng lượng Cảm xạ học (đề tài khoa học 812/LH.UIA).
Mục tiêu thực hiện đề tài gồm 4 điểm chính:1. Triển khai phương pháp phòng chống bệnh bằng sự luyện tập phương pháp Rung động thư giãn với Năng lượng Cảm xạ học.2. Khai thác những người có khả năng về Cảm xạ.3. Xây dựng Năng lượng Cảm xạ học thành môn Dưỡng sinh Năng lượng học một cách khoa học, có hệ thống và đại chúng.4. Góp phần bổ sung kinh nghiệm trong việc chẩn đoán và điều trị Y học Cổ truyền Dân tộc Việt Nam.
Chương trình nghiên cứu này được mở ra nhằm giúp cho các bạn thấy rằng có sự hiện diện thực sự của năng lượng nội tại mang tính vật lý và các khả năng tinh thần mà nó sản sinh ra được sẽ mang lại nhiều lợi ích đáng kể trong cuộc sống.
Các bài tập trong quyển sách này được dự trù cho 2 hay nhiều người cùng tập. Luyện tập với một người khác sẽ nhận được sự phản hồi (feed-back). Lần lượt qua các bài tập bạn sẽ cảm nhận được các phản ứng do năng lượng tạo ra trên cơ thể bạn và bạn có thể quan sát được các tiến bộ của người cùng tập. Các bài tập được sắp xếp theo một trình tự tiệm tiến có sự liên kết mạch lạc cộng với sự tập luyện hàng ngày sẽ giúp cơ thể bạn có đủ những năng lượng cần thiết cho các công việc quan trọng hơn. Những bài tập bổ túc tiếp theo dành cho những ai có những cảm xạ viên sống quanh mình muốn cùng thực hành với bạn. Các bài tập này đi từ dễ đến khó, từ giản đơn đến phức tạp.
Các tiến bộ sẽ đạt được lần lượt qua việc tập luyện cũng như các điều bạn thực hành cần phải được bạn ghi lại trong nhật ký. Có thể là sau đó, do thiếu luyện tập hoặc siêng năng luyện tập, nhật ký này sẽ giúp bạn nhận rõ sự tiến bộ hay không.
Điều quan trọng khác là bạn phải luôn thoải mái trong lúc tập luyện. Nếu bạn không cảm nhận được bất cứ năng lượng nào hoặc tưởng rằng năng lượng nội tại không có thật thì vô tình bạn đã làm đình trệ mọi nhận thức có thể có. Cần nhấn mạnh là bạn đừng bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào, cần phải kiên trì và khách quan trong việc phân tích các kinh nghiệm sống của bạn. Nhật ký sẽ cấu thành một trong nhiều yếu tố quan trọng giúp đánh giá một cách khách quan sự tiến bộ của bạn.
Phải biết điều khiển và chế ngự năng lượng nội tại của chính bạn, của người khác và của môi trường nơi bạn đang sinh sống. Cần có sự chuyển đổi năng lượng liên tục giữa người này với người khác và với thiên nhiên. Sự chuyển đổi này cực kỳ quan trọng mặc dầu thoạt nhìn trông rất bình thường. Việc nhận thức được năng lượng bao quanh ta cũng tương tự như loài cá ý thức được môi trường nước nơi nó tung tăng. Đó là một thực tế mà con người chưa để ý đến.
Học được cách chế ngự khả năng nội lực của bạn, bạn sẽ thấy rằng chúng rung động trên các tần số khác nhau, kéo theo các cảm xúc và các thông tin khác nhau. Ngoài ra bạn còn thấy rằng năng lượng của mỗi người hoạt động trên một tần số nào đó phản ánh sự rung động của cá nhân người ấy mà thôi, không hề có sự giống nhau cho tất cả mọi người. Do đó đôi lúc, để có thể liên lạc với những tần số năng lượng sóng khác với năng lượng sóng của chúng ta, bạn phải tìm một tần số chung với chúng. Đây là phần trọng yếu của khoá học và là một yếu tố cần thiết cho sự nhận thức. Hơn nữa bạn có thể làm gia tăng khả năng trực giác và cảm nhận mà không làm lộ các nhược điểm của bạn nhờ sử dụng kỹ thuật tự bảo vệ (bảo vệ thần khí).
Nhờ khoá học, bạn sẽ nhận thức được các thông tin truyền đạt từ năng lượng nội tại. Các vật dụng, các tư trang có thể được xem như vật truyền mang năng lượng nhằm cung cấp thông tin cho bạn. Bạn sẽ học cách đọc và khai thác các thông tin từ các vật chứng này cũng như bạn tập đọc và khai thác các nguồn thông tin của người khác. Bạn sẽ thấy rằng các liên hệ ấy là những trạm thông tin giúp cho việc liên lạc được dễ dàng và cũng là để thực hiện sự hoà điệu bên trong cộng đồng.Với các bài tập trong tập tài liệu này, người cùng tập với bạn dần dần sẽ gia tăng về sức mạnh tinh thần rồi từ đó khả năng cảm nhận cũng như sự kiểm soát năng lượng nội tại của bạn và người cùng tập sẽ được dễ dàng hơn. Bạn sẽ khám phá được các khả năng nội tại của bạn nằm trong khu vực nào để bạn có thể tăng cường tập luyện để khai mở các vùng yếu kém. Chúng tôi tin chắc rằng các bài tập trong quyển sách này sẽ làm bạn hài lòng và giúp bạn gặt hái nhiều thắng lợi.
BS. Dư Quang Châu
THÁI CỰC LUẬN Chương 8. Tổng luận
Chúng ta đã bàn giải nhiều về Thái Cực. Bây giờ chỉ cần thâu tóm và nhắc lại ít nhiều điểm chính yếu.
1. Đối với các Thánh Hiền Trung Quốc, Thái Cực sinh xuất Vạn Hữu. Thái Cực vừa bao quát Vạn Hữu, vừa lồng trong vạn vật, Vạn Hữu. Thái Cực là Bản Thể của vũ trụ, bất biến, bất thiên, bất sinh, bất hoại, nhưng lại vẫn chủ trì mọi cuộc biến thiên của vũ trụ và của con người.
2. Đứng về phương diện vũ trụ khởi nguyên, Dịch Kinh chủ trương Thái Cực sinh Vạn Hữu. Đó là Nhất Nguyên Chủ Nghĩa. Thái Cực tuy là Nhất, là Nguyên nhưng lại biến hóa, vô cùng tận. Vả Thái Cực cũng lại là Vô Cực, là Thần, là Thượng Đế, siêu xuất trên cơ cấu Âm Dương, cho nên quan niệm Thái Cực có thể nói được là hoàn bị hơn những quan niệm Apeiron của Anaximandre, quan niệm Duy linh của Platon, quan niệm Ngũ Hành của Aristote.
3. Quan niệm Thái Cực tương tự như quan niệm Atman của Bà La Môn, quan niệm Logos của Âu châu, hay quan niệm đấng Christ vũ trụ của Teilhard de Chardin.
4. Vì chủ trương rằng Thái Cực chẳng những là Bản Thể của vũ trụ, mà còn là Vô Cực, là Trời, nên quan niệm Thái Cực không phải là một quan niệm Triết lý thông thường, mà còn là một đề tài đạo giáo hết sức quan trọng.
5. Đối với các Triết gia Trung quốc, Thái Cực tiềm ẩn ngay trong lòng Vạn Hữu, trong lòng con người. Nhưng chỉ có con người mới nhận được Chân lý ấy, mới cảm thông được với Thái Cực, mới trở về được với Căn nguyên.
6. Như vậy, quan niệm Thái Cực mở lối cho một phương pháp tu thân, một phương pháp trở về với Thượng Đế, với Căn Nguyên gốc gác của mình. Đó là con đường Hướng Nội, con đường Nội Tâm mà xưa nay các Thánh Hiền khắp thế giới đều đã nhất luật băng qua.
Cho nên muốn học Dịch, trước tiên phải tìm hiểu cho rành rẽ Vô Cực và Thái Cực. Hiểu được điều huyền vi, ảo diệu này là đã hiểu được chính ý Dịch Kinh, vì Dịch Kinh không phải là một quyển sách bói toán như người ta thường hiểu, mà chính là một phương pháp chính yếu để tìm Đạo, tìm Trời, trở về với Đạo, với Trời
Không phải nguyên nghe bình luận, mà còn cần phải có tâm thần thanh tịnh mới hiểu được Thái Cực. Tâm thần có thanh tịnh, sẽ thấy được Thiên Địa Chi Tâm, sẽ thấy được Thái Cực. [1]
[1] Ngô chi thần thanh, tắc Thái Cực chi lý tự minh. Thảng năng nhất niệm bất khởi cửu cửu trừng thanh, hư cực tĩnh đốc chi thời, tắc hư thất sinh bạch, kim cơ phi điện, phục kiến thiên địa chi tâm nhi tự minh hĩ. 吾 之 神 清 則 太 極 之 理 自 明. 倘 能 一 念 不 起 久 久 澄 清, 虛 極 靜 篤 之 時, 則 虛 室 生 白, 金 機 飛 電 復 見 天 地 之 心 而 自 明. — Tính Mệnh Pháp Quyết, quyển 1, trang 4.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)