Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015

Vài lời với những người tiếm danh 'nhân sĩ, trí thức'



Xã hội Việt Nam có hàng chục triệu bậc trí thức, sĩ phu. Người Việt hải ngoại cũng có hàng vạn nhân sĩ, học giả, trí thức. Tuy nhiên, cũng như bao tầng lớp khác trong mọi xã hội, trong số các trí thức đó cũng có một bộ phận thiểu số có đầu óc lệch lạc, hoang tưởng, có tư tưởng theo hướng phản động, ích kỷ, hẹp hòi, cái Tôi quá lớn sinh chứng vĩ cuồng, háo danh và ưa chuộng hư vinh.

Nhưng tiếu lâm thay, những hàng dỏm này lại rất tự cao và thích tự phong, tự xưng, mạo danh, nhân danh "nhân sĩ trí thức", tự nhận xằng và tiếm danh người khác. Họ khoa chân múa tay phán bừa bãi "vung xích chó" về những đề tài họ không biết, hoặc hiểu biết rất ít, bỏ ra rất ít thời gian để tìm hiểu nghiên cứu, chưa từng có một chút kinh nghiệm, thực nghiệm nào. Hoặc họ phán, viết về những lĩnh vực tréo ngoe với công việc và chuyên môn chuyên ngành của họ.

Họ không xứng đáng là những trí thức, và những gì họ viết, họ phán đã cho thấy những trình độ không tương xứng với các học vị, học hàm, chức danh, hay nhãn hiệu, "thương hiệu" bề ngoài của họ. Nói nôm na là "hữu danh vô thực", "có tiếng không có miếng".

Trọng tâm, trọng điểm của bài luận này là về những "trí thức" nói trên mà đang muốn tầm thường hóa, ngoại quốc hóa, đô la hóa, tư bản hóa lịch sử dân tộc Việt Nam. Gần đây những thành phần "trí giả" không có trí tuệ thật, "học giả" chưa từng học thật này thường xuyên "dòm ngó" đến đề tài sử học và tuyên truyền bừa bãi, tai hại về đề tài này, với sự hậu thuẫn và tiếp tay của các đợt tấn công Diễn biến hòa bình. (đọc thêm)

Bài này nói về những ai muốn tầm thường hóa lịch sử, ngoại quốc hóa sử học, hô hào bác bỏ dạy sử theo phương pháp truyền thống đặt trọng tâm vào khía cạnh đoàn kết chống xâm lăng, tôn vinh những anh hùng dân tộc có công giữ nước, đánh đuổi quân xâm lược. Những giá trị đó đều bị bọn họ vu khống đặt điều rằng dân ta muốn "đặt lịch sử lên bàn thờ", rằng phải "trưởng thành lên".

Đọc bài này các bạn cũng sẽ thấy vì sao nên phạt tiền thật nặng cho tội cào bằng, xuyên tạc lịch sử và dùng tiền đó mua vũ khí bảo vệ Tổ quốc và biển đảo.


Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

Người lính già đầu bạc
Kể mãi chuyện Nguyên Phong

Đó là câu thơ của vua Trần Nhân Tông miêu tả cảnh tượng một cựu chiến binh tóc bạc kể lại chiến công đánh đuổi giặc Mông Cổ dưới niên hiệu Nguyên Phong cho các thanh niên và những người lính trẻ, mà Trần Nhân Tông đã tình cờ thấy được.

Ngày nay, khắp nơi trên đất Việt có những người cựu chiến binh tuổi già sức yếu nhưng vẫn chống gậy tình nguyện đi kể chuyện thời kháng chiến ở các trường học, mà không nhận một chút thù lao nào.

Ngay trong giờ phút này, có những ngôi nhà trên khắp các nẻo đường Việt Nam, trong đó nhiều cựu nữ thanh niên xung phong đang kể lại với con cháu mình chuyện những cô gái mở đường năm xưa.

Họ kể lại như vậy để làm gì? Họ là những người đầu hai thứ tóc, thậm chí có những cụ râu tóc đã bạc phơ. Như vậy, các cụ kể lại không phải là xuất phát từ tinh thần tự tôn dân tộc dỏm đời, không phải từ tinh thần tự hào quá trớn của giới trẻ.

Các cụ nỗ lực như vậy là vì các cụ là những người yêu nước Việt Nam và đã nhìn ra được truyền thống văn hóa giữ nước, chủ đạo dân tộc và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Và các cụ làm theo, nối tiếp truyền thống đó. Lịch sử chính thống Việt Nam, công tác giáo dục sử học Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn văn hóa và động lực giữ nước này, cũng hoạt động đúng theo hướng đó, theo truyền thống dân tộc ta từ ngàn năm nay.

Việt Nam từ thuở các vua Hùng dựng nước đến nay đã viết nên nhiều trang sử vẻ vang, oanh liệt trong sự nghiệp dựng nước - giữ nước. Các trang sử đó vừa anh hùng, vừa thấm đẫm bao nhiêu máu và nước mắt.

Người Việt Nam hiểu điều đó, và bởi thế không khi nào dân tộc ta muốn chiến tranh. Từ thực tế đó mà ngàn năm nay dân tộc Việt càng trân quý hòa bình hơn cả các dân tộc khác. Dân ta không muốn và không cần làm anh hùng, chỉ muốn yên thân, yên ổn làm ăn, dựng xây gia đình và đất nước. Nhưng một khi có bọn giặc từ bên ngoài gây ra chiến tranh xâm lược, chúng kéo đến xâm phạm đất đai mồ mả tổ tiên, sơn hà xã tắc của chúng ta, thì "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh".

Chúng buộc ta phải cầm gươm, cầm súng làm anh hùng thì chúng ta cũng sẵn sàng làm những anh hùng bất đắc dĩ, để đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn đất nước, giành lại và giữ vững độc lập cho dân tộc. Câu hát "dù rằng đời ta thích hoa hồng, kẻ thù buộc ta ôm cây súng" trong bài hát nổi tiếng Hát mãi khúc quân hành đã đúc kết nguyên lý này.

Sở dĩ không có thằng giặc nào toàn thắng được trước nhân dân Việt Nam là vì quân dân ta đã chiến đấu anh dũng, từ đời này sang đời nọ, từ thế hệ này sang thế hệ kia, thua rồi lại đánh, cho đến khi nào thắng rồi mới thôi, cho đến khi nào đánh đuổi được giặc, giành lại tự chủ rồi mới thôi.

Sở dĩ nhân dân ta nhiều đời nay chiến đấu bất khuất như vậy là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống. Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc truyền thống yêu nước, truyền thống chống giặc ngoại xâm, ý thức cố kết cộng đồng dân tộc do phải thường xuyên đương đầu với các thế lực ngoại bang xâm lược, trong đó có cả mưu đồ đồng hóa trong thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc và trăm năm Pháp thuộc.

Trong tiềm thức mỗi người dân Việt đều chứa đựng tình yêu quê hương đất nước nồng nàn kết tinh thành ý thức của dân với nước, được thể hiện sinh động trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ của thiết chế gia đình - làng xã - đất nước, thành sắc thái độc đáo, đặc biệt, đặc trưng đặc thù của nền tảng văn hóa Việt Nam.


Trên đường về tiếp quản thủ đô sau đại thắng Điện Biên Phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm và dâng hương ở Đền Hùng. Tại đây Bác Hồ đã ngồi kể chuyện về Hùng Vương và căn dặn các chiến sĩ thuộc Đại đoàn 308: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.





Trái: Bác Hồ thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của dân tộc ta. Phải: Bác đọc tấm bia "Côn Sơn Tư Phúc tự bi" tại chùa Côn Sơn, tỉnh Hải Dương.


Nếu tìm hiểu nghiên cứu kỹ càng chu đáo quá trình đấu tranh vệ quốc lâu dài của dân tộc ta, có thể có đầy đủ cơ sở để đi tới một nhận định có tính khái quát: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam trong chủ nghĩa yêu nước (nói chung) đã được bộc lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất hơn bất cứ ở lĩnh vực nào khác.

Yêu nước và ý thức đánh giặc mãnh liệt giữ gìn làng nước đã trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam, là đạo lý của dân tộc Việt Nam, một truyền thống sâu bền, cao đẹp, không còn dừng lại ở trình độ một nhận thức, một tình cảm, mà đã nhân rộng, kết hợp, phát triển, thăng hoa, tiến hóa, và hình thành một chủ nghĩa, một lực lượng tinh thần mạnh mẽ, có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ mọi người dân sẵn sàng đứng lên đánh giặc khi có kẻ xâm lược từ ngoài tới trong thời chiến, hay kiên trì đóng góp tinh thần và tài lực vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước trong thời bình.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không phải là một khái niệm trừu tượng, mơ hồ, mà là một sản phẩm thực tế của lịch sử Việt Nam, từ nền văn hóa dân tộc Việt Nam, nó bắt nguồn từ những điều kiện, hoàn cảnh, quân sử, chiến sử, chiến công, các anh hùng dân tộc, các văn hóa phong tục tập quán, các tín ngưỡng dân gian cụ thể của Việt Nam.

Yêu nước là một tình cảm và tư tưởng phổ biến mà dân tộc nào cũng có. Nhưng ở mỗi quốc gia, dân tộc thì tư tưởng và tình cảm yêu nước được hình thành và phát triển trong những điều kiện, môi trường văn hóa không giống nhau, thời điểm sớm hay muộn, mức độ đậm hay nhạt đều khác nhau và có những đặc điểm khác nhau. Không phải chủ nghĩa yêu nước của dân tộc nào cũng giống dân tộc nào, không phải ai cũng như ai.

Chính vì vậy cần xác định chủ nghĩa yêu nước mà bài này nói tới là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Chứ không phải chủ nghĩa yêu nước chung chung mơ hồ, chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc hay chủ nghĩa yêu nước Hoa Kỳ, hay đất nước, dân tộc, nền văn hóa nào khác.

Nước Việt Nam nằm ở một vị trí vô cùng quan trọng trên báo đảo Đông Dương, vào nơi tiếp xúc, ngã tư đường của vùng Đông Nam Á cả về tự nhiên và văn hóa, ở góc cực đông nam của đại lục châu Á, mặt nhìn ra Biển Đông, nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương.

Việt Nam được nối liền với lục địa bằng một mạng lưới đường giao thông thủy bộ thuận lợi, từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Điều thuận lợi đó cũng tạo thành những hành lang thuận lợi cho việc thực hiện tham vọng xâm lăng của các thế lực từ ngoài đến.

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa, đất đai dễ trồng trọt, phù hợp thuận lợi cho nông nghiệp. Cũng là một vùng đất thống nhất trong đa dạng trên rừng, trên núi, dưới đất, dưới nước đều chứa đựng nhiều tài nguyên phong phú và quý giá. Thời xưa tài nguyên phong phú này đã được ví như "rừng vàng, biển bạc". Nên luôn phải đương đầu với các kẻ thù xâm lược đầy tham vọng từ nước ngoài, đặc biệt là phương Bắc và phương Tây.

Do đó, nhân dân Việt Nam không tránh được các cuộc chiến tranh xâm lược, nhưng sau khi bắt buộc phải cầm gươm cầm súng đã biết chiến đấu ngoan cường, viết lên trang sử giữ nước vẻ vang của dân tộc. Từ kháng chiến chống Nguyên Mông đến kháng chiến chống Pháp - Mỹ để cứu nước, giành lại độc lập dân tộc, những chiến công hiển hách đó kết lại thành truyền thống bất diệt của dân tộc Việt Nam.

Ôn lại truyền thống đó không chỉ nhắc nhở những ai còn mơ màng về bài học lịch sử ngàn năm nước Việt, mà còn để thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau ghi nhớ các trải nghiệm, học hỏi đúc kết rút kinh nghiệm giữ nước và tri ân sự hy sinh xương máu của cha ông trong sự nghiệp giữ nước, bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Yếu tố nhớ ơn này còn phù hợp với đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây", "cây có cội, nước có nguồn" của ông bà mình.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là gì? Đơn giản, là đạo lý, là nhân sinh quan, là nguyên tắc bất di bất dịch phải được sống trong độc lập tự chủ. Là bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, là "sông núi nước Nam vua Nam ở", "cớ sao chúng mày sang xâm phạm", là Bình Ngô Đại Cáo, là "vốn xưng nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia". Là ý chí sắt son "thà làm quỷ nước Nam chứ không làm vương đất Bắc", "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập". Là Tuyên ngôn độc lập 1945. Là những cảm tử quân ôm bom ba càng lao vào xe tăng giặc chết chung với chúng. Là "các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước", "Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam". Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam như một niềm tin chung, một "tín ngưỡng" chung của đại khối dân tộc, và ngàn năm nay chủ nghĩa đó không có sức mạnh nào khuất phục được.

Ngày xưa, các thứ vũ khí, bom đạn, vũ khí hóa học hung tàn của các quân đội thiện chiến nhất và vô địch thế giới, với hàng triệu quân, còn không dập tắt nổi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Thì ngày hôm nay, những bài viết ngụy biện trí trá của bọn văn nô bồi bút, nhờ quan hệ, nhờ luồn cúi, nhờ phong bì, hoặc nhờ trả tiền cậy đăng những bài viết tuyên truyền bịp bợm trên các báo điện tử để "dìm hàng" chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng sẽ thất bại thảm hại, không khác gì lao đầu vào đá, làm trò cười cho thiên hạ.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam còn bao gồm cả những huyền thoại, cả những huyền thoại đã được lịch sử xác minh, hoặc chưa xác minh, chỉ tồn tại trong các sự tích lịch sử truyền khẩu (truyền miệng) dân gian. Là thần Kim Quy với lẫy nỏ thần. Là mối di hận Cổ Loa với lời dặn hậu thế ngàn năm "giặc đang ngồi sau lưng nhà vua đấy". Là thần Kim Quy trả gươm lại ở hồ Hoàn Kiếm sau khi Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân thay cường bạo". Là chuyện Thánh Gióng lớn nhanh như thổi đánh giặc Ân, sau khi thắng giặc thì về trời, nói lên trách nhiệm đánh giặc giữ nước của những người thiếu niên, buộc phải trưởng thành nhanh để thắng nổi giặc. Là huyền thoại Quang Trung lên ngôi và ăn Tết trước khi thần tốc tiến ra Thăng Long đại phá quân Thanh....

Và huyền thoại ngay trong thời hiện đại với "Điện Biên Phủ trên không” giữa thủ đô Hà Nội đánh bại pháo đài bay B-52, biểu tượng sức mạnh không lực Hoa Kỳ. Huyền thoại Trường Sơn và các đường mòn Hồ Chí Minh, huyền thoại về con đường Hồ Chí Minh trên biển với những con tàu không số nhỏ bé và thô sơ đã chở hàng trăm tấn vũ khí từ Bắc vào Nam chi viện cho tiền tuyến. Huyền thoại Hồ Chí Minh, huyền thoại Võ Nguyên Giáp.

Nhà chiến lược quân sự tài ba một thời của Hoa Kỳ, ông McNamara đã phải thú nhận trong hồi ký của mình về các nguyên nhân chính đưa tới thất bại trước Việt Nam, trong đó có nguyên nhân: "Không hiểu văn hóa Việt Nam". Thực chất chính là không hiểu chủ nghĩa yêu nước đặc thù Việt Nam.

Lòng yêu nước, tình cảm yêu nước của con người Việt Nam đã phát triển tầm cao thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, và chủ nghĩa yêu nước VN đã hun đúc và hâm nóng lại tình cảm yêu nước đó, và nhân rộng ra hình thành một sức mạnh dân tộc, sức mạnh chống ngoại xâm kỳ diệu từ đời này sang đời khác, và sức mạnh đó giúp dân tộc Việt Nam thực hiện được chiến tranh nhân dân.

Có thể nói chủ nghĩa yêu nước VN là một sức mạnh vô địch, làm sản sinh ra muôn vạn anh hùng góp phần giữ vững đất nước. Chủ nghĩa đó khiến quân dân ta đánh giặc xuất thần, quên thân, có những sáng tạo, phát kiến bất ngờ, sáng tạo vô tận cách thức đánh giặc và thắng giặc mà không sách nào ghi lại đầy đủ được. Nếu để ý nghe các cựu chiến binh kể chuyện thời đánh Tây, đánh Mỹ thì hầu như cuộc nói chuyện nào người nghe cũng có thể rút ra được gì đó, mà lâu nay dù đọc cả ngàn cuốn sách cũng chưa biết tới.

Mỗi khi đất nước bị giặc ngoài đến xâm lược thì sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam kết lại thành làn sóng có sức nhấn chìm mọi kẻ thù. Trong thời đại Hồ Chí Minh, chủ nghĩa ấy đã tạo nên sức mạnh to lớn đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, giành lại độc lập cho dân tộc, thống nhất cho đất nước.

Những thế lực thù địch quốc tế đầy tham vọng hiện nay, đặc biệt là các thế lực nước lớn, luôn có những bộ phận diều hâu có dã tâm bành trướng, "dòm ngó" các nước nhỏ chực chờ cơ hội tốt. Một khi chủ nghĩa yêu nước trong dân tộc, xã hội của nước đó bị suy thoái, thất thế, thì đó là lúc họ sẽ ra tay, chèn ép, bắt nạt, hiếp đáp.

Nếu có kẻ "cõng rắn cắn gà nhà", "rước voi giày mả tổ" kiểu Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Hoàng Văn Hoan hay nhu nhược hèn nhát như phái chủ hòa (chủ hàng) của nhà Nguyễn, các phần tử hiếu chiến sẽ chớp cơ hội phát động chiến tranh xâm lược. 

Từ bài học xương máu của lịch sử, cho thấy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn cần thiết cho sự tồn vong của nền độc lập dân tộc và sự bình ổn đất nước. Hiện nay tình hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, nơi này, nơi kia còn có chiến tranh, cơn khát dầu mỏ và tài nguyên có vẻ đang trỗi dậy khiến cho chạy đua vũ trang như đang được khởi động.... Tuy nhiên, tư tưởng dùng sức mạnh quân sự để "xâm lược cứng" thôn tính một quốc gia có chủ quyền hay chiếm đất, chiếm tài nguyên bằng sức mạnh quân sự đã quá lỗi thời, nếu còn đọng lại chỉ là số ít những phần tử hủ lậu, hiếu chiến và thiển cận. Mặt khác, biện pháp "xâm lược mềm" lên ngôi: Xâm lăng văn hóa, chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ, gián điệp, diễn biến hòa bình kết hợp bạo loạn lật đổ, lợi dụng toàn cầu hóa, và có thể cả vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam kết hợp nhiều đời lại và tiến triển một cách tự nhiên, tiến hóa và thích nghi theo tự nhiên, chứ không do ai tạo ra. Từ những thực tế lịch sử nói trên, nó dần hun đút nên và hình thành một loại tình cảm, niềm tin, tư duy, nhân sinh quan, nhận thức, được các nhà nghiên cứu sử học đúc kết, tổng hợp chung lại và gọi sự đặc trưng đó bằng thuật ngữ "chủ nghĩa yêu nước Việt Nam". Một số nhà nghiên cứu sử học ở hải ngoại thì gọi một văn vẻ hơn là "chủ đạo Việt tộc".

Theo đó, việc giáo dục sử học của Việt Nam phải phản ánh nhu cầu và thực tiễn đó của người Việt Nam, ngàn năm nay đều như vậy. Từ Đại Việt Sử Ký cho đến các sách sử ngày nay đều nhận thức theo góc nhìn đó, theo quan điểm dân tộc đó. Kẻ xâm lược là ác, là sai, quân dân ta chống xâm lược là đúng, là anh hùng. Tóm lại, không thể cào bằng lịch sử, lật ngược hệ giá trị xưa nay của truyền thống văn hóa dân tộc.

1. Cào bằng lịch sử là một trò vô đạo

Cào bằng lịch sử là gì? Hiện tượng này dễ thấy nhất là khi ai đó viết về một cuộc chiến tranh nào đó mà cố tình bỏ qua yếu tố xâm lược do một kẻ cướp từ bên ngoài gây ra và những người kháng chiến sở tại trong một đất nước của họ, do bị xâm lược, nên phải đứng lên chống lại những kẻ cướp từ bên ngoài đó. Đặc biệt bệnh hoạn và vô liêm sỉ hơn khi kẻ đó viết về lịch sử của chính dân tộc mình với phong cách cào bằng đó.

Cuốn "An Nam Chí Lược" của Lê Tắc (đại thần người Hoa gốc Việt, phụng sự dưới trướng nhà Nguyên Mông Cổ), "Tổ Quốc Ăn Năn" của Nguyễn Gia Kiểng (người Pháp gốc Việt, "chủ tịch" của một tổ chức phản động mạo danh dân chủ trá hình ở Pháp), "Bên Thắng Cuộc" của Huy Đức (cựu nhà báo Việt Nam, người Mỹ gốc Việt, định cư ở Hoa Kỳ) là những phế phẩm như vậy.

Không cần là yêu nước, chỉ cần biết yêu điều thiện, yêu nhân nghĩa, yêu lẽ phải ở đời thì người ta cũng sẽ hiểu vì sao dân tộc Việt Nam cần chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, và biết trân trọng điều đó.

Hoặc ngay cả những kẻ vô cảm, vô tình nhất, tâm hồn hoàn toàn sơ cứng và không rung động nổi trước một câu chuyện lịch sử, trước một bài ca cách mạng, nhưng nếu vẫn còn lương tâm tối thiểu, thì họ sẽ không viết/đăng những bài tuyên truyền chống chủ nghĩa yêu nước Việt Nam như vậy. Bởi vì đến cả các cụ nông dân còn hiểu tại sao phải cần truyền thống yêu nước Việt Nam, biết rằng đó là một vũ khí cần thiết để giữ nước, thì không có lẽ nào những kẻ "nhân sĩ trí thức" kia lại không hiểu. Chẳng qua là chúng cố tình không muốn hiểu.

Ngoài ra còn có một bọn bầy đàn ăn theo, chủ yếu là bọn kém tư cách, thiếu nhân phẩm. Bọn họ chỉ là thiểu số trong xã hội, nhưng Việt Nam có khoảng 93 triệu công dân và kiều bào hải ngoại, thì thành phần đó dù là thiểu số cũng phải lên đến 3, 4 triệu tên, và chúng bu vào khen ngợi nức nở những bài như thế.

Hiện tượng "bầy đàn" này cũng không có gì đáng ngạc nhiên, đối với đại khối dân tộc thì chúng chỉ là những nhóm thiểu số dị hợm và vô đạo. Xưa nay luôn có những kẻ bệnh hoạn và quái gỡ muốn lội ngược dòng, tỏ ra nổi loạn, thích chơi nổi, khiêu chiến, khiêu khích, thách thức giá trị truyền thống, chính thống.

Họ thích thể hiện bản thân theo lối gây sốc, tỏ ra khác người, khác truyền thống, khác chính thống, khác biệt chỉ để khác biệt, có tâm lý thích chống lại, thích nói ngược chỉ vì cái Tôi của họ chứ không phải vì sự khách quan và hiểu biết, cũng như không có tinh thần xây dựng. Họ muốn "nổi tiếng", muốn nổi bật, khác đời, cố ý đi ngược đời, chứ không phải dựa trên tinh thần tôn trọng phẩm giá dân tộc và lợi ích đất nước.

Họ đặt cái sở thích cá nhân, bản ngã cá nhân ích kỷ lên trên nhu cầu tối cao của dân tộc, công tác tư tưởng để chuẩn bị tinh thần cho con em bảo vệ non nước. Họ đặt nhuận bút và nhu cầu câu view, tiền quảng cáo lên trên những giá trị đó. Vì lợi ích vật chất riêng mà họ không ngần ngại chà đạp dẫm lên giá trị và lợi ích chung. Không coi ra gì, không đếm xỉa gì tới những giá trị dân tộc đã được khẳng định qua năm tháng.

Đó thực chất chính là tội ác về văn hóa, lịch sử, đó là những bồi bút, văn nô tội phạm văn hóa, tuyên truyền nguy hiểm những tư tưởng, ngôn luận, quan điểm phi dân tộc, đòi làm sử một cách phi dân tộc, tức là hoàn toàn gạt bỏ cội nguồn, không có và không tính đến các nhân tố, yếu tố lịch sử dân tộc lâu đời và văn hóa truyền thống VN, không tính đến sự thích nghi và tiến hóa của dân tộc VN ngàn năm qua, trong đó có văn hóa và sử học, nói trắng ra chính là những tư tưởng mất gốc, vong bản, không xem bản thân là người Việt và theo đó không đứng trên lập trường, quan điểm của dân tộc để xét chuyện.

Đặc điểm phi dân tộc thấy rõ nhất ở họ: Họ luôn trích dẫn một số nước khác, nhất là Mỹ - Tây, và đòi bưng về đòi người Việt cũng phải rập khuôn dạy sử giống như các dân tộc đó, trong khi mỗi nền văn hóa, thực tiễn xã hội, nhu cầu của các dân tộc, hệ giá trị của các dân tộc đều khác.

Ngàn năm nay dân tộc Việt Nam lấy vấn đề đánh giặc giữ nước chống ngoại xâm làm trọng, ai có công đánh giặc giữ nước thì được coi là anh hùng dân tộc và được dân lập đền thờ, là tấm gương sáng ngàn năm, ai theo giặc thì bị coi là bán nước, phản quốc, Việt gian, chó săn, nói như sử thần Ngô Sĩ Liên là bọn chúng "không bằng trâu chó". Trong khi một số dân tộc khác do không có những trải nghiệm lịch sử như dân tộc VN, nên hệ giá trị của họ khác, họ không lấy vấn đề trên làm trọng. Mỗi quốc gia dân tộc, mỗi nền văn hóa, văn hiến đều khác nhau. Không thể ném chung vào một rọ.

Trong đầu óc thiển cận và u tối của họ chỉ tồn tại một cái gọi là "lịch sử" chung chung, trong khi cần ý thức rõ ở đây là chúng ta đang nói đến sử Việt Nam, chứ không phải lịch sử chung chung. Người Việt Nam dạy sử Việt Nam chứ không dạy sử Mỹ, sử Pháp.

Tại nhiều gia đình Việt Nam ngày nay, nhất là ở miền quê vẫn còn nhiều giá trị truyền thống, thì ông bà ba má anh chị kể lại cho con cháu và em mình nghe các câu chuyện lịch sử Việt Nam, kể chuyện Lý Thường Kiệt chống Tống, bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, Trần Hưng Đạo đánh Mông Cổ, Quang Trung phá nhanh giặc Thanh, Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh Pháp đuổi Mỹ, chứ họ không kể chuyện Joan of Arc, King Arthur, Robin Hood, Tần Thủy Hoàng, Khang Hy.

Nói chung, xuất phát từ não trạng, tâm lý, tinh thần, tư tưởng nô lệ thuộc địa còn rơi rớt lại sau gần trăm năm Pháp thuộc, có một số kẻ do ảnh hưởng từ di truyền, gia đình, sự dạy dỗ độc hại của bố mẹ, đã quen thói vô thức nhìn nhận, tiếp cận lịch sử VN và những chuyện của VN mà không coi bản thân họ là người VN, họ tự "phi Việt hóa" bản thân, tự làm mất gốc chính họ, biến thành những kẻ vong bản ngay trên chính quê hương nhà, một cách vô điều kiện và vô ý thức.

Những nạn nhân của dư chấn thực dân, những kẻ mà gia đình họ có "truyền thống" nhiều lần theo giặc phản quốc, những con bệnh nói trên thường xuyên chê bai, chửi bới, hô hào đòi tầm thường hóa lịch sử những chuyện xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam do người Việt Nam ghi lại!, do ngu dốt, do não trạng nô lệ và tư tưởng thuộc địa, hoặc do muốn chạy tội làm Việt gian bán nước.

Những kẻ này đòi phải nhìn nhận, phán xét lịch sử Việt Nam từ quan điểm, góc nhìn của các chính phủ ngoại bang, thậm chí là những cựu thù, những hung thủ xâm lược Việt Nam trước đây không lâu. Họ kêu gào phải "nhìn bản thân, nhìn mọi việc từ con mắt của kẻ khác". Đây không phải là khách quan hay lý tính gì cả mà là có triệu chứng tâm thần.

Khách quan và lý tính thì phải trước hết nhìn bản thân và mọi việc từ con mắt của chính mình, sau đó mới tham khảo các lập luận, lý lẽ, ý kiến khác xem có gì mới mẻ và đúng đắn, hợp tình hợp lý, và thích hợp, phù hợp để hoàn thiện, bổ sung, phát triển gì đó hay không. Chứ làm sao ai có thể nhìn bản thân và mọi việc từ con mắt của kẻ khác, trừ những bệnh nhân tâm thần.

Bản thân họ cũng làm không được nhưng vẫn hô hào, chứng tỏ một là họ mắc chứng hoang tưởng, hai là họ cố ý hô hào theo đơn đặt hàng của thế lực nào đó. Và thế lực đó không đi cùng với lợi ích chung của đại khối dân tộc Việt Nam. Và xuất phát từ nguồn gốc, nền tảng chung: Tư duy nô lệ thuộc địa, giống như một bản năng tự nhiên của bầy chó săn vẫy đuôi mừng chủ Tây.

Các bạn muốn cạnh tranh chính trị thì trước hết hãy có một hình ảnh "con người" cái đã, cần có một nhân cách, nhân phẩm của con người cái đã. Chứ còn bây giờ sự cực đoan, vong bản, mất gốc, hèn hạ đang bao trùm mọi cửa ngõ "tâm hồn" và tư tưởng của các bạn, thì các bạn không đủ tư cách bàn về chính trị nước nhà.

Lịch sử Việt Nam bao gồm từng chuỗi sự kiện gắn kết và dài bất tận từ chiến công thắng Tần, Hán, Tống, Nguyên, Minh đến Pháp, Mỹ, Khmer Đỏ, bành trướng Bắc Kinh. Từ Bạch Đằng, Chi Lăng, Rạch Gầm, Đống Đa đến Điện Biên, Đại thắng mùa xuân. Từ phòng tuyến Như Nguyệt, lũy Thầy, Yên Thế, Ba Đình đến đất thép Củ Chi, Tam giác sắt. Từ Xuân Kỷ Dậu đến Tết Mậu Thân. Từ Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Ngô Quyền đến Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, đến Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đến Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp. Từ Thăng Long đến Hà Nội. Từ thời Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh.

Trong tương lai, các thế hệ mai sau sẽ tiếp tục vận dụng lịch sử, áp dụng sử học để bảo vệ đất nước. Và các thế kỷ sau, những con cháu đời sau, những hậu duệ của thế hệ hôm nay vẫn sẽ sử dụng nó để tiếp bước cha ông đánh giặc. Cố gắng giữ cho quê hương đất nước và dân tộc được độc lập, trường tồn.

Hành động gây nhiễu loạn lịch sử, thậm chí lật ngược hệ giá trị dân tộc và lịch sử chống ngoại xâm đánh giặc giữ nước của dân tộc là một hành động phản quốc, phản dân tộc. Các bạn có thể chửi Nhà nước Việt Nam bất cứ cái gì khác, nhưng nếu các bạn làm những hành động mà giáo sư Nguyễn Lân Dũng gọi là "đốt đền thờ" như vậy thì đó chính là những hành động vong bản, mất gốc.

2. Làm sao chống tệ nạn xuyên tạc cào bằng lịch sử?

Tôi có những đề nghị này:

- Trước hiện thực các thế lực phản động, thù địch đang dùng mọi thủ đoạn và hình thức tấn công vào lịch sử nước ta, thì công tác giáo dục sử học theo hướng truyền thống, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nói chung là truyền thống cha ông và thuần phong mỹ tục Việt Nam càng phải được thúc đẩy, đôn đốc và kiểm soát, phát triển, càng ra sức giáo dục và quảng bá các giá trị thiêng liêng này, không để kẻ thù đánh phá, đồng thời tiến hành điều tra, trừng trị nghiêm minh và thích đáng các sai phạm.

- Cử chuyên gia, nhất là về ngành luật và ngành sử học, sang Nga để xem xét, tham khảo luật bảo vệ lịch sử, chống xuyên tạc lịch sử của nước bạn, và các cách làm, cách giải quyết, cách đưa luật này vào cuộc sống xã hội của họ nói chung. Hình phạt là gì, mức phạt ra sao. Đồng thời gắn kết, liên kết vấn đề này với vấn đề Diễn biến hòa bình như bên Nga, Putin cũng đã lên án và đang chống DBHB như chúng ta.

Nếu chỉ phạt tiền, thì số tiền tịch thu từ những kẻ xuyên tạc lịch sử và gây nhiễu loạn sử học VN sẽ được dùng như thế nào? Đề nghị: Dùng cho những việc nhân đạo, từ thiện, góp vào các quỹ khuyến học, học bổng, các quỹ của những câu lạc bộ yêu lịch sử, quỹ "cơm có thịt" hoặc xây/sửa cầu cho đồng bào dân tộc thiểu số, giúp thêm cho các nạn nhân chất độc da cam, các bệnh nhân/bệnh nhi nghèo, các thương binh, những bà mẹ Việt Nam anh hùng, cựu chiến binh nghèo, góp vào quỹ giúp đỡ bệnh viện miễn phí ở Đà Nẵng, mua nhu yếu phẩm, thực phẩm, áo ấm gởi ra Trường Sa và các nhà giàn trên Biển Đông....

Nên kỷ luật, xử phạt nghiêm khắc, nghiêm minh đối với những kẻ này. Tức là đến thời điểm này thì bọn họ đã dám đụng chạm đến cả vấn đề độc lập dân tộc, một vấn đề mà với truyền thống dân tộc ngàn năm nay là bất khả xâm phạm. Như vậy, trong những lúc này thì họ không những chỉ chống chế độ chính trị, chống cộng sản, chống cách mạng, không chỉ đi ngược lại lợi ích nhà nước, chính phủ, mà họ còn mở rộng lây lan sang sự chống phá, đi ngược các giá trị và lợi ích chung, lớn nhất, cao cả nhất của đất nước, giống nòi. Bọn họ đã tự biến thành những kẻ không đáng được tôn trọng, thậm chí là đáng ghê sợ và đáng khinh bỉ.

Hành động bán rẻ lợi ích tối thượng của đất nước xưa nay bị dân ta gọi nôm na là: Bán nước. Hiến Pháp sửa đổi mới của Việt Nam mới vừa được Quốc Hội thông qua với số phiếu gần tuyệt đối cũng ghi rõ: Tội phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.

Những kẻ muốn xóa nhòa chiến công, cào bằng lịch sử cha ông

Bút hiệu lạ "Nghiêm Hoa" thì phán "Truyền đạt vẻ đẹp của sự hy sinh, lòng trung thành,tình yêu nước hay ghi tạc bản sắc dân tộc là thông điệp của thi ca và nghệ thuật.", còn sử học thì không được làm như thế, đòi xóa bỏ bản sắc văn hóa dân tộc trong giáo dục lịch sử, cào bằng cả thế giới xem ai cũng như ai, cào bằng những người bị xâm lược và phải chống xâm lược với bọn giặc xâm lược và những thế lực theo giặc, cào bằng và kéo lùi giá trị dân tộc, "huề vốn" hết, "huề cả làng" hết. Coi cuộc chiến tranh xâm lược và cuộc kháng chiến chống xâm lược giống như một cuộc chiến của hai nhóm băng đảng nào đó.

Và sau khi bài viết của "Nghiêm Hoa" và quan điểm đó bị nhiều người vạch trần, lên án, phỉ nhổ, thì Nguyên Ngọc - không biết có liên quan gì đến bút hiệu "Nghiêm Hoa" hay không - lại ngụy biện lấp liếm nói tránh đi rằng ông ta "chỉ chống chủ nghĩa yêu nước thôi chứ không chống lòng yêu nước" để chạy tội tuyên truyền tư tưởng phản động, phản quốc.

Thực chất bọn họ đích thị là chống lại truyền thống yêu nước, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước, lý tưởng yêu nước, chống vấn đề yêu nước, yếu tố yêu nước trong lịch sử và trong sử học nói chung, trong đó có chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chứ họ không đặt trọng tâm vào việc chống "chủ nghĩa yêu nước" chung chung.

Họ lập lờ chơi trò chơi "chữ nghĩa" để chạy tội truyền bá các tư tưởng lệch lạc, chống lại các đức tính yêu nước, lòng trung thành với Tổ quốc, đức hy sinh cao cả vì đất nước và nhân dân, nhưng họ lại ngụy biện dối trá chối tội rằng "tôi chỉ có chống chủ nghĩa yêu nước thôi mà". Trong khi đức tính yêu nước, tư tưởng yêu nước hay chủ nghĩa yêu nước gì thì cũng là liên quan chặt chẽ với nhau, không đối lập với nhau, đều cùng là yêu nước.

Cho nên, cái trò ngụy biện cố gắng tách rời chủ nghĩa yêu nước ra một cách khiên cưỡng, rồi viết bài tuyên truyền như nó là cái gì đó "đối lập", "đối nghịch", thậm chí "mâu thuẫn", "xung đột" với lòng yêu nước nói chung, là một trò ngụy biện khôi hài, rẻ tiền và có tính chất tâm thần, đầu óc không bình thường.

Luận điệu "tôi chỉ chống chủ nghĩa yêu nước chứ không chống lòng yêu nước" khác gì ai đó bảo rằng "tôi chỉ chửi cha mắng mẹ Nguyên Ngọc thôi chứ tôi không chống Nguyên Ngọc, không chống ông bà của cậu đâu nhá".

1. Sự hồ đồ của ông Nguyên Ngọc

1.1. "Quáng gà" về khái niệm lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước

Nhà văn Nguyên Ngọc nói quanh co về lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước là rất hồ đồ, thậm chí điên rồ, khi ông ta đem khái niệm lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước tách biệt, cô lập với nhau, trong khi chủ nghĩa yêu nước chỉ là nhiều lòng yêu nước tương đồng hợp lại, là biểu hiện quan điểm tích cực về đất nước. Nó gồm những quan điểm như: Tự hào về thành tựu hay văn hóa của đất nước, mong muốn bảo vệ những đặc điểm, giá trị, bản sắc đó, và cao nhất, quan trọng nhất là gìn giữ đất nước.

Nếu ông không có tâm thức bảo vệ Tổ quốc, ông bàn chuyện lịch sử, chuyện dạy sử, chuyện chủ nghĩa yêu nước, mà ông hoàn toàn lờ đi không dám đề cập gì tới vấn đề bảo vệ đất nước, vấn đề chống xâm lược, thì có nghĩa là ông đã rất hèn, và lời nói của ông, bài viết của ông cũng không còn bao nhiêu giá trị tham khảo, và nó chẳng có gì là khách quan hay lý trí, khi ông đã cố tình "quên" đi yếu tố quan trọng nhất này.

Không ai có thể nói rằng họ yêu gia đình của họ nhưng họ lại không có ý thức bảo vệ gia đình họ, giữ cho gia đình họ được an toàn. Không ai có thể nói rằng họ yêu nước của họ nhưng họ không có ý thức bảo vệ nước nhà, giữ cho đất nước họ được độc lập, chống lại quân đội bên ngoài tới xâm lược, và lờ đi các yếu tố đó trong mọi cuộc nói chuyện và bài viết. Như vậy những kẻ đó vốn dĩ không hề yêu nước, việc họ vỗ ngực tự nhận họ là "yêu nước" thì đó có thể là một sự ngộ nhận, hoang tưởng, hoặc đơn giản là một sự nói láo, đạo đức giả, ngụy quân tử, ngụy ái quốc, yêu nước giả tạo, yêu nước bằng mồm.

Chủ nghĩa yêu nước rất gần với chủ nghĩa dân tộc, nhưng đó vẫn là hai khái niệm khác nhau. Nếu xét cặn kẽ thì chủ nghĩa dân tộc liên quan tới các học thuyết và phong trào chính trị hơn. Có lẽ ông Nguyên Ngọc đã nhầm lẫn nghiêm trọng giữa hai khái niệm này. Ngoài ra, ông Nguyên Ngọc cho rằng "chủ nghĩa yêu nước là cực đoan" thì cho thấy ông đã lẩm cẩm, lú lẩn rất nghiêm trọng. Tại Mỹ mà những người lú lẩn như ông có lẽ đã bị đưa vào viện dưỡng lão từ lâu rồi.

Giới triết học và khoa học xã hội quốc tế từ lâu đã phân loại ra một số khái niệm chính liên quan về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa sô-vanh (chauvinism, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi), và chủ nghĩa phát xít. Chỉ có chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa sô-vanh và các chủ nghĩa khác liên quan đến 2 chủ nghĩa này mới được coi là cực đoan. Chủ nghĩa dân tộc không được coi là cực đoan, chủ nghĩa yêu nước lại càng không.

Ông ta phán về lòng yêu nước, lý tưởng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước trong khi lại mơ hồ về các khái niệm này. Vẫn là "văn hóa" lâu nay của một số người có tư tưởng lội ngược dòng: Hay ăn nói bừa bãi về những chuyện mà bản thân không hiểu biết.

1.2. Không phân biệt nổi chủ nghĩa yêu nước chung chung và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

Đó là chủ nghĩa yêu nước chung chung, còn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam như đã phân tích ở phần trên, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hàng ngàn năm lịch sử VN và giúp cho dân tộc ta có một "kháng sinh", một sức đề kháng mạnh mẽ đối với giặc xâm lược, đôi khi chủ nghĩa yêu nước VN đã trở thành một sức mạnh vô biên mỗi khi có giặc. Chủ nghĩa yêu nước VN đã giúp dân ta đánh giặc hiệu quả, và đã đánh bại những loại giặc nguy hiểm và hùng mạnh bậc nhất thế giới, giữ cho quốc gia dân tộc được độc lập, giữ cho Việt Nam vẫn là Việt Nam. Như vậy, chủ nghĩa yêu nước VN là cần thiết và không hề cực đoan. Nó là một hệ quả, hiệu quả, kết quả tự nhiên sau ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Chủ nghĩa yêu nước là một trong những đặc điểm văn hóa của các dân tộc trong một nước, nó không phải là một sản phẩm của một chế độ chính trị cầm quyền. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng vậy, đó là một phần bản sắc văn hóa ngàn xưa truyền lại, từ truyền thống dựng nước - giữ nước và chống ngoại xâm mà kết tụ, kết tinh thành, chứ nó không phải là một sản phẩm tự sáng chế của chế độ đương quyền, như một số kẻ đầu bò đã hoang tưởng.

1.3. Nhận thức lú lẩn, mất trí, lẫn lộn giữa người cứu nước chống xâm lược và kẻ bán nước theo giặc xâm lược, phủi bỏ công lao của quân dân miền Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

Trong cuộc phỏng vấn đăng trên Vietnamnet, ông phán rằng "vinh danh bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng tốt thôi nhưng đừng làm quá, làm quá thì.... các bà mẹ miền Nam sẽ buồn."

Tại sao các bà mẹ miền Nam lại buồn khi họ được vinh danh vậy hả ông Nguyên Ngọc? Thống kê của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã cho thấy số bà mẹ Việt Nam anh hùng(những phụ nữ có ít nhất 3 liệt sĩ là bản thân, chồng, hoặc con trai trong gia đình) củamiền Nam nhiều gần gấp đôi miền Bắc. Miền Nam có 29.220 bà mẹ Việt Nam anh hùng, miền Bắc có 15.033 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Thông tin này đã cho thấy một thực tế là miền Nam đã hy sinh nhiều hơn miền Bắc trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ.


Bắc Nam sum vầy. Bà mẹ miền Bắc (trái) và bà má miền Nam (phải) ôm nhau trong ngày toàn thắng.

Hay ý ông là các bà mẹ của lính ngụy là "miền Nam"? Ông đến những vùng giàu truyền thống cách mạng như Mỏ Cày, Bến Tre (quê tôi) hay Điện Bàn, Quảng Nam mà tính ăn nói khùng điên ba trợn như vậy thì nên đi mua bảo hiểm sức khỏe trước, vì chắc chắn ông sẽ bị các bà má miền Nam tát gãy răng. Còn những thanh niên trai làng con cháu của những bà má miền Nam đó, nếu ông trẻ lại vài tuổi, có khi họ không kiềm chế được và đập ông một trận nên thân, dạy ông một bài học nhớ đời: Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói.

Đừng bao giờ phát ngôn ngu dốt vạ miệng như vậy nữa. Lời nói như những mũi tên, khi các ông xuyên tạc cào bằng lịch sử chính là ông đã bắn tỉa vô số tên độc vào dân tộc này, vào các giá trị, đạo lý và lợi ích dân tộc, cũng như mục tiêu độc lập dân tộc.

Mà ngay cả các bà mẹ lính ngụy đi nữa, những phụ nữ mà tôi và gia đình cũng quen thân không ít, và tôi cũng tôn trọng họ như những người trưởng bối, bởi vì họ tuy là mẹ của lính ngụy nhưng không hề phát ngôn hồ đồ, bừa bãi như ông đâu ông Nguyên Ngọc à.

Tại sao bà mẹ của lính ngụy lại "buồn" khi những bà mẹ Việt Nam anh hùng được vinh danh? Những bà mẹ Việt Nam anh hùng đã góp phần kết thúc chiến tranh, đem lại hòa bình, không còn tiếng súng, bom rơi đạn nổ, vậy thì sao lại buồn, ai buồn, hay chính đầu óc tối tăm của ông tưởng tượng ra?

Tôi lớn lên ở Sài Gòn trong một khu vực chung quanh toàn gia đình ngụy và tôi chưa bao giờ thấy một bà mẹ của lính ngụy nào mà ba trợn đến mức đi "buồn" vì những bà mẹ Việt Nam anh hùng được vinh danh. Ông khùng vừa phải thôi.

Và trong thực tế chiến tranh, có rất nhiều bà mẹ lính ngụy, dù con bị bắt lính, nhưng vẫn góp phần giúp đỡ, tiếp tế, thậm chí nuôi giấu cả lính Giải phóng trong nhà. Đa số lính ngụy là bị bắt lính, và trong đó có rất nhiều nhà, anh/em bị bắt lính và người anh/em kia lại trốn ra bưng biền đánh giặc, và những bà mẹ lính ngụy thường là thương người con ra bưng biền, ra chiến khu chịu khổ, vì đó là lý tưởng và lòng yêu nước của họ, hơn là đứa con kia bị bắt lính và vì kế sinh nhai, hoặc không đủ gan, không đủ nghị lực, không đủ sức chịu đựng để ra bưng biền chịu cực khổ.

Như vậy, ý kiến cho rằng "bà mẹ miền Nam sẽ buồn nếu bà mẹ Việt Nam anh hùng được tuyên dương nhiều quá" là một ý kiến quái gỡ và ngu xuẩn ở cả hai vế: 1. Lẫn lộn, đánh đồng bà mẹ lính ngụy với bà mẹ miền Nam, trong khi đa số bà mẹ miền Nam là những bà mẹ giải phóng. 2. Vu khống, chụp mũ những bà mẹ lính ngụy hiền lành, hiểu biết lẽ phải. Suy bụng ta ra bụng người. Nhét chữ vào miệng người khác. Phán và suy diễn bậy bạ mặc dù không chỉ ra được bà mẹ lính ngụy nào mà lại có thể "buồn" khi bà mẹ Việt Nam anh hùng được tôn vinh.

Tóm lại những luận điệu đó của các ông là những luận điệu quái đản và bệnh hoạn. Các ông cũng đừng nghĩ rằng có thể đem "tuổi cao niên" ra để tránh thoát bùa rìu dư luận mỗi khi nói càn, xúc phạm hàng triệu anh hùng liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, giá trị và phẩm giá Việt Nam. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Thân, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu "già" hơn các ông đến hàng trăm tuổi nhưng đời đời bị nhân gian lên án.

Những lời lẽ, luận điệu lập lờ cào bằng lẫn lộn trắng - đen, thiện - ác, chính nghĩa - phi nghĩa, vệ quốc - xâm lược của các ông chính là những luận điệu của Diễn biến hòa bình mà CTN Trương Tấn Sang đã bóc trần ra trong bài chính luận dài "Nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống Diễn biến hòa bình" trên Tạp chí Cộng Sản: "Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng nhằm đổi trắng thay đen, lẫn lộn giữa công và tội, giữa người cách mạng và kẻ phản dân, hạ bệ thần tượng và các nhân vật lịch sử."

1.4. Tóm lại, "tim đen" của các ông là gì?

Nếu là đáng mặt đàn ông, nếu là người quân tử, thì có gì cứ nói thẳng cụ thể ra đi. Cụ thể là các ông không hài lòng vấn đề gì trong công tác giáo dục lịch sử Việt Nam? Các ông đang đang ấm ức, hậm hực, hằn học, tức tối, vùng vằng không bằng lòng cụ thể chuyện gì?

Để tôi nói thẳng huỵch toẹt ra dùm "tim đen" của các ông nha! Có phải các ông nói quanh co vòng vo Tam Quốc để ám chỉ tới công tác giáo lịch sử cách mạng Việt Nam trong Thời đại Hồ Chí Minh, nhất là thời kỳ từ Cách Mạng Tháng Tám, giành độc lập cho đến 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ hay không? Tức là các ông đang nhắm đến thời kỳ lịch sử trực tiếp do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và đưa đến sự cầm quyền của chế độ ngày nay, có phải đúng vậy hay không? Tôi đã nói trúng "tim đen" của các ông rồi, đúng không?

Các ông dựa vào đâu mà đòi tách rời yếu tố yêu nước ra khỏi lịch sử hiện đại Việt Nam? Chẳng lẽ những thực tế lịch sử và kết quả giành được độc lập, chống hai thế lực ngoại xâm khổng lồ, giành lại được hoàn toàn độc lập dân tộc và một lãnh thổ toàn vẹn thống nhất không liên quan gì đến truyền thống yêu nước, yêu dân tộc của người Việt ngàn năm nay? Không có truyền thống yêu nước đó, không có chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ngàn năm đó thì làm sao người ta nuôi giấu bộ đội, du kích, làm sao dân tộc ta thắng nổi cường địch?

Còn nếu các ông bảo rằng các sách giáo dục của Việt Nam đã "dạy sai" nội dung, thì xin hỏi cụ thể là sai nội dung gì? Chẳng lẽ không phải Việt Nam giành lại được độc lập, chẳng lẽ Pháp - Mỹ không đem hàng triệu quân vào tấn công đất đai và đánh giết thảm sát người VN, gây hàng ngàn tội ác chiến tranh trên đất Việt? Chẳng lẽ các ngụy quyền hữu danh vô thực trong vùng tạm chiếm không phải là do Pháp - Mỹ bỏ tiền xây dựng lên? Chẳng lẽ không phải VN đã giành lại được hoàn toàn độc lập và thống nhất? Chẳng lẽ không phải Khmer Đỏ là bọn diệt chủng tàn ác đã đem quân xâm lược biên giới VN và đòi "chủ quyền" ở Sài Gòn và đảo Phú Quốc hay bất kỳ mảnh đất nào mà có cây thốt nốt? Chẳng lẽ bọn bành trướng Bắc Kinh không đem quân xâm lược miền Bắc VN? Chẳng lẽ Mỹ chưa từng cấm vận VN?

Các ông có thể cho biết các thầy cô VN đã dạy sai nội dung lịch sử nào được không? Hay các ông chỉ biết nói quanh co vòng vo Tam Quốc lung tung chung chung, gọi nôm na là.... chửi đổng?

Từ ngày qua Mỹ tôi lục tung các thư viện, từ thư viện trung học cho đến thư viện đại học tư nhân đến thư viện đại học công lập, đến thư viện công cộng và các nhà sách. Tôi đang có 4 cái thẻ thư viện để mượn sách ở 4 thư viện thành phố khác nhau, đọc rất nhiều sách của người Mỹ nói về lịch sử hiện đại VN, nhất là thời kỳ chiến tranh 10.000 ngày chống Pháp và Mỹ, đặc biệt là về danh nhân Hồ Chí Minh và danh tướng Võ Nguyên Giáp, các học giả trí thức Mỹ cũng không thể phủ nhận tài năng to lớn của hai anh hùng này, và công lao quyết định của họ đối với nền độc lập của Việt Nam. Và tôi không thấy sách giáo khoa Việt Nam, hay những gì tôi được dạy ở VN có khác biệt lớn so với những sách báo nước ngoài này.

Tóm lại, các ông phán rằng "không được tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước", vậy thì chúng tôi với tư cách là những người dân Việt thật sự coi mình là người Việt, kế thừa chủ đạo dân tộc Việt Nam (ngày nay được gọi bằng thuật ngữ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam) từ ngàn đời nay, từ những chiến chống hiển hách chống ngoại xâm từ chống Tần đến chống Mỹ và đến nay, người dân chúng tôi hỏi các ông: Không tuyên truyền "chủ nghĩa yêu nước" là không tuyên truyền cái gì? Cụ thể là gì? Bài học gì, giáo trình gì, bài báo nào, quan điểm nào, ý kiến nào, về giai đoạn lịch sử nào, vấn đề nào trong lịch sử? Cái gọi là "chủ nghĩa yêu nước" trong đầu các ông là gì? Các ông thật ra có hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu tường tận về khái niệm này hay chưa? Hay không biết rõ mà đã vội khoe ra cái ngu dốt, thiển cận của các ông?

Các ông hô hào "không được giáo dục, dạy chủ nghĩa yêu nước", vậy thì không giáo dục "chủ nghĩa yêu nước" cụ thể là không giáo dục cái gì? Không dạy "chủ nghĩa yêu nước" là không dạy cái gì? Hay tôi đã nói quá trúng "tim đen" của các ông ở trên?

1.5. Cố tình ly gián chính trị với lịch sử

Thêm nữa, các ông nhai đi nhai lại cái mà các ông gọi là "chính trị hóa" lịch sử. Cái gì trong xã hội các ông cũng hô hào đòi hỏi "phi chính trị hóa", trong khi không nêu ra được cụ thể rõ ràng cái nào cần hạn chế, cái nào cần mở ra, cái nào cần chính trị hóa, cái nào cần phi chính trị hóa. 

Chứ chẳng lẽ tự do xả láng muốn viết gì thì viết? Chưa có nước nào trên thế giới đạt đến mức ai muốn viết gì thì viết, kể cả các nước đã phát triển trước ta vài trăm năm, trong đó có nước Mỹ, là quốc gia mà các ông coi là hình mẫu chuẩn mực của tự do dân chủ. Chứ đừng nói là ở một nơi đang có những thực tiễn như xã hội Việt Nam.

Trước đây các ông hô hào đòi phải "phi chính trị hóa quân đội" là đã chập cheng lắm rồi, bây giờ đòi cả "phi chính trị hóa" lịch sử và sử học nữa thì thật là một trò cười kinh điển. Cho thấy các ông có lẽ đã hết xài và đến hồi mạt vận. Bởi các ông không còn đủ độ tỉnh táo bình thường như những người chung quanh khác được nữa. Lịch sử là nói về quốc gia, về trị nước, bang giao, chiến tranh.... mà mở miệng đòi "phi chính trị hóa", kêu gào "không được chính trị hóa" là thế nào? Chính trị và lịch sử hai đề tài quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, và không thể thiếu nhau. Trong lịch sử luôn có chính trị, lịch sử là nói về chính trị quá khứ, còn chính trị hiện tại và tương lai là từ chính trị quá khứ (lịch sử) mà có.

Làm sao người ta có thể chính trị hóa lịch sử trong khi bản thân lịch sử đã đầy yếu tố chính trị, đầy nội dung chính trị trong đó ngay từ đầu rồi? Chẳng khác nào các ông đòi đừng Việt hóa người Việt, Hán hóa người Hán, Mỹ hóa người Mỹ, Tây hóa bọn Tây. Các ông có bị khùng không vậy? Sự khùng điên ba trợn nào cũng phải có giới hạn.

Gần đây các ông có bao giờ đi khám thử bác sĩ tâm lý chưa vậy? Nếu chưa thì nên đi khám cho chắc ăn. Tôi nghĩ tâm lý các ông có gì đó bất ổn nên các ông mới có thể nghĩ ra được những khái niệm kỳ quái và không có một chút logic nào như vậy. Những khái niệm mà người ta chỉ thấy ở trong đầu óc của bọn tội phạm biến thái, không phải từ những người lành mạnh bình thường.

Các ông càng nói nhiều, càng viết nhiều thì càng bộc lộ ra cho mọi người thấy hết trình độ thật sự của các ông, nhiều lúc không hề tương xứng với bằng cấp, học vị, hay ít nhất là "trình độ" đáng kinh ngạc của các ông về những đề tài mà các ông hay nói leo vào, và những đề tài đó cũng không ăn nhập gì đến chuyên môn ngành học của các ông.

Tôi hỏi lại các ông: Tóm lại cụ thể là các thầy cô, giáo viên Việt Nam đã dạy sai cái gì, đã giảng "chính trị" sai cái gì, hay chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã sai cái gì? Tóm lại là mấy ông bà đó đã giáo dục sai chỗ nào, sai thế nào, sai cái gì, sai ra làm sao? Cái gì, chỗ nào, vấn đề gì, điều gì không tốt cho nước cho dân? Cái gì trong đó mà không tốt cho mục tiêu độc lập dân tộc? Hay các ông bảo rằng mục tiêu độc lập dân tộc là không quan trọng nhất và không cần đặt lên hàng đầu?

Lâu nay các chuyên gia và bậc phụ huynh than phiền, phàn nàn về giáo dục Việt Nam đều là ở các đề tài: Quản lý học sinh kém, hình thức giảng dạy, cách dạy lạc hậu, giáo điều, áp đặt, chất lượng nhân sự (hiệu trưởng, giáo viên). Không thấy ai chỉ ra được nhà trường VN dạy sai cái gì lớn, kể cả chính các ông cũng không chỉ ra được, nên chỉ biết nói chung chung, mơ hồ.

Nếu các ông không chỉ ra được chi tiết cụ thể, không nói vào cụ thể mà toàn là chửi đổng bâng quơ chung chung bằng những chụp mũ, vu khống sáo rỗng đạo đức giả của những kẻ ngụy quân tử, nghe không thấy một chút hợp tình hợp lý nào, thì đó chỉ là, xin lỗi, như người ta hay gọi là "chó sủa trăng".

1.6. Văn học nghệ thuật "ngóc đầu dậy"?

Theo tôi được biết qua nhiều người kể lại, thì ông Nguyên Ngọc hay có cái thói quen là mỗi khi bị ai phản đối thì ông có mỗi một câu lặp đi lặp lại, lặp tới lặp lui đại ý là nếu không nghe theo lời ông thì "văn học nghệ thuật cái xứ này còn lâu mới ngóc đầu dậy nổi". Thực tế có phải vậy không?

Nền văn học nghệ thuật có cho ra được một tác phẩm nào xuất sắc hay không là nằm ở con người, công tác nhân sự. Công tác nhân sự mà đưa những người có tư tưởng như Nguyên Ngọc lên chức cao ở Hội Nhà Văn và một tờ báo khá lớn như báo Văn Nghệ thì làm sao ngóc đầu lên được?

Việc ông Nguyên Ngọc một thời đã từng lên cao (sau đó là té nặng, té đau, nảy sinh tâm lý bất phục, chán ghét), được trọng dụng cao như vậy ở Hội Nhà Văn và báo Văn Nghệ là một sai lầm to lớn của Đảng. Dù rằng Đảng không phải là người trực tiếp bổ nhiệm ông ta, nhưng Đảng lãnh đạo thì nên có trách nhiệm trong những việc như thế.

Sau đó đưa ông ta ra khỏi những chức vụ này lại là những quyết định sáng suốt. May mà kịp thời sửa sai, nếu không, những nhân vật như thế này chui sâu trèo cao lên nữa thì đổ nợ, nguy hiểm cho sự ổn định chính trị xã hội của nước nhà.

Trở lại vấn đề văn học, nghệ thuật: Văn học nghệ thuật có "ngóc đầu" hay không là phụ thuộc vào yếu tố con người và nhiều yếu tố khác, trong đó có cả yếu tố văn hóa, lịch sử. Văn học nghệ thuật VN còn kém một phần lớn là vì lịch sử VN chiến tranh liên miên, phải đánh giặc thường xuyên, không có thời gian hòa bình lâu dài, không có thời gian rảnh để thả hồn mơ mộng bay bổng, để mà nghĩ đến văn học, nghệ thuật, kinh tế, hay bất cứ cái gì khác.

Văn học nghệ thuật VN còn kém còn phần lớn do từ xưa văn hóa VN không phải là một nền văn minh lớn, từ xưa kinh tế VN không phải là một nền kinh tế lớn như nền văn hóa, kinh tế của Tây, Tàu, Nga, Mỹ, Ấn.

Vấn đề này rất ít liên quan đến mức độ tự do sáng tác. Ví dụ: Trung Quốc, Liên Xô (và Nga ngày nay) có cùng quan điểm giống như Việt Nam về công tác văn học nghệ thuật, nhưng họ vẫn cho ra nhiều tác phẩm chất lượng cao, về văn học tiểu thuyết cũng như kịch bản điện ảnh.

Phong kiến Trung Hoa cấm đoán rất nghiêm ngặt nhưng các tác phẩm bất hủ, để đời, vượt thời gian đến ngày nay không thời nào là không có. Tam Quốc Diễn Nghĩa đang nằm trong tủ sách nhà ông Nguyên Ngọc và các bạn già của ông là có từ thời nhà Minh bên Trung Hoa, là một triều đại có những công cụ cấm đoán ngôn luận rùng rợn bậc nhất như Cẩm Y Vệ, Đông Xưởng. Vậy mà văn học vẫn phát triển rất thịnh trong thời nhà Minh.

Nói vậy không phải để cổ vũ hạn chế ngôn luận một cách quá đáng, mà là để cho thấy rằng mức độ chất lượng của một nền văn học nghệ thuật không liên quan nhiều đến yếu tố cấm đoán hay mức độ tự do.

Đương nhiên, những tác phẩm nghệ thuật liên quan đến lịch sử thì có thể "du di" về các thông tin, về mức độ chính xác của thiết kế, mỹ thuật, y phục, hoa văn, tạo không gian rộng rãi cho hư cấu nghệ thuật, nhưng vẫn không thể làm ảnh hưởng đến tinh thần chống xâm lược, đến bản chất chính nghĩa - phi nghĩa của người nạn nhân bị/chống xâm lược và kẻ hung đồ đi xâm lược. Còn giáo dục chính sử nghiêm túc thì càng phải đặt trọng tâm truyền đạt lại tinh thần chống ngoại xâm đó, lấy đó làm trung tâm.

Thực tiễn truyền thống văn hóa lịch sử Việt Nam, tinh thần chủ đạo của dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam vốn đã như thế thì cần chấp nhận thực tế đó, không ai có quyền tự tiện sửa đổi, thay thế, bê yếu tố sử học nước ngoài xa lạ không phù hợp vào rồi tưởng đó là "văn minh", trong khi các thực tế của họ khác ta, xuất phát điểm của họ khác ta, tiền đề, nhu cầu của họ cũng khác xa ta.

2. Thói quen "ngậm máu phun người" của tiến sĩ hóa học Giáp Văn Dương

Một trong những thói quen dễ thấy nhất của Giáp Văn Dương là ông ta thường có những bài viết phán xét, "dạy dỗ" thiên hạ, nhưng lại dựa trên một tiền đề (premise) không có thật. Nói nôm na kiểu dân gian là "ngậm máu phun người".

Đến thần kinh như Lý Tống, Bùi Hằng mà còn ít nhiều gì đó dựa trên những tiền đề có thật. Ít nhất Lý Tống hô hào "cách mạng chống cộng đua xe" là dựa trên tiền đề về tệ nạn đua xe nhức nhối ở VN. Còn Giáp Văn Dương thì cũng chửi đổng nhưng tệ hơn, dựa trên một tiền đề không có thật.

Thí dụ bài "Thoát Trung Luận" năm ngoái, ngay cái tít cũng đã bịp bợm đặt điều và xuất phát từ một tiền đề không được chứng minh, rằng Việt Nam đang bị "bế tắc", đang bị bao trùm, bị nhốt bởi Trung Quốc và cần phải "thoát" ra khỏi Trung Quốc hay gì đó.

Nếu Việt Nam như vậy mà còn phải "thoát khỏi" Trung Quốc thì thử hỏi Thái Lan, Singapore, hay những nơi mà người Hoa nắm kinh tế, chính trị thì phải gọi là gì? Và nền văn hóa Việt Nam ngàn năm nay vốn ảnh hưởng, tiếp thu không ít các tinh hoa của nền văn minh Trung Hoa, các cổ nhân Việt Nam, thấm nhuần văn hóa Tam giáo đồng nguyên từ Khổng - Phật - Lão, thì phải gọi là gì.

Ngày nay nhìn vào xã hội Việt Nam, và cả xã hội Trung Quốc, chỉ thấy thiên hạ mặc đồ Tây, đi xe Tây, coi phim Hollywood, Harry Potter, Siêu nhân, Người dơi, X-men, đọc sách Tây, học tiếng Anh, và đường phố đầy Tây ba lô. Mấy đứa choai choai thì tóc xanh tóc đỏ. Xã hội đang có nguy cơ Tây hóa, lai căng hóa. Truyện thiếu nhi thì toàn là Hentai Nhật Bản với Hàn Quốc. Thành ra tôi cũng không hiểu từ đâu mà Giáp Văn Dương nảy sinh ra một ý niệm quái đản phi thực tế rằng VN có một nhu cầu phải "thoát Trung". Thoát Trung cụ thể là thoát cái gì?

Bệnh hoạn hơn, trong bài "Thoát Trung Luận" có vài phần gán ghép vấn đề "thoát" Trung Quốc với "thoát" khỏi chủ nghĩa Marx Lenin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong khi trên thực tế các chủ nghĩa, học thuyết này không phải của Trung Quốc, và không phải chỉ có một mình Trung Quốc áp dụng. Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, Đảng Cộng sản Pháp và cánh tả thế giới mà đọc ý này trong bài "Thoát Trung Luận" không biết họ sẽ nghĩ gì về tác giả Giáp Văn Dương, có lẽ họ sẽ nghĩ đây không phải là một người tỉnh táo, hoặc viết bài trong một trạng thái bất ổn định, thiếu tỉnh táo, hoang tưởng xa rời thực tế đến kinh ngạc, cứ như ông ta đang sống trong một thế giới ảo nào đó.

Một thí dụ nữa là bài với cái tít vu khống "Lịch sử không phải để đặt trên bàn thờ", chụp mũ rằng người Việt Nam đã đặt lịch sử lên trên bàn thờ. Nhưng nội dung lại không hề chứng minh hay giải thích cho sự cáo buộc, chỉ trích này. Sau đó làm một tràng y như thật, và viết toàn bộ nội dung luyên thuyên vì sao không được đặt lịch sử lên bàn thờ. Nhưng tuyệt nhiên không cần chứng minh, hay ít nhất giải thích cho sự cáo buộc đó ngay từ đầu. Cho thấy sự vô nghĩa và vô giá trị của bài, khi nội dung bài xuất phát từ một tiền đề vu khống.

Thế nào là đặt lịch sử lên trên bàn thờ? Tôn trọng lịch sử, phân biệt rõ ràng giữa nạn nhân bị xâm lược, giữa người chống xâm lược và kẻ đi xâm lược, ý thức được lợi ích quốc gia dân tộc và nhu cầu giữ nước không có nghĩa là thờ cúng lịch sử hay tín ngưỡng hóa lịch sử, mê tín hóa lịch sử, biến lịch sử thành mê tín dị đoan.

Tôn trọng lịch sử chống ngoại xâm của cha anh, tinh thần yêu lịch sử, tri ân người giữ nước, khinh ghét kẻ cướp nước và kẻ bán nước là truyền thống cao đẹp, thuần phong mỹ tục Việt Nam chứ không hề là mê tín dị đoan. Thật ra Giáp Văn Dương muốn thoát Trung hay là thoát Việt?

Nói chung, hai bài viết đó của Giáp Văn Dương đã "áp đặt tiền đề" và nội dung toàn bài xuất phát từ một "tiền đề vu khống", một thủ pháp ngụy biện xưa như trái đất mà bọn rận do được huấn luyện trong các "lớp học nhân quyền" tương tự các lớp học mà Lê Công Định từng mở trước đây (do các quỹ nước ngoài, nhất là từ Mỹ tài trợ), rất hay áp dụng, các bạn trẻ nên để ý.

Nhiều bạn trẻ rất yêu nước và thông minh, hay tham gia hướng dẫn, giáo dục bọn phản động để giúp bọn họ quay về đường ngay nẻo chánh, nhưng do không có nhiều kinh nghiệm tranh luận với người nước ngoài nên hay không để ý đến những trò ngụy biện áp đặt tiền đề, "ngậm máu phun người" sơ đẳng này.

Muốn ngăn chặn bọn phản động "ngậm máu phun người" thì khi bọn họ cáo buộc ta vấn đề gì đó thì chúng ta phải dừng họ lại ngay và yêu cầu chứng minh, hay ít nhất phải giải thích ra ngô ra khoai. Nếu chứng minh được hay ít nhất có lý lẽ gì đó hỗ trợ (backup) cho luận điệu đó thì hãy bàn tiếp, còn không thì cáo buộc đó không có ý nghĩa, không có giá trị gì cả và không cần bàn tiếp nữa. Không để bọn họ vu khống, chụp mũ.

Muốn viết bài "Thoát Trung Luận" thì ông trước hết phải chứng minh thành công rằng Việt Nam đang bị Trung Quốc nhốt nên phải thoát Trung, thoát ra khỏi Trung Quốc. Dư luận thế giới và sách báo quốc tế có ai nói VN đang bị TQ "nhốt" và cần phải "thoát khỏi" không? Nếu không thì cái "luận" đó của ông có giá trị ngang giấy gói xôi.

Cũng vậy, muốn viết bài "Lịch sử không phải để đặt lên bàn thờ" thì trước hết phải chứng minh được rằng người Việt Nam hay đối tượng nào đó mà ông công kích đã đặt lịch sử lên trên bàn thờ ra sao, thế nào là đặt lên bàn thờ, người VN đã thờ cúng lịch sử, đã mê tín lịch sử như thế nào. Còn không chứng minh được thì bài viết đó là giấy gói xôi, vô nghĩa, vô duyên và không có giá trị tham khảo, thậm chí không đáng để quan tâm.

Từ "Thoát Trung Luận" đến.... "Thoát Thân Luận", Thoát Việt Luận trong giáo dục Việt sử. Mai đây con bệnh tâm thần này sẽ còn hô hào "thoát" ra khỏi cái gì nữa đây? Khùng điên hơn với "Thoát Y Luận" hay cởi bỏ hẳn mặt nạ ra và nói huỵch toẹt ra đòi phải "Thoát Cộng Luận"? Nội cái tên bài "Thoát Trung Luận" cũng đã nói lên sự vĩ cuồng và đầu óc bất bình thường của con người này, như là vừa phát kiến ra một "học thuyết", "luận thuyết", "chủ nghĩa" gì đó to lớn. Giật tít đao to búa lớn.

Bài "Lịch sử không phải để đặt lên bàn thờ" (có thể gọi là Thoát Việt Luận) của Giáp Văn Dương cũng rất mâu thuẫn và như một bạt tai thật mạnh vào bài "Thoát Trung Luận". Ông đừng nói với tôi là Trung Quốc đặt lịch sử nước nó lên bàn thờ nhé, đọc các câu chuyện lịch sử Trung Quốc chỉ thấy hoàng đế là "thiên tử". Các văn thần thì người là Văn khúc tinh quân, Thái thượng lão quân, Thái bạch kim tinh, võ tướng thì phải là Vũ khúc tinh quân, Nhị thập bát tú, Nhị lang thần Dương Tiễn, Na Tra. Vua quan cùng vâng lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng phàm. Lịch sử ở TQ gắn liền nhiều với dã sử, văn học, nghệ thuật, yếu tố giải trí, chứ không hề gắn liền với yếu tố kính trọng, biết ơn, nhớ ơnthuần Việt đặc thù VN, phù hợp với đạo lý, tình nghĩa, và tâm tư tình cảm của dân tộc VN.

Còn theo tiền đề của bài "Thoát Trung Luận", thì VN phải "thoát" ra khỏi TQ. Như vậy là hai bài viết của cùng một tác giả này đã có mâu thuẫn lớn về tiền đề, ý chính, nội dung chính. Bài viết thứ nhất muốn mượn con ngáo ọp "thoát Trung" để đòi VN phải bỏ con đường XHCN, chủ nghĩa Marx Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Bài thứ hai là những ngụy biện quanh co nhằm hô hào: Người Việt đừng kính trọng sử Việt nữa. Lịch sử Việt Nam (bao gồm những anh hùng, chiến công, hy sinh, sự kiện, cuộc chiến liên quan) không phải để kính trọng!

Qua những quan điểm có dấu hiệu của sự mất trí, điên rồ này, ông ta đã biểu hiện như một con bệnh tâm thần, hoang tưởng. Đặt giả thuyết nếu đây không phải là một sự giả vờ, đóng kịch để nhồi sọ, "ngu hóa" người khác, thì có thể một số hóa chất độc hại đã ảnh hưởng ít nhiều đến não bộ của người tiến sĩ hóa học này, do cả đời tiếp xúc, thí nghiệm với đủ loại hóa chất từ nhỏ tới lớn.

Còn nếu đó là những tuyên truyền ác ý, thì cũng không có gì ngạc nhiên. Lâu nay luôn có một bộ phận "trí thức" lai căng, thân Tây, thân Mỹ, hoạt động DBHB, do nước ngoài gởi về. Để "thuần hóa" một dân tộc, xâm lược mềm một quốc gia, thì họ phải can thiệp, chống lại và triệt tiêu chủ nghĩa yêu nước của dân tộc đó.

Cách làm xưa nay của họ là ban phát các giá trị (value), ví dụ thời Pháp thì có rất nhiều nhà thương thí, thời Mỹ thì có rất nhiều học bổng. Tóm lại là ban ra gì đó, ban bố giá trị gì đó, để mị dân, lấy lòng, và gắn chặt lợi ích của một bộ phận thiểu số dân bản xứ với bọn họ. Thao túng, thâu tóm tầng lớp trí thức, có tham vọng tạo dựng lên một thế hệ, một tầng lớp trí thức lai căng, vọng ngoại, thân Tây, thân Mỹ mới, phi dân tộc hóa, phi Việt hóa, để phòng khi hữu sự, có biến động, biến loạn, biến cố chính trị sau này.

Do đó, bọn họ tìm mọi cách đánh phá chủ nghĩa yêu nước VN, trong đó có mục tiêu "lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh". Hành động của bọn họ giống như lao đầu vào đá, giống như những con thiêu thân tự sát, nhưng họ vẫn phải cố gắng làm thử, vì không làm thì hầu như không thể nào thay thế được chế độ. Phải chăng đây là cơn điên dại, co giật, vô vọng, tuyệt vọng cuối cùng của bọn phản động?

Một trong những mục tiêu lớn của Diễn biến hòa bình là "phun nọc độc" phá hoại nhận thức lịch sử truyền thống của một dân tộc đang vững mạnh về chủ nghĩa yêu nước, có tinh thần dân tộc mạnh mẽ, mà họ khó xâm nhập vào được.

Họ muốn diệt đi tâm thức, ý thức chống giặc xâm lược của người Việt, để mở đường xâm nhập, từng bước "khai hóa" dân ta lần nữa, hoặc ít nhất tạo điều kiện thuận lợi để xâm lược cứng hoặc xâm lược mềm trong tương lai.

Xưa thì là "khai hóa văn minh", còn sắp tới sẽ là "khai hóa dân chủ". Và họ đang mua chuộc những tên tay sai bản xứ thăm dò, mở đường trước. Những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Văn Thiệu, Hoàng Văn Hoan tân thời đang là những đối tượng họ đặt vào trong tầm ngắm. Đồng thời, họ cũng muốn phá hoại và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, mà chủ nghĩa yêu nước VN chính là một trong những nhân tố hàn gắn, gắn kết sự hòa hợp đoàn kết dân tộc đó.

2.1. "Stick to your day job!"

Các bài viết của bọn ngụy và bọn phản động nói chung, cũng như một bộ phận dỏm đời tự coi mình là "nhân sĩ, trí thức" thường biểu lộ tình cảm tôn thờ sùng bái, trung thành và thầm yêu trộm nhớ Hoa Kỳ đơn phương nên tôi xin tặng câu này từ người Mỹ cho các bạn ấy: "Stick to your day job!" Biết đâu có thể làm cho các bạn ấy nghĩ lại. Không còn não trạng cái gì cũng hô "cộng sản tuyên truyền".

Tại Mỹ, những trí thức, đặc biệt là các tiến sĩ, giáo sư, giáo viên, chuyên gia, chuyên viên.... mà phán trên báo về những chủ đề không liên quan tới chuyên ngành, chuyên môn của họ thì là một hiện tượng vô duyên hi hữu và lạ lùng. Các chuyên gia và trí thức có học hàm, học vị cao, văn minh, biết điều, tự trọng, tôn trọng độc giả và người nghe thì không ai làm vậy. Cho nên trường hợp này hầu như không thấy trong xã hội Mỹ. Không chỉ là trí thức mà bất cứ ai nói ra ngoài kiến thức chuyên môn, hiểu biết chuyên ngành của mình thì đều bị bạn bè hay người nhà của họ nhắc nhở: "Stick to your day job!", ngụ ý rằng hãy lo công việc ban ngày của mày đi.

Một xã hội văn minh thì phải như vậy. Và chỉ có như vậy thì yếu tố tự do ngôn luận mới được phát huy hiệu quả và có ích. Còn nếu không, thì tự do ngôn luận sẽ trở nên phản tác dụng, tác dụng ngược và gây hại xã hội. Mọi người tự do thi đua phán bậy, tự do chém gió, tự do tuyên truyền ngoài lĩnh vực hiểu biết chuyên sâu, đầu độc lẫn nhau.

Tự do ngôn luận khác với tự do tẩy não, nhồi sọ, đầu độc nhau, tự do tuyên truyền sai sự thật hoặc xuyên tạc, bóp méo, uốn nắn, xào nấu sự thật. Nếu tự do ngôn luận không được đặt trong khuôn khổ pháp luật và cả khuôn khổ luật bất thành văn với đạo lý nói trên, thì tự do ngôn luận sẽ biến thành tiêu cực, bi kịch như thế.

Hiện tượng một ông tiến sĩ hóa học viết bài tuyên truyền về sử học chính là một trong những thí dụ bi hài đó. Ông ta có lẽ đủ tư cách và uy tín để viết về vật lý, hóa học. Còn tư cách và uy tín để viết về sử học thì ông ta không hơn gì một bác chạy xe ôm, một ông thợ sửa xe, một học sinh phổ thông. Thậm chí, những người kia do giao tiếp nhiều nên có thể hiểu biết hơn, có nhận thức lịch sử cao hơn.

Một số thế lực nước ngoài, dù ở xã hội đã phát triển của họ thì khác, song ở các xã hội nước nhỏ, nhược tiểu, chưa phát triển, kém phát triển, nhất là các xã hội thuộc địa và cựu thuộc địa, thì họ lại mượn danh "tự do ngôn luận" để khuyến khích giới trí thức phát ngôn, ăn nói bừa bãi, nói leo sang lĩnh vực, ngành học chuyên môn khác, như vậy chân giá trị của trí thức bị giảm thiểu, hoặc bị vô hiệu hóa, khi người trí thức đã nói khác với chuyên môn của mình, nói về những chủ đề mà họ không có học vấn, không có kinh nghiệm, thậm chí bỏ ra rất ít thời gian để suy nghĩ, tìm hiểu chính xác về chủ đề đó.

Những người nào thuộc loại trí thức giả cầy nói trên hãy nhìn các tấm gương đức tính của những nhân sĩ trí thức thật sự và đúng nghĩa, như giáo sư viện sĩ Trần Đại Nghĩa, giáo sư tiến sĩ Võ Hồng Anh (con gái Đại tướng Võ Nguyên Giáp), đó là đức tính khiêm tốn của kẻ sĩ và tinh thần trách nhiệm của người quân tử, họ có thể bàn luận nhiều vấn đề riêng với nhau, trên bàn nhậu, trong nhà với nhau, nhưng chỉ công khai nói, viết, trả lời phỏng vấn về những gì họ thật sự nắm vững, hiểu biết rõ ràng. Những nhân vật đó mới là những nhân sĩ trí thức thật sự, còn Giáp Văn Dương và các ông giả cầy kể trên thực chất chỉ là hạng bịp bợm mượn danh, tiếm danh, thậm chí mạo danh "chém gió" công khai, tuyên truyền bịp bợm về những đề tài bản thân chưa từng ăn học, trải nghiệm, thực nghiệm.

Hiện nay nhiều người nói về "văn hóa xấu hổ" trong xã hội nước ta, vậy thì bây giờ các ông "nhân sĩ trí thức" giả cầy nên rèn luyện đức tính "biết xấu hổ" này đi, bắt đầu từ sự có trách nhiệm với lời nói của mình trong lúc phát ngôn, và sự khiêm tốn của kẻ sĩ phu, "biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe" như ông bà mình đã dạy. Chứ đừng nên làm những kẻ thất phu "chém gió" phàm phu tục tử, gây cười hoặc gây phản cảm.

Chuyên ngành lĩnh vực này, nhưng lại nói leo sang lĩnh vực khác thì cũng giống như Einstein đi vẽ tranh, Picasso đi thí nghiệm khoa học, cầu thủ bóng rổ nổi tiếng nhất thế giới Micheal Jordan bỏ bóng rổ chơi bóng chày một thời gian và kết quả là chơi kém hơn cả bọn bóng chày đại học.

Đó cũng chỉ là những so sánh tương đối, vì Giáp Văn Dương và các "nhân sĩ trí thức" chuyên gia nói leo làm sao so sánh được với.... học trò của những học trò của người giúp việc của những nhân vật lỗi lạc trên. 

Ngay cả trình độ chuyên môn về hóa học thật sự của ông Dương cũng không rõ thực hư thế nào, hiểu biết đến đâu, cao thấp ra sao. Đặt trường hợp lai lịch đó của ông ta là thật, mà không phải là một lai lịch giả tạo được dàn dựng bởi các thế lực nào đó, điều này cũng không hề khó và không hề hiếm có, trong thời chiến tranh đã có rất nhiều lai lịch giả như thế, thậm chí lý lịch ba đời gia đình cách mạng mà Pháp - Mỹ còn dàn dựng được.

Hy vọng đó không phải là những bằng giả, một số Việt kiều về nước hoạt động thì rất hay thậm xưng là thế này thế kia, và ở nước ngoài cũng có rất nhiều bằng giả, thậm chí có thể dễ dàng tìm trên Google rồi đặt hàng online.

Nói chung, ngoài sự sáo rỗng chung chung thì có 2 điểm cơ bản vì sao những bài viết như vậy là vô giá trị: Ông ta phán "đừng đưa lịch sử lên bàn thờ" là muốn nói đến lịch sử nào? Lịch sử thế giới, lịch sử nước Mỹ, lịch sử nước Tàu? Nếu ông ta muốn nói lịch sử nước ta thì nên nói rõ ra. Còn hèn nhát không dám nói rõ đó là lịch sử Việt Nam thì đừng nên viết bài nữa càng làm trò cười cho thiên hạ.

Lịch sử Việt Nam là gắn liền với các chiến công vệ quốc, các hy sinh xương máu trong tiến trình dựng nước và giữ nước, trong quá trình chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, các anh hùng liệt sĩ và anh hùng dân tộc, ngàn năm nay người dân đã tự nguyện lập đền thờ cho bao nhiêu người có công với nước về chống ngoại xâm giữ gìn đất tổ. Bây giờ không xem những điều này là cái gì đó nên tôn thờ? Ông ta muốn dỡ bỏ các đền thờ anh hùng dân tộc trên khắp ba miền đất nước? Chẳng trách dân gian lâu nay gọi đó là những tư tưởng "đốt đền thờ".

Lịch sử thì có bao nhiêu cái, lịch sử xã hội, lịch sử cách mạng, lịch sử cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại, trong đó có quân sử, chiến sử, ông muốn nói đến lịch sử nào? Lịch sử nước nào, và vấn đề nào của lịch sử?

Và vẫn là cái khốn nạn nhất: Bài viết mới của Giáp Văn Dương vẫn lờ tịt đi vấn đề chống xâm lược và vấn đề đi xâm lược. Lịch sử cũng có lịch sử chiến tranh xâm lược và lịch sử chống xâm lược. Nói chung vẫn là một bài viết cào bằng vô giá trị và truyền tải những "giá trị" bất trung, bất nghĩa, bất nhân, bất hiếu, muốn "lật pháp" và lật ngược hệ giá trị đạo lý dân tộc, như đã phân tích trong phần nói về trò vô đạo cào bằng lịch sử ở trên.

Nghị định

Không biết có phải ngẫu nhiên trùng hợp kỳ lạ gì hay không, mà sau khi có thông tin rằng Nghị định 174/2013 sẽ có hiệu lực vào tháng 1 thì trên các trang phản động, chống cộng hải ngoại và cả một số trang web với nhãn hiệu "chính thống" trong nước như Vietnamnet, Tuanvietnam, Giáo dục Việt Nam bỗng dưng xuất hiện đồng loạt những bài viết có nội dung phủ nhận chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, xuyên tạc và cào bằng lịch sử, lẫn lộn trắng đen, tâng bốc quân ngụy, vàng thau lẫn lộn, cào bằng và lật ngược giá trị lịch sử, hệ giá trị văn hóa của một dân tộc.

Trong nghị định mới này có nội dung tôi đồng ý nhiều (như việc phạt xuyên tạc lịch sử), có nội dung tôi đồng ý ít, có nội dung tôi chưa đồng ý lắm (trên tinh thần tôn trọng và thông hiểu).

Tôi thấy tình trạng xã hội ta chưa tới mức lạm dụng blog vu khống, nói xấu và dồn người khác đến chỗ tự tử nhiều như Hàn Quốc, dư luận Việt Nam không quan tâm nhiều đến blog như Hàn Quốc, và cũng không có vượt khỏi tầm kiểm soát như ở HQ. Nên hiện nay tốt nhất là những việc người này người kia dùng blog đấu đá, nói xấu nhau thì nên cứ để cho họ tự giải quyết, nếu cần thì cứ kiện cáo nhau. Mức phạt hiện nay cao nhất là 100 triệu. Nếu ai đó bị vu khống và thưa kiện thì có thể đòi bồi thường hơn cả số tiền này. Kẻ nào nói xấu, chụp mũ người khác mà không có bằng chứng thuyết phục thì sẽ bị thưa kiện và sẽ phải bồi thường, vẫn đủ tính răn đe.

Ngược lại, những kẻ làm bậy hoặc dung túng, xử không nghiêm để cho kẻ khác làm bậy sẽ bị áp lực và bị dư luận, thông qua các blog phê phán và răn đe. Nói chung tình hình xã hội và blogger Việt Nam trong thời điểm lúc này thiết nghĩ chưa đến mức phải khắt khe quá như luật Hàn Quốc. Hãy cứ để ai đó làm bậy thì sẽ phải chùn tay vì sợ dư luận thiên hạ chửi mắng, lên án, phê phán, ném đá.

Còn tội xuyên tạc xúc phạm lịch sử thì lại khác, lịch sử là bao gồm hàng triệu anh hùng liệt sĩ. Lịch sử không thể tự minh oan cho mình. Những anh hùng liệt sĩ không còn tại thế để phản bác những sai trái của bọn kia. Hiện nay không có 1 cá nhân nào đủ tư cách đại diện cho lịch sử, cho vạn triệu anh hùng liệt sĩ, nên Quốc hội, Đảng, Nhà nước, Chính phủ cần phải có luật hoặc/và các biện pháp chế tài để đại diện nhân dân ngăn chặn những trò lố lăng có tính chất "đốt đền thờ" như thế này.

Dù cho không tính tới yếu tố tâm linh đi nữa thì vẫn cần để cho những người còn sống, những con cháu của các anh hùng liệt sĩ, những người có công với nền độc lập dân tộc, những người yêu nước và quý trọng sự nghiệp độc lập dân tộc, các giá trị của độc lập, thống nhất, hòa bình, được yên lòng.

Nên mình tán thành và ủng hộ bất cứ hình thức trừng trị nào đối với tội xuyên tạc cào bằng lịch sử, kỷ luật, phạt hành chính (phạt tiền), hay cả điều tra và truy tố trách nhiệm hình sự như luật nước Nga.

Phạt tiền như vậy là quá nhẹ so với một tội lỗi xâm hại văn hóa, xâm hại lịch sử, xâm hại độc lập dân tộc, xúc phạm các anh hùng liệt sĩ và các công lao ân đức của tiền nhân, cào bằng lịch sử, có tính chất tội ác văn hóa. Bên Nga họ điều tra hình sự và truy tố hình sự chứ không chỉ phạt tiền.

Phạt tiền là nhẹ nhất và chỉ có tính răn đe tương đối, giống như phạt những "nghệ sĩ", nhân vật công chúng ăn mặc quá hở hang gây phản cảm, góp phần truyền bá tư tưởng, nhận thức lệch lạc trong quần chúng, gây ảnh hưởng xấu đến nền văn hóa, văn hiến, thuần phong mỹ tục Việt Nam, chưa tương xứng lắm với tầm mức tác hại mà tội ác xâm phạm lịch sử, xâm phạm văn hóa, xúc phạm cộng đồng dân tộc do tội xuyên tạc cào bằng lịch sử gây ra.

Tại sao bọn phản động muốn đánh vào lịch sử cha ông?

Xuyên tạc lịch sử là một trong những khâu quan trọng bậc nhất của chiến lược Diễn biến hòa bình, công phá chính trị và nhân tâm. Để dễ bề "xâm lược cứng" (đem quân đánh) khi có cơ hội thích hợp. Hoặc "xâm lược mềm" (xâm lăng văn hóa, bành trướng quyền lực mềm, can thiệp mạnh chính trị và kinh tế).

Khi các thế lực chính trị, kinh tế, kinh doanh, tài chính nước lớn muốn thâm nhập vào các nước nhỏ để thủ lợi, khi các thế lực tài phiệt tư bản lớn, các thế lực "mafia" kinh tế, hay thậm chí là mafia thật sự, bọn tội phạm thật sự, hay các ông trùm tỷ phú, muốn xâm lăng kinh tế, thôn tính và thao túng một thị trường, một mục tiêu tài nguyên béo bở, một nguồn lao động tiềm năng nào đó, hay các quyền lực kinh tế quốc tế muốn thu mua, thâu tóm các cổ phiếu, cổ phần, doanh nghiệp nội địa trong một nước, có khi thông qua sự đứng tên, cộng tác của các thành phần tư sản mại bản trong một nước, hay lạm dụng, bóc lột sức lao động của một nước nhỏ, hay muốn xóa bỏ tinh thần "người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", muốn trần trụi tất cả, thị trường hóa sạch sẽ để cho những ông trùm khổng lồ nước ngoài có tiềm lực bạc tỷ có thể độc quyền, mặc sức thao túng thị trường, tư bản hóa cả gói, vận động hành lang (lobby), bỏ tiền ra thò tay vào cơ quan lập pháp để uốn nắn Quốc Hội các nước nhỏ làm luật có lợi cho doanh nghiệp nước ngoài của họ, hoặc bỏ tiền tỷ ra để "lái buôn tổng thống", xóa bỏ hoàn toàn CNXH ở nước nào đó, trong đó có VN, thì việc xóa bỏ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, tâm thức giữ gìn độc lập tự chủ của các công dân ở nơi đó là một khâu quan trọng.

Nó còn là một phần của chiến tranh tâm lý ngày nay. Những kẻ thực hành Diễn biến hòa bình lợi dụng mọi công cụ trên Internet để cho bọn tuyên truyền viên trà trộn vào xuyên tạc lịch sử, các kênh bao gồm Wikipedia (nhất là Tiếng Việt), Youtube, Yahoo Hỏi Đáp, các blogs, diễn đàn, sân chơi trên Internet, thậm chí cả game online.

Bên cạnh đó, có một bộ phận ban đầu không có ý xấu, nhưng có những tư tưởng lạc lõng và bị đào thải khỏi đại khối dân tộc Việt Nam, vì nguyên nhân nào đó mà họ không hòa nhập, hòa đồng nổi với truyền thống và văn hóa Việt Nam, đầu óc họ vẫn còn tồn đọng tư tưởng thuộc địa. Hoặc đơn giản là có những người không yêu nước, không có tinh thần dân tộc, vọng ngoại. Nói chung là những kẻ không ra gì, tư cách thấp kém, nhân phẩm tồi tàn.

Họ là người Việt Nam, nhưng lại tự "phi Việt hóa", "ngoại quốc hóa", lai căng hóa bản thân, không đứng trên lập trường, góc nhìn, quan điểm của dân tộc Việt Nam trong nhận thức, tiếp cận lịch sử. Họ cũng không đứng lên lập trường của độc lập dân tộc. Họ cũng không đứng trên lập trường nhân văn của người yếu thế, của nạn nhân bị xâm lược, những nạn nhân chịu tội ác, bất đắc dĩ phải đứng lên chống ngoại xâm, chống giặc ngoài, chống lại những thủ phạm gây tội ác, để giành lại chủ quyền độc lập dân tộc của họ và một lãnh thổ nguyên vẹn thống nhất không còn bị chia đôi, chia ba. Tức là người chủ nhà đánh đuổi bọn cướp ra ngoài để giành lại ngôi nhà và tài sản trong ngôi nhà đó.

Họ là con người mà họ không nhìn nhận được như vậy, nghĩa là họ kém nhân văn, thiếu văn hóa. Họ thuộc dân tộc Việt mà họ không nhìn nhận được như vậy, nghĩa là họ phi dân tộc, nếu chưa phản dân tộc.

Họ nặng nề tư tưởng hẹp hòi ích kỷ của chủ nghĩa cá nhân, chỉ biết có thân mình, coi nhẹ lợi ích chung của dân tộc, coi sở thích riêng của bản thân và các quyền tự do cá nhân riêng biệt là quan trọng nhất, đặt nó lên trên lợi ích quốc gia dân tộc, quê hương đất nước, mục đích độc lập dân tộc và động lực, nhiệm vụ, trách nhiệm bảo vệ nước nhà.

Những phần tử ích kỷ hẹp hòi, xem nhẹ dân tộc, xem nhẹ chủ quyền độc lập của đất nước, xem nhẹ vấn đề chống quân xâm lược, xem nhẹ các yếu tố đó trong lịch sử như thế chính là những đối tượng tiềm năng mà giặc ngoại xâm luôn tìm kiếm tranh thủ, đặt vào trong đích ngắm để móc nối, lợi dụng, mua chuộc làm tay sai bù nhìn. Hiện tại chúng chỉ là những thành phần phi dân tộc, nhưng khi có chiến tranh xâm lược xảy ra trên quê hương xóm làng của chúng thì bọn ngoại xâm sẽ biến chúng thành phản dân tộc, phản quốc, bán nước, bán rẻ linh hồn và quê hương xứ sở, trở thành những tên Việt gian nhà nòi.

Nhân quyền

Có một số người nói rằng Việt Nam gia nhập Hội đồng Nhân quyền LHQ rồi lại ban ra Nghị định này là đi ngược lại nhân quyền. Trước hết, những bầy cừu cần dẹp bỏ ngay não trạng, hay nói đúng hơn là triệu chứng tâm thần chỉ quan tâm duy nhất đến vấn đề "quan điểm lề phải" hay "quan điểm lề trái", mà hãy mở mắt và mở đầu óc ra để quan tâm đến vấn đề "quan điểm đó đúng hay sai", "quan điểm nào đúng", "quan điểm nào sai". Vậy quan điểm "hạn chế quyền tự do cá nhân là đi ngược nhân quyền" này là đúng hay sai?

Nhân quyền là một phạm trù rộng lớn, nó liên quan bao quát tới các vấn đề pháp luật, công lý, đạo lý, đạo đức, truyền thống, văn hóa, giáo dục, tôn giáo/tín ngưỡng, kinh tế, xã hội, quyền công dân (dân quyền), quyền phụ nữ (nữ quyền), quyền lợi của người già, người tàn tật, người dân tộc thiểu số, an sinh xã hội, công bằng xã hội, phúc lợi, yếu tố minh bạch (transparent), chống tra tấn/ép cung, giảm thiểu án oan, giảm thiểu quan tham, giảm thiểu tệ quan liêu - hách dịch - cửa quyền, giảm thiểu sự lạm dụng công quyền, giảm thiểu tệ quan - thương câu kết lấy đất của dân oan một cách trái pháp luật và trái tình người....

Các quyền tự do thể hiện cá nhân, bao gồm quyền tự do tuyên truyền mà nhiều bạn hay nâng quan điểm và xuyên tạc thành "tự do ngôn luận", chỉ là một phần nhỏ của chủ đề nhân quyền.

Trên thế giới này không có quốc gia nào, nhà nước nào, quốc hội nào mà không hạn chế, thậm chí cấm hẳn một số quyền tự do cá nhân. Do đó mới có luật pháp. Chứ nếu quyền tự do cá nhân là vô hạn thế thì có khác gì luật rừng, vậy thì cần gì luật pháp nữa, cần gì một thể chế pháp trị, pháp quyền nữa.

Nên các quyền tự do cá nhân ở VN và các nước phải được hiểu là "tự do trong khuôn khổ pháp luật". Áp dụng ra sao là phụ thuộc vào thực tiễn, văn hóa, nhu cầu, tình hình, trạng thái đặc trưng đặc thù khác nhau ở mỗi nơi, không nơi nào giống nơi nào.

Cho nên mỗi khi các bạn phản biện cái gì mà muốn cho thuyết phục thì các bạn cần phải chỉ ra cái sai của nó căn cứ trên thực tiễn Việt Nam, chứ các bạn không thể cứ lôi các nước ngoài ra, đứng núi này trông núi nọ, rồi thấy VN khác thì các bạn lại bảo VN là "ốc đảo dị thường", nghe thấy rất kém giá trị và ít thuyết phục. Khi nghe các bạn đem nước ngoài, đem Tây đem Mỹ ra làm chuẩn mực, làm hình mẫu, làm "khuôn vàng thước ngọc" rồi bảo VN phải bắt chước, cọp dê họ, thì người nghe chỉ nhận thấy các bạn quá vọng ngoại thôi chứ không nghe lọt tai nổi.

Nghị định là để cụ thể hóa chi tiết hơn, và nghị định này cũng không trái pháp luật. Luật pháp cũng không thể nào bao hàm hết được, phục vụ hết được cho công dân, luật pháp bao giờ cũng có kẽ hở, vùng xám, lấp lỗi này thì thực tiễn xã hội và dân sinh liền nảy sinh lỗi khác, giống như lỗ hổng bảo mật của một bộ máy computer vậy. Một bộ máy chính trị xã hội cũng vậy thôi. Cho nên ngoài pháp lý thì còn đạo lý, tình người.

Đạo lý vừa giúp hoàn thiện pháp lý, vừa có thể bổ sung giúp ích cho việc định hướng, điều chỉnh con người, xã hội theo hướng tích cực, lương thiện, đạo đức, hiếu - trung - nhân - nghĩa, nhân - nghĩa - lễ - trí - tín, hạn chế bớt cái xấu, cái sai, thậm chí cái ác. Một xã hội nhân văn của con người, một nền văn hóa đều cần phải hội tụ đầy đủ 2 yếu tố tinh thần và vật chất.

Đạo lý, pháp lý hay nghị định chi tiết của chính phủ đều hướng về sự bảo vệ lợi ích vật chất và cả yếu tố tinh thần nữa, do đó mà có luật bảo vệ lịch sử ở Nga, hay Nghị định chính phủ 174/2013 ở Việt Nam, cũng như đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây của dân tộc Việt.

Lấy ví dụ Libya cho dễ thấy, Libya "nhờ ơn" Mỹ và NATO "đem dân chủ tới", và 2 năm nay họ đã có cái mà người Mỹ và chính thể mới gọi là "dân chủ". Tại Libya bây giờ muốn viết lịch sử kiểu nào thì viết, lộn ngược cũng được chẳng sao cả. Libya ngày nay cũng không có Nghị định 174 đó, không ngăn cấm điều nào trong Nghị định đó, có thể họ có nhiều quyền cá nhân hơn VN. Nhưng họ có nhân quyền không?

Đất nước của nhân dân Libya, của những con người châu Phi khắc khổ đang là một bãi chiến trường hỗn chiến giữa tân chính phủ, các phe phái trong nội bộ tân chính phủ, và các thế lực, quân phiệt, bộ lạc, lãnh chúa trung thành với lãnh tụ, đại tá Gaddafi. Quyền lực chính phủ Libya ngày nay gần ở con số không. Trên muốn nói gì thì nói, dưới làm hay không lại là việc khác.

Đất nước ngày càng trở nên hỗn loạn. Mỗi đường phố là một quốc gia, mỗi khu nhà là một chính quyền. Xưa đi từ nước này sang nước kia dễ dàng bao nhiêu thì nay ngay cả khi đi từ phố này sang phố khác thậm chí còn nguy hiểm hơn, không biết sẽ bị ăn đạn, ăn bom, ăn mìn, ăn lựu đạn lúc nào.

Chưa bao giờ Libya phải ở trong tình trạng người dân xếp hàng dài để mua được vài lít xăng, mất điện thường xuyên hàng ngày vì các máy phát thiếu dầu. Nước sạch giờ đây cũng trở nên khan hiếm và đắt đỏ vì các máy bơm không thể hoạt động được cũng bởi thiếu dầu. Tình hình quẫn bách này đang xảy ra ở ngay thủ đô Tripoli.

Chế độ độc tài gia đình trị của Gaddafi chả phải là chế độ tốt đẹp hoàn mỹ, nhưng dưới chế độ này Libya chưa bao giờ bị thiếu dầu, việc thiếu dầu ở thủ đô Tripoli càng là điều không tưởng. Đó không phải là nhờ sự tài giỏi của chế độ Gaddafi, gia đình Gaddafi không thể tạo ra dầu được, mà là nhờ tài nguyên phong phú của Libya. Và bây giờ vẫn với tài nguyên phong phú đó thì Libya lại bị thiếu dầu tràn lan, ảnh hưởng đến nhiều cái khác trong xã hội cả nước. Lạ thật, dầu Libya "không cánh mà bay" đi đâu hết rồi, bốc hơi đi đâu hết rồi, thật quá "khó đoán" phải không các bạn.

Chính trị thời nay với thủ đoạn ăn cướp đã phát triển tầm cao thì đâu cần phải làm những hành động thô thiển trắng trợn như cầm roi quất bắt dân bản xứ lặn xuống biển mò ngọc trai, cầm roi quất vào những người thợ cạo mủ cao su thì mới là ăn cướp tài nguyên của ai đó. Với thủ thuật chính trị, kỹ thuật kinh tế, tài chính, kế toán phức tạp ngày nay thì có không ít biện pháp ăn cướp "hợp pháp", "hợp tình", "hợp lý".

Libya giờ đây trở nên muôn vàn nước nhỏ trong một nước lớn. Ở đâu có mỏ dầu, ở đâu có cảng, ở đó các phe cánh tài phiệt, chủ yếu là từ nước ngoài, từ phương Tây, hoặc các phe cánh tư sản mại bản của bản xứ liên kết phối hợp với bên ngoài, tìm cách khai thác và bán dầu thu lợi riêng, không thông qua chính quyền.

Việc nghiêm trọng tới mức thủ tướng Libya dọa miệng rằng sẽ đánh chìm bất cứ tàu nào chở dầu phi pháp. Nhưng cũng không có tác dụng và chính quyền không thể làm gì hơn được. "Thượng bất chính, hạ tắc loạn", người dân không phục và không coi trọng nhà chức trách, không coi chính quyền ra gì. Cảnh sát và quân đội Libya giờ đây tệ hại hơn các nhân viên công lực và lực lượng vũ trang của Gaddafi xưa. Sĩ quan, nhà báo, luật sư, quan tòa bị giết, bị bắt cóc là chuyện thường xuyên hàng ngày như cơm bữa.

Hiện tượng Libya và các nước đang có hoàn cảnh tương tự trên thế giới ngày nay nói lên điều gì? Nói lên rằng không được đánh đồng quyền tự do cá nhân với dân chủ, nhân quyền. Thực tế xã hội ở những nơi kể trên đã cho thấy rằng ở những nơi đó, quyền tự do cá nhân đi ngược lại và làm hại dân chủ, nhân quyền. Bởi vì tự do quá trớn, quyền lực trung ương nhạt nhòa yếu ớt, các cơ sở địa phương tha hồ đấu đá bắn giết, ai muốn làm gì thì làm, thế là sinh loạn, đưa đến tình trạng chẳng ai có nhân quyền. Ra đường không biết bị bắn chết hay trúng bom chết lúc nào. Ngay cả quyền sống cũng không có thì làm sao có nhân quyền? Quyền gì? Không có nhân quyền thì làm sao có dân quyền (quyền công dân), không có dân quyền thì làm sao có dân chủ? Libya và các nước tương tự đang có tự do cá nhân thả cửa nhưng lại không có nhân quyền, dân quyền và dân chủ.

Gần đây Bùi Hằng, Huỳnh Thục Vy, Mẹ Nấm, Đoan Trang và một số cô nàng đã sáng tác bày ra chiêu trò mới, nặn ra một danh nghĩa "đấu tranh", một tấm bình phong, một cái "phao", một chiêu bài mới: Đòi nữ quyền cho phụ nữ Việt Nam.

Dĩ nhiên chiêu này nhanh chóng trở thành trò hề kinh điển, trở thành trò cười cho thiên hạ, kể cả các băng nhóm phản động khác, và rất nhanh chìm vào quên lãng. Vì nó quá ngu đần và phi thực tế, nói láo thì cũng phải có căn cứ, trong khi đó trên thế giới không ai có vấn đề gì với VN về quyền phụ nữ, những bộ phận diều hâu trong các chính phủ Mỹ và phương Tây lâu nay thực hiện Diễn biến hòa bình chống Việt Nam cũng rất hiếm khi dám dùng chiêu bài "nữ quyền" để chống VN. Bởi vì như thế thì khác gì họ vả vào mồm các đồng minh, chư hầu thân tín của họ như Ả Rập Saudi, Hồi giáo Shia Iraq, Liên minh phương Bắc Afghanistan, khi phụ nữ ở những nơi này bị đối xử như nô lệ.

Không thể chạy xe bậy, bị phạt rồi hô là "không có quyền tự do cử động thân thể", "quyền tự do lái xe", "quyền tự do di chuyển", "tự do đi lại", hay bị bắt vì bắn người rồi hô là "không có quyền tự do dùng súng". Tương tự khi "linh mục" phản động Nguyễn Văn Lý bị đội phòng chống tệ nạn và mại dâm bắt quả tang cùng với sơ Nguyễn Thị Xuân Hà trong khách sạn ở Gò Vấp rồi bị đưa về trụ sở công an phường 3 để xác minh và xử lý thì bọn chống cộng hô hào là "CSVN không có tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng". Tự do luôn nằm trong khuôn khổ pháp luật, nếu "tự do" nghĩa là muốn làm gì thì làm thì thế giới này đã không tồn tại và không cần đến luật pháp.

Vấn đề tự do viết lách và xuất bản

Tôi cũng thích tự do viết, ai chả thích tự do viết? Tôi không thích bị cấm, chả ai thích bị cấm, bị hạn chế. Nhưng phải nhìn nhận thực tế không đâu trên thế giới cổ kim này mà có cái tự do đó một cách thật sự, sẽ luôn luôn có những giới hạn, những ranh giới, điểm dừng. Các ông cần bình tĩnh xét đến từng vấn đề một chứ không thể cào bằng quy xuống hết thành "cấm với không cấm". 

Các ông cũng nên dùng từ cho đúng, các ông thật ra bị hạn chế quyền tự do tuyên truyền, đặc biệt là quyền tự do tuyên truyền chính trị, nhưng các ông lại nói xiên xẹo méo mó thành "quyền tự do ngôn luận". Trong khi thực tế thì ở VN người dân muốn chửi Nhà nước, chửi lãnh đạo thì cứ chửi thôi. Chẳng có ai chỉ vì nói, chỉ vì chửi mà bị bắt. Nhưng nếu tuyên truyền có tổ chức, có hệ thống, theo một chiến dịch thông tin nhằm ám sát tư cách, bôi nhọ uy tín của cá nhân, tổ chức, thì các ông đương nhiên sẽ bị hạn chế theo quy định của pháp luật.

Các ông muốn có quyền được tự do tuyên truyền, tự do bôi đen, tự do chửi bới, tự do công kích, hay tự do xuyên tạc, tự do cào bằng, nôm na tóm lại là tự do ngông luận, thì các ông ít ra cũng nên nói cụ thể từng vấn đề một. Chứ không thể cào bằng chung chung xuống hết thành "cấm với không cấm", "được viết hay không được viết", "được tuyên truyền hay không được tuyên truyền", như vậy nó rất phi thực tế và không thuyết phục được ai cả.

Bây giờ hãy lấy xứ Mỹ làm thí dụ. Mỹ lâu nay luôn là xứ sở mà các ông tin là hình mẫu chuẩn mực về các quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tuyên truyền vận động.

Mỹ có luật nào cấm không cho phép ca ngợi, PR hình ảnh, nói tốt, phổ biến các quan điểm của các tổ chức Hồi giáo chống Mỹ, hoặc các tổ chức mà chính phủ Mỹ liệt vào danh sách khủng bố hay không? Không hề! Nhưng các ông qua Mỹ đi tuyên truyền như vậy thì sẽ bị FBI bắt ngay theo "đạo luật Ái Quốc" (Patriot Act), một đạo luật có nội dung rất mơ hồ, trừu tượng, chung chung, không hề cụ thể, rõ ràng, minh bạch, theo đó chính phủ Hoa Kỳ có quyền làm gần như bất kỳ chuyện gì để bảo đảm an ninh quốc phòng và chống các tổ chức mà chính phủ Mỹ coi là khủng bố, kể cả việc tống giam vào nhà tù Abu Ghraib, trại giam Guantánamo, hay hệ thống nhà tù bí mật Hoa Kỳ, chịu tra tấn nhục hình, cơ thể các ông bị đè ra thí nghiệm như loài chuột bạch, bị "tạm giam" vô thời hạn và không xét xử.

Chúng ta không có đủ thông tin để khẳng định, phán xét hay đi tới kết luận rằng các hành động cấm đoán, bắt bớ này của FBI và CIA là đúng hay sai. Nhưng việc này cho thấy rằng không đâu là có tự do hoàn toàn, mà chỉ là các quyền tự do có giới hạn, và luôn nằm trong những khuôn khổ nào đó, khuôn khổ pháp lý, khuôn khổ về đạo lý, văn hóa, quan niệm đạo đức, truyền thống, và có thể cả tôn giáo trong các quốc gia có quốc giáo, tùy theo tình hình thực tế của mỗi nước.

Chứ không thể cào bằng xuống hết thành "cấm với không cấm, bắt với không bắt". Các ông muốn phản đối VN nghe cho nó thuyết phục một chút thì các ông cần phải phân tích lý lẽ đầy đủ cho từng vấn đề một cách cụ thể, chi tiết, dựa trên nền tảng thực tiễn Việt Nam, thực tế xã hội Việt Nam, văn hóa Việt Nam, chứ không thể cái gì cũng cào bằng như vậy.

Luật Mỹ có điều nào cấm không được tổ chức điều tra độc lập, đưa ra các nhận định, kết luận cá nhân trái với quan điểm chính thức, chính thống của chính phủ Mỹ về sự kiện 911 "khủng bố" tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới hay không? Luật Mỹ có điều nào cấm không được tuyên truyền chống Cục Dự trữ Liên bang (FED) hay không? Đều không! Nhưng nếu các ông qua đây mà làm vậy thì các ông sẽ biết tự do ngôn luận kiểu Mỹ là thế nào.

Mỹ có những thực tiễn khác Việt Nam nên họ đã có những hạn chế, ngăn cấm, trấn áp ngôn luận bằng sức mạnh công quyền cho những vấn đề đó. Trong khi cùng các vấn đề đó thì ở VN lại thoải mái hơn. Tại VN các ông có thể nói thả ga về các quan điểm tuyên truyền của các thế lực Hồi giáo ở Trung Đông, Iraq, Áp, Libya, có thể nói thả cửa về CNTB, về nước Mỹ, trong đó có FED, nói xấu hay nói tốt cũng được. Các ông có thể nêu mọi nghi vấn về sự kiện Tòa tháp đôi mà không sợ bị ám sát.

Các ông nên thấy may mắn rằng ở VN các ông khi làm sai thì bị bắt và được ra tòa một cách quang minh chính đại theo pháp luật, chứ không phải bị bắn lén sau lưng như luật rừng chính trị Hoa Kỳ.

Nếu Mỹ mà có tự do ngôn luận thật sự như chính phủ Mỹ và những con vẹt sùng bái Mỹ tuyên truyền thì tôi đã viết những loạt bài nghiên cứu về FED và về sự thật vụ Tòa tháp đôi từ lâu. Đó là chủ đề có rất nhiều thông tin hay mà nhiều người thích tìm hiểu nghiên cứu thêm, nhưng "nhờ" tự do ngôn luận kiểu Mỹ nên dù cho tôi và các bạn người Mỹ có thêm mười lá gan nữa cũng không dám viết về các chủ đề nhạy cảm đó. Nhưng chúng tôi không vì đó mà thù ghét, chửi bới chính phủ Mỹ, chửi Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ, hay bảo rằng VN có tự do ngôn luận hơn Mỹ, nơi nào có thực tiễn của nơi đó, không thể áp đặt cách làm của nước này cho nước kia.

Tóm lược:

Có lẽ khuyết điểm lớn nhất và động cơ phản bội lớn nhất của bọn phản động cũng như các "nhân sĩ trí thức" chưa phản động, nửa phản động này chính là: Lòng ích kỷ!

Xưa cũng như nay. Ngày xưa, trong lúc quân dân miền Nam đang bị khủng bố, chặt đầu, máu đổ khắp nơi, trong lúc Phật giáo miền Nam đang bị đàn áp, các nhà cửa, chùa chiền không ngừng bị lùng sục, khủng bố. Vậy mà tại miền Bắc vẫn có những kẻ "nhân sĩ trí thức" nửa mùa, những kẻ vỗ ngực xưng tên ta đây là "sĩ phu Bắc Hà" càng quậy phá thêm lên, làm cho chính trị không yên, và đó cũng là một phần yếu tố vì sao mà Đảng chưa phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Như vậy phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm cũng có trách nhiệm trong việc để cho quân dân miền Nam bị đổ máu, hy sinh, bị đàn áp, khủng bố.

Có kẻ là gián điệp cố ý quậy để làm hỗn loạn chính trị. Có kẻ ích kỷ chỉ muốn làm theo sở thích riêng của cá nhân mình, không cần biết đến ai khác, đến việc chung, đến miền Nam ruột thịt. Vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, cũng như cải cách ruộng đất, dưới tình cảnh tranh tối tranh sáng lúc đó thì khó tránh khỏi những trường hợp oan sai, nhưng không có nghĩa là các trường hợp khác cũng bị oan, không đúng người đúng tội.

Nói chung, tất cả những phần tử trên là người Việt nhưng không bao giờ đứng trên lập trường dân tộc. Họ là “những đứa con tự nhận mình trong sạch, đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân!”

Mà đáng xấu hổ hơn nữa cho bọn này là ngay cả những ngoại nhân chính gốc lại nói về sử Việt đúng đắn, trung thực và khách quan hơn bọn Việt gian nhiều.

Trong số những thành phần này, có không ít kẻ ở Mỹ, ở Tây, chẳng những nói về quê cha đất tổ của họ như một người ngoài xa lạ, mà họ còn chê bai, lườm nguýt đủ điều. Nghe họ nói cứ như là quê hương cái gì cũng dở tệ, còn họ nhờ sống ở Tây nên họ "ngon", họ tin rằng họ "ngon" hơn đồng bào, đồng hương của họ ở quê nhà.

Họ ỷ có vài mươi năm sống bên Mỹ, bên Tây thế là tự cho mình cái quyền phán xét bố tướng cứ như là bố đời, phách lối, tinh tướng, không coi ai ra gì, nghênh ngang, vênh váo. Họ ngu dốt không biết định luật thích nghi và tiến hóa, cũng như điểm xuất phát, hoàn cảnh phát triển, quá trình phát triển, tiến trình văn hóa, sự hình thành xã hội của mỗi nơi, mỗi quốc gia dân tộc. Và từ cái sự ngu dốt thiếu hiểu biết đó, họ chê bai, khó chịu, phản cảm với chính quê nhà, nơi chôn nhau cắt rốn của họ.

Họ sống trong những môi trường phát triển hơn Việt Nam mấy trăm năm, nhờ may mắn, nhờ hòa bình lâu dài, dân trí (văn minh đô thị), quan trí đều cao hơn VN gấp nhiều lần. Nhưng do tầm nhìn hẹp không qua khỏi kiếng cửa sổ McDonald, kiến thức nông cạn, nên họ không cần biết lịch sử hình thành mỗi nơi như thế nào, vì sao nơi này nghèo, do đâu nơi kia giàu. Họ chỉ biết nhận thức và phán xét theo những gì trước mắt trong hiện tại, theo kiểu "sâu sắc như khơi đựng trầu". Giống như một kẻ sống ở thành thị lâu năm rồi về quê lại chê bai chửi bới ầm lên và hỏi tại sao miền quê không phát triển như thành phố, chửi cha mắng mẹ của mình ở dưới quê.

Thay vì họ ăn nói, góp ý với thái độ cầu thị, xây dựng, khiêm tốn, thì họ lại có giọng điệu hống hách, vênh váo, có tính cách "từ trên phán xét xuống dưới", nói thẳng ra là rất ngu và láo. Chẳng những ngu về nội dung (như đã phân tích ở trên), mà còn ngu về cách thể hiện. Tự biến bản thân thành một thằng hề say xỉn khùng điên ba trợn dưới mắt mọi người.

Các bạn nên quay về với dân tộc tính, và khiêm tốn lại một chút. Đã háo danh thì đừng để bị ô danh thêm.

Thiếu Long

MỘT SỐ TỔ CHỨC BÌNH PHONG CỦA CIA (MỸ) CHUYÊN VỀ CÁCH MẠNG MÀU VÀ BẠO LOẠN LẬT ĐỔ



Một số tổ chức bình phong của CIA chuyên về cách mạng màu và bạo loạn lật đổ


1. USAID (United States Agency for International Development) 


Mặc dù trên website của tổ chức này có những lời tự giới thiệu rất thiện chí là tiến bộ: thúc đẩy phồn vinh thịnh vượng chung; tăng cường dân chủ và quản trị tốt; bảo vệ nhân quyền; cải thiện y tế toàn cầu; theo đuổi an ninh lương thực và nông nghiệp; cải thiện ổn định bền vững môi trường; giáo dục đào tạo từ xa; giúp đỡ các tầng lớp xã hội ngăn chặn và khôi phục từ các cuộc xung đột…


Nhưng thực chất là công cụ của chính quyền Mỹ để can thiệp và gây rối vào công việc nội bộ các quốc gia Mỹ không ưa.


Là "tổ chức dân sự" dạy các đảng phái, phe đối lập muốn làm CM phương pháp quảng cáo, tiếp thị quần chúng, lập báo cáo tin tức, tìm chủ đề CM, tổ chức biểu tình, tổ chức nổi loạn quần chúng. Dưới vỏ bọc “hỗ trợ dân sự”, “trợ giúp phát triển” cho nước ngoài và hoạt động khắp thế giới. Tổ chức này vừa bị đóng cửa ở Nga vì tiền sử cung cấp tiền bạc và kích động phe đối lập. USAID do TT Kennedy lập năm 1961, mặc dù mang tiếng là tổ chức độc lập, nhưng không hề che đậy hoạt động dưới sự dẫn dắt của TT Mỹ, bộ ngoại giao và Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ.


2. IRI (International Republican Institute)


Viện cộng hoà quốc tế, lãnh đạo là quí ông lướt sóng hồ Trúc Bạch, diều hâu John McCain. IRI do TT Reagan thành lập năm 1982 nhằm phổ biến dân chủ, được cấp vốn từ chính phủ Mỹ cho các chương trình chính trị, các dự án dân chủ hóa. Có bề dày thành tích gây bạo loạn và lật đổ, ví dụ như phế bỏ TT dân bầu Aristide của Haiti, lập bù nhìn thân Mỹ, hay bạo loạn “mùa xuân Arabia” vừa qua, lật đổ TT Mubarak. Phần lớn tiền tài trợ IRI đến từ USAID, bộ ngoại giao và NED.


Hoạt động của IRI bao gồm cả đào tạo các “nhà dân chủ”, đặc biệt là Ai Cập và Tunisia. Trích wiki: "Một số các nhóm và các cá nhân trực tiếp tham gia vào các cuộc nổi dậy và những cải cách sâu rộng trong khu vực, trong đó có Phong trào thanh niên Ai Cập, Trung tâm Bahrain vì nhân quyền và các nhà hoạt động cơ sở như Entsar Qadhi, một thủ lĩnh trẻ ở Yemen, được đào tạo và cấp tiền từ IRI, NDI, FH… là các NGO có trụ sở tại Washington.”


Báo cáo của Bộ tư pháp về tài trợ nước ngoài của các tổ chức NGO ở Ai Cập đã tiết lộ rằng IRI ở Ai Cập đã nhận được tài trợ của khoảng 7 triệu đô la của USAID cho bầu cử Ai Cập 2011-2012. Các nhà lãnh đạo quân sự của Ai Cập coi tài trợ của IRI là can thiệp vào công việc nội của nước này.


3. NDI (National Democratic Insitute for International affairs)


Viện dân chủ quốc gia về quan hệ quốc tế có lãnh đạo là quí bà ngoại trưởng Medeleine Albright. Rõ ràng nhất là NDI cùng NED tài trợ phe đối lập Chavez cũng như bạo loạn hiện nay ở Venezuela. NDI từng đóng vai trò quan trọng trong việc Liên bang Nam Tư tan rã và bạo loạn Kosovo.NDI hoạt động ở cả Nga và Trung Quốc.


NGO này có trụ sở ở Washington và được thành lập bởi chính quyền Mỹ năm 1983 theo cùng 1 cách thức như NED để phổ biến dân chủ toàn cầu.


Theo sứ mệnh được tuyên, "NDI cung cấp hỗ trợ thực hành cho các lãnh đạo chính trị và dân sự để phát triển giá trị, thực hành và tổ chức dân chủ.” Nếu như IRI thuộc phe Cộng hòa thì NDI thuộc phe Dân chủ, mặc dù ranh giới nhiều khi không thật rõ ràng. Triển khai sứ mệnh, NDI bảo trợ hoạt động cho cả các tổ chức chính trị và dân sự ở 125 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm giám sát các cuộc bầu cử, cổ súy dân chúng các nước lập các đảng phái đối lập, các NGO thúc đẩy chính sách mở cửa, và chính phủ đa đảng phái. Sáu nhiệm vụ chính của NDI: sự can dự của công dân vào chính quyền, tiến bộ bầu cử, đảng phái chính trị, phụ nữ trong chính sách, dân chủ và công nghệ dân chủ, quản trị dân chủ.


Các nhà tài trợ rót tiền cho viện này là USAID và NED, là các đại gia dầu mỏ: Chevron, Exxon, Texaco and Enron. Dân chủ là công cụ để gây hỗn loạn và làm suy yếu các quốc gia độc lập để trục lợi, theo cách hiểu từ hoạt động của Viện dân chủ, không phải theo tuyên bố.


4. NED (National Endowment for Democracy)


Quĩ bảo trợ dân chủ quốc gia được Quốc hội Mỹ thành lập năm 1983 với sứ mệnh “phổ biến dân chủ”. Một trong những lãnh đạo NED là Vin Weber, cựu nghị sĩ tân diều hâu, người sáng lập "Empower America" với quan điểm chính trị đơn giản: Mỹ phải chiếm ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự để giải quyết các tranh chấp. NED cầm đầu các tổ chức khác như IRI, NDI, CIPE (Chamber of Commerce's Center for International Private Enterprise), ACLS (American Council of Learned Societies) hay AFL-CIO (American Center for International Labor Solidarity).


Tất cả số đó đều có quan hệ mật thiết với các tổ chức Phi chính phủ NGO khác. Chúng hoạt động trải rộng ở các nước thuộc thế giới thứ 3: Việt Nam, Myanmar, Cambodia, China, Nga… Năm 1980, bọn chúng can thiệp vào bầu cử Pháp, tài trợ nhóm cực hữu NIU và dùng chúng tấn công phe tả. Nhưng hoạt động của NED được biết rõ nhất là dưới sự điều khiển của CIA, người ta ví NED là con ngựa gỗ (Trojan Horse) của CIA. Allen Weinstein, một lãnh đạo NED phát biểu năm 1991: "Vô số những gì NED làm ngày hôm nay đã được CIA làm vụng trộm 25 năm qua." Bush tăng ngân sách gấp đôi cho NED năm 2004. 


Phạm vi hoạt động của NED và các chi nhánh của nó rất rộng, gây ảnh hưởng đến các tiến trình chính trị các quốc gia, từ gây tác động xã hội dân sự, truyền thông, nuôi dưỡng các nhóm doanh nhân, nuôi ăn các nhóm nhân quyền, cấp tiền và thuê mướn các lực lượng ủng hộ các đảng phái chính trị, các chính khách, theo dõi và tung tin đồn bầu cử gian lận nếu không vừa lòng. Đặc biệt NED thường o bế bảo kê giới đầu sỏ, doanh nhân, những kẻ theo đường hướng tân tự do, mở cửa.


Tuy nhiên, NED hầu hết cấp tiền qua các tổ chức trung gian như kể trên. Từ xung đột Kosovo – Nam Tư, cho đến các cuộc cách mạng màu: Hoa hồng ở Gruzia, cách mạng Cam ở Ukraine, Hoa Tuy-lip ở Kyrgyzstan, bạo loạn Tân Cương – Trung Quốc... đều được NED cấp tiền hết sức dồi dào.


Thành viên Ban quản trị NED hầu hết là các nhân vật đứng đầu chính quyền Mỹ: Henry Kissinger, Madeleine Albright, Frank Carlucci, Zbigniew Brzezinski, Wesley Clark, cựu giám đốc WB Paul Wolfowitz, thượng nghị, đại diện thương mại Bill Brock…


5. Freedom House 


Hội đoàn quyền tự do, lãnh đạo là cựu CIA James Woolsey, một tân diều hâu.


Freedom House tự tuyên truyền mình là “tiếng nói trong sạch vì tự do dân chủ khắp thế giới”. Là tổ chức già đời được thành lập cách đây hơn 60 năm bởi Wendell Willkie và Eleanor Roosevelt (vợ) , 2 thủ lĩnh liberals Mỹ. Hội đoàn tự do cổ vũ mạnh giá trị dân chủ và kiên quyết chống cả cực tả lẫn cực hữu. Nó bênh vực kế hoạch Marshall tái thiết châu Âu sau WW-II, các phong trào dân sự ở Mỹ thập kỷ 50 và thuyền nhân Việt Nam cuối thập kỷ 70, phong trào Đoàn kết ở Ba Lan và phe đối lập dân chủ ở Phillippines thập kỷ 80 cùng rất nhiều phong trào dân chủ khác. Đặc biệt Freedom House chống lại độc tài Pinoche, tay sai bù nhìn Mỹ ở Chile, chủ nghĩa apartheid ở Nam Phi, đàn áp Mùa xuân Praha, LX đưa quân vào Afghan, vi phạm nhân quyền ở Cuba, Burma, China, và Iraq.


Freedom House bênh vực mạnh cho các hoạt động dân chủ, tự do tôn giáo, tự do báo chí, các liên minh thương mại và tự do thị trường.


6. Open Society Institute


Viện xã hội Mở của tài phiệt George Soros. Hắn còn lập một số tổ chức để tài trợ các viện tự do, các nhà báo, sinh viên, các đoàn thể chuyên nghề biểu tình, các hội thảo "khoa học" xã hội... Viện xã hội mở của Soros đã chi tiêu và hoạt động mạnh ở Đông Âu thập kỷ 80-90. Ngoài ra, Soros còn cấp tiền và thao túng Human Right Watch, bản thân hắn là giám đốc điều hành HRW.


7. CMD (Center for Media and Democracy)


Trung tâm Truyền Thông và Dân Chủ thì lộ rõ là "Can thiệp dân chủ" như Ron Paul buộc tội, chúng tác động đến các kết quả và các tiến trình CT ở các quốc gia bằng con đường vừa công khai vừa vụng trộm. Trung tâm này và nhiều tổ chức kể trên lại không được phép hoạt động trên đất Mỹ.


Hầu hết các nhà thuyết giáo Dân Chủ, là cỗ máy tuyên truyền, cỗ máy ăn tiền được CIA cấp vốn, thường là trực tiếp từ quyền lực tối cao Washington. Chỉ có Viện xã hội Mở của George Soros là độc lập với Washington nhưng chức năng thì tương tự: tuyên truyền quảng cáo những cái dơ dáy bẩn thỉu đểu giả DÂN CHỦ MỸ được tô trát son phấn đẹp đẽ và xức nước hoa thơm lừng.


Một nguồn tham khảo: http://www.sourcewatch.org/index.php

Không có thông tin, dân mới suy đoán, đồn thổi



Tác giả: Duy Chiến (thực hiện)


Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã có phát biểu đáng chú ý về việc phải chủ động đưa thông tin chính xác, định hướng cho tốt trước các luồng dư luận trên mạng xã hội. Là nhà khoa học xã hội, ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, ông đón nhận thông điệp này thế nào?

Chỉ đạo của Thủ tướng về việc đổi mới cách cung cấp thông tin là việc làm rất cần thiết, không thể muộn hơn. 

Việc này đáng lẽ phải làm từ lâu lắm rồi.
GS. TSKH, Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga, ông Trần Ngọc Thêm.




Có hai tiêu chí để xác định giá trị thông tin. Thứ nhất là thông tin đúng, thứ hai là kịp thời.

Cách ứng xử của chúng ta với thông tin từ trước vẫn chịu chi phối bởi hai yếu tố đó là ảnh hưởng của văn hóa làng xã và tư duy xã hội thời bao cấp.

Văn hóa làng xã là văn hóa dựa trên quan hệ tình cảm trong phạm vi một cộng đồng xã hội khép kín, luôn cố gắng quan hệ tốt với nhau để hỗ trợ, nhờ vả nhau. Đó là thứ văn hóa âm tính, chủ quan. Từ đó dẫn đến lối ứng xử “Tốt đẹp phô ra, xấu xa che lại”, với chủ trương “Không vạch áo cho người xem lưng” cái gì sai thì “Đóng cửa bảo nhau”, v.v.

Truyền thống văn hóa ấy tạo ra thói quen thông tin thiếu trung thực. Nói khác đi, không phải là đúng sự thật hay không mà là “thông tin tốt hay xấu”, “thông tin có lợi hay không”.

Thời bao cấp, chúng ta từng cấm dân “nghe đài địch”, ấy vậy mà không cấm được hoàn toàn. Nhiều người vẫn thức đêm chờ đến giờ để dò tìm sóng với âm lượng vừa đủ nghe.

Thời bao cấp đã qua, thế giới đã trở nên phẳng từ lâu, do vậy cách quản lý xã hội kiểu cũ không còn phù hợp. Nhà quản lý không thể tiếp tục muốn nắm độc quyền thông tin. Đó là cách vận hành phụ thuộc vào ý chí chủ quan. Hệ quả là thiếu dân chủ và tác dụng ngược là khiến cho xã hội vận hành không bình thường.

Trong khi đó, quyền được thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và trong Điều 69 của Hiến pháp nước ta năm 1992.

Vậy chúng ta đã từng bước có sự điều chỉnh ra sao thưa ông?

Trong thế giới phẳng, thông tin lan tràn như hiện nay thì cách quản lý kiểu xin – cho không còn phù hợp. Nếu không chủ động cung cấp trước thì mặt trận thông tin chính thống sẽ bị bỏ trống. Có khoảng trống thì dân chúng phải nghe ngóng, suy đoán, đồn thổi. Thông tin vỉa hè, mạng xã hội có cơ hội lên ngôi. Các thế lực chống đối cũng nhân đó mà ùa vào tuyên truyền, lũng đoạn thông tin. Rất tai hại.

Không nên tái diễn tình trạng cứ đến lúc mọi người đồn thổi ầm ĩ lên rồi, báo chí chính thống mới đưa tin. Kết quả là nhiều khi chuyện không có gì đáng phải giấu giếm mà kết cục mọi thứ trở nên rối loạn không đáng.

Lực lượng báo chí rất hùng hậu, rất đông đảo chưa phát huy được vai trò và sức mạnh đặc thù. 

Chỉ đạo của Thủ tướng có nói cái ý đó. Tức là, đừng để rơi vào thế lúng túng, cái gì cũng đánh giá là “nhạy cảm”, cũng gán cho chữ “mật” càng chỉ khiến cho chúng ta bất lực trước sự bùng phát mạnh mẽ, khuynh đảo mặt trận thông tin của các mạng xã hội…

Hiện nay giới báo chí rất dè chừng khái niệm “nhạy cảm”, dù khái niệm này không nằm trong bất cứ văn bản pháp quy nào. Là nhà khoa học xã hội, xin GS cho biết khái niệm “nhạy cảm” từ đâu ra và vì sao nó có thể đi trên pháp luật như vậy?


Khởi đầu, “nhạy cảm” chỉ là khái niệm chỉ mức độ dễ phát sinh cảm xúc mạnh của các bộ phận trên cơ thể (vùng nhạy cảm), từ này dần dần được chuyển sang chỉ những khái niệm mang tính tinh thần nhiều hơn như “tâm hồn nhạy cảm”, và cuối cùng, như ta thấy, nó được dùng để chỉ tất cả những gì mà người ta muốn… tránh né.

Phải chăng đây là dấu hiệu của sự tùy tiện. Chúng ta đã biết một thực trạng rất phổ biến trong quản lý xã hội là cái gì không quản được thì “cấm”. Cấm cho an toàn. Lý do dễ nhất là vin vào từ “nhạy cảm”.

Thế nào là “nhạy cảm”? Chẳng có luật lệ nào định nghĩa thế nào là “nhạy cảm” cả. Khái niệm “nhạy cảm” là một sản phẩm rất điển hình của nền văn hóa nông nghiệp âm tính trọng tình của chúng ta. Rất mơ hồ, rất chung chung, hiểu sao cũng được. Một khi đã mơ hồ, không rõ ràng thì đó chính là mảnh đất tốt nhất cho những suy diễn, phán đoán. Không có đủ thông tin nên không có gì làm chuẩn mực, đúng sai không phân định được rạch ròi… Những khái niệm kiểu như thế này cần phải xóa bỏ vĩnh viễn.

Không còn chỗ cho tin vỉa hè

Thông điệp vừa rồi của Thủ tướng cũng đã xác định rõ ràng yêu cầu chủ động thông tin, đặc biệt quan tâm đến hiệu ứng của mạng xã hội. Theo GS, đi vào cụ thể, nên lưu ý những giải pháp nào?

Phải lấy nguyên tắc minh bạch, công khai làm đầu. Thông tin phải đúng sự thật và kịp thời. Xem việc cung cấp thông tin đúng sự thật và kịp thời cho dân là nhiệm vụ, trách nhiệm chứ không phải là đặc quyền “ban phát”.



Tư duy quản lý phải thay đổi tận gốc rễ. Cách quản lý kiểu “ban phát” là không hiệu quả nếu không nói là phản tác dụng.

Đừng để như vừa qua, đó là chỉ cần xuất hiện một thông tin giật gân mang tính “thâm cung bí sử” trên một vài mạng xã hội là làm cho dư luận rúng động.

Họa hoằn lắm có cơ quan quản lý chính thức lên tiếng thì cũng đã muộn, người đọc đâu còn tin nữa. Chính cái sai lầm trong tư duy quản lý đã gây ra tai hại đó, chẳng khác gì ta tự trói chân trói tay, mặc cho đối thủ tha hồ tung hoành.

Tôi tin khi chúng ta thay đổi, tôn trọng nguyên tắc, quy luật của thông tin thì tình hình sẽ khác. Khi xảy ra sự cố nào đó, cần cung cấp thông tin đúng sự thật và kịp thời ngay lập tức. Khi đó sẽ không còn chỗ cho các thông tin “vỉa hè”, thông tin đơm đặt, thông tin mờ mờ ảo ảo vừa có đúng có sai tha hồ hoành hành, chi phối.

Quan trọng hơn là sự minh bạch sẽ có thúc đẩy xã hội đi lên. Thay đổi sẽ đến từ nhà quản lý các cấp. Không ai còn có thể ỷ vào chủ trương chung là “Không vạch áo cho người xem lưng” vì mọi chuyện đúng – sai đều phải công khai cho nhân dân biết.

Tôn trọng sự thật, thông tin khách quan còn giúp cho quản lý Nhà nước tránh cách làm tùy tiện, chủ quan. Báo cáo lúc nào cũng thổi phồng kết quả, che dấu cái sai, thất bại.

Người dân và xã hội được thông tin đầy đủ, chính xác sẽ hiểu rõ những chủ trương, chính sách, việc làm của các cấp chính quyền. Phải hiểu rõ thì họ mới tin tưởng, đồng hành, ủng hộ.

Tôn trọng sự thật, thông tin khách quan và kịp thời còn giúp cho mọi thứ trở về đúng chức năng của nó. Một khi báo chí chính thống luôn thông tin khách quan và kịp thời rồi thì các mạng xã hội, facebook sẽ không còn làm nhiệm vụ thông tin xã hội nữa mà trở về đúng chức năng của mình là thúc đẩy sự liên kết xã hội, tìm kiếm bạn bè, tạo lập quan hệ phục vụ các sở thích cá nhân, những mối quan tâm của các nhóm xã hội.

Xin hỏi thêm ông, thông tin báo chí và tự do báo chí có quan hệ hệ chặt chẽ với nhau song chúng ta phải có tiêu chí như thế nào để xác định “lằn ranh” để không đi từ thái cực này qua thái cực khác? Ví dụ gần đây nhất là câu chuyện tờ báo châm biếm của Pháp Charlie Hebdo?

Phải phân biệt thông tin phục vụ nhu cầu cuộc sống với việc buôn dưa lê, xoi mói, can thiệp chuyện người khác. Thông tin là để phục vụ những nhu cầu cần thiết, chính đáng của người dân. Đó là quyền được biết về những gì đang diễn ra có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần của mình.

Nói cách khác là người dân phải biết họ đang sống trong môi trường như thế nào, xung quanh đang diễn ra những gì. Khi có dịch sởi xảy ra họ cần được biết để chuẩn bị, để đề phòng chứ không phải vì “nhạy cảm” mà giấu giếm như vừa qua.

Những thông tin về bí mật quốc gia thì tất nhiên cần phải giữ. Nhưng bí mật quốc gia cũng cần phải có quy định và danh mục cụ thể và phải tuân thủ đàng hoàng. Những thông tin liên quan đến cuộc sống mà không nằm trong danh mục đó phải cung cấp công khai cho dân chúng.

Quyền được thông tin là được biết những gì cần cho cuộc sống của mình. Tự do báo chí là trình bày ý kiến của mình về những vấn đề có liên quan đến mình với điều kiện phải tôn trọng người khác, nền văn hóa khác, quốc gia khác chứ không phải là tự do muốn nói gì thì nói.

Không ai được phép tự cho mình quyền nhân danh tự do để xúc phạm người khác, nền văn hóa khác, tôn giáo khác. Đó chính là chỗ nhầm lẫn của những người chủ trương tạp chí Charlie Hebdo. Không phải ngẫu nhiên mà sau khi bình tĩnh lại, đã có 42% người Pháp phản đối việc Charlie Hebdo in tranh biếm họa nhà tiên tri Muhammad.

Còn phải phân biệt thông tin chính với thông tin phụ. Thông tin đúng sự thật còn đòi hỏi phải đúng với thực tế cả về mức độ chính/ phụ của nó nữa. Cách quản lý cũ về thông tin gây phản tác dụng ở nhiều mặt. Một mặt, nó đôi khi che chắn, không cho công bố những thông tin cần thiết. Mặt khác, nó lại để cho những thông tin lá cải, tầm thường lan tràn. Thông tin về dịch sởi thì người dân không được biết, trong khi thông tin bịa đặt về người mẫu nào giàu có thế nào, ca sĩ nào có bao nhiêu chiếc áo, đôi giày, cặp bồ với ai… thì lại tràn lan. Đây là điều cần khắc phục và chấm dứt.

———-

Thứ Bảy, 17 tháng 1, 2015

Lòng nhân ái thật sự

hoathuytinh

Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi làm nhiều gia đình phải sống trong cảnh khốn khó.
Tất cả các tờ báo địa phương đều đăng hình ảnh và những câu chuyện thương tâm về một số gia đình mất mát nhiều nhất. Có một bức ảnh làm tôi xúc động. Một phụ nữ trẻ đứng trước ngôi nhà đổ nát của mình, gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn.
Đứng cạnh bà là một cậu bé chừng 7 hay 8 tuổi, mắt nhìn xuống. Đứa con gái nhỏ bám chặt quần mẹ, nhìn chằm chặp vào máy ảnh, mắt mở to vẻ bối rối và sợ hãi.
Bào báo đi kèm cùng kêu gọi mọi người giúp đỡ những người trong gia đình đó. Tôi nhận thấy đây sẽ là một cơ hội tốt để dạy các con mình giúp đỡ những người kém may mắn hơn.
Tôi đưa tấm ảnh gia đình đó cho các con tôi xem, giải thích nỗi khổ của họ cho hai đứa con trai sinh đôi 7 tuổi và đứa con gái 3 tuối. Tôi bảo chúng: “Chúng ta có quá nhiều trong khi những người này bây giờ không còn gì cả. Chúng ta hãy chia sẻ với họ những gì mình có".
Tôi và hai con trai chất vào thùng cứu trợ nào đồ hộp và xà bông, mì gói… Tôi cũng khuyến khích chúng chọn ra một số đồ chơi mà chúng không chơi nữa. Đứng nhìn hai anh sắp xếp mọi thứ, con gái tôi có vẻ nghĩ ngợi.
Tôi nói với con: "Mẹ sẽ giúp con tìm một thứ gì đó cho em bé trong ảnh”.
Trong lúc hai anh mình đặt những món đồ chơi cũ chúng đã chọn vào thùng, con gái tôi đi vào, tay ôm chặt con búp bê cũ kỹ nhạt màu, tóc rối bù, nhưng là món đồ chơi nó yêu thích nhất.
Nó ôm hôn con búp bê lần chót trước khi bỏ vào thùng. Tôi nói: "Con không cần phải cho nó, con thương nó lắm mà".
Con gái tôi gật đầu nghiêm trang: "Nó đem lại niềm vui cho con mẹ ạ, có lẽ nó cũng sẽ đem lại niềm vui cho bạn kia”.
Tôi nhìn sững con, chợt nhận ra rằng bất cứ ai cũng có thể đem cho những thứ mình bỏ đi, nhưng lòng nhân ái thật sự là đem cho những gì mình yêu quí nhất… 

Bà Lão và Những Đồng Tiền Vàng


Ngày xưa ở một làng quê hẻo lánh nọ có một bà lão. Bà ta không có ai thân thích và rất là nghèo.
Mặc dù vậy bà ta là một người rất sùng đạo. Mỗi buổi tối, người ta thường thấy bóng của bà qua ngọn đèn dầu, quỳ tụng kinh trước một trang bàn thờ nhỏ.
Tiếng bà tụng kinh êm êm hòa với tiếng mõ vang đều đi khắp xóm. Khi gà gáy canh một thì lời tụng hồi hướng công đức của bà cũng đã vang sâu vào trong tâm tưởng của những người dân làng.
Cho đến một đêm nọ, khác hơn mọi đêm, căn nhà nhỏ của bà lão tối om chẳng chút ánh sáng của ngọn đèn dầu. Im lặng bao trùm cả xóm. Những người láng giềng lấy làm lạ và trở nên lo âu.
Chẳng chờ đợi được nữa, họ rủ nhau đến nhà bà lão để hỏi thăm. Một người gõ cửa và hỏi: “Thưa cụ, cụ có khỏe không? Mọi việc đều như thường cả chứ?
Bà lão chỉ trả lời:
Không tôi không sao cả, cám ơn các cô chú”.
Những người láng giềng nghe thế cũng lấy làm an tâm và trở về nhà, mặc dù họ chẳng hiểu lý do gì mà bà lão không còn tụng kinh như thường lệ!
Thế rồi bốn năm đêm liên tiếp trôi qua, vẫn không nghe tiếng bà lão tụng kinh trở lại.
Căn nhà nhỏ của bà vắng đi ánh sáng leo loét của ngọn đèn dầu. Những người láng giềng không còn chịu đựng nổi sự thắc mắc, lại rủ nhau đến nhà bà lão.
Một người hỏi: “Thưa cụ, chúng con đã quá quen với tiếng gõ mõ tụng kinh của cụ mỗi đêm. Bây giờ mất đi tụi con đâm ra thấy nhớ, như thiếu thốn một cái gì. Xin cụ cho biết vì cớ gì mà cụ lại chẳng còn tụng kinh như xưa nữa?
Bà lão thở dài đáp: “Này các cháu ơi, cả đời của ta, ta để dành dụm được năm đồng tiền vàng. Nhưng mấy ngày trước đây, trong lúc ta vắng nhà, có tên trộm vô tâm nào đã vào lấy cắp mất cả. Ta buồn rầu vì tiếc của quá nên chẳng còn lòng dạ nào mà tụng niệm gì nữa hết!”
Những người dân làng nghe thấy động lòng, vội vàng rủ nhau đi gom góp tiền bạc.
Chẳng phút chốc là đã có đủ năm đồng vàng để đến đưa cho bà lão.
Buổi tối hôm sau, dân làng âm thầm rủ nhau đến tụ họp trước nhà bà lão để nghe bà tụng kinh.
Mọi người hân hoan chờ đợi… Nhưng thất vọng thay, đêm khuya dần mà vẫn không thấy bà lão đốt đèn tụng kinh.
Cho đến khi gà gáy canh một thì họ vội gõ cửa và hỏi: “Này cụ, bây giờ cụ đã có đủ năm đồng tiền vàng rồi, vì cớ gì mà cụ vẫn chưa tụng kinh!"
 Bà lão thở dài não nuột và nói: “Này các cháu ơi, nhờ lòng thương của mọi người mà ta đã có lại năm đồng vàng. Nhưng ta vẫn chẳng còn lòng dạ nào mà tụng niệm. Đầu óc ta cứ mãi nghĩ, phải chi đừng có tên trộm tham lam ấy thì bây giờ ta đã có tới mười đồng vàng rồi!” 
Duy Nhiên