Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Trí thức Hải Ngoại phản bác những luận điệu xuyên tạc nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh


Tác giả Trần Chung Ngọc


Tác giả Trần Chung Ngọc (1931-2014)



Đôi hàng về tác giả

Sinh năm 1931 tại Hà-Nội.

1952: Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy.

1956: Xin giải ngũ.

1957: Quy Y Tam Bảo, Chùa Văn Thánh, Thị Nghè, Thượng Tọa Tuệ Đăng chứng minh

1962: Cử Nhân Giáo Khoa Khoa Học, Khoa Học Đại Học Saigon.

1962: Bị gọi tái ngũ.

1962-1965: Trưởng Khoa Khoa Học (Vật Lý và Hóa Học), Văn Hóa Vụ, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đồng thời dạy thực tập Vật Lý ở Đại Học Đà Lạt, và dạy Vật Lý lớp 12 ở Collège d’Adran, Đà Lạt.

1965: Được giải ngũ

1965-1967: Giảng Nghiệm Viên, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon.

1967: Được học bổng đi Mỹ học về ngành Vật Lý ở Đại Học Wisconsin - Madison.

1972: Tốt nghiệp Ph.D., Vật Lý, Đại Học Wisconsin - Madison.

Luận Án: Kinematic Low-Energy Electron Diffraction Intensities From Averaged Data: A Method For Surface Crystallography.

1972-1975: Giảng sư, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon. Giáo sư thỉnh giàng: Đại Học Vạn Hạnh, Trường Kỷ Thuật Thủ Đức (1), Trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Đồng thời, cùng với các Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Ích (M.I.T), Vũ Thượng Quát (Cal.Tech), Huỳnh Văn Quảng (S.I.U), được tuyển làm ChuyênViên Đại Học, trực thuộc Thứ Trưởng Giáo Dục, trước là Đỗ Bá Khê, sau là Bùi Xuân Bào, đặc trách xét văn bằng ngoại quốc tương đương với các văn bằng Việt Nam, cùng nghiên cứu cải tổ chương trình giáo dục đại học.

1975-1977: Post Doctorate Fellow, Physics Department, University of Wisconsin- Madison.

1977-1996: Manager, Surface Analysis Laboratory, Materials Center, University of Wisconsin – Madison. Direct and conduct research in the field of Surface Analysis using new techniques such as AES (Auger Electron Spectroscopy); ESCA (Electron Spectroscopy for Chemical Analysis); SEM (Scanning Electron Microscopy); SIMS (Secondary Ion MassSpectroscopy) etc…

1989: Tháng 11: Được mời sang Singapore làm Cố Vấn Kỹ Thuật ở SISIR (Singapore Institute of Standards and Industrial Research)

1996 - 2014: Về hưu. Nghiên cứu Đạo Phật, Thiên Chúa Giáo, Lịch sử v..v..

Qua đời ngày 29/1/2014 tại Illinois, USA.


Vài nét về Cụ Hồ

PHẦN 1


Gồm có:

Tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng

Vài tài liệu về ông Hồ

Hai Câu Chuyện

Viết về một nhân vật có tầm vóc quốc tế như Hồ Chí Minh có thể nói là không dễ. Đối với những người thuộc giới Chống Cộng Cực Đoan [CCCĐ] hay Chống Cộng Cho Chúa [CCCC], viết theo cảm tính thù hận Quốc Gia chống Cộng, hay Công Giáo chống Cộng, trong khi thực sự không hiểu, không biết gì về Hồ Chí Minh thì rất dễ, vì muốn viết sao cũng được. Đưa ra những chi tiết lặt vặt, cộng với xuyên tạc, dựng đứng v..v.. nhằm “ám sát tư cách cá nhân” (character assassination), bằng những từ tục tĩu, hạ cấp v..v.. cho hả lòng thù hận, thì có lẽ ai viết cũng được, không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Thảm thay, hiện tượng này chúng ta thường thấy xảy ra trong vài khu rừng diễn đàn truyền thông hải ngoại, nơi đây một thiểu số người Việt có vẻ như không có mấy trình độ văn hóa, giáo dục thường lên tiếng. Nhưng viết cho đúng với nhân cách, khả năng, tư tưởng và con người của Hồ Chí Minh thì quả thật là khó, vì điều này đòi hỏi trước hết là một sự lương thiện trí thức, một sự hiểu biết đứng đắn về cuộc đời của ông Hồ, và nhất là, về ông đã làm gì cho đất nước Việt Nam.

Riêng đối với tôi, viết về ông Hồ lại càng khó hơn, vì xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã cầm súng chống Cộng trong thời gian 8 năm rưỡi, khoảng thời gian tôi ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đi Mỹ học, và đã về phục vụ trong ngành giáo dục ở miền Nam cho đến ngày chót, đương nhiên tôi đã ở phía Quốc Gia rồi. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã chấm dứt hơn 30 năm rồi, bây giờ còn nói đến chuyện Quốc – Cộng có phải là ngớ ngẩn không? Thời gian chỉ trôi có một chiều, một thế hệ già nua như chúng tôi đang lần lượt rủ nhau đi vào dĩ vãng để nhường chỗ cho một thế hệ trẻ hơn, đầy nhiệt huyết, với những kiến thức thời đại, biết thế nào là con đường quốc gia, dân tộc, và dứt khoát từ chối, không để cho đầu óc bị ô nhiễm bởi những thù hận của lớp trước, dù các bậc cha anh vô trí có muốn truyền lại. Với tâm cảnh như trên, vậy tôi phải viết về ông Hồ ra sao? Viết theo sự hiểu biết giới hạn của mình thì rất có thể “sai đường lối của một số người đang tham gia cuộc “thánh chiến chống Cộng”” và phải đội thêm vài cái nón cối nữa. Nhưng chẳng sao, tôi ở xứ lạnh, mùa Đông sắp đến, càng ấm đầu.

Tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng


Được đào tạo trong ngành Khoa Học Vật Lý, đối với tôi, sự lương thiện trí thức phải để lên hàng đầu, và phương pháp khảo cứu mọi vấn đề phải cẩn trọng, không để cho tình cảm thiên kiến lôi cuốn, tuy tôi tự biết, vì không có cái mặc cảm của Thượng đế (God complex), nên tôi không thể tránh khỏi có đôi chút thiên kiến khi viết về lịch sử. Một người nào đó đã chẳng từng nói: “Người nào viết sử mà không có đôi chút thiên kiến chắc phải có cái mặc cảm mình là Thượng đế (hay mặc cảm của Thượng đế) [Those who write about history without bias must have a God complex].

Để giảm thiểu thiên kiến, phương pháp khảo cứu của tôi là đọc nhiều sách về cùng một vấn đề, rồi từ đó kiếm ra một mẫu số chung. Điều này chưa hẳn là tuyệt đối đúng, nhưng ít ra cũng không xa sự thực là bao nhiêu.

Riêng về ông Hồ, đọc những tài liệu của giới CCCĐ hay CCCC ở hải ngoại thì cũng như không đọc, vì không biết thêm được điều gì mới lạ, ngoài những cường điệu chứng tỏ trình độ thấp kém về lịch sử của người viết. Còn dùng những tài liệu trong nước, phải gội đầu sẵn để đội thêm vài cái mũ của những kẻ không hề biết lý luận, không có khả năng thảo luận trí thức. Không phải là trong những tài liệu thuộc cả hai phe “Quốc-Cộng” này không có những chi tiết đúng, nhưng những chi tiết này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong kho tàng tài liệu ngày nay trên thế giới, từ tác phẩm của những nhà nghiên cứu trong môi trường đại học, các chính khách, cựu tướng lãnh v..v…, và từ các tài liệu có trong các văn khố của một số quốc gia.

Vậy thì tốt hơn hết là đi tìm tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng.

-- o0o --

Bài viết này không có mục đích viết tất cả về ông Hồ Chí Minh, tôi không có khả năng như vậy. Nhân đọc loạt bài ông Minh Võ phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker cùng đọc bài khảo cứu, có thể nói là một bài giáo khoa của giáo sư Sử học Nguyễn Mạnh Quang, về những vị lãnh đạo Việt Nam trong thời cận đại như Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, đăng trên giaodiemonline.com tháng 11, 2006, tôi chỉ muốn bổ túc và thu hẹp trên một vài khía cạnh về ông Hồ Chí Minh: vị thế của ông Hồ Chí Minh trên chính trường quốc tế, trong lòng dân tộc Việt Nam, và nhất là, phải chăng ông là người Cộng sản cực đoan, tay sai của Nga Sô và Trung Cộng như một số người chống Cộng cực đoan ở hải ngoại

Còn những con cờ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu của Pháp và Mỹ thì có lẽ không cần phải nhắc tới. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã viết quá đủ về những nhân vật này rồi, nhất là về ông “Phán Quan Tây Ban Nha” Ngô Đình Diệm. (Link:
http://www.giaodiemonline.com/nov/chuong18.htm)

Trước khi đi vào những vấn đề này, tôi có một nhận xét tổng quát về những luận điệu xuyên tạc, đả kích ông Hồ Chí Minh của một số người có vẻ như không có mấy trình độ. Không có gì ngu xuẩn hơn là so sánh ông Hồ với Hitler. Những người này hầu như không hề biết gì đến dư luận thế giới, nhất là trong các nước tiến bộ Âu Mỹ, đã nhận định về ông Hồ Chí Minh như thế nào. Hãy vào Internet đánh tên Ho Chi Minh thì sẽ thấy Thế giới đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào. Hay hãy đọc những cuốn sách về chiến tranh Việt Nam của các học giả, tướng lãnh Mỹ, và ngay cả hai cuốn In Retrospect và Argument Without End của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara.



Phần nhận định tích cực về Hồ Chí Minh tràn ngập so với phần tiêu cực thưa thớt của một số người Việt hải ngoại mà tên tuổi không đáng kể, và chỉ như những con đom đóm lập lòe trên vài diễn đàn điện tử ít có giá trị trí thức của đám người Việt còn mang nặng lòng hận thù Quốc-Cộng, chống Cộng cuối mùa, chống Cộng khi đã không còn Cộng..


Và những người muốn hạ bệ Hồ Chí Minh để vinh danh “chí sĩ” Ngô Đình Diệm của họ nhân dịp 1/11 thì hãy kiếm đọc cuốn “Những Bạo Chúa, 100 Tên Chuyên Quyền và Độc Tài Ác Nhất Trong Lịch Sử” (Tyrants, History’s 100 Most Evil Despots and Dictators) của Nigel Cawthorne, Barnes & Noble, NY, 2004, trong đó chúng ta có thể thấy những tên quen thuộc như Tần Thủy Hoàng, Võ Hậu, Từ Hi, Richard III, Mary I, Ceasar Borgia v..v.. và trong thời cận đại: Hitler, Mao Trạch Đông, Stalin, Pol Pot, Sadam Hussein, Kim Jung II, và, lạ lùng thay, có cả tên Ngô Đình Diệm (President of South Vietnam) mà lại không có tên Hồ Chí Minh trong danh sách này. Mỗi tên trong danh sách đều có kèm theo một tiểu sử ngắn và sơ lược những hành động chuyên quyền và độc tài của nhân vật đó.

Thế này là thế nào? Chẳng có lẽ Nigel Cawthorne cũng như nhiều trí thức Tây phương đều là tay sai của CSVN, hay là những người ngu cả hay sao?

Cách đây sáu năm, năm 2000, sử gia William J. Duiker có xuất bản cuốn “Ho Chi Minh, A Life”. Cuốn này được giới trí thức, học giả Âu Mỹ đánh giá khá cao và cho rằng đó là một cuốn nghiên cứu sâu rộng nhất về con người và sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh. Đọc Duiker và phối kiểm với những đoạn viết về ông Hồ của nhiều tác giả khác trong thế giới Tây phương, chúng ta có thể rút tỉa ra những điều không xa với sự thật là bao nhiêu.

Trước hết, quốc tế đối với ông Hồ ra sao? Tôi xin được nhắc lại một đoạn trong bài của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà giáo sư đã trích dẫn từ cuốn “Ho Chi Minh” của William J. Duiker:



“Khi tin tức về cái chết của ông Hồ Chí Minh được loan truyền thì khắp địa cầu đưa ra nhận xét về ông. Hà Nội nhận được tới hơn hai mươi hai ngàn (22000) bức điện tín từ các thủ đô lớn của 121 quốc gia trên thế giới để bày tỏ lời ca ngợi ông và chia buồn với nhân dân Việt Nam. Một số các nước theo chủ nghĩa xã hội tổ chức buổi lễ truy điệu ông và đưa ra những lời ca tụng ông. Thủ đô Mạc Tư Khoa chính thức ca tụng ông như là “người con vĩ đại của dân tộc anh hùng Việt Nam, một người lãnh đạo xuất sắc của phong trào giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, và là người bạn vĩ đại của Liên Bang Sô Viết.” Các nước trong Thế Giới Thứ Ba (các nước trung lập) cũng nhận xét về ông với những lời ca tụng ông như là một người bảo vệ những người bị áp bức. Một bài báo phát hành ở Ấn Độ mô tả ông như là tinh túy của “dân tộc và là hiện thân của lòng khát vọng tự do, của sự tranh đấu bền bỉ.” Những bài báo khác đề cao đức tính giản dị và thẳng thắn của ông. Một bài xã luận trong một tờ báo ở Uruguay (Nam Mỹ) ghi nhận “Ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và có một tình thương vô bờ bến đối vào các trẻ em. Ông là gương mẫu về đức tính giản dị và thẳng thắn trong tất cả mọi phạm vi.”

Phản ứng từ các thủ đô Tây Phương thì không biểu lộ mạnh mẽ. Tòa Bạch Ốc lặng thinh và các viên chức cao cấp trong chính quyền của Tổng Thống Nixon cũng không bình luận gì cả. Nhưng việc chú ý đến cái chết cúa ông Hồ Chí Minh đối với giới truyền thông trong các nước Tây Phương thật là mãnh liệt. Những tờ báo ủng hộ các phong trào phản chiến có khuynh hướng mô tả ông bằng những lời lẽ ca tụng ông như là một địch thủ xứng đáng và là một người bảo vệ những kẻ yếu, những người lép vế thế cô và những người bị áp bức. Ngay cả những người vẫn thường khăng khăng chống lại chế độ Hà Nội cũng đánh giá ông bằng những lời lẽ kính trọng ông như là một người đã tận hiến cả cuộc đời cho đại cuộc chiến đấu giành độc lập và thống nhất đất nước cho tổ quốc ông, coi ông như là người phát ngôn xuất chúng cho các dân tộc bị bóc lột ở trên thế giới.”

Nguyên văn: (“The news of Ho Chi Minh’ s death was greeted with a outpouring of comment from around the globe. Eulogies flowed in from major world capitals, and Hanoi received more than twenty-two thousand messages from 121 countries offering the Vietnamese people condolences for the death of their leader. A number of socialists states held memorial services of their own and editorial comment were predictable favorable. An official statement from Moscow lauded Ho as a “great son of the heroic Vietnamse people, the outstanding leader of the international Communist and national liberation movement, and a great friend of the Soviet Union.” From the Third World countries came praise for his role as a defender of the oppressed. An article published in India described him as the essence of “the people, the embodiment of the ardent aspiration for freedom, of their endurance and struggle.” Others referred to his simplicity of manner and high moral standing. Remarked an editorial in Uruguayan newspaper: “He had a heart as immense as the universe and in a boundless love for the children. He is a model of simplicity in all fields.”

Reaction from Western capitals was more muted. The White House refrained from comment, and senior Nixon administration officials followed suite. But attention to Ho’s death in the Western news media was intense. Newspapers that supported the antiwar cause tended to describe him in favorable terms as a worthy adversary and a defender of the weak and oppressed. Even those who had admandtly opposed the Hanoi regime accorded him a measure of respect as one who had dedicated himself first and foremost to the independence and unification of his country, as well as a prominent spokeperson for the exploited peoples of the world.”) [Đây là đoạn đầu của Chương cuối: “Epilogue: From Man To Myth” , trang 562. TCN]

Trên đây, Duiker đã viết lại một sự kiện. Sự kiện này, hơn gì hết, đã loại bỏ tất cả những gì mà một số người Việt hải ngoại hay ở trong nước viết tiêu cực theo cảm tính về ông Hồ. Cho nên bất kể những luận điệu nhằm hạ uy tín của ông Hồ đều không thể thuyết phục được ai, ít nhất là trong giới hiểu biết, nhất là những luận điệu này lại thuộc loại hạ cấp, đầy hận thù, vụn vặt, chỉ nhắm vào những tiểu tiết mà không nhìn thấy những mặt to lớn của sự việc, và chỉ có thể lấy được sự đồng tình của một số người nhỏ nhoi thu hẹp trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại..



Có một bài viết về ông Hồ Chí Minh của Wilfred Burchett khá hay: Ho Chi Minh: An Appreciation (pipeline.com). Wilfred Burchett là một ký giả Úc nổi tiếng, đã từng được Ngoại Trưởng Henri Kissinger nhờ làm trung gian liên lạc giữa Mỹ và Hà Nội. Năm 1968, ông đã viết một cuốn có tính cách tiên đoán: “Việt Nam Sẽ Thắng” (Vietnam Will Win) và năm 1977 ông xuất bản cuốn “Châu Chấu Và Voi: Tại Sao [Nam] Việt Nam Sụp Đổ” (Grasshoppers and Elephants: Why Vietnam Fell). Theo tôi, Burchett viết hay, không phải vì tác giả ca tụng ông Hồ, mà tác giả đã viết về những gì đã tạo nên ông Hồ: Không phải thuần túy chỉ là Marx, là Lenin hay Mao Trạch Đông, mà chính là lịch sử 2000 năm chống ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ. Có thể nói, tác giả hiểu Việt Nam hơn rất nhiều người tự cho mình là trí thức. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Burchett:


“Chính sách của Mỹ là làm cho người Việt Nam cảm thấy mình thuộc một sắc dân thấp kém (racial inferiors),không có quyền về căn cước quốc gia (have no right for national identity). Họ thường bị gọi là “gooks”, “slopes” và “dinks”, và trên những phúc trình chính thức, làng Mỹ Lai trở thành “Thành phố hồng” (Pinkville) [có nghĩa là thành phố CS] và dân làng bị tàn sát chỉ là “những người Á đông” (oriental human beings). [với ý coi thường, miệt thị]

Sự thực là người nông dân Việt Nam nghèo khó nhất, ngay cả thất học, về phương diện văn hóa và đạo đức thường cũng cao hơn người Mỹ (Reality is that the humblest Vietnamese peasant, even illiterate, is usually culturally and morally superior to his American adversary.). Hắn ta biết nhiều hơn về lịch sử đất nước của hắn – không chỉ vì đất nước hắn có vài ngàn năm lịch sử nhiều hơn Mỹ để mà biết đến – mà vì những điều này đã thấm vào trong người hắn từ sữa mẹ (literally absorbs it with his mother’s milk). Ngay từ bé, hắn sống lên trong một môi trường tràn ngập với những câu chuyện về gia tài lịch sử, hoặc được kể ngay khi còn nằm trong lòng mẹ, hoặc qua những màn kịch diễn lại những trang sử oai hùng của 2000 năm lịch sử chống ngoại xâm của những gánh hát di động, hoặc những truyền thuyết về các “thần hoàng làng”, [thường là các anh hùng giúp nước của xóm làng, được nhà Vua sắc phong], hoặc là những câu chuyện về tổ tiên đã bảo vệ non sông như thế nào, hoặc là những chuyện đau khổ của người dân bị đàn áp bởi ngoại nhân nên đòi hỏi một sự đứng lên để chống đối v..v… Sự hiểu biết về 2000 năm tranh đấu chống kẻ xâm lăng có đầy trong dòng máu của người nông dân chân lấm tay bùn nghèo khó nhất. Chỉ một điều này cũng là một nguồn dũng cảm và sức chịu đựng vô tận, một sự tin tưởng vào tương lai và coi thường những kẻ toan tính phá vỡ những đức tính mà những chuyên viên trong cái “hồ tư duy” (think tank) [của Mỹ]không thể hiểu được (The knowledge of two thousand years' struggle against invaders is in the bloodstream of the humblest, mud-stained peasant. This alone is an inexhaustible source of courage and stoicism; of confidence in the future and contempt for those who try to wreck the present-qualities incomprehensible to the "think tank" specialists.).

Ông Hồ Chí Minh là mẫu mực thu nhỏ của tất cả những điều trên. Và đúng là, cũng như một cái gì đó trong mỗi người Việt Nam đều có trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu hết những người Việt Nam ngày nay, dấu ấn của ông trên dân tộc Việt Nam thật là sâu đậm (Ho Chi Minh epitomizes all this. And just as there was something of every Vietnamese in Ho Chi Minh so there is something of Ho Chi Minh in almost every present-day Vietnamese, so strong is his imprint on the Vietnamese nation.) .

Một vấn đề mà Tổng thống Nixon cũng như các vị tiền nhiệm có thể không lưu ý đến nhưng chắc chắn là dân Việt Nam không thể không biết, đó là Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.(No line arbitrarily drawn along the 17th parallel could divorce the people of the South from Ho Chi Minh because his capital happened to be on the northern side of the line. Ho Chi Minh was the accepted leader and source of inspiration for all Vietnamese - except the handful who served Japanese, French and American masters in turn.)

Lẽ dĩ nhiên, một số người Việt “Quốc Gia” ở hải ngoại không thể đồng ý với nhận định trên, điều này có lẽ cũng không lấy gì làm khó hiểu. Nhưng trên phương diện nghiên cứu trí thức, một câu hỏi cần được đặt ra: có bao nhiêu phần đúng trong nhận định của Burchett? Nếu chúng ta thuộc lịch sử Việt Nam, nếu chúng ta biết đến những truyền thống trong xã hội làng mạc Việt Nam, nếu chúng ta để tâm nghiên cứu về hai cuộc chiến ở Việt Nam, với Pháp rồi với Mỹ, thì có lẽ chúng ta không cần đặt ra câu hỏi trên.

Vấn đề tiếp theo tôi muốn nói đến là: ông Hồ Chí Minh là con người Cộng Sản như thế nào? 
Chúng ta biết rằng, ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ phủ nhận mình là người Cộng Sản và đã từng khẳng định là Lenin đã gây cảm hứng cho ông trong công cuộc giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng muốn hiểu ông Hồ là người Cộng sản như thế nào, có lẽ chúng ta nên biết đến quan niệm của một số trí thức ngoại quốc, những người thường ở trong môi trường đại học, đặt sự tôn trọng sự lương thiện trí thức lên hàng đầu, và vì chính uy tín của họ, nên không thể viết theo cảm tính mà không nghiên cứu kỹ vấn đề, hay tự hạ mình rơi vào vòng tranh chấp Quốc-Cộng mà họ không thuộc phe nào và không có lý do gì để ủng hộ hay chống đối một phe nào..

Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Stanley I. Kutler điểm cuốn “Ho Chi Minh, A Life”, Kutler là tác giả cuốn "The Wars of Watergate" và là chủ biên của "The Encyclopedia of the Vietnam War." Stanley Kutler cho rằng trong tác phẩm của mình, Duiker đã viết về một nhà cách mạng ái quốc gần với Thomas Jefferson hơn là với V. I. Lenin [A patriot closer to Thomas Jefferson than to V.I. Lenin]. (Điều này, không phải chỉ có mình Duiker mới nhận định như trên, mà một số tác giả Mỹ khác cũng có cùng một nhận định như vậy. TCN)

Trước hết, Kutler cho rằng chế độ thực dân đã cáo chung một thế kỷ nay rồi và vai trò của ông Hồ đã đi vào quá khứ. Ngày nay, Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, có nghĩa là có những liên doanh mang lại lợi nhuận cho chính phủ, cho một số viên chức được ưu đãi, và cho những công ty Tây phương. Nhưng Kutler ghi nhận là:


“Tuy nhiên, thế giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ, và những người như ông, những người đã lo lắng, chiến đấu và hi sinh để giải phóng quốc gia của họ thoát khỏi sự sỉ nhục và gông cùm của sự chuyên chế bạo ngược ngoại quốc.” (Nevertheless, the world is a different place because of Ho, and others like him, who agitated, fought and died to liberate their lands from the stigma and yoke of foreign tyranny.)

Sau đó Kutler viết:

“Duiker đã đi quá sự tranh luận đơn giản trong thời Chiến Tranh Lạnh về vấn đề ông Hồ là người Cộng sản theo chính thống Mác-Lênin hay là một nhà ái quốc quốc gia, hiến thân cho cuộc giải phóng và thống nhất đất nước?” (Duiker has moved beyond the simplistic Cold War debate of whether Ho was a dedicated Communist, beholden to Marxist-Leninist orthodoxy, or whether he was a patriot and a nationalist, dedicated to freeing and uniting his country.)“Duiker đã nhận định đúng, Hồ Chí Minh có căn rễ sâu đậm trong phong trào Cộng sản quốc tế, nhưng ông luôn luôn là một người quốc gia đã mang lại sự lãnh đạo, viễn kiến và sự cương quyết hiến thân cho nguyên lý dân tộc tự quyết" (Duiker rightly notes that Ho had deep roots in the international Communist movement; but he was a constant nationalist who provided leadership, vision and a firm commitment to the principle of self-determination.)…

“Ông Hồ không hề nao núng khi dùng chủ nghĩa Cộng Sản cho những mục đích quốc gia. Lời tuyên bố của ông: “các dân ở Đông Dương vẫn sống và sẽ còn sống mãi” khó mà phù hợp với chủ nghĩa Mác. Duiker nhấn mạnh là, đối với ông Hồ, độc lập quốc gia bao giờ cũng là mục tiêu chủ yếu, trong khi chủ thuyết về một cộng sản không tưởng vẫn là một vấn đề mơ hồ, bất định cho tương lai” [Ho unabashedly used communism for his own nationalist ends. His statement that "the peoples of Indochina still live and will live forever" is hardly compatible with Marxism. Duiker insists that for Ho, national independence always was the primary goal, while the doctrine of a communist utopia remained a vague, indefinite matter for the future.] Duiker cũng nhắc lại cho chúng ta là rất tiếc vì những nhận định hời hợt về cuộc Chiến Tranh Lạnh mà Paris và rồi Washington đã thất bại không nắm lấy tay ông Hồ, để đưa đến những hậu quả sâu đậm cho người Việt Nam và cho thế giới (Duiker painfully reminds us that external Cold War considerations led to the failure of Paris and then Washington to grasp Ho's hand, resulting in profound consequences for the Vietnamese people and the world.)

Lẽ dĩ nhiên, cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của Duiker không làm những người mang nặng lòng hận thù Cộng Sản hài lòng, và họ đã lên tiếng chê sử gia Duiker cũng như tất cả các tác giả Âu Mỹ viết về ông Hồ mà không đúng ý họ là ngu dốt, là những người ngoại quốc, đâu có biết gì về ông Hồ bằng người Việt Nam. Chỉ có những người vô tên tuổi, vô văn hóa, và chẳng biết gì mấy về Việt Nam như họ mới có thể biết rõ về ông Hồ, dù rất có thể họ chưa bao giờ thấy mặt ông Hồ, và chỉ biết ông Hồ qua những luận điệu tuyên truyền chống Cộng ở hải ngoại và qua vài chi tiết lặt vặt trong những tác phẩm của những người sau này chống Đảng như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần v..v....

Điển hình cho loại người này trên Internet là Minh Võ, một người rất năng nổ trong chiến dịch “No Hồ” ở hải ngoại, viết trên diễn đàn điện tử Đàn Chim Việt, một diễn đàn có vẻ như là nơi để cho một số người nhân danh tự do ngôn luận vào đó chửi lộn. Minh Võ đang cố gắng phá đổ cái mà ông ta gọi là “thần tượng Hồ Chí Minh”, dù rằng chẳng có ai coi ông Hồ là thần tượng, vì hầu như mọi người dân trong nước đều coi ông Hồ đơn giản là “Bác Hồ”. Nhưng trình độ hiểu biết, khả năng lý luận, và thủ đoạn bịa đặt sự kiện của ông Minh Võ không cho phép ông ta đạt được mục đích, cho nên những điều ông ta phê bình Duiker cũng như những điều ông ấy viết về ông Hồ không có mấy giá trị trí thức, để lộ rõ một kiến thức kém cỏi và viết với một tâm trạng thù hận và thiếu sự lương thiện trí thức trong đó. Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng, nhưng tôi để cho phần sau.

Vài tài liệu về ông Hồ

Trước hết chúng ta hãy đọc thêm vài tài liệu về ông Hồ:

Trong tờ “Les Collections de L’Histoire”, số 23, Avril-Juin 2004, một tuyển tập về “Indochine Vietnam: Colonisation, Guerres et Communisme” có bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” [L’Homme Qui Devint Ho Chi Minh] của Pierre Brocheux, Giáo sư Diễn Giảng Danh Dự tại Đại Học Denis-Diderot, Paris-VII. Chúng ta sẽ thấy trong đó có vài chi tiết chứng tỏ ngay cả Nga và Tàu cũng không tin tưởng ông Hồ Chí Minh là người Cộng Sản chính thống (orthodox communist). Giáo sư Brocheux viết, trang 33:


Đối với Quốc (Nguyễn Ái Quốc), chủ thuyết Mác Lênin đã đưa lên những phương tiện hành động, như là ông ta đã giảng giải nhiều năm sau: “Chúng ta phải hiểu rằng giật độc lập ra khỏi tay một cường quốc như Pháp là một nhiệm vụ rất khó khăn mà người ta không thể hoàn thành mà không có một sự ngoại viện, không cần thiết phải là một sự viện trợ vũ khí mà dưới dạng cố vấn và tiếp xúc. Chúng ta không lấy lại được độc lập bằng cách ném bom hay bằng những hành động tương tự. Đó là sự sai lầm của những nhà cách mạng lúc đầu đã phạm phải [Có lẽ ông Hồ muốn nói đến cuộc ám sát thất bại của Phạm Hồng Thái đối với Toàn Quyền Merlin]. Chúng ta lấy lại độc lập bằng sự tổ chức và tự khép mình vào kỷ luật. Chúng ta cũng còn cần đến một lòng tin, một phúc âm, một sự phân tích thực tiễn, có thể nói đến như là một thánh kinh. Chủ thuyết Mác-Lênin đã cung cấp cho tôi đường lối hành động này.”

(Pour Quoc, le marxisme-léninisme offre des moyens d’action, comme il l’a expliqué des années plus tard: “Vous devez comprendre qu’arracher l’indépendance à une puissance comme la France est une tâche formidable qu’on ne peut accomplir sans une aide extérieure et pas nécessairement une aide en armes mais sous la forme de conseils et de contacts. On ne gagne pas l’indépendance en jetant des bombes et par des actes de ce type. Ce fut l’erreur que les premiers révolutinaires commirent. On gagne l’indépendance en s’organisant et en se diciplinant. On a aussi besoin d’une foi, d’un évangile, d’une analyse pratique, on peut même parler d’une bible. Le marxisme-léninisme m’a fourni cette panoplie.)

Thực ra thì có lẽ ông Hồ muốn nói đến Những Luận Đề Về Những Vấn Đề Quốc Gia Và Thuộc Địa (Theses on The National and The Colonial Questions) của Lê-nin đưa lên trong Đại Hội II Cộng Sản Quốc Tế (Second Congress of the Communist International) vào năm 1920 để nghị thảo mà ông biết đến trong Đệ Tam Quốc tế. Chúng ta đã biết, chính ông Hồ Chí Minh đã thành thực công nhận là mới đầu ông không hiểu hết những từ và ý tưởng chính trị khó khăn trong bản văn trên, nhưng rồi đọc đi đọc lại ông mới thấm và hiểu rõ, và ý thức được là những luận đề này đã giúp cho ông ta thấy con đường thích hợp nhất để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, thực dân. Và ông Hồ đã thành công.

Chúng ta hãy đọc tiếp vài đoạn khác của Giáo sư Brocheux. Trước hết là một tài liệu trích dẫn từ một tài liệu trong văn khố của Nga Sô, mới được sử gia Alain Ruscio phổ biến năm 1990, trang 34-36:


“Năm 1934, Ông Hồ trở lại Moscou. Stalin đã nắm chắc quyền lực, và những cuộc thanh trừng lớn bắt đầu năm 1937. Có vẻ như con người Hồ Chí Minh tương lai là nạn nhân, vì từ ngày trở lại Moscou, ông ta không được tin cậy để giao phó cho một trách nhiệm nào. Không còn nghi ngờ gì nữa người ta đã trách cứ là ông ta ngả về tinh thần quốc gia trong cuộc chiến đấu chống thực dân thay vì tinh thần cách mạng vô sản quốc tế.”

(En 1934, il est de retour à Moscou. Staline raffermit son pouvoir, les grandes purges vont débuter en 1937. Il apparait avec certitude que le futur Ho Chi Minh faillit en être victime car, depuis son retour, il ne s’est vu confier aucune responsabilité. Sans doute lui reproche-t’on de préférer le nationalisme qui sous-tend le combat anti-colonial à l’internationalisme de la révolution prolatérienne.)

“Về vấn đề này, ông Hồ đã bày tỏ quan điểm của mình từ năm 1924.. Được huấn luyện về cách mạng và chủ thuyết Marx bởi Tây phương, tuy nhiên Quốc đã nhìn theo đặc tính Á Đông: “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông phương không giống như ở Tây phương. Marx đã xây dựng lý thuyết của mình trên một căn bản triết lý nào đó của lịch sử. Nhưng là lịch sử nào? Đó là lịch sử Âu Châu. Nhưng Âu Châu là gì? Không phải là tất cả nhân loại.”

(À ce sujet, il a expliqué son point de vue dès 1924… Éduqué par l’Occident à la révolution et au marxisme, Quoc est pourtant persuadé, de la spécifícité de l’Orient: “ La lutte de classes ne se manifeste pas en Indochine comme en Occident.” ; Marx a bâti sa doctrine sur une certaine philosophie de l’histoire. Mais quelle histoire? Celle de l’Europe. Mais qu’est ce que l’Europe? Ce n’est pas toute l’humanité).

“Hồ Chí Minh có thực sự là mgười Mác-xít không? Hay ông ta chỉ là người Quốc Gia sau lớp sơn đỏ, như một thành viên Cộng Sản Quốc Tế, ông M. N. Roy, người Ấn Độ, đã nói? 

Vấn đề này đáng được đặt ra.. Nếu chắc chắn là ông ta đã đọc bản Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản, nếu đã nhiều lần ông ta nói là chịu ảnh hưởng trí thức và chính trị của Lê-nin, thì sự gắn bó của ông với chủ nghĩa Mác không bao giờ có tính cách giáo điều.“

(Ho Chi Minh était-il vraiment marxiste? Ou n’était-il qu’un “nationaliste peint en rouge”, comme l’a dit un membre du Komintern, l’Indien M.N. Roy? La question mérite đêtre posée… S’il a certainement lu le Manifeste du Parti Communiste, s’il dit maintes reprises sa dette intellectuelle et politique envers Lénine, son adhésion au Marxisme ne fut, pour autant, jamais dogmatique.)

“Năm 1963, người Cộng Sản Lưu Thiếu Kỳ đã phác họa một hình ảnh chính trị của ông Hồ, nếu đúng, cho thấy một vị thế không thoải mái [của ông Hồ] đưa đến một sự gắn bó đôi đàng với lòng yêu nước chấp nhận thỏa hiệp, và chủ nghĩa xã hội độc quyền: “Hồ luôn luôn là người hữu khuynh.. Khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, ông ta không thể quyết định là thiết lập một chế độ tư bản hay một chế độ theo xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đã quyết định cho ông ta.””

(Le communist Chinois Liu Shaoqi esquisse en 1963 un portrait politique de Ho qui, s’il est exact, indique la position inconfortable qui résulte d’une double adhésion au patriotisme consensuel et au socialisme exclusif: “Ho a toujours été un droitiste.. Lorsque la guerre d’Indochine prit fin, il ne put se décider à choisir d’instaurer soit un régime capitaliste soit un régime socialiste. Ce fut nous qui décidâmes pour lui.”)

“Không có gì minh họa rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ với ông Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả việc giết kẻ thù cũng không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới Thạch giết, tôi giết, đó không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm vào là viện đến đạo đức khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng là không thích đáng .”

(Rien n’illustre mieux le contraste entre Ho Chi Minh et d’autres dirigeants communistes que les propos que Mao Zedong et Liu Shaoqi tinrent à Ho Chi Minh en 1960. Ho avait déclaré qu’il n’était pas moral de tuer même ses adversaires; Mao lui répliqua: “Chiang Kaishek tue, je tue, ce n’est pas une question de morale.” Et Liu Shaoqi de renchérir qu’il n’était pas pertinent d’invoquer la morale lorsqu’on avait affaire aux contre-révolutionnaires capitalistes.)


Trong cuốn “The Vietnam War Almanac, General Editor: John S. Bowman, Barnes & Noble Books, NY, 2005”, trang 493, cũng có viết:

Ông Hồ ít quan tâm đến những chi tiết tế nhị của chủ thuyết Mao và Lê-nin; thiên tài của ông ta là về hành động chính trị, và lý tưởng của ông ta có thể khá co dãn chừng nào mà nó đưa tới mục đích đã ám ảnh ông ta: nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.” (Ho was less concerned with niceties of doctrine than Mao and Lenin; his genius was for political action, and his ideology was capable of considerable stretching as long as it tended toward the purpose that obsessed him: the independence and unification of Vietnam.)


Trong cuốn Cracks In The Empire, South End Press, Boston, 1981, Paul Joseph, Giáo sư xã hội học, đại học Tufts, viết, trang 83:


“Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh chống Pháp (ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và Moscou nhưng cho rằng có.”

(Despite a lack of evidence,Washington continued to perceive the anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose “philosophy and political organization emanated from and was controlled by the Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscou but assumes it exists..)


Marilyn B. Young, trong cuốn The Vietnam Wars: 1945-1990, HarperPerennial, New York, 1991, viết, trang 4:


“Trong vài năm tới, những văn bản Hồ Chí Minh viết bị tố cáo vì những “mùi hôi quốc gia” trong đó, và sự ủng hộ của ông Hồ về một liên minh rộng rãi bao gồm cả các địa chủ cỡ nhỏ và trung bình, miễn là họ yêu nước, bị đả kích là kẻ xét lại và là kẻ hợp tác (với kẻ thù). Phải mười năm sau sự tranh luận đắng cay về mối liên hệ giữa cách mạng quốc gia và cách mạng xã hội mới được giải quyết, theo đường lối lúc đầu đưa ra bởi ông Hồ, sự thành lập Việt Minh (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội.”

(Over the next few years, Ho Chi Minh’s writings were denounced for their “nationalist stench”, and his support for a broad alliance that could include even small and medium landowners, provided they were patriotic, was attacked as reformist and collaborationist. A decade would pass before this bitter debate on the relationship between national and social revolution was resolved, along the lines initially by Ho, in the formation of the Viet Minh.)

Trên đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu khác có những nhận định tương tự rải rác trong những cuốn sách mà tôi đã đọc. Lẽ dĩ nhiên, tôi không thể nào trích dẫn tất cả những nhận định ấy trong phạm vi một bài viết như thế này. Điều này đòi hỏi nhiều thời gian và thích hợp trong một cuốn sách viết ông Hồ hơn.

Nhưng qua những tài liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng ông Hồ không phải là tay sai của Nga và Tàu như một số người có đầu mà không có óc cố tình lên án ông ta là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, hay tệ hơn nữa là “điệp viên của Cộng Sản Quốc tế”
. Họ không hề biết chính trị của ông Hồ giữa Nga và Tàu, đã khôn khéo từ chối không nhận đề nghị của Nga cũng như Tàu gửi quân tình nguyện vào đánh giúp. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, Chương 9: “Giữa Con Gấu Nga Và Con Rồng Tàu” (Between Russian Bear and Chinese Dragon), trang 109:


Đến Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách Mạng Trung Quốc, ông Hồ cẩn thận đứng giữa Mao Trạch Đông và đại diện của Nga Sô, Miklai Suslov. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông Hồ đã thành công lấy được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moscou để tăng gia giúp thêm vũ khí và viện trợ dân sự, nhưng khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam. Ông Hồ biết rõ là nếu để cho con gấu Nga hay con rồng Trung Hoa được đặt chân vào cửa ngõ Hà Nội thì dần dần cửa ngõ này sẽ bị cưỡng bách mở rộng ra cho đến khi Bắc Việt mất đi nền độc lập và trở thành một quốc gia bị chiếm.”

(Visiting Peking in 1959 for the 10th anniversary of the Chinese Revolution, Ho was careful to stand between Mao Tse-Tung and Chief Soviet Delegate Mikhail Suslov. In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or military advisers. Ho knew that if either the Russian bear or the Chinese dragon were allowed to trust a foot inside Hanoi’s door, that door would gradually be forced open until North Vietnam lost its independence and became a captive nation.)

Đọc về ông Hồ chúng ta thấy rõ Mỹ và Pháp, vì những nhận định chính trị sai lầm, đã càng ngày càng đẩy ông ta về phía Cộng Sản, và ông ta không có con đường nào khác, vì để thực hiện mục đích không hề thay đổi của ông là thực hiện nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, nên ông ta cần đến các đồng minh. [Hãy nghĩ đến chuyện ông viết 8 bức thư cho Tổng Thống Truman, đến chuyện Mỹ giúp 80% quân phí cho Pháp trở lại tái lập nền đô hộ ở Đông Dương, và rồi dựng lên chế độ Ngô Đình Diệm, vi phạm hiệp định Genève, ngăn chận cuộc bầu cử vào năm 1956 để thống nhất đất nước.]

Cuối cùng, vị thế của ông Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam ra sao? 
Chúng ta đã biết, Wilfred Burchett đã nhận định ở trên:

Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.

Hai Câu Chuyện

Nhận định này đúng hay sai? Có lẽ câu trả lời thiết thực nhất là của Hoàng Xuân Ba trong bài “Hai Câu Chuyện Hoàn Toàn Trung Thực”, mới đây đăng trên Đàn Chim Việt:

Chuyện thứ nhất : lá cờ đỏ sao vàng trên mạng:


Trưa 2/9/2006, ngày quốc khánh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang nói chuyện với một người bạn Việt Kiều trên Yahoo Messenger (YM) tôi bất ngờ nhận được thông điệp của một người bạn trẻ Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, kèm theo đó là lời kêu gọi hãy thay đổi avatar (hình ảnh đại diện) trên YM bằng lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ biểu trưng cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn lại danh sách nickname của mình trên YM, tôi thấy rất đông các bạn trẻ thay đổi avatar bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng.

Sáng nay, 4/9/2006, báo Tuổi Trẻ đăng bài: “Mừng Quốc khánh trên mạng”. Trong bài viết này, tác giả mô tả lại hình ảnh nhà nhà treo cờ, người người treo cờ trên mạng: “Lần đầu tiên, cư dân trên mạng đón lễ Quốc khánh hoành tráng bằng cách đưa hình ảnh lá cờ Tổ quốc lên mạn trang trọng trên các blog (nhật ký cá nhân trên mạng) và trên avatar trong công cụ chat YM của mình trong ngày 2-9. Và ngày 3-9, tất cả đều đồng loạt thay vào đó là chân dung của Bác Hồ”.

Chuyện thứ hai : lăng ông Hồ Chí Minh :


Tôi đã có dịp gặp gỡ trên mạng với bạn đọc của DCVOnline gần đây qua bài Tản mạn vể xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội, đăng ngày 31/08/2006 (với hàng chục ý kiến khác nhau). Cũng dịp công tác này, tôi tranh thủ được một thời gian ngắn để ghé thăm lăng ông Hồ với mục đích tìm hiểu xem thái độ, tình cảm của người dân Việt Nam và nhất là người dân Hà Nội đối với ông Hồ ra sao. Điều làm tôi thật bất ngờ là có rất nhiều cá nhân đến viếng thăm lăng ông, các đoàn viếng lăng vào ra tấp nập. Để vào thăm lăng của ông tôi được một anh bảo vệ cầm loa phóng thanh bắt phải đứng xếp vào hai hàng dọc, một đặc trưng của xã hội chủ nghĩa, rồi theo đó vào lăng.Quả thật tôi cảm nhận được sự trang nghiêm của lăng mộ ông Hồ và cả sự sùng bái của những người dân bình thường viếng thăm lăng. Một cách tự động, tất cả mọi người đều kính cẩn, nghiêm trang khi đi ngang qua xác ông được đặt trong một cái hòm rất rộng, bốn bên là kính trong suốt. Trông ông không giống như những bức hình chụp mà tôi từng thấy, khuôn mặt trông vẫn còn rất tươi tắn hồng hào nhưng trông giả chứ không thật, có lẽ bị đánh sáp.

Báo chí Việt Nam sáng 4/9/2006 đều đồng loạt đăng tin về việc có hàng vạn người đến viếng thăm lăng ông Hồ. Báo Tuổi Trẻ viết: “Sáng 2/9, đoàn người vào lăng viếng Bác dài ra tận hai phía trên phố Ngọc Hà và Hùng Vương. Đông nhất là các đoàn học sinh và người già từ các tỉnh Thái Nguyên, Hà Tây. Còn có rất nhiều đoàn đến từ tỉnh xa như Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Trị, Bình Phước... Có nhiều người nước ngoài cũng đứng trong đoàn người từng bước vào lăng. Khu vực quảng trường trước lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nào cũng đông kín người”.

Một thông tin đáng chú ý đó là thiếu tướng Đào Hữu Nghĩa, trưởng Ban quản lý lăng kiêm tư lệnh Bộ tư lệnh bảo vệ lăng ông Hồ cho biết đến hết buổi viếng ngày 2/9 chỉ khoảng 25.000 lượt người được vào viếng lăng ông, số còn lại đành phải chờ đến hôm sau. Tôi tin rằng con số trên rất thật bởi vì tôi đã được tận mắt chứng kiến dòng người xếp hàng dài vào viếng lăng ông Hồ, không nhất thiết phải do cơ quan hay các hội đoàn tổ chức.

Duiker cũng viết, trang 566: “Mỗi tuần có hơn 15000 người đến viếng thăm Lăng ông Hồ” (More than 15000 visit the mausoleum each week)

Tại sao ngày nay người dân Việt Nam vẫn còn kính ngưỡng ông Hồ Chí Minh, tuy rằng trên diễn đàn truyền thông hải ngoại có cả một chiến dịch để xóa bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh”? 
Lý do rất dễ hiểu là phần lớn những điều viết về ông Hồ của giới chống Cộng là sai lầm, là vô căn cứ, bắt nguồn từ lòng thù hận một chiều của những người gọi là Quốc Gia, chứ không đặt trên những sự thật và sự kiện lịch sử. Thật vậy, những người chống Cộng cực đoan như Minh Võ chỉ nhìn thấy những điều lặt vặt như chúng ta thấy trong bài ông ta phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Để có thể thêm vài chi tiết về ông Hồ Chí Minh, có lẽ tôi cũng nên điểm qua bài phê bình Duiker của Minh Võ.



PHẦN 2

Trên website Đàn Chim Việt, Minh Võ có viết bài phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Sau đó Minh Võ còn “đọc lại Trần Dân Tiên” và đưa ra một số ý kiến. Đọc hai bài này, chúng ta thấy rõ trình độ của ông Minh Võ không thể gọi là trình độ, kiến thức của Minh Võ không thể gọi là kiến thức. Tôi không có ý định phê bình chi tiết hai bài trên của ông Minh Võ, chỉ duyệt qua vài điểm, cùng trình bày vài ý kiến của độc giả về ông Minh Võ để chúng ta thấy rõ Minh Võ thuộc loại người nào.

Trước đây, trên trang nhà Giao Điểm, Hà Giang đã có bài nhận định về cuốn “Ho Chi Minh” của Duiker, viết đứng đắn và nghiêm chỉnh hơn ông Minh Võ rất nhiều.

Link: http://www.giaodiem.com/doithoaiII/Hagiang_hcm.htm

Trước hết, Lê Duy Khoa trên Đàn Chim Việt đã vạch ra rằng ông Minh Võ đã áp dụng bậy bạ tam đoạn luận để phỉ báng ông Hồ như sau:

a) Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx là sai lầm, dối trá, tàn ác, phản nhân đạo, phản dân tộc.

[TCN = Đây là một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite). Cũng như Trần Mạnh Hảo, ông Minh Võ, không hiểu gì về Marx mà cứ viết bậy về Marx. Thế giới ngày nay đánh giá Marx như thế nào? Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?.

1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential philosophical thinkers, nominated by the In Our Time audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7.

2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (www.unserebesten.zdf.de). Lạ nhỉ, cả thế giới trí thức này mù và ngu cả hay sao mà không nhìn và đánh giá Marx như ông Minh Võ? ]

b) Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa cộng sản [Không ai phủ nhận điều này]

c) Kết luận: không thể coi HCM là nhân đạo, yêu nước, anh hùng mà phải coi ông ta là tội đồ ác ôn của đất nước.

Chúng ta thấy ngay, ông Minh Võ đã dựa trên sự hoàn toàn sai lầm của mình trong vế a) để đưa đến một kết luận tất nhiên cũng hoàn toàn sai lầm trong vế c). Nhưng không phải chỉ có vậy. Đọc Minh Võ, chúng ta thấy rõ qua giọng văn một sự thù hận ngất trời và phản ánh một trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình. Đối với tôi, Minh Võ không phải là người đáng để tôi phê bình về những “tác phẩm” của ông ấy, tôi để dành điều này cho một số độc giả trên Đàn Chim Việt trong phần trích dẫn ở cuối bài. Ở đây tôi chỉ muốn nêu ra một lý luận rất ngớ ngẩn nếu không muốn nói là ngu xuẩn của ông Minh Võ khi phê bình đoạn sau đây của Duiker.

“Bất kể cuối cùng người đời phán xét về di sản của ông [Hồ] để lại cho dân tộc mình ra sao, ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ.”

Vì Nhà Nước VN muốn dịch cuốn “Hồ Chí Minh” của Duiker nhưng muốn bỏ đi những đoạn nói về đời tư của ông Hồ, nên ông Minh Võ phê bình như sau: “Hồ Chí Minh đã tạo ra cái di sản ngăn cấm ngay tiếng nói của một sử gia [Duiker] thì có thể là bậc anh hùng đã đấu tranh mạnh mẽ cho tiếng nói đích thực của những kẻ cùng khổ được cất lên chăng?”

Thứ nhất ông Minh Võ không hiểu thế nào là di sản. Thứ nhì, cái di sản ông Hồ để lại cho dân tộc là nền độc lập quốc gia sau khi cất bỏ được chế độ thuộc địa của thực dân Pháp trên đất nước, và tiếp nối bởi chính ông và những người sau ông trong việc thành công đi đến sự thống nhất đất nước. Di sản đó tuyệt đối không phải là chính sách luôn luôn thay đổi của Nhà Nước và lẽ dĩ nhiên không phải là yêu cầu của Nhà Xuất Bản Chính Trị Việt Nam đối với Nhà Xuất Bản Hyperion ở New York như chúng ta thấy trong tài liệu sau đây trên Internet:

“Trong một bức thư cho nhà Xuất Bản Sách Hyperion ở New York, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia của chính quyền (VN) đã nói rằng họ chỉ muốn bỏ đi vài đoạn trong cuốn sách của Duiker “không phù hợp với những thông tin trong hồ sơ của họ.” (In a letter to New York publisher Hyperion Books, the state-run National Politics Publishing House has said only that it wants to remove certain passages from the Duiker biography that "do not conform with the information in our files".)

Đây có phải là một hành động ngăn cấm hay không hay chỉ là một đề nghị thương thuyết? Đầu óc như vậy mà ông Minh Võ muốn làm việc đội đá vá trời là xóa bỏ thần tượng Hồ Chí Minh thì đúng là sự mơ tưởng hão huyền của những kẻ cuồng tín vô minh.

Một nhận định khác có tính cách phóng đại rất lố bịch của ông Minh Võ về cuộc cải cách ruộng đất như sau:

“Thời ông HCM cũng thế nếu ông ấy tôn trọng Hiến pháp sao ông lại làm cải cách ruộng đất giết chết hơn nửa triệu người.?”

Ông lấy con số “hơn nửa triệu” này ở đâu ra? Chắc chắn là ông chưa hề đọc đến những công cuộc khảo cứu rất sâu rộng về Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam: Mục đích, kết quả, số nạn nhân v..v.. của Gareth Porter, Edwin E. Moise, Noam Chomsky và Edward S. Herman. Rất có thể ông chỉ tin vào con số đoán mò của Hoàng Văn Chí, người đã thú nhận là con số nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất chỉ là đoán mò sau khi bị Gareth Porter công khai vạch ra những sự giả mạo trong tài liệu của Chí [Chi eventually conceded that his number of victims of the land reforms to be merely a “guess” (The Washington Post, 13 September, 1972). This admission came after Porter had made Chi’s falsification public.] Thật là đẹp mặt cho Hoàng Văn Chí và cho cả Minh Võ.

Theo những tài liệu của Noam Chomsky và Edward S. Herman cũng như của Gareth Porter và Edwin E. Moise thì Hoàng Văn Chí vốn là một địa chủ ở ngoài Bắc, sau đó làm cho Bộ Thông Tin của Chính Quyền miền Nam, rồi làm việc cho CIA và làm thông dịch viên cho Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ.

Trong bài “The Myth of the Bloodbath: North Vietnam’s Land reform Reconsidered” (Bulletin of Concerned Asian Scholars, September 1973, pp. 2-15), Gareth Porter đã vạch ra vài đoạn Hoàng Văn Chí dịch bậy bài thú nhận có sai lầm trong việc thi hành cải cách ruộng đất của Tướng Võ Nguyên Giáp với mục đích giúp quan thầy Mỹ và miền Nam tuyên truyền xuyên tạc, thí dụ :

“Chúng ta không chú trọng đề phòng lệch lạc” đáng lẽ phải dịch là “We did not pay attention to precautions against deviation” thì Hoàng Văn Chí dịch là “Chúng ta phạm phải quá nhiều lệch lạc” (We made too many deviations);
“Xử trí oan những người ngay” thay vì dịch là “the unjust disciplining of innocent people” thì Chí dịch là “hành quyết quá nhiều người lương thiện” (executed too many honest people);
“không nhấn mạnh phải thận trọng, tránh…” [did not emphasize the necessity for caution and for avoiding] thì Chí bỏ đi không dịch (omitted);
“dùng những biện pháp trấn áp quá đáng” [used excessive repressive measures] thì Chí dịch là “xử dụng đế khủng bố” (resorted to terror);
“thậm chí dùng phương pháp truy bức” [even coercive measures were used] thì Chí dịch là “tệ hơn nữa, tra tấn” (worse still, torture) v..v..
và còn thêm thắt vào những đoạn không có trong bản văn như “nhìn thấy kẻ thù khắp nơi” (seeing enemies everywhere) mà Gareth Porter không tìm thấy trong bản gốc (not in original).

Noam Chomsky và Edward S. Herman còn vạch ra rằng, trong những cuộc phỏng vấn vào năm 1955, Hoàng Văn Chí không hề nói gì đến cuộc cải cách ruộng đất và con số những nạn nhân. Chỉ trong vài năm sau, sau khi Mỹ và Saigon biết đến những vấn đề trong cuộc cải cách ruộng đất từ những cuộc thảo luận trên báo chí ở Hà Nội mà Moise cho là “thẳng thắn kỳ lạ trong sự thảo luận những sai lầm và thất bại” (sometimes extraordinarily candid in discussing errors and failures”, Chí mới “nhớ lại” những điều viết trong tài liệu của mình.


Noam Chomsky và Edward S. Herman viết trong cuốn The Political Economy of Human Rights, Vol. I,South End Press, Boston, 1979, trang 342:


“Nguồn thông tin căn bản về những con số giết chóc lớn trong cuộc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt là từ những người của CIA hoặc Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Việt Công giáo nay sống ở Pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Chỉ Huy Cơ Quan Chiến Tranh Tâm Lý Trung Ương của quân đội Saigon từ 1956 đến 1962, số nạn nhân bị “tắm máu” trong cuộc cải cách ruộng đất là “100% dựng lên” bởi cơ quan tình báo Saigon. Theo Trung Tá Châu, một chiến dịch có hệ thống dùng các tài liệu ngụy tạo để bôi nhọ đối phương được thi hành vào giữa thập niên 1950 để biện minh cho sự kiện là Diệm từ chối không thương thuyết với Hanoi trong việc sửa soạn tổ chức cuộc bầu cử để thống nhất đất nước quy định vào năm 1956.” (The basic sources for the larger estimates of killings in the North Vietnamese land reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon Propaganda Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living in France, Colonel Nguyen Van Chau, head of the Central Psychological War Service for the Saigon Army from 1956 to 1962, the “bloodbath” figures for the land reform were “100% fabricated” by the intelligence services of Saigon. According to Colonel Chau, a systematic campaign of vilification by the use of forged documents was carried out during the mid-1950s to justify Diem’s refusal to negotiate with Hanoi in preparation for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956)


Giáo sư sử học James P. Harrison cũng viết trong cuốn The Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press, 1989, trang 149:


“Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là con số những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một tác giả, hoặc có thể lên tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu hết những con số tuyên truyền của Saigon về vấn đề này là những con số phóng đại nếu không phải là hoàn toàn dựng đứng.”(Careful later studies, however, have estimated that the true figures for those executed in the noerthern land reform may have been more like 1500 plus 1500 jailed according to one, or possibly up to 15000 killed according to another, and therefore that most of Saigon’s propaganda on the subject was exaggerated if not a “total fabrication”.)

Giáo sư Pierre Brocheux viết trong bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” , trang 34:


“Đối với Hồ Chí Minh, tập thể hóa đất đai là sự bảo đảm phân chia đồng đều tài sản. Nhưng ông ta tố cáo sự dùng những hành phạt thể xác đối với các địa chủ và các nông dân giàu có và yêu cầu thi hành một chương trình sửa sai những sự bất công và phục hồi những sở hữu của nông dân thuộc quyền của họ (1956). Nhưng ông ta phải nhượng bộ trước đa số trong Đảng. Chiến dịch cải cách ruộng đất làm cho ít nhất là 15000 người chết.” (Pour Ho Chi Minh, la collectivisation des campagnes est la garantie d’une répartition égalitaire des resources. Mais il dénonce l’utilisation des peines corporelles contre les “propriétaires fonciers et riches paysans” et demande une programme de correction des injustices et la restauration des paysans propriétaires dans leurs possessions et leurs droits (1956). Il s’incline pourtant devant la majorité du Parti. La réforme agraire côutera la vie à 15000 personnes au moins.)

Về con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ, chúng ta có thể đối chiếu với một số tài liệu khác:

Của Gareth Porter: từ 800 đến 2500;
của Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5000 và chắc chắn trong khoảng từ 3000 đến 15000;
của Trương Như Tảng, David Chanoff và Đoàn Văn Toại trong cuốn “A Viet Cong Memoir”: nhiều ngàn (thousands);
của Bùi Tín trong Mặt Thật: “lên tới mười mấy ngàn”;
của Vũ Thư Hiên: từ 4000 đến 5000.

Chúng ta không thể biết chính xác con số bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng xét đến số làng mạc, ruộng đất ở ngoài Bắc, số địa chủ thực sự, số nông dân nghèo khổ phải thuê đất [một số của Nhà Chung] để cầy cấy v..v.. thì con số “hơn nửa triệu” của ông Minh Võ là con số chỉ có trong đầu của ông Minh Võ.

Trên diễn đàn Đông Dương Thời Báo, tháng 5, 2006, chúng ta có thể đọc một đoạn về cải cách ruộng đất của chủ biên người Công Giáo, Giu-se Phạm Hữu Tạo, như sau:

Thật vậy, Hồ Chí Minh thực hiện cải cách ruộng đất, muốn lấy lại đất mà không phải giết nhiều người, vì lúc đó các địa chủ có tiền bạc tài sản, chạy thoát trước về vùng Pháp chiếm đóng… Cải cách ruộng đất là việc phải làm ở trong Nam cũng như ngoài Bắc. Phải lấy lại đất của Pháp, của nhà Chung để chia cho cán bộ và nông dân có sức lực và siêng năng cần cù mà không có đất để sống và cày bừa và hy sinh cho cách mạng quyết dành chủ quyền - độc lập - thống nhất đất nước … Chính sách cải cách ruộng đất đương nhiên là đụng đến Giáo hội và giáo dân Công giáo Việt gian, cho nên chúng ta không lạ gì tại sao người Công giáo căm thù CSVN và ngụy tạo bôi đen chính sách Cải Cách Ruộng Đất.

Hiện tượng Minh Võ thì hầu như ai cũng biết về ý đồ và trình độ của ông ta như thế nào. Để quảng cáo cho cái ý đồ này, ông ấy nhờ một người quen biết trẻ hơn, có cùng trình độ như ông ấy, lên tiếng quảng cáo cho cuốn Hồ Chí Minh: Một Nhận Định Tổng Hợp của ông ấy trong buổi ra mắt sách. Đó là ông Huỳnh Lương Thiện. Nhưng đọc Huỳnh Lương Thiện chúng ta thấy rõ là trình độ của ông ấy cũng chẳng hơn Minh Võ là bao nhiêu. Chứng minh?

Ông Huỳnh Lương Thiện phát ngôn:

Tôi nghĩ rằng tôi chỉ đáng em hay con của rất nhiều vị ngồi trong phòng này mà thôi. Thế mà quý vị có thể tưởng tượng là có kẻ khi tuổi còn nhỏ hơn, chỉ đáng em của tôi thôi mà đã dám xưng là bác với cả nước chúng ta. Quý vị biết đó là ai không? Hồ Chí Minh. Vâng, cám ơn quý vị đã cho biết kẻ đã dám xưng bác với cả nước là Hồ Chí Minh, tôi cũng biết điều đó. Tuy nhiên phải đến khi đọc cuốn sách này của bác Minh Võ thì tôi mới biết thêm là họ Hồ đã dám xưng bác với cả nước khi chỉ mới 55 tuổi, bằng tuổi cô em gái tôi.

Thưa quý vị, tôi tuổi Canh Dần, 56, 57 tuổi rồi và đó là một trong hàng chục, hàng trăm dữ kiện độc đáo, đặc biệt mà tôi đã tìm thấy trong cuốn sách này.

Như vậy là ông Huỳnh Lương Thiện sinh khoảng năm 1949-1950, tất nhiên đích thân không biết gì về ông Hồ Chí Minh mà chỉ biết qua những sự kiện mà ông ấy cho là độc đáo trong cuốn sách của Minh Võ. Rõ ràng là, dựa vào điều viết bậy của Minh Võ trong cuốn sách của ông ấy, Huỳnh Lương Thiện đã phát ngôn bậy như trên. Nhưng dữ kiện trên có thật là độc đáo không? Rất có thể là độc đáo ở chỗ đã để lộ cái trình độ vô cùng thấp kém của mình về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam.

Thứ nhất, từ “Bác” mà ông Hồ Chí Minh dùng chỉ để nói với các “cháu nhỏ” trong vòng thân tình như người trong một nhà. Bác, nguyên nghĩa là anh của Bố hoặc Mẹ, và người Việt Nam thường dùng tiếng “Bác” để gọi thay con. Tiếng Bác cũng còn được dùng giữa các bạn bè cao tuổi dù rằng người bạn kém tuổi mình “Nguyễn Khuyến: Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác (Dương Khuê)”. Ông Hồ có thói quen là bất chợt đi thăm các em nhỏ trong trường học và nói những chuyện “Bác cháu ta”. Chưa ai thấy ông Hồ xưng là Bác với cả nước như ông Huỳnh Lương Thiện đã nói bậy dựa theo lời viết bậy của Minh Võ bao giờ. Người dân Việt Nam gọi ông Hồ là “Bác” nghĩa là coi ông như là bậc trưởng thượng thân tình của các con cháu trong nhà. Các ông chống Cộng mà chẳng biết gì về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hãy đọc Peter A. DeCaro ở Buena Vista University viết về ông Hồ Chí Minh (acjournal.org):


“Chức “Bác” của ông Hồ phải được hiểu trong ngữ cảnh của nền văn hóa Trung Hoa trong đó người cao tuổi hơn được đặc biệt tôn kính. Bác (big uncle) là từ dùng để chỉ người anh của Bố hoặc Mẹ, người em nhỏ tuổi hơn gọi là “Chú”. Thật là tự nhiên khi người dân gọi [ông Hồ] là “Bác Hồ” vì những đồng nghiệp của ông ta thuộc một thế hệ trẻ hơn. Do đó Bác là một từ thân thuộc và những người Cộng Sản ở miền Bắc thường đưa ra sự kiện là mọi gia đình đều coi Bác Hồ là một thành phần vinh dự của gia đình. Còn nữa, Bác đồng nghĩa với cách cư xử dân chủ: người Cha có thể ra lệnh, nhưng người Bác [hay Chú] chỉ có thể đưa ra những lời khuyên.”

(Ho’s title of “Bac” must be understood in the context of Chinese culture in which the eldest members of society enjoy especial veneration. Bac means “big uncle;” it is the term used to denote the elder brother of a father or mother while the younger brother is referred to as Chu, “little uncle.” It was only natural that people began to speak of Bac Ho because his closest colleagues already belonged to a younger generation. Bac is therefore a familiar term and the Communists in North Vietnam liked to point out that every family considered Bac Ho an honored member. In addition, Bac is synonymous with democratic conduct; the father can command, but the uncle only advises.)

Ông Minh Võ cũng như ông Huỳnh Lương Thiện hiển nhiên là những người không biết ngượng vì chính cái trình độ hiểu biết thấp kém của mình về xã hội Việt Nam so với một người ngoại quốc như Peter A. DeCaro. Nhưng, như đã nói ở trên, các ông thuộc lớp người chỉ viết bậy, cốt hả lòng thù hận, cho nên không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng đối với những người như các ông, tôi không nên phí thêm thời gian để phê bình nữa. Nhưng có điều các ông cần biết, là thủ đoạn và trình độ của các ông không thể qua mắt được lớp trẻ ngày nay.

Vậy sau đây, tôi xin nhường chỗ cho vài tiếng nói của lớp trẻ trên Đàn Chim Việt:

1) Tôi cho rằng chính vì không tự mình tìm hiểu vấn đề một cách chủ động, giống như ông bạn Lương Thiện đăng đàn ở trên, bạn đã rơì quá dễ dàng vào những thứ lý sự quá đơn giản của những nhà nghiên cứu nửa mùa kiểu Minh Võ. Bạn hãy thử đề nghị Minh Võ đem dịch cuốn sách của mình ra tiếng Mỹ để xem những học giả Mỹ nghĩ gì. Cam đoan với bạn không đáng một cái nhếch mép! Trong nghiên cứu, kết luận về vấn đề nêu ra không quan trọng bằng cái phương pháp nghiên cứu đã dẫn đến kết luận ấy, đó là điều căn bản. Xin bạn lưu ý: đây là một vấn đề sử học, một vần đề khoa học chứ không phải là chuyện biểu diễn diễn lập trường, hoặc tệ hơn nữa bộc lộ oán thù, phục hận.

2) Tôi chưa đọc cuốn sách "HCM, Nhận định tổng hợp" của Minh Võ nhưng đã "thử" đọc mấy bài viết của Minh Võ trên DCV Online, và chưa lần nào "tiêu hóa" nổi trọn vẹn một bài của Minh Võ. Không thể "tiêu hóa" nổi vì giọng văn của Minh Võ đầy hằn học và hận thù; người đọc (ngay cả lớp trẻ) có thể dễ dàng nhận thấy đó là giọng văn của một loser. Không thể "tiêu hóa" nổi vì những phân tích và nhận định của Minh Võ chẳng dựa trên phương pháp luận khoa học và những tài liệu lịch sử nào. Còn những bài viết của HCM để tuyên truyền, kêu gọi người dân đứng lên giành độc lập cho đất nước là những nghệ thuật vĩ đại; nó sánh như Nguyễn Trãi khi bôi mỡ vào lá cây cho kiến ăn để tạo ra dòng chữ "Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi", hoặc là truyền thuyết về anh em vua Quang Trung thuần phục được ngựa thần trên núi.

Sách của Minh võ là tiểu thuyết để giải trí ư? Không đáng; là sách lịch sử ư? Không phải. Có thư viện nào người ta mua và lưu trữ sách của Minh Võ không? Không có. Cái ông Lương Thiện gì đó chẳng lương thiện tí nào đang quảng cáo sách cho Minh Võ đó; và cũng nhân cái diễn đàn này ông ta gài thêm mấy khẩu hiệu chống cộng cũ rích - cũng là giọng hằn học của một loser.

3) Anh Lương Thiện và Minh Võ đã lấy cái định kiến ác ý cuả chính mình, hội đoàn mình để chủ trương bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh- Một nhân vật vĩ đại, kiệt xuất số một; Vô tiền, khoáng hậu trong lịch sử VN và nhân loại. Đó là những lời vu khống; Lập lờ đánh lận con đen; Câu chữ cắt xén, biạ đặt một cách có chủ ý, có kế hoạch hòng làm lu mờ thần tượng vĩ đại của dân tộc ta.

Những người có thiện ý, thiện tâm... Thường có con mắt bao dung, độ lượng, nhìn vào mặt sáng, khai thác mặt sáng - Mặt tích cực. Công đức và thành tựu mà các vị giáo chủ hay vĩ nhân đó đã làm được cho dân, cho nước và nhân loại. Còn kẻ tiểu nhân đã mang sẵn định kiến hận thù thì sẽ làm ngược lại. Họ cũng biện chứng, dẫn chứng, có lang, có lớp như ai.. Nhưng đó chỉ là cách ngụy biện rẻ tiền. Chỉ cần chú ý đôi chút là ta sẽ nhìn rõ chân tướng chúng.

4) Rêu rao là người hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản nhưng kiến thức của Minh Võ về vấn đề này chỉ là một con số không to tướng. 1) MV đã sai lầm hoàn toàn khi đồng hoá Marx với Đệ tam Quốc tế của Lenin. Học thuyết Marx là sản phẩm của xã hội tư bản phương Tây thế kỷ 19 trong khi đó ĐTQT là phản ứng của những nước ngoại vi với các nước giàu đã trở thành thực dân, đế quốc. 2) MV chỉ biết Marx qua Tuyên ngôn cộng sản 1848, không đếm xỉa gì đến những tác phẩm khác của Marx. Ngay cả với Tuyên ngôn này, MV cũng chỉ bám vào những từ ngữ tách rời khỏi hệ thống lý luận mà Marx đã mang ý nghĩa cho chúng (tư hữu, vô sản, quốc tế vô sản, chuyên chính…). 3) MV không hiểu biết gì về những mâu thuẫn thực tế của lịch sử hiện đại – giữa các quốc gia (giàu/giàu, giàu/nghèo, thực dân/bị trị, phát triển/chậm tiến…) , giữa các ý thức hệ (chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, cộng sản, phát xít…) do đó đã trút tất cả vào mâu thuẫn cộng sản/ chống cộng sản một cách máy móc. 3) Riêng với những nước bị thực dân thống trị vấn đề cướp nước và chống cướp nước đã bị MV đầy lùi về phía sau một cách cố ý rồi mượn luận điệu của thực dân đồng hoá cộng sản với khủng bố, nổi loạn để biện hộ cho tội cướp nước của chúng. Bị cộng sản kết cho cái tội “Việt gian” không có gì là oan cả.

5) Phương pháp gọi là “nghiên cứu” của MV cũng hoàn toàn phản khoa học. Ông ta không tìm hiểu thực tế và những phát sinh và chuyển động của nó để rút ra kết luận mà ngược lại: gán cho cộng sản một số thuộc tính chết cứng rồi từ đó kết án tất cả những biểu hiện khác nhau trong thời gian của phong trào cộng sản (bất chấp những nội dung khác nhau, mâu thuẫn trong phong trào ấy). Trong tranh luận, nghiên cứu người ta gọi phương pháp ấy là procès d’intention, không cần tìm hiểu, phân tích xem sự thực như thế nào mà chỉ cần quy kết theo thiên kiến của mình là đủ. Ai cũng biết đó là phương pháp suy luận của những đàn bà hay ghen (nhìn đâu cũng thấy những kẻ cướp chồng minh), những kẻ bị bệnh tâm thần ( nhìn đâu cũng thấy kẻ hại mình). Chẳng có gì khoa học, học thuật ở đây cả. Lý luận của MV rất phù hợp với cộng đồng những người có thâm thù với cộng sản: họ không còn đủ sáng suốt để nhìn ra đúng sai trong chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa cộng sản có rất nhiều cái sai) như một hiện tượng lịch sử, từ lý thuyết đến thực hành, cũng không đủ lý trí để nhìn ra ngay cả những đúng sai trong bản thân những thất bại nhục nhã, đau đớn của họ nữa. Đối với những con người như vậy, họ chỉ cần đổ lỗi để biện minh, chỉ cần bôi bác, nguyền rủa để trả hận là đủ. Thứ lý luận của MV chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi.

6) Thực ra thì "Nhận định tổng hợp ", hay không tổng hợp thì người ta cũng biết rõ: Hằn học, chửi rủa thoá mạ một nhân vật lịch sử của VN như cố chủ tịch HCM là những người như thế nào ! Có rất nhiều gương mặt khác nhau dưới đủ mọi chiêu bài. Rất may, qua đó người ta càng hiểu hơn thế nào là tính chân xác của lịch sử. Sẽ chẳng có người VN tỉnh táo nào lại lên án Vua Lê Lợi, khi chỉ vì quyền lợi quốc gia mà đem vợ mình cúng sống thần biển. ( bây giờ việc làm đó là thất đức và nặng mùi mê tín ) Nhưng mỗi người dân VN, đều công nhận Lê Lợi, đó là một vị Vua có công đánh đuổi ngoại xâm, lập nên nhà Lê dài hơn 300 năm. Chắc chắn, thời buổi của ông không có máy tính, để bị lên án và vạch trần nhiều thủ đoạ, mà tất cả vì đất nước v.v. Trong công cuộc xây dựng, mở nước, và giữ nước, chưa có ông Vua VN nào chuyên viết thỉnh nguyện thư gởi cho kẻ thù, để mong được kẻ thù thương mà trả nước. Tất cả các chiến công lẫy lừng như Bạch Đằng giang dậy sóng, hay trận Chi lăng ghi sử sách, chẳng viết bằng máu của dân VN đó sao? Chẳng lẽ trận Rạch gầm, Xoài mút được viết bằng máu của người Miên hay Lào ? Đó là máu của người VN đã đổ cho đất nước hôm nay. Dù muốn nói gì và nói sao chăng nữa thì lịch sử đã chứng minh: Pháp đô hộ Việt nam, Mỹ muốn cứu đồng minh và Người Nhật đã làm cho hai triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta chết đói. Biết đâu trong chúng ta, có những người là con cháu của những người may mắn nhờ có Việt minh phá kho thóc của Nhật.

7) Dù nói gì đi chăng nữa, thì một dân tộc với mã tấu răng đen như các anh vẫn gọi, thế mà trong một thế kỷ đánh gục đầu ba nước to lớn. Thử hỏi trong lịch sử từ cổ chí kim của nhân loại hỏi ai đã làm được như thế ? Người làm được chuyện đó ngoài HCM thì còn có ai ? Chẳng lẽ Ngô chí sỹ chăng hay Cựu hoàng Bảo đại ? Tui biết trong thân tâm cũa người ngoại quốc, nhất là với người Mỹ, người Pháp và nhiều người dân thuộc các nước nhược tiểu khác, trong con mắt của họ: HCM là nhà tổ chức kỳ tài! Nếu không đủ đức đủ tài, mà như tui và các anh chẳng hạn, thì làm sao làm được những việc kinh thiên động địa trên. Như chính chủ tịch HCM, công nhận hễ là con người thì ai cũng có khuyết điểm, trên con đường kiến tạo đất nước và giữ nước, Đảng CS VN không khỏi tránh những sai lầm.. Nhưng dù sai lầm đến như thế nào thì cái chính là nền độc lập tự chủ của VN đã được tạo dựng. Còn xây dựng nó như thế nào thì VN đang dần bước lên những nấc thang mà tiền nhân vẫn mong đợi là xây dựng đất nước bằng mười bằng trăm thế kỷ 20 ? Bạn có mơ và tin điều đó không ? Tui rất tin điều đó, bởi đó là bước đi tất yếu mà chẳng có ai ngăn được bước đi lên của dân tộc VN chúng ta.! Vì vậy Hồ chí Minh luôn là ngọn cờ soi dọi mỗi bước ta đi lên phiá trước !

8) Họ chụp mũ chúng ta là CS, chúng ta chỉ cười thầm vì bạn bè lớn nhỏ của chúng ta cũng đang sinh hoạt trên diễn đàn này, và tất nhiên bạn bè của chúng ta biết chúng ta hơn ai hết. Họ chửi chúng ta là tay sai, nhưng họ không có thể đem ra một bằng chứng nào cả. Chúng ta, vì tình người, đề nghị họ đọc một số sách vỡ lòng để họ còn biết tôn giáo họ như thế nào, nhưng họ không dám đọc vì sợ "bức xúc" trong lòng. Thế thì còn căn bản nào để nói cho nhau nghe? Thế thì còn căn bản nào để trở lại một con người chân chánh? Tôi coi ông Karl Marx là một triết gia như bao nhiêu triết gia khác, nhưng họ không chịu ông Karl Marx là một triết gia, mà xem ông Karl Marx là một ông "kẹ" hạng nhất trên đời này. Triết lý của Karl Marx được dạy khấp nơi trên thế giới ngay cả bật trung học, nhưng họ quả quyết rằng chỉ có những quốc gia CS mới dạy triết lý của Karl Marx! Rất buồn, là cùng một giống người, nhưng mà hể có "thánh đạo" thì hung hãn như một con chó, chỉ biết ăn rồi sủa chứ chẳng biết lý luận gì cả, còn người không có "thánh đạo" thì hiền từ.

9) Theo ông Minh Võ thì cản trở cho công cuộc vận động dân chủ tại VN là do dân chúng vẫn còn hiểu sai về Hồ Chí Minh cho nên cần phải đánh đổ thần tượng Hồ mà bấy lâu nay đảng cọng sản xây dựng nên. Đây là một công việc vô bổ vì chẳng làm cho uy tín của ông Hồ suy giảm đối với người dân hai miền Nam Bắc. Gần một triệu người miền Bắc mà đa số là công giáo di cư, sai lầm của cải cách ruộng đất, vụ nhân văn giai phẩm, tết Mậu thân vẫn không ngăn cản được Việt cọng thực hiện được thống nhất đất nước. Chắc chắn rằng khi quân Mỹ đem một đội quân đông tới hơn 500000 người, chưa kể thêm những đội quân đồng minh thì những người như ông Minh Võ lúc ấy ở Sài gòn đều nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng . Vậy thì sức mạnh của Viêt cọng là ở chỗ nào nếu không nói là lòng dân. Họ tin tưởng ông Hồ vì đơn giản ông Hồ và người dân có cùng chung một mục tiêu là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Chẳng có bao nhiêu bộ đội đọc nhiều sách như ông Minh Võ để hiểu về lý thuyết này lịch sử nọ. Họ cũng chẳng chiến đấu vì một thần tượng, lý do là năm 1969 ông Hồ mất, Việt cọng vẫn tiếp tục sự nghiệp của dân tộc. Vì vậy phân tích nguyên nhân không phát triển của tình hình hiện là do VN còn tín nhiệm ông Hồ. Điều này không đúng. Cần phải nhận định cho đúng đâu là nguyện vọng của người dân hiện tại để có khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, nếu không chỉ là Dã Tràng se cát...

10) Tôi, TCN, không còn trẻ, nhưng tôi rất mừng vì có những bạn trẻ đã đưa ra những nhận định chính xác và sáng suốt, dựa trên những sự kiện lịch sử chứ không dựa trên cảm tính phe phái. Đây là một niềm hi vọng cho đất nước Việt Nam.

Để kết luận, tôi xin trích dẫn hai tài liệu. Trước hết là đoạn kết trong cuốn Ho Chi Minh của Jules Archer, trang 189-190:


“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này. Không vị kỷ, can đảm, hiến thân cho nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá, ông ta đã vật nước Pháp phải khụyu đầu gối và chiến đấu chống Hoa Kỳ, một thế lực mạnh nhất thế giới, đưa đến một thế bí quân sự.

Sự cương quyết về một mục đích đã làm thay đổi giòng lịch sử, làm phân rẽ dư luận quần chúng ở Hoa Kỳ, bắt buộc một Tổng Thống Mỹ phải rút lui không tái cử cho nhiệm kỳ hai, khiến cho hàng triệu giới trẻ trên khắp thế giới kính ngưỡng ông ta ủng hộ cách mạng và xuống đường biểu tình ủng hộ ông ta, hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh”

Sự pha trộn duy nhất chủ nghĩa Mác-xít với chủ nghĩa gia trưởng, và chủ nghĩa quốc gia cao độ của ông Hồ đã thành công vĩ đại trong việc gây cảm hứng cho dân ông chịu đựng những sự hi sinh to lớn. Họ cũng còn kính yêu “Bác Hồ” vì nhân cách khiêm nhường và những cách cư xử từ ái của ông. Ông Hồ là sự thất vọng của những kẻ thù – Pháp, chế độ Sài gòn, và Mỹ - vì họ không thể nào làm cho người ta thù hận được ông. Ông ta được sự kính yêu của người trong Nam cũng như của những người ở ngoài Bắc.

Một trong những thành quả vĩ đại của ông là, cũng như Tito, ông đã đạt thành một “Cộng sản quốc gia”, giữ cho nước của ông ta ở ngoài những móng vuốt của cả Trung Hoa Đỏ và Liên Bang Sô Viết, trong khi ông ta khôn khéo đi hàng đôi để có được sự giúp đỡ mà nước ông cần đến. Khi ông ta mất, Việt Nam không phải là một nước chư hầu, mà là một nước độc lập đầy hãnh diện, cương quyết trên sự thiết lập cá tính quốc gia cho mọi người Việt Nam…

Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông coi như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”


(Communist or not, Ho Chi Minh will probably go down in history as a great Vietnamese patriot who was one of the extraordinary world figures of this century. Selfless, courageous, dedicated to Vietnamese independence at all costs, he wrestled France to her knees and fought the United States, the world’s mightiest power, to a military stalemate.

His single mind resolution changed the course of history, polarized public opinion in the United States, forced an American President to withdraw from seeking a second term, and radicalized millions of admiring youth around the world who demonstrated in his support chanting, “Ho, Ho, Ho Chi Minh”.

Ho’s unique mixture of Marxism, paternalism, and intense nationalism was enormously successful in inspiring tremendous sacrifice among his people. They also loved “Bac Ho” (Uncle Ho) for his winning personal modesty and gentle ways. Ho was the despair of all his enemies – the French, the Saigon regime, the Americans – because they were unable to muster hatred of him. He was held in as much affection in South Vietnam as among the people he led in the North.

Not the least of his great achievements was that he had, like Tito, achieve a “national Communism” which kept his country out of the grip of both Red China and the Soviet Union, while he skillfully played one off against the other to get the help his country needed. When he died, North Vietnam was no satellite but a proud, independent country, determined on nationhood for all Vietnamese…

When the books of his life are balanced, and peace is finally restored to the tragic land of Vietnam, Ho Chi Minh will always be known to the peasants who loved and followed him as the greatest Vietnamese in their history – the revere uncle of his country.)

Thứ đến là nhận định của một cựu quân nhân Mỹ, ông David Thomas, giáo sư nghệ thuật, đại học Boston, người đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh ảnh Hồ Chí Minh ở Oakland, California, và đã bị một số người Việt Quốc Gia đến hò hét chống đối, văng tục và hành hung. Trước cuộc triển lãm, ông Thomas đã tổ chức một cuộc thảo luận với một số người Việt Nam. Ông phàn nàn:“Họ không cho tôi nói, văng tục, chửi hết câu này đến câu khác” (They kept hurling insult after insult. I didn’t get a chance to speak.) Nhưng ông ta cương quyết không nhượng bộ (But he stands behind his work unflinchingly). Ý định của ông tổ chức cuộc triển lãm là để cho quần chúng tìm hiểu về “con người đã làm thay đổi bộ mặt lịch sử thế giới.” (I want viewers to question, investigate this man who changed world history). Về ông Hồ Chí Minh, Thomas nói:


“Tôi kính trọng tính chính trực của ông ta. Có vẻ như là ông ta chỉ có một nhiệm vụ trong đời, và đó là giải phóng Việt Nam ra khỏi người Pháp, và ông ta đã thành công. Hãy suy nghĩ về điều đó, một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam đã đánh bại một nước như nước Pháp và quay lại đánh bại chúng ta. Điều này chưa từng có trong lịch sử. Và tôi kinh ngạc bởi điều đó. Chúng ta phải ngưỡng mộ con người đã làm được như vậy.” (I respect his integrity,” Thomas adds. “He seemed to have one mission in his life, and that is to free Vietnam of the French, and he did it. Think about it, a little country like Vietnam beat a country like France and turned around and beat us. That has never been done in history. And I’m awed by that. You have to admire a man that did that.)

Hẳn nhiên Thomas đã nhìn sự việc trên bình diện to lớn của lịch sử hơn là những chuyện lặt vặt như ông Hồ có mấy vợ, hút bao nhiêu điếu thuốc lá một ngày, hay đã làm đơn xin học trường thuộc địa [Muốn học ở Pháp khi đó không xin học ở trường thuộc địa thì xin học ở trường nào, trường Nhà Dòng chăng. Nhưng có ai đọc kỹ câu này không: “Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’instruction”. Vậy rõ ràng mục đích của ông Hồ là muốn tăng thêm học vấn để phục vụ đồng bào. Pháp dùng chính sách ngu dân để cai trị, nhưng ông Hồ lại muốn “trở thành hữu ích cho Pháp” với mục đích dùng kiến thức của mình phục vụ đồng bào. Đọc về ông Hồ, chúng ta ta thấy rõ đó là mục đích chính của ông. Nên nhớ, khi vừa nắm được chính quyền, Việt Minh đã phát động phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ khắp nước. Vậy mà người ta lại thường viện vào cái đơn xin học này để chứng tỏ ông Hồ không phải là người yêu nước...]

Vài lời kết :

Tôi chưa từng có cơ hội đọc cuốn sách của Trần Dân Tiên, chỉ biết đến tên cuốn sách này qua bài ông Minh Võ đọc Trần Dân Tiên và viết trên Đàn Chim Việt: “Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công bố Trần Dân Tiên không phải người nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh.” Ông Minh Võ cho rằng các tác giả viết về ông Hồ Chí Minh trong khoảng 1948-1975 đều bị lừa bịp bởi cuốn sách của Trần Dân Tiên về ông Hồ, và kể ra vài tác giả quen thuộc: Bernard Fall, Jean Lacouture, David Halberstam.

Nhưng đọc mấy tác giả này, Bernard Fall: “Street Without Joy” (1964), “The Two Viet-Nams” (1967); Jean LaCouture: “Cinq Hommes Contre La France” (1961); Halberstam: “The Making Of A Quagmire” (1965) chúng ta thấy họ không hề nêu ra nguồn tài liệu nào về Ông Hồ là lấy từ cuốn sách của Trần Dân Tiên trong danh sách những tư liệu tham khảo. Và ngay cả trong hàng trăm cuốn sách trong đó có viết về ông Hồ sau năm 1975 cũng không có cuốn nào dùng tài liệu của Trần Dân Tiên.

Đúng như một bạn trẻ đã nhận định ở trên: “Thứ lý luận của Minh Võ chỉ có thể lừa được những tên chống cộng ngu dốt thôi”

Chúng ta hãy điểm qua vài “lý luận” của ông Minh Võ:

1) Nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì đó chỉ là kết quả của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn thậm chí cưỡng bách nhiều năm.

Thật vậy sao? Cưỡng bách tôn sùng? Điều này chỉ có thể thấy trong lịch sử Công Giáo qua những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo (Inquisition) và lịch sử truyền đạo qua chính sách thực dân. Nếu là cưỡng bách thì làm sao người dân có thể chiến thắng một cường quốc như Pháp rồi về sau lại đánh bại một cường quốc vào bậc nhất thế giới như Mỹ.

France Fitzgerald đã viết:


Một bài học mà hầu như bất cứ vị lãnh đạo quốc gia nào cũng có thể học được từ ông Hồ Chí Minh: đó là, nếu đi vào một cuộc chiến lâu dài thì phải có sự ủng hộ của người dân. Sự ủng hộ này quan trọng hơn vũ khí, vì nếu người dân tin vào chính nghĩa của họ, họ có thể chấp nhận những sự hi sinh phi thường. Nếu họ không tin, mọi vũ khí trở thành vô ích.” [Vietnam Reconsidered: Lessons From A War, p. 302: There’s a lesson that almost any leader in any country might learn from Ho Chi Minh, and that is, if you embark on a war of any duration, you must have the support of your people. This support is more important than weapons, for if people believe their cause is just, they are capable of extraordinary sacrifices. If they do not, all your weapons are useless.].

Fitzgerald đã viết không sai. Nếu không tin tưởng vào chính nghĩa, người dân Việt Nam không thể chịu bao hi sinh để thắng nổi những thế lực quân sự có ưu thế tuyệt đối về quân sự như Pháp và Mỹ trong hai cuộc chiến ở Đông Dương. Ai đã mang lại chính nghĩa đó, nếu không phải là ông Hồ.

2) Minh Võ viết: “6 năm sau cái thời điểm mà Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn dân coi là Cha già dân tộc, thực tế đã nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân đối với Hồ Chí Minh bằng sự trạng hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra đi, khi miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.”


Chẳng có ai, xin lỗi độc giả, viết bậy như Minh Võ. Minh Võ có biết là thành phần, không phải là hơn một triệu, mà là gần một triệu, của số người di cư từ Bắc vào Nam là như thế nào không. Hãy đọc Bernard Fall trong “The Two Viet-nams”, trang 154:


“Trong số 860000 người chạy vào Nam, 600000 người là tín đồ Công Giáo. Tuy 65% trên tổng số người Công giáo (ở ngoài Bắc) bỏ Bắc Việt Nam, hơn 99.5 % những người không Công Giáo ở lại.”

(Of the 860000 who fled South at this time, 600000 were Catholics. Although 65 percent of the total Catholic population left North Viet-Nam, more than 99.5 percent of the non-Catholics stayed put.)

Tại sao tỷ lệ những người Công Giáo chạy vào Nam lại cao như vậy? Fall giải thích:

“Những khẩu hiệu và truyền đơn tuyên truyền kêu gọi những tín đồ Công Giáo sùng tín là “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”; cho nên, toàn thể các xứ đạo – thí dụ như Bùi Chu và Phát Diệm – từ những ông giám mục cho đến hầu như ông linh mục cuối cùng trong làng và giáo dân đã gói ghém mọi đồ đạc [để đi theo Chúa và Đức Mẹ]”

(Propaganda slogans and leaflets appealed to the devout Catholics with such themes as “Christ has gone to the South” and the Virgin Mary has departed from the North”; and whole bishoprics – Bui Chu and Phat Diem, for example, packed up lock, stock, and barrel, from the bishops to almost the last village priest and faithful.)

Chúng ta cũng không nên quên rằng Bùi Chu, Phát Diệm là những khu “Công giáo tự trị”, đã nhận lãnh vũ khí của Pháp để chống Việt Minh. Vậy chính cái mặc cảm phản bội dân tộc cộng với trình độ quá thấp đến độ bị mấy tên xảo quyệt như Lansdale và “bề trên” tuyên truyền láo: “Chúa đã đi vào Nam” và “Đức Mẹ Mary đã bỏ miền Bắc”, một sự sự mê tín mà Linh Mục Trần Tam Tĩnh phải lắc đầu kêu trời trong cuốn “Thập Giá và Lưỡi Gươm” đã khiến cho số người Công Giáo trên di cư vào Nam. Phần còn lại là công chức, quân nhân trong quân đội liên hiệp Pháp. Còn tỷ lệ những người dân thường không đáng kể. Ông Minh Võ dốt sử nên không hiểu rằng cuộc di cư của số người Công Giáo này thực ra là có lợi cho chính quyền miền Bắc: có thêm ruộng đất để chia cho nông dân nghèo, và đỡ đi phần nào của mối lo về một số người thuộc một thế lực “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc.” ở lại miền Bắc.

Viết bài này, tôi không có ý biện hộ hay bênh vực ông Hồ Chí Minh trước cuộc “thánh chiến chống Cộng” ở hải ngoại, mà chỉ viết theo sự hiểu biết của mình qua sự tổng hợp một số tài liệu. Lịch sử đã rõ ràng, không ai cần đến tôi làm việc này. Nhưng thấy trình độ và những thủ đoạn hạ bệ ông Hồ, Minh Võ cũng như của một số đồng bọn ở đây thấp kém và ấu trĩ quá, mà lại cứ thích viết bậy, có những hành động làm nhục lây cả những người Quốc Gia như tôi, nên tôi buộc lòng phải viết lên vài điều để cảnh tỉnh những người muốn dùng những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử cho những mục đích chính trị của mình. Viết về ông Hồ, chúng ta không thể chỉ kể ra những chi tiết lặt vặt trong đời tư của ông mà phải nhìn vấn đề trên bình diện rộng hơn. Ít nhất là phải phân tích những hoạt động của ông ở ngoại quốc trước khi ông biết đến chủ thuyết Mác-Lênin, ở Hội Nghị Hòa Bình Versailles, ở các Hội Nghị Quốc Tế, phải đọc những bài ông Hồ Chí Minh, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, viết trên những tờ L’Humanité, La Vie Ouvrière, Le Paria v..v.., nội dung ra sao, ông đã thành lập và tổ chức Việt Minh từ bao giờ, để làm gì, đã có những hoạt động chống Nhật và Pháp như thế nào, và sau cùng, đường lối chính trị của ông sau 1945 cho đến khi ông qua đời v..v.. thì mới có thể đánh giá đúng ông Hồ được.

Vài lời cuối với ông Minh Võ và những người có ý định phá bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh” như ông Minh Võ: Cái di sản mà ông Hồ Chí Minh để lại cho người dân Việt Nam là một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là công của mình ông Hồ mà là của toàn dân, ít ra là của đại đa số người Việt đã coi ông Hồ như là biểu tượng truyền thống yêu nước của người Việt Nam, do đó đã không ngại mọi hi sinh để đạt thành. Nhưng quan trọng hơn là thế giới đã biết nhiều hơn về Việt Nam và không còn dám coi thường Việt Nam tuy Việt Nam vẫn còn là một nước tương đối nghèo và kém phát triển. Xin đừng có coi thường độc giả. Đừng có hi vọng họ tin tất cả những điều mình viết. Ngay cả giới trẻ ngày nay cũng sáng suốt lắm. Họ không để cho bị bịp bởi những luận điệu vô căn cứ, thuần túy viết theo thiên kiến và cảm tính đâu. Dù thế nào đi chăng nữa thì đối với thế giới và đại đa số người dân Việt Nam, đúng như Jules Archer đã viết:


“Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông, coi ông như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”

“Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này.”




TCN.

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

Quyền sống: những vấn đề pháp lý còn bỏ ngỏ



TS. Nguyễn Minh Tuấn

Trong thời gian tới, ở Việt Nam cần tiếp tục cụ thể hóa vấn đề quyền sống trong các văn bản pháp luật cụ thể, sao cho những qui định đó tương thích hơn với các chuẩn mực quốc tế, thể hiện xu thế bảo vệ con người và những giá trị cao nhất của con người.



Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đề cập đến quyền sống (right to life) với tính chất là một quyền riêng biệt tại Điều 19: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Nhưng nội dung, phạm vi của quyền sống và trách nhiệm của nhà nước đến đâu trong việc bảo vệ quyền sống của con người đến nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh luận.


Bảo vệ quyền sống từ thời điểm nào?
Quyền sống qui định trong Hiến pháp đặt ra nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo vệ sự sống của con người trong mọi trường hợp. Lời nói đầu của Công ước về quyền trẻ em năm 1989 nêu rõ “Trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.” Vậy “trước khi ra đời” tính từ khi nào? Hiện nay có ba luồng quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền sống bắt đầu từ thời điểm quá trình thụ tinh thành công (không phân biệt tự nhiên hay nhân tạo). Quan điểm thứ hai cho rằng quyền sống bắt đầu khi đã hình thành phôi thai (embryo). Quan điểm thứ ba cho rằng quyền sống bắt đầu từ khi đứa trẻ sinh ra và còn sống. Sở dĩ có nhiều quan điểm như vậy vì vấn đề này liên quan đến bài toán pháp lý: có cho phép hay không việc nạo phá thai (abortion). Pháp luật nhiều nước qui định người mẹ không có quyền loại bỏ quyền sống của thai nhi, việc nạo phá thai là bất hợp pháp, trừ một số trường hợp đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ tính mạng người mẹ. Ở Việt Nam, vấn đề này hiện đang có rất nhiều ý kiến tranh luận. Chúng tôi cho rằng nếu ủng hộ quyền sống, ủng hộ quan điểm cho rằng phôi thai cũng có quyền được sống, thì chắc chắn cần phải có những ràng buộc pháp lý chặt chẽ hơn để hạn chế việc nạo phá thai một cách tùy tiện như hiện nay ở Việt Nam.

Quyền được chết?
Có quan điểm cho rằng quyền sống không bao gồm quyền được chết. Nếu một cá nhân tự nguyện tước bỏ mạng sống của mình, nhà nước sẽ không can thiệp. Nghĩa vụ của nhà nước là bảo vệ quyền sống chứ không bảo vệ việc tự tước bỏ quyền sống. Nhưng vấn đề đặt ra là tự sát có nhiều loại. Trách nhiệm của nhà nước đến đâu trong trường hợp như: (1) cá nhân tự sát trước hoặc cùng thời điểm giết chết một hoặc nhiều người khác (tự sát giết người) hoặc tự sát nhằm tấn công các mục tiêu quân sự, chính trị (tự sát khủng bố); (2) khi thanh thiếu niên tự tử hàng loạt (tự sát tập thể); (3) tự sát để phản đối (tự thiêu, tuyệt thực); (4) tự sát để thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật; (5) tự sát để thoát khỏi bệnh hiểm nghèo…? Ở Việt Nam, những vấn đề pháp lý như thế cũng chưa được qui định thực sự rõ ràng trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật.

Về quyền được chết một cách nhẹ nhàng (hay còn gọi là quyền an tử - euthanasia), trên thế giới có nhiều nước đã hợp pháp hóa quyền này như Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Thụy Sĩ và cũng nhiều nước hợp pháp hóa hành vi hỗ trợ an tử với những bệnh nan y như Đức, Albania, Colombia, Nhật bản, Đan Mạch, Thụy Điển, Vương quốc Anh, và một số bang của Mỹ. Ở Việt Nam, đây vẫn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi và chưa được qui định trong bất kỳ văn bản pháp lý quan trọng nào. Thiết nghĩ, trong dịp sửa đổi Bộ luật dân sự sắp tới vấn đề này cần được nghiên cứu, trao đổi kĩ lưỡng để tạo cơ hội cho nhiều người đang chịu sự đau đớn kéo dài do bệnh tật hoặc tai nạn có thêm sự lựa chọn.

Duy trì hay bỏ hình phạt tử hình?
Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nêu rõ chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện. Như vậy luật pháp quốc tế không cấm các quốc gia sử dụng hình phạt tử hình (death penalty), nhưng khuyến khích hạn chế và hướng tới bãi bỏ hình phạt này.

Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành qui định hình phạt tử hình với 22/272 tội danh. Phạm vi áp dụng hình phạt này theo luật Việt Nam còn khá rộng so với các qui định của pháp luật quốc tế. Chúng tôi cho rằng không nên duy trì hình phạt tử hình vì những lý do sau: (1) Các cơ quan tư pháp sẽ không có khả năng khắc phục sai lầm, nếu người bị tử hình bị kết án oan; (2) Duy trì hình phạt tử hình sẽ không tạo ra điều kiện để giáo dục hay cải tạo người phạm tội. Hình phạt tử hình hướng tới ý nghĩa “trả thù” hơn là mong muốn thực thi công lý và bảo vệ con người thực sự; (3) Áp dụng hình phạt tử hình sẽ hạn chế việc mở rộng tìm kiếm chứng cứ xác định sự thật đích thực của vụ việc; (4) Tử hình không chỉ là việc tước đoạt mạng sống của người phạm tội, mà còn gây tổn thương cho người thân của họ; (5) Những người trực tiếp thực hiện lệnh thi hành án tử hình bị stress và ám ảnh trong thời gian dài; (6) Tử hình cũng không làm giảm những bất ổn trong xã hội mà có thể còn là mầm mống tạo ra sự chống đối và bất ổn xã hội; (7) Bỏ tử hình là một xu hướng chung. Trên thế giới hiện nay đã có 99 nước bãi bỏ hình phạt tử hình.

Có thể “nhân danh” lợi ích công cộng để tước đoạt quyền sống của người vô tội?

Giả sử máy bay dân sự đang có nhiều hành khách lại được kẻ khủng bố sử dụng là công cụ tấn công vào các mục tiêu quân sự, chính trị hay kinh tế. Liệu chính quyền có thể bắn thẳng vào máy bay đó để tự vệ không?

Ở CHLB Đức, cũng đã từng có những ý kiến khác nhau về vấn đề này. Điều 14 Khoản 3 Luật an toàn hàng không CHLB Đức năm 2005 cho phép công quyền được tấn công vào máy bay được sử dụng làm công cụ khủng bố. Qui định này đã gây ra sự phản đối mạnh mẽ từ công chúng. Vào ngày 15/2/2006, Tòa án Hiến pháp liên bang đã tuyên bố rằng điều khoản này trong Luật an toàn hàng không là vi hiến, vì vi phạm Câu 1 Khoản 2 Điều 2 về quyền sống và Điều 1 Khoản 1 Luật cơ bản Đức về bảo vệ phẩm giá con người (BverfG, NJW 2006, 751 ff.). Phán quyết của Tòa án hiến pháp liên bang Đức được sự ủng hộ của nhân dân Đức và cộng đồng quốc tế vì đã vượt ra khỏi cách quan niệm thông thường công quyền có thể nhân danh “lợi ích công cộng” để tước đoạt mạng sống của những con người vô tội, và phán quyết này cũng chứng tỏ vấn đề quyền con người đã thực sự được tôn trọng. Ở Việt Nam, vấn đề này cũng nên được thảo luận, trao đổi kĩ trong các văn bản pháp luật cụ thể hóa quyền sống trong Hiến pháp.
***

Quyền sống là quyền thiêng liêng, là đòi hỏi chính đáng của con người mà nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ. Quyền sống không giản đơn là bảo đảm sự tồn tại của con người, mà còn là đòi hỏi nhà nước phải chủ động bảo đảm cuộc sống an toàn và chất lượng cho con người. Tuy vậy, quyền sống không phải là quyền tuyệt đối (absolute right), một số trường hợp quyền này cũng có thể bị giới hạn, nhưng giới hạn nào cũng có những nguyên tắc, ràng buộc để không làm mất đi bản chất của quyền này. Trong thời gian tới, ở Việt Nam cần tiếp tục cụ thể hóa vấn đề quyền sống trong các văn bản pháp luật cụ thể, sao cho những qui định đó tương thích hơn với các chuẩn mực quốc tế, thể hiện xu thế bảo vệ con người và những giá trị cao nhất của con người.

Thoái trào của chính trị căn tính


Đỗ Anh

Thuật ngữ ‘chính trị căn tính’ (politics of identity) xuất hiện chính thức vào năm 1977, trong bản tuyên ngôn của nhóm Combahee River Collective, một tổ chức nữ quyền da màu ở Boston, Mỹ. Họ nhấn mạnh: “Tuyên ngôn chính trị quan trọng nhất của chúng ta thời kỳ này là cam kết mạnh mẽ đấu tranh chống lại sự phân biệt chủng tộc, giới, giới tính và bóc lột giai cấp và coi đó như sứ mệnh đặc thù của chúng ta…”. Năm 1979, thuật ngữ lần đầu được sử dụng trong giới học thuật, với nghiên cứu của Renee R. Anspach (Đại học Michigan, Mỹ) về phong trào chính trị của người khuyết tật và những cựu bệnh nhân tâm lý. 

Những phong trào xã hội với ngọn cờ kinh tế
như Occupy Wall Street (Chiếm phố Wall)
ngày càng trở nên nổi bật hơn so với phong trào
của các nhóm căn tính khác.

Do áp lực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, những bức xúc vì sự bất bình đẳng của các nhóm căn tính khác nhau trong xã hội phải tạm nhường chỗ cho những vấn đề kinh tế tỏ ra còn nghiêm trọng hơn. Giới quan sát đã nói tới giai đoạn thoái trào của chính trị căn tính.

Thời kỳ đỉnh cao

Chính trị căn tính đạt được những thành tựu đáng kể ở phương Tây từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, đặc biệt là những thập niên cuối thế kỷ trước. Đó là nền chính trị đặt mục tiêu đấu tranh vì công bằng, tiến bộ xã hội và quyền lợi cho các nhóm có căn tính khác nhau, cũng như vì căn tính chung của cộng đồng, quốc gia.

Bức tranh chính trị toàn cầu được tạo cảm hứng từ những phong trào xã hội rộng khắp như bình đẳng giới; chống phân biệt chủng tộc; chống kỳ thị đối với các nhóm thiểu số, yếm thế. Đầu những năm 1970, phong trào đấu tranh của người đồng tính ở Mỹ còn mượn tên Mặt trận Giải phóng Dân tộc miền Nam Việt Nam (National Liberation Front) để đặt cho cuộc cách mạng của họ (Gay Liberation Front).

Đến đầu thập niên 1990, những tác động của cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất đối với kinh tế Mỹ đã giúp đưa Bill Clinton lên làm Tổng thống. Tuy nhiên, lúc bấy giờ cử tri Mỹ nói riêng và phương Tây nói chung vẫn quan tâm hàng đầu đến những vấn đề thuộc về căn tính. Họ mong muốn nhìn thấy lãnh đạo có thể, hay ít nhất là tỏ ra có thể, đại diện và có tầm nhìn tích cực đối với quyền lợi của nhóm căn tính mà họ thuộc về. Những chủ đề về căn tính như sex, sắc tộc, giới… bởi vậy được các chính trị gia phương Tây đưa vào nghị trình tranh cử như một thủ thuật để lấy lòng cử tri.

Đỉnh cao của chính trị căn tính chính là thắng lợi của ông Obama mà bản thân ông cũng là ‘một căn tính’ đặc biệt bởi màu da của mình, gợi cảm hứng và hy vọng thay đổi cho các sắc tộc thiểu số phi Âu-Mỹ, như khẩu hiệu ‘Change’ trong chiến dịch tranh cử Tổng thống của ông.

Thoái trào

Nhưng giờ đây mọi sự đã khác trước. Những cảm hứng căn tính dường như đi xuống sau khi lên đỉnh với biểu tượng Obama. Không nói tới những thành công và thất bại trong hai nhiệm kỳ vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài là một nhãn tiền. Đòi hỏi cải thiện công bằng xã hội về căn tính phải tạm nhường chỗ cho những bất bình đẳng kinh tế tỏ ra còn nặng nề hơn. Các phong trào xã hội với ngọn cờ kinh tế nổ ra, điển hình là Tea Party (Tiệc trà)1, Occupy Wall Street (Chiếm phố Wall)2.

Trong khi đó, phong trào của các nhóm thiểu số ngày càng trở nên phân tán, khánh kiệt tư tưởng và những thông điệp của họ hoặc là bị nhào nặn, bóp méo, hoặc đã trở nên bão hòa, lạc lõng trên truyền thông thời buổi thóc cao gạo kém.

Thăm dò của Huffington Post hồi tháng trước nhân bầu cử giữa nhiệm kỳ ở Mỹ cho thấy có đến 56% cử tri lựa chọn ‘kinh tế’ là một trong hai vấn đề họ quan tâm nhất. Con số này bỏ xa các vấn đề khác như y tế, nhập cư, chính sách đối ngoại và chống khủng bố. Đứng gần cuối danh sách được quan tâm là các chủ đề bình đẳng giới hay môi trường. Đảng Cộng hòa có vẻ như đã chớp được thời cơ khi thống kê cho thấy những thông điệp về kinh tế trong chiến dịch tuyên truyền của đảng này được cử tri ghi nhận với tỉ lệ cao nhất.

Ngoài áp lực kinh tế, theo nhận định của giới quan sát, cử tri ngày nay cũng không còn đặt niềm tin và trao gửi sứ mệnh đấu tranh vì căn tính của họ cho các vị nguyên thủ.

Đường vòng không lối vào

Một bộ phim tài liệu về giới mở đầu bằng cảnh một đứa trẻ vừa được sinh ra. Người mẹ sau cơn đau ráng gượng dậy hỏi: Con tôi là trai hay gái? Ông bác sỹ nửa đùa nửa thật: Thưa bà, chuyện đó còn quá sớm để nói!

Giới (gender) nói riêng, và căn tính (identity) nói chung, không phải là cái ‘tự nhiên’, nó là kiến tạo về mặt xã hội. Quá trình kiến tạo này quy định các cá nhân vào những nhóm căn tính khác nhau, với những đặc trưng gắn liền với nhóm, và bản thân cá nhân cũng tự nhận diện mình theo đó. Ví dụ, đi liền với các phạm trù người da đen, phụ nữ, đồng tính, chuyển giới, người nhập cư, người khuyết tật, người nghèo luôn là những đặc trưng căn tính mà xã hội và truyền thông gán ghép.

Vấn đề chính nằm ở chỗ này. Bản thân chính trị căn tính cũng bộc lộ mặt trái như là một thuộc tính của nó. Trước hết, phong trào của các nhóm luôn có tính đơn diện (one-sided), khiến cho nó có nguy cơ dẫn đến sự cực đoan căn tính và thu hẹp tầm nhìn trong phạm vi nhóm.

Một ví dụ gần nhất là việc nữ diễn viên Rose McGowan lên tiếng phê phán rằng phong trào đòi bình đẳng cho phụ nữ không thể trông cậy vào đồng tính nam như một đồng minh vì họ ‘chỉ lo cho bản thân và thù ghét phụ nữ’.

Mặt khác, các phong trào chỉ nhằm đòi quyền cho căn tính của nhóm chứ không phải là giải phóng cá nhân khỏi đặc trưng căn tính mà họ bị quy vào.

Như một lối đi vòng, cá nhân sinh ra, lớn lên, được hoặc tự nhận diện mình trong một nhóm căn tính nhất định và phó thác tính đại diện (agency) của bản thân cho nhóm. Điều này cản trở cá nhân tham gia trực tiếp vào tổng thể xã hội bằng việc thoát ly khỏi địa vị căn tính của họ.

Những năm gần đây, chúng ta chứng kiến cuộc đấu tranh của các nhóm thiểu số như đồng tính, song tính, chuyển giới chẳng hạn, để đưa được chủ đề của họ vào truyền thông dòng chính. Song, việc giành được sự diễn dịch này, nếu có, lại tiếp tục phơi bày tình trạng bên lề của họ trong mối quan hệ với cái đa số.

Xu hướng tất yếu của các nhóm thiểu số, do đó, là ‘di cư lên mạng’ - phương tiện truyền thông cá nhân hóa tối đa người dùng - như là một sự quay lưng lại với chính trị căn tính và các trào lưu xã hội kiểu cũ. Đây lại là một câu chuyện hoàn toàn khác.

Phong trào chính trị nở rộ trong xã hội phương Tây, đặc biệt là Mỹ, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa kiến tạo (constructivism) của những người cánh tả. Chịu ảnh hưởng của học thuyết Marxism về đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản, chính trị căn tính đặt trọng tâm là cuộc đấu tranh của các nhóm thiểu số, yếm thế, bị áp bức trong xã hội, chống lại sự bất bình đẳng và sự thống trị về mặt căn tính, tư tưởng của các nhóm đa số, được ưu tiên. Chính trị căn tính sau này được mở rộng ra cùng với những phong trào có quy mô toàn cầu như nữ quyền, đồng tính, sắc tộc…, và kể cả những phong trào đấu tranh vì căn tính quốc gia/dân tộc trước sức ép của toàn cầu hóa.


----------

1 Phong trào chính trị ở Mỹ kêu gọi cắt giảm nợ công quốc gia và ngân sách liên bang thông qua giảm chi phí công và thuế, đến nay đã kéo dài được hơn năm năm.

2 Phong trào biểu tình phản đối giới tài chính ngân hàng được cho là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và nạn thất nghiệp trầm trọng. Cuộc biểu tình bắt đầu ở New York sau đó lan ra các thành phố lớn trên toàn nước Mỹ, và nhiều nước trên thế giới.

Đạo Đức Phật Giáo và Nguyên Tắc Bất Baọ Động




Lời giáo huấn của Đức Phật về đạo đức thật đơn giản, nhưng đầy uy lực:

Lấy an hoà thắng giận dữ,
Lấy thiện thắng ác,
Lấy bố thí thắng tham lam,
Lấy chân thật thắng ngụy tạo.

(Pháp Cú, kệ số 223)


Hành trì theo con đường cuả Phật là ta phải dùng cách tháo bỏ ba ô trược tâm linh, đó là gian tham, ghét bỏ và hoang tưởng tự đại. Muốn bỏ gian tham, ta phải thực hành bố thí; bỏ thù ghét, ta phải có tâm từ bi; bỏ hoang tưởng tự đại, ta phải học Giáo Pháp.

Về cơ bản, đạo đức Phật giáo chỉ đơn thuần là mở rộng cách tự thanh lọc bản thân trong mối quan hệ với tha nhân. Về khía cạnh tiêu cực, điều này có nghĩa là ta phải bỏ mọi hành động xuất phát từ tâm bất thiện, mà cụ thể là do gian tham, thù ghét và hoang tưởng tự đại. Về khía cạnh tích cực, điều này có nghĩa là trong mọi lời nói và hành động, ta dựa trên tâm từ thiện, đối nghịch với ba điều ô trược tâm linh. Nói một cách lý tưởng hoá, mọi hành động của con người dựa trên lòng mong ước phát huy mọi điều tốt đẹp và bớt đau khổ cuả tha nhân.

Có điều hoàn toàn không rõ là nên phân loại đạo đức Phật giáo như thế nào, hoặc là có nên phân loại không, nhưng các học giả đều đi đến điểm đồng thuận là đạo đức Phật giáo được hiểu một cách tốt nhất như một loại đạo đức về tính hạnh. Dù quan điểm này có phù hợp với đạo đức của Aristotle không, thì đạo đức Phật giáo sử dụng phương cách quán chiếu tự thân để hướng về đạo đức. Vấn đề đạo đức được giải quyết, không chỉ căn cứ trên hành động của con người từ quan điểm ngoại quan, nhưng bằng cách rà soát lại những động lực và chủ tâm. Hành vi tốt đẹp, thiện hay thiện xảo chính là những hành động biểu hiện hay thúc đẩy tâm thiện. Việc xấu, bất thiện, không thiện xảo là những hành động biểu hiện hay đẩy mạnh tâm bất thiện. Hiển nhiên, từ tâm là những động lực tốt đẹp. Thù ghét, ganh tị, gian tham và hãnh diện là những động lực xấu. Ý định làm giảm bớt đau khổ cho nguời khác là một thiện ý. Ý định làm cho người khác chịu đau khổ là một ác ý. Đối với một hành vi có giá trị đạo đức phải có được là do thúc đẩy và có thiện ý. Điều này cũng chưa đủ mà người ta cũng cần có trí huệ khôn ngoan.

Thí dụ có lập luận của Phật tử chống lại việc giúp làm cho người chết không gây đau, xem cách này là điên rồ, vì ngay cả khi thực hiện với động lực tốt đẹp (từ tâm đối với bịnh nhân) và thiện ý (nhằm chấm dứt đau khổ của bịnh nhân), vì bệnh nhân còn trong vòng luân hồi, nên việc chết không gây đau chỉ đơn thuần kéo dài đau khổ hơn là dứt khổ cho bịnh nhân, vì có thể làm vấn đề còn tồi tệ hơn cho bệnh nhân trong kiếp sau.

Đức Phật định nghĩa nghiệp (karma) là một hành vi của ý muốn, chính là tự ý mình thể hiện qua hành vi của thân, tâm và trí.

“Này các tỳ kheo, khi có ý muốn, Ta gọi đó là nghiệp. Với ý muốn, người ta hành động bằng cách bộc lộ qua thân, ý và tâm“, (Tăng Chi Bộ Kinh, Anguttara-nikaya, III, 415).

Phê phán hành động là tốt hay xấu tùy thuộc vào tác nhân muốn hành động như thế nào. Lời khuyên này dường như có hàm ý là làm hại một sinh vật hữu tình không có chủ tâm không phải là tạo nghiệp ác, kể cả khi việc hại tạo ra này có thể tiên đoán được.

Peter Harvey có trích thí dụ ép cây mía, “khi ta biết rõ hoặc có nghi ngờ chắc là trong mía có sâu” và “lái xe trong một ngày oi bức làm chết côn trùng có thể xãy ra”. Vài học giả chấp nhận ảnh hưởng này và cũng có nhiều kinh điển hỗ trợ cho lập luận này.

Thí dụ như trong kinh chuyện Tiền Thân Đức Phật (Kurudhamma Jātaka), theo ý kiến của Peter Harvey, có nhấn mạnh là “không chủ tâm làm hại tha nhân không xem là làm hại, mà khi còn nặng lòng lo nghĩ vấn đề này là thiếu khôn ngoan, như “chuyện vua bắn cung lên trời trong buổi lễ, khi mất một cây cung, vua lo cây cung sẽ rơi xuống hồ và giết chết cá”.

Giữa đạo đức Phật giáo và Kỳ Na giáo thường được nhận định là dù có chung một nền tảng, nhưng lại có dị biệt nhau về khía cạnh chủ yếu này. Theo đạo Kỳ Na, ngay cả khi không có chủ tâm giết một sinh vật hữu tình, kể cả việc tình cờ làm chết một côn trùng, thì cũng là tạo nghiệp ác.

Phân tích này là khả tín nếu ta nghĩ là hậu quả của hành động, dù không có chủ tâm, nhưng có thể tiên đoán được, không liên hệ đến việc phải chịu có gây nghiệp ác hay không (hay chịu hậu quả tai hại hơn). Hiểu biết của Phật giáo về sự siêu hình của nghiệp và cơ chế mà nghiệp gây hậu quả hoàn toàn khác biệt với ý nghĩa của Kỳ Na giáo. Nhưng nếu cho rằng hậu quả của hành vi không chủ tâm nhưng có thể tiên đoán được không gây chịu đựng về một hành vi đạo đức xấu, điều này có thuyết phục được không?

Thí dụ như tôi quyết định việc tập bắn cung trong sân sau nhà tôi, trong lằn ranh nhà bên cạnh sân chơi của trẻ. Nếu có một đứa trẻ bị trúng tên và chết, điều này có quy trách cho tôi được không, khi tôi không có chủ tâm giết trẻ? Nhưng suy đoán rằng tôi thường xuyên bắn sai mục tiêu làm chết nhiều trẻ khác, thì đối với tôi, đó có phải là chuyện phải ray rứt về những tai nạn không may này không?

Khi phân loại việc này ra, ta có thể bắt đầu nhận ra rằng đạo đức Phật giáo, hoàn toàn khác hẳn với thuyết vụ lợi, vì không nói rằng hành vi là tốt hay xấu, vì nó có hậu quả tốt hay xấu, nhưng nói là mọi hành vi có hậu quả tốt hay xấu (đặc biệt là hậu quả theo nghiệp tốt hay xấu) vì hành vi tốt hay xấu. Một hành vi có giá trị đạo đức hay vô đạo đức do tâm trạng nội tại của con người, không tùy thuộc vào hậu quả ngoại lai của hành động. Nếu như thế, có thể là một hành vi tác hại là nghiệp ác chỉ khi nào tác hại có chủ ý (bởi vì cơ chế của nghiệp, dù tốt hay xấu, hứng chịu thành quả); một hành vi có thể là xấu về mặt đạo đức bởi vì tính chất cố hữu của nó là xấu.

Giả dụ rằng trong tâm trạng mừng lễ tôi bắn súng lên không trung và không hề để ý rằng đạn sẽ có thể trở lại mặt đất và làm chết hay bị thương người. Khả năng này có thể không bao giờ xãy ra cho tôi, trong trường hợp mà tôi hành động lơ đễnh, không để tâm đến hậu quả có thể xãy ra do hành động này. Hoặc cũng có thể là tôi có ý thức rõ về khả năng này. Hiển nhiên, tôi có hành động sai trái về một cái gì đó và tôi cũng không thể xin lỗi về sự bất cẩn này bằng cách nói rằng tôi không hề chủ ý làm hại ai. Tôi đang làm một cái gì đó sai trái, cho dù tôi không hề có ý định làm hại ai và thực ra tôi có gây hại hay không.

Theo đạo đức của Kỳ Na giáo thì khấn nguyện tuân thủ theo tinh thần bất bạo đông được hiểu trước hết và quan trọng trên hết là lòng khâm tuân cẩn trọng. Để thực hiện lời nguyện này, tín đồ phải làm bất cứ điều thiết yếu nào để tránh gây hại cho bất cứ sinh vật hữu tình nào, bất kể là có chủ ý hay không. Nếu không làm trọn, việc khấn hứa không thành, dù bất kỳ là sinh vật hữu tình có thực sự bị thiệt hại hay không. Tu sĩ khất thực theo đạo Kỳ Na có thể khấn nguyện theo tinh thần bất bạo động này một cách cực đoan, thí dụ như họ đội mũ che đầu để tránh hít phải ruồi, dường như họ nắm bắt được tinh thần này hơn là chỉ khấn nguyện xuông là không chủ tâm làm hại.

Có nhiều bằng chứng của Phật tử lúc sơ khai chấp nhận khái niệm rộng hơn về bất bạo động. Sư tăng cũng tuân thủ theo khuôn mẫu của Kỳ Na giáo, thường miễn cưỡng phải uống nước để tránh nuốt các sinh vật cực nhỏ. Đức Phật có dạy sư tăng, nếu phải di chuyển thường, cũng nên tránh đi lại trong mùa mưa tình cờ dẫm chết côn trùng dưới chân. Hành vi bất cẩn cũng bị minh thị kết án. Trường hợp mà kinh điển nói tới đó là có một vị sư ngồi trên đống giẻ rách vô tình giết chết một trẻ thơ nằm trong. Có trường hợp tương tự là có một vị sư ném hòn đá từ trên núi xuống và không có ý giết chết người dưới núi. Cả hai trường hợp theo kinh điển là có kết án các vị sư này sai trái.

Quan điểm rộng hơn về bất bạo động – như là một khấn nguyện bảo trọng – tự nó có sức thuyết phục nhiều hơn, đặc biệt là trong khuôn khổ đạo đức về tính hạnh. Giả dụ như một y sĩ có thể trị liệu cho bịnh nhân hết bịnh với một trong hai cách X và Y. Cả hai cách điều trị đều có hai hậu quả phụ, nhưng hậu quả của cách X là tệ hơn của Y. Nếu theo quan điểm hẹp hòi về bất bạo động thì chuyện trị liệu theo X hay Y đều không quan trọng, vì chủ tâm của y sĩ là không làm hại bệnh nhân.

Hậu quả phụ của trị liệu dù có thể nhận ra được, nhưng không có chủ tâm không liên quan đến việc vị y sĩ chọn lựa thuốc nào. Tuy nhiên, nếu xét trên một khía cạnh rộng hơn, thì vấn đề hậu quả phụ này phải đặt ra để cứu xét. Hiển nhiên, y sĩ phạm phải bất cẩn khi cho thuốc mà không để ý tác dụng phụ của thuốc gây ra. Cũng có thể cho là bất cẩn gia trọng hay nhẫn tâm khi y sĩ cho thuốc X khi biết rằng là tác hại hơn Y. Trong cả hai trường hợp, về phương diện đạo đức, thái độ của y sĩ là xấu và trái với nguyên tắc bất bạo động, nếu ta hiểu một cách rông hơn. Nói chung, hành động này có thể được mô tả là cùng một loại với bất cẩn, lơ đểnh, không bảo trọng, hay nhẫn tâm.

Đức Phật có khuyên chúng sinh nên bộc lộ từ tâm đối với các sinh vật hữu tình và thái độ bất cẩn, lơ đểnh, thiếu cẩn trọng hay nhẫn tâm chắc chắn là ngược lại với đạo đức từ bi. Nói một cách thực tế, không ai có thể sống một cuộc đời hoàn toàn vô hại, nhưng người ta phải cố gắng tối thiểu hóa gây ra tổn hại.

Trên môt quan điểm rộng hơn, người tuân thủ thuyết bất bạo động không chỉ giới hạn việc không chủ tâm làm hại người khác mà cũng còn tránh việc gây hại thái quá không cần thiết. Có thể tha thứ dù gây ra thiệt hại tiên đoán được khi có ý tốt (như trường hợp y sĩ cho thuốc và biết được hậu quả phụ có thể gây xấu), điều này cũng còn áp dụng cho trường hợp khi điều thiệt hại xãy ra không vượt mức cần thiết khi mang lại thiện ý.

Đỗ Kim Thêm dịch
Charles K. Fink, Journal of Buddhist Ethics

Luật pháp mở hay bó tự do của người dân?



Trung Lập


Bộ trưởng Bộ tư pháp Hà Hùng Cường trong phiên họp Quốc hội ngày 13 tháng 11 năm 2014 đã chia sẻ suy nghĩ của ông về quyền dân sự, chính trị. Ông nói “trong lĩnh vực dân sự này luật càng ít thì khoảng không tự do của con người càng nhiều. Luật càng nhiều càng cụ thể thì càng bó sự tự do của con người”. Đây chính là triết lý sâu xa của nhà nước pháp quyền mà ngay nhiều đại biểu dân cử cũng không hiểu hết.


Ảnh: taxi truyền thống biểu tình phản đối Uber taxi (nguồn: internet)

Hiến pháp thể hiện ý chí của toàn dân mà quốc gia nào cũng có. Hiến pháp quy định các quyền cơ bản của công dân và kiểm soát quyền lực của nhà nước. Điều này là cần thiết vì nhà nước thường là bên lạm quyền vì nhà nước có quân đội, công an. Để bảo vệ quyền của công dân trước sự xâm hại của nhà nước, nhiều quốc gia có tòa án hiến pháp để phân xử những vụ kiện của công dân với nhà nước. Trong trường hợp quyền con người bị giới hạn thì chỉ có thể bằng luật vì về nguyên tắc chỉ có người dân mới có quyền giới hạn quyền của mình (vì Luật do quốc hội đại diện cho người dân thông qua).

Tuy nhiên, ở Việt Nam một số quyền con người vẫn được quy định bởi pháp luật, đồng nghĩa nhiều văn bản dưới luật như nghị định (do chính phủ ban hành) và thông tư (do cấp Bộ ban hành) cũng có thể hạn chế quyền của công dân. Điều này càng bất cập khi Việt Nam chưa có một cơ quan bảo hiến độc lập để xem xét vô hiệu hóa các văn bản trong trường hợp có dấu hiệu vi hiến.

Theo tổng hợp của Bộ tư pháp, trung bình một năm Việt Nam thông qua 20 luật, khoảng 100 nghị định, hơn 600 thông tư và hàng nghìn văn bản điều hành. Đây chính là “rừng luật” mà người dân phải tuân thủ dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm luật mà không biết. Điều đặc biệt hơn, theo báo cáo của Bộ tư pháp thì khi rà soát 8779 văn bản pháp luật trong giai đoạn 2009-2012 thì phát hiện có 2473 văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Việc ra nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn là do vẫn còn tư duy cho rằng “có luật mới được làm, không có luật thì không được làm” của nhiều cơ quan công quyền. Gần đây, lãnh đạo của một bộ còn phát biểu ở Việt Nam chưa có pháp luật quy định mà làm thì là trái luật. Tư duy này dẫn đến việc hạn chế quyền tự do của người dân như Bộ trưởng Hà Hùng Cường chia sẻ, và hạn chế hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước.

Đã đến lúc Quốc hội cần rà soát để bỏ bớt các văn bản pháp luật không cần thiết, giảm thiểu các “hướng dẫn” của nhà nước cho người dân, hơn là phát triển thêm nhiều văn bản pháp luật để hướng dẫn người dân. Các văn bản pháp luật nếu có cần tập trung vào những điều “cấm làm” hơn là những điều “được làm”. Có như vậy, tự do của người dân mới được mở rộng, các hoạt động dân sự được thông thoáng, đồng thời tăng hiệu quả của các cơ quan công quyền.

LHQ kêu gọi xét xử quan chức CIA vì bê bối tra tấn


Ngày 10/12, tức chỉ vài giờ sau khi Uỷ ban tình báo Thượng viện Mỹ công bố báo cáo chi tiết về việc CIA sử dụng các kỹ thuật thẩm vấn cao cấp đối với các tù nhân sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001, Đặc phái viên của Liên Hợp Quốc (LHQ) phụ trách chống khủng bố và nhân quyền Ben Emmerson đã kêu gọi chính quyền Washington đưa những người có liên quan đến vụ việc trên ra xét xử hình sự.
Trong khi đó, Tổ chức Ân xá Quốc tế cũng kêu gọi có người phải đứng ra nhận trách nhiệm trong vụ này và nhấn mạnh, báo cáo của Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ cho thấy CIA đã vi phạm pháp luật “từ ngày đầu tiên”. Đồng quan điểm này, Giám đốc Điều hành Tổ chức Giám sát Nhân quyền (HRW) Kenneth Roth còn cảnh báo, nếu không có những biện pháp mạnh thì hoạt động này có thể bị tái phạm và nó cho thấy chính phủ Mỹ có dính líu đến tội ác.



Tù nhân bị áp giải tại nhà tù Guantanamo CIA. (ảnh: AP).

Được biết, trong báo cáo dài 480 trang, Ủy ban tình báo Thượng viện Mỹ đã khẳng định, nghi thức giam giữ của CIA hoàn toàn vô nhân tính và ác độc. Bằng chứng là rất nhiều nghi phạm từng bị giam giữ tại các nhà tù của CIA đều gặp vấn đề về tâm lý, thậm chí triền miên mất ngủ và thậm chí có người có triệu chứng tâm thần phân liệt hoặc bị ảo giác. Một số tù nhân ở Afghanistan còn bị chết vì mất nhiệt sau khi bị lột trần đến thắt lưng.

Báo cáo cũng hé lộ nhiều kỹ thuật thẩm vấn của nhân viên CIA không thể ngờ đến như lột trần tù nhân, bắt họ phải thức liên tục nhiều ngày, bắt nhịn đói, đập người họ vào tường và dìm đầu xuống nước, bị giam riêng rẽ trong bóng tối mịt mùng và phải nghe tiếng nhạc hoặc âm thanh ầm ĩ… Và mặc dù đã phải bỏ ra 80 triệu USD để thuê 2 nhà tâm lý tham vấn cho quá trình thẩm tra, song CIA lại chẳng đạt được kết quả gì cho cuộc chiến chống khủng bố.

Chu Nguyễn (theo CNN, ABC News)

Sự thật về chiến tranh Việt Nam


Bruce Herschensohn |Trà Mi lược dịch


Nhưng chúng ta đã không biết được rằng chính Quốc hội của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định. Và, cay đắng thay, chúng ta vi phạm Hiệp định Ba Lê, thay cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra.

Quay lại mấy chục năm trước, cuối năm 1972, Nam Việt Nam và Hoa Kỳ đã đang dứt khoát owr thế thắng trong chiến tranh Việt Nam trên mọi mặt. Đó không chỉ là quan điểm của tôi. Đó là quan điểm của kẻ thù của chúng ta, giới chức chính phủ Bắc Việt. Chiến thắng đã ở trong tầm tay khi Tổng thống Nixon ra lệnh cho không quân Mỹ ném bom các mục tiêu công nghiệp và quân sự ở thủ đô Hà Nội, và ở Hải Phòng, thành phố cảng lớn của Bắc Việt, và chúng ta sẽ ngừng các vụ đánh bom nếu Bắc Việt đồng ý trở lại Hòa đàm Paris, cuộc đàm phán mà họ đã bỏ đi đó. Bắc Việt đã trở lại ngồi xuống để đàm phán hòa bình ở Paris, và chúng ta đã ngưng các vụ đánh bom như đã hứa.

Ngay 23 tháng Giêng, 1973, Tổng thống Nixon đã tuyên bố, trong bài phát biểu trên truyền hình quốc gia, thông báo rằng Hiệp định Ba Lê đã được Hoa Kỳ, Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam, Việt Cộng ký tắt và Hiệp định sẽ được ký kết vào 27. Những gì Hoa Kỳ và Nam Việt Nam giành được trong hiệp định này là chiến thắng. Ở Nhà Trắng, nó được gọi là “Ngày Chiến thắng ở Việt Nam (VV Day)”.

Mỹ hậu thuẫn chiến thắng đó bằng một lời cam kết đơn giản ghi trong Hiệp định Paris nói rằng: nếu Nam Việt Nam cần có bất kỳ chiến cụ quân sự nào để tự vệ chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt, chúng ta sẽ viện trợ thay thế cho miền Nam trên căn bản một-đổi-một, có nghĩa là thay một viên đạn bằng một viên đạn; thay một máy bay trực thăng cho một máy bay trực thăng, thay thế tất cả những dụng cụ quân sự đã mất. Việc tiến quân của quân cộng sản bạo ngược đã bị hiệp định này chận lại.

Nhưng sau đó, tất cả đã đổ vỡ. Và nó đã xảy ra như thế này: Vào tháng Tám năm sau, năm 1974, Tổng thống Nixon từ chức vì vụ scandal “Watergate”. Ba tháng sau khi ông Nixon từ chức, là cuộc bầu cử quốc hội tháng Mười Một và đảng Dân chủ giành được chiến thắng lớn tại Quốc hội mới và nhiều dân biểu của họ đã dùng đa số mới của đảng Dân chủ để hủy bỏ quỹ viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa (trong Hiệp định Ba Lê), dần dà phá vỡ cam kết của chúng ta với miền Nam Việt Nam ở Paris là sẽ viện trợ cấp bất cứ quân cụ nào Nam Việt Nam cần trong trường hợp có xâm lược từ miền Bắc. Một cách đơn giản và chính xác, đa số dân biểu của đảng Dân chủ của Quốc hội thứ 94 đã không giữ lời của Hoa Kỳ.

Vào ngày 10 tháng Tư năm 1975, Tổng thống Gerald Ford trực tiếp yêu cầu các dân biểu (đảng Dân chủ) ở Quốc hội trong một phiên họp lưỡng viện, trực tiếp truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ. Trong bài phát biểu ông, đúng nghĩa đen, đã năn nỉ Quốc hội giữ lời của Hoa Kỳ (trong Hiệp định Ba Lê). Tuy nhiên, khi Tổng thống Ford phát biểu, nhiều người trong số các dân biểu Quốc hội đã bỏ ra ngoài. Nhiều người trong số họ đã đầu tư cho sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam. Họ đã tham gia vào các cuộc biểu tình chống chiến tranh trong nhiều năm trước. Họ sẽ không đồng ý viện trợ.

Vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 Nam Việt Nam đầu hàng và những trại (tù) cải tạo được dựng lên, và hiện tượng thuyền nhân đã bắt đầu. Nếu Nam Việt Nam đã nhận được những vũ khí mà Mỹ đã hứa với họ thì kết quả đã có thể khác hay không? Nó đã khác rồi. Giới lãnh đạo Bắc Việt thừa nhận rằng họ đang thử thách vị Tổng thống mới của Mỹ, Gerald Ford, và họ đánh chiếm từng thôn làng ở miền Nam, rồi tiến chiếm các thành phố, rồi đến các tỉnh lị của miền Nam Việt Nam. Và phản ứng duy nhất của chúng ta là nuốt lời đã hứa. Mỹ không tái viện trợ cho miền Nam Việt như chúng ta đã hứa. Đó cũng là lúc Bắc Việt biết họ đang trên đường tiến chiếm Sài Gòn, thủ đô của Nam Việt Nam; thành phố đó không bao lâu sau đã bị đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.

Cựu Thượng nghị sĩ William Fulbright của tiểu bang Arkansas, người đã từng là Chủ tịch của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã tuyên bố công khai về sự đầu hàng của miền Nam Việt Nam. Ông nói thế này, “[Việc miền Nam VN đầu hàng] không làm tôi đau khổ hơn nếu Arkansas để thua Texas một trận football.” Mỹ biết rằng Bắc Việt Nam sẽ vi phạm các hiệp định và vì vậy chúng ta đãchuẩn bị. Nhưng chúng ta đã không biết được rằng chính Quốc hội của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định. Và, cay đắng thay, chúng ta vi phạm Hiệp định Ba Lê, thay cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra.

Tác giả Stanley Bruce Herschensohn (sinh ngày 10 tháng 9 năm 1932) là một bình luận gia chính trị người Mỹ, và là người nghiên cứu cao cấp tại Đại học Pepperdine Chính sách công ở Malibu, California. Ông làm tư vấn cho Đại hội Đảng Cộng hòa năm 1972 và gia nhập chính quyền Nixon vào ngày 11 Tháng Chín, 1972. Công việc chính của ông viết diễn văn. Ông rời chính phủ Cộng hòa sau khi TT Nixon từ chức, nhưng đã làm việc trong toán chuyển quyền thời TT Ronald Reagan và là một viên chức trong chính quyền Reagan.

© 2014 DCVOnline

Cuộc đời kỳ lạ của những đại gia Việt giàu sụ sau khi đi tù

Đứng đầu doanh nghiệp lớn, tài sản khổng lồ và những kế hoạch kinh doanh táo bạo, các đại gia này có điểm chung là cùng dựng lại sự nghiệp sau khi ra tù. Bài viết được đăng tải lại từ báo Người Đưa Tin.
Hải đồ cổ: 4 lần vào tù vẫn sôi sục ý chí làm giàu
Ông Bùi Xuân Hải ( Hải đồ cổ) sinh năm sinh 1943, ở Hưng Yên, nhưng gia đình sống ở Hải Phòng từ năm 1927. Năm 1965, ông tốt nghiệp đại học, về dạy học ở Hưng Yên. Thời gian này, ông được học trò tặng chiếc bình cắm hoa.
Hơn 5 năm sau đó, khi chuyển về Hải Phòng, ông vẫn đem theo chiếc bình trưng trong nhà làm kỷ niệm. Một hôm, có anh bạn từ Hà Nội đến chơi đã phát hiện chiếc bình này là bình bát tiên, thuộc loại tối cổ, đời Tống, nên đòi mua với giá 2 cây vàng. Dù bán bình cổ mua được mấy ngôi nhà ở quê, nhưng ông Hải không bán. Mấy hôm sau, anh bạn cùng vài người nữa quay lại ngã giá chiếc bình cổ 7 cây vàng. Với số tiền khổng lồ đó, ông Hải đã gật đầu.
Chiếc bình cổ biến ông giáo nghèo thành người giàu có. Từ đó, ông lao vào săn tìm, thu mua bình lọ và tất cả những thứ cũ kỹ khác. Thời bấy giờ, người dân chưa biết giá trị của đồ cũ nên có người hỏi mua là “bán tống bán tháo”. Nhờ vậy, ông thu mua được khá nhiều, bán lại cho giới chơi đồ cổ, thu về khối gia sản kếch xù.

Từng sở hữu 3 tấn vàng, ông Hải đồ cổ cũng từng 4 lần ngồi tù và đang tiếp tục gầy dựng nghiệp lớn.

Đến năm 1980, ông đã có trong tay khoảng 3 tấn vàng. Từ Bắc vào Nam, ông Hải có tổng cộng 200 điểm cất giữ đồ cổ. Cái tên Hải đồ cổ bắt đầu nổi danh khắp nước. Vừa buôn đồ cổ vừa buôn đồ cũ từ nước ngoài về, ông Hải trở thành một đại gia sở hữu tài sản lên đến nhiều triệu USD, từng được mệnh danh là người giàu nhất Hải Phòng, thậm chí giàu nhất Việt Nam.
Thế nhưng, năm 1981, mang theo 1,7 kg vàng, ông Hải vào Thái Bình mua đồng đen. Khi chủ nhà đưa ra cục đồng hun đen, công an ập vào thu sạch cả “đồng đen” lẫn vàng. Ông Hải ngồi trại 2 tháng vì buôn hàng quốc cấm. Ra tù, ông thành lập công ty thiết bị giáo dục.
Nhưng đến năm 1986, ông lại bị bắt vì tội đầu cơ đồ cổ. Phải mất 21 tháng trong trại tạm giam, khi vụ án được đưa ra xét xử, tòa án luận tội “đầu cơ nhưng không trục lợi”, và kèm theo bản án 20 tháng tù. Được thả ngay sau phiên tòa, 4 giờ sau, ông đã có mặt ở nhà Bí thư TP Hải Phòng xin lập xí nghiệp tư doanh. Dồn hết vốn liếng lập công ty Havico chuyên sản xuất đồ gốm sứ và đồ giả cổ, chỉ sau 2 năm, công ty đã xuất khẩu lượng hàng hóa trị giá 8 triệu USD.
Ngày 19/1/1994, công an Hà Nội bắt ông Hải vì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, do nợ của một công ty xuất nhập khẩu 400.000 USD. Ra tòa lần 3, Hải đồ cổ tự bào chữa, chứng minh mình là chủ nợ chứ không phải con nợ. Không thành án, ngày 31/5/1995, ông được trả tự do nhưng sản nghiệp đã mất hết. 7 năm sau, ông Hải lại bị bắt giam vì vi phạm Luật Đất đai và bị ngồi tù 14 tháng.
Ngồi tù lần thứ 4 khi đã xấp xỉ tuổi 60, ông vẫn miệt mài nghiên cứu và hoàn thành công nghệ vẽ vàng ròng lên đồ sứ trước khi đem nung. Ra tù, trắng tay, nhưng ông Hải không còn thời gian để buồn nản. Ông nhanh chóng lập xưởng sứ cao cấp vẽ vàng. Đây cũng là trung tâm đào tạo nghề cho các học viên đủ thành phần, lứa tuổi, đến từ nhiều vùng miền.
Giờ đây đã hơn 70 tuổi, Hải đồ cổ vẫn miệt mài với công nghệ kỹ thuật cao – vẽ vàng lên sứ. Ông đang có khát vọng biến Hải Phòng thành “vương quốc gốm sứ” của thế giới, đặc biệt là công nghệ vẽ vàng lên gốm sứ sẽ đánh bại nền gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc.
Đại gia Lê Ân: 2 lần ngồi tù và những việc làm khác người
Ông Lê Ân sinh năm 1938, là con thứ 5 trong một gia đình nghèo, đông con ở tỉnh Quảng Nam. Thời trẻ, ông mưu sinh đủ nghề từ may mặc, nấu xà bông đến buôn thuốc tây, kinh doanh vàng và ngoại tệ… Tích lũy được vốn kha khá, những năm 1980, ông thành 
lập Tín dụng Hòa Hưng, Ngân hàng CP Đại Nam tại TP.HCM…


Ông Lê Ân sau 2 lần ngồi tù và hàng loạt việc làm gây ồn ào dư luận, hiện đang làm chủ khu du lịch Chí Linh tại Vũng Tàu.

Năm 1980, ông đưa các con vượt biên nhưng bị bắt tại Bến Tre. Các con được về sớm, riêng ông phải ở tù cho đến năm 1984. Tháng 1/2000, ông lại bị kết án 12 năm tù về tội cố ý làm trái, gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Vũng Tàu, khi đó ông là Chủ tịch HĐQT… Thụ án hơn 5 năm tù, ông được thả tự do trước thời hạn.
Đời tư của vị đại gia này khá “lừng lẫy” khi có đến 6 người vợ. Người vợ hiện nay, bà Mai Thị Mai thua ông đến 53 tuổi. Đến bây giờ, dù đã ấm êm với người vợ thứ 6, nhưng ông Lê Ân vẫn chưa nguôi ngoai về các bà vợ trước. Ông tạc tượng 3 bà vợ, mỗi bà mặc trang phục truyền thống của mỗi vùng – miền, trưng bày ở KDL Chí Linh, để nhắc mình bài học về những thủ đoạn lừa tình, cướp tài sản của họ.
Đại gia Lê Ân cũng từng tâm sự: Mai Thị Mai là người vợ cuối cùng trong cuộc đời ông. Vì vậy, ông không tiếc tiền với người vợ trẻ. Ông xây biệt thự trên khu đất rộng 6.000 m2 trị giá gần 100 tỷ đồng, nằm ngay trước KDL Chí Linh. Năm 2013, ông tậu chiếc giường hoàng gia của hãng sản xuất giường Savoir Beds (Vương quốc Anh) với giá 6 tỷ đồng, với chia sẻ: không phải mua giường để ngủ mà muốn thế giới biết rằng, Việt Nam cũng có nhiều đại gia lắm tiền. Hiện ông đặt “siêu giường” trong KDL Chí Linh trưng bày cho khách du lịch chiêm ngưỡng. Ông cũng đang sở hữu bộ sưu tập siêu xe lớn, trong đó có chiếc Rolls-Royce Phantom giá 25,5 tỷ đồng.
Bị vợ đẩy vào cảnh tù tội, đại gia Lê Ân dựng tượng trả hận Trong khuôn viên làng du lịch Chí Linh, Vũng Tàu, đại gia Lê Ân cho tạc 3 bức tượng 3 người vợ từng phụ bạc, ôm tài sản của ông ra đi, gây cho ông cảnh tù tội.
Trải qua nhiều thăng trầm, ông Lê Ân hiện là Chủ tịch HĐQT công ty TNHH MTV Lê Hoàng và chủ Khu Du lịch (KDL) Chí Linh tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đại gia này tự hào tuyên bố sau những năm tháng sóng gió, hiện công việc kinh doanh đang thuận lợi với số vốn hàng ngàn tỷ đồng. Đây cũng là nguồn quan trọng để ông phát triển quỹ từ thiện Lê Ân, chuyên trợ giúp những mảnh đời bất hạnh, mồ côi, phụ nữ gặp khó khăn…
Ông chủ Đức Khải: Đại gia Sài Gòn và dự án 100 tàu đánh cá gây tranh cãi
Ông Phạm Ngọc Lâm sinh năm năm 1968 trong một gia đình nông dân nghèo rớt mồng tơi ở Quảng Nam. Năm 12 tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời, để lại mấy chị em rau cháo nuôi nhau. Năm 1983, mới 15 tuổi, ông bỏ học lớp 8 đi làm lơ xe trên tuyến Bình Thuận – Sài Gòn.
Năm 1983, Lâm vào Sài Gòn để tìm đường lập nghiệp với 200.000 đồng làm vốn. Ông đi làm thuê cho một cửa hàng sửa chữa, tân trang xe máy. Cuối năm 1993, do bán ô tô theo cách mua xe cũ rồi tân trang lại, Lâm kiếm được những khoản tiền khá lớn.


Công ty TNHH Anh Lâm của ông Phạm Ngọc Lâm ra đời năm 1994, với chức năng kinh doanh sản phẩm công nghệ giao thông vận tải và bắt tay kinh doanh một loại hàng mới, đó là xe máy chuyên dụng như máy ủi, máy húc, xe lu… Chỉ riêng kinh doanh xe máy chuyên dụng, Phạm Ngọc Lâm đã giàu nứt đố đổ vách. Ở tuổi 29, Phạm Ngọc Lâm từng được giới buôn xe hơi TP.HCM xem như một “ông trùm” quyền lực.
Nhưng năm 2000, ông phải ra trước vành móng ngựa, đối diện với án tử hình do liên quan tới vụ án Tân Trường Sanh. Ông nêu nguyện vọng khắc phục hiệu quả bằng cách nộp tài sản, hơn 40 triệu USD. Ông nhận 2 án tù chung thân, một vì buôn lậu, một vì đưa hối lộ. Đầu năm 2005, ông được đặc xá trước thời hạn nhờ khắc phục hậu quả và cải tạo tốt.
Năm 2006 sau khi ra tù, ông Lâm khởi nghiệp lần hai. Nhờ bạn bè giúp đỡ, ông được độc quyền phân phối sản phẩm thương hiệu Tosiba tại Việt Nam. Sau này Đức Khải phân phối thêm sản phẩm của hãng Kenwood, Indesit và Dongfeng.
Giờ đây ở tuổi 46, Chủ tịch HĐQT công ty CP Đức Khải Phạm Ngọc Lâm đã nắm trong tay 20 công ty thuộc các lĩnh vực bất động sản, phân phối, xây dựng, kho vận, cảng cạn, xăng dầu… với tổng tài sản hàng ngàn tỷ đồng. Công ty CP Đức Khải do ông Phạm Ngọc Lâm làm chủ tịch cũng đã thông qua nghị quyết đầu tư 100 tàu cá với công suất 500-1.500 mã lực và 2 trực thăng để cùng ngư dân bám biển vào tháng 6 vừa qua.
Theo công bố của đại gia này thì doanh nghiệp đang hoàn tất thủ tục để đưa những chiếc tàu đầu tiên về nước, ra khơi đánh bắt ngay trong năm nay. Tuy nhiên, dự án nhập tàu vỏ thép cũ của Đức Khải đang gây tranh cãi, bởi Việt Nam không có “ngoại lệ” nào cho nhập tàu vỏ thép cũ đã qua 8 năm sử dụng, trong khi những tàu này phần lớn đã có tuổi thọ trên 12 năm.
Ông chủ thủy sản Hùng Vương: Từ phạm nhân thành “vua” xuất khẩu cá tra
Ông Dương Ngọc Minh sinh năm 1965 ở TP.HCM. Ông chủ Thủy sản Hùng Vương từng có gần 6 năm ngồi tù, và hiện đang là doanh nhân giàu thứ 2 trong lĩnh vực thủy sản và là một trong những người giàu nhất trên TTCK.


Sau ngày giải phóng, ông Dương Ngọc Minh tham gia Thanh niên xung phong xây dựng vùng Duyên Hải (nay là huyện Cần Giờ, TPHCM). Ở nơi heo hút đó, Nông trường Duyên Hải đã được thành lập, áp dụng thí điểm mô hình nuôi tôm, lấy thu bù chi. Cuộc đời kỳ lạ của những đại gia Việt giàu to sau khi đi tù Là người giàu thứ 2 trong lĩnh vực thủy sản, đại gia Dương Ngọc Minh còn được dư luận “quan tâm” đặc biệt vì thông tin là người tình tin đồn của ca sĩ Mỹ Tâm.
Đến năm 1984, ông được bổ nhiệm vào vị trí Giám đốc công ty Đông lạnh Hùng Vương, một doanh nghiệp nhà nước tại quận 6, TPHCM. Công ty đã nhanh chóng vươn lên vị trí hàng đầu trong ngành xuất khẩu thủy sản, với giá trị xuất khẩu hơn 30 triệu USD/năm.
Nhưng đến năm 1995, tỷ giá USD biến động chóng mặt khiến những món nợ nhập khẩu máy móc, thiết bị trở nên quá sức chi trả, công ty vỡ nợ, phá sản. Giám đốc Dương Ngọc Minh phải ra tòa và nhận án tù vì tội gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng. Trong phiên tòa phúc thẩm, ông bị buộc thêm tội lập quỹ trái phép và lãnh án 10 năm tù. Sau 6 năm cải tạo, ông được đặc xá trước thời hạn.
Trở về, năm 2003, ông lại thành lập công ty thủy sản, tiếp tục giữ cái tên Hùng Vương đã gắn bó với mình từ thuở trước. Mặc dù đã quen với con tôm nhưng ông quyết định chọn sản phẩm chủ lực của Hùng Vương là cá tra. Ông đã phá bỏ định kiến, nghi hoặc của một người từng tù tội để làm lại cuộc đời và đã thành công.
Đến nay Hùng Vương có 6 nhà máy chế biến cá, gồm 12 phân xưởng, công ty hoàn toàn chủ động nguyên liệu sản xuất, khả năng xử lý từ 1.000-1.100 tấn nguyên liệu/ngày.

Sưu Tầm

Lần đầu đọc thơ Cung Trầm Tưởng


Viên Linh

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng nổi tiếng nhất từ cuối thập niên '50 tại miền Nam, nhất là lúc nhạc sĩ Phạm Duy phổ mấy bài thơ Mùa Thu Paris và Chưa Bao Giờ Buồn Thế của anh, song lúc đó đối với riêng tôi, anh là chỗ cố tri, bởi năm 1952-53 tôi đọc thơ anh từ bài đầu tiên anh làm năm 17 tuổi, trên tạp chí Phổ Thông Hà Nội, tờ tạp chí dầy cộm mỗi số khoảng 200 trang, chủ nhiệm là Lê Văn Ky, chủ bút lần lượt là Lê Quang Luật, tới số 15, Vũ Quốc Thúc bắt đầu từ số 16. Hôm toàn tập Thơ Cung Trầm Tưởng (làm trong khoảng 1948-2008) dầy hơn 600 trang, ra mắt ở Viện Việt Học tôi chỉ thấy trong đó có 7 bài anh làm từ 1948-1953, thiếu bài thơ mà tôi có.






Các thành viên phái đoàn Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại dự Hội Nghị Văn Bút Quốc Tế ở Prague, 1994, qua Bonn, Germany ra mắt ba thi phẩm: Lời Viết Hai Tay của Cung Trầm Tưởng (trái), Tiếng Hát Gia Trung của Nguyễn Sỹ Tế (đã quá cố), và Hóa Thân của Viên Linh; bên cạnh là một nữ thi sĩ xứ người. (Hình do tác giả cung cấp)


“Xin chào mừng quí vị yêu thơ,... hôm nay chúng ta dự buổi ra mắt 'Một Hành Trình Thơ (1948-2008)' của nhà thơ Cung Trầm Tưởng. Dấu thời gian này có nghĩa đây là tuyển tập 60 năm thơ của anh. Tôi có mặt, và theo chương trình, tôi sẽ nói về tác giả. Anh Tưởng có nhiều bạn thân hơn tôi, trong những năm đi học ở Hà Nội ở Pháp hay đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ, trong hơn 20 năm phục vụ trong binh chủng Không Quân của Việt Nam, và trong 10 năm di chuyển qua 10 trại tù khổ sai của Cộng Sản, nhưng những người bạn mà có đọc thơ anh, thì có thể ít người đọc anh sớm hơn tôi. Tôi đã tìm trong cuốn sách mới ra của anh đây, phần đầu gọi là Sóng Ðầu Dòng (1948-1953) chỉ có 7 bài, mà không có bài Ðà Giang.”

“Chỉ có 15 phút để nói về anh, song tôi sẽ đọc bài thơ này lên để người nghe thấy sự khác biệt của thơ Cung Trầm Tưởng lúc đầu và thơ anh qua những bài Phạm Duy phổ nhạc. Mặt khác, tôi đọc thơ Cung Trầm Tưởng ngay khi bài thơ được in ra, năm 1953 ở Hà Nội, chứ không phải sau này đọc lại.”

Số là hồi ấy cậu học trò đệ thất đệ lục CVA đã say mê đọc sách báo - nhưng không phải thứ “sách báo nhảm nhí” như mấy cụ đồ nho chê chữ Quốc ngữ hồi đó thường nói, hay mấy ông Tây học cứ Tây là nhất, Mỹ là nhất, cái gì của Ta cũng muốn chê, đó là những người mà anh Cung Trầm Tưởng trong một bài đăng ở Khởi Hành số 15, tháng 8, 1969, đặt cho một cái tên là Sĩ Què - mà tôi đọc sách báo văn nghệ. Nhờ có một bạn học mà bà mẹ là chủ tiệm sách Bình Minh ở phố Huế, tôi hay ghé nhà bạn chơi, để được đọc sách báo mới ra, nên cái gì đến tay là đọc. Nhờ thế vào tuổi đó cậu bé đã đọc sách báo của người lớn, trong có tạp chí Phổ Thông. Nhờ đọc Phổ Thông trong các năm 52, 53, 54, tôi đã đọc “Từ điển Chữ Việt” của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, (mục này rất hiếm người biết là nhà kinh tế học nổi tiếng ấy lại viết một mục như thế), và kịch của Nguyễn Sỹ Tế, văn của Vũ Khắc Khoan, thơ của Cung Trầm Tưởng. Lúc ấy tôi khoảng 15 tuổi. [Lúc ấy Nguyễn Sỹ Tế học Luật, và viết kịch].

Thiệt tình mà nói, tôi thích đọc Phổ Thông là vì say mê cái truyện dài Cái Ðêm Hôm Ấy do Mặc Ðỗ dịch từ một truyện như là “Up to The Hill” của nhà văn nữ người Áo là bà Vicki Baum. Mới vào truyện đã thấy cảnh một thanh niên nhạc sĩ quì xuống ôm chân một người đàn bà đẹp, năn nỉ xin tình yêu, thì tôi coi thường quá, nhưng cứ đọc để xem cái anh chàng này yếu xìu với phụ nữ đến đâu. Lúc ấy mới 15 tuổi nên tôi nghĩ thế, nhưng nếu nhiều hơn năm ba tuổi có khi tôi nghĩ khác chăng? Ở tuổi ấy tôi đọc bài Ðà Giang của Cung Trầm Tưởng.

Ðà Giang
Ðà Giang Ðà Giang
Rừng núi cảnh hoang mang
Chiều chiều xóm tối
Thú về thăm ngang tàng

Hỡi anh da vàng
Vàng màu vàng ệnh!
Anh có nghe vang
Con sông hùng vĩ
Tự bao thế kỷ
Sông ơi,
Chảy mấy dặm đường?
Tự đâu sông xuống yêu thương đồng bằng?

Bài thơ đó khác với tất cả những bài thơ sau này, từ ngôn ngữ đến nội dung, đến tình cảm bên trong. Con người thi sĩ hồi 20-21 tuổi (anh sinh năm 1932), chắc chắn khác con người thi sĩ những năm ở miền Nam sau 1954. Và con người tác giả cũng không phải chỉ là con người thi sĩ, vì tác giả còn viết nhiều thứ không phải là thơ.

Tiểu sử Cung Trầm Tưởng phần “Hoạt động văn hóa” in trong toàn tập viết: “Hợp tác với các tạp chí Phổ Thông (Ðại học Luật khoa) - thật ra là của Hội Ái Hữu Cựu Sinh Viên Luật Khoa, Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành, Thời Tập,”... Trong 6 tờ báo văn học anh kể ra trong sách, tất cả ở Việt Nam, ba tờ do tôi làm thư ký tòa soạn hay làm chủ nhiệm chủ bút, còn ba tờ kia tôi cùng viết với anh là Sáng Tạo, Văn, [anh còn quên kể 1 tờ nữa là] Thế Kỷ 20 của nhà thơ Trần Hồng Châu [Giáo Sư Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng Văn Khoa, Ðại Học Sài Gòn] làm chủ bút, tôi có gặp anh ở đấy. Cho nên gặp nhau nhiều lần, trò chuyện nhiều lần, tác giả Chưa Bao Giờ Buồn Thế hiện ra là một người hăng say trong các câu chuyện. Ðặc biệt khi thảo luận, hay viết bình luận, tôi nghĩ đó là một người có thể nói là trực tính, sẵn sàng đối đầu khi phải đi đến tận cùng lẽ phải.

Trong thời gian giữ một mục thường xuyên trên tuần báo Khởi Hành từ năm 1969, là Mục Sổ Hành Trình, Cung Trầm Tưởng viết, cũng có nghĩa là lên tiếng, về những chuyện vừa xảy ra, những vấn đề đang nóng hổi. Anh viết như anh nói. Trong bài “Cuộc Bao Vây Vô Hình,” người ta đọc thấy như thế này: “Không ở bên này thì ở bên kia. Hòa giải cũng là một chọn lựa. Nhưng đứng ngoài cuộc là vô liêm sỉ; im lặng là đồng lõa với tội ác.” (Khởi Hành số 9, 26.6.1969, trang 2.) Dĩ nhiên, một bài có tính cách bình luận thời sự hay bày tỏ quan điểm thì phải đăng ngay nơi trang 2. Khởi Hành ở Việt Nam là báo của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội, thành lập từ 1967, có hơn 700 hội viên, đại tá nhạc sĩ Anh Việt Trần Văn Trọng là chủ tịch hội kiêm chủ nhiệm chủ bút tờ báo, Viên Linh là một ủy viên trong Ban Chấp Hành được bầu làm thư ký tòa soạn, khi đăng những bài như thế chúng tôi thường không ngần ngại đối đầu với mọi phản biện, vì tờ báo tuyên bố ngay từ đầu là một diễn đàn phục vụ cho sự tự do tư tưởng, tự do sáng tác.

Khi kêu gọi các nhà văn hãy tích cực tham gia việc quản trị thị trường xuất bản, Sổ Hành Trình do Cung Trầm Tưởng phụ trách viết: “Hiện nay nhiều tác giả phải cúi đầu nhận một giá biểu hèn mọn ấn định bởi một bọn mại bản không hiểu gì về văn chương.” Lúc ấy năm 1969, thị trường sách báo miền Nam như rừng, hàng tháng có khoảng 2,000 cuốn sách đủ loại được xuất bản. Chúng tôi làm chủ đề “Lên tiếng trước bọn gian thương văn nghệ.” Và trong bài “Một cánh cửa mở cho người viết văn,” anh nói thẳng: “Ngành xuất bản và phát hành sẽ thôi là dịch vụ trung gian mại bản, thứ môi giới tiểu xảo, lật lọng, để trở thành một kỹ nghệ hẳn hoi.” (“Một cánh cửa mở cho người viết văn,” Sổ Hành Trình, Khởi Hành số 10, trang 1). Ðăng những bài ấy lên tờ báo do mình chọn lọc bài vở, tôi hoàn toàn trách nhiệm cùng tác giả đối đầu với mọi phản ứng. Trong thời gian các cơ quan văn hóa văn nghệ của Việt Nam Cộng Hòa hội họp luôn luôn, tiếp xúc và thảo luận, vận động và tranh đấu để thực hiện một điều khoản có dự trù trong Hiến Pháp là thành lập Hàn Lâm Viện, nhưng sau rốt chỉ thành lập được một cơ cấu dung hòa thỏa hiệp, là Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục, anh viết bài “Sĩ Què,” đả kích giới trí thức vọng ngoại: “Ðừng ngạc nhiên khi thấy trí thức Sài Gòn là những sĩ què chính hiệu.” Trong bài nhà thơ kể lại: “Gần 100 năm thuộc Pháp, Việt Nam không thiếu gì những sĩ què bám vào thế lực ngoại quốc cho con cái đi du học, ở lại nước ngoài, mình thì hưởng cá lợi lộc của ngoại nhân,” trong có câu: “Tôi hiểu Sĩ Què trong ý nghĩa đê tiện nhất: không những mất thăng bằng trong thể xác mà còn vong thân trong tâm hồn.” Trích dẫn như thế là vì tôi đang nói về con người của tác giả Cung Trầm Tưởng. Anh không chỉ là một nhà thơ với âm điệu trầm bổng và chữ nghĩa tân kỳ, anh còn là một cây bút lên tiếng mạnh mẽ về các vấn đề công chính. Văn Nghệ Miền Nam là như thế. 

Bài ca vọng cổ


Tiểu Tử
(Riêng tặng những người còn ca và còn nhớ vọng cổ)

Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm đến đâu người ta cũng chê là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ như quen nhưng thật ra thì rất lạ: mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khóe môi, mái tóc đã ngả bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước “Cách mạng thành công” và tôi của bây giờ - nghĩa là chỉ sau có mấy năm sống dưới chế độ gọi là ưu việt - thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi... tập nhìn tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt!






(Nguồn: Google)

Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d'ivoire (Phi Châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu tôi cho công ty đường mía. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!

Xưa nay, tôi chưa từng quen một người da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái niệm thô sơ về vùng Phi Châu da đen như là: ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng,...Vì vậy, tôi hơi... ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia... Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km! Vùng này toàn rừng là rừng. Không phải là rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mươi, mười lăm thước... coi khô hóc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng, nhưng đồi không cao và trũng không sâu...

Nhà nước phá rừng trồng mía. Rừng mía ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá,... nằm cách nhau cỡ vài cây số.

Muốn về thủ đô Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựa. Từ đó chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy bay Air Afrique về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến.

Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đất đỏ, mỗi lần máy bay bay lên đáp xuống là bụi bay... đỏ trời !

Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi “làm lại cuộc đời” ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Ðông duy nhứt làm việc chung với Tây trắng (chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể). Ở đây, thiên hạ gọi tôi là “le chinois”' - thằng Tàu - Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi... nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy.

...Một hôm, sau hơn tám tháng “ở rừng,” tôi được gọi về Abidjan để họp (đây là lần đầu tiên được về thủ đô!). Anh tài xế đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa. Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế nói:

- Tôi ra ngủ trưa ở trong xe. Chừng Patron (ông chủ) đi được rồi tôi mới về.

Ở xứ đen, họ dùng từ “Patron'' để gọi ông chủ, ông sếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang,... Nghe quen rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết!

Tôi nói:

- Về đi! Ðâu cần phải đợi!

Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng toát:

- Tại Patron không biết chớ ở đây lâu lâu họ lại hủy chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh ở đâu đó. Máy bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường.

Rồi hắn đi ra xe. Tôi ngồi xuống mt phô-tơi, nhìn quanh: hành khách khá đông, nhiều người ngồi với mt số hành lý như thùng cạc-tông, bao bị, va-ly, v. v... Không phải họ không biết gởi hành lý, nhưng vì những gì họ đã gửi đã đủ số ký-lô giành cho mỗi hành khách, nên số còn lại họ... xách tay, cho dầu là nhiều món vừa nặng vừa cồng kềnh!

Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngã người trên lưng ghế, lim dim...

Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ: “Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy.” Rồi lại nhắm mắt lim dim... Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước khi “xuống hò”: “Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng... đang vươn lên ngọn khói... á... lam... à... chiều...”

Ðúng rồi ! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngoài kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá! Người đen đâu có năm võng. Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển... họ cũng ít dùng nữa.

Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn trẻ, còn cái võng là loại võng nhà binh của quân đi Việt Nam Cộng Hòa hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp:

- Bonjour!

Anh ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng nói “Bonjour.” Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp:

- Anh hát cái gì vậy?

Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp:

- Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải ông là le chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không?

Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp:

- Ðúng và sai! Ðúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai là vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.

Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ:

- Trời ơi!... Bác là người Việt Nam hả?

Rồi hắn vỗ lên ngực:

- Con cũng là người Việt Nam nè!

Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy’’này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt...

Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:

- Trời ơi!...Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!... Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt...con mừng “hết lớn” bác à!

Rồi hắn kéo tôi lại võng:

- Bác nằm đi! Nằm đi!

Hắn lại đống gạch “bờ-lóc” gần đấy lấy hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói:

- Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy con đã phóng Honda vô trỏng kiếm bác rồi! Ðâu đợi tới bây giờ...

Hắn móc gói thuốc, rút lòi ra một điếu, rồi đưa mời tôi:

- Mời bác hút với con một điếu.

Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai tay. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một “cái gì” rất Việt Nam.

Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười:

- Bộ bác nhìn ra nó rồi hả?

Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Ðó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến:

- Của ông ngoại con cho đó! Ổng cho, hồi ổng còn sống lận.

Rồi hắn bật cười:

- Hồi đó ổng gọi con bằng “thằng Lọ Nồi.”

Ngừng một chút rồi tiếp:

- Vậy mà ổng thương con lắm à bác!

Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm... Tôi nói:

- Vậy là cháu lai Việt Nam à?

- Dạ. Má con quê ở Nha Trang.

- Rồi má cháu bây giờ ở đâu?

Giọng của hắn như nghẹn lại:

- Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi Việt Cộng vô năm 1975.

- Còn ba của cháu?

- Ổng hiện ở Paris. Tụi này nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!

Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt Nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ này, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi môi dầy...

Tôi chợt nói, nói một cách máy móc:

- Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!

Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang:

- Có chớ bác. Con có lai chớ bác.

Hắn xòe hai tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại:

- Bên ni của con là nằm ở bên ngoài đây nè.

Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:

- Còn bên ngoại của con, nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.

Bỗng giọng hắn nghẹn lại:

- Con lai Việt Nam chớ bác!

Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt tôi, một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi vói tay vỗ nhẹ lên vai hắn mấy cái, gật đầu nói:

- Ô! Bác thấy. Bây giờ thì bác thấy...

Hắn mỉm cười:

- Ở đây người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ. Bà nội con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không?

Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến dâng lên trong ánh mắt:

- Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa. Gặp một người giống mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh này, thiệt là Trời còn thương con quá!

Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng...

Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu:

- Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài “Ðường về quê ngoại” đó bác.

- Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.

Giọng nói của hắn bỗng như hăng lên:

- Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.

- Bác cũng vậy.

Tôi nói, mà thầm phục sự hiểu biết của hắn. Và tôi thấy rất vui mừng có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau...Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói:

- Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.

Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh:

- Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết “Jean le vietnamien” hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.

Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ, rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi:

- Ghé con nghe bác...Ghé con...

Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật gật đầu, vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con...

Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi vội vã quay đi, lầm lũi bước nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho “thằng Jean le vietnamien.” Hồi nãy, nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ...

...Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến “thằng Jean” rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Ðể cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa!

***

Bây giờ, viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi: “Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam? Và có được bao nhiêu người còn mang mểnh trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nằm nguyên trong đó?”