Thứ Hai, 4 tháng 8, 2014

Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường


LGT: Bản dịch của chúng tôi lấy từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong “Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên.

Giáo sư Cheryll Glotfelty - Ảnh: nevadahumanities.org



Cuốn sách này được công nhận là tài liệu nhập môn của phê bình sinh thái. Nữ sĩ là học giả đầu tiên nhận được danh hiệu “giáo sư văn học và môi trường” (professor of literature and environment). Vị giáo sư trường đại học Nevada này là một trong những người khởi xướng “Hội nghiên cứu văn học và môi trường”, cũng là một trong những thành viên sáng lập ra tạp chí “Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường”. Bài giới thiệu cùng với định nghĩa của bà trở thành kinh điển cho phê bình sinh thái.
(Trần Thị Ánh Nguyệt dịch)



Nghiên cứu văn học trong kỉ nguyên hậu hiện đại của chúng ta lâm vào một trạng thái bất biến. Những năm gần đây, dường như, giới nghiên cứu của Anh đang “vẽ lại những đường biên” để “sắp đặt lại” một cách nhanh chóng diễn biến của sự thay đổi của lĩnh vực này. Một hướng dẫn có căn cứ tới nghiên cứu văn học hiện đại gồm 21 bài về những cách tiếp cận phương pháp phê bình của các phương pháp luận và lí thuyết khác nhau. Nó giới thiệu:

Nghiên cứu văn học ở Anh đang trong giai đoạn thác ghềnh, thỉnh thoảng mất phương hướng. Không một phương pháp phê bình nào trong giai đoạn này, từ phân tâm học, phê bình Macxit, tới lí thuyết tiếp nhận và phê bình văn hóa giữ nguyên sự ổn định; vì vậy không một lĩnh vực nghiên cứu nào cũng như và nhánh nghiên cứu nào trong lịch sử nghiên cứu văn học Anh và Mĩ giữ nguyên được khả năng xem xét lại… [Bài luận trong cuốn sách này] làm sáng tỏ một số điểm mà học thuật đáp ứng được áp lực hiện tại(1).

Thật kì lạ, trong các tác phẩm được coi là bao hàm đầy đủ sự hiểu biết của giới nghiên cứu, không có một bài viết nào liên quan đến cách tiếp cận phương pháp sinh thái để nghiên cứu văn học. Mặc cho sự đòi hỏi của học thuật phải “đáp ứng được áp lực hiện tại” thì dường như nó vẫn phớt lờ hầu hết sự nhấn mạnh đến vấn đề đang tranh cãi, được gọi là, khủng hoảng môi trường toàn cầu. Sự vắng mặt của bất cứ dấu hiệu nào của viễn cảnh nghiên cứu văn học đương thời để đưa ra một đề nghị là dù có “năng lực xem xét lại”, học thuật vẫn giữ nguyên tính hàn lâm trong ý thức “khoa học dẫn tới điểm thiếu hiểu biết về thế giới bên ngoài” (Từ điển di sản Hoa Kì).

Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chủng tộc, giai cấp, và giới tính trở thành những vấn đề nóng bỏng vào những năm cuối thế kỉ XX. Thế nhưng, bạn cũng sẽ không bao giờ biết được rằng sự sống của Trái đất - cái nền tảng đang làm nhiệm vụ chống đỡ tất cả những hệ thống ấy - là cái đang nằm sâu bên dưới tất cả những giao tranh căng thẳng đó. Thật vậy, có thể bạn sẽ không bao giờ biết được rằng, dù thế nào, trên tất cả những điều ấy, là chúng ta chỉ có duy nhất một Trái đất mà thôi. Ngược lại, nếu bạn đọc kĩ tên các bài báo của giai đoạn này, sẽ nghiên cứu về hiện tượng tràn dầu, sự nhiễm độc chì và khoáng chất, sự ô nhiễm độc hại, sự tuyệt chủng của các loài chưa từng có từ trước tới nay, những cuộc chiến tranh giành đất đai, sự chống chọi với chất thải hạt nhân, sự gia tăng lỗ hổng tầng ôzôn, nóng lên toàn cầu, mưa axit, xói mòn, sự phá hủy của những trận mưa nhiệt đới, cuộc tranh luận về vết đen trên vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, cháy rừng ở vườn quốc gia Yellowstone, kim tiêm y tế tràn bờ biển Đại Tây Dương, việc tẩy chay cá ngừ, hành động khai thác quá mức lớp nước ngầm ở phương Tây, sự xả thải bất hợp pháp ở phương Đông, thảm họa của những lò phản ứng hạt nhân ở Trecnôbưn, sự phát tán những chuẩn tự động mới, nạn đói kém, hạn hán, lũ lụt, bão tố, một hội nghị quốc gia đặc biệt về môi trường và phát triển, công bố của tổng thống Mĩ là những năm 1990 - “thập kỉ môi trường” và dân số thế giới đạt mức kỉ lục 5 tỉ người. Thông qua tạp chí xuất bản định kì, bạn thấy rằng vào năm 1989, đoạt giải thưởng năm của tạp chí Time là bài viết “Trái đất đang lâm nguy” (The Endangered Earth).

Trong quan điểm trái ngược nhau giữa các sự kiện hiện thời và thiên kiến của giới văn chương, những đòi hỏi về sự uyên thâm của văn học phải đáp ứng được áp lực hiện tại càng trở nên khó khăn để bào chữa. Cho tới mãi gần đây, vẫn chưa có dấu hiệu nào mở ra hướng nghiên cứu văn học có ý thức về khủng hoảng môi trường. Chẳng hạn như không có tạp chí, thuật ngữ, công việc, tổ chức chuyên nghiệp nào cũng như không có những nhóm tranh luận hay hội nghị nào trong lĩnh vực văn chương và môi trường. Trong khi những ngành khoa học nhân văn khác như lịch sử, triết học, luật pháp, xã hội học và tôn giáo đã “nghiên cứu xanh” từ những năm 1970 thì nghiên cứu văn học hình như vẫn bỏ ngỏ mối quan tâm đến môi trường. Trong khi, những hoạt động xã hội như là dân quyền, phong trào giải phóng phụ nữ của những năm sáu mươi, bảy mươi đã làm biến đổi nghiên cứu văn học thế nhưng sự xuất hiện của phong trào môi trường cùng thời gian này lại ít có tác động đến nghiên cứu văn học.

Nhưng ngay cả sự xuất hiện, phê bình sinh thái có thể làm chúng ta thất vọng. Trên thực tế, như những xuất bản định kì trong của một vài bài nghiên cứu trong hợp tuyển này đã chứng minh, cá nhân những nhà nghiên cứu văn học và văn hóa đã phát triển lí thuyết và phê bình về phương diện sinh thái từ những năm bảy mươi. Mặc dù vậy, trái với những hệ thống ràng buộc chặt chẽ được đề cập trước đây, họ không tạo thành một nhóm để có thể nhận diện. Vì thế, những nỗ lực khác nhau của họ cũng không được thừa nhận như một phong trào phê bình rõ rệt. Những nghiên cứu cá nhân xuất hiện trong một bối cảnh rộng và được phân loại trong một hợp tuyển dưới các các tiêu đề như nghiên cứu Mĩ, tôn giáo, sinh hoạt nông thôn, biên giới, sinh thái học nhân văn, khoa học và văn học, tự nhiên trong văn học, phong cảnh trong văn học, hoặc là tên do các tác giả đặt. Một dấu hiệu của tình trạng không thống nhất của những nỗ lực trước đó là các nhà phê bình này hiếm khi trích dẫn tác phẩm của các tác giả khác. Họ không biết rằng nó tồn tại. Trong ý thức, mỗi nhà phê bình phát minh ra một phương pháp tiếp cận môi trường tới văn học theo một cách riêng. Mỗi nhà phê bình là một tiếng nói trong cảnh hoang vu ảm đạm. Kết quả là, phê bình sinh thái không trở thành một phong trào đứng đầu của một tổ chức có sức hút trong giới nghiên cứu như Hiệp hội ngôn ngữ hiện đại. Những sinh viên tốt nghiệp quan tâm đến phương pháp tiếp cận môi trường tới văn học cảm thấy dường như không thích hợp, đã không giao lưu với các nhà nghiên cứu để tham dự và đã không tìm thấy những thông báo trong lĩnh vực chuyên môn của họ.

SỰ KHAI SINH CỦA NGHIÊN CỨU VĂN HỌC MÔI TRƯỜNG

Cuối cùng, vào giữa thập niên tám mươi của thế kỉ hai mươi, giới nghiên cứu bắt đầu đảm nhận công việc cộng tác các dự án, lĩnh vực nghiên cứu văn học môi trường đã ra đời và phát triển vào đầu thập niên chín mươi. Năm 1985, Frederick Owaage biên tập cuốn sách mang tên Giảng dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng phát triển (Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources) bao gồm đủ các loại chiều hướng của mười chín nhà nghiên cứu khác nhau và cố gắng thúc đẩy “một vóc dáng to lớn hơn của sự thức nhận và quan tâm tới vấn đề môi trường trong văn học”(2). Năm 1989, Alicia Nitecki viết “Bản tin văn học Mỹ về các đề tài tự nhiên” (The American Nature Writing Newsletter) mục đích của bà là để công bố các bài luận vắn tắt, điểm sách, những ghi chú khóa tốt nghiệp và những thông tin liên quan đến nghiên cứu cách viết về tự nhiên và môi trường. Một số khác chịu trách nhiệm về những tranh luận đặc biệt về môi trường của các tạp chí văn học uy tín(3). Một vài trường đại học đã bắt đầu đưa vào trong các khóa văn học của họ chương trình giảng dạy về nghiên cứu môi trường, một vài chương trình và học viện về tự nhiên và văn hóa mới được thành lập; một số khoa tiếng Anh đã bắt đầu yêu cầu những chương trình nhỏ hơn về văn học môi trường. Năm 1990, trường Đại học ở Nevada, Reno đã tạo ra môi trường hàn lâm của văn học và môi trường.

Cũng trong năm này, một vài phiên họp đặc biệt liên quan đến các sáng tác viết về tự nhiên hay văn học môi trường là bắt đầu xuất hiện trong chương trình của Hội nghị văn học thường niên. Có lẽ, phiên họp đặc biệt nổi tiếng nhất của Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (MLA) vào năm 1991 được thành lập bởi Harold Fromm có chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học”. Năm 1992, Hội nghị chuyên đề của Hiệp hội Văn học Mỹ do Glen Love chủ trì với chủ đề là “Sáng tác về tự nhiên của văn học Mỹ: những ngữ cảnh mới, những phương pháp mới” (American Nature Writing: New Contexts, New Approaches). Năm 1992, tại hội thảo thường niên của Hội Văn học Miền Tây, một hội mới của văn chương và môi trường là Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (the Association for the Study of Literature and Environment), viết tắt là ASLE được thành lập, Scott Slovic được lựa chọn là chủ tịch đầu tiên của hiệp hội này. Sứ mệnh của ASLE là “để thúc đẩy việc trao đổi ý tưởng và thông tin liên quan đến văn học xem xét mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên” và khuyến khích “cách viết về tự nhiên, các phương pháp học thuật truyền thống và sáng tạo về cách tiếp cận văn học môi trường, nghiên cứu môi trường liên ngành”. Trong năm đầu tiên, số thành viên của ASLE hơn 300 người; sang năm thứ hai, con số đó lên gấp đôi và đã tạo ra một sự kết nối bằng thư điện tử một cách thuận tiện giữa các thành viên; đến năm thứ ba, năm 1995, các thành viên của ASLE đã là 750 người và tổ chức hội nghị lần đầu tiên ở Fort Collins, Colorado. Năm 1993 Patrick Murphy đã xuất bản tạp chí mới, là Nghiên cứu liên ngành Văn học và Môi trường (ISLE: Interdisciplinary Studies in Literature and Environment) để “cung cấp một diễn đàn nghiên cứu phê bình văn học và thi hành nghệ thuật xuất phát từ hoặc quan tâm tới lí do môi trường. Tạp chí cũng bao gồm cả lí thuyết sinh thái, môi trường luận, quan niệm về tự nhiên và sự miêu tả của họ, sự lưỡng phân giữa con người/ tự nhiên cũng như lợi ích của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên”(4).

Năm 1990, sau đó, nghiên cứu văn học sinh thái đã nổi lên như một trường phái phê bình có thể nhận diện được. Sự phân tán rời rạc trước kia của các học giả đơn lẻ đã nối kết sức mạnh với những học giả trẻ tuổi và những sinh viên tốt nghiệp trở thành những nhóm quan tâm mạnh mẽ với khát vọng thay đổi giới nghiên cứu. Khởi nguyên của phê bình sinh thái như là một phương pháp phê bình tính lùi lại chính là sự kết hợp của hơn hai mươi năm.

ĐỊNH NGHĨA PHÊ BÌNH SINH THÁI

Vậy, phê bình sinh thái là gì? Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm để nghiên cứu văn học.

Phê bình sinh thái và các nhà lí thuyết đã đặt ra nhiều vấn đề: tự nhiên được hình dung như thế nào trong các bài thơ trữ tình? Vai trò của bối cảnh tự nhiên trong cốt truyện của tiểu thuyết? Các giá trị thể hiện trong kịch có nhất quán với trí tuệ sinh thái? Làm thế nào chúng ta có thể mô tả cách viết về tự nhiên như một thể loại? Ngoài chủng tộc, giới tính nên đặt điểm nào trở thành danh mục phê bình mới? Nhà văn nam viết về tự nhiên khác nhà văn nữ như thế nào? Cách đọc nào chịu ảnh hưởng của mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên? Ý niệm về sự hoang dã sẽ thay đổi như thế nào trong thời gian tới? Những cách nào và những tác động gì mà khủng hoảng môi trường thấm vào văn học đương thời và văn hóa đại chúng? Quan niệm về tự nhiên nào đã thấm nhuần trong các báo cáo của chính phủ Mĩ, những quảng cáo của các doanh nghiệp, các tài liệu tự nhiên của truyền hình và những gì ảnh hưởng một cách rộng rãi? Những hướng đi nào khoa học sinh thái học hướng đến trong nghiên cứu văn học? Khoa học mở ra như thế nào trong việc phân tích văn học? Sự trao đổi lẫn nhau giữa những khái niệm không giống nhau có thể có giữa nghiên cứu văn học và diễn ngôn môi trường trong mối quan hệ liên ngành như lịch sử, triết học, tâm lí, lịch sử nghệ thuật, đạo đức?

Mặc dù phạm vi rộng lớn của những vấn đề đặt ra và mức độ khác nhau của sự phức tạp, toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn hóa con người kết nối với thế giới tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của nó. Phê bình sinh thái đặt ra vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học. Như là một quan điểm phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt đất; như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con người và (thế giới) phi nhân.

Phê bình sinh thái có thể được hình dung rõ hơn bằng việc chỉ ra sự khác biệt nó với phương pháp phê bình phê bình khác. Lí thuyết văn học, nhìn chung, nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà văn, văn bản và thế giới. Trong hầu hết các lí thuyết văn học, “thế giới” đồng nghĩa với xã hội - phạm vi xã hội. Phê bình sinh thái mở rộng khái niệm “thế giới” bao gồm toàn bộ sinh quyển. Nếu chúng ta đồng ý với Barry Commoner rằng nguyên tắc đầu tiên của sinh thái là “Mọi sự vật đều có sự liên kết với nhau”, chúng ta có thể kết luận rằng văn học không lơ lửng ngoài thế gới chất liệu của bầu không khí nghệ thuật, đúng hơn là góp một phần vào hệ thống trái đất vô cùng phức tạp ở nơi mà khả năng, vấn đề, và ý tưởng tương tác lẫn nhau.

Nhưng tên gọi mang tính phân loại chi nhánh xanh của nghiên cứu văn học này vẫn được coi như là một sự thỏa thuận. Trong cuốn “Hài kịch của sự sinh tồn: những nghiên cứu trong sinh thái học văn học” (The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology, 1972), Joseph Meeker giới thiệu thuật ngữ: sinh thái học văn học (literary ecology) ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề sinh thái và những mối liên hệ xuất hiện trong tác phẩm văn học. Đồng thời, nó cũng là một sự thử nghiệm để khám phá ra vai trò của nó là gì với văn học trong sinh thái học của loài người”(5). Thuật ngữ ecocriticism có lẽ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1987 bởi William Rueckert trong một khảo luận tên là “Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới trong phê bình sinh thái” (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism) (được in lại trong tuyển tập này). Phê bình sinh thái (ecocriticism) theo Rueckert có nghĩa là “việc ứng dụng sinh thái học và các thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu văn học”. Định nghĩa của Rueckert có liên quan đặc biệt với khoa học sinh thái học và theo đó đã giới hạn lại thành một thuật ngữ được đề xuất trong tuyển tập này, có thể bao gồm tất cả mối quan hệ giữa văn học và thế giới tự nhiên(6). Nhiều thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng như “thi pháp sinh thái” (ecopoetics), “phê bình văn học môi trường” (environmental literary criticism), hay “phê bình (văn hóa) xanh” (green (cultural) studies).

Nhiều nhà phê bình viết phê bình môi trường không muốn và không cần đến một cái tên đặc biệt cho nó. Một số khác tranh luận rằng tên gọi là quan trọng. Hoàn toàn đúng như vậy bởi vì các nghiên cứu trước đây thiếu một chủ đề chung khiến cho chúng phân tán quá rộng, không thể dựa vào nhau và trở nên khó tiếp cận đồng thời bỏ qua tác động của chúng đến giới nghiên cứu. Một số học giả thích thuật ngữ ecocritism vì nó ngắn gọn và có thể dễ dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical (tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic (nhà phê bình sinh thái). Thêm nữa, họ thích tiền tố “eco-” (sinh thái) hơn tiền tố “enviro-” (môi trường) bởi vì tương tự khoa học sinh thái học, phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ giữa các sự vật, trong trường hợp này, giữa văn hóa và thế giới tự nhiên. Hơn nữa, theo nghĩa rộng, tiền tố “enviro” (môi trường) mang tính chất con người là trung tâm và có tính nhị nguyên, ngụ ý rằng, con người chúng ta là trung tâm, tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco-” (sinh thái) ám chỉ các cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, những hệ thống hòa hợp và sự kết nối mạnh mẽ giữa các bộ phận cấu thành. Rốt cuộc, dĩ nhiên, việc sử dụng sẽ chỉ ra thuật ngữ được chấp nhận. Nhưng nghĩ thế nào cho thuận tiện là nó sẽ được đặt vào cơ sở dữ liệu máy tính và có một thuật ngữ duy nhất nhập vào cho sự tìm kiếm chủ đề của bạn…

KHOA HỌC NHÂN VĂN VÀ SỰ KHỦNG HOẢNG MÔI TRƯỜNG

Bất kể là tên gọi gì, hầu hết tác phẩm phê bình sinh thái đều có chung một động cơ: đó là nỗi day dứt rằng chúng ta đã đi tới thời đại môi trường cạn kiệt, một thời đại mà hậu quả hành động của con người đang tàn phá hành tinh. Chúng ta đã tới thời đại đó. Hoặc là chúng ta phải thay đổi chính mình hoặc sẽ phải đối mặt với thảm họa toàn cầu. Con người đang tàn phá vẻ đẹp tự nhiên và đẩy vô vàn sinh vật đến bên bờ tuyệt chủng trong cuộc chạy đua điên rồ của chúng ta tới ngày tận thế. Rất nhiều đồng sự trong các trường đại học trên thế giới đã nhận thức được rằng chúng ta đang ở tình thế tiến thoái lưỡng nan. Khí chất và tài năng của chúng ta đã kí thác trong các khoa văn học, nhưng khi những vấn đề môi trường càng trở nên tồi tệ hơn, công việc lệ thường dường như phù phiếm quá đỗi. Nếu chúng ta không là phần của đáp án, chúng ta là phần của vấn đề.

Làm thế nào chúng ta có thể góp phần khôi phục môi trường, không chỉ trong không gian và thời gian của chúng ta mà tự bên trong khả năng của chúng ta với tư cách như là các chuyên gia văn học. Câu trả lời nằm ở sự thức nhận rằng các vấn đề môi trường hiện nay chủ yếu là do chính chúng ta tạo nên, hay nói cách khác, là một sản phẩm của văn hóa. Như nhà sử học Donald Woster lí giải:

Khủng hoảng toàn cầu mà ngày nay chúng ta đang đối diện có nguồn gốc không phải bởi hệ thống sinh thái mà ở hệ thống văn hóa của chúng ta. Vượt qua được cuộc khủng hoảng này cần đến sự lí giải về tác động của văn hóa đến tự nhiên, thậm chí dùng tri thức đó để cải cách văn hóa của chúng ta. Các sử gia cùng với nhà nghiên cứu văn học, nhân loại học, và các triết gia không thể trực tiếp thực hiện cuộc cách mạng, tất nhiên, nhưng họ có thể mang lại sự hiểu biết.(8)

Trả lời cho cái gọi là sự hiểu biết, các nhà nghiên cứu khoa học nhân văn khắp nơi đang tìm cách thêm vào chiều kích môi trường những môn học riêng của họ. Worster và những sử gia khác viết về lịch sử môi trường, viết về mối quan hệ tương hỗ giữa con người và địa lí, đừng coi tự nhiên như là sân khấu cho vở diễn của con người, mà là một diễn viên ngang hàng trong tấn kịch ấy. Họ tìm thấy nguồn gốc của các mối quan hệ giữa hoàn cảnh môi trường với các phương thức sản xuất kinh tế và các ý tưởng văn hóa xuyên thời gian.

Các nhà nhân loại học từ lâu quan tâm tới mối quan hệ giữa văn hóa và địa lí. Công việc của họ trên các nền văn hóa nguyên thủy đặc biệt có thể giúp phần còn lại của chúng ta không chỉ tôn trọng quyền sống của con người mà còn để suy nghĩ về hệ thống và nghi thức đã giúp những nền văn hóa này tồn tại vững bền.

Tâm lí học một thời gian dài cố tình lời đi tự nhiên trong những lí thuyết về trí óc con người. Một ít các nhà tâm lí học hiện nay, dù vậy, đã khám phá ra sự nối kết giữa hoàn cảnh môi trường và sức khỏe tinh thần, một số liên quan đến sự xa rời hiện tại đối với tự nhiên như căn bệnh cơ bản của tâm lí và xã hội chúng ta.

Trong triết học, ở những nhánh nghiên cứu khác nhau như đạo đức môi trường (environment ethics), sinh thái bề sâu (deep ecology), sinh thái nữ quyền (ecofeminism), sinh thái xã hội (social ecology)

Nhiều nhánh nghiên cứu đã hình thành nhằm tìm hiểu và phê bình những nguyên nhân dẫn đến suy thoái môi trường và tạo ra những góc nhìn khác về sự sống mà có thể cung cấp nền tảng đạo đức và kiến thức cho cách hiểu đúng đắn về tương quan giữa các tồn tại trên trái đất.

Trong khi một số học giả Thiên Chúa Giáo dòng Do Thái giáo cố gắng tìm kiếm các cứ liệu trong kinh thánh chứng minh con người đã từng làm chủ trái đất một cách khôn ngoan, hợp lý, các học giả khác đặt lại vấn đề Chúa là chủ thể sáng tạo tất cả và coi bản thân trái đất là thiêng liêng. Còn có các học giả khác hướng về tôn giáo cổ đại thờ Nữ thần Đất mẹ, hoặc các truyền thống tôn giáo phương Đông, hoặc tôn giáo của người Mỹ bản địa - các hệ thống tôn giáo chứa đầy các tín điều sáng suốt về tự nhiên và thế giới tinh thần(9).

Những nhà nghiên cứu văn học là những chuyên gia về các vấn đề giá trị, ý nghĩa, truyền thống, điểm nhìn, ngôn ngữ và ở trong những lĩnh vực này, họ góp phần đáng kể cho tư tưởng về môi trường. Nhận thức rằng khủng khoảng môi trường trở nên trầm trọng bởi cách phân chia rời rạc và chuyên môn hóa thái quá của chúng ta về sự hiểu biết thế giới, các học giả nhân văn đã nỗ lực hơn để thay đổi chính họ trong khoa học và chấp thuận phương pháp liên ngành.

NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH SINH THÁI Ở MĨ

Dưới tán rộng của phê bình văn học sinh thái tụ tập rất nhiều dạng phê bình, và nên như thế, bởi lẽ văn học và môi trường là một chủ đề lớn. Vài năm trước đây, khi tôi đang nỗ lực tạo ra hệ thống một hệ thống phân nhánh giúp cho sự tích hợp này trở nên dễ hiểu, Wallace Stegner - tiểu thuyết gia, sử gia, nhà phê bình văn học - đưa ra lời khuyên sáng suốt rằng nếu ông làm điều đó, ông sẽ thiên về những chủ đề vẫn còn “rộng, mơ hồ, nhiều hàm ý, mở chỉ vì văn học và môi trường cũng như tất cả những cách chúng ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng, chứ không cố gắng để mã hóa và hệ thống hóa. Hệ thống có thể ví như là tấm da sống ẩm ướt”, ông cảnh báo “khi chúng khô chúng kìm hãm những gì mà chúng kết lại thành hệ thống rắn chắc”(10). “Nhiều hàm ý và mở” chính xác là những gì mà phê bình sinh thái cần có nhưng theo trình tự, để tránh tình trạng lộn xộn trong khảo sát ngắn gọn sau đây về các tác phẩm phê bình sinh thái, tôi sẽ không làm công việc mã hóa. Do vậy, chúng ta hãy đồng ý rằng hệ thống không phải là sự bó buộc. Tuy nhiên, mô hình ba giai đoạn trong phê bình nữ quyền của Elaine Showalter có ích trong việc sắp xếp theo hệ thống ba giai đoạn của phê bình sinh thái(11).

Bước đầu tiên của phê bình nữ quyền, phê bình ‘hình ảnh người phụ nữ’, chú ý đến việc người phụ nữ được khắc họa như thế nào trong văn học kinh điển. Những nghiên cứu này tác động thiết yếu tới nhận thức nữ quyền thông qua việc phân tích các mẫu thể hiện thành kiến phân biệt giới tính - như phù thủy, mụ đàn bà xấu xa, gái điếm, và bà cô không chồng - cũng như nghiên cứu sự vắng mặt của phụ nữ trong các tác phẩm đó, và đặt vấn đề nghi vấn sự phổ quát có dụng ý đó, thậm chí cả giá trị mĩ học của các tác phẩm văn chương bóp méo hoặc phớt lờ cuộc sống, suy nghĩ của một nửa nhân loại. Nhiều nghiên cứu phê bình sinh thái khám phá sự thể hiện tự nhiên trong văn chương. Cũng như trong phê bình nữ quyền, phê bình sinh thái nghiên cứu các mẫu lặp lại - vườn địa đàng, Acadia, vùng đất nguyên sơ, đầm lầy chướng khí, vùng hoang dã - cũng như nghiên cứu cả sự thiếu vắng hình ảnh tự nhiên trong văn bản văn học nhất định nào đó. Nhưng bản thân tự nhiên không phải là đối tượng duy nhất của phê bình sinh thái. Các chủ đề khác bao gồm biên giới, động vật, thành phố, các khu vực địa lý cụ thể, sông, núi, hoang mạc, thổ dân, khoa học kĩ thuật, rác rưởi, và thân thể.

Giai đoạn thứ hai của phê bình nữ quyền, giai đoạn văn học truyền thống của nữ giới, tương tự việc phục vụ các chức năng quan trọng của ý thức nâng cao việc khám phá lại, tái bản lại, xem xét lại văn chương nữ giới. Phê bình sinh thái cũng cố gắng hồi sinh những thể loại bấy lâu nay bị lãng quên, phớt lờ của văn chương viết về tự nhiên: truyền thống văn chương phi hư cấu viết về tự nhiên đã được khởi nguồn ở Anh từ cuốn Lịch sử tự nhiên của Selbourne (A Nature History of Sebourne) do Gilbert White viết năm 1789 và mở rộng ra ở Mỹ tới Henry Thoreau, John Burroughs, John Muir, Mary Austin, Aldo Leopold, Rachel Carson, Eward Abbey, Annie Dillard, Barry Copez, Terry Tempest Williams và nhiều người khác nữa. Sáng tác viết về tự nhiên lấy làm kiêu hãnh về một quá khứ giàu có, một hiện tại đầy sức sống và một tương lai đầy triển vọng. Các nhà phê bình sinh thái rút ra từ nhiều lí thuyết phê bình hiện nay - Phân tâm học, Phê bình mới, Phê bình nữ quyền, Bakhtin học, Giải cấu trúc - những lợi ích của sự hiểu biết và thúc đẩy sự phát triển của chính bản thân văn học. Bằng chứng cho thấy sáng tác về tự nhiên là chiếm lĩnh thị trường văn học, chứng kiến số lượng đáng kinh ngạc của tuyển tập được xuất bản trong những năm gần đây(12). Trong sự gia tăng của đô thị, những sáng tác về tự nhiên đóng vai trò sống còn trong việc giáo dục chúng ta về những giá trị của thế giới tự nhiên.

Một nỗ lực khác để phát hành các tác phẩm khai sáng môi trường là nghiên cứu nhiều xu hướng thể loại, nhận dạng các tác giả tiểu thuyết, thơ ca mà tác phẩm của họ thể hiện ý thức sinh thái. Những tác giả như Willa Cather, Robinson Jeffers, W. S. Merwin, Adrienne Rich, Wallace Stegner, Gary Snyder, Mary Oliver, Usula Le Guin và Alica Walker đã nhận được nhiều sự chú ý, như là những nhà văn tự nhiên của Mỹ, nhưng đường chân trời của những khả năng vẫn còn để ngỏ. Tương tự như sự quan tâm của phê bình nữ quyền tới cuộc sống của các nhà văn nữ, các nhà phê bình sinh thái cũng nghiên cứu những điều kiện môi trường đối với cuộc sống của một nhà văn - sự chi phối của không gian sống tới khả năng hư cấu của các tác giả - chứng minh rằng nơi mà nhà văn đã từng lớn lên, từng trải qua và viết là chỗ thích đáng để hiểu về tác phẩm của họ. Một số nhà phê bình đã tìm thấy giá trị của những chuyến tham quan tới những nơi mà nhà văn đã sống và viết; ví dụ, hồi tưởng về những bước chân của John Muir đã in trên Sierra là trải nghiệm bản thân về một trạng thái tuyệt vời; hoặc những tư liệu về sông Merrimac cho thấy rõ hơn về những bối cảnh tự nhiên trong mục đích những chuyến lang thang của Thoreau.

Giai đoạn thứ ba mà Showalter nhận ra trong phong trào phê bình nữ quyền là giai đoạn phát triển lí thuyết, điều này khá là xa tầm với và phức tạp, cần phải nhờ cậy đến đủ các loại lí thuyết để đề xuất các vấn đề cơ bản của cấu trúc biểu tưởng của phái tính và giới tính trong phạm vi diễn ngôn văn học. Tương tự, công việc trong phê bình sinh thái cũng bao gồm cả sự nghiên cứu các cấu trúc biểu tượng của các loài. Các diễn ngôn văn học định nghĩa loài người như thế nào? Sự phê bình đó đặt nghi vấn thuyết nhị nguyên trong tư tưởng Tây phương - vốn tách ý nghĩa ra khỏi vấn đề, ý nghĩ ra khỏi thân thể, phân biệt rạch ròi nam giới và phụ nữ, cũng như làm phân li nhân loại với tự nhiên. Một nỗ lực liên kết đang được thực hiện mang tên là “sinh thái nữ quyền” (ecofeminism), một diễn ngôn lí thuyết mà chủ đề của họ là nối kết giữa sự áp bức phụ nữ và sự thống trị tự nhiên. Chưa có một dự án lí thuyết nào khác thử phát triển thi pháp sinh thái, lấy khoa học về sinh thái, với tư tưởng hệ thống sinh thái làm cơ sở cho lí thuyết đó cũng như tầm quan trọng của nó tới các mối quan hệ nối liền nhau với dòng chảy năng lực tiềm tàng, như là một ẩn dụ cho cách mà thơ ca thực hiện chức năng với xã hội. Các nhà phê bình sinh thái cũng xem xét đến hiểu biết triết học hiện nay như sinh thái bề sâu (deep ecology), một triết lí phê phán tận gốc rễ tư tưởng con người là trung tâm, để từ đó khám phá những hàm nghĩa cần thiết cho nghiên cứu văn học.

TƯƠNG LAI CỦA PHÊ BÌNH SINH THÁI

Điểm nổi bật của phê bình sinh thái chính là sự nghiệp có giá trị mở đầu bởi vì nó trực tiếp chú ý tới những vấn đề mà chúng ta cần suy nghĩ. Việc nâng cao ý thức là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nếu chúng ta không bắt đầu suy nghĩ về vấn đề môi trường thì làm thế nào chúng ta có thể giải quyết được vấn đề đó?

Ở trên, tôi đã nói rằng các nhà phê bình sinh thái có khát vọng thay đổi giới nghiên cứu. Có lẽ tôi nên viết rằng tôi đã có tham vọng mạnh mẽ như vậy với phê bình sinh thái. Tôi mong muốn thấy phê bình sinh thái trở thành một chương của cuốn sách “vẽ lại những ranh giới phê bình của nghiên cứu văn học”. Tôi mong muốn thấy một chuyên ngành về văn học và môi trường trong mọi khoa Văn học. Tôi mong muốn thấy cuộc chạy đua của các thí sinh trên diễn đàn xanh bầu chọn cơ quan cao nhất trong các hiệp hội nghiên cứu của chúng ta. Chúng ta đã chứng kiến phong trào phê bình nữ quyền và phong trào phê bình đa dân tộc đã biến đổi tận gốc rễ giới nghiên cứu, thị trường việc làm và các giá trị. Khi họ thay đổi giới nghiên cứu, họ giúp thay đổi thế giới.

Một tiếng nói mạnh mẽ trong giới nghiên cứu cho phép các nhà phê bình sinh thái ảnh hưởng đến sự thay đổi nhiệm vụ quan trọng trong các tiêu chuẩn, chương trình và các chính sách của trường đại học. Chúng ta thấy những quyển sách như Niên giám về đất nước sa mạc (A sand country almanac) của Aldo Leopold và cuốn Người ẩn dật sa mạc (Desert Solitaire) của Edward Abbey trở thành những cuốn sách chuẩn mực cho các khóa học văn học Mỹ. Những cuộc trao đổi văn học của sinh viên và các khóa học sáng tác sẽ khuyến khích suy nghĩ một cách nghiêm túc về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; về vấn đề đạo đức hay thẩm mĩ đặt ra do sự khủng hoảng môi trường; về việc làm thế nào ngôn ngữ và văn học truyền giá trị của những hàm ý sinh thái sâu xa. Các trường đại học và cao đẳng của thế kỉ XXI sẽ yêu cầu tất cả sinh viên hoàn thành ít nhất một khóa học liên ngành về nghiên cứu môi trường. Một số Tổ chức giáo dục đại học sẽ dành một ngày làm việc bằng giấy tái chế - một số viện khác cũng sẵn sàng làm như vậy.

Trong tương lai, chúng ta có thể mong rằng phê bình sinh thái trở thành liên ngành, đa văn hóa và mang tính quốc tế chưa từng thấy từ trước tới nay. Công tác liên ngành cũng được tiến hành và có thể được tạo điều kiện hơn nữa bằng cách mời các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực để làm diễn giả tại các hội nghị văn học và bằng việc đăng cai nhiều hơn những hội thảo liên ngành về các vấn đề môi trường. Phê bình sinh thái chủ yếu là một phong trào phê bình do các nhà phê bình da trắng thực hành. Nó trở thành một phong trào đa quốc gia khi sự kết nối mạnh mẽ hơn được tạo nên giữa môi trường và kết quả của sự công bằng xã hội; khi sự đa dạng của các tiếng nói được khuyến khích để tranh luận. Tiêu điểm của cuốn sách này là những tác phẩm phê bình sinh thái ở Mỹ. Tuyển tập tiếp theo có thể là tuyển tập tác phẩm quốc tế về các vấn đề môi trường toàn cầu hiện nay và tình trạng phân tán của chúng ta sẽ cần đến sự cộng tác trên phạm vi toàn thế giới(13).

Năm 1985, Coren Acton, một chàng trai ở trang trại Montana quay thiên văn năng lượng mặt trời đang bay trên phía tàu vũ trụ con thoi Challenger Eight. Những quan sát của anh có thể phục vụ để nhắc nhở chúng ta về bối cảnh toàn cầu của công việc phê bình sinh thái:

“Nhìn ra bên ngoài bóng tối của không gian, rải vẻ lộng lẫy huy hoàng của vũ trụ ánh sáng, tôi cảm thấy vẻ uy nghi, nhưng điều đó không mang lại cho tôi niềm vui. Bên dưới là một hành tinh chào đón. Ở đó, chứa đựng trong cái vỏ mỏng, chuyển động và cực kì mong manh của sinh quyển là tất cả những gì thân yêu, tất cả mọi tấn kịch và bi kịch của con người”(14).

(SH305/07-14)


............................................................
1. Stephen Greenblatt and Giles Gun, ed., Redrawing the Boundaires: The Transformation of English and American Literary Studies (New York: MLA, 1992) 1- 3

2. Frederick Owaage, ed., Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources, (New York: MLA, 1985) viii.

3. Information on The American Nature Writing Newsletter, Interdisciplinary Studies in Literature and Environment (ISLE), and the Association for the Study of Literature and Environment (ASLE) can be found in the Periodicals and Professional Organizations section at the back of this book.

5. Joseph Meeker, The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology (New York: Seribner s, 1972)

6. Wendell V. Harris, “Toward an ecological critism: contextual versus unconditional literary Theory” (College English 48.2 [February 1986] 166 - 31)

8. Donald Woster, The Wealth of Nature Enviromental History and the Ecological Imagination (New York: Oxford University Press, 1993) 27

10. Wallace Stegner, letter to the author, 28 May 1989.

11. Elaine Showalter, “Introdution: The Feminism Critical Revolution”

The New Feminism Criticism: Essay on Women, Literature and Theory, ed., Elaine Showalter (New York: Patheon, 1985) 3 – 17

13. The Cultrure of Nature: Approaches to the study of Literature and Enviroment, ed. Scott Slovic and Ken-ichi Noda (Kyoto: Minerva Press, 1995)

14. The Home Planet, ed. Kevin W. Keeley (New York: Addison Wesley, 1988)

*Các chú thích 4, 7, 9, 12 tác giả đưa ra hệ thống các tác phẩm bàn đến từng vấn đề, chúng tôi không chú thích lại vì khá dài.

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2014

THẰNG CẦM CẶC



Truyện ngắn của PHẠM DŨNG

Ở nước Sảng thời Ngũ quốc phân tranh, có một người có cái tên rất kinh dị đó là thằng cầm cặc. Sở dĩ hắn có cái tên này là do vua nước Sảng có một thói quen vô cùng bệnh hoạn là khi ngủ với các cung tần mỹ nữ phải có nó cầm cái thứ đó thì nhà vua mới hoàn thành mỹ mãn công việc. Vì sao thì thật khó lý giải.

Lúc đó nước Sảng bí bét nhất trong 5 nước. Nào là quan lại tham nhũng, kiêu binh ức hiếp dân lành, hoạn quan lũng đoạn triều chính. Tóm lại người càng có tài, có tâm thì càng sống lay lắt, khổ sở.

Thằng cầm cặc là đứa có tâm. Nhiều lần, nhân khi vua đang lên đỉnh, nó góp ý cho nhà vua cần phải làm thế này thế khác. Nhưng nhà vua không nghe: “Ổn định là điều căn bản của một nước! Có ổn định ta với nhà ngươi mới được như thế này chứ!?”

Thời gian trôi qua, thằng cầm cặc hồi mới vào cung, cằm nhẵn thín giờ đã có một chòm râu dài cả tấc. “Cứ thế này mãi thì mình chẳng làm được gì cho dân cho nước a?”. Nghĩ thế, nó xin từ quan.

- Ờ, mày về đi, cũng già mẹ nó rồi, hử?

Vua nói rồi ban cho nó vô khối vàng bạc gấm vóc cùng một tấm bảng sắc phong có dòng chữ tự tay vua viết:

“Đây là một người cầm cặc vĩ đại!”.

Thế là thằng cầm cặc về.

Nhưng từ ngày nó ra đi, không có ai cầm cái đó thì vua lại chẳng thể nào hành sự được. Vua cho rất nhiều người thay nó làm việc ấy nhưng đứa thì bàn tay nhẽo nhèo, đứa thì tay cứng quèo, đã thế lại chẳng có sự phối hợp nhịp nhàng. Thật chẳng ra làm sao cả.

Vua tức tốc cho triệu hồi thằng cầm cặc đến.

Thằng cầm cặc yêu cầu phải cho nó làm tể tướng, với quyền lực tuyệt đối thì nó mới chịu trở lại cung.

- Ừ, tể tướng thì tể tướng, cứ làm đi rồi biết!

Và, thằng cầm cặc ra làm tể tướng.

Thời gian trôi đi, năm này qua năm khác, đất nước vẫn ngày càng lụn bại, dân lành vẫn ngày càng sống ngắc ngoải hơn.

Một hôm nhà vua gọi nó vào, hỏi:

- Trẫm đã cho khanh muốn làm gì thì làm, sao không thấy khanh làm gì vậy?

- Dạ, thần cầm cặc quen rồi… nên giờ dù có cho thần tự tung tự tác thần vẫn chẳng thể tự mình làm gì sất.

- Đấy khanh thấy không, làm vua đâu có dễ!

Nói rồi nhà vua kéo nó theo vào hậu cung. Nhà vua mới tuyển được một tài nhân cực kỳ hấp dẫn.

Thằng cầm cặc lại… cầm cặc.

Thằng cầm cặc tự an ủi rằng giúp nhà vua lên đỉnh thì cũng coi như đã làm được một việc có ích cho muôn dân. Nhờ vậy từ sau khi quay lại với công việc cũ, nó không còn bị lương tâm cắn rứt nữa.

Tác phẩm tiên phong của nghệ thuật đương đại Việt Nam tại triển lãm quốc tế




Xét về mặt ý niệm và thực hành, tác phẩm License 2 Draw mà họa sĩ Ưu Đàm mang đến sự kiện nghệ thuật Koganecho Bazaar 2014 - Fictive Communities Asia (Cộng đồng tưởng tượng Á châu) sắp diễn ra ở Yokohama, Nhật Bản có thể xem là bước đi tiên phong của nghệ thuật đương đại Việt Nam.

Họa sĩ Ưu Đàm đang thực hành nháp với “xe vẽ” của mình tại xưởng làm việc


Với tác phẩm License 2 Draw, chỉ cần dùng điện thoại thông minh (smartphone), máy tính bảng và ứng dụng License 2 Draw app là bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu cũng có thể vẽ vào tác phẩm mà Ưu Đàm đang trưng bày ở Nhật Bản. Tác phẩm có “phong thái robot” này không chỉ thay đổi ý niệm về quyền tác giả, về chỉnh thể tác phẩm, về mối quan hệ với người xem, mà còn thay đổi cả phương thức sáng tạo và không gian trưng bày.

Liên minh nghệ thuật và công nghệ

Lấy cảm hứng từ thời đại mà vệ tinh, điều khiển từ xa và cả trò chơi điện tử đang chi phối con người; thậm chí còn chực chờ hủy diệt lẫn nhau bằng “chiến tranh vắng mặt”, Ưu Đàm phác thảo nên tác phẩm này. Anh nhờ một nhóm kỹ thuật có am hiểu về công nghệ điều khiển từ xa và thiết kế để cùng thực hiện (gồm Nguyễn Anh Hào chịu trách nhiệm chính về software, app, recruit…, Bùi Ngọc Khánh phụ trách hardware, mạch điện, thiết kế…, Phạm Đức Huy phụ trách server, và hai họa sĩ thiết kế đồ họa Bùi Thiện Quý và Phạm Ngọc Thắng). Họ đã mất gần một năm cho dự án.

Về phía người tham gia vẽ từ xa, họ viết một lập trình có tên License 2 Draw app, cài đặt rất nhẹ và sử dụng đơn giản; về phía tác phẩm (trong hình thù một chiếc xe đồ chơi có gắn viết vẽ) lại là một lập trình để tiếp nhận lệnh (qua wifi) từ khắp nơi, rồi lần lượt vẽ lên một tấm toan hay mặt phẳng trưng bày tại triển lãm. Nói nôm na, Ưu Đàm “chỉ vẽ” nên tác phẩm này bằng ý niệm về kỹ thuật nền tảng, còn kết quả tác phẩm thì được những ai quan tâm trên khắp thế giới tiếp tay.

Về bản quyền tác giả, rõ ràng tác phẩm này được cấu thành từ nhiều cộng sự, nhưng động lực chính để họ làm việc và để nó hình thành là của Ưu Đàm. Điều này cũng không khác việc xây dựng một tượng đài hoành tráng hoặc sản xuất phim, nơi điêu khắc gia hay đạo diễn chỉ nắm linh hồn chung, còn việc thi công thì do các bộ phận chuyên trách đảm nhiệm. Điều này làm cho License 2 Draw khác với đa phần tác phẩm thị giác khác của Việt Nam, thậm chí thế giới.

Nó mang tính quốc tế và cập nhật vì đã biết nương tựa vào kỹ thuật điều khiển từ xa, thông qua hệ thống liên mạng toàn cầu. Điều này làm cho “quê hương của tác phẩm” (made in…) cũng bị chuyển đổi từ không gian địa lý sang không gian công nghệ và không gian ý niệm. Rất có thể tác phẩm của họa sĩ Việt trưng bày tại Nhật nhưng lại được một người chơi nào đó ở châu Mỹ, châu Phi vẽ chủ đạo, vì họ nhiệt thành hơn và thấy có cảm hứng sáng tạo nhiều hơn.

Và nghệ thuật không giới hạn
Cũng chính nhờ công nghệ mà tác phẩm này không bị giới hạn về kích cỡ đoán định từ đầu của tác giả, mà tùy vào thực tế của không gian trưng bày và điều kiện đầu tư, tác phẩm có thể nới rộng rất dễ dàng. Chúng ta có quyền hình dung về một không gian trưng bày rộng lớn - một bảo tàng chẳng hạn, nơi có từ một đến nhiều “xe vẽ” này đang nhận lệnh khắp nơi để hoàn thành tác phẩm. Người thưởng thức sẽ không còn vào bảo tàng để xem một tác phẩm đã hình thành, mà là đang hình thành; chính họ cũng có thể vẽ ngay tại chỗ nếu chấp nhận tải License 2 Draw app về điện thoại, máy tính bảng của mình.

License 2 Draw app có thể được cài đặt dễ dàng vào điện thoại thông minh và máy tính bảng

Trong quan niệm thời cổ điển và thời hiện đại thì tác giả là người quyết định trọn vẹn tác phẩm của mình, cho nên khi tiếp nhận và phê bình tác phẩm, đa phần vẫn căn cứ vào đây. Về sau này và gần đây, quan niệm này đã thay đổi khá nhiều, nơi quyền của người thưởng thức được đề cao hơn.

Thậm chí có nhiều quan điểm còn cho rằng người thưởng thức mới có quyền quyết định sự sinh tử của tác phẩm, nên cái cách mà họ diễn giải về sau quan trọng hơn ý niệm và ý tưởng mà tác giả muốn hướng đến từ đầu. Tác phẩm License 2 Draw của Ưu Đàm và cộng sự còn đi xa hơn, khi anh cho người thưởng thức được phép đồng sáng tạo trước khi thưởng thức. Chính vì thế cũng sẽ đồng tiếp nhận, nơi sức diễn giải không chỉ dừng lại ở từng chủ thể diễn giải, mà sẽ là liên chủ thể diễn giải. Và thú vị hơn nữa, khi mà sau mỗi diễn giải lại nảy sinh những diễn giải khác, bởi nếu trưng bày dài lâu hoặc vĩnh viễn, tác phẩm sẽ tiếp tục hình thành. Nhóm công nghệ cũng đã nghĩ đến việc nâng cấp và cập nhật License 2 Draw app về sau này.



Sự kiện Koganecho Bazaar 2014 - Cộng đồng tưởng tượng Á châu diễn ra từ ngày 1/8 đến 3/11/2014 tại khu đô thị Koganecho thuộc thành phố Yokohama, Nhật Bản. Sự kiện này khởi động từ mùa Thu năm 2008, bao gồm hội thảo, sân khấu, lễ hội, sự kiện nghệ thuật…; đã thu hút hơn 140 nhóm nghệ sĩ, giám tuyển, các kiến trúc sư từ Nhật Bản và nước ngoài.

Năm nay, ngoài 15 nghệ sĩ tại chỗ, sự kiện mời 22 nghệ sĩ từ nhiều nước, Việt Nam còn có Trương Công Tùng và Liar Ben (TP.HCM, do Ga 0 tiến cử). Họ sẽ lưu trú sáng tạo và giới thiệu tác phẩm trong vòng 3 tháng.

Cũng xin nhắc lại, từ sau Thế chiến 2, khu vực Koganecho được biết đến với tệ nạn mại dâm, ma túy, tội phạm… gần như vô chính phủ kéo dài. Chính vì thế, Hiệp hội Hatsunecho, Koganecho và Hinodecho Environmental Cleanup đã phối hợp với nhiều tổ chức, cá nhân, đặc biệt là giới nghệ sĩ để giúp hồi sinh khu vực này. Sự kiện bán vé Koganecho Bazaar được xem là một điểm sáng điển hình của tinh thần hồi sinh văn hóa, nghệ thuật cho thành phố.



Theo Văn Bảy - TT&VH

Nỗi hổ thẹn của một nền văn minh




Featured Image: Bruno Catalano



Do tính chất đặc thù của công việc nên trong vòng hơn 2 năm, kể từ khi ra trường tôi có cơ hội và may mắn tiếp xúc được rất nhiều con người thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Khi nhìn lại dòng thời gian đã qua, tôi gằn mình lại để sự giận dữ không biến thành những bài viết đầy cực đoan, ảnh hưởng đến những đứa em, đứa cháu, một lớp thế hệ tương lai của dải đất hình chữ S thân thương này.

Ở đây, trong khuôn khổ bài viết với những câu chuyện lộn xộn và vụn vặt, tôi không dám quy chụp những con người mà tôi vô tình có nhắc đến vào những cái tốt đẹp chung của xã hội nhưng tôi dám khẳng định với bạn rằng, chắc chắn bạn sẽ thấy bóng dáng của ai đó bạn đã từng gặp trong câu chuyện của tôi, đây không thể là số ít, đây không thể là tất cả câu chuyện mà tôi có thể kể ra và đâu đó sẽ xuất hiện hình bóng của chính bạn, tôi xin lỗi nhưng cho phép tôi nói thẳng, có lẽ chúng ta trong khoảnh khắc nào đó đều là một nỗi hổ thẹn không thể chối cãi.
Đúng giờ và sự nhẫn nại

Khi là một thằng sinh viên mới ra trường, tôi luôn tò mò và háo hức khám phá cuộc sống còn lạ lẫm xung quanh mình, liên tục là những cuộc hẹn gặp khách hàng, những con người, lắng nghe những câu chuyện và những chia sẻ từ họ là một điều hết sức thú vị. Tuy nhiên, qua những cuộc hẹn gặp đó, tôi dần nhận ra chúng ta đang quá dễ dãi với chính bản thân mình.

Tôi đã gặp rất nhiều những con người, họ đeo trên tay chiếc đồng hồ hàng hiệu, trong túi là chiếc smartphone sành điệu, và tất cả tôi nghĩ chỉ là những đồ vật trang trí tô điểm cho họ, bởi công dụng đơn giản nhất của chúng là để xem thời gian cũng không được dùng đến. Họ sẵn sàng đến muộn trong một cuộc hẹn và coi như nó là việc hết sức bình thường, họ trễ hẹn đến cả giờ đồng hồ với 1001 lý do được đưa ra cùng những cái nhoẻn cười xuề xoà, sự xấu hổ khi vừa làm một việc có lỗi lặn mất tăm trên khuôn mặt. Bởi vì họ coi đó như là một điều hết sức bình thường và lẽ tất yếu trong cuộc sống.

Đơn giản thôi, các bạn đã tự bao giờ cho phép mình mặc định có thể đến trễ trong các cuộc hẹn bạn bè mà không hề cảm nhận được sự xấu hổ? Nếu có thì bạn cũng chính là một trong những con người đang viết nên câu chuyện của nỗi hổ thẹn hôm nay.

Đúng giờ có lẽ là điều xa xỉ đối với một số người, nhưng trên hết nó thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau trong một xã hội mà chúng ta vẫn gọi là văn minh. Và tôi luôn nghĩ, đến một lúc nào đó, nhanh thôi, đời sẽ dạy lại họ thế nào là giá trị của 2 tiếng “thời gian”.

Ở một khía cạnh khác, giữa ngã tư đường, bạn hẳn bắt gặp tiếng còi inh ỏi một cách vội vã của những chiếc xe, kể cả khi đèn đỏ còn cả chục giây. Họ có thể lý giải cho hành động đó là họ đang vội vã đến một nơi nào đó, làm một cái gì đó cho đúng giờ, cho kịp cuộc hẹn. Tôi không quan tâm và không chấp nhận lời giải thích đó, bởi lẽ khi chúng ta không đủ nhẫn nại để chờ đợi vài chục giây đồng hồ tại nơi ngã tư đường thì chúng ta liệu có thể làm được gì to tát hơn thế ? Chúng ta không thể quản lý được quỹ thời gian của chính chúng ta mà lại hoàn toàn để nó chi phối cuộc sống thì đó đâu còn là cuộc sống của chúng ta. Tất cả đều chỉ là mớ nguỵ biện cho sự thiếu kỷ luật đến tàn tệ của một xã hội vô lối.

Cái tôi ích kỷ và nhỏ bé

Chúng ta nghĩ cái tôi của chúng ta là to lớn nhưng thực ra đấy lại chỉ là một cái tôi hoàn toàn đại chúng như bao cái tôi khác.

Tôi từng thấy cả nghìn con người chen chúc nhau, láo nháo, lộn xộn đứng giữa một con phố trung tâm Thủ đô chỉ để giành giật bằng được miếng sushi miễn phí tại một nhà hàng mới khai trương. Các bạn ăn thế có thấy ngon không? Miếng ăn ở đây có là miếng nhục? Khi các bạn sẵn sàng xô đẩy, giẫm đạp lên những người đồng loại của mình để đạt được mục đích, để được ngấu nghiến nhai trong mồm một thứ đồ ăn miễn phí, có thể món đồ đó thật ngon, nhưng cũng có thể nó được làm từ thực phẩm quá hạn. Nhưng nào có sao, bạn không quan tâm, đơn giản bởi nó miễn phí là bạn có thể nhét tất vào mồm, nhét đầy vào sự tham lam cùng cái tôi ích kỷ mà không cần nghĩ suy.

Các bạn nghĩ sao khi nghi án Coca-cola chuyển giá nhằm trốn thuế chúng ta đã rành rành trước mắt, những đồng thuế hoàn toàn có thể được sử dụng ngược lại để giúp đỡ chính chúng ta, những học bổng có giá trị cho bạn, những hỗ trợ trong nghề nghiệp của cha mẹ bạn, hay có xa lạ hơn chăng là những mái nhà, lớp học cho trẻ em nơi vùng cao? Bạn nghĩ sao khi tên bạn được in trên vỏ lon Coca-cola nào đó, chính nó được coi là cách không thể tốt hơn và là công cụ truyền thông hiệu quả cho một hãng kinh doanh nước ngọt thiếu đạo đức và trách nhiệm cộng đồng.

Rồi đến việc sẵn sàng rồng rắn xếp hàng dài cả tiếng đồng hồ dưới trời nắng chỉ để thưởng thức một ly cà phê Starbucks, hay để mua một suất McDonald’s. Họ cứ nghĩ mình thông minh và sành điệu nhưng có một sự thật không thể phủ nhận, họ đang bán rẻ cái tôi và sự tự trọng mà họ vốn coi là vĩ đại. Đó đơn giản chỉ là một cái tôi bầy đàn, một cái tôi đại chúng nhạt nhoà đang được hoà lẫn vào một thế giới ảo, và bị lợi dụng một cách không thương tiếc trong cái xã hội đầy toan tính và vụ lợi.

Có chăng cái tôi của họ chỉ được thể hiện khi đang đi trên đường họ vô tình chạm xe vào người khác, ngay lập tức là những câu chửi rủa bốc mùi xú uế, những cái nhìn sắc lạnh như dành cho kẻ thù và kết cục có thể sẽ là những trận chiến ngay giữa lòng đường tặng cho những người cùng màu da, tiếng nói. Có chăng cái tôi của họ chỉ được thể hiện nơi quán nhậu hoặc quán café, một bóng già khoặm đến xin bán gói tăm, hoặc một nhóc nhỏ lon ton xin đánh đôi giầy, họ trừng mắt, cái nhìn đầy vô cảm, họ hả hê được thể hiện cái tôi vĩ đại của mình trước mặt những bạn bè ngồi xung quanh.
Tâm linh và sự mù quáng

Tôi là người không hay đi chùa cũng như đến các khu vực tâm linh tuy nhiên tôi không thể phủ nhận nền văn hoá tâm linh là truyền thống ngàn đời nay của con cháu đất Việt. Nhưng tôi tự răn mình mỗi khi bước vào những chốn thanh tịnh đấy, đó là lúc tôi đi tìm lại những sự chậm rãi của cuộc sống vốn hối hả, bon chen, trước mỗi ban thờ hoặc một bát hương, tôi trầm mình vái lạy để cầu mong sự bình an cho bản thân và cho gia đình.

Tôi không có thói quen thắp hương hay nhét tiền đầy trên đĩa, dưới đĩa, trên bàn, dưới bàn, hòm công đức hay bất cứ những chỗ nào có thể nhét, như những con người kia. Tâm linh nào cho những khói hương được đốt nghi ngút đến cả bó, những đống vàng mã khói um cả một góc trời? Tâm linh nào cho những sự giành giật, xô đẩy đến lố bịch chốn đây, từ hội ấn đền Trần Nam Định, từ đền bà chúa Kho cho đến lễ hội Lim? Tâm linh nào khi xác những con vật bị phanh thây, phơi bầy xẻ thịt ngay vùng đất thiêng chốn này từ đền Cổ Loa, đến Chùa Hương?

Tôi vẫn nhớ có lần tôi đã khóc, dòng nước rỉ ra nơi khoé mắt lúc nào không hay, tôi khóc bất lực trước cảnh tượng diễn ra trước mắt trong một lần đến thăm Văn Miếu, những đống tiền lẻ vứt vương vãi đầy mặt đất, những bậc phụ huynh tranh nhau, hỷ hả cho những đứa nhỏ thi nhau đứa ngồi, đứa đứng trên lưng bia cụ rùa rồi thi nhau chụp ảnh.

Và đây, một sự lố lăng và mù quáng thật kinh tởm khi họ có một niềm tin là sờ đầu rùa Văn Miếu sẽ học hành đỗ đạt, các vị phụ huynh bắt những đứa con của mình phải sờ và chạm tay vào bằng được. Họ nào có biết chính họ đang dạy cho những đứa con của mình và nuôi dưỡng sự mù quáng cho chúng từ thủa ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Và cứ mỗi mùa thi đại học đến, bạn sẽ thấy thôi, cảnh sỹ tử nhung nhúc cố mọi cách chạm tay vào đầu rùa đâu còn là lạ.

Có thể con cháu chúng ta chưa thể chứng kiến được những điều này, nhưng hàng trăm năm sau, tôi tưởng tượng thấy được hình ảnh của những đứa trẻ với khuôn mặt ngơ ngác đến tội nghiệp trong khuôn viên Văn Miếu Quốc Tử Giám, hình ảnh đập vào mắt lũ trẻ lúc này là những cụ rùa thân hình to lớn cõng trên lưng nhưng cái bia tiến sỹ đã bạc màu thời gian, với cái đầu nhẵn bóng lúc đấy có thể chỉ còn to bằng quả táo tàu, mà có thể chúng sẽ không còn biết gọi tên con vật ấy là gì.
Khoe mẽ và lãng phí

Trước khi đi ăn họ chụp ảnh mặc đồ, khi đến nơi họ check-in nhà hàng, trước khi ăn họ chụp bàn thức ăn, ăn xong họ chụp sự no nê. Tất cả đều được đưa lên mạng xã hội facebook, tất cả đều là thể hiện đẳng cấp của họ.

Tôi từng làm cho bộ phận marketing của một chuỗi nhà hàng, tôi cũng từng được đi đến khá nhiều những nhà hàng, sự lãng phí của chính chúng ta được thấy rõ nhất tại những nơi như thế này. Kết thúc bữa ăn, thực khách đứng lên, họ vui vẻ ra về và trò chuyện cùng nhau sau buổi buffet của mình. Kể cũng đáng tiền vì đã trả tiền rồi nên ăn sao mà chẳng được, họ chụp ảnh, thoả thích trưng bày những đĩa thức ăn đầy ụ trên bàn cùng những nụ cười tươi rói, những bức ảnh long lanh nhanh chóng được chia sẻ lên facebook với những cái like và comment khiến chủ nhân của bức ảnh càng hả hê. Những đồ ăn không hết thì bỏ thôi, có nhằm nhò gì, miễn sao hình ảnh của họ phải thật đẹp.

Nhưng nếu lúc nãy một trong số những con người này đi ngang một cái bàn khác, một đôi nam nữ ngoại quốc đang ngồi, vừa ăn vừa nói chuyện, những món ăn trên đĩa của họ cái gì cũng chỉ có một, thậm chí người này lấy món này thì người kia không lấy, để cùng ăn thử cho đỡ phí…Và nếu họ thấy được người phục vụ đến dọn chén đĩa và thức ăn dư của họ đã ngẩn ngơ tiếc như thế nào khi nghiêng mình trút hết phần thức ăn đó vào thùng rác. Giữ lại thì không được mà bỏ đi thì thật đáng tiếc làm sao. Và nếu họ nhìn thấy ở ngay phía bên ngoài kia thôi, cách cánh cửa nhà hàng này không xa những đôi bàn tay đen đúa, nhầu nhĩ cùng cái nón lá rách tả tơi đang chìa ra cầu xin con người ban phát lòng thương hại để qua cơn đói khát… thì có lẽ chăng họ đã khác.

Thực phẩm, chúng ta đều biết nó không phải cái tự trên trời rơi xuống, chúng ta phải khó nhọc mới có được nó. Vậy mà… tôi đã nhìn thấy những đĩa thức ăn được lấy một cách vô tội vạ, thoả mãn lòng tham đến cực độ, những bàn buffet sau khi thực khách đứng lên để lại hàng đống, có món lấy rồi không đụng đũa. Và tại quầy thức ăn của nhà hàng, nhà bếp chưa làm xong kịp, một vài thực khách vẫn phải đứng chờ để lấy món mình ưa thích nhưng ở phía bên kia của gian bếp, món ăn đó đang được đợi để đổ đi.

Tình người và lòng trắc ẩn

Chiếc Mẹc đỏ bóng lộn vừa phóng vọt lên đột nhiên khựng lại, kính xe nhanh chóng được hạ xuống, một thanh niên với mái tóc chải chuốt gọn gàng ló đầu ra kéo theo mùi nước hoa thoang thoảng. Những từ ngữ chợ búa tuôn ra từ miệng anh được dội xối xả vào lưng bà cụ đi xe đạp phía trước. Bà dắt theo chiếc xe đạp đã cũ chậm chạp băng qua đường một cách đầy khó nhọc trong im lặng, bản nhạc nền cho khung cảnh đang diễn ra là tiếng còi inh ỏi liên hồi được anh thanh niên tấu lên một cách đầy sôi động và thúc giục. Ngồi bên cạnh anh, cô gái trẻ sau khi ném nhanh cái nhìn về phía trước lại tiếp tục cắm đầu vào chiếc điện thoại trên tay. Bà cụ qua đường, với theo sau cái bóng già cũ kỹ, tiếng chửi rủa nghe rõ mồn một phát ra từ bên trong chiếc xế hộp.

Cái quái quỷ gì đã và đang được nhồi nhét vào đầu của những thanh niên còn trẻ với vẻ ngoài lịch thiệp thế này? Có phải thế hệ ông bà, cha mẹ họ đã được sống trong sự an yên sung sướng trên mồ hôi và nước mắt của những kẻ khác để rồi sản sinh ra họ với tư cách mục ruỗng của ngày hôm nay? Không một chút tình người.

Sự cộng hưởng đến với cả một thế hệ phải chăng là bắt nguồn từ những trang báo lá cải đang tràn ngập thế giới mạng, hay là những tin cướp, hiếp, giết nhan nhản xuất hiện của các tờ báo chính thống luôn được đưa ra tức thì để câu view thay cho những bài viết có tính chiều sâu và giáo dục nhân cách con người? Truyền thông của đất nước này phải tự trách chính mình vì đã quá dễ dãi và chính nó đang giết đi tư tưởng và bản lĩnh cũng như lòng trắc ẩn của cả một thế hệ được sinh ra yên ấm trong nền hoà bình mà cha ông họ đã dùng máu và nước mắt để xây đắp lên.

Ta đang sống trong thời đại khi mà bạn hay tôi đôi lúc phải lặng yên một cách nhục nhã, bất lực trước sự vô cảm và thiếu đi lòng trắc ẩn của mỗi con người. Chúng ta vội vã chạy theo những đồng tiền và sự lố lăng, hào nhoáng bên ngoài mà chính nó đang vô hình giết chết những cảm xúc của chính chúng ta. Tôi tự hỏi sẽ đến khi nào chúng ta mới nhận ra được bản chất thực sự của thời đại này, thời đại nơi tất cả chúng ta đang sống trong một nền văn minh để rồi đôi khi tôi chợt nhận ra cái cuộc sống này thiếu thốn tình người hơn bao giờ hết, thủa đó chiến tranh, qua lời kể của mẹ tôi, thủa đó bom rơi đạn lạc, thủa đó thiếu thốn, nhưng tình người ấm áp không bao giờ là thiếu.

Và có lẽ cuối cùng rồi thì những sự hổ thẹn cũng không hề gì nếu chúng ta cứ tiếp tục mặc nhiên coi nó là một phần tất yếu của cuộc sống. Tất cả suy nghĩ lôi tôi đến với bài viết này đều xuất phát tình cờ trong một câu chuyện phiếm, câu nói của anh chàng đánh giầy cho tôi trong quán cafe nhỏ, cùng ánh mắt của anh với sự bất lực và thoáng buồn của tuổi trẻ đã qua: “Vật giá thì đắt đỏ, nhân phẩm thì rẻ mạt.”

Tôi chạnh lòng, một sự bế tắc. Và bởi có lẽ tôi chắc chắn không thể tiếp xúc được với nhiều những con người như anh, tôi mời anh ly cafe buổi xế chiều và lúc này chúng tôi bắt đầu câu chuyện với nhau, câu chuyện về những nỗi hổ thẹn của một nền văn minh. Nhưng dù câu chuyện có đi đến đâu, tôi và anh vẫn luôn tin con người thì ở đâu cũng đẹp, chỉ là ta vẫn chưa nhìn ra hoặc chưa chịu nhìn ra cái đẹp đó mà thôi.



Nguyễn Trần Chung

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

Khi thói quen trở thành thói xấu của người Việt


Nguyễn Linh Khiếu

 – Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu có nhiều dịp đi công tác nước ngoài, trong chính những chuyến công du ấy, anh đã có những quan sát, suy ngẫm về những hành vi không đẹp của một số bộ phận người Việt Nam. Có thể đó chỉ là những thói quen thường ngày mà người Việt chúng ta vẫn bỏ qua, châm chước cho nhau, nhưng khi ra được ngoài, va chạm với một nền văn hóa khác, những thói quen tùy tiện đó trở thành thói xấu rất khó chấp nhận. Thậm chí, có những hành vi vô ý của người này đã gây nên sự xấu hổ sâu sắc trong lòng người khác…


Mua vé Subway
Mua vé đi Subway (tàu điện ngầm) đúng ra phải xếp hàng từng người một. Nhưng mỗi khi đi chơi bọn mình thường đi theo nhóm. Mỗi khi mua vé, chỉ một người vào xếp hàng mua vé cho cả nhóm. Biết là người nước ngoài nên thông thường họ cũng bán cho cả xấp.

Nhưng có hôm đông khách xếp hàng, họ cũng nguyên tắc không bán cho cả nhóm mà từng người phải nối nhau xếp hàng. Một lần như thế, cậu xếp hàng chỉ mua được một vé, khi ra nơi mọi người đứng chờ, bực mình đã văng tục: Ní hảo, cái đ… gì?

Cả nhóm còn đang ngơ ngác vì câu nói tục bất ngờ ấy thì một thanh niên người Tàu đứng cùng bạn gái gần đó nói bằng tiếng Việt lơ lớ rằng: O o Viet Nam noi bay qua.

Nói xong đôi nam nữ ấy bước vào tàu điện.

Còn cả nhóm đứng ngây.



Trốn vé Subway

Mình từ bậc thang mặt đất đi xuống ga tàu điện ngầm. Chợt thấy hai đôi nam nữ của đoàn mình cõng nhau đi vào phía trong, trông lạ quá. Ga vắng chỉ có mấy người Việt.

Khi ngồi yên vị trên tàu thì mọi người mới ôm nhau cười ngặt nghẽo. Mặt ai cũng đắc thắng, hả hê lắm. Mình không hiểu. Họ thích thú kể chiến công. Rằng họ đã phát minh ra cách trốn vé tàu điện ngầm tại Beijing. Theo họ, 4 người chỉ cần mua 2 vé và mỗi người cõng 1 người mà đi qua cửa. Cửa tự động không có nhân viên soát vé, nên không nhận ra họ là hai người. Nghe họ thích thú với chiến thắng mà mình lạnh toát người.

Giời ạ, làm sao lại có thể “phát minh” ra cái trò gian lận trốn vé giữa thanh thiên bạch nhật Beijing thế này. Người bản địa mà nhìn thấy thì chỉ còn nước chui xuống cống rãnh. Cửa soát vé tự động nhưng camera giám sát rất chặt làm sao cái trò gian dối này qua được mắt họ.

Toàn cán bộ nguồn lãnh đạo cao cấp cả mà tâm tính thế này sao. Đi đâu cũng giở trò gian dối. Người Việt ơi là người Việt.



Đôi bạn

Ở Beijing, đâu đâu cũng chỉ có chữ Trung. Họ hầu như rất ít khi dùng chữ Anh. Kể cả những nơi công cộng như khu du lịch, bến tàu, sân bay, siêu thị… Thái độ tỏ vẻ trịch thượng, hợm hĩnh của những kẻ nước lớn, tự cho mình hơn người.

Người nước ngoài đến đó gặp rất nhiều khó khăn. Không biết tiếng, chúng mình đành tìm kiếm các ký hiệu, biểu tượng mang thông lệ quốc tế. Nhưng không phải khi nào cũng tìm được.

Cái tính láu cá của người Việt lại có dịp phát huy. Chẳng hạn, trong sân bay mênh mông, họ hỏi nhau: Có thấy đôi bạn ở đâu không.

Bạn có biết nghĩa là gì không. Đấy là họ hỏi nhau khu vệ sinh. Vì ở đó có biểu tượng một nam comple, một nữ váy xòe đứng cạnh nhau.

Đúng là một đôi bạn tri kỷ, khăng khít cùng tiến.



Nghe nhạc giao hưởng
Bạn mời cả đoàn đi nghe nhạc cổ điển tại nhà hát giao hưởng Quả trứng. Đó là nhà hát số 1 ở Beijing. Bình dân không thể vào đó được. Tất cả mọi người được kiểm tra nghiêm ngặt khi vào cửa. Dây lưng, ví tiền đều phải gửi lại. Không ai được mang thứ gì liên quan đến nước, tinh bột và sắt vào nhà hát.

Vì là khách nước ngoài, đoàn được bố trí chỗ ngồi rất đẹp trực diện sân khấu. Gần ba mươi người ngồi thành hai dãy. Vô cùng sang trọng. Đúng là thật trân trọng. Mình và người phiên dịch được bố trí ghế ngồi hai đầu dãy.

Vừa ổn định chỗ ngồi đã thấy đèn pin (loại mini) chiếu vào hàng ghế nhà mình. Một người bị nhắc ngồi trong nhà hát không được đội mũ.

Một lúc lại thấy đèn pin chiếu vào hàng ghế nhà mình. Một người bị nhắc trong nhà hát không được trùm áo choàng ra sau ghế mà phải ôm trước ngực.

Khi biểu diễn, lại thấy đèn pin chiếu vào hàng ghế nhà mình. Một người bị nhắc khi nghe nhạc không được nói chuyện.

Bất ngờ thấy lóe sáng, rồi đèn pin chiếu vào hàng ghế nhà mình. Một người bị nhắc không được chụp ảnh vì nghiêm cấm mang mọi thiết bị, tư trang vào nhà hát.

Được một lúc, thở phào tạm ổn. Giật mình, lại thấy đèn pin chiếu vào hàng ghế nhà mình. Một người bị nhắc khi nghe nhạc không được ngủ gật và gáy thành tiếng.

Mỗi lần đèn pin chiếu vào đâu lại có hàng trăm đôi mắt nhìn theo.

Xấu hổ vô cùng tận.



Máu dê

Đoàn chúng mình tới thăm thành phố được đưa tin trên truyền hình. Buổi tối, một nhóm sinh viên du học tiếng Việt ở Hà Nội đến thăm.

Họ nói tiếng Việt khá tốt. Ai cũng nói rất yêu Hà Nội, rất thích các bạn Việt Nam. Biết rồi, ngoại giao, ai mà chả nói thế. Biết mình có giảng dạy ở Đại học quốc gia Hà Nội. Họ gọi mình là thầy và xưng con. Chuyện thầy trò, thêm phần cởi mở.

Ai cũng nói thích món ăn Việt. Vì chế biến đơn giản. Vì ít dầu mỡ và nhiều rau xanh. Đặc biệt, họ rất thích thú với cách người Việt để sẵn các loại rau thơm, gia vị, nước chấm ở trên bàn. Ai muốn ăn như thế nào thì tự chọn chứ không cho sẵn vào món ăn. Mình quen rồi không để ý.

Mình hỏi: Hà Nội có món ăn nào ấn tượng nhất. Họ đều nói phở, nhưng cũng có người nói món máu dê. Thấy mình không hiểu. Người đó diễn giải: Cho thịt xương nghiền nhỏ và các thứ gia vị vào trong bát rồi đổ máu dê sống vào. Cho vào tủ lạnh để đóng băng đông cứng rồi mang ra ăn. Mát lạnh. Máu dê đỏ tươi.

Mình hiểu rồi, đó là tiết canh dê. Mình hỏi: Ai đã ăn máu dê Hà Nội rồi. Trong gần chục người chỉ có một người giơ tay. Những người khác nhún vai, nhăn mặt, thè lưỡi tỏ vẻ sợ hãi.

Tiết canh dê là món khoái khẩu của nhiều người Việt. Người nước ngoài hẳn là kinh sợ lắm. Chắc họ nhớ tới ma cà rồng.



Tên người

Ở Beijing hay các tỉnh phía Bắc đến đâu cũng thấy họ ghi danh tên người đặt vị trí mình ngồi.

Trong lớp học ai ngồi đâu đã được định sẵn sơ đồ có biển mang tên mình đặt trước mặt. Thường lớp trưởng ngồi bàn đầu, hàng sau là các lớp phó, rồi đến các tổ trưởng, tổ phó, tổ viên. Theo đúng trật tự trên dưới rất bài bản.

Đến đâu, bước vào phòng khách, ai cũng nhìn thấy tên mình đã để sẵn trên mặt bàn. Tên mình ở đâu cứ trật tự lần lượt đến đó mà ngồi. Chớ lộn xộn. Bao giờ trưởng đoàn cũng ngồi đối diện với lãnh đạo cao nhất của chủ nhà. Tiếp đến là các phó đoàn, vân vân..

Vào phòng chiêu đại tiệc tùng, ai ngồi bàn nào, ghế nào cũng có biển ghi danh để sẵn. Tất cả được bố trí rất trật tự, khoa học nhìn chung theo thứ bậc nhưng cũng có đôi khi điều chỉnh thành các nhóm xem kẽ người phiên dịch để tiện chúc tụng, mời nhau uống rượu.

Người Hoa rất đề cao chức danh và chức vụ. Đến đâu họ cũng đối đãi theo thứ bậc nghiêm ngặt không lộn xộn, ù xọe, bừa bãi, xập xí xập ngầu, bát nháo như người Việt. Ở đâu cũng ghi sẵn tên rồi không phải tên mình làm sao ngồi được.

Ấy vậy mà, trong đoàn có một vị phó vụ trưởng, làm việc ở một tờ báo to lớn lắm, một bữa tiệc nọ nổi khùng khi tên ông ta không được đặt ngồi ở bàn VIP. Ông vốn được bạn xếp thứ 6 trong đoàn mình nhưng vì bàn VIP chỉ có 10 ghế, chủ 5, khách 5 nên ông bị đẩy sang bàn khác. Cay mũi, chả xá gì, ông trợn mắt vung tay chửi thề ầm ĩ. May mà lãnh đạo bạn không biết tiếng Việt. Biết thì nhục nhã quá.

Một vị lãnh đạo cấp vụ, lại làm việc ở một tờ báo lớn hàng đầu Việt Nam mà hành xử như thế thì nói gì dân gian. Nghĩ mà đau đớn cho cái văn hóa chính trị của mình, cho dân mình quá.

Ở phía Bắc, việc xếp tên định danh chỗ ngồi rất nghiêm ngặt thế nhưng xuống phía Nam, cái sự ghi danh chỉ định chỗ ngồi không còn nghiêm ngặt nữa. Đứng ngồi không còn chính danh nghiêm cẩn. Đôi khi, cũng láo nháo, lộn xộn giống mình.



Tự chọn

Ăn tự chọn nhiều món. Bữa trưa và chiều thường nhiều món hơn. Cứ ăn thoải mái. Gọi là vụ trưởng, vụ phó cả nhưng có mấy ai được thường xuyên ăn tự chọn như thế này đâu.

Toàn cán bộ cấp cao nhưng văn hóa rất “lùn”. Chắc là do thói quen, thấy món nào ngon họ thường lấy đầy bát, đầy đĩa. Người đến sau thường hết nhưng người đến trước lại để thừa lại trên bàn ăn ngổn ngang cả đống.

Trong bữa ăn thường có món trứng luộc. Mấy anh cao tuổi, chức tước cao vút lấy cả đĩa. Chỉ ăn lòng đỏ, nói rằng lòng trắng ảnh hưởng đến bệnh tật gì đó nên không ăn. Mỗi người để một đống lòng trắng và vỏ ngất ngưởng trên bàn. Vừa lãng phí vừa mất vệ sinh. Lại vô cùng phản cảm.

Là cán bộ lớp mình nhắc nhở, nhưng chẳng ai nghe.

Nhiều lần như thế, có hôm mình đi ăn muộn, về muộn. Cô phục vụ tên Jiang Ming gọi mình tới và chỉ vào đống lòng trắng trứng lẫn vỏ trứng. Nói một câu gì đó với thái độ rất không bằng lòng.

Xấu hổ quá, mình buột miệng câu xin lỗi bằng Anh ngữ. Cô cũng nói lại một câu tiếng Anh nhưng mình không hiểu.

Cả hai cùng nhăn nhó cười và lắc đầu chán nản.



Cố cung

Người dẫn đường giới thiệu, Cố Cung do một kiến trúc sư người Việt Nam chỉ đạo xây dựng. Ông ấy tên là Nguyễn An. Vốn là một hoạn quan. Ông là một tài năng kiệt xuất nên rất được vua Tàu tin dùng nhưng lại bị các quan đồng triều người Hán đố kỵ, ghen ghét, khinh bỉ. Cũng là do ông là người nước ngoài mà lại là một hoạn quan. Hình như ông An chỉ là một trong hai tổng công trình sư xây dựng Cố Cung.

Một người Việt mà làm tổng công trình sư xây dựng một công trình vĩ đại muôn đời như thế thì thật đáng tự hào cho người Việt. Đó là một người Việt kỳ tài.

Tự hào thì tự hào thật nhưng vô cùng ngậm ngùi, cay đắng.

Ngày xưa, nước Việt là chư hầu, là phiên thuộc của nước Tàu. Mọi của ngon vật lạ hàng năm đều phải mang cung tiến hết cho vua quan Tàu. Trong các thứ cung tiến đó đặc biệt là cung tiến người. Đó là gái đẹp và trai tài.

Lý Ông Trọng (Lý Thân) là một võ tướng kỳ tài có sức địch muôn người bị An Dương Vương dâng cho Tần Thủy Hoàng.

Tuệ Tĩnh thiền sư một thần y của nước Việt cũng bị nhà nước phong kiến cung tiến cho nhà Minh năm 1385.

Chắc Nguyễn An cũng là một người bị cung tiến cho vua chúa Tàu.

Lý Thân lập nhiều võ công vang dội giúp nhà Tần đánh bại Hung nô, nhưng cuối đời vẫn bỏ tất cả để trốn về quê Việt.

Tuệ Tĩnh thiền sư trở thành đại danh y bên nước Tàu và chết ở đó. Nghe nói trước khi chết có làm một tấm bia đặt trên mộ ghi rằng: “Về sau có ai bên nước Nam sang, cho tôi xin về với”. Cũng là một lòng đau đáu về quê hương.

Nguyễn An là hoạn quan không biết có nỗi niềm cố quốc không.

Ôi những bậc kỳ tài trong thiên hạ vẫn đau đáu một nỗi lòng cố quốc. Con người ta sao mà lạ thế.

Trai tài hào hùng và bi thương như thế vẫn đôi người còn biết tâm sự nơi xứ người, thế còn biết bao gái đẹp của nước Nam ta cung tiến cho Tàu tại sao chả thấy ghi chép gì. Phận má hồng chắc còn đau thương ngàn lần hơn nữa.

Thân phận của thần dân nước bé cay đắng thay.



Điện thoại di động

Đó là siêu thị điện thoại lớn nhất Beijing. Trong đoàn nhiều người rất mê điện thoại mà lại nhiều tiền. Sướng thế, khi phát hiện ra siêu thị này họ chỉ loay hoay ở đó, không sao dứt ra được.

Điện thoại Ipon ở đây đủ loại. Đắt nhất hơn 20 triệu VND, rẻ nhất chỉ 2 triệu VND, còn 5, 10 triệu thì vô vàn. Về mẫu mã không khác gì nhau. Thế mới siêu.

Hình thức long lanh miễn bàn, giá cả hợp lý. Chọn thoải mái, không mua cũng hảo lớ. Mua cũng hảo lớ. Ai mua loại nào cũng có ngay. Lại lan truyền tin đồn, chỉ mấy hôm nữa chính phủ sẽ cấm hết các loại điện thoại không chính hãng. Nghĩa là chỉ còn loại hơn 20 triệu đồng thôi. Bảo hành lại hoàn mỹ, trong vòng 1 năm nếu chiếc nào có vấn đề mang ra sẽ đổi ngay cho máy mới. Ai cũng hồi hộp, cuống cuống mua vài chiếc. Mua để dùng dần hoặc để tặng người thân. Ai không mua nghĩa là mất cơ hội.

Chỉ mấy ngày, tổng hợp lại, đoàn đã mua cả thảy vài chục chiếc ipon mới coong. Chiếc nào cũng long lanh, tráng lệ. Những chỉ một tuần, mọi chiếc điện thoại đều được chủ nhân âm thầm mang đi đổi cái mới vì trục trặc. Lúc đầu còn bí mật. Sau chiếc nào cũng đổi nên không bí mật nữa. Mỗi chiếc trục trặc một kiểu, cứ gọi là chả ai giống ai. Cái mới về vài hôm lại trục trặc, cứ thế ròng rã cả tháng trời. Toàn điện thoại mới chả có chiếc nào cũ, thế nhưng chiếc nào cũng trục trặc. Có chiếc đổi gần 10 lần vẫn trục trặc.

Đi lại nhiều quá, ní hảo nhiều quá cũng nhọc.

Chán. Chả ai hơi sức đâu mà đổi nữa.



Cố cư Hồ Chủ tịch

Đến Liễu Châu, bạn đưa đến thăm Cố cư Hồ Chủ tịch.

Khi bị Quốc dân đảng bắt sau khi giam tại Cục Chính trị Đệ Tứ chiến khu, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng quản thúc một năm. Tại đây, Hồ Chí Minh đã thuê một phòng trong khách sạn nhỏ mặt phố Liễu Châu. Gọi là khách sạn nhưng kỳ thực chỉ là nhà trọ bình dân. Trước mặt là dãy Tây Phong Lĩnh. Hồ Chí Minh đã ở đây 1 năm (9/1943 - 9/1944). Khi bị quản thúc Hồ Chí Minh vẫn mở lớp đào tạo, rèn luyện cán bộ cách mạng. Nhiều thanh niên trẻ trong nước trốn sang đây được Hồ Chí Minh đào tạo và đã trở thành những lãnh tụ nổi tiếng của cách mạng Việt Nam.

Khạch sạn hai tầng nhỏ ấy đã được chính phủ Trung Quốc mua lại và làm nhà lưu niệm - gọi là Cố cư Hồ Chủ tịch. Cố cư được xếp loại di tích. Các cán bộ trông coi đều là cán bộ bảo tàng ăn lương nhà nước. Giám đốc là một vị phó giáo sư nói viết thông thạo tiếng Việt.

Mấy nơi người Việt ta hoạt động cách mạng, sinh sống cư ngụ ở bên Trung Quốc đều được họ trân trọng dựng thành bảo tàng, bảo lưu di tích.

Thử hỏi ở Việt Nam có nơi nào là di tích quốc gia, là nhà bảo tàng lưu giữ lại những năm tháng chiến tranh mà người Trung Quốc, người Liên Xô, người Cu Ba… sang giúp ta kiến thiết, xây dựng cầu đường, nhà máy… và trực tiếp tham gia đánh Pháp và Mỹ không.

Người Việt cần phải nghiêm túc xem lại cách hành xử của mình.



(Rút từ tập bản thảo Lá phong vàng)

Chữ thừa


Hồ Anh Thái


Có một người từng làm đối ngoại và làm báo nên rất lưu tâm đến chữ nghĩa. Thông thạo tiếng Pháp và tiếng Trung, ông cho rằng nhà văn nhà báo Việt Nam nên biết ít nhất tiếng Trung và một thứ tiếng phương Tây. Biết ngôn ngữ Hán Việt để không viết thừa. Biết một ngôn ngữ phương Tây để có điều kiện so sánh văn phạm. Đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, ông thường có quán tính biên tập luôn, chúng tôi trêu rằng ông cãi nhau với đài.

Những ngôn từ kiểu này thường được ông tức thời chỉnh lại:

- Tái sinh lại, tái hiện lại, tái diễn lại, tái bản lại, phục chế lại… Hoặc như ở trong một cuốn sách: khi đã hồi phục lại, bà đi xuống (Kẻ trộm sách, tr. 330)... Thêm chữ Lại, sự việc sẽ lặp lại đến lần thứ ba chứ không phải là hai lần.

- Tối ưu nhất, tối đa nhất, tối kỵ nhất, cực kỳ tối mật… Đã tối là đến tận cùng rồi, lại còn nhất hoặc cực kỳ nữa thì đúng là hết ý… nhất.

- Đặc thù riêng, hoặc: Mỗi tình huống nêu trên đều có cái nhìn đặc trưng riêng của nó (Tên của khí trời, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, tr. 40). Người dịch hãy thản nhiên mà thôi chữ Riêng đi, tiếc nuối làm gì.

- Người họa sĩ (Một cuộc gặp gỡ, Nguyên Ngọc dịch, NXB Văn Học 2013), nhà họa sĩ (Tên tôi là đỏ, Phạm Viêm Phương dịch, NXB Văn Học 2007), nhà học giả (Tên của khí trời, tr. 41, 42, 43), nhà triết gia (Plato và con thú mỏ vịt bước vào quán bar…), hoặc nhà doanh nhân, người nghệ sĩ... Những từ này đều thừa chữ nhà hoặc chữ người. Đã thành quen, đã vào thơ và ca hát véo von: Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố… Tôi đoán rằng chúng cũng sẽ có ngày được vào từ điển.

- Lính bộ binh: binh đã là lính. Có thể tạm chấp nhận khi hàm ý đám lính của một quân chủng là bộ binh, phân biệt với lính hải quân chẳng hạn. Nhưng ai đọc cũng thấy ở đây người dùng chữ để thừa chữ.

- Đạo giáo của chúng ta (Tên tôi là đỏ, NXB Văn Học 2007): giáo đã là đạo. Sao không nói luôn là tôn giáo cho chính xác.

Chỗ bạn bè với nhau, chúng tôi thường tự cường điệu mà dùng những chữ thừa thãi như trên hoặc những cấu trúc câu khác thường. Đùa cho vui. Nhưng tuy nhiên. Đã nhưng lại còn tuy nhiên. Chuyện có thể đùa, như thể khó thành sự thật, nhưng hóa ra lại có người dùng thật. Thử chỉ ra trong một cuốn sách, cuốn Những mối tình nực cười (Cao Việt Dũng dịch), ở đấy có cả những chữ mà ta đang bàn:

- Nhưng mặc dù vậy (tr.271).

- Nhưng tuy nhiên (271).

- Nhà nghệ sĩ (47)

- Ở bên trong nội tâm (287)

- Cô gái trẻ (93)

- Chàng trai trẻ (97).

Ở bên trong nội tâm, cũng quen dùng như thế là ở trong nội thành, trong nội bộ, ở ngoài ngoại ô.

Đấy là nói chuyện viết thừa chữ, vì không hiểu nghĩa Hán Việt, hoặc quen dùng theo khẩu ngữ. Ở Anh - Mỹ cũng có chuyện này. Một nhà ngôn ngữ học người Anh chỉ ra rằng báo chí hay viết thừa, theo kiểu young girl, young boy. Đã boy và girl thì nhất định phải young, trừ trường hợp chơi chữ như tên một bộ phim Hàn Quốc: Old Boy, nghĩa là Thằng già. Viết gái trẻ, tức là hàm ý có gái già hay sao. Có, trường hợp đặc biệt này, người ta dành cho cô gái già một từ thật riêng: spinster.

Vậy tiếng Việt mà viết cô gái trẻ (Một cuộc gặp gỡ, NXB Văn Học 2013), chàng trai trẻ, anh thanh niên trẻ thì có khác gì young girl, young boy. Chữ trai trẻ hoặc trẻ trai cũng có thể dùng như một tính từ, nhưng cũng phải chọn danh từ đi với nó cho phù hợp, chứ còn chàng thì đã hàm ý trẻ trong ấy rồi.

Thơ Nguyễn Hoàng Anh Thư






DÒNG GHI CHÚ VỀ SỰ QUÊN LÃNG



Tôi muốn viết dòng ghi chú về sự quên lãng
những mẫu tự Y G...
nhảy nhót trên nhưng chiếc lá mùa thu
hầu như chưa bao giờ hoàn tất

tôi ghi lại gương mặt mình trong chiếc gương có hình trái xoan
lồi lõm, thừa thiếu, và cả những góc khuất
những chuỗi cười bất tận
và cả những chuỗi nặng lời nguyền

Điểm hẹn với giấc mơ, tôi nhớ về kí tự T
đóng đinh bằng sự trả giá thinh lặng
ánh mắt nghiền nát chuỗi ngày bóng nổi
những nguyện thề về một khung tranh đã cũ
cưu mang hương mật cho một nhụy phôi
thiền hành qua một dòng sông

Có một khoảnh khắc kì diệu
tôi đã đặt tên
chỉ mang máng nhớ những đầu kí tự
lại Y G T Q V...
chuyển động hành hương tìm thánh tích
tìm hoa vô ưu kết trái
ghi chú về sự quên lãng trên những đầu kí tự...



TRẢ LỜI CÂY NHÃN GIÀ



Đám tang của ve sầu
trên cây nhãn già đổ gốc
hát lời bi ca trong bữa tiệc nhậu
của lũ kiến mùa hè

cơn gió đói lả nằm chờ
hạt sương buổi sáng
để khóc
mướn vay

Cây nhãn già mở mắt
nhìn từng đàn chân rệu rã
than phiền về sự cưỡng chế

Cây nhãn già trăn trối
về chuyện của ngọn đồi bạc tóc
bị mất di vật pha lê
màu xanh đã bị tống giam trong âm ngục
chỉ còn những mụn cưa từ những bàn chân kiến dẫm nát

Đám tang của ve sầu
về giá gỗ
mục mắt
rừng xanh hú gọi
thêu thùa những kí tự ẩn mình

Có tiếng thở phào từ những chiếc rễ



MỘT TRANG CỔ SƠ

Ta đã nghe âm thanh và cuồng nộ nhân thể
Những tham vọng điên rồ
Những bèo bọt đang neo lại trong cái thân người già cỗi
Những đam mê vô độ mù quáng
Đã làm đục ngầu dòng sông .

Những con người vĩ đại
Họ đã cuộn mình trong những mối bòng bong khó gỡ
Sự ghê tởm ở dưới đôi bàn chân
và họ đi như thế
Trên con đường rực rỡ và tàn khốc
Trên con đường huy hoàng rải đầy những khốn khổ
Vẫn tiếp diễn, vẫn lan ra trên con đường lịch sử
Số phận con người - những cuộc phiêu lưu
Hàng chục ngàn năm quay lại
Dở khóc dở cười trước một trang cổ sơ .

Những con đường vòng, những con đường men hải
Những con đường vòng quanh trái đất đã di chuyển theo mặt trời
Quỹ đạo cứ xoay tròn và loài người cũng thế
Những con đường vòng khám phá vùng sinh tử
Nào hay những con vi trùng khéo léo ẩn núp trong áo
Áo lan áo, da cắn da, vi trùng bò lổm ngổm giữa vùng đất mới
Con đường hãi hùng bệnh tật và những đứa con lai
Những đôi bàn tay của vĩ nhân bất lực
Khi sự ngạo mạn và khinh thị đã là thói quen của những con người khác
Sự kinh hoàng như cuốn theo cơn lốc
Lật tìm những trang cổ sơ
Tìm những người "bán khai lương thiện "
Họ ngơ ngác vụng về, có phần man rợ
Trang cổ sơ...
Con người hiện đại đứng nhìn, như đang trong cơn mê sảng
Thấy mình quái gỡ, điên cuồng ...không phải là mơ



LỜI BIỂN ĐỎ

Đừng kích động
Biển
Hãy phát quang trên Nam Cực và Bắc Cực
Hãy mang trạng thái plasma
trong cơn giận dữ
khi những khuỷu xương đang bị nấu cao
và linh hồn bị phân tán
và bạn sẽ là thẩm phán
của chính bạn
Trong ánh đèn măng xông
rực những con cá nhảy
những dòng ion cuộn
chẳng nghe tiếng sóng thầm thì
(mà) cuộn chảy màu óng bạc đại dương
Người ta dùng tia X, tia bêta
chiếu vào đất nước tôi
và phóng điện
đuôi của sao chổi
theo sau lời tiên đoán
quá khứ co rút thành sự thật

Tìm trong thiên hà
nỗi sợ không còn run rẩy
chúng hóa thành ion
trong những ánh huỳnh quang
màu bạc
phóng như bay những con cá chuồn
dũng mãnh những cánh buồm lật gió
plasma
màu biển đỏ
rắn cuộn trên những bàn tay phát quang

Sự mất ngủ của thi ca


SKhuất Bình Nguyên

 Sau những năm 1983-1986, Nguyễn Quang Thiều tự chia tay với những cái đã có của mình để bước vào con đường tìm tòi mới! "Sự mất ngủ của lửa" được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 như không chỉ nói hộ bản thân ông mà cho cả thế hệ ông đã tự mình không lặp lại ánh sáng huy hoàng của giai đoạn thi ca trước, mở ra cánh cửa để đi tới sự mất ngủ của thi ca trên con đường tìm tòi khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người, khi mà lịch sử có những chấn động dữ dội về niềm tin và cái đích đi tới của toàn nhân loại.




Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (ảnh: Đỗ Hiếu)

Quãng đâu như tháng 7 năm 2007. Người bạn vong niên của tôi có quân hàm đại tá. Công tác trong ngành tình báo quân đội đã nghỉ hưu. Sau khi giới thiệu thân thế, sự nghiệp của nhân vật kia, người đồng hương ấy của tôi còn cẩn thận dặn dò. Bảo một chút thôi mà nói dài nghe nóng cả điện thoại. “Một thi sỹ đã có tiếng tăm. Khi nói chuyện giọng truyền cảm lắm. Cứ y như mấy ông cố đạo ở giáo xứ nghèo vùng Sơn nam thượng quê mình…”. Đã mấy lần thưa vâng mà chưa dứt được cuộc gọi đầy ám ảnh ấy. Rồi tôi gặp người đó. Người đã can dự vào hầu hết các lĩnh vực văn chương. Ông ấy là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.

Phải nói thật là khi gặp Thiều, tôi không khỏi ngỡ ngàng. Chẳng khác nào sau khi đã đọc Lẵng quả Thông và Tuyết vô cùng mịn màng tự dưng lại gặp cây phong già cổ thụ xù xì thời gian Konstantin Pautopsky giữa căn hộ nhỏ hẹp với bà vợ trẻ đẹp đa tình ở Mascơva trong bức ảnh đen trắng in trên một tờ nhật trình Nga hồi đầu những năm năm mươi. Dáng vẻ ông cố đạo mẫn tiệp có phải trước hết bởi sự mê hoặc của khuôn mặt đầy cá tính khiến Thiều giống một nhà văn hiện thực hơn là một nhà thơ lãng mạn.

Đọc truyện ngắn của Thiều. Hương khúc nếp cuối cùng. Mưa ấm. Mùa hoa cải ven sông. Tiếng gọi cuối mùa đông. Hai người đàn bà xóm trại. Khúc hát của dòng sông. Người ở với hoa Tầm Xuân v.v.. Tôi thường thấy vang lên tiếng gọi khắc khoải của số phận con người vọng qua các dòng sông yên tĩnh như tương phản, lại như đồng điệu với đời sống đầy trắc ẩn ở cõi trần gian. Con thuyền lững lờ trôi dọc dòng sông ấy trong sắc chiều huyền diệu tím như những quả dâu chín, dịu dàng tư lự như cái nhìn buông ra từ thuở ban đầu mà sao thân phận con người nhiều đắng cay và thử thách đến thế. Đó là tiếng ơ..ơ..ơ dưới bến âm vang da diết và rạo rực khôn cùng tâm khảm của hai người đàn bà một già một trẻ có chung một người thân ra trận không về. Tiếng gọi cuối mùa đông không có ai trả lời. Chỉ có bên kia sông mưa xuân đang ngùn ngụt bay. Đó là tiếng gió từ bãi sông rộng thổi hằn lên từng làn mưa bụi về phía chân đê. Tiếng mưa mỏng và nhẹ như tiếng người thì thào đâu đó cảm thông cho số phận của Hai người đàn bà xóm trại sống với nhau mấy chục năm đến giờ tóc họ đã bạc trắng đợi hai người chồng lính trận bao năm chưa trở về. Đó là bãi sông mưa tháng hai ngây ngất. Rau khúc nếp đẻ nhánh râm ran. Đôi trai gái lớn lên theo mùa khúc mọc mà số phận nghiệt ngã lại đến với tình yêu của họ. Cô gái không nhìn thấy được gì nữa. Chỉ còn lại nỗi xót xa của Hương khúc nếp cuối cùng. Đó là anh bộ đội đóng quân bên kia sông, thi thoảng lại bơi qua sông đêm thăm Người ở với hoa Tầm Xuân - Người đàn bà bạc mệnh chồng mất sớm. Đứa con trai duy nhất đi B được 3 năm thì có giấy báo tử gửi về. Một ngày kia. Người đàn bà ấy đi về cõi âm để sống với chồng. Với con. Để lại bụi Tầm Xuân cằn cỗi và im lìm trong giá rét bên bờ sông xa lắm. Đó là bóng tối mênh mang và tiếng mưa triền miên vỗ trên mặt sóng. Những ngọn gió sông mang tiếng hát của người trong giấc mơ xưa cũng chính là Khúc hát của dòng sông ấy đánh thức bao lo âu và phập phồng hạnh phúc của những cô gái đến tuổi lấy chồng… Đó là Mùa hoa cải ven sông. Suốt cả bờ bãi dòng nước hiền hòa ấy rực vàng hoa cải. Những bông hoa nhỏ nhắn mềm mại đung đưa trong gió. Những cánh mỏng lấm tấm rụng trên mặt phù sa. Nỗi khát khao tình yêu cuộc sống của con người không chỉ tình yêu bị chia lìa của đôi trai gái ấy mà cả những kiếp người phiêu bạt dưới những mui thuyền vạn chài lơ đễnh trên khắp các dòng sông Việt…

Thiều viết văn xuôi với bản lĩnh của người thi sỹ. Truyện của ông tràn ngập chất thơ. Không phải sự cầu nguyện cho bất hạnh và tan vỡ của số phận con người. Văn ông ngợi ca sự chiến thắng của con người trước định mệnh và dù phải đắng cay như ngọn lửa cuối cùng vùi trong than bụi vẫn ấm nóng tình yêu cuộc sống. Đọc văn Thiều, đôi khi tôi sợ ông ấy vì cái lạnh lùng chỉ có ở những nhà tiểu thuyết mà thường các thi sỹ chẳng bao giờ có được. Ví như ông dằn lòng để cho người lính vội vã từ chiến trận trở về thăm vợ chỉ được hai lần ngắn ngủi một hai đêm trong đời mà cả hai lần đều không gặp được trong sự thảng thốt đến vô cùng của cả Hai người đàn bà xóm trại. Hoặc như người thương binh duy nhất còn sống sót sau hòa bình trở về quả đồi chiến tranh nơi cả đơn vị anh đã hy sinh. Nhưng cả hai người đàn bà thân yêu; một là người vợ không chịu nổi cô đơn và di họa chiến tranh phải lặng lẽ bỏ đi; một là người đang tiến dần đến tình yêu thương lại phải chết vì mìn. Đến con trâu người lính ấy thả về rừng cũng không đi nổi phải quay trở lại trong đêm để làm bạn với sự cô đơn và thiệt thòi của con người…

Quãng giữa năm 2010 trở đi, tôi thường đọc thơ Thiều nhiều hơn, gặp nhau trên giấy nhiều hơn là gặp ngoài đời. Bây giờ ông ấy là người lãnh đạo. Vẫn biết làm cái nghề văn mà có tí chức chỉ khổ thôi; chẳng ai muốn làm vì chẳng thể làm cho tác phẩm của mình hay lên được. Thi thoảng đến hội trường bé nhỏ chỉ bằng phòng họp của Ủy ban xã ở số 9 Nguyễn Đình Chiểu hay phòng mít tinh giống như rạp chiếu bóng của Bảo tàng Văn học Việt Nam 275 Âu Cơ. Ông đã được ban tổ chức xếp chỗ ngồi ở hàng ghế đầu. Từ những hàng ghế sau nhìn lên, thấy cái đầu ông ấy xung quanh tóc rậm và dày. Đặc biệt là ở phía sau gáy. Nhưng ở giữa đỉnh dường như lại có một khoảng trống thưa thớt nhỏ bằng lòng bàn tay. Tôi nhớ đến các đức cha bề trên thường có khoảng rừng thưa tự nhiên ở đỉnh đầu. Hoặc do một yêu cầu nào đó, nếu không phải là tự nhiên thì có lẽ được tỉa bớt hoặc cạo nhẵn cho cái khoảng trống ấy. Thời sinh viên. Một nhà triết học bảo tôi rằng đấy là nơi để các cha nghe rõ hơn lời mách bảo của thiên chúa và thường được đậy lại cẩn thận bởi một chiếc mũ tròn rất đặc trưng của đạo Gia tô khi hành lễ. Đương nhiên là Thiều không bao giờ đội chiếc mũ ấy. Tôi không hiểu khoảng rừng thưa ấy có liên quan gì đến khả năng tưởng tượng vô cùng mạnh mẽ bởi một trường cảm xúc rộng lớn vốn là thế mạnh của thơ ông so với nhiều thi sỹ khác cùng thế hệ. Ông thuộc về những gì vừa kỳ lạ vừa cổ xưa dân dã nhờ con mắt luôn nhìn thẳng vào người nói chuyện để thuyết phục. Và bộ râu con kiến dày sớm lốm đốm bạc đã kéo ông trở về với dáng vẻ thi sỹ còn ôm ấp nhiều vất vả và khổ đau. Ý chí không bao giờ mệt mỏi để theo đuổi đức tin của mình.

Thiều có một bộ sưu tập chân nến, chân đèn. Tôi không hiểu Thiều có bị ám ảnh cảnh người phải đội đèn đội nến suốt đêm được mô tả trong truyện nôm khuyết danh hồi thế kỷ 18 hay không? Bao cô gái làng quê thuở đó chẳng sợ phải đội đèn vì nhất quyết có ngày đón nhận được lương duyên? Thiều bảo, sẽ có một đêm đông nào đó đột nhiên tất cả các chân nến chân đèn cổ cũng như kim phát sáng. Mang về cái ánh lửa thiêng của nhiều thời đại. Suy nghĩ về sự bừng sáng của các chân nến không ngọn ấy càng làm cho Thiều giống một nhà truyền giáo mà bộ dạng bên ngoài ông mang lại.

Thiều đã được ngành công an cho sang bên kia bán cầu. Du học ở Cu Ba. Ông được tận hưởng nền văn hóa châu Mỹ La tinh đầy bản sắc hứng khởi. Nhất là nền văn hóa ấy lại được đốt lên bởi những xúc cảm cuồng nhiệt của một cuộc cách mạng với những lãnh tụ râu dài và đôi mắt đa tình đặc sắc. Ở Habana và Pinar del Rio, tôi đã thấy dân chúng yêu mến và treo ảnh Camilo, Che Ghevara, Phiden... như những ông thánh trước cửa chính mỗi ngôi nhà. Không hiểu cái chất man dại và hào hoa của nền văn minh ấy có ảnh hưởng gì đến thơ Thiều hay không? Chỉ biết rằng với vốn ngoại ngữ đã học được ở đó, Thiều có điều kiện gõ cửa tới các miền đất khác của văn hóa để làm đẹp những suy tưởng vốn là thế mạnh của thơ ông. Ông hiểu được vẻ đẹp thuần túy của ngôn ngữ xứ sở được mệnh danh là sương mù vốn nổi tiếng hài hước và giao thương hơn là thi ca. Mặc dù người ta không quên đấy là ngôn ngữ của William Shakespeare và Walt Whitman. Những điều tưởng như năm tháng nước chảy bèo trôi vô tình ấy, Cách mạng đã dành cho Thiều những công cụ rất cần thiết để có thể đi xa khi bước vào thi ca những năm cuối cùng của thế kỷ 20 đầy thử thách.

Lúc đầu tôi nghĩ Thiều đến với thi ca theo con đường của Nguyễn Bính. Những bài thơ đưa ông gia nhập làng thơ thuở ban đầu là tình mẫu tử, tình yêu tha thiết với quê hương. Dâng trà. Bây giờ đang cuối mùa đông. Nghe tiếng chim cuốc. Những con thuyền sông Đáy… Dâng trà, bài lục bát hiếm hoi của ông bùi ngùi Chiều quê một nửa mái nhà nắng đi. Có một người con dâng trà cho cha. Chén trà dâng lên bậc sinh thành để dứt áo đoạn trường đi theo con đường văn chương lập thân tối hạ. Một câu thơ bạc một ngày vô ơn. Cái làng quê Bây giờ đang cuối mùa đông nghe như hơi hướng năm nào Nguyễn Bính. Lại nghe tiếng pháo nổ trong ngõ nhà mình. Người con gái lấy chồng ở xóm Đình để Thiều phải tránh lối rập rình đón dâu khi mà ngàn lá dâu chưa biếc cho tằm nhả tơ theo màu nắng bên sông. Nhịp lục bát thắt lại trong nỗi bơ vơ vô cớ của chàng nhà quê Nguyễn Quang Thiều, y như Nguyễn Bính.

Thế rồi lại đến cuối đông
Làng bao cô gái lấy chồng… còn tôi?
Thực tế không có chữ nếu này, nhưng nếu cứ tiếp tục đi theo nguồn cảm hứng và cách phô diễn ấy, chắc Thiều cũng chỉ thêm một tiếng nói thân thuộc về làng quê Việt mà các bậc đàn anh thuở trước đằm thắm hơn nhiều. Nhưng thời cuộc và bản thân cá tính sáng tạo của nhà thơ đã không để ông yên phận với cái giấy thông hành nhập cuộc thông thường ấy. Sau những năm 1983-1986, Thiều tự chia tay với những cái đã có của mình để bước vào con đường tìm tòi mới! Sự mất ngủ của lửa được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 như không chỉ nói hộ bản thân ông mà cho cả thế hệ ông đã tự mình không lặp lại ánh sáng huy hoàng của giai đoạn thi ca trước, mở ra cánh cửa để đi tới sự mất ngủ của thi ca trên con đường tìm tòi khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người, khi mà lịch sử có những chấn động dữ dội về niềm tin và cái đích đi tới của toàn nhân loại. Cuộc sống đánh vào thơ muôn ngàn lớp sóng và Thiều đã cùng thế hệ mình không ngần ngại ngã vào lớp sóng ấy. Dù chưa biết cái gì xẩy ra ở phía trước.

Những năm cuối cùng của thế kỷ 20 gấp gáp như tràn sang thế kỷ 21, một thời đại đảo lộn các giá trị; thức tỉnh các dân tộc nhìn lại chính mình và những giá trị, nhất là những giá trị tinh thần đã dày công tạo dựng nên. Quốc gia mà hai lần Hiến phápViệt Nam trong lời nói đầu gọi là thành trì của cách mạng thế giới đổ sụp xuống không phương cứu chữa. Quốc gia mà mấy thế kỷ hùng mạnh và tưởng như ổn định nhất lại rung chuyển bởi khẩu hiệu của một người da đen. Không phải duy trì trật tự cố hữu cũ mà Hãy bỏ phiếu cho sự thay đổi. Thế giới phẳng đã lôi kéo những dân tộc bài ngoại ương ngạnh nhất vào trào lưu văn minh như Các Mác đã từng nói. Một loạt các giá trị đổ vỡ dưới chân những thành quách cũ. Một làn gió đổi mới tràn trề thổi trên khắp mặt đất. Giữa lúc đó, nhiều ý kiến cho rằng Thơ đang tự cô lập mình với thời đại. Rằng chữ trong thơ không cần mang nghĩa. Thơ đang lẩn tránh những vấn đề nóng hổi của cuộc sống. Tình ý thơ nghèo nàn nông cạn. Tuyệt đối hóa hình thức, coi đó là ngọn nguồn sáng tạo của thi ca. Rằng Thơ đang khủng hoảng. Tự đánh mất bản chất sáng tạo của mình bằng cách in ra hàng nghìn tập thơ nhạt nhẽo, không ai buồn đọc v.v… Nhưng có một thực tế khác mạnh mẽ hơn nhiều đã hiện diện trên thi đàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời cuộc. Một thế hệ đã mất ngủ cùng thời đại trên con đường cách tân và đổi mới thi ca.

Nguyễn Lương Ngọc (1958-2001) với Từ nước (1991), Ngày sinh lại (1991), Lời trong lời (1994)... Nhà thơ đã thỉnh một tiếng chuông vào thơ làm ta tỉnh giấc. Tôi thỉnh một tiếng chuông, kêu một tiếng chuông. Bên chùa sư nữ thở dài.Người tỉnh dậy tụng lần tràng hạt. Nghĩ thế nào lại thôi. Đồng Đức Bốn (1948-2006) với Con ngựa trắng và rừng cỏ đắng (1992), Chăn trâu đốt lửa (1992)… Bốn chỉ chăn trâu trên cánh đồng lục bát cổ xưa mà buộc người đời phải đi theo Đêm sông Cầu mới lạ. Đừng buông giọt mắt xuống sông. Anh về dẫu chỉ đò không vẫn chìm và Bốn đã rút trăng buộc lại con đò ấy. Dương Kiều Minh (1960-2012) với Củi lửa (1989), Dâng mẹ (1990), Những thời đại thanh xuân(1991)… Tôi vẫn nhớ cái miệng cười tràn đầy hy vọng của Minh giống như Trăng và nắng vốn là thứ ánh sáng muôn đời lại được nhà thơ thắp lên cho tên tuổi của riêng mình trong thơ. Trưa ngun ngút nắng đồng bằng. Bậc thềm giàn giụa trăng mỗi tối. Một thế hệ nhà thơ đã bước ra ánh sáng, mặc dù thành tựu của họ còn rất khác nhau. Gộp tất cả họ lại đã là một tiếng nói rất đáng kể trên thi đàn: Inrasara, Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Tuyết Nga, Đặng Huy Giang, Nguyễn Việt Chiến, Trần Quang Quý... và những người khác. Vẫn tiếng chuông chùa ấy, hai sợi dây lục bát ấy, vẫn trăng và nắng ngàn năm ấy nhưng họ đã nghĩ khác, cảm khác, cách nói khác… trong sự bộn bề lo toan và thôi thúc của những đêm thi ca thắp lửa vì không ngủ. Nguyễn Quang Thiều là khuôn mặt đáng kể và tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ những năm cuối cùng của thế kỷ 20, mặc dù không phải tất cả các sáng tác của ông đều đã được dư luận đánh giá như nhau. Điều đó cũng là đương nhiên đối với hiện tượng Nguyễn Quang Thiều.

Đọc thơ Thiều, người ta chạm phải nỗi trăn trở đến đau đớn của ông trên những vấn đề thời cuộc và thời đại. Như là một cảm hứng chủ đạo. Vang lên âm thanh thảng thốt của tiếng chim đêm và ngân lên không dứt tiếng chuông của các giáo đường khắp mọi nơi về sự vươn tới của sứ mệnh con người.

Trong Lời cầu nguyện của thế hệ Nguyễn Quang Thiều đã nhóm lửa làm lễ đón bình minh theo cách khác.

Họ chạy trốn, không, họ chỉ nhóm lửa không giống
và thì thầm không giống
Không giống đóng cửa, không giống đốt đèn và
im lặng ngồi không giống.
Họ đi ngủ không giống. Nói mê không giống.
Thức dậy không giống
Họ chạy trốn, không. Họ chỉ không giống làm
lễ đón bình minh.

Thế hệ Thiều, các nhà thơ của thời kỳ đổi mới đâu phải ngoảnh mặt với thời cuộc, đâu phải dấn thân vào kinh thánh và những lời sấm truyền khó hiểu. Đâu phải đào bới dục vọng và mê sảng hư vô. Họ khát khao tin yêu và nhận diện con đường của niềm tin dù chỉ là ánh sáng cuối ngày hắt qua khe cửa. Những u mê trôi kín cả chiều vàng. Ta khao khát nhìn thấy ta trong vệt sáng cuối ngày hắt qua khe cửa. Có lẽ nào đó là đường nhân loại. Đó là niềm tin sót lại trên đời.Đọc Châu Thổ, Thơ tuyển lần thứ nhất của Thiều người đọc như chạm vào lửa nóng những vấn đề về triết lý nhân sinh mà thời đại đang đặt ra.

Đó là Tiếng chim cuốc trên đường xưa cỏ nát khi muỗi bay như ném cát vào trong ngõ, cả thế hệ tuổi hai mươi không ngủ bởi những bờ tre gầy rạc tiếng cuốc gọi quê hương. Đó là những người đàn bà góa bụa trên những con đường xa tít loang lổ gió sau những năm chiến tranh như thời gian lặng lẽ chảy vào chiếc bình gốm khổng lồ của lịch sử; bầu vú của họ trở nên mệt mỏi và lơ đãng trong tiếng gọi mê mẩn nồng mùi thuốc lào đàn ông và ruộng đồng ngai ngái mùi châu thổ để người thi sỹ khóc thầm cho Những ví dụ vĩnh viễn ra đi. Đó là sự sám hối của kẻ xâm lược đã bóp cò hai mươi năm về trước để viên đạn chết người vẫn còn bay cho đến bây giờ. Đó là bóng ma chiến tranh hăm dọa và bao vây cả những lời nguyện cầu cho bình yên bên trong thánh đường bao bọc bởi những con đường chuyên chở vũ khí ở xứ sở cồn cào cát bỏng. Đó là trái đất đang nóng lên từng độ mà trái tim con người cứ lạnh dần đi và nhân loại đang uống rượu trong bình đau khổ khi vầng trăng như chiếc khuy đồng, có thể nào sắp dứt ra khỏi áo để không còn mảnh vải che nhau làm đường chân trời run rẩy nhịp thời gian giữa mặt đất khổ đau và bầu trời hạnh phúc. Đó là những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng chạy theo mẹ lớn lên để vác cần câu và những cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ; con cá thiêng quay mặt vào những trang cổ tích khóc dầm dề kể về văn hóa cổ xưa không bao giờ mất. Đó là một thời lịch sử biến động và đầy bất trắc. Những đền chùa gục ngã trước những pho kinh phản bội bồ đề… Tiếng hề cười băm chả những u mê. Đó là Nhân chứng của một cái chết mô tả sự tràn ngập của lụt lội cùng với sự đổ vỡ từ bên trong và sự phục hồi.

Nhưng cao hơn tất cả là tiếng nói của sự sống, của một cuộc đổi thay vĩ đại. Đó là Lời trăn trối của tương lai. Trái đất sẽ kết thúc bằng sự tự bóc vỏ. Những ngọn gió thế kỷ sau ùa về để lịch sử tìm thấy mảnh gốm vàng cho nhà thơ cắt rốn một cuộc sinh nở tràn đầy hy vọng. Một cuộc đổi đời đang đến với những học sinh mới và thầy giáo cũ, với bình minh đang lên. Đó là nhịp điệu châu thổ mới khi ánh nến của hy vọng đã không thể tắt qua khổ đau mà được đốt sớm hơn mọi thế kỷ trước. Và ở đấy râm ran tiếng gọi, tiếng thì thào của đời sống mới, của sự khua vang bát đĩa, củi khô và ấm đun nước, của âm nhạc tưng bừng mở những mùa hoa nến. Nhà thơ như cậu bé đi gọi linh hồn của đất. Nhân loại thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình. Có ai đó đi cùng tôi vào mùa hạ năm ấy đến giáo đường thánh St. Peter đã nói rằng ông ấy cũng có cảm giác như Thiều ở Thánh đường Thomas More khi mà những người Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo cùng cất tiếng nguyện cầu dưới sự chỉ đường duy nhất của chúa tể nhân loại là chính con người.

Nguyễn Quang Thiều nằm trong số ít các nhà thơ hiện đại Việt Nam cảm nhận sâu xa quan niệm vạn vật hữu linh từ trong truyền thống tín ngưỡng dân gian, tôn giáo đến sáng tạo các hình tượng văn học gắn bó với số phận con người bằng tất cả cung bậc tình cảm gần gũi nhất. Những sinh vật nhỏ bé và thân thuộc như giun đất, dế, chó đến con bò, một đám cỏ bạc tóc hay một trái cây lặng lẽ chín trong vườn… Tất cả đều như run rẩy những âm thanh về số phận con người. Tất cả chúng cùng với con người đã đứng dưới bầu trời này cầu nguyện cho hạnh phúc an bình từ rất lâu trước khi các thánh đường được xây cất trên mặt đất. Vâng. Thiều cũng như thế hệ của ông, các nhà thơ của thời kỳ đổi mới đã trang trọng thắp lên những cây nến ngà mở đường cho những ước mơ sinh nở và những khát vọng sáng tạo. Họ đang đi và sẽ còn đi trên con đường cách tân của thi ca Việt Nam.

Bây giờ là cuối mùa đông của thế kỷ này
Chúng ta đang đi hết con đường này
Chúng ta đẹp như ban mai, đầy ước mơ sinh nở
Ý nghĩ ấy vụt qua, bầu trời chợt mở
Chúng ta như hai cây nến ngà vừa được thắp lên.


Những thi phẩm hay nhất trong sự nghiệp của Thiều lại là những bài thơ viết về cố hương. Số bài đó có thể xếp vào những bài thơ hay của thế kỷ 20 cùng với các nhà thơ hiện đại khác. Sông Đáy. Đàn chó của tôi. Bài hát về cố hương. Hồi tưởng tháng tư-mùa hoa Loa kèn. Chiếc bình gốm… Ở đây, Nguyễn Quang Thiều đã kết hợp được nhiều thế mạnh của thi sỹ ở sự độc đáo và mới lạ trong cảm xúc và hình tượng, sự sung mãn và trí tưởng tượng vô cùng mạnh mẽ trên những chủ đề bình dị nhất. Hồi tưởng tháng tư và Bài hát về cố hương là điển hình cho những phẩm chất ấy. Điều này cũng lý giải vì sao hàng trăm bài viết và một số công trình lý luận dài hơi khi trích dẫn Nguyễn Quang Thiều đều lấy Bài hát về cố hương. Cố hương là đề tài truyền thống không biết có biết bao nhà thơ từ cổ chí kim đã viết. Đặc biệt thành tựu là thơ phương Đông. Vậy mà Thiều sản sinh ra một bài thơ hay với cái kết thật đặc sắc làm cho cái nhỏ bé tầm thường nhất, rất tầm thường, chỉ như con chó nhỏ mà mang về ý nghĩa sâu xa đâu cần phải lên giọng hô phong hoán vũ. Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ. Để canh giữ nỗi buồn - báu vật cố hương tôi. Đâu có phá cách. Đâu có thơ dịch. Con vằn nhà nông xuế xóa ngại nuôi đã ở trong thơ Ức Trai tự lâu rồi. Cũng như Tháng mười.Chỉ tháng mười ở vùng châu thổ sông Hồng, khi lúa đã gặt xong và mùa thu đang đến, mỗi người thành thị ở xứ Bắc đều có một người nhà quê trong máu thịt bao đời truyền lại. Bởi Những ngọn khói trẻ chăn trâu đốt rạ trên cánh đồng sau vụ gặt. Thở vào ta hương vị tháng mười…

Thơ hay như người con gái đẹp. Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng. Dĩ nhiên là người con gái đang tâm sự thầm với chúng ta ở đây đã lấy được chồng rồi. Nhưng. Vì sự mất ngủ của thi ca. Thơ Thiều lại bước lên thi đàn với dáng vẻ mới. Tôi muốn nói tới những bài thơ dài mà chưa bao giờ Thiều gọi là trường ca cả. Tập Châu Thổ có chừng 6 bài.Nhịp điệu châu thổ mới. Chuyển dịch màu đen. Hồi tưởng. Nhân chứng của cái chết. Bài ca chim đêm. Cây ánh sáng.Một số ý kiến trong hội thảo giữa 2012 cho rằng: đọc thơ Thiều như đi vào mê sảng của những ý nghĩ, những điểm chưa nói hết, lập lờ, nhiều bè, nhiều tầng bậc, tình tiết, thủ pháp lạ hóa và ẩn dụ kép. Thú thật là thấy nặng nề. Không chỉ trong thơ dài, cả trong thơ ngắn ngày càng vơi đi chất lãng mạn, hoang dại .v.v… Những nhận định trên đây có lẽ chủ yếu dành cho thơ dài. Tôi cho rằng đó là lĩnh vực vẫn còn nhiều thử nghiệm của ông. Hầu như không có cốt truyện là điều mà nhiều người hay làm và có vẻ để dễ theo dõi hơn. Thơ dài của Thiều là những bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc trên toàn nền màu trầm để mô tả những luận đề của suy tưởng và những trận bão của cảm xúc. Không phải không có những câu thơ lấp lánh. Những hình tượng đột xuất và thậm chí cả một bài thơ hay trọn vẹn nằm trong số những bài hay nhất của Thiều. Ví như Hồi tưởng tháng tư. Tuy nhiên với Nhịp điệu châu thổ mới dài 7 chương, Nhân chứng của một cái chết dài 19 khúc… Không phải là điều dễ dàng đối với số đông công chúng đọc thơ hiện nay. Thiều lại hay sử dụng thủ pháp nghệ thuật xếp hàng những hình tượng đa chiều của một hiện tượng, một cảm xúc liền kề nhau. Giống như việc đặt liên tục các luận đề về một sự vật, hiện tượng cạnh nhau có thể gây cho người đọc cơn sốc của cảm xúc.

Tôi không hiểu dùng từ luận đề đã chính xác hay chưa, nhưng bằng cách đó Nguyễn Quang Thiều đã công khai đề xướng một khuynh hướng biểu cảm khác hẳn, chưa bao giờ có trong truyền thống thơ phương Đông, vốn cổ súy cho chủ trương ý tại ngôn ngoại, hàm súc, triệt để sử dụng những thủ pháp ước lệ, biểu trưng. Thơ dài của Thiều để cảm xúc trần trụi dâng trào lên… Bắt buộc người ta không thể ngân nga thư thái được. Rằng hay thì thật là hay. Nhưng tôi đã gặp sự nhấn mạnh liên tiếp như thế trong tác phẩm triết học của các nhà kinh điển. Thơ Thiều không phải là tác phẩm triết học, nhưng một số bài thơ dài lẫn ngắn ông lấy xuất phát điểm từ góc nhìn của nhà triết học. Có người hỏi Nguyễn Tiên Điền khi viết truyện Kiều cũng đã từng xuất phát từ luận đề mang tính triết học? Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau? Tôi cho rằng Nguyễn Du coi thuyết tài mệnh tương đố chỉ là…cái cớ mà thôi. Tư tưởng sáng tạo nghệ thuật của ông là ở hai câu tiếp theo. Ở đó có sự gắn bó không chia cắt của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo. Động lực để đi đến tuyệt tác Đoạn trường tân thanh. Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Tôi suy nghĩ điều này trong liên hệ với một nhận xét đầy hóm hỉnh và kín đáo của nhà thơ Hữu Thỉnh: Thơ Thiều trước đây hay không giải thích được. Bây giờ hay có thể giải thích được. Nhẹ nhàng vậy thôi nhưng chạm tới cốt cách của Thơ khác so với các thể loại khác. Phải chăng đó là tính tự nhiên?

Đọc thơ dài của Nguyễn Quang Thiều, tôi nghĩ sự mất ngủ vì thi ca của thế hệ ông còn chưa dứt. Không chỉ 10 năm cuối cùng của thế kỷ 20 mà tràn sang cả thế kỷ mới. Nhìn lại sự bùng nổ của Phong trào Thơ Mới những năm 30 chỉ diễn ra trong 10 năm nhưng thực ra đã âm ỉ từ 30 năm trước. Cũng như 10 năm thơ chống Mỹ (1964-1975) rực rỡ là thế cũng được chuẩn bị từ rất lâu trước đó và được kéo dài khoảng 20 năm sau chiến tranh. Với những thành tựu đã có, thế hệ của Thiều còn đang phải đi tới giai đoạn nở rộ các tập thơ hay vượt trội với các phong cách thơ độc đáo, có tầm vóc. Phải chăng là chậm trễ? Không. Không chậm chút nào vì tất cả những vấn đề rộng lớn làm thành đặc điểm của nền tảng văn hóa và xã hội, quy mô của những vấn đề về triết lý nhân sinh mà thời đại đang đặt ra cho thế hệ thi sỹ cùng thời với Nguyễn Quang Thiều? Thế hệ của Thiều sẵn lòng tự mình làm chân nến chân đèn giống như nhân vật trong truyện nôm khuyết danh thế kỷ 18 để thắp lửa chào đón cuộc lương duyên, chào đón một thời đại mới của thi ca, khi mà các thi sỹ của thời đại chúng ta đều phát sáng giống như những chân nến chân đèn đều thắp lửa cho một cuộc hội ngộ văn chương. Không hiểu lúc đó thi sỹ Nguyễn Quang Thiều có còn giữ lại chân nến chân đèn nữa hay không, hay là tự nguyện lau chùi chúng bóng loáng như ông cố đạo năm nào rồi đem hiến vào một giáo đường nào đó ở xứ đạo nghèo Sơn nam thượng quanh năm gió thổi.


Con đường sáng tạo: Con đường tự thể hiện





Con đường tự thể hiện

Niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống không nằm trong của cải tiện nghi.

Niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống hệ tại khả năng, trạng thái, tư thế, thời đại. “Mi hãy trở nên con người của chính mi” (Deviens ce que tu es) không những là một mệnh lệnh tuyệt đối mà còn là một diễm phúc tối cao.

Chất liệu đầu tiên hiến dâng cho kẻ sáng tạo chính là bản thân.

Viết khởi đầu là một cách tự hiện mình, sau đó là cách phát hiện mình và cuối cùng là cách sáng tạo mình. Lý tưởng của cả ba tiến trình đó là thể hiện cái “Tôi” chân thực. Song cái “Tôi” lý tưởng đó không thể là một cá thể đơn lẻ. Cái “Tôi” lý tưởng mà kẻ sáng tạo hướng tới phải là cái “Tôi vũ trụ” (Moi cosmique). Qua tất cả mọi lao khổ sáng tạo, hắn phải học cách nhìn lại tất cả mọi sự bằng “Con mắt vũ trụ”, phải khôn ngoan nhận thức được rằng có một thị kiến khác ở trên thị kiến khác, phải khiêm tốn nhận định rằng hắn chỉ là một dòng sông nhỏ của một mạch nguồn mãnh liệt, phải hân hoan nhận chân được rằng hắn chỉ là một thành phần trong một toàn thể, một dụng cụ trong tay những sức mạnh siêu nhiên: Qua tôi Đấng Sáng Tạo hành động, qua tôi Đấng Sáng Tạo nói. Tôi là một cá thể và đồng thời một tập thể, một người và đồng thời một đám đông. Tôi là một phiến lá trong ngàn cây rậm lá. Hãy trồi lên, hỡi gió. Tôi sẽ rung và sẵn sàng giao chuyển nhịp nhàng. Tôi là hôm nay, hôm mai và đồng thời hôm qua. Hãy tuôn chảy ào ạt qua tôi, hỡi vĩnh cửu! Tôi đang sống như đã sống tự nghìn thu và sẽ còn sống mãi đến thiên thu.

Khúc quanh tất yếu mà bất cứ nhà văn đích thực nào cũng phải đi tới trên bước đường sáng tác là sự khẳng định mình, kẻ duy nhất trên đời mà hắn biết một cách xác thực, kho tàng duy nhất mà hắn độc quyền khai thác. Đó là lúc hắn sáng suốt nhận ra và đồng thời hoàn toàn chấp nhận con người mình. Rất bằng lòng, rất đủ “Tới một điểm nào đó trong cuộc đời tôi, tôi quyết định rằng từ nay tôi viết về chính tôi, bằng hữu của tôi, kinh nghiệm của tôi, điều tôi biết và điều chính mắt tôi đã thấy. Bất cứ điều gì khác, theo ý tôi, chỉ là văn chương và tôi không tha thiết với văn chương. Tôi còn nhận thức được rằng tôi phải học cách bằng lòng với cái ở trong tầm tay tôi, trong phạm vi của tôi, sự hiểu biết của riêng tôi. Tôi học cách không mắc cỡ về mình, tha hồ tự do nói về mình, quảng cáo mình, chen vai thích cánh khi cần thiết.” (At a certain point in my life I decided that henceforth I would write about myself, my friends, my experiences, what I knew and what I had seen with my own eyes. Anything else, in my opinion, is literature and I am not interested in literature. I realized also that I should have to learn to content myself with what was within my grasp, my scope, my personal ken. I learned not to be ashamed of myself, to talk freely about myself, to advertise myself, to elbow my way in here and there when necessary – Henry Miller) Tóm lại:

Tôi hiện hữu như tôi hiện tại, thế là đủ rồi.
Dầu không một ai trên cuộc đời này ý thức được rằng tôi đang an nhiên tự tại.
Và dầu cho mỗi và tất cả mọi người ý thức rằng tôi đang an nhiên tự tại.

(I exist as I am, that is enough.
If nother be aware I sit content.
And if each and all be aware I sit content)
Walt Whitman, “Song of myself”.

Nhưng nếu là kẻ sáng tạo, hắn còn phải biết thực hiện một hành động ngược lại, hắn phải biết coi thường hắn, còn phải biết phủ nhận chính con người của hắn nữa. “Tất cả lòng hăng hái chuyên cần của tôi và tất cả sự hờ hững lạnh lùng của tôi, tất cả sự tự chủ của tôi và tất cả khuynh hướng tự nhiên của tôi, tất cả lòng can trường của tôi và tất cả sự run sợ của tôi, mặt trời của tôi và sấm sét tung ra từ một vòm trời đen tối của tôi, tất cả tâm hồn và trí tuệ của tôi, tất cả khối đá hoa cương nặng trĩu và trang trọng của cái “Tôi” của tôi, tất cả những thứ đó đều có quyền nhắc đi nhắc lại không ngừng: “Thây kệ tôi là gì thì là!” – Nietzsche (Toute mon ardeur laborieuse et toute ma nonchalance, toute ma maîtrise de moi-même et toute mon inclination naturelle, toute ma bravoure et toute mon tremblement, mon soleil et ma foudre jaillissant d’un ciel noir, toute mon âme et tout mon esprit, tout le granit lourd et grave de mon “Moi”, tout cela a le droit de se répéter sans cesse: “Qu’importe ce que je suis!” – Vonlonté de Puissance, II, 4: 4 - 612).

Tôi phải vượt qua cái “ngã ” giả tưởng.

Vượt qua cái “Tôi” và cái “Anh”! Cảm thức một cách vũ trụ! (Dépasser le "Moi” et le “Toi”! Sentir de façon cosmique!) Nietzsche.

Tất cả mọi cá thể đều tham dự vào toàn thể của hữu thể vũ trụ. Cá thể không phải là kết quả mà là tổng số của cuộc tiền hữu. Nó cũng không phải là nhân mà chỉ là trợ duyên cho cuộc sống vị lai.

“Meurs et deviens.”

“Hãy chết đi và tựu thành!” Tâm hồn kẻ sáng tạo sẽ là một chiến trường ghê gớm nơi giao tranh của tất cả những sức mạnh truyền thống, luân lý, xã hội…, những sức mạnh phi ngã với tự ngã. Cuộc chinh phục tự ngã là một chiến thắng lớn lao trên đường tự thể hiện.

“Và chừng nào mi chưa hiểu thấu câu “chết đi và tựu thành”, thì mi sẽ chỉ là một khách lạ tối tăm trên trần gian u tối”. Goethe, Divan occidental – oriental.

(Et tant que tu n’aurais pas compris ce “meurs et deviens”, tu ne seras qu’un hôte obscur sur la terre ténébreuse).

Kẻ đã xô đổ những vật chống đỡ bên ngoài, đã giết chết “con người – người ta” của mình, tự tay xây dựng nơi ẩn trú của mình không còn là một khách lạ tối tăm bơ vơ trên trần gian u tối nữa, hắn trở thành chủ nhân căn nhà của hắn, chủ nhân cuộc đời hắn.

Nhà ta, ta ở lấy,
Theo người, ta chẳng chạy,
Ta cười các bực thầy
Không biết cười mình vậy.

(Nietzsche - Ngô Trọng Anh dịch theo bản Pháp ngữ của Alexandre Vialatte).

J’habite ma propre maison.
N’ai jamais imité personne.
Et me suis moqué de tout maitre,
Qui ne s’est moqué de soi.

Nhưng cái nhà là nhà của ta, do chính tay ta làm ra đó, ta phải xây dựng ở đâu: bằng gì? Dĩ nhiên không thể ở bên ngoài và bằng những chất liệu giả tạm. Ngôi nhà an trú cho mình và đồng thời cho mọi người đó chỉ có thể có trong lòng người thấu suốt, giải thoát, bao la, tam thường bất túc nhưng tự túc mãn kẻ như đại sư Milarepa:

Biết một điều ta cảm nghiệm được mọi điều:

Biết mọi điều ta hiểu chúng là một;

Ta đã cảm nghiệm thực tại chân thực;

Cái giường chật hẹp của ta đủ cho ta duỗi dài và nằm cong queo như con tôm một cách thoải mái;

Bộ quần áo mong manh đủ khiến thân thể ta ấm;

Chút ít đồ ăn đủ thỏa mãn dạ dầy ta;

Ta là mục tiêu của mọi tư tưởng gia vĩ đại;

Ta là chốn tụ hội của tín đồ;

Ta là chỗ quanh co của sinh tử và hư hoại;

Ta chẳng thích bất cứ xứ sở nào;

Ta chẳng có nhà cửa ở bất cứ nơi nào;

Ta chẳng tích chứa thực phẩm cho sự sinh sống của ta;

Ta chẳng ham muốn của cải vật chất;

Ta chẳng phân biệt đồ ăn sạch với dơ;

Ta chẳng bị đau khổ giày vò bao nhiêu;

Ta chẳng thích tự mến mộ mình bao nhiêu;

Ta chẳng buộc ràng hay thành kiến bao nhiêu;

Ta đã tìm thấy tự do giải thoát của Niết Bàn;

Ta là người an ủi kẻ già nua;

Ta là bạn chơi của trẻ em;

Hiền giả, ta lưu đãng qua những vương quốc của trần gian.

Ta cầu cho người và thần thánh được an trú tịnh yên.

Knowing one thing I have Experience of all things;
Knowing all things I conprehend them to be one;
I have experience of true reality;
My narrow bed gives me ease to stretch and bend;
My thin clothing makes my body warm; my scanty fare satisfies my belly.
I am the goal of every great meditator;
I am the meeting place of the faithful;
I am the coil of birth and death and decay;
I have no preference for any country;
I have home in any place;
I have no store of provisions for my livelihood;
I have no fondness for material things;
I make no distinction between clean and unclean in food;
I have little torment of suffering;
I have little desire for self-esteem;
I have little attachment or bias;
I have found the freedom of Nirvanna;
I am the comforter of the aged;
I am the playmate of children;
The sage; I wander through the kingdoms of the world.
I pray that ye men and gods may dwell at ease.

(Milarepa, The Message of Milarepa)

Không những nguyện cầu cho người và thần thánh được an nhiên tự tại, kẻ thực hiện được Chân Ngã còn cầu nguyện cho toàn thể vạn vật được dự phần yên vui:

“Xin nguyện cầu cho vạn vật được hạnh phúc, xin nguyện cầu cho vạn vật được thanh bình: xin nguyện cầu cho vạn vật được hưởng chân phúc.”

(Vivekananda).

Cái ta nhỏ bé đã chết, hay đúng hơn đã thể nhập được vào cái TA tịch nhiên bất động giữa Thiên Nhiên:

TA TĨNH TỊCH

Ta tĩnh tịch tịnh yên,

Thong dong tồn lập giữa Thiên Nhiên

Vương chúa của mọi vật

Hoặc Nữ Vương của mọi đồ

Hoặc Hoàng Đế của doanh hoàn thảy thảy

Tự như tự tại trầm chước vô ngần tại trung tâm cháy bỏng của mọi mọi thứ hỗn độn nhà ma, trớ trêu của qủy

Ta cũng chan hòa tiêm nhiễm mù sương như chúng

Ta cũng lai láng rớt hột thụ động giang hà, đón nhận hoang liêu như chúng

Ta cũng lặng im như chúng.

Nhận thấy công việc của ta, chức nghiệp của ta và nghèo nàn và danh vọng và nhược điểm và tội lỗi và mọi mọi khác khác của ta, thật chẳng quan trọng chi nhiều như ta vốn đã tưởng.

Ta mình ta mẩy, ta thể ta thân, ta thần hồn, ta linh phách, ta lách lau, ta cồn lá, ta cá chim, ta kim tuyền, ta phiền sương hoàng lục thạch, ta song lạch hoàng hạc lâu, ta sơ đầu hoàng lục ngọc, ta dọc dọc hồng lựu ngọc ngang ngang, ta hai hàng đi bước chân chữ bát, ta bình trác cầm đơn nhẫn loan đao, ta chiêm bao thủ trì lục ngọc trượng, ta phương trượng mở bài phương tiện cầm Kim Xà Kiếm rạch đường dọc trên mình mẩy Nữ Thí Chủ Tam Cô Nương, ta lên đường ô lữ vân mồng gieo hai hàng song song lựu tử thạch, ta khai khải anh thần bên trường phát phi kiên, ta khải phát uy quyền bên trường quần vén xiêm duệ địa.

Me toward the Mexican sea.

Ta hướng thân phiêu bồng về phương mây Mễ Tây Cơ đại hải.

Hoặc trong miền rộng rãi Mannahatta,

Hoặc ngoài cõi đằng la Tennessee,

Hoặc giữa một vùng Thanh Cấm Nguyệt phiêu du,

Hoặc hư phù phương Nam phương Bắc

Hoặc ra ngoài bờ tỳ hải réo rắt

Hoặc vào trong lục địa ngủ một trận năm châu

Ta một con người con Giòng Sông Bất Tận

Ta một con kẻ con Triều Động U Sương

Ta một con ma lên đường con gào kêu con Hắc Quỷ

Ta một con mọi túy lúy con thượng thặng huyền lâm bên thừa dư con rừng tía

Ta một con gấu mỉm miệng cười bên tổ mật hoàng phong

Ta một con beo hoặc là một con cọp

Ta một con cọp hoặc là chẳng một cọp chi mô

Ta một con sư tử kim mao u buồn nữ sư vương ủ rũ.

Ta làm thơ thi sĩ màu chanh mọc tam sư muội cô nương

Ta viếng thăm thôn trang tại thôn làng thang lang nông trại

Ta thăm viếng một con người là con kẻ chính ta

Ta con người Trường Giang con ma Đại Hải

Ta con kẻ của lâm tuyền sơn thụ

Hoặc con của sinh hoạt nông trại thôn trang

Hoặc của sinh bình nông trang thôn trại

Hoặc của sinh lý thôn trại nông trang

Hoặc của một nàng mùa thu mang trong mình một trang quốc sắc

Hoặc của một nương tử mùa xuân vòng tay học trò mang tứ chi tìm đông phương thị hậu

A river man, or a man of the woods or any farm-life these States or of the coast, or the lakes of Kanada.

Ta thế là ta tràn làn khắp cõi, từ thôn trại sinh hoạt xứ sở nọ, tới miền duyên hải hoặc giang hồ non nươc Kanada kia.

Ta như vậy là suốt miền ta tại hoạt, tại sinh tại bình, tại bối bất cứ nơi nào cuộc sinh bình ta được sống, ôi được sống mọi bình sinh giữa cuộc! Ôi được cuộc mọi sinh được sống mọi trong cơn… Ôi được tự tại như tự ta đong đưa tự mình tự mẩy, tha hồ cho mặc sức xô đẩy mọi phù động ngẫu nhĩ ngẫu nhiên.

Ta mọi phi tuyền về trong cơn chót vót,

Ta mọi con chim ca hót về tĩnh dạ thâm canh,

Ta mọi thập thành thuần thanh công lực, về trong bão táp đêm tăm,

Ta mọi ăn nằm chịu chơi trong từng cơn đói rét,

Ta mọi hiu hắt trì thủ trước mọi lếu láo lố bịch làm thơ,

Ta mọi bất ngờ đổ ra mọi tai ương tai ách,

Ta mọi đường rạch giữa mọi dọc mọi ngang, mọi trở ngăn mọi tỏa chiết,

Ta mọi kỳ tuyệt giữa mọi gò đống ngổn ngang,

Ta mọi một hàng giữa mọi đoạn nhiên nhi cự tuyệt,

Như y hệt ta là ta như thế, như mọi cây cối và thú vật mọi như như.

Walt Whitman, Leaves of grass.
Bùi Giáng dịch trong Sương Bình Nguyên [1]

Me Imperturbe
Me imperturbe, standing at ease in Nature,
Master of all or mistress of all, aplomb in the midst of irrational thing,
Imbued as they, passive, receptive, silent as they,
Finding my occupation, poverty, notoriety, foibles, crimes, less important than I thought,
Me toward the Mexican sea, or in the Mannahatta or the Tennessee, or far north or inland,
A river man, or a man of the woods or of any farm-life of these
States or of the coast, of the lakes or Kanada,
Me wherever my life is lived, O to be self-balanced for contingencies,
To confront night, storms, hunger, ridicule, accidents, rebuffs, as the trees or animals do.

Bên ngoài, kẻ đã thể hiện được CHÂN NGÃ có thể đón nhận mọi đói khát, giông bão, đêm tối, khước từ, nhục nhã… đó là nơi giao hòa của mọi sự. Mặt hắn như mặt đất, không chối từ một điều gì thì lòng hắn cũng như lòng đất có thể dung nạp và hóa giải được tất cả: đó là nơi chuyển tính mọi sự.

CÁCH NGÔN

Cứng rắn và dịu dàng, thô bạo và tế nhị,
Thân mật và xa lạ, nhơ bẩn và tinh khiết,
Nơi hẹn hò của những cuồng nhân và hiền nhân,
Ta là tất cả điều đó, ta muốn là điều đó,
Vừa là bồ câu, rắn rết đồng thời là lợn heo.

LE PROVERBE DIT:

Apre et doux, grossier et fin,
Familier et étranger, malpropre et pur,
Rendez-vous des fous et des sages,
Je suis tout cela, je veux l’être,
Tout à la fois colombe, et serpent et cochon.
Nietzsche,Tri Thức Hân Hoan

“Thiên tài không có cá tính”, Keats đã viết như vậy trong một thiên khảo cứu về Shakespeare. Cũng vậy, kẻ đã thể hiện được Chân Ngã không có tên. Đó là một hài nhi mới chào đời, chào đời mỗi ngày nên chẳng bao giờ kịp làm giấy khai sinh, tim tươi hồng và mới mẻ như mặt trời mỗi buổi mai mỗi mọc. Có thể gọi tên nó là hân hoan?

NIỀM HÂN HOAN NGÂY THƠ

“Ta không có tên:
Ta ra đời mới có hai ngày.”
Ta sẽ biết gọi ngươi bằng gì?
“Ta hân hoan,
Hân hoan là tên ta.”
Cầu cho hân hoan ngọt ngào ở mãi cùng người!
Niềm hân hoan xinh!
Niềm hân hoan ngọt ngào mới được hai ngày,
Niềm hân hoan ngọt ngào là tên ta đặt cho người:
Ngươi mỉm nụ cười
Khi ta ca hát
Cầu cho niềm hân hoan ngọt ngào ở mãi cùng người.

INFANT JOY

“I have no name:
I am but two days old,”
What shall I call thee?
“I happy am,
Joy is my name.”
Sweet joy befall thee!
Pretty joy!
Sweet joy but two days old,
Sweet joy I call thee:
Thou dost smile,
I sing the while
Sweet joy befall thee.
William Blake, Songs of Innocence.

HÂN HOAN, ta là HÀI NHI HÂN HOAN!

Kẻ sáng tạo khẳng định như vậy.

“Ta có trách nhiệm về số mạng ta, ta là kẻ đem điều thiện đến cho ta, ta là kẻ đem điều ác đến cho ta. Ta là đấng Thanh Khiết và hưởng Chân Phúc” vì ta hiểu thế nào là Chân Ngã, thế nào là Chân Pháp.


NGUYỄN HỮU HIỆU
3 Tháng mười Canh Tuất, ngày cuối cùng ở Hoàng Hạc Lâu.

Mi muốn bao giờ bay lên cũng được, hạc vàng!

Kiên nhẫn là tất cả.

Hãy khoan thai, hãy tin tưởng,

Hãy chín!

Đừng mang cho đời những trái xanh đắng chát chua non, những bông hoa hàm tiếu úa tàn,

Đừng cho đời nếm những đau khổ chưa sâu, những hân hoan chưa cao, những hận thù chưa vơi, những yêu thương chưa đầy,

Đừng cho đời biết những đam mê chưa tỉnh, những thao thức chưa mê, những tuyệt vọng chưa cùng, những khát vọng chưa hết,

Đừng cho đời thấy những niềm tin chưa xanh, những hy vọng chưa đỏ, những ngày tháng chưa thiêng, những thần tượng chưa đổ,

Đừng cho đời hay những tội lỗi chưa giải, những mê cung chưa thoát, những địa ngục chưa khép kín cho trần gian, những thiên đàng chưa mở rộng cho loài người,

Và đừng nói về những con sông đục ngầu phù sa không phảng phất xanh mầu biển mẹ, cũng đừng nói về những nẻo đường nghẽn lối không thênh thang lồng lộng bóng TA về

giải thoát bao dung.

Phải sống và nói về ĐỜI như một TOÀN THỂ, về TA như một thành phần và về TA như là TÂT CẢ.

vô thủy, vô chung
hủy diệt và hồi sinh trong từng
hơi thở mảnh.
TAT TVAM ASI
NGƯỜI LÀ CHÂN NHƯ

OM TAT SAT
TA LÀ ĐẰNG ẤY

Kẻ sáng tạo khẳng định như vậy.

Đó là sự sáng tạo tối thượng mà mỗi người và tất cả mọi người phải thực hiện. Vì sáng tạo là sống và sống là sáng tạo

Sáng tạo miên man.




[1]Quế Sơn Võ Tánh, 1969, tr. 203-208

Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của dịch giả.


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014

Dân chủ không phải là tự do – Một số trích dẫn phản đối dân chủ




Featured image: Romuva

“Dân chủ? Tôi chả muốn một cái hệ thống vận hành dựa trên tiền đề rằng các quyền của tôi không tồn tại đơn giản chỉ vì tôi là thiểu số.” — R. Lee Wrights

“Người ta ngu tới nỗi không thể quản lý được chính họ, nhưng bỗng nhiên có đủ thông minh để bầu ra một nhóm người để cai trị tất cả.” – Khuyết danh

“Đa số bị áp bức cũng chẳng khác gì nhiều thiểu số bị áp bức.” – Khuyết danh

“Lý lẽ thuyết phục nhất để phản đối dân chủ chính là 5 phút nói chuyện với một cử tri bình thường.” – Winston Churchill (cố thủ tướng Anh)

“Dân chủ là một niềm tin đáng thương hại vào trí tuệ tập thể của sự vô minh cá thể. Không ai trên đời này, theo như tôi biết–và tôi đã tra cứu rất nhiều tài liệu trong nhiều năm trời, thậm chí còn thuê thêm người giúp mình–từng mất tiền chỉ vì đánh giá thấp trí thông minh của đám đông.” – Henry Louis “H. L.” Mencken
“Dân chủ không phải là tự do. Dân chủ là hai con sói và một con cừu bầu xem trưa nay ăn gì. Tự do đến từ việc nhận thức được rằng có một số quyền không thể bị tước đi, thậm chí là với 99% phiếu bầu.” ― Marvin Simkin

“Dân chủ chỉ đơn giản là ‘the bludgeoning’ (sự bị đập bằng dùi cui) của nhân dân, bởi nhân dân, và vì nhân dân.” – Oscar Wilde

(Nguyễn Hoàng Huy dịch)