SKhuất Bình Nguyên
Sau những năm 1983-1986, Nguyễn Quang Thiều tự chia tay với những cái đã có của mình để bước vào con đường tìm tòi mới! "Sự mất ngủ của lửa" được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 như không chỉ nói hộ bản thân ông mà cho cả thế hệ ông đã tự mình không lặp lại ánh sáng huy hoàng của giai đoạn thi ca trước, mở ra cánh cửa để đi tới sự mất ngủ của thi ca trên con đường tìm tòi khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người, khi mà lịch sử có những chấn động dữ dội về niềm tin và cái đích đi tới của toàn nhân loại.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (ảnh: Đỗ Hiếu)
Quãng đâu như tháng 7 năm 2007. Người bạn vong niên của tôi có quân hàm đại tá. Công tác trong ngành tình báo quân đội đã nghỉ hưu. Sau khi giới thiệu thân thế, sự nghiệp của nhân vật kia, người đồng hương ấy của tôi còn cẩn thận dặn dò. Bảo một chút thôi mà nói dài nghe nóng cả điện thoại. “Một thi sỹ đã có tiếng tăm. Khi nói chuyện giọng truyền cảm lắm. Cứ y như mấy ông cố đạo ở giáo xứ nghèo vùng Sơn nam thượng quê mình…”. Đã mấy lần thưa vâng mà chưa dứt được cuộc gọi đầy ám ảnh ấy. Rồi tôi gặp người đó. Người đã can dự vào hầu hết các lĩnh vực văn chương. Ông ấy là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Phải nói thật là khi gặp Thiều, tôi không khỏi ngỡ ngàng. Chẳng khác nào sau khi đã đọc Lẵng quả Thông và Tuyết vô cùng mịn màng tự dưng lại gặp cây phong già cổ thụ xù xì thời gian Konstantin Pautopsky giữa căn hộ nhỏ hẹp với bà vợ trẻ đẹp đa tình ở Mascơva trong bức ảnh đen trắng in trên một tờ nhật trình Nga hồi đầu những năm năm mươi. Dáng vẻ ông cố đạo mẫn tiệp có phải trước hết bởi sự mê hoặc của khuôn mặt đầy cá tính khiến Thiều giống một nhà văn hiện thực hơn là một nhà thơ lãng mạn.
Đọc truyện ngắn của Thiều. Hương khúc nếp cuối cùng. Mưa ấm. Mùa hoa cải ven sông. Tiếng gọi cuối mùa đông. Hai người đàn bà xóm trại. Khúc hát của dòng sông. Người ở với hoa Tầm Xuân v.v.. Tôi thường thấy vang lên tiếng gọi khắc khoải của số phận con người vọng qua các dòng sông yên tĩnh như tương phản, lại như đồng điệu với đời sống đầy trắc ẩn ở cõi trần gian. Con thuyền lững lờ trôi dọc dòng sông ấy trong sắc chiều huyền diệu tím như những quả dâu chín, dịu dàng tư lự như cái nhìn buông ra từ thuở ban đầu mà sao thân phận con người nhiều đắng cay và thử thách đến thế. Đó là tiếng ơ..ơ..ơ dưới bến âm vang da diết và rạo rực khôn cùng tâm khảm của hai người đàn bà một già một trẻ có chung một người thân ra trận không về. Tiếng gọi cuối mùa đông không có ai trả lời. Chỉ có bên kia sông mưa xuân đang ngùn ngụt bay. Đó là tiếng gió từ bãi sông rộng thổi hằn lên từng làn mưa bụi về phía chân đê. Tiếng mưa mỏng và nhẹ như tiếng người thì thào đâu đó cảm thông cho số phận của Hai người đàn bà xóm trại sống với nhau mấy chục năm đến giờ tóc họ đã bạc trắng đợi hai người chồng lính trận bao năm chưa trở về. Đó là bãi sông mưa tháng hai ngây ngất. Rau khúc nếp đẻ nhánh râm ran. Đôi trai gái lớn lên theo mùa khúc mọc mà số phận nghiệt ngã lại đến với tình yêu của họ. Cô gái không nhìn thấy được gì nữa. Chỉ còn lại nỗi xót xa của Hương khúc nếp cuối cùng. Đó là anh bộ đội đóng quân bên kia sông, thi thoảng lại bơi qua sông đêm thăm Người ở với hoa Tầm Xuân - Người đàn bà bạc mệnh chồng mất sớm. Đứa con trai duy nhất đi B được 3 năm thì có giấy báo tử gửi về. Một ngày kia. Người đàn bà ấy đi về cõi âm để sống với chồng. Với con. Để lại bụi Tầm Xuân cằn cỗi và im lìm trong giá rét bên bờ sông xa lắm. Đó là bóng tối mênh mang và tiếng mưa triền miên vỗ trên mặt sóng. Những ngọn gió sông mang tiếng hát của người trong giấc mơ xưa cũng chính là Khúc hát của dòng sông ấy đánh thức bao lo âu và phập phồng hạnh phúc của những cô gái đến tuổi lấy chồng… Đó là Mùa hoa cải ven sông. Suốt cả bờ bãi dòng nước hiền hòa ấy rực vàng hoa cải. Những bông hoa nhỏ nhắn mềm mại đung đưa trong gió. Những cánh mỏng lấm tấm rụng trên mặt phù sa. Nỗi khát khao tình yêu cuộc sống của con người không chỉ tình yêu bị chia lìa của đôi trai gái ấy mà cả những kiếp người phiêu bạt dưới những mui thuyền vạn chài lơ đễnh trên khắp các dòng sông Việt…
Thiều viết văn xuôi với bản lĩnh của người thi sỹ. Truyện của ông tràn ngập chất thơ. Không phải sự cầu nguyện cho bất hạnh và tan vỡ của số phận con người. Văn ông ngợi ca sự chiến thắng của con người trước định mệnh và dù phải đắng cay như ngọn lửa cuối cùng vùi trong than bụi vẫn ấm nóng tình yêu cuộc sống. Đọc văn Thiều, đôi khi tôi sợ ông ấy vì cái lạnh lùng chỉ có ở những nhà tiểu thuyết mà thường các thi sỹ chẳng bao giờ có được. Ví như ông dằn lòng để cho người lính vội vã từ chiến trận trở về thăm vợ chỉ được hai lần ngắn ngủi một hai đêm trong đời mà cả hai lần đều không gặp được trong sự thảng thốt đến vô cùng của cả Hai người đàn bà xóm trại. Hoặc như người thương binh duy nhất còn sống sót sau hòa bình trở về quả đồi chiến tranh nơi cả đơn vị anh đã hy sinh. Nhưng cả hai người đàn bà thân yêu; một là người vợ không chịu nổi cô đơn và di họa chiến tranh phải lặng lẽ bỏ đi; một là người đang tiến dần đến tình yêu thương lại phải chết vì mìn. Đến con trâu người lính ấy thả về rừng cũng không đi nổi phải quay trở lại trong đêm để làm bạn với sự cô đơn và thiệt thòi của con người…
Quãng giữa năm 2010 trở đi, tôi thường đọc thơ Thiều nhiều hơn, gặp nhau trên giấy nhiều hơn là gặp ngoài đời. Bây giờ ông ấy là người lãnh đạo. Vẫn biết làm cái nghề văn mà có tí chức chỉ khổ thôi; chẳng ai muốn làm vì chẳng thể làm cho tác phẩm của mình hay lên được. Thi thoảng đến hội trường bé nhỏ chỉ bằng phòng họp của Ủy ban xã ở số 9 Nguyễn Đình Chiểu hay phòng mít tinh giống như rạp chiếu bóng của Bảo tàng Văn học Việt Nam 275 Âu Cơ. Ông đã được ban tổ chức xếp chỗ ngồi ở hàng ghế đầu. Từ những hàng ghế sau nhìn lên, thấy cái đầu ông ấy xung quanh tóc rậm và dày. Đặc biệt là ở phía sau gáy. Nhưng ở giữa đỉnh dường như lại có một khoảng trống thưa thớt nhỏ bằng lòng bàn tay. Tôi nhớ đến các đức cha bề trên thường có khoảng rừng thưa tự nhiên ở đỉnh đầu. Hoặc do một yêu cầu nào đó, nếu không phải là tự nhiên thì có lẽ được tỉa bớt hoặc cạo nhẵn cho cái khoảng trống ấy. Thời sinh viên. Một nhà triết học bảo tôi rằng đấy là nơi để các cha nghe rõ hơn lời mách bảo của thiên chúa và thường được đậy lại cẩn thận bởi một chiếc mũ tròn rất đặc trưng của đạo Gia tô khi hành lễ. Đương nhiên là Thiều không bao giờ đội chiếc mũ ấy. Tôi không hiểu khoảng rừng thưa ấy có liên quan gì đến khả năng tưởng tượng vô cùng mạnh mẽ bởi một trường cảm xúc rộng lớn vốn là thế mạnh của thơ ông so với nhiều thi sỹ khác cùng thế hệ. Ông thuộc về những gì vừa kỳ lạ vừa cổ xưa dân dã nhờ con mắt luôn nhìn thẳng vào người nói chuyện để thuyết phục. Và bộ râu con kiến dày sớm lốm đốm bạc đã kéo ông trở về với dáng vẻ thi sỹ còn ôm ấp nhiều vất vả và khổ đau. Ý chí không bao giờ mệt mỏi để theo đuổi đức tin của mình.
Thiều có một bộ sưu tập chân nến, chân đèn. Tôi không hiểu Thiều có bị ám ảnh cảnh người phải đội đèn đội nến suốt đêm được mô tả trong truyện nôm khuyết danh hồi thế kỷ 18 hay không? Bao cô gái làng quê thuở đó chẳng sợ phải đội đèn vì nhất quyết có ngày đón nhận được lương duyên? Thiều bảo, sẽ có một đêm đông nào đó đột nhiên tất cả các chân nến chân đèn cổ cũng như kim phát sáng. Mang về cái ánh lửa thiêng của nhiều thời đại. Suy nghĩ về sự bừng sáng của các chân nến không ngọn ấy càng làm cho Thiều giống một nhà truyền giáo mà bộ dạng bên ngoài ông mang lại.
Thiều đã được ngành công an cho sang bên kia bán cầu. Du học ở Cu Ba. Ông được tận hưởng nền văn hóa châu Mỹ La tinh đầy bản sắc hứng khởi. Nhất là nền văn hóa ấy lại được đốt lên bởi những xúc cảm cuồng nhiệt của một cuộc cách mạng với những lãnh tụ râu dài và đôi mắt đa tình đặc sắc. Ở Habana và Pinar del Rio, tôi đã thấy dân chúng yêu mến và treo ảnh Camilo, Che Ghevara, Phiden... như những ông thánh trước cửa chính mỗi ngôi nhà. Không hiểu cái chất man dại và hào hoa của nền văn minh ấy có ảnh hưởng gì đến thơ Thiều hay không? Chỉ biết rằng với vốn ngoại ngữ đã học được ở đó, Thiều có điều kiện gõ cửa tới các miền đất khác của văn hóa để làm đẹp những suy tưởng vốn là thế mạnh của thơ ông. Ông hiểu được vẻ đẹp thuần túy của ngôn ngữ xứ sở được mệnh danh là sương mù vốn nổi tiếng hài hước và giao thương hơn là thi ca. Mặc dù người ta không quên đấy là ngôn ngữ của William Shakespeare và Walt Whitman. Những điều tưởng như năm tháng nước chảy bèo trôi vô tình ấy, Cách mạng đã dành cho Thiều những công cụ rất cần thiết để có thể đi xa khi bước vào thi ca những năm cuối cùng của thế kỷ 20 đầy thử thách.
Lúc đầu tôi nghĩ Thiều đến với thi ca theo con đường của Nguyễn Bính. Những bài thơ đưa ông gia nhập làng thơ thuở ban đầu là tình mẫu tử, tình yêu tha thiết với quê hương. Dâng trà. Bây giờ đang cuối mùa đông. Nghe tiếng chim cuốc. Những con thuyền sông Đáy… Dâng trà, bài lục bát hiếm hoi của ông bùi ngùi Chiều quê một nửa mái nhà nắng đi. Có một người con dâng trà cho cha. Chén trà dâng lên bậc sinh thành để dứt áo đoạn trường đi theo con đường văn chương lập thân tối hạ. Một câu thơ bạc một ngày vô ơn. Cái làng quê Bây giờ đang cuối mùa đông nghe như hơi hướng năm nào Nguyễn Bính. Lại nghe tiếng pháo nổ trong ngõ nhà mình. Người con gái lấy chồng ở xóm Đình để Thiều phải tránh lối rập rình đón dâu khi mà ngàn lá dâu chưa biếc cho tằm nhả tơ theo màu nắng bên sông. Nhịp lục bát thắt lại trong nỗi bơ vơ vô cớ của chàng nhà quê Nguyễn Quang Thiều, y như Nguyễn Bính.
Thế rồi lại đến cuối đông
Làng bao cô gái lấy chồng… còn tôi?
Thực tế không có chữ nếu này, nhưng nếu cứ tiếp tục đi theo nguồn cảm hứng và cách phô diễn ấy, chắc Thiều cũng chỉ thêm một tiếng nói thân thuộc về làng quê Việt mà các bậc đàn anh thuở trước đằm thắm hơn nhiều. Nhưng thời cuộc và bản thân cá tính sáng tạo của nhà thơ đã không để ông yên phận với cái giấy thông hành nhập cuộc thông thường ấy. Sau những năm 1983-1986, Thiều tự chia tay với những cái đã có của mình để bước vào con đường tìm tòi mới! Sự mất ngủ của lửa được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 như không chỉ nói hộ bản thân ông mà cho cả thế hệ ông đã tự mình không lặp lại ánh sáng huy hoàng của giai đoạn thi ca trước, mở ra cánh cửa để đi tới sự mất ngủ của thi ca trên con đường tìm tòi khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người, khi mà lịch sử có những chấn động dữ dội về niềm tin và cái đích đi tới của toàn nhân loại. Cuộc sống đánh vào thơ muôn ngàn lớp sóng và Thiều đã cùng thế hệ mình không ngần ngại ngã vào lớp sóng ấy. Dù chưa biết cái gì xẩy ra ở phía trước.
Những năm cuối cùng của thế kỷ 20 gấp gáp như tràn sang thế kỷ 21, một thời đại đảo lộn các giá trị; thức tỉnh các dân tộc nhìn lại chính mình và những giá trị, nhất là những giá trị tinh thần đã dày công tạo dựng nên. Quốc gia mà hai lần Hiến phápViệt Nam trong lời nói đầu gọi là thành trì của cách mạng thế giới đổ sụp xuống không phương cứu chữa. Quốc gia mà mấy thế kỷ hùng mạnh và tưởng như ổn định nhất lại rung chuyển bởi khẩu hiệu của một người da đen. Không phải duy trì trật tự cố hữu cũ mà Hãy bỏ phiếu cho sự thay đổi. Thế giới phẳng đã lôi kéo những dân tộc bài ngoại ương ngạnh nhất vào trào lưu văn minh như Các Mác đã từng nói. Một loạt các giá trị đổ vỡ dưới chân những thành quách cũ. Một làn gió đổi mới tràn trề thổi trên khắp mặt đất. Giữa lúc đó, nhiều ý kiến cho rằng Thơ đang tự cô lập mình với thời đại. Rằng chữ trong thơ không cần mang nghĩa. Thơ đang lẩn tránh những vấn đề nóng hổi của cuộc sống. Tình ý thơ nghèo nàn nông cạn. Tuyệt đối hóa hình thức, coi đó là ngọn nguồn sáng tạo của thi ca. Rằng Thơ đang khủng hoảng. Tự đánh mất bản chất sáng tạo của mình bằng cách in ra hàng nghìn tập thơ nhạt nhẽo, không ai buồn đọc v.v… Nhưng có một thực tế khác mạnh mẽ hơn nhiều đã hiện diện trên thi đàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời cuộc. Một thế hệ đã mất ngủ cùng thời đại trên con đường cách tân và đổi mới thi ca.
Nguyễn Lương Ngọc (1958-2001) với Từ nước (1991), Ngày sinh lại (1991), Lời trong lời (1994)... Nhà thơ đã thỉnh một tiếng chuông vào thơ làm ta tỉnh giấc. Tôi thỉnh một tiếng chuông, kêu một tiếng chuông. Bên chùa sư nữ thở dài.Người tỉnh dậy tụng lần tràng hạt. Nghĩ thế nào lại thôi. Đồng Đức Bốn (1948-2006) với Con ngựa trắng và rừng cỏ đắng (1992), Chăn trâu đốt lửa (1992)… Bốn chỉ chăn trâu trên cánh đồng lục bát cổ xưa mà buộc người đời phải đi theo Đêm sông Cầu mới lạ. Đừng buông giọt mắt xuống sông. Anh về dẫu chỉ đò không vẫn chìm và Bốn đã rút trăng buộc lại con đò ấy. Dương Kiều Minh (1960-2012) với Củi lửa (1989), Dâng mẹ (1990), Những thời đại thanh xuân(1991)… Tôi vẫn nhớ cái miệng cười tràn đầy hy vọng của Minh giống như Trăng và nắng vốn là thứ ánh sáng muôn đời lại được nhà thơ thắp lên cho tên tuổi của riêng mình trong thơ. Trưa ngun ngút nắng đồng bằng. Bậc thềm giàn giụa trăng mỗi tối. Một thế hệ nhà thơ đã bước ra ánh sáng, mặc dù thành tựu của họ còn rất khác nhau. Gộp tất cả họ lại đã là một tiếng nói rất đáng kể trên thi đàn: Inrasara, Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Tuyết Nga, Đặng Huy Giang, Nguyễn Việt Chiến, Trần Quang Quý... và những người khác. Vẫn tiếng chuông chùa ấy, hai sợi dây lục bát ấy, vẫn trăng và nắng ngàn năm ấy nhưng họ đã nghĩ khác, cảm khác, cách nói khác… trong sự bộn bề lo toan và thôi thúc của những đêm thi ca thắp lửa vì không ngủ. Nguyễn Quang Thiều là khuôn mặt đáng kể và tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ những năm cuối cùng của thế kỷ 20, mặc dù không phải tất cả các sáng tác của ông đều đã được dư luận đánh giá như nhau. Điều đó cũng là đương nhiên đối với hiện tượng Nguyễn Quang Thiều.
Đọc thơ Thiều, người ta chạm phải nỗi trăn trở đến đau đớn của ông trên những vấn đề thời cuộc và thời đại. Như là một cảm hứng chủ đạo. Vang lên âm thanh thảng thốt của tiếng chim đêm và ngân lên không dứt tiếng chuông của các giáo đường khắp mọi nơi về sự vươn tới của sứ mệnh con người.
Trong Lời cầu nguyện của thế hệ Nguyễn Quang Thiều đã nhóm lửa làm lễ đón bình minh theo cách khác.
Họ chạy trốn, không, họ chỉ nhóm lửa không giống
và thì thầm không giống
Không giống đóng cửa, không giống đốt đèn và
im lặng ngồi không giống.
Họ đi ngủ không giống. Nói mê không giống.
Thức dậy không giống
Họ chạy trốn, không. Họ chỉ không giống làm
lễ đón bình minh.
Thế hệ Thiều, các nhà thơ của thời kỳ đổi mới đâu phải ngoảnh mặt với thời cuộc, đâu phải dấn thân vào kinh thánh và những lời sấm truyền khó hiểu. Đâu phải đào bới dục vọng và mê sảng hư vô. Họ khát khao tin yêu và nhận diện con đường của niềm tin dù chỉ là ánh sáng cuối ngày hắt qua khe cửa. Những u mê trôi kín cả chiều vàng. Ta khao khát nhìn thấy ta trong vệt sáng cuối ngày hắt qua khe cửa. Có lẽ nào đó là đường nhân loại. Đó là niềm tin sót lại trên đời.Đọc Châu Thổ, Thơ tuyển lần thứ nhất của Thiều người đọc như chạm vào lửa nóng những vấn đề về triết lý nhân sinh mà thời đại đang đặt ra.
Đó là Tiếng chim cuốc trên đường xưa cỏ nát khi muỗi bay như ném cát vào trong ngõ, cả thế hệ tuổi hai mươi không ngủ bởi những bờ tre gầy rạc tiếng cuốc gọi quê hương. Đó là những người đàn bà góa bụa trên những con đường xa tít loang lổ gió sau những năm chiến tranh như thời gian lặng lẽ chảy vào chiếc bình gốm khổng lồ của lịch sử; bầu vú của họ trở nên mệt mỏi và lơ đãng trong tiếng gọi mê mẩn nồng mùi thuốc lào đàn ông và ruộng đồng ngai ngái mùi châu thổ để người thi sỹ khóc thầm cho Những ví dụ vĩnh viễn ra đi. Đó là sự sám hối của kẻ xâm lược đã bóp cò hai mươi năm về trước để viên đạn chết người vẫn còn bay cho đến bây giờ. Đó là bóng ma chiến tranh hăm dọa và bao vây cả những lời nguyện cầu cho bình yên bên trong thánh đường bao bọc bởi những con đường chuyên chở vũ khí ở xứ sở cồn cào cát bỏng. Đó là trái đất đang nóng lên từng độ mà trái tim con người cứ lạnh dần đi và nhân loại đang uống rượu trong bình đau khổ khi vầng trăng như chiếc khuy đồng, có thể nào sắp dứt ra khỏi áo để không còn mảnh vải che nhau làm đường chân trời run rẩy nhịp thời gian giữa mặt đất khổ đau và bầu trời hạnh phúc. Đó là những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng chạy theo mẹ lớn lên để vác cần câu và những cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ; con cá thiêng quay mặt vào những trang cổ tích khóc dầm dề kể về văn hóa cổ xưa không bao giờ mất. Đó là một thời lịch sử biến động và đầy bất trắc. Những đền chùa gục ngã trước những pho kinh phản bội bồ đề… Tiếng hề cười băm chả những u mê. Đó là Nhân chứng của một cái chết mô tả sự tràn ngập của lụt lội cùng với sự đổ vỡ từ bên trong và sự phục hồi.
Nhưng cao hơn tất cả là tiếng nói của sự sống, của một cuộc đổi thay vĩ đại. Đó là Lời trăn trối của tương lai. Trái đất sẽ kết thúc bằng sự tự bóc vỏ. Những ngọn gió thế kỷ sau ùa về để lịch sử tìm thấy mảnh gốm vàng cho nhà thơ cắt rốn một cuộc sinh nở tràn đầy hy vọng. Một cuộc đổi đời đang đến với những học sinh mới và thầy giáo cũ, với bình minh đang lên. Đó là nhịp điệu châu thổ mới khi ánh nến của hy vọng đã không thể tắt qua khổ đau mà được đốt sớm hơn mọi thế kỷ trước. Và ở đấy râm ran tiếng gọi, tiếng thì thào của đời sống mới, của sự khua vang bát đĩa, củi khô và ấm đun nước, của âm nhạc tưng bừng mở những mùa hoa nến. Nhà thơ như cậu bé đi gọi linh hồn của đất. Nhân loại thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình. Có ai đó đi cùng tôi vào mùa hạ năm ấy đến giáo đường thánh St. Peter đã nói rằng ông ấy cũng có cảm giác như Thiều ở Thánh đường Thomas More khi mà những người Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo cùng cất tiếng nguyện cầu dưới sự chỉ đường duy nhất của chúa tể nhân loại là chính con người.
Nguyễn Quang Thiều nằm trong số ít các nhà thơ hiện đại Việt Nam cảm nhận sâu xa quan niệm vạn vật hữu linh từ trong truyền thống tín ngưỡng dân gian, tôn giáo đến sáng tạo các hình tượng văn học gắn bó với số phận con người bằng tất cả cung bậc tình cảm gần gũi nhất. Những sinh vật nhỏ bé và thân thuộc như giun đất, dế, chó đến con bò, một đám cỏ bạc tóc hay một trái cây lặng lẽ chín trong vườn… Tất cả đều như run rẩy những âm thanh về số phận con người. Tất cả chúng cùng với con người đã đứng dưới bầu trời này cầu nguyện cho hạnh phúc an bình từ rất lâu trước khi các thánh đường được xây cất trên mặt đất. Vâng. Thiều cũng như thế hệ của ông, các nhà thơ của thời kỳ đổi mới đã trang trọng thắp lên những cây nến ngà mở đường cho những ước mơ sinh nở và những khát vọng sáng tạo. Họ đang đi và sẽ còn đi trên con đường cách tân của thi ca Việt Nam.
Bây giờ là cuối mùa đông của thế kỷ này
Chúng ta đang đi hết con đường này
Chúng ta đẹp như ban mai, đầy ước mơ sinh nở
Ý nghĩ ấy vụt qua, bầu trời chợt mở
Chúng ta như hai cây nến ngà vừa được thắp lên.
Những thi phẩm hay nhất trong sự nghiệp của Thiều lại là những bài thơ viết về cố hương. Số bài đó có thể xếp vào những bài thơ hay của thế kỷ 20 cùng với các nhà thơ hiện đại khác. Sông Đáy. Đàn chó của tôi. Bài hát về cố hương. Hồi tưởng tháng tư-mùa hoa Loa kèn. Chiếc bình gốm… Ở đây, Nguyễn Quang Thiều đã kết hợp được nhiều thế mạnh của thi sỹ ở sự độc đáo và mới lạ trong cảm xúc và hình tượng, sự sung mãn và trí tưởng tượng vô cùng mạnh mẽ trên những chủ đề bình dị nhất. Hồi tưởng tháng tư và Bài hát về cố hương là điển hình cho những phẩm chất ấy. Điều này cũng lý giải vì sao hàng trăm bài viết và một số công trình lý luận dài hơi khi trích dẫn Nguyễn Quang Thiều đều lấy Bài hát về cố hương. Cố hương là đề tài truyền thống không biết có biết bao nhà thơ từ cổ chí kim đã viết. Đặc biệt thành tựu là thơ phương Đông. Vậy mà Thiều sản sinh ra một bài thơ hay với cái kết thật đặc sắc làm cho cái nhỏ bé tầm thường nhất, rất tầm thường, chỉ như con chó nhỏ mà mang về ý nghĩa sâu xa đâu cần phải lên giọng hô phong hoán vũ. Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ. Để canh giữ nỗi buồn - báu vật cố hương tôi. Đâu có phá cách. Đâu có thơ dịch. Con vằn nhà nông xuế xóa ngại nuôi đã ở trong thơ Ức Trai tự lâu rồi. Cũng như Tháng mười.Chỉ tháng mười ở vùng châu thổ sông Hồng, khi lúa đã gặt xong và mùa thu đang đến, mỗi người thành thị ở xứ Bắc đều có một người nhà quê trong máu thịt bao đời truyền lại. Bởi Những ngọn khói trẻ chăn trâu đốt rạ trên cánh đồng sau vụ gặt. Thở vào ta hương vị tháng mười…
Thơ hay như người con gái đẹp. Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng. Dĩ nhiên là người con gái đang tâm sự thầm với chúng ta ở đây đã lấy được chồng rồi. Nhưng. Vì sự mất ngủ của thi ca. Thơ Thiều lại bước lên thi đàn với dáng vẻ mới. Tôi muốn nói tới những bài thơ dài mà chưa bao giờ Thiều gọi là trường ca cả. Tập Châu Thổ có chừng 6 bài.Nhịp điệu châu thổ mới. Chuyển dịch màu đen. Hồi tưởng. Nhân chứng của cái chết. Bài ca chim đêm. Cây ánh sáng.Một số ý kiến trong hội thảo giữa 2012 cho rằng: đọc thơ Thiều như đi vào mê sảng của những ý nghĩ, những điểm chưa nói hết, lập lờ, nhiều bè, nhiều tầng bậc, tình tiết, thủ pháp lạ hóa và ẩn dụ kép. Thú thật là thấy nặng nề. Không chỉ trong thơ dài, cả trong thơ ngắn ngày càng vơi đi chất lãng mạn, hoang dại .v.v… Những nhận định trên đây có lẽ chủ yếu dành cho thơ dài. Tôi cho rằng đó là lĩnh vực vẫn còn nhiều thử nghiệm của ông. Hầu như không có cốt truyện là điều mà nhiều người hay làm và có vẻ để dễ theo dõi hơn. Thơ dài của Thiều là những bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc trên toàn nền màu trầm để mô tả những luận đề của suy tưởng và những trận bão của cảm xúc. Không phải không có những câu thơ lấp lánh. Những hình tượng đột xuất và thậm chí cả một bài thơ hay trọn vẹn nằm trong số những bài hay nhất của Thiều. Ví như Hồi tưởng tháng tư. Tuy nhiên với Nhịp điệu châu thổ mới dài 7 chương, Nhân chứng của một cái chết dài 19 khúc… Không phải là điều dễ dàng đối với số đông công chúng đọc thơ hiện nay. Thiều lại hay sử dụng thủ pháp nghệ thuật xếp hàng những hình tượng đa chiều của một hiện tượng, một cảm xúc liền kề nhau. Giống như việc đặt liên tục các luận đề về một sự vật, hiện tượng cạnh nhau có thể gây cho người đọc cơn sốc của cảm xúc.
Tôi không hiểu dùng từ luận đề đã chính xác hay chưa, nhưng bằng cách đó Nguyễn Quang Thiều đã công khai đề xướng một khuynh hướng biểu cảm khác hẳn, chưa bao giờ có trong truyền thống thơ phương Đông, vốn cổ súy cho chủ trương ý tại ngôn ngoại, hàm súc, triệt để sử dụng những thủ pháp ước lệ, biểu trưng. Thơ dài của Thiều để cảm xúc trần trụi dâng trào lên… Bắt buộc người ta không thể ngân nga thư thái được. Rằng hay thì thật là hay. Nhưng tôi đã gặp sự nhấn mạnh liên tiếp như thế trong tác phẩm triết học của các nhà kinh điển. Thơ Thiều không phải là tác phẩm triết học, nhưng một số bài thơ dài lẫn ngắn ông lấy xuất phát điểm từ góc nhìn của nhà triết học. Có người hỏi Nguyễn Tiên Điền khi viết truyện Kiều cũng đã từng xuất phát từ luận đề mang tính triết học? Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau? Tôi cho rằng Nguyễn Du coi thuyết tài mệnh tương đố chỉ là…cái cớ mà thôi. Tư tưởng sáng tạo nghệ thuật của ông là ở hai câu tiếp theo. Ở đó có sự gắn bó không chia cắt của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo. Động lực để đi đến tuyệt tác Đoạn trường tân thanh. Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Tôi suy nghĩ điều này trong liên hệ với một nhận xét đầy hóm hỉnh và kín đáo của nhà thơ Hữu Thỉnh: Thơ Thiều trước đây hay không giải thích được. Bây giờ hay có thể giải thích được. Nhẹ nhàng vậy thôi nhưng chạm tới cốt cách của Thơ khác so với các thể loại khác. Phải chăng đó là tính tự nhiên?
Đọc thơ dài của Nguyễn Quang Thiều, tôi nghĩ sự mất ngủ vì thi ca của thế hệ ông còn chưa dứt. Không chỉ 10 năm cuối cùng của thế kỷ 20 mà tràn sang cả thế kỷ mới. Nhìn lại sự bùng nổ của Phong trào Thơ Mới những năm 30 chỉ diễn ra trong 10 năm nhưng thực ra đã âm ỉ từ 30 năm trước. Cũng như 10 năm thơ chống Mỹ (1964-1975) rực rỡ là thế cũng được chuẩn bị từ rất lâu trước đó và được kéo dài khoảng 20 năm sau chiến tranh. Với những thành tựu đã có, thế hệ của Thiều còn đang phải đi tới giai đoạn nở rộ các tập thơ hay vượt trội với các phong cách thơ độc đáo, có tầm vóc. Phải chăng là chậm trễ? Không. Không chậm chút nào vì tất cả những vấn đề rộng lớn làm thành đặc điểm của nền tảng văn hóa và xã hội, quy mô của những vấn đề về triết lý nhân sinh mà thời đại đang đặt ra cho thế hệ thi sỹ cùng thời với Nguyễn Quang Thiều? Thế hệ của Thiều sẵn lòng tự mình làm chân nến chân đèn giống như nhân vật trong truyện nôm khuyết danh thế kỷ 18 để thắp lửa chào đón cuộc lương duyên, chào đón một thời đại mới của thi ca, khi mà các thi sỹ của thời đại chúng ta đều phát sáng giống như những chân nến chân đèn đều thắp lửa cho một cuộc hội ngộ văn chương. Không hiểu lúc đó thi sỹ Nguyễn Quang Thiều có còn giữ lại chân nến chân đèn nữa hay không, hay là tự nguyện lau chùi chúng bóng loáng như ông cố đạo năm nào rồi đem hiến vào một giáo đường nào đó ở xứ đạo nghèo Sơn nam thượng quanh năm gió thổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét