Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Học giả Mỹ bày kế “hạ” Trung Quốc


Học giả Mỹ bày kế “hạ” Trung Quốc


Tác giả: Theo Trịnh Thái Bằng (Tiền Phong)

Luttwak đề xuất phương án gây áp lực địa chính trị chiến lược lên Trung Quốc, đánh quỵ kinh tế của đại lục đến cấp độ không còn có thể gây ra các mối đe dọa, loại bỏ khả năng Trung Quốc thống trị thị trường thế giới.


Tác giả người Mỹ, một chuyên gia trong lĩnh vực chiến lược Edward Luttwak đã phân tích và bày kế khống chế Trung Quốc trong cuốn “Sự trỗi dậy của Trung Quốc đi ngược logic chiến lược phát triển» đã đưa ra những phân tích và luận điểm rất đáng chú ý về Trung Quốc.



Trung Quốc ‘quá tự phụ’

E. Luttwak, một chuyên viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Center for Strategic and International Studies), trên quan điểm cá nhân của mình và cũng là một quan điểm khá độc đáo trong cuộc tranh luận về làm thế nào để kiềm chế “nguy cơ Trung Quốc”.



Luttwak tin rằng hiện tượng tăng trưởng địa chính trị của Trung Quốc trên ba vị trí cơ bản – kinh tế, sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị và ngoại giao – không thể tiếp tục mãi mãi và chắc chắn sẽ gây ra phản ứng từ các nước khác. Những nước này nhận thức được rằng sự phát triển tiềm lực quốc gia hùng mạnh của Trung Quốc đi cùng với việc thiết lập quyền kiểm soát và ảnh hưởng – đầu tiên ở châu Á và sau đó là trên quy mô toàn cầu.

Theo Luttwak, quyết định đúng đắn nhất của Trung Quốc là tự kiềm chế: Bắc Kinh duy trì một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng loại trừ khả năng tăng cường tương xứng về sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị. Chỉ theo phương án này, Trung Quốc có thể giảm thiểu những lo ngại của các nước khác và tránh bị đối đầu với một liên minh phản đối mạnh, tương tự như liên minh chống lại Đức vào đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, tác giả tin tưởng rằng, đợi cho Trung Quốc có một một tầm nhìn chiến lược như vậy là không thể.

Nguyên nhân chính của vấn đề này – tính tự phụ quá lớn của một siêu cường – tự phụ của một siêu cường được hiểu như là sự tập trung tối đa cho các công việc nội bộ và không hề quan tâm đến những gì đang xảy ra bên ngoài biên giới. Tính tự phụ còn được thể hiện ở trong lĩnh vực đối ngoại, các lãnh đạo hoàn toàn không muốn nghe và không muốn biết, các nước láng giềng họ nghĩ gì về mình. Căn bệnh tự phụ này là bản chất của các siêu cường – nước lớn như Mỹ, Nga, Ấn Độ. Nhưng với Trung Quốc, nó đặc biệt nghiêm trọng.
Trung Quốc đã quá tự phụ với sức mạnh của mình và say sưa với ‘giấc mơ Trung Hoa’. Ảnh: Nhà lãnh đạo Tập Cận Bình thị sát quân đội sau khi trở thành người đứng đầu nhà nước

Học giả Mỹ đánh giá Trung Quốc đã quá tự phụ với sức mạnh của mình và say sưa với ‘giấc mơ Trung Hoa’. Ảnh: Ông Tập Cận Bình thị sát quân đội sau khi trở thành người đứng đầu nhà nước.

Thứ nhất: Chính quyền Trung Quốc tập trung toàn bộ sự quan tâm của mình đối với những nguy cơ có thể đe dọa đến nền chuyên chính của giai cấp. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không có quá nhiều thời gian và sức lực để nghiên cứu và phân tính những tiến trình phát triển của thế giới.

Thứ hai: Ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thống lịch sử – Trung Quốc tự coi mình là nước lớn và là trung tâm của thế giới, các nước láng giềng quanh đại lục được nhìn nhận như những nước nhược tiểu. Truyền thống này đã định hướng các mối quan hệ nước ngoài từ rất lâu và ảnh hưởng trực tiếp đến ngày nay, đồng thời là trở ngại khiến Trung Quốc không nhìn nhận được các nước khác như các đối tượng bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Mặc dù có một nền văn hóa lâu đời, Trung Quốc rất thiếu kinh nghiệm trong các mối quan hệ quốc tế – đặc biệt là trong các quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước đối tác trong khu vực.

Thứ ba: Một trong những ảnh hưởng tai hại đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là niềm tin vào những lý luận chiến lược của các học giả Trung Hoa cổ đại, một trong những tác phẩm đó là “Nghệ thuật chiến tranh” của Tôn Tử. Những bài học lý luận, được trình bày trong tác phẩm đó – được xây dựng trên nền tảng kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh trong nội bộ Trung Quốc ( có cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa và tư duy chiến lược) đặc biệt trong thời kỳ “Chiến quốc” (thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên – 221 TCN).

Đạt đến giới hạn cuối cùng của chủ nghĩa thực dụng, luôn có xu hướng thúc đẩy giải quyết vấn đề bằng cách kích động một cuộc khủng hoảng, các kỹ thuật khác nhau của âm mưu và các thủ đoạn – những đặc điểm này và các đặc trưng khác của “Binh pháp Tôn tử” Trung Quốc có thể đạt hiệu quả trong bối cảnh của nền văn minh Trung Hoa, nhưng thường không đạt hiệu quả trong đối phó với các nền văn hóa và các dân tộc khác. Bằng chứng cho thấy rằng, huyền thoại về sự ưu việt của tư duy chiến lược và các chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc, tác giả Luttwak tin rằng thực tế là hơn một thiên niên kỷ, người Hán thực tế (người Trung Quốc) trong triều đại của mình chỉ trị vì có một phần ba thời gian. Các bộ tộc du mục dễ dàng xâm lược và đánh bại các triều đại Trung Quốc, những người tự hào là có tư duy “khôn khéo và đầy cơ mưu tầm chiến lược.”

Lầu Năm Góc: TQ là ‘đối tượng tác chiến số 1′

Sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc hiện đại và quan điểm cứng rắn không khoan nhượng của Bắc Kình về nhiều vấn đề (đặc biệt là trong các tranh chấp ở biển Hoa Đông và Biển Đông) đã dẫn đến thực tế là chống lại Bắc Kinh bắt đầu hình thành một liên minh không chính thức, trong đó bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Đông Nam Á và các nước Châu Á -Thái Bình Dương khác. Hoa Kỳ, tất nhiên cũng tham gia vào liên minh và là động lực mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, Luttwak tin rằng sự hình thành của liên minh này không có quá nhiều xúi giục từ phía Washington. Những nước tham gia năng động nhất là nước láng giềng bị o ép của Trung Quốc.

Chiến hạm Trung Quốc bắt đầu vươn ra Thái Bình Dương, thách thức vị thế thống trị của Mỹ lâu nay.


Trung Quốc đã và đang ráo riết phát triển vũ khí nhằm tiêu diệt các đội tàu sân bay Mỹ.

Trong một quan điểm, Úc đóng vai trò của một trong những nước khởi xướng và dẫn dắt chính sách ngoại giao đa phương chống Trung Quốc. Việt Nam là đất nước có lịch sử dân tộc chống ngoại xâm phương Bắc trong nhiều thế kỷ. Quan điểm phản kháng cũng được Mông Cổ duy trì quyết liệt và nhận thức được vấn đề không thể duy trì độc lập nếu rơi vào quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc.

Indonesia và Philippines được Luttwak trích dẫn như là ví dụ về các quốc gia, nửa đầu thập kỷ 1990 đã sẵn sàng làm bạn với Trung Quốc, nhưng sang đến thập kỷ 2000 đã kiên quyết phản đối Trung Quốc – mà đó là lỗi của Bắc Kinh, khi cách cư xử của quốc gia này trên Biển Đông trở nên không thể chấp nhận.
Câu chuyện đối ngoại chính trị tương tự cũng xảy ra với Nhật Bản trong mối quan hệ Trung Nhật. Không lâu lắm, vào khoảng năm 2009, khi đảng Dân chủ Nhật Bản lên nắm quyền, có cảm giác rằng Tokyo đang chuyển hướng dần về phía Trung Quốc và có thể nói là, âm thầm rơi vào tầm ảnh hưởng chiến lược của Trung Quốc. Nhưng những hành động gây căng thẳng do chính Trung Quốc tiến hành ở quần đảo Senkaku và trên biển Hoa Đông – Biển Đông đã gạch chéo lên tất cả mọi kế hoạch hợp tác hữu nghị và đẩy Nhật Bản về mối quan hệ ngày càng chặt chẽ hơn với Mỹ.



Căn cứ tàu ngầm của hải quân PLA ở Hải Nam.

Trung Quốc luôn mơ về các hạm đội viễn dương với các đội tàu sân bay thống trị đại dương như Mỹ.

Và tích cực phát triển ‘sát thủ’ diệt tàu sân bay DF-21 nhằm đối phó tàu sân bay Mỹ.

Một ngoại lệ trong xu hướng phản kháng Trung Quốc lại là Hàn Quốc, theo quan điểm của tác giả cuốn sách này, Hàn Quốc luôn thể hiện “sự phụ thuộc” vào Bắc Kinh. Đã từ lâu Hàn Quốc đã quá coi trọng nền văn minh Trung Hoa và trên thực tế khá lệ thuộc Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế. Để duy trì được khả năng tiếp cận nền kinh tế Trung Quốc, Hàn Quốc đã làm mờ đi những quan hệ còn lại của chính mình. Luttwak đưa ra một dự đoán cho quan điểm chính trị của Hàn Quốc – đó là giải pháp “Thoát ly chiến lược”, cho rằng không thể xem xét Hàn Quốc là một đồng minh đáng tin cậy trong liên minh phản kháng Trung Quốc.

Không chỉ riêng đối với Hàn Quốc, ngay cả chính quyền Mỹ cũng còn xa mới đạt được sự đồng thuận chống những nguy cơ từ Trung Quốc. Tác giả Luttwak cho rằng, chính sách đối ngoại đối với Trung Quốc của Mỹ bị ảnh hưởng bởi 3 nhóm lợi ích: nhóm thứ nhất là Bộ Tài chính, nhóm thứ hai là Bộ Ngoại giao và nhóm thứ ba – Bộ quốc phòng Mỹ.

Bộ Tài chính đại diện cho nhóm lợi ích của phố Wall. Đối với nhiều tập đoàn kinh tế mạnh của Mỹ, thương mại với Trung Quốc là một nguồn lợi nhuận vô cùng lớn. Bỏ qua nguồn lợi này, các tập đoàn không sẵn sàng. Lợi nhuận trong quý tiếp theo của một năm tài chính quan trọng hơn lợi ích lâu dài của an ninh quốc gia. Vì vậy, Bộ Tài chính luôn có quan điểm thân thiện với Trung Quốc.

Bộ Ngoại giao, đặc biệt là trong thời kỳ bà Hillary Clinton không phủ nhận tầm quan trọng hợp tác thương mại với Bắc Kinh, nhưng nhận định rằng, hầu hết các vấn đề lợi ích của Mỹ và Trung Quốc luôn luôi đối kháng lẫn nhau. Công bố chính sách đối ngoại của chính quyền Obama “Trở lại Châu Á – Thái Bình Dương”, theo Luttwak, không có gì khác hơn một chính sách đối ngoại chính trị nhằm ngăn chặn Trung Quốc.

Chính sách kiềm chế đối ngoại do Bộ Ngoại giao Mỹ tiến hành, được sự hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự của Lầu Năm Góc. Bộ Quốc phòng Mỹ có quan điểm coi Trung Quốc là “kẻ thù chính” đồng thời lên kế hoạch tác chiến chiến lược, đưa ra các đơn đặt hàng vũ khí mới với quan điểm coi Trung Quốc là “đối tượng tác chiến số 1”.

Đánh quỵ bằng đòn phong tỏa

Tuy nhiên, tác giả Luttwak khẳng định, giải pháp quân sự để giải quyết vấn đề Trung Quốc là không thể được xét trên mọi góc độ, ngay cả trong trường hợp Quân đội Mỹ có ưu thế thống trị chiến trường. Trong kỷ nguyên của vũ khí hạt nhân, xung đột vũ trang giữa hai cường quốc quân sự có thể rất dễ dàng dẫn đến thảm họa toàn cầu.

Mỹ hoàn toàn có khả năng phong tỏa con đường huyết mạch trên biển của Trung Quốc. Nhưng nếu Trung Quốc duy trì tốt quan hệ chiến lược với Nga thì không có gì bảo đảm chiến lược phong tỏa sẽ thành công.

Từ những quan điểm và phân tích đánh giá đã nêu. Tác giả Luttwak đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết những nguy cơ từ phía Trung Quốc, mà theo tác giả là rất nghiêm trọng:

Giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nguy cơ Trung Quốc, Luttwak đề xuất phương án gây áp lực địa chính trị chiến lược lên Trung Quốc, với mục đích làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của đại lục đến cấp độ không còn có thể gây ra các mối đe dọa, nhằm cân bằng lực lượng trên trường thế giới và loại bỏ khả năng Trung Quốc đạt được quyền thống trị thị trường thế giới. Mục tiêu đó có thể đạt được, nếu chặn được hàng hóa Trung Quốc trên các thị trường của các đối tác chính. Đồng thời với việc ngăn chặn khả năng Trung Quốc tiếp cận các tài nguyên khoáng sản và công nghệ, mang ý nghĩa sống còn với đời sống kinh tế Trung Quốc trong điều kiện hiện nay. Theo ông Luttwak đã có những dấu hiệu đối kháng đại lục trong lĩnh vực kinh tế: Úc cấm các công ty Trung Quốc mua các khu tài nguyên và nguyên liệu thô, Argentina và Brazil đã ra lệnh cấm các doanh nhân Trung Quốc mua các vùng đất đai nông nghiệp của họ, chính quyền Mỹ không cho phép các công ty Trung Quốc bỏ thầu trong các hợp đồng mua sắm công, v.v….

Tất nhiên, có thể gọi giải pháp đó là “phong tỏa kinh tế”, đòi hỏi rất nhiều thời gian, sức lực và quan hệ ngoại giao. Trong cái gọi là “phong tỏa địa chính trị Trung Hoa” vị trí then chốt đối với Mỹ lại chính là Nga. Luttwak đã nhận thấy một vấn đề khá rõ nét: Nếu người Mỹ và các đồng minh của họ tiến hành phong tỏa kinh tế Trung Quốc, vòng phong tỏa này sẽ không thành hiện thực nếu không có sự tham gia của Nga và các nước Trung Á, nằm trong tầm ảnh hưởng của Nga. Ngay cả trong trường hợp cứng rắn hơn, Mỹ phong tỏa quân sự đường biển, Trung Quốc vẫn có thể nhận được những nguồn nguyên liệu thô, năng lượng từ những đối tác Trung Á và châu Âu của họ.

Nếu tham gia phong tỏa kinh tế Trung Quốc có cả Nga và các nước Trung Á, thì nền kinh tế Trung Quốc sụp đổ. Rõ ràng, trong liên mình đối kháng với Trung Quốc, Moscow đóng vai trò then chốt chiến lược. Về vấn đề này, nếu Nhật Bản coi như là một thành viên chống Trung Quốc, ông Luttwak cho rằng Nhật Bản nên bình thường hóa quan hệ với Nga và có những xem xét mang tính xây dựng cho tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Nam Kuril: Tranh chấp nhỏ phải nhường cho lợi ích lớn – một liên minh ngăn chặn Trung Quốc.

Trung Quốc rất cần Nga nhưng Nga chưa chắc đã cần Trung Quốc. Ảnh: Chủ tịch Tập Cận Bình đã chọn Nga là địa chỉ trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi nằm quyền lực tối cao.

Mặc dù không nói ra, nhưng rõ ràng logic Luttwak đã nhận định vị thế vô cùng quan trọng của Nga trong mối quan hệ địa chính trị của Trung Quốc trên bản đồ thế giới. Trung Quốc cần Nga như một đối tác chiến lược sống còn trong khi Nga thì không. Về nguyên tắc, Nga có thể loại bỏ khả năng hợp tác kinh tế với Trung Quốc, dù có những tổn thất lợi ích không hề nhỏ. Trung Quốc đứng vị trí hàng đầu trong kinh doanh thương mại với Nga, nhưng Nga hoàn toàn không mua và không có những lợi ích mang tính tồn vong từ Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, vấn đề thương mại thông suốt với Nga đóng vai trò sống còn có tính chiến lược trong hiện tại và tương lai.
Lịch sử thế giới đã chứng minh một chân lý mà Luttwak một lần nữa chứng minh lại: Trước nguy cơ một quốc gia trở thành một thế lực với những chính sách mang tính áp đặt ảnh hưởng cao, các quốc gia khác sẽ liên kết lại trong các hoạt động phản kháng hiệu quả. Trong trường hợp này có Trung Quốc.

Nhưng vấn đề tồn tại ở điểm, không phải lúc nào logic của sự cân bằng lực lượng cũng có ưu thế trước một thế lực áp đặt đơn cực. Trong lịch sử quan hệ thế giới không ít những ví dụ cho thấy, các quốc gia nhỏ hơn không chống lại được quyền lực ảnh hưởng của một cường quốc – thường là có nguyên nhân quan trọng – không có khả năng tổ chức được những hoạt động phản kháng tập thể (collective action problem) bản thân các nước thành viên cũng không có khả năng huy động các nguồn lực trong nước để đẩy lùi nguy cơ, cũng như sự không có sự chắc chắn về mối nguy hiểm chính đến từ hướng nào.

Từ góc nhìn của Luttwak cho thấy: sự trỗi dậy của Trung hoa đại lục trong giai đoạn gần đây đã gây lên những hoài nghi, lo lắng, và thậm chí sự phản kháng trong nhiều học giả, các nhà chính trí và các nhà lý luận chiến lược đối ngoại trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Giải pháp phong tỏa nền kinh tế Trung Quốc từ một góc độ nào đó, có thể phản ánh những quan điểm của các chính trị gia phương Tây.

Lịch sử các cuộc đầu tranh kinh tế – chính trị đương đại sau Đại chiến thế giới lần thứ II cho thấy những mâu thuẫn đối đầu và sự phát triển mạnh mẽ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc có thể không khác gì hơn như một áp lực địa chính trị buộc các nước trong khu vực và trên thế giới có một quan điểm, một góc nhìn và sự phát triển mới. Tương tự như Ấn Độ, trước những áp lực của Trung Quốc trên biên giới và trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ cũng có những giải pháp đáp trả mạnh mẽ, như xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh và sẵn sàng cho mọi hoạt động, từ đối ngoại chính trị đến đấu tranh vũ trang.

————-

http://dantri.com.vn/diem-nong/hoc-gia-my-bay-ke-ha-trung-quoc-750541.htm

Người nhà quê!







Từ những năm 30 thế kỷ trước, phong trào “Âu hóa” của nhóm trí thức Tây học kiến lập văn đoàn độc lập mang tên Tự Lực đã có tiếng vang và ảnh hưởng trước hết ở giới học sinh sinh viên và thị dân thành phố. Ở thời điểm này, hình ảnh người nhà quê với những thói tật phi văn minh, phi văn hóa nhìn từ góc độ Âu hóa, đã được đưa lên mặt công luận báo chí nhằm phê bình và gây cười. . . “xả hơi”.




Xã Xệ, Lý Toét trong những câu chuyện đàm tiếu và trong tranh vẽ trở nên quen thuộc với bạn đọc thời bấy giờ. Đối lập nhà quê với thành thị, dân nhà quê dân thành thị cũng là biến dịch, biến dạng sự đối lập tưởng như muôn thuở của văn minh làng xã, văn minh nông nghiệp phương đông trung cổ với văn minh phương tây, văn minh công nghiệp, giao thương hiện đại. Hai mặt đối lập một thời “đông là đông, tây là tây” thể hiện qua lối sống, lối cảm, lối nghĩ, lối phô diễn của hai loại người: Người nhà quê- người thành thị .

Nhận diện tiến trình phát triển từ góc độ văn hóa khoa học, ai chả biết người dùng nước máy sát trùng sạch khuẩn “tiến bộ” hơn người dùng nước ao tù! Ai chả biết trang nam nhi thành thị diện “comple” trông sáng sủa hơn anh chàng áo the khăn xếp búi tó đen xì. Ai chả biết tiểu thư khuê các quần là áo lượt đến trường nữ sinh bằng xe kéo trông xinh gái bắt mắt người đời hơn các chị nhà quê váy nhuộm bùn bạc phếch, áo nâu vá vai. .

Hiển nhiên dù thời thành thị Việt mới sơ khai cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 với ảnh hưởng trực tiếp văn minh Pháp, từ quy hoạch thành thị, kiến trúc đô thị, đến hình thành lớp trí thức thuộc địa, lớp thị dân tiểu tư sản buôn bán nhỏ, bảng giá trị phân biệt giữa nông thôn và thành thị chưa phải đã nhiều và sâu sắc như quá trình phân hóa sau này. Mặc dù đời sống thị dân cũng mới chỉ có phần bề nổi dễ thấy “con sen nước máy công cộng”, tiểu thuyết diễm tình rẻ tiền, mấy anh Xuân tóc đỏ “xài” tiếng Tây bồi ngọng nghịu, gọi bố mẹ là “thầy me” hay “cậu mợ” vân vân . . .

Thế nhưng một đàng cả làng “mắt toét là tại hướng đình”, ao tù nước đọng; một đàng là ánh điện sáng trưng, phố thị tưng bừng, hàng hóa sầm uất, “ngựa xe như nước áo quần như nêm” tưởng đã là hai thế giới biệt lập. Bao nhiêu mặt “hảo diệu” của người nhà quê làm nên văn minh lúa nước bốn ngàn năm chẳng thấy đâu, chỉ thấy người ta vạch ra đủ thứ tật tội của người nhà quê dưới ánh sáng văn hóa, dưới ánh sáng khoa học hiện đại phương tây.

Nào ăn tục nói phét, bói toán quàng xiên, ngô nghê ngu dốt, ăn bẩn ở thỉu v.v…, được các cây bút tây học và “nhuốm mùi tây học” với cái nhìn khách quan cộng với tài trào lộng của người Việt đã “cộng sức” bóc mẽ nhà quê giữa thanh thiên bạch nhật. Cái nhìn nhà quê phiến diện kiểu đó ăn sâu tới mức, đến thời bao cấp cách đây đâu đã lâu la gì mà còn tồn tại câu thành ngữ thời đại “nhà ngói nhà quê không bằng ngồi lê. . . thành thị” (có ghê răng không?)

Ấy thế nhưng người đời lại hồn nhiên quên mất cái gốc làng xã, cái gốc nhà quê và căn tính nông dân nghĩ cho cùng cũng chính là gốc gác, căn tính của người Việt. Nghĩ lại mà coi, huyền thoại giống nòi mình là chuyện trăm trứng đẻ ra trăm con, năm mươi người xuống biển theo cha rồng, năm mươi người theo mẹ tiên lên núi khai sơn phá thạch, dựng cơ nghiệp giống Lạc Hồng, xây đắp nền văn minh nông nghiệp lúa nước, lấy kinh nghiệm trồng cấy săn bắt làm “kiến thức” cơ bản.

Lấy đâu ra những thành thị văn minh cổ đại thuần thành như Aten, lấy đâu ra những nhà toán học như Pythagoras, vật lý học Archimedes, nhà triết học như Platon, Aristoteles v.v… Trước công lịch “người ta” đã “tiến” thế rồi. Còn mình, thời vua triều Nguyễn thế kỷ. . . 19 vẫn “không chấp nhận canh tân, không dám canh tân” ( như Minh Trị Thiên Hoàng bên Nhật) theo lời điều trần mười tám điều tâm huyết của cụ Nguyễn Trường Tộ, chả hề biết thông tin bên Tây người ta đã xài điện, xài máy hơi nước rầm rầm. Còn định đánh đòn (nghe nói thế) người đi tây về tâu trình bên đó có đèn… treo ngược!

Đặt trong bối cảnh lịch sử đại loại như thế, thử hỏi đô thị Việt đậm nét văn minh phương Tây “khởi sự” “khởi đầu” ra đời từ bao giờ, từ đâu, nếu không là cuối thế kỷ 19 “song sinh” với cuộc xâm lăng “khai hóa” của thực dân Pháp? Người Pháp đã mang theo họ không chỉ quy hoạch kiến trúc đô thị hiện đại, không chỉ “kinh tế tư bản” thị trường mà còn mang theo cả “triết học khai sáng” tư sản, tiểu thuyết, thơ lãng mạn, kịch nghệ, hội họa hiện đại với trường Mỹ thuật và tranh sơn dầu, hoạt động báo chí tân văn cùng hệ thống giáo dục tân tiến so với Nho học cuối mùa phong kiến Việt.

Những nhân tố đó “ngoài ý muốn thực dân cũ” nhưng đã đóng vai trò kích hoạt, cải hóa từ thị dân trung cổ sang thị dân hiện đại, từ thành thị kiểu phong kiến phương đông tập hợp các làng nghề, phường nghề, phường hội thành đô thị hiện đại. Làm sao trong khoảng thời gian chưa phải là dài, tính từ thời điểm tiếng súng đại bác của Pháp bắn vào thành Đà Nẵng uy hiếp một triều đình phong kiến bạc nhược đến những năm ba mươi thế kỷ 20, căn tính nông dân, gốc gác làng quê hàng nghìn đời đã có thể mất trong giới thị dân tiểu tư sản “hành nghề thủ công là chính” và buôn bán vặt cho được?

Cuộc giao thoa văn hóa, cuộc giao lưu văn hóa vừa tự nguyện vừa cưỡng bức do lý do lịch sử mất nước, không dễ một sớm một chiều gạt bỏ tận gốc căn tính đó trong mỗi một con người thị dân gốc gác làng xã. Chả thế mà “cụ đồ tây” Vũ Đình Liên từ những năm 40 thế kỷ trước, cho tới tận ngày nay, vẫn còn nổi tiếng với bài thơ Ông Đồ. Hình ảnh ông Đồ già viết câu đối đỏ. . . .mừng xuân là một trong những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt cổ điển.

Căn tính Việt,tâm thức Việt quả là bền bỉ trường tồn!
Không phải ngẫu nhiên trong vốn từ vựng của người Pháp hình như có Le Nhaque. Căn tính nông dân Việt, căn tính người làng xã Việt, người nhà quê Việt quá điển hình, quá đậm nét,”quá lạ” trong con mắt người phương Tây hiếu kỳ sẵn óc khoa học. . . tò mò, như một đặc trưng Việt thời họ song hành khai thác thuộc địa và khai hóa xứ sở này như họ “thích” thừa nhận.

Đã gọi là căn tính thì dù “tôi và chúng ta” có được thời đại a- còng và học thức, học lực, làm nhòe mờ bớt những nét tính cách. . . cù lần quê kệch, thì trong con mắt thị dân hiện đại mới “giầu xổi”, mới phất lên nhờ khai thác cơ chế thị trường, biết đâu có thể họ vẫn thấy mình. . . như Le Nhaque. Có sao đâu nào !. Ai không biết một thực tế hiển nhiên “như chân lý”, căn tính Việt chính là nguồn gốc sức mạnh tinh thần Việt.

Vấn đề còn lại là. . .”hiện đại hóa căn tính gốc”, loại bỏ những “hạn chế lịch sử” để Le Nhaque sớm hòa nhập với cuộc sống hiện đại thời. . . toàn cầu hóa mà thôi.

Đào Dục Tú

Tác phẩm “lớn” có khi phải …chôn




Tác giả: Trần Thị Trường


Thử hỏi con số những người cầm bút đi xa ra khỏi cái tôi bé nhỏ, cái quan sát lặt vặt, cái tức khí nhất thời hiện nay là bao nhiêu, câu trả lời sẽ rõ ngay. (Trần Thị Trường)

Chúng ta còn quá nhiều định kiến với đương đại


LTS: Sau khi đăng tải quan điểm của nữ nhà văn Y Ban về việc tại sao VN chưa có tác phẩm văn học lớn, chúng tôi đã nhận được ý kiến của nhà văn Trần Thị Trường, tiếp tục lý giải vấn đề này. Xin giới thiệu cùng độc giả để tiếp tục tranh luận.

Trước hết chúng ta phải đồng ý với nhau rằng, tác phẩm văn học lớn (có giá trị cao), là một tác phẩm có thể tác động vào sự biến đổi xã hội do đọc nó mà thế giới quan, nhân sinh quan của con người thay đổi dẫn đến ứng xử, hành động… thay đổi, làm cho cuộc sống thay đổi. Nếu không phải thế thì chẳng lẽ tác phẩm lớn phụ thuộc vào độ dày của sách, số lượng lớn của phát hành hay sự tán thưởng của người đọc? Mặc dầu những yếu tố này cũngđóng góp một phần đáng kể, để nói lên giá trị của tác phẩm nghệ thuật.



Bản năng có đủ?


Tác phẩm văn học lớn chỉ xuất hiện khi các yếu tố như: Khả năng sáng tạo của người viết, môi trường xuất bản, trình độ thưởng thức và thẩm định của cộng đồng người đọc… hội tụ đầy đủ.




Thứ nhất là về khả năng sáng tạo. Trong ngàn người được gọi là hội viên Hội nhà văn Việt Nam (kể từ khi thành lập Hội 1957) có lẽ phải tới hàng trăm người cầm bút viết văn chỉ dựa vào sự mách bảo của bản năng. Đành rằng, bản năng cũng là một yếu tố quan trọng, nhưng chỉ có nó không thôi thì tác phẩm đẻ ra chỉ quanh quẩn những trải nghiệm và sự quan sát nghèo nàn của bản thân, mà không lý giải hay cắt nghĩa về sự tồn tại của con người, của một lớp người, của dân tộc hoặc cả nhân loại. Để từ đó giúp (chia sẻ) được với bạn đọc nỗi đau khổ hay niềm hạnh phúc của họ.

Những tác phẩm đó không thể gọi là tác phẩm lớn. Như đã nói ở trên, tác phẩm lớn phải là những tác phẩm đề cập được khát vọng của con người, phản ánh những nhức nhối đang đặt ra trong cuộc sống, trong thời đại; khơi dậy ở mỗi người, ở cộng đồng sự tự ý thức sâu xa về đạo đức, nhân cách, về trạng thái nhân sinh, về mâu thuẫn nội tại hoặc về nguyên nhân sâu xa của hạnh phúc và khổ đau.

Muốn sản sinh ra một tác phẩm lớn phải có một sức quan sát lớn, ngòi bút không dừng lại ở việc biểu hiện “cái tôi”, cho dù cái tôi ấy phản ánh một phần hoặc đồng điệu với cộng đồng. Vì thế, nếu người viết ít trải nghiệm, không đi ra khỏi môi trường nhỏ hẹp quen thuộc, không biết hoặc biết rất ít đến người khác (ở những nền văn hóa khác) thì cũng không thể có tác phẩm lớn.

Thử hỏi con số những người cầm bút đi xa ra khỏi cái tôi bé nhỏ, cái quan sát lặt vặt, cái tức khí nhất thời hiện nay là bao nhiêu, câu trả lời sẽ rõ ngay. Vì sao? Không có hoặc có rất ít những tác phẩm lớn

Thứ hai là về môi trường xuất bản.

Như đã nói ở trên, số ngòi bút thực tài là rất ít. Đã ít, lại nghèo khổ (đành rằng nghèo khổ là một bi kịch, một trong số chất xúc tác tốt cho sáng tạo). Cuộc sống nghèo khổ khiến cho không ít những tài năng phải quẩn quanh để đấu tranh mệt mỏi giành giật sự tồn tại, khiến cho những tác phẩm của họ hoặc phải hạ tông để vừa lòng người biên tập, để được xuất bản. Ngay kể cả việc kể ra đây những ví dụ sống động về những tác phẩm, tác giả đã “hạ tông” đó cũng thật là… không dám.

Cái con số ít ỏi ấy, ban đầu tự thỏa thuận với bản thân rằng, ta chỉ làm một lần này thôi, để có tiền sống, ta chỉ bỏ bút viết văn một thời gian ngắn để đi làm báo (có tiền tươi), hoặc đi… làm công chức (để có lương tháng) rồi ta vẫn quay lại với văn chương và với tác phẩm mà ta hằng ấp ủ.

Họ, những người đó đã đánh mất dần bản thân vào những tản văn trên góc nhỏ tờ báo tuần, hay những truyện ngắn mì ăn liền, hay những truyện dài diễm tình để được xuất bản và có tiền nhanh chóng. Mất dần đến mức, sinh ra cả thói tự duyệt chính mình. Điều đó khiến cho ngòi bút và tư tưởng không thể thăng hoa, điều đó ai trong nghề cũng hiểu. Nhưng người trong nghề lại phụ thuộc rất nhiều người ngoài nghề nhưng cầm nắm quyền “sinh hạ”.

Những người ngoài nghề ấy vẫn nói rằng: Có luật rồi, theo luật mà làm. Đừng đổ lỗi. Nhưng, luật cho phép tự do sáng tác, rồi luật lại bảo, không được lợi dụng tự do để tác động đến môi trường xung quanh .v.v. Cái ranh giới giữa công dân chính trực và kẻ vi phạm pháp luật là rất mong manh, là tùy thuộc, đôi khi chỉ vào… trình độ thẩm thơ của chị thẩm phán. Không có sáng tạo độc lập thì văn có hay mấy cũng không độc đáo, ngòi bút có giỏi mấy cũng không lên tới đỉnh cần thiết, lấy đâu ra tác phẩm đỉnh cao.

Có thể nói khi chưa có một môi trường xuất bản dám bảo đảm cho những kiệt tác văn chương xuất hiện thì chắc chắn kiệt tác không thể xuất hiện. (Cứ thử hỏi nếu không đúng cái khoảnh khắc mở cửa thì “Cây tỏi nổi giận”, “Đàn hương Hình”, “Phong nhũ phì đồn”của Mạc Ngôn, hay “Nỗi buồn chiến tranh”, “Tướng về hưu” có xuất hiện được không?). Tôi gọi đó là cái khoảnh khắc, đúng hay sai tự bạn đọc sẽ hiểu.

Yếu tố thứ ba, cộng đồng và trình độ thưởng thức: Nếu nói trình độ thưởng thức nghệ thuật văn chương ở ta là kém cỏi thì lý giải thế nào với các tác phẩm dịch cỡ Nobel được người đọc ở ta đón nhận trong thời gian vừa qua?

Tuy nhiên, cần phải nói chính xác là có bao nhiêu người đọc các tác phẩm đoạt giả Nobel so sánh với con số đọc truyện trinh thám, truyện ngôn tình và truyện tranh? Song song với khả năng thưởng thức của cộng đồng là trách nhiệm của những nhà lý luận phê bình và những cấp trên của những nhà phê bình đó. Thử hỏi đã ngòi bút phê bình nào dám phân tích cái hay, cái lớn, cái “dở” cái “tác động vào tư tưởng của cộng đồng” của “Nghệ nhân Margarita”, “Trái tim chó”… (Bulgacov) hay “Chuyện ở nông trại” (George Orwell) chưa?

Trong khi đó truyền thông sẵn sàng “nhảy bổ” vào khen, chê, cổ súy, ném đá… vào một số những cuốn sách xuất hiện trên thị trường, khi thì làm tăng độ “hot” cho sách, khi thì góp phần làm cho sách biến mất trong im lặng của cả người xuất bản nó lẫn người đã có nó trên giá sách của người đọc.

Đổ lỗi cho nhau

Ngay kể cả khi gõ phím những dòng chữ này, người viết cũng phải đắn đo hết sức, mãi mới dám bày tỏ… tí chút. Rất có thể, tài năng không có nên viết mãi mới thành. Nhưng có một sự thật là có nhiều chữ định viết ra mà sợ nó chui vào vòng “nhạy cảm”. Thế là không viết. Và dĩ nhiên là sẽ đổ lỗi rằng, nếu viết thì có thể không được in, nếu in thì có khi bị rầy rà. Chẳng những bản thân “bị” mà thân nhân cũng “bị” luôn.

Thế là người bị đổ lỗi sẽ dễ dàng hạ một câu nhanh gọn: “ Thôi đi ông/ bà già, không có tài thì nhận cho nhanh đừng đổ lỗi cho khâu duyệt, cho môi trường xuất bản, cho người đọc…”.

Và thế là, tác phẩm lớn vẫn còn ở phía trước, nó chưa được viết ra hoặc đã viết ra rồi chờ cái khoảnh khắc mở cửa nào đó, hoặc chờ đến khi nằm trong quan tài và trước đó, dặn cho con cháu. Nếu con cháu hiểu văn chương, thấy văn chương là cần thiết cho đời sống hay cho tương lai thì con cháu cho xuất hiện.

Nhưng nếu con cháu thấy “ông/bà già” lúc sống đã hèn đã không dám thực hiện tư tưởng của mình, bây giờ đẩy cái nguy hiểm cho nó thì… nó chôn theo thôi.

————-

http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/185558/tac-pham–lon–co-khi-phai—-chon.html

Giáo dục và Hòa bình


J. KRISHNAMURTI
GIÁO DỤC
VÀ Ý NGHĨA CỦA SỐNG
Education and the Significance of Life
Lời dịch: Ông Không




CHƯƠNG IV


GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH THẾ GIỚI




Muốn khám phá giáo dục có thể đảm trách vai trò gì trong sự khủng hoảng hiện nay của thế giới, chúng ta phải hiểu rõ làm thế nào sự khủng hoảng đó đã xảy ra. Chắc chắn nó là kết quả của những giá trị sai lầm trong sự liên hệ của chúng ta với con người, với tài sản và với những ý tưởng. Nếu sự liên hệ của chúng ta với những người khác được đặt nền tảng trên sự phóng đại của chính chúng ta, và sự liên hệ của chúng ta với tài sản là tham lợi, chắc chắn cấu trúc của xã hội là ganh đua và tự cô lập. Nếu trong sự liên hệ của chúng ta với những ý tưởng, chúng ta bênh vực một học thuyết đối nghịch với một học thuyết khác, ý muốn xấu xa và không tin cậy lẫn nhau là những kết quả không tránh khỏi.

Một nguyên nhân khác của sự hỗn loạn hiện nay là sự phụ thuộc vào uy quyền, vào những người lãnh đạo, dù trong sống hàng ngày, trong trường học nhỏ bé hay trong trường đại học rộng lớn. Những người lãnh đạo và uy quyền của họ là những nhân tố thoái hóa trong bất kỳ tôn giáo nào. Khi chúng ta theo sau một người khác, không có sự hiểu rõ nhưng chỉ có sự sợ hãi và tuân phục, cuối cùng dẫn đến sự tàn nhẫn của chính thể độc tài và những tín điều của tôn giáo có tổ chức.

Phụ thuộc vào những chính phủ, hướng về những tổ chức và những uy quyền cho hòa bình đó mà phải bắt đầu bằng sự hiểu rõ về chính chúng ta, là tạo ra xung đột nhiều thêm và vẫn còn nghiêm trọng hơn nữa; và không thể có hạnh phúc vĩnh cửu chừng nào chúng ta còn chấp nhận một trật tự xã hội trong đó có đấu tranh và đối lập vô tận giữa con người và con người. Nếu chúng ta muốn thay đổi những điều kiện đang tồn tại, trước hết chúng ta phải tự thay đổi chính chúng ta, mà có nghĩa chúng ta phải nhận biết được những hành động, những suy nghĩ và những cảm thấy trong sống hàng ngày của chúng ta.

Nhưng chúng ta thực sự không muốn hòa bình, chúng ta không muốn kết thúc sự trục lợi. Chúng ta sẽ không cho phép sự tham lam của chúng ta bị can thiệp, hay những nền tảng của cấu trúc xã hội hiện nay bị thay đổi; chúng ta muốn những sự việc tiếp tục như chúng là với chỉ những bổ sung trên bề mặt, và thế là chắc chắn những người quyền hành, những người ranh mãnh cai trị những sống của chúng ta.

Hòa bình không thành tựu qua bất kỳ học thuyết nào, nó không phụ thuộc vào lập pháp; nó hiện diện chỉ khi nào chúng ta, như những cá thể, bắt đầu hiểu rõ qui trình tâm lý riêng của chúng ta. Nếu chúng ta lẩn tránh trách nhiệm của hành động một cách cá thể và chờ đợi hệ thống mới nào đó để thiết lập hòa bình, chúng ta sẽ chỉ trở thành những nô lệ của hệ thống đó.

Khi những chính phủ, những người độc tài, những công ty lớn và những giáo sĩ quyền hành bắt đầu thấy rằng sự đối nghịch gia tăng này giữa con người chỉ dẫn đến sự phá hoại bừa bãi và vì vậy không còn gây lợi lộc nữa, họ có lẽ ép buộc chúng ta, qua lập pháp và những phương tiện khác của sự ép buộc, để kiềm chế những khao khát và những tham vọng cá nhân của chúng ta và để đồng hợp tác cho hạnh phúc của nhân loại. Giống như lúc này chúng ta được giáo dục và được khuyến khích để ganh đua và tàn nhẫn, vì vậy lúc đó chúng ta sẽ bị thúc ép để tôn trọng lẫn nhau và để làm việc cho thế giới như một tổng thể.

Và mặc dù tất cả chúng ta có lẽ được ăn mặc đầy đủ và có nơi trú ngụ ấm cúng, chúng ta sẽ không được tự do khỏi những xung đột và những đối nghịch của chúng ta, mà sẽ chỉ chuyển hướng đến một mức độ khác, nơi chúng sẽ vẫn còn quỉ quyệt và tàn ác hơn. Hành động chân thật và đạo đức duy nhất là tự nguyện, và sự hiểu rõ, một mình nó, có thể sáng tạo hòa bình và hạnh phúc cho con người.

Những niềm tin, những học thuyết và những tôn giáo có tổ chức đang xếp đặt chúng ta chống đối những người hàng xóm của chúng ta; có xung đột, không chỉ giữa những xã hội khác nhau, nhưng còn cả nơi những nhóm người trong cùng xã hội. Chúng ta phải nhận ra rằng chừng nào chúng ta còn đồng hóa chính chúng ta cùng một quốc gia, chừng nào chúng ta còn bám vào sự an toàn, chừng nào chúng ta còn bị quy định bởi những giáo điều, sẽ còn có đấu tranh và đau khổ cả trong chính chúng ta và trong thế giới.

Vậy thì, có toàn nghi vấn của ái quốc. Khi nào chúng ta cảm thấy thương yêu tổ quốc? Chắc chắn nó không là một cảm xúc hàng ngày. Nhưng chúng ta được kiên trì khuyến khích để thương yêu tổ quốc qua những quyển sách giáo khoa, qua báo chí và những phương tiện tuyên truyền khác, mà khích động cái tôi chủng tộc bằng cách ca tụng những anh hùng quốc gia và bảo cho chúng ta rằng quốc gia và cách sống riêng của chúng ta là tốt đẹp hơn những quốc gia khác. Tinh thần ái quốc này nuôi dưỡng sự kiêu ngạo của chúng ta từ niên thiếu đến tuổi già.

Sự khẳng định được lặp lại liên tục rằng chúng ta phụ thuộc vào một nhóm tôn giáo hay chính trị nào đó, rằng chúng ta thuộc quốc gia này hay quốc gia kia, nịnh nọt những cái tôi nhỏ xíu của chúng ta, thổi phồng chúng ra giống như những cánh buồm, cho đến khi chúng ta sẵn sàng giết chết hay bị giết chết vì quốc gia, chủng tộc hay học thuyết của chúng ta. Tất cả đều quá dốt nát và không tự nhiên. Chắc chắn, những con người còn quan trọng hơn những biên giới của quốc gia và học thuyết.

Tinh thần tách rời của chủ nghĩa quốc gia đang lan tràn giống như lửa khắp thế giới. Ái quốc được nuôi dưỡng và trục lợi đầy khôn ngoan bởi những người đang tìm kiếm sự bành trướng thêm nữa, những quyền hành to tát hơn, sự giàu có nhiều thêm; và mỗi người chúng ta tham gia vào qui trình này, bởi vì chúng ta cũng ham muốn những việc này. Chinh phục những đất đai khác và những con người khác cung cấp những thị trường mới cho hàng hóa cũng như cho những học thuyết tôn giáo và chính trị.

Người ta phải quan sát tất cả những diễn tả này của bạo lực và đối nghịch bằng một cái trí không thành kiến, đó là, bằng một cái trí không đồng hóa chính nó cùng bất kỳ quốc gia, chủng tộc hay học thuyết nào, nhưng cố gắng tìm ra điều gì là sự thật. Có sự hân hoan vô cùng khi thấy một vấn đề rõ ràng mà không đang bị ảnh hưởng bởi những nhận thức và những hướng dẫn của những người khác, dù họ là chính phủ, những người chuyên môn hay những người rất có học thức. Một lần chúng ta thực sự nhận ra rằng tinh thần ái quốc là một cản trở đối với hạnh phúc của con người, chúng ta không phải đấu tranh chống lại cảm xúc giả tạo này trong chính chúng ta, nó đã vĩnh viễn biến mất khỏi chúng ta.

Chủ nghĩa quốc gia, tinh thần ái quốc, ý thức giai cấp và chủng tộc, luôn luôn của cái tôi, và thế là gây tách rời. Rốt cuộc, một quốc gia là gì ngoại trừ một nhóm của những cá thể đang sống cùng nhau vì những lý do tự phòng vệ và kinh tế? Từ sự sợ hãi và tự phòng vệ tham lợi sinh ra ý tưởng của ‘quốc gia của tôi’, cùng những biên giới và hàng rào thuế quan của nó, đang khiến cho tình huynh đệ và sự thống nhất của con người không thể xảy ra được.

Sự ham muốn để kiếm được và giữ được, sự khao khát để được đồng hóa cùng cái gì đó to tát hơn chúng ta, tạo ra tinh thần của chủ nghĩa quốc gia; và chủ nghĩa quốc gia nuôi dưỡng chiến tranh. Trong mọi quốc gia, chính phủ, được khuyến khích bởi tôn giáo có tổ chức, đang ủng hộ chủ nghĩa quốc gia và tinh thần tách rời. Chủ nghĩa quốc gia là một căn bệnh và nó không bao giờ có thể tạo ra sự thống nhất của nhân loại. Chúng ta không thể có được sức khỏe nhờ vào bệnh tật, trước hết chúng ta phải giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật.

Do bởi chúng ta là những người ái quốc, sẵn sàng bảo vệ những Chính thể cai trị của chúng ta, những niềm tin và những tham lợi của chúng ta, nên chúng ta mới phải liên tục trang bị vũ khí. Đối với chúng ta, tài sản và những ý tưởng đã trở thành quan trọng hơn sống của con người, thế là có bạo lực và đối nghịch liên tục giữa chúng ta và những người khác. Bằng cách duy trì chủ quyền của quốc gia chúng ta, chúng ta đang hủy diệt con cái của chúng ta; bằng cách tôn sùng Chính thể, mà không là gì cả ngoại trừ một chiếu rọi của chính chúng ta, chúng ta đang hy sinh con cái của chúng ta cho sự thỏa mãn riêng của chúng ta. Chủ nghĩa quốc gia và những chính phủ cầm quyền là những nguyên nhân và những dụng cụ của chiến tranh.

Những học viện xã hội hiện nay của chúng ta không thể phát triển thành một hợp nhất thế giới, bởi vì chính những nền tảng của nó là tách rời. Những nghị viện và những hệ thống giáo dục mà bảo vệ chủ quyền quốc gia và nhấn mạnh vào sự quan trọng của nhóm người sẽ không bao giờ kết thúc chiến tranh. Mỗi nhóm tách rời của con người, cùng những người cai trị của nó và những người bị cai trị của nó, là một nguồn của chiến tranh. Chừng nào tại cơ bản chúng ta còn không thay đổi sự liên hệ hiện nay giữa con người và con người, chắc chắn công nghiệp sẽ dẫn đến sự hỗn loạn và trở thành một dụng cụ của hủy diệt và đau khổ; chừng nào còn có bạo lực và chuyên chế, dối gạt và tuyên truyền, tình huynh đệ của con người không thể được thực hiện.

Chỉ giáo dục con người để là những kỹ sư xuất sắc, những người khoa học sáng chói, những người điều hành hiệu quả, những công nhân khéo léo, sẽ không bao giờ hợp nhất những người đàn áp và những người bị đàn áp lại cùng nhau; và chúng ta có thể thấy rằng hệ thống giáo dục hiện nay của chúng ta, mà duy trì nhiều nguyên nhân nuôi dưỡng đối nghịch và hận thù giữa những con người, đã không ngăn cản sự giết người tập thể nhân danh quốc gia của người ta hay nhân danh Thượng đế.

Những tôn giáo có tổ chức, cùng uy quyền tinh thần và thế tục của chúng, cũng không thể mang lại hòa bình cho con người, bởi vì chúng cũng là kết quả của sự dốt nát và sợ hãi của chúng ta, của sự ích kỷ và giả tạo của chúng ta.

Bởi vì khao khát sự an toàn ở đây hay trong đời sau, chúng ta tạo ra những học viện và những học thuyết mà bảo đảm sự an toàn đó; nhưng chúng ta càng đấu tranh cho sự an toàn nhiều bao nhiêu, chúng ta càng sẽ nhận được ít ỏi về chúng bấy nhiêu. Sự khao khát an toàn chỉ nuôi dưỡng phân chia và gia tăng đối nghịch. Nếu chúng ta cảm thấy sâu thẳm và hiểu rõ sự thật của điều này, không chỉ bằng từ ngữ hay trí năng, nhưng bằng toàn thân tâm của chúng ta, vậy thì chúng ta sẽ bắt đầu thay đổi một cách cơ bản sự liên hệ của chúng ta với những người bạn của chúng ta trong thế giới tức khắc quanh chúng ta; và chỉ lúc đó mới có một khả năng của thành tựu sự thống nhất và tình huynh đệ.

Hầu hết chúng ta đều bị nuốt trọn bởi tất cả mọi loại sợ hãi, và đều quan tâm đến sự an toàn riêng của chúng ta. Chúng ta hy vọng rằng, bởi điều kỳ diệu nào đó, những chiến tranh sẽ kết thúc, luôn luôn buộc tội những nhóm quốc gia khác là những nhóm khích động chiến tranh, khi luân phiên họ chỉ trích chúng ta về thảm họa đó. Mặc dù chiến tranh chắc chắn gây thiệt hại cho xã hội, chúng ta chuẩn bị cho chiến tranh và phát triển tinh thần quân đội trong những người trẻ.

Nhưng liệu sự đào tạo quân đội có bất kỳ vị trí nào trong giáo dục? Tất cả nó phụ thuộc chúng ta muốn con cái của chúng ta là loại người nào. Nếu chúng ta muốn chúng là những kẻ giết người hiệu quả, vậy thì sự đào tạo quân đội là cần thiết. Nếu chúng ta muốn kỷ luật chúng và định hình những cái trí của chúng, nếu mục đích của chúng ta là khiến cho chúng thành những người ái quốc và thế là vô trách nhiệm với xã hội như một tổng thể, vậy thì sự đào tạo quân đội là một cách hay ho để thực hiện nó. Nếu chúng ta thích chết chóc và hủy diệt, chắc chắn sự đào tạo quân đội là cần thiết. Chính chức năng của những vị tướng là phải lên kế hoạch và tiếp tục chiến tranh; và nếu ý định của chúng ta là có sự đấu tranh liên tục giữa chúng ta và những người láng giềng của chúng ta, vậy thì tất nhiên chắc chắn chúng ta hãy cho phép có thêm nhiều vị tướng.

Nếu chúng ta đang sống chỉ để có sự đấu tranh liên tục trong chúng ta và với những người khác, nếu sự ham muốn của chúng ta là tiếp tục đổ máu và đau khổ, vậy thì phải có nhiều lính tráng hơn, nhiều người chính trị hơn, nhiều kẻ thù hơn – mà thực sự là việc gì đang xảy ra. Văn minh hiện đại được đặt nền tảng trên bạo lực, và vì vậy đang chuốc lấy chết chóc. Chừng nào chúng ta còn tôn sùng uy quyền, bạo lực sẽ là phương cách sống của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta muốn hòa bình, nếu chúng ta muốn sự liên hệ đúng đắn giữa những con người, dù là người Thiên chúa giáo hay người Ấn giáo, người Nga hay người Mỹ, nếu chúng ta muốn con cái của chúng ta là những con người tổng thể, vậy thì sự đào tạo quân đội là một cản trở tuyệt đối, đó là phương cách sai lầm khi tiến hành nó.

Một trong những nguyên nhân chính của hận thù và đấu tranh là niềm tin rằng một giai cấp hay chủng tộc đặc biệt là cao cấp hơn một giai cấp hay chủng tộc khác. Đứa trẻ không có ý thức giai cấp cũng như chủng tộc; do bởi môi trường sống ở nhà hay ở trường, hay cả hai, mới khiến cho em cảm thấy tách rời. Trong chính đứa trẻ, em không lưu tâm liệu người bạn chơi đùa của em là một người da đen hay một người Do thái, một người Ba la môn hay không Ba la môn; nhưng sự ảnh hưởng của toàn cấu trúc xã hội liên tục đang khắc sâu vào cái trí của em, đang ảnh hưởng và đang định hình nó.

Ở đây lại nữa, vấn đề không phải với đứa trẻ nhưng với những người lớn tuổi, mà đã tạo ra một môi trường sống vô nghĩa của chủ nghĩa tách rời và những giá trị giả tạo.

Liệu có nền tảng thực sự nào để chỉ rõ sự khác biệt giữa những con người? Những thân thể của chúng ta có lẽ khác biệt trong cấu trúc và màu sắc, những khuôn mặt của chúng ta có lẽ không giống nhau, nhưng phía bên trong làn da chúng ta đều giống hệt nhau: kiêu ngạo, tham vọng, ganh tị, bạo lực, tình dục, tìm kiếm quyền hành và vân vân. Lột bỏ cái nhãn hiệu và chúng ta rất trơ trụi; nhưng chúng ta không muốn đối diện sự trơ trụi của chúng ta, và thế là chúng ta cố chấp vào cái nhãn hiệu – mà thể hiện rằng chúng ta không chín chắn biết chừng nào, chúng ta thực sự ấu trĩ ra sao.

Muốn khiến cho đứa trẻ lớn lên được tự do khỏi thành kiến, trước hết người ta phải phá vỡ tất cả những thành kiến bên trong chính người ta, và kế tiếp trong môi trường sống của chúng ta – mà có nghĩa phá vỡ cấu trúc của xã hội vô nghĩa này mà chúng ta đã tạo ra. Ở nhà, chúng ta có lẽ dạy bảo đứa trẻ của chúng ta rằng, rất vô lý khi ý thức về giai cấp và chủng tộc của người ta, và em ấy có thể sẽ đồng ý với chúng ta; nhưng khi em ấy đi đến trường và chơi đùa cùng những đứa trẻ khác, em ấy bị vấy bẩn bởi tinh thần phân chia. Hoặc nó có lẽ là cách ngược lại: ở nhà có lẽ là truyền thống, chật hẹp, và sự ảnh hưởng của trường học có lẽ phóng khoáng hơn. Trong cả hai trường hợp đều có một đấu tranh liên tục giữa tổ ấm và trường học, và đứa trẻ bị kẹt cứng giữa hai nơi.

Muốn nuôi nấng đứa trẻ một cách thông minh, muốn giúp đỡ em ấy nhận biết để cho em ấy thấy những thành kiến xuẩn ngốc này, chúng ta phải liên hệ mật thiết cùng em. Chúng ta phải nói chuyện về những sự việc và cho phép em lắng nghe nói chuyện thông minh này; chúng ta phải khuyến khích tinh thần của tìm hiểu và bất mãn mà sẵn có trong em, nhờ vậy giúp đỡ em khám phá cho chính em điều gì là thực sự và điều gì là giả dối.

Chính là sự thâm nhập liên tục, sự bất mãn thực sự, mới mang lại sự thông minh sáng tạo; nhưng để duy trì sự thâm nhập và sự bất mãn luôn luôn thức giấc là điều gian nan vô cùng, và hầu hết mọi người đều không muốn con cái của họ có loại thông minh này, bởi vì quả là rất khó chịu khi sống cùng một người luôn luôn nghi ngờ những giá trị đã được chấp nhận.

Tất cả chúng ta đều bất mãn khi chúng ta còn trẻ, nhưng bất hạnh thay chẳng mấy chốc sự bất mãn của chúng ta tan dần đi, bị bóp nghẹt bởi những khuynh hướng bắt chước của chúng ta và sự tôn sùng uy quyền của chúng ta. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta bắt đầu cố định, thỏa mãn và sợ hãi. Chúng ta trở thành những người điều hành, những giáo sĩ, những thư ký ngân hàng, những giám đốc nhà máy, những kỹ thuật viên, và dần dần cố định. Bởi vì chúng ta ham muốn duy trì những vị trí của chúng ta, chúng ta ủng hộ xã hội thoái hóa mà đã xếp đặt chúng ta ở đó và đã cho chúng ta tiêu chuẩn nào đó của sự an toàn.

Sự kiểm soát giáo dục của chính phủ là một tai họa. Không có hy vọng của hòa bình và trật tự trong thế giới chừng nào giáo dục còn là nô bộc của Chính thể hay của tôn giáo có tổ chức. Tuy nhiên càng ngày càng nhiều chính phủ đang đảm đương trẻ em và tương lai của chúng; và nếu nó không là chính phủ, vậy thì nó là những tổ chức tôn giáo mà tìm kiếm để kiểm soát sự giáo dục.

Tình trạng bị quy định này của cái trí đứa trẻ để phù hợp vào một học thuyết, dù là chính trị hay tôn giáo, nuôi dưỡng sự thù địch giữa con người và con người. Trong một xã hội ganh đua, chúng ta không thể có tình huynh đệ, và không sự đổi mới nào, không độc tài nào, không phương pháp giáo dục nào có thể tạo ra nó.

Chừng nào bạn vẫn còn là người New Zealand và tôi là một người Ấn độ, quả là vô lý khi nói về sự thống nhất của con người. Làm thế nào chúng ta có thể hòa hợp cùng nhau như những con người nếu bạn trong quốc gia của bạn, và tôi trong quốc gia của tôi, còn duy trì những thành kiến tôn giáo và những hệ thống kinh tế riêng biệt của chúng ta? Làm thế nào có thể có tình huynh đệ chừng nào chủ nghĩa ái quốc còn đang tách rời con người và con người, và hàng triệu người còn bị giới hạn bởi những điều kiện kinh tế giới hạn trong khi những người khác lại sung túc? Làm thế nào có thể có sự thống nhất của con người khi những niềm tin còn phân chia chúng ta, khi có sự thống trị của một nhóm người bởi một nhóm người khác, khi những người giàu có đầy quyền hành và những người nghèo khổ đang tìm kiếm cùng quyền hành đó, khi có sự phân phối sai lầm của đất đai, khi những người nào đó được nuôi ăn dư thừa và vô số người lại đang thiếu thốn?

Một trong những khó khăn của chúng ta là chúng ta thực sự không khẩn thiết về những vấn đề này, bởi vì chúng ta không muốn bị xáo trộn nhiều. Chúng ta ưa thích thay đổi những sự việc chỉ trong một cách gây lợi lộc cho chính chúng ta, và thế là chúng ta không quan tâm đến sự trống rỗng và độc ác riêng của chúng ta.

Liệu có khi nào chúng ta có thể đạt được hòa bình qua bạo lực? Liệu hòa bình sẽ đạt được dần dần, qua một qui trình từ từ của thời gian? Chắc chắn, tình yêu không là một vấn đề của sự đào tạo hay của thời gian. Hai cuộc chiến tranh vừa qua được chiến đấu vì dân chủ, tôi tin tưởng như thế; và lúc này, chúng ta đang chuẩn bị cho một chiến tranh còn to lớn hơn và hủy diệt hơn, và con người ít được tự do hơn. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xóa sạch những cản trở rõ ràng như thế đối với sự hiểu rõ như uy quyền, niềm tin, chủ nghĩa quốc gia và toàn tinh thần của thứ bậc? Chúng ta sẽ là những con người không có uy quyền, những con người hiệp thông lẫn nhau – và vậy thì, có lẽ, sẽ có tình yêu và từ bi.

Điều gì cần thiết trong giáo dục, như trong mọi lãnh vực khác, là phải có những con người hiểu rõ và thương yêu, mà những quả tim của họ không chất đầy những cụm từ sáo rỗng, cùng những vấn đề của cái trí.

Nếu sống được giành cho sống hạnh phúc, cùng tế nhị, cùng ân cần, cùng tình yêu, vậy thì hiểu rõ về chính chúng ta là điều rất quan trọng; và nếu chúng ta ao ước sáng tạo một xã hội khai sáng thực sự, chúng ta phải có những người giáo dục mà hiểu rõ những phương cách của sự hợp nhất và thế là có thể chuyển tải sự hiểu rõ đó sang đứa trẻ.

Những người giáo dục như thế sẽ là một hiểm họa cho cấu trúc xã hội hiện nay. Nhưng chúng ta thực sự không muốn sáng tạo một xã hội khai sáng; và bất kỳ người giáo dục nào mà, bởi vì nhận biết được những hàm ý đầy đủ của hòa bình, bắt đầu vạch ra ý nghĩa thực sự của chủ nghĩa quốc gia và sự ngu xuẩn của chiến tranh, chẳng mấy chốc sẽ mất luôn chức vụ của họ. Vì biết rõ điều này, hầu hết những giáo viên đều đồng lõa, và thế là giúp đỡ duy trì hệ thống hiện nay của sự trục lợi và bạo lực.

Chắc chắn, muốn khám phá sự thật, phải có sự tự do khỏi đấu tranh, cả trong chúng ta và người láng giềng của chúng ta. Khi chúng ta không xung đột bên trong, chúng ta không xung đột bên ngoài. Do bởi sự đấu tranh bên trong mà, được chiếu rọi ra bên ngoài, trở thành xung đột của thế giới.

Chiến tranh là sự chiếu rọi đổ máu và qui mô của sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta tiếp tục chiến tranh từ những sống hàng ngày của chúng ta; và nếu không có một thay đổi trong chính chúng ta, chắc chắn phải có những hận thù thuộc chủng tộc và quốc gia, những cãi cọ ngô nghê về những học thuyết, gấp bội những lính tráng, chào mừng những lá cờ, và tất cả những tàn bạo mà sẽ tiến tới để tạo ra những giết chóc có tổ chức.

Sự giáo dục khắp thế giới đã thất bại, nó đã sản sinh sự hủy diệt và đau khổ chất chồng. Những chính phủ đang đào tạo những người trẻ để trở thành những lính tráng và những chuyên viên kỹ thuật hiệu quả mà họ cần; tổ chức thành đội ngũ và thành kiến đang được vun đắp và ép buộc. Bởi vì đang suy nghĩ về những sự kiện này, chúng ta phải thâm nhập ý nghĩa của sự tồn tại và sự quan trọng và mục đích của những sống của chúng ta. Chúng ta phải khám phá những phương cách từ bi của sáng tạo một môi trường sống mới mẻ; bởi vì môi trường sống có thể khiến cho đứa trẻ thành một người tàn ác, một người chuyên môn vô cảm, hay giúp đỡ em trở thành một người thông minh, nhạy cảm. Chúng ta phải sáng tạo một chính phủ thế giới mà khác hẳn tại cơ bản, mà không bị đặt nền tảng trên chủ nghĩa quốc gia, trên những học thuyết, trên vũ lực.

Tất cả điều này hàm ý sự hiểu rõ về trách nhiệm của chúng ta với lẫn nhau trong sự liên hệ; nhưng muốn hiểu rõ trách nhiệm của chúng ta, phải có tình yêu trong những quả tim của chúng ta, không chỉ học hành hay hiểu biết. Nhưng tất cả chúng ta là những bộ não và không có những quả tim; chúng ta vun quén mảnh trí năng và khinh miệt sự khiêm tốn. nếu chúng ta thực sự thương yêu con cái của chúng ta, chúng ta sẽ muốn cứu thoát và bảo vệ chúng, chúng ta sẽ không cho phép chúng bị hy sinh trong những chiến tranh.

Tôi nghĩ chúng ta thực sự đều muốn vũ khí; chúng ta thích sự biểu diễn của uy quyền quân đội, những bộ đồng phục, những nghi thức, nhậu nhẹt, náo động, bạo lực. Sống hàng ngày của chúng ta là một phản ảnh trong sự thu nhỏ lại của cùng bề mặt tàn ác này, và chúng ta đang hủy diệt lẫn nhau qua ganh tị và không chín chắn.

Chúng ta muốn giàu có; và chúng ta càng giàu có bao nhiêu, chúng ta càng trở nên tàn nhẫn bấy nhiêu, mặc dù chúng ta có lẽ đóng góp những số tiền to lớn cho từ thiện và giáo dục. Vì đã cướp bóc của nạn nhân, chúng ta đền bù cho người ấy một chút ít hàng ăn cướp, và điều này chúng ta gọi là công việc nhân đức. Tôi không nghĩ chúng ta nhận ra những thảm họa nào mà chúng ta đang chuẩn bị. Hầu hết chúng ta đều sống mỗi ngày càng vội vã và càng không suy nghĩ bao nhiêu càng tốt, và cho phép những chính phủ, những người chính trị ranh mãnh, xếp đặt phương hướng của những sống của chúng ta.

Tất cả những chính phủ cầm quyền phải chuẩn bị cho chiến tranh, và chính phủ riêng của người ta không là một ngoại lệ. Muốn khiến cho những công dân của nó có hiệu quả cho chiến tranh, muốn chuẩn bị họ thi hành những bổn phận có hiệu quả, chắc chắn chính phủ phải kiểm soát và điều phối họ. Họ phải được giáo dục và hành động như những cái máy, để có hiệu quả một cách tàn nhẫn. Nếu mục đích và cứu cánh của sống là hủy diệt và bị hủy diệt, vậy thì giáo dục phải khuyến khích sự tàn ác; và tôi không chắc rằng đó không là điều gì mà chúng ta mong muốn phía bên trong, bởi vì sự tàn ác gắn liền cùng thành công.

Chính phủ cầm quyền không muốn những công dân của nó được tự do, được suy nghĩ cho riêng họ, và nó kiểm soát họ qua sự tuyên truyền, qua những diễn giải lịch sử biến dạng và vân vân. Đó là lý do tại sao giáo dục đang trở nên càng ngày càng trở thành một phương tiện của suy nghĩ cái gì chứ không phải suy nghĩ thế nào. Nếu chúng ta muốn suy nghĩ một cách độc lập khỏi hệ thống chính trị đang bành trướng, chúng ta sẽ là những người nguy hiểm; những học viện tự do có lẽ sản sinh những người hòa bình hay những người suy nghĩ trái ngược với chế độ đang tồn tại.

Chắc chắn, giáo dục đúng đắn là một hiểm họa cho những chính phủ cầm quyền – và thế là nó bị ngăn cản bởi những phương tiện tinh vi và độc ác. Giáo dục và lương thực trong bàn tay của một ít người đã trở thành phương tiện của kiểm soát con người; và những chính phủ, dù của phe tả hay phe hữu, không quan tâm chừng nào chúng ta còn là những cái máy hiệu quả dành cho sự sản xuất hàng hóa và những viên đạn.

Lúc này, sự kiện rằng việc này đang xảy ra khắp thế giới có nghĩa là chúng ta, những công dân và những người giáo dục, đang chịu trách nhiệm cho những chính phủ đang tồn tại, tại cơ bản không quan tâm liệu có tự do hay nô lệ, hòa bình hay chiến tranh, hạnh phúc hay đau khổ cho con người. Chúng ta muốn một chút xíu đổi mới đó đây, nhưng hầu hết chúng ta đều sợ hãi đập nát xã hội hiện tại và sáng tạo một cấu trúc hoàn toàn mới mẻ, bởi vì điều này sẽ đòi hỏi một thay đổi cơ bản của chính chúng ta.

Ngược lại, có những người mà tìm kiếm để tạo ra một cách mạng bạo lực. Bởi vì đã giúp đỡ xây dựng trật tự xã hội đang tồn tại cùng tất cả những xung đột, hỗn loạn và đau khổ của nó, bây giờ họ ham muốn tổ chức một xã hội hoàn hảo. Nhưng liệu bất kỳ người nào trong chúng ta có thể tổ chức một xã hội hoàn hảo khi chính chúng ta đã tạo ra xã hội hiện nay? Tin tưởng rằng hòa bình có thể đạt được qua sự bạo lực là hy sinh hiện tại cho một lý tưởng tương lai; và sự tìm kiếm của một kết thúc đúng đắn qua một phương tiện sai lầm này là một trong những nguyên nhân của sự thảm họa hiện nay.

Sự bành trướng và ưu thế của những giá trị thuộc giác quan tất yếu phải tạo ra thuốc độc của chủ nghĩa quốc gia, của những biên giới kinh tế, những chính phủ cầm quyền và tinh thần ái quốc, tất cả điều đó ngăn cản sự đồng hợp tác của con người với con người và gây thoái hóa sự liên hệ của con người, mà là xã hội. Xã hội là sự liên hệ giữa bạn và một người khác; và nếu không hiểu rõ sâu thẳm sự liên hệ này, không phải tại bất kỳ một mức độ nào, nhưng hợp nhất, như một tiến hành tổng thể, chắc chắn chúng ta lại tạo ra cùng loại của cấu trúc xã hội, dù được bổ sung trên bề mặt như thế nào.

Nếu chúng ta muốn thay đổi một cách cơ bản sự liên hệ hiện nay của con người chúng ta, mà đã tạo ra sự đau khổ không kể xiết của thế giới, nhiệm vụ duy nhất và tức khắc của chúng ta là tự thay đổi chính chúng ta qua sự hiểu rõ về chính mình. Vì vậy, chúng ta quay lại mấu chốt chính, mà là chính chúng ta; nhưng chúng ta lẩn tránh mấu chốt đó và đẩy trách nhiệm sang những chính phủ, những tôn giáo và những học thuyết. Những chính phủ là cái gì chúng ta là, những tôn giáo và những học thuyết không là gì cả ngoại trừ một chiếu rọi của chính chúng ta; và nếu chúng ta không thay đổi tại cơ bản, không thể có giáo dục đúng đắn và một thế giới hòa bình.

Sự an toàn bên ngoài cho tất cả chỉ có thể hiện diện khi có tình yêu và thông minh, và bởi vì chúng ta đã tạo ra một thế giới của xung đột và đau khổ mà trong đó sự an toàn bên ngoài mau chóng trở thành không thể xảy ra được cho bất kỳ người nào, liệu nó không thể hiện sự vô ích hoàn toàn của sự giáo dục quá khứ và hiện nay, hay sao? Như những phụ huynh và những giáo viên, chính là trách nhiệm trực tiếp của chúng ta phải phá vỡ sự suy nghĩ truyền thống, và không chỉ phụ thuộc vào những chuyên gia và những tìm ra của họ. Sự hiệu quả trong kỹ thuật đã trao tặng chúng ta một khả năng nào đó để kiếm tiền, và đó là lý do tại sao hầu hết chúng ta đều thỏa mãn với cấu trúc xã hội hiện nay; nhưng người giáo dục thực sự chỉ quan tâm đến đang sống đúng đắn, giáo dục đúng đắn, và phương tiện kiếm sống đúng đắn.

Chúng ta càng vô trách nhiệm trong những vấn đề này nhiều bao nhiêu, chính thể càng đảm đương tất cả trách nhiệm nhiều bấy nhiêu. Chúng ta phải đương đầu, không chỉ với một khủng hoảng kinh tế hay chính trị, nhưng còn với một khủng hoảng của sự thoái hóa con người mà không đảng phái chính trị hay hệ thống kinh tế nào có thể đảo ngược.

Một thảm họa khác và còn to tát hơn đang đến gần rất nguy hiểm, và hầu hết chúng ta đều không làm bất kỳ việc gì về nó. Chúng ta lê lết ngày này sang ngày khác chính xác như trước kia, chúng ta không muốn phủi bỏ tất cả những giá trị giả dối của chúng ta và bắt đầu mới mẻ lại. Chúng ta muốn thực hiện sự đổi mới chắp vá, mà chỉ dẫn đến những vấn đề của đổi mới thêm nữa. Nhưng ngôi nhà đang sụp đổ, những bức tường đang rạn nứt, và lửa đang hủy diệt nó. Chúng ta phải rời khỏi ngôi nhà này và bắt đầu mới mẻ lại, cùng những nền tảng khác hẳn, những giá trị khác hẳn.

Chúng ta không thể loại bỏ sự hiểu biết công nghệ, nhưng phía bên trong chúng ta có thể nhận biết được sự xấu xa của chúng ta, sự độc ác của chúng ta, những dối gạt và gian manh của chúng ta, sự thiếu vắng hoàn toàn của tình yêu. Chỉ bằng cách tự giải thoát chúng ta một cách thông minh khỏi tinh thần của chủ nghĩa quốc gia, khỏi sự ganh tị và sự ham muốn quyền hành, một trật tự xã hội mới mẻ mới có thể được thiết lập.

Hòa bình sẽ không đến được bởi sự đổi mới chắp vá, cũng không bởi sự tái sắp xếp của những ý tưởng và những mê tín cũ kỹ. Có thể có hòa bình chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ điều gì ẩn sau những bề mặt, và thế là chặn đứng con sóng của hủy diệt này mà đã bị buông lỏng bởi sự hung hăng và những sợ hãi riêng của chúng ta; và chỉ lúc đó sẽ có hy vọng cho con cái của chúng ta và sự cứu rỗi cho thế giới.

Sự trỗi dậy của con người cá nhân


Hà Thủy Nguyên


Hamvas Béla (1897-1968) là nhà văn, nhà triết học tâm linh lớn nhất của Hungary thế kỷ 20. Hamvas Béla cùng Kerény Káoroly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần tiếp nối truyền thống Hy Lạp cổ và thu hút được nhiều tên tuổi lớn của Hungary lúc bấy giờ. Nhưng sau ấn phẩm gồm ba tập (1935-1936), nhóm Đảo tan rã. Trong thế chiến thứ II, ông hoàn thành tập tiểu luận “Câu chuyện vô hình” (1943) khi còn đang ở ngoài chiến trận. Sau chiến tranh, Hungary sát nhập vào Liên bang Xô Viết, ông cùng Szabó Lajos và Tábor Béla thành lập nhóm tri thức cấp tiến được gọi là “Những buổi trao đổi thứ năm hằng tuần” nhằm tìm hiểu toàn bộ các vấn đề tinh thần thời đại. Mặc dù lại tiếp tục thu hút được nhiều tên tuổi lớn, nhưng đến năm 1948, tác phẩm “Cách mạng trong nghệ thuật” của ông viết chung với vợ đã bị đình chỉ vì lý do chính trị. Từ đó, ông bị tước tất cả quyền biên tập, viết và xuất bản, trở thành đối tượng theo dõi của chính quyền

Đây là bài viết kỷ niệm 117 năm ngày sinh của Hamvas Béla (23/3/1897 – 23/3/2014)

———

“Câu chuyện vô hình”, với tôi, là tập tiểu luận vĩ đại về sự trỗi dậy của Con người cá nhân. Ở trong tập tiểu luận này, chúng ta không thấy sự trỗi dậy của những cái Tôi dị biệt với những nổi loạn kỳ quái. Đây là sự nổi dậy của những tên khổng lồ đầy quyền lực khỏi cơn lũ đám đông đang tiêu diệt nhân loại. Hơn cả thế, cũng trong tác phẩm này, Hamvas Béla luận bàn về con đường của một linh hồn cần làm để quay về với vị trí thống trị của mình.

Chuyển dịch Kỷ nguyên Song Ngư sang Kỷ nguyên Bảo Bình
Mở đầu tập tiểu luận, Hamvas Béla viết về “Kỷ nguyên Bảo Bình”. Đây là một khái niệm chiêm tinh học. Nhiều nhà chiêm tinh học cho rằng Kỷ nguyên Bảo Bình bắt đầu từ quãng những năm 1960, đó là khi điểm xuân phân (ở Bắc Bán cầu) nằm ở chòm sao Bảo Bình. Quá trình điểm xuân phân nằm ở mỗi chòm sao được gọi là “aion”, có nghĩa là tháng vũ trụ và kéo dài từ 2000 đến 2500 năm, tức là khi điểm xuân phân đi hết 12 chòm sao Hoàng đạo, Trái Đất đã trải qua 26.000 năm. Trước Kỷ nguyên Bảo Bình, chúng ta đã ở trong Kỷ nguyên Song Ngư – kỷ nguyên của niềm tin tập thể.

Nếu bạn lấy thời điểm hiện nay trừ đi hơn 2000 năm trước, bạn sẽ thấy những sự kiện vĩ đại tôn vinh thần tượng của đám đông. Điển hình là sự xuất hiện của chúa Jesus. Jesus Christ là một vị thánh độc đạo, nhưng con đường của ngài đã lôi kéo một đám đông vô thức chạy theo mà không được phép hoài nghi bất cứ điều gì. Con đường ấy đã trở thành con đường của tín đồ. Một trường hợp tương tự diễn ra trước đó 500 năm ở Ấn Độ là sự ra đời của Phật giáo. Trong những tôn giáo ấy, các phẩm chất của con người cá nhân bị tiêu diệt, thay vào đó là các giá trị chung được ấn định của giáo đoàn và niềm tin mù quáng được hình thành. Rồi sau đó là Hồi giáo tiếp tục chiếm lĩnh vùng Trung Cận Đông và bắt đầu xây dựng tôn giáo của đám đông cuồng tín. Nhưng ở thời kỳ đầu này, các đức hạnh cao đẹp của Thượng Đế ẩn tàng trong con người vẫn giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt “bầy con chiên” và giữ con chiên trong cái khung của đạo đức. Và theo thời gian, điểm xuân phân dần dịch chuyển về phía bên kia của chòm Song Ngư, đám đông không còn chịu sự trói buộc của đức hạnh nữa mà bắt đầu nổi loạn. Sự lên ngôi của chủ nghĩa duy vật, của các phong trào đấu tranh trong suốt thế kỷ 19 và 20 là những gì có thể mường tượng về đám đông ở giai đoạn cuối của thế kỷ 20. Hamvas Béla đã bình luận về giai đoạn cuối này như sau: “Vô thức lên trên và ý thức xuống dưới. Tri thức không ở trên mà là bản năng, không phải ánh sáng mà là địa ngục, không phải thứ phát triển mà là thứ thấp kém, không phải trật tự và sự tử tế mà là sự hỗn loạn và dục vọng. Không phải thứ tư duy có ý thức mà là một thứ cặn bã và thần tượng”.

Giải thích cho hiện tượng “mông muội hóa” này, Hamvas Béla cho rằng ở cuối mỗi thời kỳ, con người cá nhân bị tan vào biển đám đông vô thức, và đó là biểu hiện của sự mông muội. Ông có một sự phân biệt rõ ràng giữa người cổ đại và người nguyên thủy. Người nguyên thủy là những dạng sống trong sự dã man và tối tăm, người cổ đại không nhất thiết là người nguyên thủy. Người nguyên thủy với Hamvas Béla, là những cặn bã của quá trình mông muội hóa, những cá nhân tan chìm trong cơn hồng thủy vô thức, còn rơi rớt lại đến ngày nay. Vậy quá trình mông muội hóa là như thế nào? Hamvas Béla sử dụng hình tượng của quá trình này là não thì ở dưới bụng còn dạ dày thì leo lên trên đầu. Đó là những gì ta đang thấy ở các tôn giáo và xã hội thế kỷ 20. Ở các tôn giáo, ý tưởng về một cõi cực lạc sung túc đang lấn át mọi giá trị thiêng liêng. Ở xã hội, giá trị vật chất của cơm ăn áo mặc đang vùi dập tinh thần. Ở trong phim ảnh của Holywood, ta có thể thấy nỗi lo sợ ám ảnh trong câu chuyện về bệnh dịch Zombie (tử thi), được mô tả như đám đông bị rút cạn linh hồn, bị thu hút bởi tiếng động và ăn thịt sống. Đó là sự điển hình hóa cho lời tiên đoán về đám đông mông muội cuối kỷ nguyên Song Ngư.

“Thiên thần, nếu sống trên trời là thần linh, nhưng nếu rơi xuống đất, biến thành quỷ. Thiên thần không tỏa ánh sáng nữa, và lửa của thiên thần biến thành núi lửa. Vô thức ở dưới, nổi lên trên sẽ biến thành ma quỷ, giống như ý thức rơi xuống dưới”. Khi Hamvas Béla viết câu này, tôi cho rằng ông muốn ám chỉ đến Satan. Satan vốn là thiên thần Lucifer, cái tên “Lucifer” có nghĩa là “thiên thần ánh sáng”. Sự nổi dậy của Lucifer khi ở Thiên Đường là một ý tưởng bất tuân của cá nhân muốn thoát khỏi sự áp đặt của toàn thế, là đại diện cho ý tưởng về ý chí tự do của chính con người. Lucifer bị đuổi khỏi Thiên Đường, trí tuệ bị ném vào địa ngục, bộ não bị đẩy xuống vị trí của dạ dày. Và trong suốt kỷ nguyên Song Ngư, Satan với trí tuệ đen tối từ địa ngục, chống lại Thượng Đế: “Bộ óc nổi loạn độc ác không khác gì cái ruột suy nghĩ. Cũng ma quái y như một cái cây rễ hướng lên trên và cành cắm xuống đất. Thiên thần bị tròng ách vào cổ cần phải biến thành quỷ sứ…”. Chúng ta, với nhạc Rock, ma túy, sự cuồng loạn, các hành vi biến thái và bạo lực… đang tôn thờ Satan, tôn thờ ánh sáng bị chìm trong bóng tối, tôn thờ sự nổi dậy của vô thức, của các lý tưởng về bình đẳng. Và đó là những gì chúng ta gọi là giải phóng của thế kỷ 19,20. Tất cả chúng ta “tan vào thành một linh hồn duy nhất trong đám đông”. Đây là những mô tả của Hamvas Béla về dám đông và vô thức tập thể: “Trong trạng thái tập thể, con người tin vào một cái gì đấy, mà bản thân nó không tin,chỉ tin một cách chung chung. Con người không là một thực thể cá nhân, nó đồn hóa nó với một cái gì đấy bằng quan điểm, bằng cảm xúc, bằng hành động, có thể đồng hóa với một vật gì đấy, hoặc có thể đồng hóa với người khác”. Nếu ai đã từng tìm hiểu về chiêm tinh sẽ nhận ra những đặc tính tiêu cực của Song Ngư ở trong đoạn mô tả này. Đó là Con người tập thể trong suốt hơn 2000 năm qua, con người của những niềm tin mù quáng (nếu có khác nhau, chỉ là các đối tượng của niềm tin).

Nguyên nhân khiến con người cứ dần tan vào đám đông đó là trạng thái “tâm lý Vi mô”. Tâm lý Vĩ mô được Hamvas Béla định nghĩa như một dạng “linh hồn hoàn toàn, mà sự nỗ lực,bản chất, mục đích, và bản năng của nó để ngày càng hoàn toàn hơn”. Còn tâm lý Vi mô là “linh hồn đứt đoạn, bản năng của nó khiến nó ngày càng bé nhỏ, thiếu hụt và trống rỗng dần. Sự hoàn hảo tinh thần của con người đó là “một linh hồn, trong đó có tất cả mọi cái cần cho nó, sự hoàn hảo, không thiếu hụt, về mọi mặt đầy đủ và hoàn chỉnh, nơi những giác quan, tri thức, tinh thần, trí tưởng tượng trực giác và tất cả những cái khác họp nhau hài hòa, tất nhiên đấy chỉ có thể là Thượng Đế”. Dù cho không thể hoàn hảo như Thượng đế, nhưng tâm lý vĩ mô ở con người dẫn dắt con người đến với Thượng Đế, và chỉ trên con đường ấy, linh hồn của chúng ta không bị xé vụn vào các đối tượng nhỏ hơn như đời sống vật chất và tôn thờ những thứ quái đản. Tâm lý Vi mô được tạo ra bởi con người không còn mong ước hoàn hảo nữa, mà hướng tinh thần mình tới những đối tượng thấp kém. Ở đây, Hamvas Béla đặc biệt nhấn mạnh đến thuyết Vật linh và tôn thờ vật tổ. Vật tổ có thể là huy hiệu, ký hiệu chung, huy chương… Thuyết vật linh có nghĩa là “con người mông muội gán linh hồn cho đồ vật, hiện tượng hay công cụ..”. Những đồ vật ấy không có linh hồn, mà chỉ là những mẩu linh hồn nhỏ bé rơi vào đồ vật, sự kiện. Và cả hai hiện tượng này đều khiến “ý thức cá nhân rơi vào sự mờ mịt, tính tập thể nổi trội lên và bao hàm”, khiến “sự vô thức hoàn toàn thay thế bản thân cái linh hồn bé nhỏ chìm trong tăm tối, và nhầm lẫn bản thân mình với các sự vật khác”.

Nếu ở đầu kỷ nguyên Song Ngư, con người chỉ bị rơi vào niềm tin tập thể thì vào những giai đoạn cuối, con người đi vào thời kỳ cặn bã bằng tôn thờ chủ nghĩa duy vật. Hamvas Béla không lập luận dựa trên khoa học thực nghiệm, nền tảng của ông là truyền thống cổ xưa của phương Tây lẫn phương Đông. Ông nhắc lại những nhận định về bản chất của vật chất do Franz Baader đưa ra, và những nhận định này lại trùng với truyền thống cổ xưa. “Vật chất xuất hiện từ hậu quả của những tàn tích đổ vỡ phân tán hỗn loạn của vũ trụ bởi những tai họa lớn trên thế giới. Ông nói, trong vũ trụ có một thiên thể duy nhất là Sirius Beta, một ngôi sao đã nguội và tắt, không ánh sáng, không nhiệt độ, một cơ thể bất động, từ đấy các nguyên tử tràn ra, chồng chất lên nhau yên nghỉ trong hỗn loạn, như trên một gò đống vĩ đại. Đấy là Sirius Beta, vật chất đầu tiên”. Và vật chất hoàn toàn khác với thiên nhiên. Thiên nhiên “là một phần khả năng tâm linh của tinh thần vũ trụ”, “tinh thần sáng tạo ra thế giới tập trung lại ở các tụ điểm như các thiên thể, Mặt Trời, các hành tinh và tất cả sự sáng tạo này trong từng phần và toàn bộ”. Một cách diễn giải thể hiện sự tương tác giữa vật chất và thiên nhiên rất thú vị, đó là: “vật chất là phân của thiên nhiên”. Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất cấu thành nên vạn vật, con người, thiên nhiên… không gì khác hơn là tổ hợp vật chất. Và thế là bắt đầu của dục vọng, của phá hủy, của sự quỳ gối trước giá trị vật chất. Chủ nghĩa duy vật và đám đông tôn thờ nó, cùng với những lập luận chua cay của Hamvas Béla, lại một lần nữa khiến tôi nghĩ đến bệnh dịch Zombie của điện ảnh Holywood, một đám đông cặn bã trong tột cùng mông muội.


Tranh Luis Royo

Những người theo chủ nghĩa duy tâm luôn đề cao ý tưởng. Plato cho rằng thế giới được kiến tạo bởi các ý tưởng, nhưng khi phản chiếu lên vật chất, thì thế giới không thể hoàn hảo như ý tưởng. Quyền lực của vật chất được gọi là “evestrum”. “Ý tưởng là một hình ảnh nâng lên còn evestrum thì lôi xuống và mạt sát. Ý tưởng thì thanh tẩy và sáng láng, còn evestrum tăm tối và bẩn thỉu. Người nào sống hướng về thế giới của các ý tưởng, người đó thanh lịch, tấn tới, ngày càng hài hòa, hiểu biết, sâu sắc và thông thái hơn. Ý tưởng là chất dinh dưỡng quan trọng nhất cho tâm lý Vĩ mô.” Và đó là chuyển dịch lớn trong những năm tháng này. Con người bắt đầu chuyển từ evestrum lên thế giới ý tưởng. Đó là ý nghĩa của chòm sao Bảo Bình. Chòm Bảo Bình là đại diện cho ý tưởng, khai sáng và tính cá nhân. Kỷ nguyên Bảo Bình, là kỷ nguyên của Con người cá nhân, trỗi dậy từ biển vô thức.

Sự trỗi dậy của Con người cá nhân

Hamvas Béla viết về những Con người cá nhân như một giống người mới, giống người thứ 6, “đơn độc, họ nổi lên như những thực thể khác thường, phi lý, những người không chỉ không thể hòa nhập với môi trường và thế giới của họ, mà những điều đó còn không có chút xúc tác nào cơ bản với họ”. Đây là một bí ẩn mang tính lịch sử, chưa ai có thể giải thích, và đám đông lại càng không thể hiểu. Với đám đông, giống người thứ 6 là một dạng dị biệt cần bị tiêu diệt, hay như Albert Camus sau này đã tự gọi bằng một thuật ngữ “người lạ”. (Không rõ Albert Camus thời ấy có đọc Hamvas Béla không, hay đúng như Hamvas Béla đã cảm nhận rằng “ý tưởng này nằm trong bầu khí quyển bí hiểm của Thượng Đế”). Đám đông luôn đánh hơi thấy những người thuộc giống loài này và tìm mọi cách tra tấn, hành hạ, tiêu diệt. Những người đầu tiên của giống loài này đã bị tống vào trại tâm thần, chìm đắm trong nghiện ngập, thậm chí là tự tử. Đám đông, evestrum càng xuống thấp, càng ép giống loài này đến tuyệt diệt. Nhưng họ không tuyệt diệt, bằng cách nào đó, họ đã nghe thấy nhau và biết rằng mình không đơn độc, và bắt đầu hình thành những cộng đồng. Cuộc giao tranh không còn bằng vũ khí nữa mà bằng những lựa chọn: hoặc gia nhập đám đông vô thức, hoặc trỗi dậy và vươn tới thế giới ý tưởng, vươn tới sự Vĩ mô của Thượng Đế, lựa chọn giữa bản năng thú vật và bản năng linh hồn. Đó là cuộc chiến trong giai đoạn chuyển giao, với những người đi đầu như Nieztches, Kierkegaad,.. rất nhiều những “người lạ” khác giống như Hamvas Béla.

Không ai có thể nói trước được các đặc tính của giống loài thứ 6, chỉ có thể biết rằng đó là những “Con người Cổ đại” đã vượt qua cơn đại hồng thủy của đám đông và vươn lên. Con người Cổ đại này là thực thể bất diệt đến từ Thượng Đế, là “thể thống nhất thiên nhiên – tinh thần – linh hồn, và những ý tưởng được chọn lựa, những đặc trưng phản chiếu từ các sức mạnh siêu nhiên điều khiển sự tồn tại của nó”. Ta chỉ có thể mường tự về giống người thứ 6 như thực thể vĩnh hằng này và hơn thế nữa.

Con người Cổ đại là bản chất sâu kín nhất của con người, và ở giống loài thứ 6, con người này được hé lộ. Trong chương “Wordsworth hay triết học xanh”, “Poseidon” và “Bản giao hưởng số VII của Beethoven và không gian siêu hình âm nhạc” là những chương đẹp nhất mô tả thực thể vĩnh hằng này. Hamvas Béla gọi thực thể vĩnh hằng, linh hồn đầu tiên, bằng cái tên: “Titan” – “chỉ MỘT. Sâu vô tận, đơn giản vô tận, câm lặng, tối sẫm, vô cùng bình thản và cô đơn tuyệt đối” và “thiên nhiên là thế giới cao nhất, thứ nó có thể được”. Thiên nhiên không nằm bên ngoài Titan, mà nằm ngay bên trong, hòa làm một, không phân chia giới tính, là phần vô hình. Và Hamvas Béla nói: “Thật ra trong cái vô hình, tất cả đều gắn bó với nhau”.

LINH HỒN ĐẦU TIÊN, Con người Cổ đại, thực thể vĩnh hằng, là “ngọn lửa đầu tiên, ngọn lửa màu xanh”. Hamvas Béla cho rằng, màu của Titan là màu xanh non, màu của sự sống trên mặt đất, màu không giới tính và cái màu có thể ăn mòn mọi thứ. Ông dẫn ra mối liên hệ của màu xanh non với Venus. Venus cổ đại không phải vị thần của nhan sắc, đó là vị thần của sinh sôi nảy nở sống trong rừng sâu. “Tử thư Tây Tạng” cũng khẳng định màu xanh non là “màu của bản năng quyền lực”, “nguyên vẹn, không thể phá vỡ nổi và đậm đặc, không hể dạy dỗ và không thể thuần phục”. Nhưng tại sao Hamvas Béla lại gọi dạng tồn tại vĩ đại này là Titan. Trong Thần thoại Hy Lạp, Titan là những vị thần cổ xưa nhất, khổng lồ, mạnh mẽ, bất tử, phi nhân tính, và bị các vị thần Olympia nhốt dưới đáy địa ngục Tarta. Với Hamvas Béla, đây là một ẩn dụ, ông cho rằng: “Tất cả chúng ta đều mang trong mình một gã khổng lồ bị xích, một titan rơi xuống và bị giam cầm trong vô thức. Bởi tất cả chúng ta đều giữ gìn trong bản thân mình bản năng quyền lực sơ khai không thể khuất phục”. Cũng giống như các vị Titan cổ xưa, những con người phát lộ LINH HỒN ĐẦU TIÊN đều “tuyệt vời và cao cả, cùng lúc cũng là thứ vô lương tâm. Vừa giống các vị thần vừa là quái vật. Hoàn toàn chỉ có sự cao cả, cái đẹp, sức mạnh và sự tàn ác”.

Khác với các linh hồn sau đó, LINH HỒN ĐẦU TIÊN không truy cầu trí tuệ hay tình yêu. Chỉ khi tương tác với thế giới bên ngoài, con người mới cần đến trí tuệ để nhận biết và tình yêu để hòa hợp. Vơi sự đơn độc tuyệt đối và tính duy nhất của mình, bản chất của Titan chỉ gắn với niềm hạnh phúc. Con người luôn tìm mọi cách để hạnh phúc nhưng đều không thể. Tiền bạc, địa vị, ái tình thậm chí là tàn sát cả thế giới, chúng ta chỉ có nụ cười đắc chí mà không có hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có được ở trạng thái của của LINH HỒN ĐẦU TIÊN, bản ngã nguyên thủy, không có giới hạn, độc nhất nhưng vẫn liên kết vô hình với vạn vật, bởi Titan ở trong Thiên nhiên và đồng thời cũng chứa đựng Thiên nhiên.

Bản năng quyền lực của Titan được thể hiện qua Poseidon – vị thần trị vì thành phố Atlantis, theo như tài liệu của Plato để lại. Không giống thần thoại Hy Lạp, cổ xưa hơn, Poseidon tồn tại như một vị thần rừng với cái tên Nere. Hamvas Béla cho rằng Poseidon đã thống trị thế giới trước Zeus, bởi dấu vết cổ xưa nhất: cây đinh ba. Cây đinh ba là biểu tượng của quyền lực có thể điều khiển được vạn vật, với ba mũi nhọn chĩa lên, tượng trưng cho Sáng Tạo – Duy Trì – Hủy Diệt. Hơn thế nữa, cây đinh ba giống như chiếc dương vật dựng đứng. Từ xa xưa, trước cả thời đạo Phật, có một văn bản phương Đông có tên là “Nền tảng của sự thật cao cả”, đã bắt đầu bằng những câu:

“Để tính cách cao cả của mi
chiến thắng
những kiêu căng ngạo mạn của các loài thực thể hoang dã
hãy đặt lên vai mi bộ lông thú dữ
và nắm lấy cây đinh ba
biểu tượng của mục đích cao cả”

Hamvas Béla đã nhắc đến rất nhiều trong tập tiểu luận những tượng trưng có từ chiêm tinh học. Sao Neptune, hành tinh mang đặc tính của Poseidon, được đánh dấu bằng cây đinh ba, và nó đại diện cho các ảo tưởng và cũng là lý tưởng. Poseidon là vị thần điên rồ, như những rừng cây mọc lên không giới hạn, như biển cả ào thét và sâu thẳm. Mặc dù Poseidon được mô tả như một kẻ dã man, hoang sơ, đẫm máu, nhưng Hamvas Béla lại thốt lên rằng: “Có hay không một kẻ đáng thương hại hơn, kẻ không biết kính trọng sự khùng điên, trò chơi, nỗi tức tối, cũng như tiếng cười giòn giã của một Poseidon lông lá xồm xoàm? Có kẻ nào đáng tội nghiệp hơn Trái đất, kẻ không biết đùa nghịch với nước, không biết lang thang vơ vẩn hàng nửa ngày trời trong rừng sâu, và hơi thở không tắc nghẹn lại giữa lồng ngực khi nghe tiếng xào xạc mơn man của vòm cây lá? Kẻ chưa bao giờ bắt gặp những lọn tóc nâu tím trong bóng râm của rừng cây và trên những phiến đá cạnh biển?” Một kẻ điên rồ đáng ngưỡng mộ như vậy lại sở hữu công cụ điều khiển thế gian. Chiếc đinh ba của Poseidon làm dậy sóng biển, tượng trưng cho sự kích động dòng máu trong con người, kích động phần bị đè nén trong bóng tối vô thức. Chiếc đinh ba khơi dậy những ảo giác (mà thực ra có thể không đơn thuần là ảo giác), đó là những nguyên mẫu cổ: thần tiên, ma quỷ, nhân mã, tiên biển…v…v… tất cả những phần của thiên nhiên ẩn giấu trong con người. “Poseidon tiêu diệt tất cả những gì mà trong đó con người tưởng mình đã cân bằng, làm suy sụp toàn bộ những gì trong đó con người tưởng mình đã đạt đến đích” và “Kẻ nào rất tự tin vào bản thân, kẻ đó sẽ bị Poseidon dúi xuống biển”. Trong đời sống cổ xưa của biển cả và rừng núi, cái đẹp không cần biết đến, Poseidon không có nhu cầu cái đẹp, chỉ có một sự kích động điên rồ lên thế giới. Cây đinh ba của Poseidon đã quấy động cái trật tự của cuộc sống con người đô thị, khiến con người nhớ rằng có một Titan trong mình, và vấn đề chỉ là Titan ấy có trỗi dậy hay không?

Trong chương “Tu viện đá Meteóra”, ông có nhắc đến những kẻ đơn độc trong tu viện cheo leo, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, nguyện cầu, chay tịnh, thực hiện mọi dạng phép thuật, chẳng qua cũng chỉ để sống sót. Những kẻ đơn độc này tránh xa đám đông, tránh xa sự xâm lấn của thiên nhiên, tránh xa cái chết. Họ sống mấy trăm năm, và Hamvas Béla ví họ như những thằng lùn xấu xí, nhảy múa vòng quanh chính mình. Cũng là sự cô độc, nhưng sự cô độc hèn nhát này khác hoàn toàn với cô độc của Titan. Thậm chí Titan không quan tâm đến sống và chết, Titan chỉ có sự mở rộng không giới hạn. Để nhận ra phẩm chất của Titan, chỉ có thể mường tượng về niềm hạnh phúc lớn lao khi Wordsworth cô độc đắm chìm giữa thiên nhiên, về quyền lực mạnh mẽ của Milarepa và sự điên rồ, vỡ òa trong âm nhạc Beethoven.

Khi LINH HỒN ĐẦU TIÊN – Titan bắt đầu trỗi dậy từ địa ngục Tarta, trỗi dậy khỏi đám đông và vươn lên không ngừng bằng sức mạnh vĩ đại, con người bắt đầu gia nhập vào giống người thứ 6 và bước đi trên hành trình phi nhân loại, bằng tâm lý vĩ mô với bản năng tìm kiếm Thượng Đế. Qúa trình đi trên con đường ấy, con người đang thực hiện phép thuật, hay một ngôn ngữ khác “thuật giả kim tinh thần” (cách gọi của Osho).



Yoga – phép thuật – LINH HỒN CUỐI CÙNG

“Mọi thành phần của thế gian đều có thể trở thành tôn giáo, điều cơ bản là hãy trở thành một tôn giáo đúng nghĩa: trong sạch, cao quý, sáng láng, thực chất và Thượng Đế”. Giống như mọi bậc chứng ngộ của cả phương Tây và phương Đông, Hamvas Béla nhận ra rằng phép thuật vĩ đại có ở mọi hành động mang tính sáng tạo và chuyển hóa. Thông qua phép thuật và yoga, chúng ta đang đi trên con đường tôn giáo của chính mình. Nhưng đừng hiểu phép thuật và yoga theo nghĩa thông thường.

Trước hết, ta phải hiểu về tâm linh, bởi Hamvas Béla không đơn thuần chỉ là nhà duy tâm, ông là một nhà triết học tâm linh. Hamvas Béla định nghĩa: “Còn có một cái gì nhìn ra được của cái khác, sâu sắc hơn, bản chất hơn, bí ẩn hơn, một trải nghiệm, một cảm nhận, một sự thể hiện ra ngoài. Tâm linh từ một mặt khác nhận ra, trải qua và thấu hiểu được cái không nhìn thấy. Mặt không nhìn thấy, mặt vô hình này người ta gọi là tri thức. Bởi tri thức nằm bên trong, dấu kín trong sự vật, ẩn sâu trong hiện tượng. Con mắt tâm linh nhìn thấy tri thức của hiện thực, nhìn thấy ý nghĩa của hiện tượng, nhìn thấy, đằng sau vật chất là tinh thần, đằng sau thể xác là linh hồn. Nhưng cái nhìn tâm linh có thể nhận ra từ cái khác nữa. Bởi tâm linh không chỉ là nhận ra mà còn là tri thức… Con mắt có khả năng tâm linh nhìn thấy một lúc toàn thể thế giới, thống nhất và trong MỘT, ở nơi tất cả là MỘT. Như vậy nếu ai hỏi tâm linh( misztika) là gì, cần phải trả lời: là khả năng nhìn thấy, trải qua và hiểu được vào sâu thẳm, ẩn dấu đằng sau sự đa dạng vô tận của thế giới, đấy là cái DUY NHẤT MỘT của số nhiều.” Đây là định nghĩa đúng đắn nhất về tâm linh. Tâm linh không phải là cái mơ hồ ẩn giấu được mã hóa bằng các ảo giác. Đó chỉ là những mảnh vụn của tâm linh. Nói ngắn gọn, ta có thể hiểu, tâm linh là tri thức về vũ trụ toàn thể.

Phép thuật chỉ có thể được thực hiện khi có sự hiểu biết của tâm linh, nhưng phép thuật không chỉ là tri thức, phép thuật là hành động tác động lên sự vật. Và bởi thế, mọi sự vật bị biến đổi, đều là dấu vết của phép thuật. Leonard di Vinci khi tạo ra những cỗ máy từ vật chất, ông đang thực hiện phép thuật theo dạng của mình. Thượng Đế thực hiện phép thuật qua việc sáng tạo và thiết lập vũ trụ theo một trật tự ẩn vừa hài hòa vừa hỗn độn.

Có một phần của Titan cũng rất thú vị, đó là Sirene. Sirene, trong truyền thuyết là những nàng tiên biển, sử dụng giọng hát của mình để mê hoặc thủy thủ. Sirene là một dạng nữ tính của Titan. Quyền lực của Titan nằm ở sức mạnh, quyền lực của Sirene nằm ở sự quyến rũ. Titan và Sirene có thể được coi như 2 nguyên mẫu cổ, đại diện cho đàn ông và đàn bà. “Sự quyến rũ là sức mạnh của đàn bà, cũng như sức mạnh là sự quyến rũ của đàn ông”. Nhưng tất cả sự bản nguyên này đều khiến con người vượt quá giới hạn, vì dù là Sirene hay Titan, thì các thực thể này không biết đến sự dừng lại. Câu chuyện của Lucifer là câu chuyện của Titan muốn vượt qua giới hạn của mình. Milarepa đã vượt qua giới hạn bằng sự trả thù, Beethoven khi chạm tới giới hạn phải trả giá bằng hành động điên rồ: chọc thủng đôi tai của mình.

Trong chiêm tinh học, có một hành tinh chỉ sự giới hạn, đó là sao Thổ – Saturn. Saturn có biểu tượng như cái ách. Điều này giống với cách hiểu của Hamvas Béla về yoga. Yoga là con đường khổ tu, là sự cầm cương bản năng mãnh liệt của Titan. Khi Beethoven chọc thủng màng nhĩ của mình, đắm chìm trong thế giới âm thanh nội tại, ông đang thực hiện yoga của chính mình. Nhưng phẩm chất của Yoga thể hiện rõ nhất qua con đường khổ tu của Milarepa.

Milarepa là một bậc thầy phép thuật hắc ám, bản chất Titan đầy ứ trong ông và thôi thúc ông tàn sát. Nhưng khi bước vào con đường tu hành đích thực, bậc thầy Marpa – Đấng chuyển hóa vĩ đại, đã bắt ông hết ngày này sang ngày khác, xây nhà rồi lại gỡ từng phiến đá bê về vị trí cũ của nó. Milarepa sau đó vào hang núi sâu sống một mình giữa băng giá và chỉ có ăn tầm gai để sống. Milarepa không giống những tên lùn trên núi cao trốn chạy cái chết, bằng sự khổ hạnh, ông đối mặt với cái chết. Trong những ngày tháng đó, bản chất Titan của ông trỗi dậy với quyền lực và sức mạnh, ông có thể hoàn toàn tạo ra lửa trong cơ thể để sưởi ấm. Nhưng như thế là sử dụng phép thuật hắc ám, phép thuật vụ lợi. Bởi thế, ông đã không sử dụng phép thuật, ông chấp nhận chịu đựng trong sự khổ hạnh, chấp nhận cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Và trong yoga khổ hạnh, ông đã được giải thoát, thinh nhẹ và bay lượn. Ngay cả khi biết mình sẽ bị đầu độc, ông vẫn chấp nhận mình bị đầu độc. Yoga vĩ đại là yoga khổ hạnh, nhưng có thể chuyển hóa được tinh thần.

Sự khổ hạnh chỉ là cái vẻ bề ngoài, bản chất đích thực của Yoga, nói như Hamvas Béla, là “sự phá sản”. Kẻ cuồng tín sẽ tức điên khi ông so sánh yoga với tục Hannibal – những kẻ ăn thịt người, giữa việc bị đóng đinh trên cây thập giá với nghi lễ đẫm máu của thổ dân da đỏ. Tục Hannibal hay nghi lễ dùng roi quất lên nhau cho tứa máu, tất cả đều tượng trưng cho sự hành hạ, hủy hoại thể xác. Đức Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá cũng vậy, ông chấp nhận điều này không trốn chạy, mặc kệ cả lời dụ dỗ của quỷ dữ. Đó là sự chấp nhận cái chết hoàn toàn. Yoga là một sự tự hành hạ bên trong, những đòn roi và móng vuốt của quỷ dữ cào cấu chỉ ở sâu thẳm bên trong, và sự bình thản cũng diễn ra bên trong. Một trong các bài tập ở tu viện Tây Tạng, đó là vị Đại Lạt Ma đọc những câu thần chú triệu hồi quỷ dữ, bao trùm lên tâm trí của đệ tử. Và cuộc chiến bên trong bắt đầu, nơi con người nhận ra “sự phá sản” chính là tha thứ lớn nhất của Thượng Đế, của đấng GIỚI HẠN: “Sự phá sản là việc bước qua giới hạn, là sự chết đi có ý thức. Con người lãnh cái chết vào bản thân bằng sự tỉnh táo toàn diện của ý thức. Không ngất lịm, không suy sụp, không trốn chạy, không thu mình lại và không gào thét. Ý thức hoàn toàn tỉnh táo, như một tấm gương, không hề run rẩy khi con người bước qua. Đấy là sự phá sản.”

Cũng trong chương “Milarepa”, Hamvas Béla khẳng định phép thuật tối cao nhất: Tình yêu thương. Tình yêu thương là sự vô bờ bến, nó không đối nghịch với phẩm chất Titan, nó là dạng tiến hóa cao nhất, khi con người đạt đến giới hạn và tan biến, nghĩa chết hoàn toàn, hiến dâng toàn bộ cho Thượng Đế, cho tồn tại. Trong cái chết này, chúng ta đạt đến LINH HỒN CUỐI CÙNG – Linh hồn Thượng Đế. Đó là ý nghĩa khi Đức Phật nhập vào Niết Bàn – cõi vĩnh hằng, khi Jesus nói rằng “Ta cũng hoàn hảo như cha ta ở trên trời”. Họ đều trải qua cái chết thiêng liêng. Tình yêu thương là cái chết thiêng liêng, nơi cái Tôi hoàn toàn biến mất, Titan hòa lẫn vào toàn thể. Đừng nhầm cái Toàn thể vĩ đại này với những mảnh vụn rời rạc, cặn bã, rác rưởi của đám đông. Đám đông không phải toàn thể, mà chỉ là một phần. Và bằng tình yêu thương, con người mới có thể vượt lên trên đám đông mà không thù hằn hay tàn sát, chịu đựng mọi đòn roi của số phận để có thể nói “Có” với Toàn thể.

Thượng Đế đau khổ và Con đường thiêng liêng

“Chúng ta không mang lại quyền lực tốt đẹp lành mạnh cho các hành tinh khác như sao Một, mang sự xung đột như sao Hỏa, sự thống nhất như sao Vệ Nữ. Cái chúng ta mang cho các hành tinh: Thượng Đế đau khổ. Đấy là ý nghĩa tượng trưng của chúng ta. Từ đằng xa họ gọi tên chúng ta như thế, và tên của chúng ta có lẽ chỉ những kẻ nhập định có quyền xướn lên, để sự thần bí nói về những bí ẩn của một đời sống, thứ đời sống chúng ta trải nghiệm”

Sự đau khổ, dường như là món quà của Thượng Đế dành cho con người chúng ta. Trải nghiệm đau khổ này, chính là việc trải nghiệm đòn roi của đám phù thủy trong nghi lễ của người da đỏ, là chịu đựng sự cắn xé của những kẻ Hannibal, là trải qua những móng vuốt của quỷ dữ ở sâu thẳm bên trong, “như Heraclite nói rằng Vũ trụ bảo vệ chúng ta bằng roi vọt”. Trong sự hành hạ ấy, chúng ta thức tỉnh, chúng ta nhìn thấy được ngay cả Địa Ngục cũng thiêng liêng, và chúng ta đang bước trên con đường của Thượng Đế, đang khai sinh ra LINH HỒN CUỐI CÙNG.

“Đời là bể khổ”, Đức Phật đã nói vậy, nhưng “Quay đầu là bờ”, không có ý nghĩa như một sự đầu hàng, “quay đầu” là sự quay lại bên trong, quay lại với điều thiêng liêng và cao cả, thay vì đồng nhất mình trong bể khổ và chết chìm trong đó. Ở cõi thế gian, các chính trị gia, các nhà sáng chế, các học giả… tất cả quay cuồng trong bể khổ, tìm mọi cách để chống lại điều này, và tự cho mình là bậc cứu thế vĩ đại. Phần Titan ngớ ngẩn trong họ muốn dắt con người vượt qua giới hạn và trốn chạy đau khổ. Trong tất cả những con người của thế gian hiện nay, với Hamvas Béla, chỉ có thi sĩ còn đảm nhiệm vai trò thiêng liêng này: nhắc nhở con người về sự cao cả. (Thi sĩ thiêng liêng không giới hạn ở người làm thơ, nói rộng hơn, đó là nghệ thuật câu từ)

Hamvas Béla nói về sự thoái lui của các nhân vật vĩ đại. Họ thoái lui, bởi đám đông lên ngôi. Đám đông không còn đi theo sự dẫn dắt của thần tượng, đám đông bắt đầu trèo lên cao hơn. Đám đông tự cho rằng những mảnh vụn cặn bã có thể học để trở thành tu sĩ, trở thành lãnh tụ, trở thành vua chúa, thậm chí học để trở thành thi sĩ thiêng liêng. Tất cả những điều thiêng liêng, không thể học một cách hữu hình bằng các kỹ năng. Những người vĩ đại đều thoái lui, các ngôi đền đều bị đốt cháy bởi trí não vô thần của đám đông (dường như đám đông không chỉ có chung một linh hồn, mà còn có chung một bộ não), chỉ còn Thi sĩ là ở lại và rêu rao với nhân loại về sự thiêng liêng, về điều vĩnh hằng một cách đầy cảm hứng. Bởi là kẻ cuối cùng còn sót lại, nên thi sĩ gánh lên mình tất cả trách nhiệm của những nhân vật đã thoái lui: “Từ giây phút trong cái vòng tròn thiêng liêng ấy chỉ còn duy nhất THI SĨ sót lại, bắt buộc đảm nhận quyền lực của vua chúa, đảm nhận phẩm chất của giới quý tộc, thói quen nghi lễ của linh mục, bản năng chiến đấu của người quân nhân, tri thức về sự thật của quan tòa, nỗi say mê ngây ngất của nghệ sĩ, của nhà bác học – từ giây phút ấy nhà thơ vượt hẳn tầm vóc của nhà thơ”. Trước đó, người ta quan niệm thơ ca chỉ là sự diễn đạt hay thể hiện một điều gì đó, rồi kết luận “nhà thơ là kẻ từng trải và là kẻ đi chắt lọc”, hay “thi ca là một nhân tố văn hóa, giống như luật, tôn giáo, nghệ thuật và tư duy”, và “thơ ca là một thăng hoa thụ động của sự diễn đạt, kết quả phẩm chất tâm lý, sự trải nghiệm, sự chắt lọc, của nhân tốt tạo ra văn hóa”. Nhưng đúng như Hamvas Béla nhận định về những kẻ lý luận dốt nát về thơ ca, của “đám đông cố hiểu nhà thơ” và sự ghen tị cố kéo nhà thơ xuống ngang tầm với mình, thậm chí coi những nhà thơ chẳng bận tâm đến việc kiếm sống là những kẻ điên rồ ngớ ngẩn.

Từ cuối thế kỷ 19, ở Châu Âu, giới học giả đã có những nhóm người tách khỏi đám đông, và họ bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của thơ ca. Nhóm Stefan George cho rằng nhiệm vụ của nhà thơ là “Phục vụ và thống trị”, phục vụ Thượng Đế và thống trị cái đẹp, tất cả là để bảo vệ “Vương quốc vĩnh cửu” – trung tâm sự sống của con người. Trước đó, Goethe, Schiller, Holderlin đều đã nắm giữ vị trí này với các cương vị khác nhau. Đến Baudelaire, nhà thơ không chỉ gánh vác từng ấy trách nhiệm, mà còn có một trách nhiệm nữa, mà còn là sự “giữ gìn hình ảnh tượng trưng xứng đáng với con người, hình ảnh này đang bị bỏ rơi và biến mất”. Nhưng quan hệ của nhà thơ và đám đông dân chúng thật chẳng dễ dàng gì. Một sự xung đột mang tính quy luật, evestrum sẽ tìm mọi cách để lôi tuột những con người thiêng liêng rơi xuống đáy cùng với nó. Đám đông luôn tiêu diệt nhà thơ bằng mọi cách: sỉ nhục, bôi nhọ, giam hãm… Và nhà thơ bắt buộc phải bảo vệ mình bằng sự bí ẩn tới mức không thể hiểu được. Buồn cuời ở chỗ là, sự ẩn mình của nhà thơ, cái áo giáp của hiệp sĩ linh thiêng lại trở thành con đường cách tân hình thức của những kẻ học đòi. Vấn đề ở chỗ, mọi sự tấn công của đám đông lại chính là đòn roi của thế giới khổ đau, lĩnh nhận chúng và hiến tế mình cho điều thiêng liêng, thơ ca qua đó mà tuôn chảy, LINH HỒN CUỐI CÙNG cũng qua đó mà hiển lộ. Và đây là nhiệm vụ của nhà thơ linh thiêng: “Phục vụ quyền lực chưa đủ, cần phải nắm giữ lấy những quyền lực đó. Chưa đủ chỉ sống từng trải trong thế giới, cần phải tạo ra thế giới nữa. Sự sống thiêng liêng dành cho con nười không chỉ mở mà luôn cần phải mở tiếp. Và cái tôi phải trả giá cho nó không ít, chính là bản thân tôi: tôi cần phải hiến dâng. Nhưng chỉ hiến dâng tôi không đủ, sự hi sinh cũng vẫn ít: bằng sức mạnh của ngôn từ tôi cần mở rộng sự siêu phàm.”

Nhóm George đã nhận ra rằng, “số phận của nhà thơ chính là nhóm”, đó là sự tạo dựng cộng đồng. Hiểu theo một nghĩa rộng hơn, những người thuộc giống loài thứ 6 phải cố kết thành một cộng đồng. Ở những thế kỷ trước, khi các cá nhân này xuất hiện đơn lẻ, họ đã bị tiêu diệt. Nguyên tắc căn bản của Cộng đồng này, chính là Tình bạn. Hamvas Béla đã dành hẳn một chương để nói về điều này.

Trong chiêm tinh học, có hẳn một khu vực của Tình bạn, nhà số 11, sánh ngang với Tình yêu, Sự nghiệp, Sở hữu, Sự hiến dâng, Sự chuyển hóa… Nhà số 11 được quản trị bởi chòm sao Bảo Bình, chòm sao của ý tưởng và sự khai sáng. Trong thần thoại Hi Lạp, một nữ thần ít được nhắc đến, nữ thần Phillia, nữ thần tình bạn, chịu trách nhiệm về sự cố kết cộng đồng. Đừng nhầm lẫn tình bạn với một sự tụ tập, cũng không phải tình yêu, không phải thiết chế, không phải đồng môn, không phải đồng bọn, cũng không phải đồng bào. Trong nhiều thế kỷ, tình bạn bị lãng quên, thậm chí bị cho rằng là sản phẩm của nhân tạo. Nhưng nếu nhìn lại những truyền thống cổ xưa của đàn ông (theo như Hamvas Béla dẫn), đó là tổ chức các chiến binh, các hiệp sĩ thánh chiến, các hội ái hữu… Tình bạn có trong đó và là cột trụ gìn giữ mọi cộng đồng ấy.

Ta có thể mô tả thế nào về tình bạn, Hamvas Béla đã đưa ra định nghĩa: “Có một quan hệ khó hiểu giữa tình bạn và các vì tinh tú. Tại sao ngôi sao lại là một người bạn? Tại sao người bạn lại là một ngôi sao? Bởi vì sao rất xa mà vẫn cứ lấp lánh sáng trong ta. Bời vì bạn là của ta mà vẫn không thể với tới? Bời vì không gian ta gặp gỡ nhau không thuộc về con người, mà thuộc về vũ trụ? Bởi bạn không đòi hỏi từ ta cũng như ta không đòi hỏi từ bạn bất cứ cái gì? Chỉ duy nhất một điều bạn hãy cứ là bạn, như ta hãy cứ là ta, và điều này đối với cả hai ta đều quá đầy đủ”. Còn gì đẹp đẽ hơn thế! Một cộng đồng trong đó chúng ta vẫn là chính mình và an toàn để thể hiện tất cả, từ LINH HỒN ĐẦU TIÊN hoang dã cho đến LINH HỒN CUỐI CÙNG thiêng liêng.



Điều này hoàn toàn trái ngược với Tình yêu nam nữ. Ngay sau chương Tình bạn, Hamvas Béla luận về tình yêu thông qua những bức thư còn sót lại từ thời Trung Cổ của Heloise và Abélard. Nếu ở trong Cộng đồng với tình bạn, bản chất vẫn bị giữ, thì trong mối quan hệ tình yêu nam nữ, hai linh hồn không đối xứng như người ta lầm tưởng, hai linh hồn hòa làm một.

Hamvas Béla phải thú nhận sự khó hiểu của đàn bà. Ông không chấp nhận cách định nghĩa về đàn bà trước đó. Đàn bà không chỉ là Eva (người vợ), Lilith (nữ quỷ đẫm máu) hay Sophia (trinh nữ). Một nguyên mẫu cổ xưa hơn thế: Sirene. Hãy mường tượng những mô tả về loài tiên biển: quyến rũ nhưng độc ác, đẹp đẽ nhưng đưa đàn ông tới cõi chết. “Chính vì vậy, đàn bà có thể trở nên hết sức tinh tế cũng như hết sức thô tục, có thể trở nên hết sức cao quý những cũng có thể hết sức trụy lạc”. Hành động cởi áo và tắm của đàn bà trước đêm tân hôn, không chỉ đơn thuần là gợi dục, đó là một nghi lễ mang tính tôn giáo, khi đàn bà cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài, để khơi dậy Sirene ở bên trong mình. Bằng việc để Titan và Sirene hòa làm một, tình dục được chuyển hóa thành tình yêu. Tình yêu, Hamvas Béla nhận thức rằng, đó là sự hòa lẫn của LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ với LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ.

Tôi chợt nhớ đến câu thần chú Namasté trong các nghi thức Tantra. Tantra là thông qua giao phối tình dục, đôi nam nữ đánh thức phần Thượng Đế bên trong mình và hòa làm một. Namasté có nghĩa là:

“Linh hồn của ta tôn vinh linh hồn của người

Ta tôn vinh khoảng không bên trong người, nơi toàn bộ vũ trụ trú ngự trong đó

Ta tôn vinh tình yêu, ánh sáng, sự thật, sự bình an ở bên trong người bởi vì điều đó cũng ở bên trong ta

Bằng việc chia sẻ điều này, chúng ta hợp nhất, chúng ta giống nhau, chúng ta là một”

Bởi thế, hôn nhân đến từ tình yêu đích thực, giống như Heloise và Abélard, chính là con đường đến với Thượng Đế, cũng giống như yoga, thơ ca, âm nhạc. Nhưng điều này có lẽ quá hiếm hoi. Vì nàng Sophia có thể đã bay lên Thiên Đường, và Adam chỉ nhận được cái phần xác thịt, đó chính là Eva. Và bởi thế, đời vẫn là đau khổ, giống như tất cả các tôn giáo, các triết gia, nhà thơ đã nhắc đi nhắc lại.

Chương cuối “Ngày lễ và Cộng đồng” có lẽ là lời lý giải hoàn hảo cho toàn bộ những gì mà Hamvas Béla đang làm trong tập tiểu luận này, và cả những tác phẩm khác của ông. Trong đó, ông kể về 4 nhà thông thái lên Thiên Đường: một người đã chết ngay trước cổng Thiên Đường, một người hóa điên, một người “tự khóa trái ấn tượng này cho bản thân”, chỉ có người thứ tư là rời bỏ Thiên Đường và quay trở về với cộng đồng của mình. (Cộng đồng ở đây có nghĩa rộng hơn so với Cộng đồng nhóm được nhắc ở trên). Trải nghiệm Thiên Đường là trải nghiệm hạnh phúc, đứng trước hạnh phúc có nhiều người không thể chịu nổi. Hạnh phúc là đặc ân chỉ của Titan, những người nào sống đúng với phẩm chất Titan của mình thì mới thẩm thấu được hạnh phúc. Nhưng Titan là kẻ ích kỷ, người thứ ba tự trốn trong hạnh phúc của chính mình và mãi ở dạng LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Chỉ có người thứ tư, hiểu rằng cần phải hiến dâng, và người đó ra đi, để mang ánh sáng Thiên đường đến với cộng đồng của ông ta. Nhưng vấn đề ở chỗ, đôi khi áp đặt hạnh phúc của mình lên Cộng đồng lại chính là một dạng bạo lực kiểu Titan. Hiến dâng cho Cộng đồng thật không đơn giản, không giống như tất cả các lãnh tụ tôn giáo, các chính trị gia và triết gia rao giảng lý tưởng về hạnh phúc… Làm thế nào để đánh thức một Cộng đồng đang bị vô thức chiếm lĩnh mà không cần đến sự lừa mị hay cưỡng chế. Chỉ có là Tình yêu thương, nhưng điều đó không cố để có được. Tình yêu thương chỉ có trong LINH HỒN CUỐI CÙNG và chỉ LINH HỒN CUỐI CÙNG mới có tình yêu thương đích thực.

Điểm đặc biệt ở phần này nằm ở định nghĩa về “Cộng đồng” của Hamvas Béla. Ông không cho rằng một cộng đồng người đáng được gọi là “Cộng đồng”: “Cộng đồng duy nhất – độc nhất chỉ tồn tại trong một sự sống mà sự hiến dâng mở ra dành cho con người: cao hơn sự sống người. Sự sống chung của tất cả mỗi con người không nằm trong vật chất, trong tinh thần, trong tôn giáo hay đạo đức, mà nằm trong Thượng Đế. Nếu con người gặp nhau trong vật chất, trong đạo đức, trong chủng loài, trong tinh thần thì ngôn ngữ, vật chất, nhà nước, tinh thần sẽ tan rã, cộng đồng sẽ chất dứt. Sự tan hòa sau rốt chỉ có thể trong sự sống của Thượng Đế. Đấy mới là một cộng đồng chân chính. Duy nhất. Đấy là: cộng đồng”. Với cách hiểu này, ta có thể thấy rằng bất cứ sinh linh nào sống với nhau trong tính toàn thể của Thượng Đế, nơi đó cộng đồng được tạo dựng. Bởi thế, khi giống người thứ 6 xuất hiện, Cộng đồng đích thực bắt đầu được tạo dựng. Ở đó, tính Thượng Đế được thể hiện qua mọi hành động của ngày thường nhật, và ngày lễ là ngày của hiến dâng. “Ngày lễ là cộng đồng của tất cả con người trong sự sống Thượng Đế nơi con người chỉ có thể đạt tới bằng hiến dâng cái tôi của nó.” Điều này tương đồng với kinh Veda, khi các bậc chứng ngộ cổ xưa viết: “Cả vũ trụ này là một cuộc hiến tế lớn”.

Đi đâu để tìm Cộng đồng này? Trong khi những gì chúng ta nhìn thấy trên thế giới này chỉ là những cộng đồng giả vờ, là sự tập hợp của những cái Tôi bạo lực (Bạo lực có thể đến bằng nhiều cách, không chỉ có chém giết). Đó là ý nghĩa của Khải huyền. Cộng đồng đích thực chỉ có từ những LINH HỒN CUỐI CÙNG ở THỜI GIAN CUỐI CÙNG. Và có lẽ, chúng ta chẳng cần thiết phải sợ hãi ngày tận thế đến vậy.



“Câu chuyện vô hình & Đảo”của Hamvas Béla (Dịch giả: Nguyễn Hồng Nhung), do Nhà xuất bản Tri Thức phát hành vào năm 2012.