Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

SÁU MƯƠI TUỔI EM SẼ Ở ĐÂU?





Em hỏi tôi : sáu mươi tuổi anh sẽ đi đâu?
Tôi mĩm cười : Anh sẽ đến nơi em không thể đến
Em ngơ ngẩn nhìn bầu trời tư lự

Như hỏi tôi như hỏi chính mình :

- sáu mươi tuổi em sẽ ở đâu?

Tôi bật cười:

- Sáu mươi em sẽ ở trong lòng đất lạnh!

Em quắc mắt nhìn tôi giận dữ
Mắng tôi sao ác độc quá chừng
Tôi mĩm cười bảo em  ngốc ngếch
 Em sáu mươi  tôi đã chết rồi ...



Sống để mà tin






nắng vội vàng
mưa vội vã
đêm đang trôi
ngày sắp hết một ngày

môi vừa chạm vào vai
chưa kịp nói đã chia tay và đã
đêm quay về một mầm xanh nõn lá
lại xanh tươi trong con mắt tôi nhìn

em như một đức tin
chân trời còn xa lắm
nhưng tôi tin một cánh buồm đỏ thắm
lại quay về

đến lúc này tôi lại dẫn em đi
cánh cửa mở dịu dàng như tiếng nói
cánh của khép không còn lên tiếng gọi
tôi đang yêu từng phút đến từng giây

yêu trong từng khoảnh khắc
hương đang ảo cũng là em thầm nhắc
sống để mà tin
tin ngày tháng bình yên

dài thật dài như những nụ hôn
không bao giờ kết thúc…

Nguồn: http://tuoitre.vn/Ao-trang/530773/song-de-ma-tin.html




Lời bình của BÙI KIM ANH



Người ta sống để làm gì? Có bao câu trả lời khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau. Sai – đúng dễ nhận thấy nhưng nhiều khi cũng nảy sinh tranh cãi. Lê Minh Quốc thể hiện quan niệm ấy trong bài thơ của mình Sống để mà tin. Vạn vật trong cuộc đời này đều vận động, đổi thay theo quy luật của riêng mình như nắng - mưa, như đêm - ngày… đều vội vàng, vội vã, đều trôi, đều hết nhanh đến nỗi nếu ta chưa kịp nói đã chia tay, đã quay về.
Có một câu chuyện Cánh buồm đỏ thắm lãng mạn dành cho tuổi mới lớn của nhà văn Nga. Ở đó có một người con gái chờ đợi với một niềm tin tuyệt vời về tình yêu. Và có một Lê Minh Quốc cảm nhận
em như một đức tin
chân trời còn xa lắm
nhưng tôi tin một cánh buồm đỏ thắm
lại quay về. 

Câu chuyện tình yêu, bài thơ tình yêu, đâu phải dừng ở tình yêu mà đó chính là niềm tin trong cuộc sống. Người ta khi mất niềm tin lẽ nào còn có cảm hứng để yêu, để làm việc, để phấn đấu, để duy trì sự sống kể cả để ăn mà sống. Khi có niềm tin, giữ vững niềm tin con người có đủ nghị lực, ý chí, sức mạnh vượt qua mọi trở ngại, mọi nghiệt ngã trong đời. Những cái gì tốt đẹp sẽ quay về
Có một cánh cửa mở - có một cánh cửa khép.
Có một dịu dàng như tiếng nói - có một không còn lên tiếng gọi
và có một
tôi đang yêu từng phút đến từng giây
yêu trong từng khoảnh khắc

Tình thơ trôi theo cảm xúc. Tình yêu tha thiết chiếm hết thời gian, lấp kín không gian. Tình yêu mê đắm đến độ hương đang ảo cũng là em thầm nhắc. Có một tình yêu như vậy bởi lẽ như nhà thơ bộc lộ Sống để mà tin

Mỗi chúng ta trong đời của mỗi riêng mình đâu phải hoàn toàn suôn sẻ. Tình yêu đến - tình yêu đi, hạnh phúc đến - hạnh phúc đi, may mắn đến và bất hạnh đến…đôi khi thấy mất thăng bằng, thấy hụt hẫng thậm chí mất niềm tin. Từ niềm tin một cánh buồm đỏ thắm, nhà thơ nói tới niềm tin lớn lao

tin ngày tháng bình yên
dài thật dài như những nụ hôn
không bao giờ kết thúc



Bài thơ để lại một dư âm đẹp đã dài thật dài lại còn tiếp nối lời khẳng định không bao giò kết thúc. Mỗi chúng ta âu cũng phải giữ mãi trong mình niềm tin, luôn tâm niệm sống để mà tin, mà yêu giữa cuộc đời này

Nguồn: http://buikimanh.vn/ve-toi/phe-binh/bai-tho/binh-bai-tho-song-de-ma-tin-cua-le-minh-quoc

Tiếp cận bản chất trò chơi của văn học (Những gợi mở từ công trình Homo Ludens của Johan Huizinga)










“This is Play” [Chơi] – đó là chủ đề của tạp chí New Literary History số 1 -2009. Một lần nữa, sự chơi/trò chơi (play/game) lại khơi dậy những tranh luận trong giới học thuật, cho thấy đây là một chủ đề được quan tâm bậc nhất trong nghiên cứu văn hóa-văn học từ thế kỷ XX. Quan sát diễn ngôn khoa học nhân văn trong thế kỷ XX, có thể nhận thấy trò chơi đã trở thành một từ khóa, một khái niệm công cụ để tư duy lại hàng loạt những vấn đề hiện sinh cốt lõi: thế giới, con người, bản sắc, ngôn ngữ, ý nghĩa… Trò chơi hiện diện như một phạm trù then chốt trong thông diễn học của Hans Georg- Gadamer, thuyết giải cấu trúc của Jacques Derrida, hệ thống triết học của Ludwig Wittgenstein và Jean –Francois Lyotard. Nó liên đới với hàng loạt khái niệm quan trọng của nhiều học giả hàng đầu như phạm trù “carnival” của Mikhail Bakhtin, khái niệm “readerly/writerly text” [văn bản khả độc/khả tác] và “myth” [huyền thoại] của Roland Barthes, khái niệm “performative” [tính biểu hành] trong lý thuyết về phái tính của Judith Butler, khái niệm “simulacra” [bản thế vì] của Jean Baudrillard… Trò chơi không chỉ có giá trị như một ẩn dụ hiệu nghiệm để con người nhận thức được nhiều mặt của đời sống, nó còn là phương thức để con người kiến tạo nên những giá trị của đời sống và chính bản thân mình.

Trong số các công trình nghiên cứu về trò chơi, Homo Ludens [Người chơi] của Johan Huizinga (1872-1945), nhà sử học/nghiên cứu văn hóa người Hà Lan, được coi là tác phẩm đặt nền tảng. Kể từ khi công bố lần đầu tiên (1938), cuốn sách đã nhận được nhiều sự đối thoại, phản biện cũng như gợi mở những hướng phát triển vấn đề mới. Nó hầu như luôn được nhắc đến trong các tranh luận, công trình nghiên cứu về trò chơi. Bản thân việc được nhắc lại rất nhiều này đã cho thấy khả năng kích thích tư duy rất lớn bởi cách đặt vấn đề của Johan Huizinga trong công trình.

Homo Ludens không phải là một chuyên luận văn học, đúng hơn, nó là một công trình nhân học-sử học nghiên cứu tầm quan trọng của sự chơi, trò chơi trong nền văn minh của nhân loại song những phát hiện, nhận định, kiến giải của Johan Huizinga đã gợi mở nhiều suy nghĩ về bản chất trò chơi của văn học – một phương diện vẫn còn ít được chú ý tìm hiểu. Bài viết này của chúng tôi không hẳn là một sự tổng thuật cuốn sách của Huizinga – một công việc thực ra đã được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. Chúng tôi xác định một mục tiêu khác: trên cơ sở tóm lược một số nhận định của Huizinga mà thiết nghĩ, chúng soi rọi rõ nét hơn cả những đặc trưng của văn học, chúng tôi muốn phát triển những vấn đề mà tác giảHomo Ludens đã đặt ra gắn với những chủ điểm được các lý thuyết đương đại quan tâm.

Quan niệm về trò chơi của Huizinga – Một cái nhìn hệ thống

Luận điểm có tính chất nền móng cho công trình Homo Ludens là: “nền văn minh nhân loại đã hình thành trong sự chơi, như là sự chơi và chưa bao giờ rời bỏ nó.” (Johan Huizinga: 173). Với luận điểm này, Johan Huizinga không phải là người đầu tiên đưa ra quan niệm cõi nhân gian là một thế giới trò chơi, cũng không phải là người đầu tiên phát hiện tầm quan trọng của trò chơi đối với đời sống con người. Đằng sau ông là cả một truyền thống triết học phong phú, khởi đi từ Heraclitus, Plato cho đến Kant, Schiller, Hegel, Nietzsche, Heidegger… Nhưng điểm đột phá của Huizinga, theo Robert Anchor, là ở chỗ: “ông là người đầu tiên cố gắng đưa ra một định nghĩa chính xác về sự chơi và sự thẩm thấu cũng như biểu hiện chúng trong văn hóa, ở mọi lĩnh vực…” (Robert Anchor:63).

Sự chơi, theo quan niệm của Johan Huizinga, được hiểu là “… một hoạt động tự do, tách ra một cách tương đối khỏi cuộc đời ‘thường nhật’ như là một sự ‘không nghiêm trọng’ song đồng thời lại có khả năng cuốn hút người chơi mãnh liệt và tuyệt đối. Nó là một hoạt động không gắn với một quan tâm vật chất nào và vụ lợi nào. Nó triển diễn bên trong những giới hạn không gian và thời gian của riêng mình, tuân theo những luật lệ cố định và theo một cách thức mang tính mệnh lệnh” (Huizinga:13).

Từ diễn giải về sự chơi như thế, có thể thấy chơi được định nghĩa như là sự đối lập với thực tại, với cái nghiêm trọng, nghiêm túc. Sự chơi tạm thời đưa con người bước ra khỏi quỹ đạo của cuộc đời thường nhật với những giới hạn không-thời gian, những quy luật, tất yếu của nó, để thâm nhập vào một thế giới khác vừa ở trong mà cũng vừa ở ngoài thực tại, mang tính tự trị tương đối (có không gian-thời gian riêng, có những luật lệ riêng). Thế giới chơi (play-sphere/play world) này thực chất là một ảo ảnh (Huizinga lưu ý nghĩa từ nguyên của “ảo ảnh” [illusion] – illusion, ilusere – vốn có nghĩa là “đang chơi/trong sự chơi” [in-play]), không hướng đến một mục đích thực dụng nào song lại có sức mê hoặc, lôi cuốn con người bởi lẽ chơi là “một chức năng biểu nghĩa” (significant function) (Huizinga:1). Nó gắn với nỗi thôi thúc mang màu sắc hiện sinh: Con người chơi để được là mình, để không bị quy giản thành một thực thể duy lý vì “chơi là phi duy lý” (Huizinga:4). Con người chơi như một cách để tìm kiếm ý nghĩa sự tồn tại của chính mình, như một cách để tạo nghĩa cho chính thế giới mà y tồn tại trong đó. Con người chơi để khai phá sự tự do khi vượt qua những tất yếu của thực tại, để phát hiện những khả thể của bản thân và của chính thế giới. Chơi, vì thế, vừa mang tính chất xây dựng, kiến tạo, vừa hàm chứa năng lượng của sự lật đổ, phá vỡ. Chức năng biểu nghĩa, vị thế kép vừa ở trong vừa ở ngoài thực tại, tính chất hai mặt – kiến tạo và phủ định – những phát hiện nói trên về đặc trưng của sự chơi trong công trình Homo Ludens, theo chúng tôi, có nhiều điểm tiệm cận với hướng tư duy của các nhà giải cấu trúc sau này.

Ở đây, cần lưu ý: đối tượng mà Johan Huizinga khảo sát trong cuốn sách của mình là “play” – dịch sát nghĩa sang tiếng Việt là “sự chơi” – chứ không phải là “game” – “trò chơi”, dịch đúng nghĩa. Ông quan tâm nhiều đến mặt tinh thần, triết lý của hoạt động chơi hơn là phương diện cấu trúc của hoạt động này, cái tạo thành “trò chơi”. Khái niệm trò chơi sẽ được định nghĩa chặt chẽ hơn bởi những công trình nghiên cứu sau này, tiêu biểu là Roger Caillois với cuốn sách Man, Play and Games và Bernard Suits với luận văn triết học The Grasshopper: Games, Life and Utopia.

Toàn bộ hoạt động chơi phong phú và đa dạng của nhân loại từ cổ chí kim, ở phương Đông lẫn phương Tây, theo Huizinga, có thể quy thành hai dạng thức cơ bản: các trò chơi mang tính chất tính chất thách đố, ganh đua, cạnh tranh vì một cái gì đó (contest) và các trò chơi nhằm mục đích thể hiện, phổ diễn, biểu hành về một cái gì đó (representation). Hai dạng thức này có thể tồn tại ngay trong cùng một trò chơi: khi ganh đua để đạt được một cái gì đó thì đồng thời người ta cũng bộc lộ, biểu hiện một điều gì đó. Theo quan sát của Huizinga, sự chơi phóng chiếu lên hầu hết các hoạt động cơ bản của con người, các hình thái ý thức chủ yếu của xã hội loài người. Mô hình văn hóa mà loài người kiến tạo, ngay từ thoạt kỳ thủy, đã được hình thành trên nền tảng của sự chơi, như là sự chơi. Thực sự, điều này đã khiêu khích một quan niệm khá phổ biến xem văn hóa là một cái gì đó hết sức nghiêm trọng, nghiêm túc, chỉ có thể bắt nguồn từ những tác nhân nghiêm túc.

Johan Huizinga đã đưa ra một quan niệm rất rộng về trò chơi, đến nỗi, mọi hình thái nhận thức của con người, theo đó, đều mang tính chất của trò chơi. Nhận định của ông không phải quá cực đoan. Nếu ngôn ngữ là công cụ của tư duy thì ngay ở đây, Huizinga đã lưu ý chúng ta việc dùng ngôn ngữ để gọi tên sự vật, đưa sự vật vào địa hạt của cái tinh thần, về bản chất, là một sự chơi. Lúc này, vật đã bị “bứng khỏi” thực tại vật lý, được dịch chuyển vào địa hạt của thực tại tinh thần, một thực tại “ảo”. “Đằng sau mỗi hình thức diễn đạt trừu tượng là những ẩn dụ rõ nét, và mỗi ẩn dụ lại là một trò chơi trên ngôn từ” (Huizinga:4). Phát hiện gây ngạc nhiên nhất của Huizinga trong công trình Homo Ludens là dấu ấn của trò chơi thể hiện ngay trong những hoạt động tưởng chừng không có chỗ cho sự chơi như luật pháp và chiến tranh. Ở hoạt động luật pháp, tính chất trò chơi thể hiện ngay ở hình thức trình diễn (performance) của phiên tòa nơi mà theo truyền thống phương Tây, quan tòa buộc phải mặc một thức trang phục riêng và nhất thiết phải đội tóc giả – thứ mà theo Huizinga, có “mối liên hệ gần gũi với những tấm mặt nạ nhảy múa của người nguyên thủy” và “bằng việc phục trang như thế, người ta trở thành một ‘thực thể’ khác” (Huizinga:77). Các màn tranh tụng trong phiên tòa, ở những thời kỳ đầu tiên của xã hội văn minh, có thể xem như các cuộc thi đấu (contest/competition) bằng lời lẽ mà điều quan trọng nhất chưa phải là ý chí muốn đánh bại, khuất phục đối phương mà để nhằm chứng tỏ sự hơn người, khẳng định danh dự. Cũng như vậy, không phủ nhận khía cạnh tranh giành lợi ích, xung đột quyền lực, tính chất bạo lực của chiến tranh song Huizinga đồng thời cũng chứng mình cho ta thấy, những cuộc chiến thời cổ đại còn là cơ hội để con người bộc lộ tài năng, chứng tỏ danh dự, nhất là thể hiện tinh thần hiệp sĩ, thượng võ – điều mà theo ông sẽ trở thành nền tảng của luật pháp quốc tế hiện đại. Ở những hình thái ý thức xã hội khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo, tính chất trò chơi còn dễ quan sát hơn với nhiều biểu hiện sống động mà một sự lược thuật khá đầy đủ những phân tích của Johan Huizinga có thể tìm thấy trong tiểu luận “History and Play: Johan Huizinga and His Critics” của Robert Anchor (1978).

Xem xét hình thái của sự chơi trong nền văn minh nhân loại trên trục lịch đại, Johan Huizinga nhận định: nếu như ở những thời kỳ cổ sơ, sự chơi hiện diện rất đậm nét trong tất cả những hoạt động cơ bản của xã hội, thì sang đến thời hiện đại, từ thế kỷ XIX, “nhiều thành tố của sự chơi vốn đặc trưng cho những thời đại trước đó đã bị mất mát” (Huizinga:195). Tính chất trò chơi trong các hoạt động và hình thái ý thức của nền văn minh hiện đại trở nên suy thoái bởi quá trình công nghiệp hóa, thương mại hóa, chuyên nghiệp hóa, chính trị hóa diễn ra mạnh mẽ. Quá trình này, qua sự tóm tắt ý tưởng của Huizinga bởi Robert Anchor, “khiến cho sự phân biệt giữa sự chơi và cái nghiêm túc bị phá bỏ, nhờ đó, những việc nghiêm túc của cuộc đời – chính trị, chiến tranh, kinh tế và luân lý-tha hóa thành những sự chơi giả (pseudo-play) trong khi sự chơi lại mất đi những phẩm chất vốn không thể thiếu được của mình như sự tự nhiên, bộc phát (sponaeity), sự vô tư (detachment), tính phi nghệ thuật (artlessness), niềm hoan lạc, và do đó, mất đi quyền năng của một hoạt động tạo tác văn hóa” (Robert Anchor:83). Huizinga đưa ra nhận định này như một cảnh báo, mà theo Anchor, đó là một cảnh báo “u ám” đối với nền văn minh đương thời, bởi theo tác giả Homo Ludens, “một nền văn minh thực sự không thể tồn tại nếu thiếu vắng thành tố của sự chơi, vì văn minh luôn tiền giả định giới hạn và sự làm chủ bản ngã, không được đánh đồng những khuynh hướng của nó với cái mục tiêu tối hậu và cao nhất mà phải hiểu rằng bao giờ nó cũng tồn tại trong những ranh giới được chấp nhận tự nguyện. Theo nghĩa nào đó, nền văn mình sẽ luôn được chơi theo những luật lệ nhất định, và nền văn minh đích thực sẽ luôn đòi hỏi sự chơi đẹp” (Huizinga:211).

Homo Ludens ra đời vào năm 1938, vào thời điểm nền văn minh châu Âu đang ở đêm trước của Thế chiến II, cũng là giai đoạn mà chủ nghĩa hiện đại trong văn hóa nghệ thuật phát triển đến đỉnh cao. Cuốn sách của Huizinga, theo chúng tôi, cũng là một tác phẩm mang đậm cảm quan hiện đại chủ nghĩa, thể hiện phản ứng của tác giả trước sự khủng hoảng của nền văn minh kỹ trị, duy lý của phương Tây lúc bấy giờ và việc nghiên cứu hình thái, vai trò và giá trị của sự chơi trong đời sống nhân loại của Huizinga có lẽ cũng ngầm gợi ý một giải pháp cho thực trạng của nền văn minh đương thời.

Những gợi mở về bản chất trò chơi của văn học

Chức năng trò chơi của văn học

Tất nhiên, khi khảo sát những thành tố của sự chơi trong các hình thái ý thức xã hội cơ bản, Johan Huizinga không quên văn học. Mở đầu chương “Play and Poetry” [Sự chơi và thi ca”], Huizinga đã nhận xét: “…trong khi ở những hình thái xã hội được tổ chức cao hơn, tôn giáo, khoa học, luật pháp, chiến tranh và chính trị dần dần mất đi liên hệ với sự chơi – mối liên hệ vốn rất đậm nét ở những giai đoạn trước đó, thì chức năng của thi sĩ vẫn định vị vững chắc trong thế giới của sự chơi (play-sphere), nơi thi ca được khai sinh. Thi ca (Poiesis), trên thực tế, mang chức năng trò chơi” (Huizinga:119). Ông nói tiếp: “Thực sự, định nghĩa mà chúng ta trao cho sự chơi hoàn toàn có thể xem như định nghĩa về thơ ca… Gọi thơ ca là một trò chơi ngôn từ, nói như Paul Valéry, không hề là một ẩn dụ: đó là một sự thật chính xác, hiển nhiên” (Huizinga: 132).

Thế nhưng, dẫu phương trình “thơ ca (văn học) = trò chơi” có thể được chấp nhận hoàn toàn thì vẫn rất cần những nỗ lực nhận thức thấu đáo cái thực tế được coi là hiển nhiên này, ít nhất là trong ngữ cảnh nghiên cứu văn học ở Việt Nam hiện nay, khi ý niệm “văn học như là trò chơi” vẫn có nguy cơ bị hiểu như là một sự hạ giá văn học, xem văn học như thứ phù phiếm. Hầu hết các giáo trình lý luận văn học hiện nay, khi viết về chức năng văn học, đều chỉ tập trung đến các chức năng thẩm mỹ, nhận thức, giáo dục, và phần nào có nhắc đến chức năng giải trí. Song chức năng giải trí không đồng nhất với chức năng trò chơi bởi nếu theo quan niệm của Huizinga, trò chơi rộng hơn khái niệm giải trí, tiêu khiển. Theo chúng tôi, không nên tách chức năng trò chơi thành một chức năng độc lập mà nên nhìn nhận nó một mặt vừa nằm bên ngoài hệ thống, một mặt vừa nằm bên trong hệ thống chức năng văn học. Nó tác động, hòa lẫn, thẩm thấu vào các chức năng khác, tạo nên tính đặc thù của các chức năng này.

Theo đó, giá trị nhận thức của văn học không phải nằm ở nằm việc phản ánh thực tại, phát hiện những quy luật, những cái phổ quát mà nằm ở việc gợi ra những khả thể khác của thực tại, giải bỏ cái phổ quát, cho phép đa nguyên hóa nhận thức ở con người. Cũng theo đó, cái gọi là chức năng nhân đạo hóa của văn học không nên chỉ đơn giản hiểu ở khía cạnh giáo hóa, hướng thiện con người. Nó cần phải được chú ý ở khả năng đem đến cho con người sự vui tươi (fun) – thành tố được xem là hạt nhân của sự chơi theo quan niệm của Huizinga, thứ kháng cự mọi phân tích, diễn giải logic, giúp con người thả lỏng, cân bằng trước những áp lực của thực tại, của những quy luật duy lý, giúp con người luôn là một thực thể “đang trở thành”, “sẽ trở thành” (becoming) chứ không phải một khái niệm đã hoàn kết, rắn lại, trừu tượng. Chức năng nhân đạo hóa của văn học không chỉ quan sát được ở phía hiệu ứng tác động mà còn nằm ngay ở thế giới nghệ thuật của tác phẩm – một thế giới chơi đúng nghĩa, hội tụ đầy đủ những phẩm chất của sự chơi – nơi cho phép con người hóa thân vào “cõi ảo” nơi những khả thể được phát hiện, được khai phóng, thay vì bị hãm lại, nén lại dưới áp lực của thực tại. Thực tại càng khắc nghiệt, nhu cầu giải thoát thực tại, tìm một khả thể thực tại khác lại càng mãnh liệt. Điều này gợi ý chúng ta quan tâm đến tính chất trò chơi của những hiện tượng văn học ra đời trong những điều kiện ngặt nghèo như thơ tù hay nhật ký chiến tranh vốn hầu như chưa được xem xét nhưng thiết nghĩ, quan sát từ chính giác độ này, nhiều khía cạnh lý thú của hiện tượng sẽ được phơi mở. Ngay cả ở khía cạnh tác động của văn học, ta cũng cần lưu ý: văn học giáo hóa con người trong hình thức của sự chơi, bằng phương thức của sự chơi mà sự chơi, nói như đại ý của Hegel, “chính bởi bản chất phi vụ lợi và cực kỳ vô tư, lại là cái cao cả nhất và là hình thức đích thực duy nhất của cái nghiêm túc” (Eugen Fink:25). Và Friedrich Nietzche, trong Ecce Homo, đã khẳng định rằng: “Tôi không biết phương cách nào khác để đối trị với những sứ mệnh vĩ đại ngoài sự đùa chơi”.

Sự hòa kết giữa chức năng trò chơi và chức năng thẩm mỹ của văn học lại càng sâu sắc. Trên thực tế, chức năng trò chơi của văn học còn có trước chức năng thẩm mỹ và đã từng có địa vị quan trọng hơn cả chức năng thẩm mỹ. Huizinga viết: “Nếu để tìm mẫu số cho sự đồng dạng đáng kinh ngạc và sự giới hạn của phương thức thi ca ở tất cả các thời kỳ của xã hội loài người thì có lẽ nó nằm trong thực tế rằng cái chức năng sáng tạo mà ta gán cho thơ bắt nguồn từ một chức năng thậm chí còn cố sơ hơn bản thân văn hóa, cái mà ta gọi là sự chơi” (Huizinga:132). Trong mối quan hệ giữa sự chơi nói chung và thẩm mỹ, Huizinga nhận xét: “Sự chơi muốn trở nên đẹp… Những từ vựng mà chúng ta huy động để nói về những thành tố của sự chơi phần lớn bắt nguồn từ mỹ học, phái sinh từ những thuật ngữ mà chúng ta muốn dùng để miêu tả những hiệu ứng của cái đẹp: độ căng, sự cân đối, thăng bằng, tương phản, biến tấu, hòa tan, hóa giải, v.v… Sự chơi mê hoặc chúng ta; nó ‘bỏ bùa’ ta, ‘hút hồn’ ta. Nó được phú cho những phẩm chất quý hiếm nhất mà chúng ta có thể hình dung được ở các sự vật hiện tượng, ấy là nhịp điệu và sự hài hòa” (Huizinga:10). Khoái cảm trò chơi tương hợp với khoái cảm thẩm mỹ không chỉ ở tính chất phi vụ lợi, phi thực dụng, không phải chỉ ở chỗ chúng đều bắt nguồn từ “thế giới chơi”/”thế giới nghệ thuật” vốn mang cùng những đặc tính mà còn ở chỗ cả hai thế giới này đều được hình thành trên nguyên tắc lặp lại, trật tự và chỉnh thể, nói theo chữ của Huizinga, đó là thế giới “hoàn thiện bị giới hạn” (limited perfection), đều kiến tạo và duy trì sự bí mật (secrecy) – nhân tố gây hấp dẫn ở cả trò chơi lẫn văn học. Nếu khoái cảm thẩm mỹ ở trò chơi biểu hiện ngay ở những thành tố cấu trúc nên chính nó thì khoái cảm thẩm mỹ ở văn học, trước hết và hơn hết, nằm ngay ở phương diện hình thức, kết cấu tác phẩm.

Chức năng trò chơi của văn học, bất chấp tầm quan trọng của nó, trên thực tế, lại bị xem nhẹ, không được nhận thức thỏa đáng trong suốt một thời kỳ khá dài, khi văn học còn đứng ở vị trí trung tâm trong các hình thái ý thức xã hội, được đối xử như là đại diện cho những giá trị phổ quát, như một thứ diễn ngôn đại tự sự. Bởi vậy văn học bị nghiêm túc hóa, nghiêm trọng hóa, và phần “chơi” của văn học bị hạn chế, kìm hãm, bị phớt lờ cố ý nhưng ngay cả khi đó, vẫn không thể triệt tiêu sự chơi. Trong nền văn minh hiện đại, văn học không còn chiếm giữ vị trí trung tâm nữa mà bị dạt ra ngoại vi và chính ở tình thế này, chức năng trò chơi của văn học mới thực sự được hiểu lại, nhận thức lại. Chỉ có thể bằng sự chơi, văn học mới có thể phát huy được quyền năng của cái ngoại vi.

Từ mối quan hệ trò chơi – thực tại đến mối quan hệ trò chơi – diễn ngôn

Ở trên chúng tôi đã lưu ý, trong quan niệm của Huizinga, sự chơi được xác định như một phản đề với thực tại. Hơn một lần trong cuốn sách, tác giả láy lại luận điểm: tham gia một cuộc chơi tức là bước ra khỏi đời thực, để nhập vào một thế giới khác mang tính tự trị nhất thời, với những ước lệ riêng về không – thời gian. Tuy nhiên, đối với nhiều nhà nghiên cứu về trò chơi sau này, luận điểm trên của Huizinga cần phải được phản biện.

Tiêu biểu cho sự phản biện này phải kể đến Jacques Ehrmann. Trong luận văn “Homo Ludens Revisited” [Nhìn nhận lại vấn đề người chơi] (1968), Jacques Ehrmann cho rằng việc tạo ra phản đề giữa trò chơi-thực tại là một giả thuyết sai. Theo ông, “sự chơi không triển diễn trên nền của một thứ thực tại cố định, bền vững, được xem như là chuẩn để đối chiếu với nó. Mọi thực tại đều được nắm bắt trong trò chơi của những khái niệm xác định nó. Thực tại, vì thế, không thể khách quan hóa, cũng không thể chủ quan hóa. Thế nhưng nó không bao giờ là thứ trung lập. Cũng như không thể trung lập hóa nó.” (Ehrmann:56). Không có một thứ thực tại chung chung, phổ quát tồn tại trước văn hóa theo như xác tín của Huizinga, và cũng không có thực tại nào tồn tại trước sự chơi. Trò chơi và thực tại không thể tách rời khỏi nhau: “Nói cách khác, đặc trưng của thực tại là ở chỗ nó bị chơi (it is played). Sự chơi, thực tại, văn hóa đồng nghĩa với nhau và có thể hoán đổi cho nhau” (Ehrmann:56, chữ in nghiêng do chúng tôi muốn nhấn mạnh).

Quan niệm trên của Jacques Ehrmann, theo chúng tôi, có nhiều điểm đến rất gần với tinh thần giải cấu trúc luận sau này. Erhmann đã khước từ chủ nghĩa bản chất (essentialism) trong quan niệm về hiện thực. Nếu thực tại, trò chơi, văn hóa đồng nghĩa với nhau và đồng hiện trong sự chơi, nếu bản thân thực tại cũng là cái “bị chơi”, từ sự chơi mà hình thành, vậy thì thực tại chỉ là một kiến tạo, một ước lệ, một hư cấu như chính sự chơi mà thôi. Và khi Erhmann mở rộng suy luận, cho rằng “sự chơi [được] cấu thành, mở ra và khép lại [nhờ] ngôn ngữ” (Erhmann:56) thì thực tại, về bản chất, cũng là một kiến tạo bởi/của ngôn ngữ. Ở đây, xin được giải thích hình thức diễn đạt mà chúng tôi lựa chọn để dịch luận điểm trên của Jacques Erhmann sang tiếng Việt. Theo bản dịch Anh ngữ của Cathy Lewis & Phil Lewis, câu văn của Ehrmann là: “Play is articulation, opening and closing of and through language”. Theo chúng tôi hiểu, ngôn ngữ không chỉ là nhân tố cấu trúc sự chơi mà còn là đối tượng tạo tác của chính sự chơi nữa. Vì thế, chúng tôi có sử dụng dấu ngoặc vuông để có thể chuyển tải nghĩa kép câu văn trong nguyên bản một cách hàm súc nhất. Đến đây mối quan hệ giữa trò chơi và thực tại trở thành vấn đề diễn ngôn. Mệnh đề “văn học phản ánh hiện thực” của phản ánh luận rất có thể cần được hiểu lại, rằng “văn học chơi hiện thực”, “văn học sinh thành/phá hủy hiện thực”.

Phản biện quan điểm của Johan Huizinga, Jacques Ehrmann đã dừng lại khi đẩy vấn đề trò chơi sang địa hạt của ngôn ngữ, diễn ngôn. Chỗ dừng lại của Ehrmann lại là xuất phát điểm của giải cấu trúc luận. Một trong những nhà nghiên cứu tiếp cận bản chất trò chơi của văn học từ quan điểm giải cấu trúc luận là Susan Stewart. Rất tiếc, chúng tôi chưa có điều kiện đọc toàn văn công trình bàn về lý thuyết trò chơi của bà, cuốn Nonsense: Aspects of Intertextuality in Folklore and Literature [Cái vô nghĩa: Những bình diện của tính liên văn bản trong folklore và văn chương] nhưng thông qua những giới thiệu tổng thuật về cuốn sách, có thể hiểu Stewart quan niệm: “động thái chơi luôn hàm ẩn sự vi phạm quá trình diễn dịch ý nghĩa chung, phổ biến [common sense], nó là một quá trình tái phân định ranh giới, tái định khung” [dẫn theo Enrique A. Giordano:218]. Theo Stewart, ý nghĩa chung là một mô hình được tạo tác, một trật tự có một sự mạch lạc chặt chẽ, “một quy ước được tạo lập không mang tính tự nhiên hay rạch ròi và cũng không nhất thiết mang tính chất duy lý” [Lydia H. Rodríguez:86]. Đối tượng nghiên cứu của Stewart là cái vô nghĩa. Theo bà, xã hội rất cần cái vô nghĩa vì “một cấu trúc thì không thể nào tĩnh tại được trong khi xã hội lại luôn sống động” và “nhờ cái vô nghĩa, ý nghĩa chung tự tổ chức lại song đồng thời cũng tự giải thể chính nó” [cf:86]. “Đó là một quá trình liên tục tái tổ chức sau khi giải thể và ngược lại” [cf:86]. Cái vô nghĩa ở đây chính là sự chơi, là sự vượt khuôn khỏi những hạn định của ý nghĩa chung. Bởi sự chơi này diễn ra không ngừng nên ý nghĩa bao giờ cũng ở tình trạng bất ổn. Tuy nhiên, sự bất ổn này lại là điều kiện để ý nghĩa được sinh thành. Cách tiếp cận của Susan Stewart, trên thực tế, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Jacques Derrida. Và thật sự, nếu nói đến sự phát triển lý thuyết trò chơi theo quan điểm giải cấu trúc thì không thể bỏ qua được tư tưởng của Derrida. Song chính bởi sự sâu sắc và cực kỳ phức tạp trong tư tưởng của ông, chúng tôi muốn dành một nghiên cứu riêng, sẽ trình bày trong một tương lai gần, thay vì diễn giải sơ lược trong phạm vi bài viết này. Ở đây, chỉ xin nói rằng những luận điểm về sự chơi của Susan Stewart đã gợi ra cho chúng tôi nhiều điều phải suy nghĩ về bản chất trò chơi của văn học, nhất là đặc trưng của thơ ca.

Trước hết, chúng ta có thể thiết lập những mô hình tam đoạn luận, bắc cầu nối tư tưởng của Huizinga với luận điểm của Stewart. Nếu chơi luôn là động thái vi phạm những ranh giới và quy luật của thực tại thường nhật, mang tính kinh nghiệm, để tạo nên thế giới của sự chơi (theo Huizinga) và nếu cái thực tại đó cũng chỉ là kiến tạo bởi ngôn ngữ, là “diễn ngôn được chấp nhận bởi những mã của một thứ thực tại đã được nói”, nói khác đi, thực tại chẳng qua là một kiến tạo bởi ý nghĩa chung (theo Stewart) [dẫn theo Giordano:218] vậy thì, sự chơi bao giờ cũng giải bỏ thứ văn cảnh xác định ý nghĩa chung, tạo nên những ý nghĩa mới, những mã mới. Nếu văn học là trò chơi ngôn từ được chấp nhận như một thực tế hiển nhiên, và nếu ngôn từ tự bản thân nó đã là một hệ thống chơi, vậy thì văn học là sự chơi với chính sự chơi, sự chơi diễn ra bên trong sự chơi. Và như vậy, trò chơi ngôn từ của văn học không chỉ đơn giản là câu chuyện tu từ, chơi chữ mà bản chất của động thái chơi ở đây chính là sự kiến tạo ngôn ngữ, khai phóng ngôn ngữ. Đó là một cuộc chơi với mức độ thách thức rất cao, bởi lẽ nhà thơ vừa phải sử dụng ngôn ngữ lại vừa phải vi phạm nó để tạo ra một diễn ngôn mới. Đúng như tình thế mà Octavio Paz mô tả: “Anh ta phải sử dụng từ ngữ, thông qua các ký hiệu mà mọi người đều hiểu, để tạo nên một thứ ngôn ngữ mới. Từ ngữ của nhà thơ vẫn là ngôn ngữ, tức là phương tiện giao tiếp, nhưng đã đóng một vai trò khác. Thơ phải là thứ gì đó chưa từng được nói hoặc nghe” [Paz:8]. Thứ hai, luận điểm của Stewart còn đặt ra vấn đề xem cái vô nghĩa như một phạm trù triết mỹ. Nó giúp ta hiểu được sự ám ảnh của cái vô nghĩa trong văn học từ những sáng tác sơ khai của nhân loại cho đến sự nổi dậy của cái vô nghĩa, cái bị coi là nhảm nhí trong nghệ thuật thời kỳ hiện đại, thời kỳ con người trở nên ngờ vực ngôn ngữ, một nỗi ngờ vực bản thể luận.

Trò chơi, luật chơi và tiến trình văn học

Tính luật lệ được Johan Huizinga nhắc đến như một đặc trưng quan trọng nhất của sự chơi nhưng ông không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về luật chơi. Thay vào đó, Huizinga lại nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc phải giữ luật. Luật cần phải được tuân thủ để trò chơi được khả hữu, để duy trì cộng đồng chơi. Đi sâu vào vấn đề luật chơi là đóng góp của những nhà nghiên cứu đi sau, trong đó phải kể đến Bernard Suits, người mà theo chúng tôi, đã đưa ra một quan niệm về luật chơi hàm súc nhưng có khả năng báo quát cao các hiện tượng chơi đa dạng và phong phú trong đời sống. Suits định nghĩa: : “Chơi một trò chơi nghĩa là cố gắng nhằm đạt đến một trạng thái đặc thù , chỉ sử dụng những phương tiện được luật cho phép mà luật ở đây lại cấm sử dụng những phương tiện hiệu quả hơn trong khi ủng hộ những phương tiện kém hiệu quả [luật cấu thành] và một thứ luật như thế được chấp nhận chỉ vì nó khiến cho một hoạt động như thế [chơi] trở thành khả hữu…Chơi một trò chơi nghĩa là một nỗ lực tự giác để vượt qua những chướng ngại vật không tất yếu” [Suits: 41]. Qua đó, có thể thấy luật chơi bao giờ cũng có tính chất oái ăm, trớ trêu, nghịch lý và chính bởi những tính chất này, mà trò chơi được kiến tạo như một thế giới đặc thù, phân biệt với thực tại, một thực tại được quan niệm theo tinh thần của Huizinga. Luật chơi bao giờ cũng tạo ra độ khó khăn, tính thử thách, khống chế phương tiện được mang vào cuộc chơi nhưng chính sự ngặt nghèo này cũng là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của trò chơi, nó thỏa mãn một ham mê thường trực ở con người: chinh phục độ khó. Chính trong sự chinh phục độ khó này, con người mới thăm dò được các khả thể, mới trở thành chính mình một cách toàn vẹn như lời khẳng định của Schiller. Nhưng theo chúng tôi, định nghĩa của Bernard Suits, trong khi nhấn mạnh đến việc luật chơi nào cũng quy định nghiêm ngặt về phương tiện chơi, thì lại chưa chú ý đến thực tế rằng, luật chơi còn điều kiện hóa người chơi. Không phải ai cũng được, cũng có thể, tham gia vào trò chơi. Một số trò chơi đòi hỏi người chơi phải đến một độ tuổi nào đó, phải tích lũy những kinh nghiệm nhất định nào đó, phải được sự chấp thuận của một cộng đồng chơi, v.v. Đứng đằng sau luật chơi là cả một hệ thống uy quyền cho phép hoặc loại trừ người nào đó bước vào thế giới trò chơi.

Tính luật lệ cũng là một điểm tương hợp giữa trò chơi và văn học. Nếu hiểu luật chơi là những quy ước, nguyên tắc, điều kiện mà con người phải tuân theo để duy trì trò chơi thì điều này có thể quan sát ngay ở các thể loại văn học. Thể loại văn học tự nó đã là hiện tượng mang tính quy ước; hệ thống thể loại văn học hoàn toàn có thể ví như hệ thống trò chơi, từng thể loại có những luật lệ riêng thách đố người viết. Sáng tác văn học, do đó, thực chất, là sự chơi thể loại, là cuộc đấu giữa một bên là tính chất bó buộc, nguyên tắc của luật chơi, tính chất siêu cá tính của thể loại và một bên là cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong tiến trình văn học, ở mỗi thời kỳ, sự chơi thể loại lại có tính chất riêng, xu hướng riêng. Về cơ bản, ở thời kỳ trung đại, cuộc chơi của người viết là chấp nhận những thách đố cực kỳ nghiêm ngặt của thể loại trên cả cấp độ nội dung đến cấp độ hình thức, thậm chí thắt chặt đến tận cấp độ vi mô (như trong thơ) để chứng tỏ sự tinh vi, thiện nghệ của mình như một người thợ thủ công tinh xảo. Chơi trong văn học trung đại là chơi với, chơi trong những luật lệ đã hình thành, sẵn có, đã rắn lại. Thời hiện đại, trò chơi thể loại diễn ra theo một xu thế khác. Nói như Jean- Francois Lyotard thì người nghệ sĩ hiện nay “ở vị thế của một triết gia: văn bản anh ta viết, tác phẩm anh ta tạo ra, về nguyên tắc, không chịu chi phối bởi những luật lệ đã được thiết lập trước đó, không thể phán xét chúng rạch ròi bằng việc ứng chiếu văn bản, tác phẩm đó theo những phạm trù quen thuộc. Những luật lệ, phạm trù đó là cái mà bản thân tác phẩm đang kiếm tìm. Người nghệ sĩ, nhà văn đã làm việc mà không theo một luật lệ nào để thiết lập nên những luật lệ cho cái chắc chắn sẽ được thực hiện” [Patricia Waugh (ed): 337, in nghiêng trong nguyên bản]. Nhận định của Lyotard cho thấy luật lệ không còn là những yếu tố siêu cá tính, được đúc kết, khái quát từ thực tiễn và muốn trở thành cái phổ quát áp đặt lên tất cả. Luật lệ, quy ước giờ đây bản thân chúng đã là những sáng tạo, in đậm cá tính của nghệ sĩ, chối bỏ tham vọng trở thành cái phổ quát mà trở thành cái mang tính chất độc sáng. Hơn nữa, luật lệ, quy ước không nhằm tạo lập một mô hình mô phỏng cái đã có trước, mà để cấu trúc một mô hình chưa từng hiện hữu. Từ đó, suy ra, trò chơi trong văn học hiện đại/hậu hiện đại bắt đầu bằng việc đặt ra những quy ước, những phép luật, những thỏa thuận ngầm mới giữa nhà thơ – văn bản – người đọc. Điều này lý giải vì sao mô hình thể loại trong văn học hiện đại/hậu hiện đại biến dạng một cách ghê gớm khiến cho bảng phân loại thể loại truyền thống trở nên chật chội. Thực tiễn thơ ca đương đại có thể là một minh họa sinh động. Dường như mọi định nghĩa về thơ, mọi quy ước về thơ đều có thể được chấp nhận. Thơ có thể chối bỏ nghĩa để trở thành những chuỗi vô nghĩa như những sáng tác của các nhà thơ Dada. Thơ có thể chối từ sự tồn tại như một văn bản in như những thể nghiệm thơ âm thanh, thơ trình diễn. Thơ có thể chối bỏ cả chính từ ngữ, cú pháp, tu từ, thậm chí lấy chính chất liệu ngoài ngôn ngữ để kiến tạo tác phẩm như thơ cụ thể (concrete poetry)… Chính sự cá nhân hóa các quy ước thể loại khiến cho không chỉ đặc trưng thể loại trở thành nhập nhòa mà ranh giới giữa thơ ca và các loại hình nghệ thuật khác hóa mơ hồ.

Khi bàn đến tầm quan trọng của việc giữ luật chơi, Johan Huizinga có lưu ý chúng ta đến một thực tế: “Rất đáng lưu tâm khi chúng ta để ý rằng so với những kẻ phá luật chơi thì xã hội khoan dung hơn rất nhiều đối với những tên lường gạt. Đó là vì kẻ phá luật chơi kia đã đập vỡ bản thế thế giới chơi (play-world). Với việc rút khỏi trò chơi, y đã cho thấy tính tương đối và mong manh của cái thế giới chơi mà trước đó y đã khóa chặt mình trong đó với những người khác. Y đã lấy đi ảo ảnh (illusion) của nó – một từ nhiều ý vị mà nghĩa đen có nghĩa là ‘trong sự chơi’ (in-play) (xuất phát từ inlusio, illudere hay inludere). Thế nên nhất thiết phải tống khứ y, vì chính y đã đe dọa sự tồn tại của cộng đồng chơi.” (Johan Huizinga: 11). Những biến thể của kẻ phá luật chơi trong những hình thức xã hội tổ chức cao, theo Huizinga, gồm có những kẻ bỏ đạo, dị giáo, tiên tri, những nhà cách mạng, những kẻ ngoài vòng pháp luật, thành viên hội kín…Ở những nhân vật này, “tính chất trò chơi hiện diện rất rõ trong những việc họ làm” [Huizinga:12].

Khá bất ngờ khi phát hiện thú vị trên của Huizinga lại ít được nhắc đến trong những công trình nghiên cứu về trò chơi sau này nhưng theo chúng tôi, đây là luận điểm có khả năng gợi mở vấn đề lớn. Thứ nhất, trên thực tế, Huizinga đã chạm đến khía cạnh mà Bernard Suits không nhấn mạnh: tính chất quyền năng của luật chơi. Không phải ai cũng được tham dự vào trò chơi, sẽ luôn có những kẻ bị đặt ngoài cuộc. Thứ hai, sự đòi hỏi cao đối với việc giữ luật chơi cũng hàm ẩn rằng trò chơi thường trực phải đối mặt với nguy cơ bị phá luật. Sự phá luật, một mặt, là sự lật đổ, phá vỡ thế giới chơi cũ đồng thời làm giải thể cộng đồng gắn với trò chơi ấy, mặt khác bao giờ cũng mang tham vọng kiến tạo một thế giới chơi mới, với những luật lệ mới cùng một cộng đồng mới. Lịch sử nhân loại nói chung, tiến trình văn học nói riêng, xét đến cùng, cũng chính là sự giằng co, tranh chấp giữa một bên muốn duy trì trò chơi cũ với một bên muốn thiết lập một trò chơi mới.

Theo chúng tôi, hoàn toàn có thể “dịch” luận điểm trên Huizinga sang ngôn ngữ của giải cấu trúc luận, từ đó, có thể nhận thức rõ hơn về bản chất trò chơi của văn học. Nếu nhìn trò chơi như là một hệ thống nghĩa thì cái nghĩa đó để hiện hữu bao giờ cũng phải đẩy rất nhiều những cái khác ra phía sau, biến chúng thành cái vắng mặt, cái vô nghĩa, cái tàng hình. Văn hóa đồng nghĩa với trò chơi, như Jacques Ehrmann từng nói, vậy thì văn hóa cũng vận hành theo nguyên tắc dùng quyền năng để loại trừ, biến một số bộ phận trở thành ngoại vi, trở thành nhỏ/lẻ/phụ (minor), nhằm tạo nên và duy trì hình ảnh tưởng tượng của nó. Đối với bộ phận ngoại vi, đứng bên lề trò chơi của văn hóa này, chỉ bằng cách chơi, chơi như là hành vi vi phạm vào cái diễn ngôn trung tâm được xem như là ý nghĩa chung, phổ quát (common sense), phá những mã đã có, họ mới có thể hình thành nên diễn ngôn của mình, kiến tạo nên bản sắc của mình. Không phải ngẫu nhiên, sáng tác của những bộ phận ngoại vi, thiểu số trong văn học thế giới hiện nay như văn chương của phụ nữ, của giới đồng tính, da màu, dân thuộc địa cũ… thường hướng đến lối viết mang tính trò chơi với những thủ pháp điển hình như biếm phỏng (parody), nhại lại (pastiche), lai ghép, làm lệch chuẩn ngôn ngữ… Xét trong cấu trúc xã hội, khi văn học cũng đang là một thực thể ngoại biên thì diễn ngôn của văn học chính là diễn ngôn chơi: nó giải cấu trúc diễn ngôn trung tâm, diễn ngôn đại tự sự, giúp cất lên những tiếng nói vốn bị bắt phải câm lặng, làm hiện hình những gì vốn bị biến thành vô hình, khuất mặt. Đó có lẽ chính là ý nghĩa nhân bản của văn học ở thời đại này.

Trò chơi như một khuynh hướng thẩm mỹ chủ đạo của văn học hiện đại

Trong phần tóm lược tư tưởng của Huizinga trong cuốn Homo Ludens ở trên, chúng tôi đã nhấn mạnh ý kiến của ông, cho rằng yếu tố chơi đã bị suy thoái nghiêm trọng ở mọi hình thái ý thức của nền văn minh hiện đại, không loại trừ văn học. Nhưng theo chúng tôi, nhận định này của Huizinga cũng có thể xem xét lại. Dưới góc nhìn của Roy C. Caldwell, Jr., “người ta thậm chí có thể phải băn khoăn nếu thời đại của chúng ta sau này sẽ không được nhớ đến như là Kỷ nguyên Chơi, Thời đại Chơi” [Caldwell:547]. Sự bi quan ở Huizinga hay sự hứng khởi ở Caldwell đối với thời đại của mình xuất phát từ cách đặt vấn đề khác nhau về sự chơi. Nếu xem xét sự chơi trong cặp phản đề trò chơi-thực tại, trò chơi-nghiêm túc thì Huizinga hữu lý khi đưa ra nhận xét như vậy. Nhưng nếu ta đồng ý với Jacques Ehrmann rằng sự chơi, văn hóa, thực tại đồng hiện, đồng dạng, đồng nghĩa với nhau thì có lẽ ta sẽ chia sẻ với Caldwell. Trò chơi đã trở thành một khuynh hướng thẩm mỹ chủ đạo của văn học hiện đại/hậu hiện đại. Văn học đã lấy trò chơi làm chính lẽ tồn tại của nó.

Nếu như Huizinga cho rằng bắt đầu từ thế kỷ XIX, yếu tố chơi đã phai nhạt đi rất nhiều trong văn hóa nhân loại thì riêng đối với văn học, cũng trong thế kỷ này, ta lại chứng kiến những hiện tượng quyết liệt trả văn học về với sự chơi thuần khiết, mà hai gương mặt tiêu biểu, cũng là hai cột mốc báo hiệu kỷ nguyên mới của văn học là Gustave Flaubert và Stephane Mallarmé. Flaubert là người đầu tiên chối từ biến tiểu thuyết trở thành một tự sự về hiện thực theo kiểu Balzac, thay vào đó, ông biến tiểu thuyết trở thành tự sự về chính lối viết, với một tham vọng mà Milan Kundera đã diễn tả: “Tiểu thuyết sẵn sàng đảm nhận những đòi hỏi cao nhất của thơ” [Kundera:155]. Stephane Mallarme thể nghiệm hàng loạt trò chơi ngôn ngữ trên cả mặt hình ảnh và âm thanh, tìm tòi một thứ thơ thuần túy, nơi ngôn từ thể khôi phục lại sự mê hoặc, bí ẩn của chính nó. Thơ ca, với Mallarme, không chạy theo cái gì hết, kể cả xúc cảm, ngoại trừ chính thú vui ngôn ngữ. Hướng đến một thứ văn chương đòi quyền tự trị cho mình, theo đuổi những khoái cảm thẩm mỹ vô tư, phi vụ lợi, đấy chính là biểu hiện của thái độ không thỏa hiệp của nghệ sĩ với quá trình công nghiệp hóa, kỹ trị hóa, thương mại hóa, thực dụng hóa đang tăng tốc trong xã hội hiện đại.

Nhà văn hiện đại chủ nghĩa, nói như Nguyễn Hưng Quốc, là những kẻ theo đuổi “một thứ chủ nghĩa hình thức và một thứ chủ nghĩa duy mỹ”[Nguyễn Hưng Quốc:212]. Nỗi đam mê hình thức và chủ nghĩa duy mỹ thôi thúc người nghệ sĩ phát kiến nhiều hình thức trò chơi trên văn bản nghệ thuật. Việc thể nghiệm tính trò chơi này khiến nhà văn hiện đại chủ nghĩa phát hiện nhiều khả thể khác của thể loại, của ngôn ngữ, thậm chí của cả chính cách người ta có thể làm nghệ thuật. Những thực hành nghệ thuật của các nhà Dadaist có thể xem là ví dụ điển hình. Nghệ sĩ Dada chính là những kẻ phá luật ghê gớm nhất, đập vỡ những “ảo ảnh” mà nghệ thuật theo đuổi, vi phạm nghiêm trọng những định chế, quy phạm nghệ thuật nhưng cũng chính vì thế, họ lại được coi là những người khai phóng nhiều khả năng nhất cho nghệ thuật. Với Dada, nghệ thuật không chỉ mang tính chất trò chơi mà bản thân trò chơi có thể tồn tại như là nghệ thuật thực thụ. Những loại hình nghệ thuật mà Dada được xem là trào lưu mở đường như nghệ thuật sắp đặt (installation), nghệ thuật trình diễn (performance art), nghệ thuật thực địa (land-art), thơ cụ thể (concrete poetry), v.v…chính là những loại hình mà ranh giới giữa nghệ thuật và trò chơi được sáp nhập. Dada cũng là trào lưu đầu tiên lưu ý chúng ta đến tầm quan trọng của cái vô nghĩa qua những thể nghiệm của Tristan Tzara, Hugo Ball, Kurt Schwitter. Cái vô nghĩa ở đây thực chất không phải là cái nhảm nhí, điên loạn mà chính là nhân tố tạo sinh nên nghĩa, là chính cái giúp chúng ta nhận ra tính ước lệ, tạm thời, bất ổn của những cái được xem là có nghĩa, để giải phóng tư duy ra khỏi sự câu chấp vào ngôn ngữ.

Cuộc chơi của văn học hiện đại không chỉ là cuộc chơi của nhà văn. Đó còn là cuộc chơi mở, mang tính tương tác giữa nhà văn – độc giả-văn bản. Nếu văn học là trò chơi ngôn từ thì trò chơi đó, về bản chất, là trò chơi của cả sự viết và sự đọc, và qua trò chơi của cả sự đọc lẫn sự viết đó, ngôn ngữ không hề đứng yên, ý nghĩa được triển diễn đến vô tận. Tính tương tác của văn học càng được tăng cường khi nhân loại bước vào thời đại công nghệ thông tin, khi nhờ sự hỗ trợ của kỹ thuật, dưới ảnh hưởng của kỹ thuật, ý thức về sự “cùng chơi”, cùng tạo tác tác phẩm được hiện thực hóa thành những biện pháp, phương thức, mô hình sống động, mà những tác phẩm hypertext hay metafiction là ví dụ cho ta kiểm nghiệm điều này.

Chơi là cách để nghệ thuật tìm kiếm những khả thể cho mình. Nghệ thuật chỉ có thể vận động phát triển khi nó không ngừng khám phá những khả thể mới, khi nó có thể được tái định nghĩa liên tục. Nhưng chơi là còn là luân lý của chính nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng nữa. Bởi như ở trên đã nói đến, bằng cách chơi, văn học khuấy động, tháo dỡ những diễn ngôn trung tâm, khai phóng cho những gì bị đè nén, trấn áp, bị tước quyền hiện diện. Chơi là cách văn học kiến tạo và giải kiến tạo thế giới, bản ngã và cả chính bản thân nó nữa. Và đó chính là sự vận động đích thực của đời sống.

*
Có thể nói, với bài viết này, chúng tôi muốn tiếp tục làm công việc mà nhiều nhà nghiên cứu về trò chơi đã làm: đọc lại Homo Ludens của Johan Huizinga, để nhận thức lại những đặc trưng của văn học. Quá trình đọc lại của chúng tôi cũng chính là đối thoại, phản biện và diễn dịch lại cuốn sách, kết hợp tham chiếu những công trình, luận văn nghiên cứu sau này. Và cũng chính trong sự đọc này, chúng tôi cũng đã đối thoại, phản biện và diễn dịch lại những ý niệm mặc định cho văn học. Chúng tôi cũng hy vọng sự đọc của mình cũng tiếp tục bỏ ngỏ lại những khoảng trống đối thoại, điều mà chúng tôi đã bắt gặp trong công trình của Huizinga, cũng là điều khiến sự đọc của chúng tôi là một sự chơi đúng nghĩa.

TRẦN NGỌC HIẾU
(Bản in lần đầu trên tạp chí Nghiên cứu văn học 11-2011, trang 16-27. Bản đăng lại trên weblog này là bản đầy đủ)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Anchor, Robert. “History and Play: Johan Huizinga and His Critics”, History and Theory, Vol.17, No.1. (Feb., 1978), pp63-93
Cadwell, Roy C. (Jr). “The Robbe-Grillet Game”, The French Review, Vol.65, No.4. (March., 1992), pp 547-556.
Erhmann, Jacques. “Homo Ludens Revisted”, trans. by Cathy Lewis & Phil Lewis, Yale French Studies, No.41, Games, Play and Literature. (1968), pp. 31-57.
Fink, Eugen. “The Oasis of Happiness: Toward an Ontology of Play”, trans. by Ute Saine & Thomas Saine, Yale French Studies, No.41, Games, Play and Literature. (1968), pp. 19-30
Giordano, Enrique A. “Play and Playfulness in Garcia Marquez’ ‘One Hundred Years of Solitude’”, Rocky Mountain Review of Language and Literature, Vol.42, No.4. (1988), pp 217-229
Huizinga, Johan. Homo Ludens: A Study of The Play Element In Culture, Beacon Press 1955
Kundera, Milan. Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, NXB Văn hoá thông tin & Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2001.
Paz, Octavio. “Ngôn ngữ và trừu tượng”, Minh Tự dịch, Báo Văn nghệ, số 21, năm 1993
Rodriguez H. Lydia. “A Theoretical View of Games in Literature: Julio Cortazar and Cristina Peri Rossi”, Hypertexto 10, Vernano 2009, pp. 82-89.
Nguyễn Hưng Quốc. Thơ, v.v và v.v, NXB Văn nghệ, Hoa Kỳ, 1996.
Suits, Bernard. The Grasshopper: Games, Life and Utopia, David R. Godine, Publisher, Boston 1990.
Waugh, Patricia & Rice, Philip. Modern Literary Theory: A Reader. Arnold Publishers 2001.

Tin tức rất có hại – Từ bỏ thói quen đọc tin tức bạn sẽ hạnh phúc hơn







Trong vài thập kỷ qua, những người có cuộc sống khá giả trong xã hội phương Tây đã bắt đầu nhận ra sự nguy hại của việc tiêu thụ thực phẩm bừa bãi: Chúng gây ra các bệnh béo phì, tiểu đường… Riêng ở Mỹ, hơn 1/3 dân số mắc bệnh béo phì. Nó đã trở thành vấn nạn nhức nhối với những người dân không chỉ ở Mỹ mà còn ở các nước phát triển nói chung. Họ đã bắt đầu khắt khe hơn với vấn đề thực phẩm và cố gắng thay đổi chế độ ăn uống của mình: Quan tâm xem hàng ngày mình ăn gì, loại thức ăn đó chứa nhiều đường không, chứa bao nhiêu kcal…

Ở một khía cạnh khác, chúng ta cũng đang sống ở trong thời kỳ quá dư thừa về thông tin, nhưng hầu hết chúng ta chưa hiểu về hệ quả của việc dư thừa đó với tâm trí của mình. Thực sự thì ảnh hưởng của tin tức đối với tư duy cũng tương đồng với ảnh hưởng của chất đường đối với cơ thể. Chúng đều dễ “tiêu hóa”. Truyền thông cho chúng ta ăn từng mẩu “tin tức bọc đường” nho nhỏ, chẳng gây ra ảnh hưởng nguy hại gì nhãn tiền để ta có thể ngay lập tức nhận ra, và ta dễ dàng phớt lờ và tiếp tục nuốt chúng. Tiêu hóa từng mẩu nhỏ một, ta sẽ chẳng có cảm giác chán ăn hay bội thực. Điều đó khác xa với việc đọc những cuốn sách hoặc các bài viết dài trên tạp chí, nơi hàm lượng thông tin đậm đặc. Chúng ta có thể tiêu thụ một số lượng vô hạn của các mẩu tin vắn, và đó giống như là những viên kẹo dành cho trí não. Hôm nay, chúng ta đã đạt đến kết quả tương đồng với cái chúng ta đã đến cách đây 20 năm trong lĩnh vực thực phẩm. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng tiêu thụ thông tin không đúng cách có thể độc hại thế nào.
Tin tức gây lệch lạc

Lấy ví dụ sự kiện sau đây (mượn từ Nassim Taleb). Một chiếc xe lái qua một cây cầu, và cây cầu sập. Giới truyền thông tập trung vào điều gì? Xe. Người trong xe. Nơi ông ta đến. Nơi ông dự định đi . Trải nghiệm ông đã phải trải qua trong vụ tai nạn (nếu còn sống). Nhưng tất cả chúng chẳng đáng để chúng ta phải bận tâm nhiều. Thế thì cái gì đáng để bận tâm? Đó là tại sao câu cầy sập, đó mới chính là mối nguy hiểm tiềm tàng, có thể đang ẩn nấp trong các cây cầu khác nữa. Chiếc xe ấy hào nhoáng, nó gây ấn tượng cảm xúc mạnh, và nhân vật chính là một con người chứ không phải một vật vô tri khác. Thế nhưng điều quan trọng nhất đó chính là việc khai thác khía cạnh đó để đưa tin nhàn và tốn ít chi phí hơn nhiều so với việc đi phân tích các cây cầu.

Tin tức làm chúng ta bị lệch lạc hoàn toàn trong việc đánh giá cái gì là nguy hại và cái gì thì không. Chủ nghĩa khủng bố bị phóng đại thái quá. Stress do làm việc quá sức thì bị xem nhẹ. Ảnh hưởng của sự sụp đổ của các ngân hàng lớn thì bị thổi phồng. Trách nhiệm của những nhà dự báo kinh tế thì bị chẳng được nhắc đến. Người ta xem trọng phi hành gia quá mức. Còn y tá thì bị đánh giá thấp. Danh sách cứ tiếp diễn mãi như vậy. Bạn có nghĩ ra trong những tin tức mà giới truyền thông Việt Nam khai thác và mổ xẻ thời gian gần đây, cái gì bị thổi phồng quá mức mà những thông tin quan trọng khác bị phớt lờ không? Cứu nạn máy bay Malaysia gặp nạn? Vụ Huyền Chip? Hôi của?

Chúng ta thường thiếu lý trí, sự bình tâm và dễ dàng bị truyền thông dắt mũi. Chứng kiến trực tiếp một vụ tai nạn máy bay trên truyền hình sẽ thay đổi thái độ của bạn đối với chính rủi ro đó, bất kể một thực tế đã được chứng mình rằng xác suất thực sự của việc rơi máy bay là cực nhỏ, và nó là phương tiện giao thông an toàn hơn ô tô, tàu hỏa rất nhiều. Nếu bạn đang nghĩ rằng ý tưởng tin tức có thể ảnh hưởng đến tư duy và thái độ của mình thật buồn cười, rằng mình hoàn toàn có thể đọc nó mà không bị nó tác động hay làm cho mình bị lệch lạc đi thì bạn đã lầm to. Những ông chủ ngân hàng và các nhà kinh tế học, những người mà đáng lý quyết định của mình phải dựa trên lý trí và các bằng chứng thực tế thay vì xu hướng của đám đông hay sự nhảy nhót nhất thời của giá cả đã cho thấy rằng con người hành động dựa trên cảm tính nhiều thế nào và ít dùng lý trí ra sao.

Aristoteles từng nói rằng: “Để một tâm trí có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn một ý kiến, một quan điểm mà không phải chấp nhận, không phải tin vào nó đòi hỏi một sự giáo dục rất lớn.” Vậy nếu bạn không có khả năng nhìn được tổng thể, đa chiều ở một sự kiện mình chưa hiểu thực sự rõ và không muốn để truyền thông dắt mũi, bạn phải làm gì?

Giải pháp đơn giản nhất đó chính là cắt bỏ hoàn toàn khỏi việc tiêu thụ tin tức.
Tin tức ít có giá trị

Trong số 10 nghìn tin tức bạn đã đọc trong vòng 12 tháng trở lại đây, hãy thử kể tên điều gì đã thực sự giúp bạn tư duy tốt hơn, ra quyết định khiến cho cuộc sống của bạn tốt hơn, sự nghiệp của bạn tốt hơn? “Có đọc có hơn” là một sự lừa mị to lớn. Nếu bạn là một người thực tế, hãy để kết quả ngoài cuộc sống là câu trả lời chính xác nhất, chứ đừng là một tư duy đầy cảm tính và phổ biến sau đây: “Đọc báo không có lợi ở mặt này thì có lợi ở mặt khác, chưa phải bây giờ thì là sau này.” Như đã nói, con người không lý trí như mình nghĩ, và thực sự ít người có thể giỏi trong kiểu tư duy được-mất đó. Phần lớn bạn sẽ rơi vào nhóm những người bị mất hơn là được.

Mọi người càng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm ra cái gì thực sự phù hợp cho bản thân mình, hay lớn hơn là kiểu tư duy của mình có còn phù hợp với xã hội ngày nay, với thời đại hiện giờ nữa hay không? Các tập đoàn truyền thông đưa cho bạn một giải pháp giản đơn cho câu hỏi đó : càng cập nhật những thông tin mới nhất, hiểu biết mới nhất về thế giới sẽ tạo cho bạn một lợi thế cạnh tranh to lớn so với người khác. Thế nhưng thực sự thì điều gì phù hợp với con người bạn mới giúp bạn đi đúng hướng, những điều mới nhất nhưng khiến cho bạn đi lệch khỏi bản chất của bạn chỉ tổ khiến cho bạn tốn thời gian vô ích. Tin tức không phù hợp chỉ tăng thêm tính bất lợi cho bạn mà thôi. Càng ít tiêu thụ chúng càng tốt cho bạn hơn.
Tin tức không cho bạn biết được điều gì đang thực sự diễn ra

Các mẩu tin là những cái bong bóng nhỏ nổ trên bề mặt chứ không cho bạn biết được điều gì đang tạo ra những bong bóng kia ở sâu bên dưới những gì bạn có thể nhìn thấy. Thu thập những mẩu dữ kiện đó có thể giúp bạn hiểu cách thế giới vận hành? Đáng buồn là không phải vậy. Những điều đang vận hành thế giới hay thay đổi thế giới này là những trào lưu, là những vận động ở dạng ngầm ẩn mà các nhà báo khó mà có thể phát hiện ra được.

Hãy nghĩ về những phát minh đã làm thay đổi thế giới. Trước khi chúng trở thành sự thật, trở thành một thế lực khiến giới truyền thông quan tâm đến là cả một thời kỳ dài tích lũy, nghiên cứu và phát triển trong âm thầm. Bill Gates bắt đầu được báo chí để mắt khi ông ở tầm tuổi 30, nhưng thực sự ông đã bắt đầu lập trình từ khi ông 13 tuổi. Nói cách khác một tài năng được thành hình trong lặng lẽ trong hai chục năm. Sẽ phải đòi hỏi một năng lực siêu phàm thì các nhà báo mới có thể phát hiện ra được những tài năng, những trào lưu đột phá đang âm thầm phát triển xung quanh họ. Thêm nữa, đó cũng chẳng phải việc nhà báo được trả lương phải làm. Báo chí và tin tức sẽ chỉ cho bạn biết thêm thông tin về những ai đã nổi tiếng, đã thành công mà thôi.


“Không có tiềng kèn nào được cất lên khi những quyết định quan trọng được tạo ra. Định mệnh được tạo nên trong âm thầm.” - Agnes de Mille

Bạn càng tiêu hóa nhiều mẩu tin tức vụn vặt kiểu đó, bạn càng có ít hiểu biết về bức tranh toàn cảnh của vấn đề. Nếu như nhiều thông tin hơn sẽ dẫn đến thành công cao hơn trong cuộc sống thì chắc hẳn những nhà báo, những học giả hay những người giao dịch chứng khoán hay những người đọc tin tức nhiều nói chung sẽ là những người giàu có và quyền lực nhất trong xã hội. Thực tế thì khác xa như vậy.
Tin tức độc hại đối với cơ thể của bạn

Nó liên tục kích hoạt hệ viền (limbic system) thuộc não bộ . Những câu chuyện đáng sợ thúc đẩy việc phát tán của các dòng của glucocorticoid (cortisol). Điều này làm nhiễu loạn hệ thống miễn dịch của bạn và ức chế sự phát tán của các hormone tăng trưởng. Nói cách khác, cơ thể sẽ gặp phải tình trạng căng thẳng mãn tính (chronic stress). Các mức độ glucocorticoid cao khiến cho tiêu hóa trục trặc, xương và tóc gặp trục trặc trong khả năng phát triển và tình trạng mẫn cảm với bệnh truyền nhiễm. Các tác dụng phụ có thể bao gồm sợ hãi, hung hăng, và thiếu nhạy cảm.
Tin tức làm tăng nhận thức lỗi

Tin tức nuôi dưỡng mầm mống của một loại lỗi nhận thức phổ biến: Sự củng cố thành kiến (confirmation bias). Nói như Warren Buffett: “Những gì con người làm tốt nhất là giải thích tất cả các thông tin mới làm sao cho các kết luận trước đó của họ vẫn chính xác.” Tin tức chỉ liên tục khiến bạn tin thêm vào những gì bạn đã biết trước đó. Điều đó khiến cho bạn trở nên tự tin thái quá, chấp nhận những rủi ro ngu ngốc và đánh giá sai lệch các cơ hội.

Hiện nay trên báo chí đầy rẫy những suy luận, gán ghép hết sức chủ quan và sai lệch. Nó đôi khi còn được ngụy trang bằng những gợi ý nho nhỏ, bạn nên suy nghĩ thế này, nên suy luận thế kia. Các bạn có quen thuộc với những câu chữ suy luận dạng: “Công ty phá sản vì X…” “Thế giới được thay đổi bởi Y…” Trong khi hoàn toàn thiếu những chứng cứ thuyết phục. Tôi đã thực sự chán ngấy khi đọc những bài báo đưa tin về một sự kiện diễn ra ngắn ngủn đi kèm với một nhận định đầy chủ quan và nguy hiểm ở cuối bài rồi. Các bạn chắc hẳn cũng chẳng xa lạ gì với điều kể trên, vậy tại sao vẫn tiếp tay cho chúng bằng việc tiếp tục đọc những tin tức kiểu đó, những tờ báo kiểu đó?
Tin tức ức chế suy nghĩ

Suy nghĩ đòi hỏi sự tập trung. Muốn tập trung được bạn cần thời gian không bị gián đoạn. Tin tức được thiết kế đặc biệt để gây sao nhãng, cản trở việc tư duy của bạn. Tin tức làm cho tư tưởng của chúng ta trở nên nông cạn.

Nhưng tin tức còn tồi tệ hơn cho khả năng ghi nhớ của bạn. Có hai loại bộ nhớ: Ngắn hạn và dài hạn. Khả năng của bộ nhớ dài hạn (long-range memory) là gần như vô hạn, nhưng bộ nhớ ngắn hạn (working memory) có giới hạn rất nhỏ. Đường đi từ trí nhớ ngắn hạn đến trí nhớ dài hạn là một nút thắt cổ chai của quá trình tư duy, nhưng bất cứ điều gì bạn muốn hiểu và ghi nhớ đều phải đi qua. Bởi vì tin tức nhồi vào trí nhớ ngắn hạn quá nhiều thông tin, khiến nó trở nên quá tải, ta sẽ chẳng nhớ và hiểu nổi thông tin nào một cách đầy đủ và tường tận.

Tin tức trực tuyến thậm chí còn tệ hơn. Trong một nghiên cứu năm 2001, hai học giả Canada cho thấy khả năng hiểu giảm khi số lượng các siêu liên kết (hyperlink) trong một tài liệu tăng lên. Tại sao vậy? Bởi vì bất cứ khi nào một liên kết xuất hiện, bộ não của bạn phải chia sẻ một ít trí năng của mình để phán đoán xem có click hay không. Nói cách khác báo chí và tin tức là một hệ thống được tạo nên với mục đích làm phân mảnh và rời rạc sự tập trung cũng như tư duy của bạn: Đọc mỗi thứ một tí, chỗ này một ít, chỗ kia một tẹo.

Nếu bạn muốn tìm hiểu sâu hơn về cách trí nhớ ngắn hạn và dài hạn hoạt động, có thể tham khảo bài viết này, ở chương 7,8,9 : Review sách “Trí tuệ giả tạo – Internet đã làm gì chúng ta
Tin tức thay đổi cấu trúc bộ não

Khi đã theo dõi một chủ đề nào đó, ta sẽ có xu hướng tìm đọc và cập nhật những diễn biến mới của câu chuyện đó. Hình ảnh một người đăng một post lên Facebook và refresh liên tục để xem có ai like hay bình luận gì không có quen thuộc với bạn không? Cảm giác chờ đợi thứ đó gì đó mới kiểu vậy không khác mấy cảm giác khi chúng ta nghiện thứ gì đó : thuốc lá, rượu, cờ bạc, ma túy…

Trước kia các nhà khoa học nghĩ rằng cấu trúc vật lý của bộ não từ lúc trưởng thành cho tới lúc chết là không thay đổi , tuy nhiên điều này đã được khẳng định là không đúng. Bộ não người, kể cả những người trưởng thành đều rất mềm dẻo và dễ thay đổi. Nơron liên tục cắt đứt các kết nối cũ để hình thành nên các kết nối với nơron mới và cấu trúc vật lý của bộ não cũng như thói quen tư duy của chúng ta sẽ thay đổi theo. Càng nghiện thứ gì, thứ đó lại càng trở thành thói quen ưa thích, cách tư duy ưa thích của chúng ta. Ngày nay một vấn nạn dễ thấy đó là khả năng mất tập trung và khó tiêu hóa nổi những bài viết dài. Chỉ sau 5-10 phút đọc là chúng ta không thể tập trung để đọc tiếp được nữa, trong số đó có cả những người trước kia đã từng là độc giả trung thành của những quyển sách dày. Cấu trúc bộ não của họ đơn giản là đã bị thay đổi vì thói quen đọc báo.
Tin tức làm tốn thời gian vô ích

Nếu bạn đọc báo 15 phút mỗi buổi sáng, bạn sẽ lại tiếp tục tìm kiếm những tờ báo trong 15 phút buổi trưa, và chốc chốc mỗi 5 phút bạn lại thấy mình lên các tờ báo để tìm kiếm những thông tin mới. Cuối cùng bạn mất cả đống thời gian để tìm xem có gì mới hơn trên các tờ báo nữa hay không.

Thời đại ngày nay, thông tin không còn là một thứ thiếu thốn nữa, nhưng sự tập trung thì có. Thông tin là vô hạn, nhưng thời gian của bạn thì luôn luôn là hữu hạn. Bạn sẽ chẳng bao giờ tiêu tốn một cách vô trách nhiệm với những thứ quan trọng khác như tiền bạc, sức khỏe hay danh tiếng của mình. Vậy tại sao lại hành xử thiếu trách nhiệm như vậy với thời gian và tâm trí đến vậy?
Tin tức giết chết sự sáng tạo

Cuối cùng, những điều chúng ta đã biết hạn chế sự sáng tạo của chúng ta. Đây là một lý do khiến các nhà toán học, nhà văn, nhà soạn nhạc và doanh nhân thường tạo ra các tác phẩm sáng tạo nhất của họ khi còn trẻ. Bộ não của họ được hưởng một không gian rộng rãi và không bị chiếm chật ních bởi những thứ vô bổ, điều chẳng giúp ích gì trong việc kích thích họ sản xuất những ý tưởng mới lạ. Tôi không biết một tâm trí thật sự sáng tạo nào như nhà văn, nhà soạn nhạc, nhà toán học, bác sĩ, nhà khoa học, nhạc sĩ, nhà thiết kế, kiến trúc sư hoặc họa sĩ mà lại là một người nghiện tin tức. Mặt khác, tôi biết một loạt các tâm trí độc ác không sáng tạo, những người tiêu thụ tin tức như thuốc phiện. Nếu bạn muốn đưa ra các giải pháp cũ, hãy đọc tin tức. Nếu bạn đang tìm kiếm những giải pháp mới, đừng đọc.

Xã hội cần báo chí – nhưng theo một cách khác. Báo chí điều tra luôn luôn là cần thiết, để phơi bày những sự thật được che dấu mà chúng ta chưa được biết. Nó cũng đưa cho chúng ta biết về các chính sách mà các tổ chức, định chế quan trọng của xã hội đang thực thi. Nhưng các mẩu tin ngắn sẽ chẳng có giá trị gì. Các bài phân tích dài và các cuốn sách chi tiết là đủ cho chúng ta và một xã hội dân chủ có thể vận hành tốt.

Tôi (tác giả) đã trải qua bốn năm mà không có tin tức, vì vậy tôi có thể nhìn thấy, cảm nhận và tường thuật những tác động của nó một cách trực tiếp và chân thực. Tâm trí cũng như cuộc sống của tôi ít gián đoạn hơn, ít lo lắng hơn, suy nghĩ sâu sắc hơn, nhiều thời gian hơn, nhiều hiểu biết thực tế hơn. Từ bỏ việc đọc tin tức không phải dễ dàng, nhưng nó đáng giá.



Nguồn: News is bad for you – and giving up reading it will make you happier
Bản dịch của Elnino tại Book Hunter

Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

Câu thơ tôi, cúi nhặt



Viên Dung



a.
Thơ cặp tình đi
có khi
tôi không kịp thở
lúc em rướn người thở bên tai
nhịp một nhịp hai
thơ cặp tình say
dứt bỏ an bày

Sự nhẫn nhục
muồi
phút cuối
hơi thở bất trung
dòng thơ bung mạch
từng thớ thịt run
giữa ban ngày ban mặt
chuyện ấy, kín một lòng sâu
có khi áo chưa kịp nhầu
tiếc lên câu

Thành sầu dạo khúc
thơ buồn nước đục
tợp rượu đong đưa
nghe
lòng xưa thổ lộ
cập nhật, ô hô,
khắc buồn cuối mộ

b.
Thơ cặp tình tôi say cổ mộ
tôi cúi nhặt
những câu thơ lòng thòng, im bặt
rồi bật khóc
tiên hiền thớ đất mạch hương
thà thịt chẳng còn
trắng xương khô khốc

Người tình qua đời tôi
không kềm được hơi thở dốc
thì thào như khóc sau lưng
khi nhẫm đọc
mấy chữ dính nọc thơ tôi:
“ta, gìn giữ gì, hy sinh xương máu?
nghĩ xem, đất rặt mùi ta, kho báu”

Tôi lau mau nước mắt cũ
dính dáng mấy câu thơ
nhập nhoè chữ Nôm khó đọc
mà hằn hộc âm thanh
hồn xưa thánh vấn:
“Thừa tự bất trung, bán đứng
con cháu Tiên Rồng mai đứng nơi đâu?”

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Chuyện giàu




Featured Image: Chris Morley




“Là người giàu nhất trong nghĩa trang không quan trọng với tôi… Khi đi ngủ và nghĩ rằng mình đã làm điều gì đó tuyệt vời… đây mới là điều tôi quan trọng.” – Steve Jobs

Tuần trước tôi và một người bạn được vinh hạnh tham gia một hội thảo của một tổ chức xin được phép dấu tên, khoảng 2700 người đến từ nhiều nơi, mời một diễn giả nghe đâu là triệu phú bên Mỹ, từng làm HR cho nhiều hãng xe khủng trên thế giới, nhưng sau đó tìm được công việc này, thế là về hưu cùng lúc với bố mình, năm 30 tuổi. Sau đó ông ta sống cuộc sống an nhàn, hưởng thụ đến tận bây giờ. Ông chia sẻ là ngay cả con của ông cũng hỏi: “Ủa, bố không phải đi làm à?”

Nơi đây người ta vẽ ra một viễn cảnh, nơi mà tất cả mọi người lấy tiền làm đam mê, lấy sự giàu có về vật chất, sống an nhàn, lười biếng trong một căn biệt thư xa hoa, với những trang thiết bị đỉnh nhất thế giới làm viễn cảnh tương lai cho mình.
Họ… thật nhàm chán!

Chúng tôi cố nán lại chừng 20 phút, thì cả hai đứa đều không thể chịu nổi cái không khí ngột ngạt nơi đây, toàn bộ đều diện quần tây, áo sơ mi, mặc vest chỉnh chu, mặc dù nhiều kẻ còn đang đi học, hay bắt đầu đi làm. Mặc dù lắm người còn rất trẻ, đúng ra họ phải khoác cho mình những bộ đồ thoải mái hơn, năng động hơn, nhưng họ lại sợ người ngoài “quánh giá” mình chưa thành công, mình không thành đạt, mình không lịch sự, không chuẩn nên phải tự quăng mình vào một cái nhà tù như vậy.
Chúng tôi tìm cách chuồn êm khỏi đây! Tự do muôn năm!

Trong quyển sách “The Millionaire Next Door” (có tên là Bẻ Khóa Bí Mật Triệu Phú, do First News phát hành), khi Thomas J. Stanley, William D. Danko cùng các đồng nghiệp bắt tay vào “săn lùng” những kẻ triệu phú bí ẩn, họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi biết rằng những người thực sự giàu có mà họ muốn tìm kiếm không nằm trong những căn nhà xa hoa nhất khu phố hay diện những bộ đồ bảnh bao nhất, đi chiếc xe hiệu nhất, mà có thể là tên hàng xóm kế bên, ở trong một các nhà bình thường, mặc những bộ đồ sell off, đi những chiếc xe cũ kỹ từ đời nào cơ.


“Cứ 7 người mua một bộ đồ trị giá trên 1000 USD thì chỉ có 1 người là triệu phú.” – The Millionaire Next Door

Vẫn biết là cơm áo gạo tiền, lo cho người này người kia nên đồng tiền đi liền khúc ruột, chẳng thể thiếu được trong cuộc sống mỗi người, nhưng ta có thực sự cần quá nhiều tiền, và hưởng thụ cho đến chết không?

Sau khi về hươu được 2 năm, chỉ quanh quẩn ở nhà, lo cơm nước, đốc thúc học hành của em tôi, ba tôi già đi hẳn, sức khỏe dần rút xuống, tinh thần cũng chẳng còn mạnh mẽ như trước, chỉ đến khi ông xắn tay lên, phụ giúp mẹ tôi thì mọi thứ ổn lại, ổng mạnh khỏe hơn, vui vẻ và đầy sức sống hơn.

Ngay trong những định nghĩa, chia sẻ qua boardgame Cashflow nổi tiếng của mình, Robert Kiyosaki cũng chia sẻ, mục đích lớn nhất để ta thoát khỏi vòng Rat Race, bước vào cuộc chơi của những người thực sự thành công là đi chinh phục. Khi đạt được tự do tài chính cũng chính là lúc chúng ta chúng ta dồn mọi thời gian, nỗ lực vào theo đuổi những giấc mơ của mình, chứ không phải biến thành một cái xác vô hồn, theo đuổi những thứ phù phiếm xa hoa, vô độ.
GIÀU CÓ là gì?

Với tôi, giàu có không chỉ là tiền bạc (tức là có nha, hông phải không có tiền bạc đâu), nó còn là sự thăng hoa về tinh thần khi trong quá trình giàu có đó, ta được làm thứ mình thích, chiến đấu mỗi ngày để thỏa mãn cái sự đam mê của mình, để lại một cái gì đó có giá trị, một hình ảnh khó phai cho những người chung quanh, một tấm gương cho những người đi sau.

Có một ai đó nói câu này:


“Nếu đi đến cuối cuộc đời, mà thân thể ta chẳng có mấy vết sẹo, tức là ta chẳng trải nghiệm được gì từ cuộc sống.”

Hay có một câu khác hay hơn:


“Phần lớn mọi người đã chết ở tuổi 25, chỉ có điểu đến 75 tuổi mới chôn mà thôi.” – Benjamin Franklin

“Thành công là một cuộc hành trình, chứ không phải điểm đến.” – A. Moravia

Lảm nhảm xíu thôi, tại cảm thấy buồn cho những người ngồi đăng kia và đâu đó có những người giống họ. Thật đáng tiếc nếu mục tiêu của ai đó là nghỉ hưu thật sớm, kiếm được đủ tiền để hưởng thụ và rồi biến mất như chưa vào giờ tồn tại. Được làm thứ mình thích là cả một niềm hạnh phúc bự chảng. Có điều vì áp lực xã hội, vì chưa đủ giỏi, vì không chịu rèn luyện kỹ năng, tiếp thu kiến thức, tạo dựng những mối quan hệ mà lắm người phải quăng mình vào những cuộc chơi mà họ chẳng hề muốn chơi để rồi bị cơm áo gạo tiền cuốn phăng đi, để rồi họ chỉ đơn thuần là tồn tại, chứ không còn là sống nữa…



- Ưng Đen -

Cuối cùng là màu trắng




Minh họa của Trung Dũng


HỒ TRUNG LIÊN





Chiếc giường có nhiều thanh gỗ nẹp ở các dấu nối, người vợ ngồi trên đó. Tôi nhìn rõ từng nếp nhăn khô quắt trên khuôn mặt chị. Mâm cơm đặt giữa nhà. Chị chưa ăn. Có ăn cũng không nuốt nổi. Dưới trăng, chị đợi chồng - người đang cùng bè bạn vây quanh bàn nhậu, để dấn thêm một bước về phía cánh cửa màu đỏ.

Chuyện 5 năm về trước:

Anh đau. Nhà có bãi gạch, mỗi ngày riêng anh có thể đúc tới hơn trăm viên. Làm việc nặng đau là thường, chắc xoa dầu gió là ổn. Nhưng, sau tuần rượu với mấy người thợ, đêm ấy anh ôm bụng quằn quại trên giường.

Đến phòng mạch tư, người ta khẳng định anh bị ruột thừa. Phải kiêng việc nặng, vậy là bãi gạch của anh vắng chủ, chỉ có người làm công. Sau hai ngày uống thuốc, anh phải trắng đêm với cơn đau cuộn lên dữ dội. Vợ con chở anh lên viện. Bệnh án ghi: “Ruột thừa”. Mổ gấp!

Để gom được số tiền bệnh viện định giá, anh chị phải đóng gần hai vạn viên gạch. Bác sĩ bảo mổ khoảng tiếng là xong. Cả nhà không ai ngồi được. Đồng hồ báo hai tiếng rưỡi, cửa phòng mổ vẫn kín mít, chút khe hở lùa ra hơi lạnh dễ sợ. Mãi. Một ông bác sĩ bước ra. Chị mặt cắt không ra máu. “Ai là người nhà bệnh nhân”. “Dạ, tui là vợ anh”. Bác sĩ vẻ hối lỗi: “Thưa chị, khi chúng tôi mổ cho anh mới phát hiện… anh nhà không bị ruột thừa”. “Trời!” - chị như không còn kêu lên được. “Anh nhà u đại tràng! Phải… mổ lại”.

Không đủ tỉnh táo trách móc, chị “trăm lạy nhờ bác sĩ”, rồi giục con về gom tiền. Chúng kéo chị ra phía hành lang. “Cái này do bệnh viện. Chụp phim, bệnh án ghi rồi, giấy trắng mực đen còn đó. Giờ mổ lại ai chịu?”. Chị lạy cả con mình: “Cha đang nằm trên bàn mổ chết sống chưa biết con ơi…”.

Chị lắc đầu với tôi, nói chậm, như không muốn xoáy vào đoạn kết: “Mấy đứa con, họ hàng làng xóm trách chị sao không đâm đơn lên giám đốc bệnh viện. Nhưng anh không cho, nói: Người ta lỡ rồi…”.

Đường mổ vừa vạch ra… Cũng không thể chờ vết mổ kia lành lặn, dao lại lạnh lùng xẻ vào thịt da anh.

Nhìn từ khe cửa kính, chị thấy ruột anh đầy máu me... Chị bỏ chạy, thẳng về ngôi nhà phía trước mặt có nhiều ngôi mộ.

Hai mươi ngày anh nằm trên giường bệnh có trải tấm vải trắng toát. Bác sĩ cắt đoạn ruột khá dài; đồng nghĩa với việc tuổi thọ của anh phải rút lại, rất ngắn.

Con người với dáng đi khật khưởng, ngủng ngẳng, chuyên đời mặc quần đùi, ở trần và thỉnh thoảng phét tay vào bụng; cùng với điệu cười dòn, tôi không tin ông đang bước dần vào sương khói…

“Bác sĩ khuyên anh kiêng cử, nhất là bia rượu. Nhưng anh bảo, để tao vui với bạn bè chút… Anh vui thật. Nhưng chị lo lắm. Làng xóm ai cũng hùa, bảo ngó anh khỏe mạnh vậy, lo chi dữ! Sao không lo được. Bác sĩ của bệnh viện lớn, người ta ăn hết cơm gạo rồi mà nói sai”.

“Bác sĩ nói sao chị?”

“Ngày ra viện họ mới cho chị biết: nếu anh cự tuyệt bia rượu… cũng chỉ sống được dăm sáu năm!”.

Tính từ thời điểm anh nhập viện, vậy là còn… có thể một năm, có thể mấy tháng.

“Nhiều người thấy chị hay tìm anh cứ nhăn nhó trách móc”.

Ờ, thông cảm! Người ta quên anh với hai vết mổ. Vết mổ cũ, bác sĩ rút ống thông ruột lúc thịt non đã bám… Đau! Anh gồng lên khiến đường khâu ở vết thương bung ra phun máu! Chị lại một lần nữa chạy về với những ngôi mộ trước mặt nhà, uy nghiêm, sừng sững.

Nhập vào bàn rượu không ai kể lể bệnh tình, không ai được phép tính ngày giờ tồn tại. Uống rượu là chuyến viễn du vào không gian ảo. Y không được sống với hiện tại, ngoại trừ vợ, người thân - những người không thể nhường bớt thời gian cho y.

Chị đã khóc. Dưới trăng, nước mắt chị như sương u huyền rồi thành vệt dài óng ánh.

Tôi quay mặt, nhìn vào ngôi nhà trệt. Mấy đứa cháu ngủ lăn giữa nền, ánh điện vàng quạch. Những đứa cháu chưa bao giờ bị ông đánh; chưa bao giờ ông của chúng nạt nộ. Dưới ánh trăng mỡ màng, đâu đó, chúng vẫn thường trèo lên từng ngôi mộ chơi trốn tìm. Chúng không nghĩ nhiều lắm đến ma cũng như ai đó sắp thành ma… Chúng yên giấc tuổi thơ trong khi ông của chúng thầm lặng mà đau; và chị thắt ruột trong bóng tối miên man.

Phận người không thể tính bằng thời gian chồng trên những lóng tay. Nút thắt phận người định sẵn trên sợi dây vô hình giăng qua thềm cực lạc.

Mỗi sáng mở mắt, chị xuống ngay bãi gạch… Chị sợ tới nơi, lúc sương mù còn giăng… phủ lên một xác chết!

Thường đêm anh nằm một mình trong gian nhà trệt giữa bãi gạch. Vẫn cái dáng ấy: khật khưởng, ngủng ngẳng, chuyên đời ở trần và thỉnh thoảng… phét tay vào bụng. Mỗi ngày, quãng đường chỉ vài trăm mét từ nhà đến bãi anh đi về không biết bao bận. Đêm nay tôi cũng trên quãng đường ngắn ấy đến với anh.

Tôi gọi anh bằng ông, không vì anh chị đã có cháu nội, cũng không phải anh sắp đi hết vòng đời theo quy luật sinh-lão-bệnh… Ông nằm trên chiếc giường đặt ở hiên, không mùng màn. Thẳng cẳng! Có thể chưa ngủ. Tôi gọi. “Xác chết” dựng dậy: “A! Đến chơi à?” Tôi giật thót. Té ra ông còn… Ông cười khà, đánh phét tay vào vết mổ rồi bước vào phía trong mang ra cốc nước pha ánh trăng vàng nhợt.

“Ta làm vài ly hè”.

Tôi nhớ đến khuôn mặt chị...

Tôi bắt đầu câu chuyện với ông về những ngôi mộ nằm rải rác trong các khu vườn. Xa hơn, phía sau chốn thường đêm ông ngủ, mênh mang là mộ rỡ ràng dưới trăng.

Ông nâng rượu. Tôi cung kính ông một ly nhỏ, sánh trăng. Ngoài kia những ngọn gió từ muôn kiếp trùng dương chợt lùa về giữa biển sương vàng xuộm. Mấy mươi ngàn ngôi mộ âm khí bốc ngùn ngụt. Tôi lại nghĩ về chị. Về một kiếp sống lắt lay trong trầm luân bể khổ. Hẳn đến mai sau, lúc chị đã không còn tồn tại trên cõi này nữa, tôi vẫn bị ám ảnh bởi dáng chị bó gối ngồi trên chiếc giường cũ nhìn ra những ngôi mộ trước hiên nhà.

*

Rằm tháng 7 trăng sáng lạnh lùng. Ánh trăng đẫm ướt phủ lên vùng quê còn nhiều lùm cây rập rịt. Tôi đến ngụ cư nơi này cũng hơn mười năm. Quen ông dẫu ít ngồi trò chuyện. Tôi hiểu ông quá ít... Hôm nay cũng là một đêm trăng sáng, sau một năm, trên nấm mồ của ông đã vươn lên thật nhiều những ngọn cỏ. Tôi mang theo chai rượu ngon đến mời. Cái đêm năm trước ấy, nếu gia đình chị biết tôi có mời ông uống rượu (dẫu là rượu thuốc thượng hạng), và nửa đêm ông đã thực hành giấc ngủ ngàn thu, hẳn tôi sẽ ân hận lắm. Đêm nay thì tôi có thể công khai nâng rượu cùng ông. Tôi tưới rượu lên mộ ông, đẫm bia mộ. Tôi cụng ly vào dòng tên ông và uống. Ánh trăng soi rõ từng chi tiết chạm khắc khuôn mặt ông. Thứ ánh sáng tinh khiết huyền ảo và dường như có cả mùi hương nồng nã. Tôi còn nợ ông một lời hứa.

Ông khen rượu ngon. Tôi bảo rượu ngâm nấm linh chi đậm đặc đó. Ông nhấp thêm nửa ly, gật gù. Ông hỏi chết đi có thật theo được Phật lên cõi Cực Lạc? Mình có thằng cậu tháng trước đưa về một số đĩa giảng pháp, có mấy cái dành cho người sắp lâm chung. Ý nó muốn mình xem những đĩa đó lại giả bộ mua lẫn lộn vào nhiều đĩa hát hò vui tươi. Ở nhà mình thử mở xem, mới hay tội lỗi tích từ nhỏ giờ quá lớn. Đâu biết. Mình tin nhân quả. Nên sợ...

Tôi im lặng quan sát ông. Đúng là tôi biết ông quá ít. Ông lại bảo sống như chú khó quá. Hành theo Phật khó quá. Mẫu mực khuôn phép quá mình không theo nổi, nhưng mình vẫn muốn như vậy, tiếc là muộn rồi... Hồi còn thanh niên chưa vợ, vườn mình cây cối hoang vu mồ mả dày đặc. Có một ngôi mộ to đùng, đen sì. Mộ cổ. Ngày ấy đây đó vẫn dấy lên những vụ đào mộ lấy của. Mình cũng liều. Giả bộ bảo dời mộ lên chỗ cao ráo sạch sẽ hơn. Người ta vẫn biết mình ân mưu tìm vàng. Mà có vàng thật...

Trăng dát vàng mênh mang lên ngôi mộ cổ to đùng trước mặt nhà chị. Nhuốm màu tâm linh. Con người đang sống đã thêu dệt nên nỗi kinh hoàng từ những ngôi mộ. Từ hồi gia đình chị tới ngụ nơi đây chưa hề thấy một hiện tượng ma quái. Mộ, ở đây là chốn thiêng huyền diệu, là những ông già trường cửu nhìn dòng người ưu tư qua màn hư ảnh. Những ngôi mộ trước mặt nhà chị, dưới trăng, khiến mắt tôi dịu lại.

Tôi lại nhìn ông qua ánh trăng đặc sánh trong ly rượu. Khuôn mặt ông bình thản lạ lùng. Mình đào hố dưới bàn thờ cất vàng rồi làm lại nền nhà. Không ai biết. Tính đợi mươi năm mới đưa ra dùng. Nhưng cuộc sống ổn định dần, con cái sớm có công ăn việt làm, đứa nào cũng giàu có. Chỗ vàng chôn giấu còn nguyên dưới nền nhà, dưới bàn thờ đức Quán Thế Âm. Định bụng đưa ra một bất ngờ lớn nhất cho gia đình. Bây giờ nghe Phật pháp, biết nghiệp quả nặng hơn núi, mình tính...

Đó là những phút giây đặc tả con người ông. Những phút giây được chắt lọc qua bao thăng trầm cuộc đời một người đàn ông sớm bất lực trước thời gian. Tôi cũng không thể ngờ cuộc sống vốn bình lặng của mình lại lọt vào tầm mắt ông một cách chi tiết. Quá hiểu tôi, hơn cả những đứa con ruột rà; ông đã gieo một hạt giống thiện lành và nhờ tôi săn sóc để nó có cơ hội nhú khỏi mặt đất đón ánh nắng mặt trời.

Tôi rót thêm một ly và cụng vào bia mộ. Ông không biết nhờ ai mới đặt niềm tin vào tôi. Thực tình quá khó. Tôi biết về chị và những đứa con của ông, đều là những người mê tiền bạc. Một số vàng lớn như vậy, trong mắt họ tờ di chúc của ông chắc không nhiều giá trị. Họ tốt, nhưng để chi ra vài đồng từ thiện quả khó. Vô tình tôi từng thấy chị từ chối mua những búp hương do ni sư của chùa mang đến mời. Hình ảnh đó khiến tôi như có lỗi với chị. Giá tôi không nhìn thấy cảnh ấy để hình ảnh của chị tròn đầy... Nhưng rồi nó cũng được xóa nhòa từ ngày ông lâm trọng bệnh. Cái dáng ngồi trên chiếc giường một nhìn ra những ngôi mộ hoang dưới trăng có sức hút ma mị. Một dáng hình được tạc vào sâu thẳm cõi hồn tôi một cách lặng lẽ và, đau đớn!

Ông ra đi quá đột ngột. Tôi và ông lẽ ra cần nhiều thời gian hơn nữa để vạch phương án khả thi nhất cho việc dùng trọn số tiền đó làm từ thiện.

Mỗi buổi đi làm về tôi đều ngó vào nhà ông, nhìn cái tủ thờ phía trên là tượng Quán Thế Âm với nụ cười đầy bao dung. Và tôi có nhìn xuống nền nhà dưới cái tủ thờ, phía dưới là một gia tài lớn ngoài sức tưởng tượng. Nhiều lúc tôi cảm thấy bất lực khi nhìn vào ngôi nhà của ông. Sao ông không trao trách nhiệm đó cho chị và những đứa con? Mỗi đêm bước dạo quanh xóm tôi thường thấy chị ngồi trên chiếc giường cũ ấy nhìn về phía những ngôi mộ hoang. Tôi muốn tới bên, ngồi xuống và nhẹ nhàng nói về nguyện ước lớn nhất trong đời ông, để ông bớt nghiệp lực siêu thăng lên cõi lành. Đã có lần ngồi bên chị, đã định vào đề rốt cuộc tôi lại nhìn trăng rồi lặng lẽ ra về. Thoáng nghĩ đến viễn cảnh mua lại ngôi nhà của ông, hỡi ôi, có lẽ đến cuối đời tôi cũng chưa đủ tiền.

Tôi đang dần quen với cuộc sống nơi đây. Một vùng đất mà trong vườn ai cũng có mộ phần. Tôi cũng đã làm bạn được với những linh hồn, có lẽ. Những đêm khuya trăng ứa tràn mặt đất, tôi vẫn dạo quanh xóm, quanh những ngôi mộ thấp thoáng soi mình vào khoảng không vô tận miên man nghĩ về lớp thời gian đang lạnh lùng nhuốm trắng mái tóc xanh.

Và rồi… Một hôm tôi đi làm về, thấy trong nhà ông đông đúc lạ. Tôi tạt ngay vào xem. Trời! Tôi nghĩ mình sẽ thốt gọi tên ông. Người ta đang đào dưới bàn thờ!

Sự việc khởi nguồn từ việc chị nhập viện. Tốn tiền lại không nhiều hy vọng, mấy đứa con cả tin đi xem bói. Thầy phán dưới bàn thờ có hài cốt… Ngay chiều đó những người chuyên bốc mộ được thuê về. Sâu khoảng nửa mét, lộ ra một cái tiểu sành, cho thấy đây đã là “mộ” cải táng. Cái tiểu sành nắp được gắn chặt bởi xi măng. Mắt tôi căng lên, hồi hộp. Muốn lập tức truyền lại di ngôn của ông, bỗng run sợ điều gì bất ổn... May thay, người ta thống nhất để nguyên như vậy, bọc lại trong một tấm vải đỏ và đưa thẳng ra đồi cất cho nó một ngôi mộ mới.

Đêm ấy tôi đặt bàn giữa sân pha trà một mình nhâm nhi. Ngước nhìn vầng trăng u ám. Ông còn ngoài mộ hay đã siêu thăng lên cõi thánh? Hay ông đang quanh quẩn bên tôi, nhét vào đầu tôi cái ý nghĩ: hãy phát tâm cúng cho “nó” một tấm bia, lấy họ gì cũng được nhưng tên phải là Vàng, Nguyễn Thị Vàng chẳng hạn. Tôi cười mỉa: Nguyễn Thị Hư Danh chứ. Ông bỏ đi, chân dẫm lên bóng mình. Ánh trăng nhợt nhạt khiến cái bóng ấy liêu xiêu mờ nhòa, rồi tan vào sương lạnh.

Em chắc rằng



CHÂU THU HÀ


Minh họa: Nhím


Ô cửa phòng anh giờ này vẫn sáng đèn
(thành phố đang rộn ràng mùa lễ hội)
Công việc cứ cuốn ta đi
Mình gặp nhau lúc nào cũng vội

Nhớ anh dài hơn thế kỷ
Dữ liệu về anh mỗi lúc một đầy
Em chắc rằng trong ngôi nhà ấy
Có một người chờ anh về đêm nay

Đừng nói thêm gì những chuyện xa xôi
Xin anh đừng nói về cuộc tình này thêm nữa
Em đã từng ước mình như người nghệ sỹ De Steltenlopers
van Merchtem đi đôi cà kheo trên phố
Vẫn giữ thăng bằng ngay khi không anh

Như khối rubic tình yêu, em sắp đặt cuộc đời mình
Bên những mảnh ghép mang tên anh vụn vỡ
Chưa kịp ghép vào đã sợ bung ra bởi gió
Nên những muộn phiền em giấu ở trong tim

Ô cửa phòng anh giờ vẫn sáng đèn
Nơi em dường như thân thuộc
Chỉ có chiếc giường kia biết là em thường khóc
Khi quay về trên những bước chân, từng bậc thang đơn độc
Làm sao để giữ được một người
Làm sao em chắc rằng anh chỉ có em thôi?

Siêu giàu Việt nam



Thế giới soi người giàu Việt

Ngân hàng ANZ hôm 11/7 vừa đưa ra một thông tin đáng chú ý: Tầng lớp trung lưu Việt Nam phát triển nhanh hơn bất cứ nền kinh tế nào ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc. Và Việt Nam sẽ có thêm khoảng 2 triệu người trung lưu mỗi năm.

Thông tin trên khá bất ngờ, nhưng là điều đáng mừng bởi nó phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong khoảng 2 thập kỷ qua. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và có hiệu suất lao động được cải thiện mạnh mẽ. Số doanh nghiệp Việt Nam đã lên tới 600.000-700.000 đơn vị và đây là nơi sản sinh ra hàng chục triệu người thuộc tầng lớp trung lưu.



Tuy nhiên, điều mà nhiều người ngạc nhiên nhất về những báo cáo về tình hình tài chính của người dân Việt Nam gần đây chính là con số công bố về lượng người siêu giàu.



Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố tuần qua tại Hà Nội, Việt Nam có khoảng 110 người siêu giàu với tài sản trên 30 triệu USD/người (khoảng 630 tỷ đồng/người). Số lượng người siêu giàu tại Việt Nam đã tăng 3 lần trong một thập kỷ.

WB đánh giá con số này cũng bình thường so với các nước có mức thu nhập bình quân đầu người tương đương Việt Nam. Tuy nhiên, cũng theo khảo sát của ngân hàng này, nhiều người lại tỏ ra hoài nghi về cách làm giàu hiện nay của các đại gia. Bên cạnh đó, báo cáo cũng nhận định khoảng cách giữa những người rất giàu và phần đông người VIệt Nam cũng như tình trạng bất bình đẳng đáng kể về cơ hội là điều đáng lo ngại.

Trước đó, hồi tháng 9/2013, một ngân hàng của Thụy Sĩ cũng đưa ra báo cáo cho rằng Việt Nam có gần 200 người siêu giàu với tài sản trị giá 30 triệu USD trở lên và số người siêu giàu Việt Nam sẽ tăng với tốc độ cao nhất thế giới trong 10 năm tới.

Nếu theo báo cáo này, với mức tăng được dự báo lên tới gần 170%, số người siêu giàu Việt sẽ lên tới gần 300 – con số gây bất ngờ với nhiều người bởi tầm vóc và thực trạng kinh tế chưa tương xứng của Việt Nam hiện nay. Nó cũng gấp cả chục lần so với số lượng những người siêu giàu được thống kê qua thị trường chứng khoán (TTCK) tập trung.

Mặc dù vậy, thật trái ngược khi những con số này lại được coi là chưa phản ánh hết số người siêu giàu thực sự tại Việt Nam. Dưới con mắt của nhiều người, số người giàu được các tổ chức thống kê qua TTCK, qua các doanh nghiệp tư nhân lớn chưa lên sàn… chỉ là bề nổi, chủ yếu dựa trên tài sản công khai, còn thực tế có thể lớn hơn nhiều. Những vụ phát lộ tài sản trị giá rất lớn gần đây cho thấy điều này.

Siêu giàu: Khó chỉ mặt đặt tên

Sự thật về số người siêu giàu, gồm những ai… rất ít người biết. Trong báo cáo của các tổ chức trên, không một đơn vị nào công bố danh sách tên tuổi, tài sản mà họ sở hữu.

Nếu xét trên sàn chứng khoán – nơi được coi là công khai và minh bạch nhất trong các kênh đầu tư và cất giữ tài sản, số người có tài sản trị giá từ 600 tỷ đồng trở lên, tương đương khoảng 30 triệu USD để lọt tốp siêu giàu rất ít, chỉ khoảng 20 người.

Ngoài những gương mặt quen thuộc được nhắc đến nhiều trên, còn những người siêu giàu nào ở Việt Nam chưa lộ diện?


Trong đó, ngoài những cái tên nghe quen tai như tỷ phú đô-la duy nhất Phạm Nhật Vượng với đế chế Vingroup, ông trùm BĐS – cao su Đoàn Nguyên Đức (HAG), hai đại gia sắt thép Trần Đình Long (HPG), Lê Phước Vũ (HSG), ông lớn ngân hàng – BĐS – bán lẻ Hà Văn Thắm (OGC), doanh nhân – chính trị gia Đặng Thành Tâm (KBC, ITA), “vua cá tra” Dương Ngọc Minh (HVG), “ông lớn” công nghệ Trương Gia Bình (FPT), đại gia bánh kẹo Trần Kim Thành (KDC), Nguyễn Đăng Quang (MSN), Hồ Hùng Anh (Techcombank)… và vợ con, thì còn có những ai thuộc tốp siêu giàu chưa lộ diện?

Như vậy, số đại gia ẩn danh siêu giàu vẫn chiếm đến 90%.

Trên thực tế, các bảng xếp hạng của các tổ chức có thể bao gồm cả các doanh nhân có doanh nghiệp chưa niêm yết cổ phiếu trên sàn như Lê Viết Lam (SunGroup), Đặng Khắc Vỹ (VIB), Nguyễn Thanh Hùng (Sovico), Trịnh Thanh Huy (BĐS Bình Thiên An), Nguyễn Cảnh Sơn (Eurowindow Holding), bà Nguyễn Thị Nga (BRG, SeABank), ông Vũ Văn Tiền (Geleximco), “chúa đảo” Đào Hồng Tuyển (Tuần Châu), vua hàng hiệu Jonathan Hạnh Nguyễn (IPP), Trần Quý Thanh (Tân Hiệp Phát), ông Huỳnh Uy Dũng (Sóng Thần), ông Đỗ Minh Phú (DOJI), ông Võ Quốc Thắng (DTG), ông Đoàn Quốc Việt (BIM Group), ông Trầm Bê (STB), ông Vũ Quang Hội (Bitexco)…

Với đa số các nhà đầu tư, rất khó để có thể thống kê ra được khoảng 100 người siêu giàu Việt thông qua TTCK và kiểu đoán mò dựa trên các thương hiệu doanh nghiệp nổi tiếng như vừa kể trên. Sự tò mò, do vậy, là rất lớn, nhất là khi các tổ chức liên tiếp công bố số lượng những người siêu giàu nhưng không bố tên tuổi cụ thể.

Vậy, tại sao các tổ chức lại không thể công bố danh tính những người siêu giàu? Vì những người trong cuộc không muốn công bố, muốn yên ổn làm ăn trong bối cảnh khủng hoảng như hiện nay, hay do tài sản họ làm ra có nhiều khuất tất, không hợp pháp; hay những người mà sự giàu có của họ không thể được công bố?

Một điều cũng đáng suy nghĩ là tốc độ gia tăng số lượng người siêu giàu tại Việt Nam theo những thống kê nói trên là quá nhanh. Giàu có, sung túc là tốt nhưng giàu quá nhanh và không tương đồng với những đóng góp cho nền kinh tế, cho xã hội, hoặc/và giàu có dựa trên những cơ hội, thời cơ, cơ chế; giàu có không minh bạch hợp pháp… là điều đáng ngại.

Những con số về người siêu giàu nhiều khi không thể nói lên sự phát triển chung của nền kinh tế hay sự giàu có của đa số người dân.

Mạnh Hà

Hai nhóm chính trong cộng đồng người Việt hải ngoại



 Tôi có vài người quen vượt biên sang Úc định cư mấy chục năm nay. Họ thuộc loại thành công, công ăn việc làm ổn định, tính tình rộng rãi và vui vẻ. Họ chỉ có một vấn đề là: rất không ưa các du học sinh cũng như những người mới từ Việt Nam sang.

Chưa bao giờ tôi hỏi họ lý do tại sao có tâm lý ấy. Nhưng tôi đoán là, dưới mắt họ, những người du học hoặc di dân mới ấy đều là con cháu tầng lớp cán bộ chuyên tham nhũng hoặc những người mới giàu xổi sau này, chỉ biết vơ vét tiền bạc từ bất cứ nơi nào có thể rồi ăn chơi trác táng, không biết quan tâm đến đồng bào và đất nước, dửng dưng trước sự đe dọa của Trung Quốc ở Biển Đông, v.v…

Ngược lại, tôi cũng gặp không ít các du học sinh và những người mới di dân sang Úc có cái nhìn khá thiếu thiện cảm đối với lớp người tị nạn. Theo lời họ, phần lớn người tị nạn lớp trước thường có tâm lý bảo thủ, khư khư ôm chặt quá khứ chiến tranh trong lòng, hay nói về chính trị, mà chủ yếu là chính trị theo kiểu đối kháng, không theo kịp với những sự thay đổi chóng mặt ở Việt Nam, v.v…

Xin nhấn mạnh: Cả hai trường hợp trên, tôi nghe thấy khá nhiều, nhưng không phải là tất cả, thậm chí, cũng khó nói được là số đông, bởi lý do đơn giản: chúng ta chưa có một cuộc điều tra hay thống kê nào cả. Ở đây, tôi chỉ bàn vấn đề từ kinh nghiệm của một người có nhiều cơ hội tiếp xúc với cả hai nhóm tị nạn và du học cũng như di dân.

Loại trừ những thành kiến hay tâm lý nghi kỵ nhau về phương diện xã hội, trong lãnh vực chính trị, chúng ta cũng dễ dàng phát hiện những khác biệt giữa hai nhóm. Rõ nhất là qua vụ biểu tình chống Trung Quốc mang giàn khoan HD-981 vào thềm lục địa Việt Nam. Ở các thành phố lớn tại Úc, thường có hai cuộc biểu tình vào hai ngày khác nhau: Một, của cộng đồng người tị nạn với cờ vàng ba sọc đỏ và một, của các sinh viên sang Úc du học, trong đó, có không ít người đã học xong và ở lại làm việc tại Úc, với cờ đỏ sao vàng. Cả hai đều chống Trung Quốc. Nhưng hai bên lại không thể nhập làm một chỉ vì lá cờ.

Tuy không thể biết chính xác mức độ khác biệt giữa hai nhóm tị nạn và di dân/du học ấy phổ biến đến độ nào nhưng, chỉ bằng kinh nghiệm và quan sát, chúng ta cũng có thể biết được mấy điều: Một, nó có thật; hai, nó có ảnh hưởng khá lớn trong sinh hoạt của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.


Ảnh hưởng ấy có thể nhận ra ở nhiều phương diện. Về phương diện xã hội, cộng đồng thường chia thành các nhóm nhỏ, hiếm khi có được sự hòa đồng và đoàn kết chặt chẽ. Về phương diện tâm lý, nó gây phân hóa, thậm chí, nghi kỵ giữa người Việt Nam với nhau. Về phương diện chính trị, chắc chắn nó làm suy yếu, hơn nữa, có thể vô hiệu hóa những nỗ lực tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam hoặc cho chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.

Đứng về phương diện nghiên cứu lưu vong học hay di dân học, thật ra, người ta không thấy có gì đáng ngạc nhiên cả. Những sự phân hóa và chia rẽ như vậy hiện diện trong mọi cộng đồng xa xứ. Chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Có điều, từ góc độ chuyên môn, chúng ta dễ thấy vấn đề một cách sáng rõ hơn, do đó, cũng tránh được những cách nhìn mang định kiến vốn dễ làm trầm trọng hóa vấn đề.

Từ góc nhìn học thuật, chúng ta có thể chia cộng đồng lưu vong thành hai nhóm chính: nhóm lưu vong (diaspora) và nhóm xuyên-quốc gia (transnationalism).

Hai khái niệm này, hiện nay khá phổ biến trong lãnh vực nghiên cứu về di dân hay sắc tộc, vừa có điểm giống vừa có điểm khác nhau.

Giống: Cả hai đều sống ngoài quê hương, đều bị ám ảnh về gốc gác và quá khứ, đều băn khoăn về vấn đề bản sắc, đều, với những mức độ nhiều ít khác nhau, bị kỳ thị và lạc lõng ở xứ người.

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai khái niệm này cũng không nhỏ.

Khác, trước hết, ở lịch sử của từ: Trong khi lưu vong có gốc rễ tận thời cổ đại, với việc người Do Thái bị trục xuất khỏi quê hương của chính họ, hoặc gần hơn, với hiện tượng người Phi châu bị bắt bán làm nô lệ ở châu Âu trong mấy thế kỷ trước, từ xuyên quốc gia mới hơn, chỉ xuất hiện từ vài thập niên gần đây.

Khác, ở lý do tha hương: Với người lưu vong, lý do chính là vì chính trị, và phần khác, ít hơn, kinh tế; nhưng dù là vì chính trị hay vì kinh tế, việc quyết định ra đi của họ bao giờ cũng được xem như một thảm kịch, gắn liền với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cộng sản hoặc chiến tranh khốc liệt, trong khi đó, xuyên quốc gia được hình thành chủ yếu từ lý do nghề nghiệp và kỹ thuật, gắn liền với xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển của nền kinh tế vĩ mô.

Khác, ở tính chất: Lưu vong bao giờ cũng nặng màu sắc chính trị, trong khi đó, tính chất chính trị ở những người xuyên quốc gia, nếu có, cũng nhẹ nhàng hơn nhiều, không đủ trở thành một ám ảnh lớn, từ đó, định nghĩa bản sắc của họ.

Khác, ở quan hệ, thứ nhất, quan hệ với quê gốc: trong khi, với những người lưu vong, quan hệ ấy ít nhiều cay đắng, có khi thù hận; với những người xuyên quốc gia, quan hệ ấy hoặc bình thường hoặc ở mức có thể hòa giải được. Thứ hai, quan hệ với quê gốc ấy ảnh hưởng đến quan hệ với quê mới: với người lưu vong, bị đè nặng bởi ký ức tập thể, trong đó có khá nhiều ký ức đau đớn, người ta khó thoát khỏi quá khứ, và vì khó thoát khỏi quá khứ nên việc hội nhập có nhiều trắc trở và trăn trở, trong khi đó, những người xuyên quốc gia, do tâm lý ít nhiều thanh thản, có thể về lại quê cũ bất cứ lúc nào nên quan hệ với quê mới cũng ít bị day dứt hơn.

Nói một cách đơn giản hơn, trong khi những người tị nạn là lưu vong (dispora); những người sống ở hải ngoại với tư cách du học sinh hoặc di dân vì lý do nghề nghiệp sau này là xuyên quốc gia (transnationalism).

Hiểu và chấp nhận những cái khác ở trên sẽ có nhiều cái lợi: Thứ nhất, chúng ta sẽ thông cảm những người có tâm lý và cách nhìn vấn đề khác mình. Thứ hai, chúng ta sẽ không đòi hỏi nhau một cách quá đáng, thậm chí, phi lý để vừa không vượt qua mâu thuẫn mà còn làm cho mâu thuẫn ngày càng trầm trọng thêm. Thứ ba, chúng ta sẽ trở nên khoan dung hơn, và khi mọi người đều khoan dung, cộng đồng sẽ trở thành mạnh mẽ hơn.

Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc