Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Lạc bước


Truyện ngắn: - Vũ Tuyết Mây




Tôi hướng mũi tàu đưa khách lên hang, lúc đi qua làng chài lô xô mái lán, cột buồm nối với khu nuôi cá lồng ràn rạt những sàn ván, ao thả cá mi ni bồng bềnh giữa trời xanh, nước xanh, núi xanh làm du khách sinh tình háo hức khám phá. Tôi lây cái ngẫu hứng của những tâm hồn yêu sống nên chớp mắt đã xong cái giao kèo: không la cà trong hang mà dành thời gian ra làng chài thưởng ngoạn cho bõ một chuyến đi biển của những con người văn minh nhà ống.



Tàu tăng tốc xé nước tung bọt trắng xóa chả mấy đã cặp cửa hang, khách ào lên lóc xóc chạy gằn, một thoáng đã líu tíu ngoắc khuỷu tay nhau lên tàu. Tôi thả khách giữa làng chài hẹn giờ rồi thong thả tản bộ trên mặt sàn ván dập dềnh, đến một cái bè nằm thìa lìa ra ngoài biển thì gặp hắn. Tôi nhận ra hắn khá dễ dàng, bởi năm tháng có làm vóc dáng hắn xù ra, nhưng đôi mắt và cặp môi thì có trộn với cả ngàn người cũng không thể nào lẫn được. Hắn có đôi mắt ươn ướt nhìn ai cũng chăm chắm, nhưng cặp môi mỏng, hơi mím, cười đấy mà lại mím đấy, vẻ thận trọng, làm khuôn mặt rõ ràng vuông vức cộng với làn da căng mỏng mà nhìn vẫn khô khô. Hắn là người tôi đau đáu kiếm tìm hơn hai mươi năm ròng không những để trả khối ân tình lúc vận hạn, mà còn muốn thoả cái chí tò mò: hắn, vợ và con hắn bây giờ ra sao?

Tôi và hắn bằng tuổi nhau, bị tống vào trại cải tạo cùng một lúc, lại cùng một buồng. Tôi làm nghề lái tàu đưa khách du lịch trên vịnh làm chết một lúc bốn mạng người, toàn khách Tây chỉ vì một tí sơ xuất: giữa buổi chiều cô em gái lấy chồng xa nhà hơn trăm cây số đường đột về thăm, mẹ gọi tôi về ăn với em bữa cơm đoàn viên, tôi đánh tàu về thả neo gần bờ để khách nghỉ đêm trên tàu hẹn sáng mai đi tiếp. Chẳng ngờ đêm ấy lốc xoáy, tàu lật, bốn cặp vợ chồng người Tây chỉ còn một người đàn ông với ba người đàn bà trên người không một mảnh vải. Tôi bán hết cả tàu lẫn nhà cửa mặt phố của bố mẹ để trang trải hậu sự cho khách mà vẫn còn lĩnh án tù hai mươi năm.

Hắn làm phóng viên đài huyện, mắc tội làm lộ thông tin cơ mật của địa phương. Năm ấy quê hắn bị vỡ đê bao, hắn làm một phóng sự mi ni giọng đầy xa xót, đại ý: “Chẳng ngờ một con đê bao cũng có thể vỡ! Hàng ngàn mẫu lúa đang ở thời kỳ vàng trứng cá, hàng trăm mẫu vườn ao toàn những cây lâu niên, cá tôm ngần ngẫn, đằng thì ngụp túp, đằng bị dinh cả ra sông Cái, cơ đồ này khi nước rút chỉ còn lại vách lở với tường xiêu, mấy chục ngàn con người sống nhờ vào đất giờ trơ khấc như thân cò!”. Hắn còn bình: người quê đời nào cũng khổ dưới cái tít: “Người nghèo vẫn khổ “ đại ý cháy nhà, giặc giã, bão lũ người nghèo vẫn là hạng người chịu thiệt thòi nhất”, đúng vào dịp tờ báo cấp trên mở cuộc thi, hắn ăn giải bởi vấn đề đang được quan tâm. Hắn hí hửng từ đây đố ai còn dám coi thường cái sâu, con kiến trong làng báo như hắn. Ai ngờ địa phương hắn có tới mấy chục nhà máy, công ty liên doanh với người nước ngoài, gặp phải cái thằng nước ngoài khốn kiếp nào đó vớ được mẩu tin ấy đem về gọt giũa, nâng cấp, bình bọt rồi đưa thẳng lên mạng, thế là hắn bị triệu lên tòa vì tội cung cấp thông tin, bêu xấu chính quyền địa phương, hắn bị lập án và cũng đi tù như tôi.

Cái giây phút bước chân vào phòng giam, tôi choáng váng sỉu ngay đằng sau cánh cửa. Tỉnh lại tôi thấy mặt hắn vẫn thản như không, hắn ngồi bó gối, mắt đăm đắm nhìn ra xa xăm cứ như hắn kiếm tìm vật gì đó ở tận chân trời, góc bể, cặp môi mim mím vẻ can trường. Tôi dựa luôn vào cặp mắt, đôi môi ấy mà lấy lại tinh thần. Tôi bò đến bên hắn, ôm chặt hai đầu gối vững như hai cái trụ của hắn mà lay, mà khóc xin hắn giúp đỡ, che chở, xin hắn nhận tôi làm em, cho dù lúc ấy tôi chẳng biết hắn hơn hay kém tuổi tôi. Hắn cứ ngồi nguyên, môi không động cựa, đôi mắt ươn ướt, cái nhìn xa xăm. Tôi khóc rống lên. Trận khóc vô duyên làm nát lòng những kẻ đến trước, làm sốt ruột buốt gan cái tinh thần chờ đợi cho qua cơn tai ách của kẻ trong lao, làm ngứa mắt các bậc “đàn anh”, khiến chỉ chút nữa thì tôi nhừ đòn, nếu không có ánh mắt của hắn quét qua, quét lại đám người kia.

Buổi tối nằm bên tôi hắn nhìn trừng trừng lên trần nhà rì rầm: “Mày con gì?” Tôi ớ người rồi cũng hiểu ra vội lắp bắp “Em con gà” Hắn bảo “Cùng tuổi tao, không cần xưng em, chỉ có điều mày gà nhiếp, gan bằng hạt đậu”. Tôi nài nỉ: “Nhưng em vẫn muốn làm em của anh cơ, em xin anh che chở!” Hắn chặc lưỡi: “Thôi được, mày thích thì cứ việc, tính tao không thích nói nhiều, nhưng nhớ đã coi nhau là anh em vào lúc này thì phải đi hết cuộc đời với nhau, từ nay tao và mày phải gắng lên, phải phấn đấu mà nhanh chóng xóa cái nhãn thằng tù mà hy vọng ở phía trước!”. Tôi gật đánh cộc gáy xuống nền xi măng, Hắn chua thêm: Nói cho mày biết, con người từ khi sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay không ai không gặp phiền muộn một đôi lần, nhưng với tao thì nó đến sớm quá, bất ngờ quá, mà cũng vô lý quá? Hắn thở dài đánh sượt rồi đột ngột quay sang hỏi tôi: Còn mày thì sao? Sao lại phải chui vào đây? Tôi kể, tôi làm chết bốn mạng Tây chỉ vì ăn với em gái một bữa cơm. Hắn tặc lưỡi: Đắt quá! Đúng là con người ta có số thật. Tử tế mà số rách thì vẫn rách. Cái số của tao, mày và những thằng kia là cái số trời đã định. Giờ bất luận oan hay chính thì mỗi thằng đã là một hạt bụi của trần gian mất rồi! Thế nên càng phải can trường lên”. Lời của hắn như bàn tay vô hình xốc tôi dậy, tôi không còn thấy run sợ như buổi ban sáng nữa, từ đó tôi coi hắn là cha mẹ của tôi. Hàng ngày cán bộ của trại chỉ giáo điều gì tôi đều len lén đánh mắt sang phía hắn, dò xét nét mặt hắn, hắn vui tôi cũng vui, hắn không nói tôi lặng thinh, thậm chí hắn tức giận máu tôi cũng sôi lên. Tôi ốm không dám xin nghỉ ở nhà, tôi sợ nỗi cô đơn nếu chỉ có tôi với cái không gian trống hoác, tĩnh lặng mà nếu có thằng nào đó cũng ở lại phòng thì càng sợ hơn, bởi thi thoảng tôi vẫn bắt gặp ánh mắt của mấy tay anh chị đưa đẩy sang phía tôi, tôi liên tưởng đó là sự chế nhạo những hành vi “giả công tử” của tôi, có vẻ như họ chỉ chờ thời cơ tôi và hắn tách nhau là chúng sẽ dạy dỗ tôi về luật lệ của” Ba mươi sáu cửa ải trần gian” và “ Chín tầng địa ngục”.

Sáng thứ bảy hôm ấy, quản giáo xuống thông báo vợ hắn đến thăm, hắn được ra gặp vợ. Nghe hắn kể vợ hắn đương chức chủ tịch Công đoàn một trường tiểu học ở quê. Quê hắn cách trại cải tạo gần hai trăm cây số, thế mà vợ hắn vẫn ẵm con lên tận trại thăm hắn. Hắn xúc động. Tôi từng chứng kiến cả năm trời đội đá, vá đường, cầm cờ tàu chuối đuổi vịt, rồi nghe trại tuyên bố tòa xử lại vụ của hắn rút xuống những năm năm tù, chưa bao giờ hắn cười, chả mấy khi thấy hắn mấp máy môi trò chuyện, hắn lầm lì làm việc, hắn làm hùng hục như thể hoặc sống hoặc chết, vậy mà khi biết tin vợ hắn đến thăm, thoạt đầu hắn đứng khựng, sau hai chân lại ríu vào nhau rồi hắn ngồi bệt xuống và cười, cười không nhếch mép chỉ mim mím cặp môi, da đỏ tía lên tận chân tóc làm cả bọn Bụi trần nhộn nhạo hẳn, mấy thằng tuổi hai mươi, hai hai cứ nhảy xôm xôm làm trò, gian phòng vốn lạnh lùng, vô cảm ấm hẳn lên, mấy chiếc lá ngoài cửa sổ cũng chao nhoay nhoáy. Tôi chưa vợ, nhìn thấy hành vi lạ lẫm của hắn, đầu tôi cứ luẩn quẩn câu hỏi: “Sao vợ con đối với thằng đàn ông lại quan trọng đến thế?”. Đã vậy, ông quản giáo còn vỗ vào vai hắn đánh bộp cười cười: “ Vui lên, Giám thị cho cậu được ở với vợ con hết hai ngày một đêm thứ bảy và chủ nhật vì thành tích cải tạo tốt đấy! Biết điều với vợ con vào nhé!” Hắn gãi đầu cười khục một cái rồi thôi ngay mà mặt cứ đỏ dựng lên, hình như trong đầu hắn vừa nảy ra một ý nghĩ thú vị cực đỉnh nào đó chỉ mình hắn biết và chỉ mình hắn sướng nên hắn mới có cái cử chỉ quái đản thế.

Nhưng niềm vui của tôi, của cả bọn Bụi trần cùng rơi tõm xuống vực thẳm khi chỉ độ nửa giờ đã thấy hắn lê bước về phòng. Hắn về, đi lùi lũi, đầu chúc xuống, cặp mắt thất thần, cặp môi đã mím chặt mà vẫn cứ rật rật, khác một trời một vực cái lúc hắn đi. Hắn đổ vật xuống manh chiếu “tiêu chuẩn” của hắn, trong tư thế co quắp, cả người cứ rung lên từng chặp, lũ Bụi trần đứa đứng, đứa ngồi trơ khấc, đánh những cái nhìn sang nhau vẻ ngơ ngác, không ai hé miệng nói một câu, mãi đến khi thằng “Mặt sẹo” lên tiếng: “Đồ ngu. Cơ hội đắt ngàn vàng thế mà không biết tranh thủ! Chẳng trách cơm dẻo canh ngọt không ăn, chui vào đây mà nhá sắn khô! Ngu như tao cũng còn biết có giận nhau đến mấy thì cũng để mãn hạn tù về nhà rồi hãy giận, còn bây giờ thì phải tranh thủ, tranh thủ từng phút, từng giây bên nhau”. Hắn vẫn không mở miệng. Tôi đến bên lắc hắn như lắc bao gạo, nhồi bao trấu hỏi hắn vì sao? Vì sao?...? Hắn vẫn chẳng thèm nhúc nhích, chỉ đến khi Mặt sẹo ỡm ờ: Hay hôm nay phải ngày thấy tháng của đàn bà mà mày uất đến thế” thì hắn vùng dậy túm ngực áo Mặt sẹo đấm túi bụi vào cổ, vào ngực tay kia, răng hắn nghiến ken két, môi mím chặt, tím tái. Mà lạ, một đằng to béo như vâm, xăm xia vằn vện lại cứ đứng ngay như trời trồng, hai cánh tay buông thõng thẻo để cho hắn, người chỉ đứng đến tai hắn mà đấm, mà tát, chả khác kiểu đấm vào bị bông, mà cũng chả ai thèm can. Đấm chán hắn đứng thở hồng hộc rồi lại đổ vật xuống chiếu, còn Mặt sẹo cười hinh hích vẻ thỏa mãn về sự sòng phẳng. Từ đó không ai hỏi và hắn cũng không bao giờ nhắc đến chuyện vợ con, cho đến một ngày hắn được minh oan vô tội thì hắn đi đến xiết vai mỗi người trong phòng một cái đến nghẹt thở rồi lẳng lặng vắt cái túi lép kẹp lên vai ra đi, để lại trong lòng đám Bụi trần sự trống trải và ngỡ ngàng. Ra đến cổng bỗng hắn thở dài đánh thượt than thở: “Bây giờ đối với tao việc ra tù chưa chắc đã khá hơn là ở trong tù! Mày thì khác, gắng mà ra ngoài làm lại cuộc đời”. Tôi sửng sốt bảo hắn sao kỳ quặc thế. Hắn lại cười khục một tiếng rồi đi thẳng.

Hết hạn cải tạo tôi lại quay về với nghề chở khách du lịch trên vịnh, bởi tôi nghĩ chả ai chết hai lần cùng một cách chết, còn tôi nếu có gặp trận lốc xoáy lần nữa trong đời coi như số tôi ông trời đã định, có tránh cũng không được, vậy thì tôi còn phải nhọc lòng mà che với chắn làm gì! Vả lại tôi được sinh ra ở miền biển, không bám vào biển mà sống thì bám vào đâu, vì thế vừa ra tù bố mẹ, anh chị em bên trước bên sau đã gom góp, vay mượn tiền bạc mua cho tôi một con tàu hệt chiếc tàu năm xưa và tôi lại rong ruổi với khách.

Nhận ra hắn, tôi mừng rỡ, hắn chẳng nói chẳng rằng xiết vai tôi đến nghẹt thở như hôm hắn ra tù, rồi ấn tôi ngồi xuống sàn, còn hắn thì hấp tấp đi đâu thoáng một cái đã quay lại, tay xách theo một con cá bằng cái quạt mo, vảy cứng và to bằng đồng xu, đen bóng, rồi hắn hì hụi quạt than nướng. Vừa nướng cá hắn vừa bảo: “Hôm nay tao với mày phải say, bao nhiêu tiền phạt của khách tao chịu, ở đây tiền cũng chả biết làm gì!”. Tôi chưa nói được câu nào hắn đã dọn mâm. Vừa ăn tôi vừa kể cho hắn nghe về cái kết cục của từng thành viên trong đám Bụi trần từ sau khi hắn ra ngoài, chuyện tôi được rút ngắn thời gian do phấn đấu ra sao, rồi chuyện tôi lấy vợ, sinh con và có nhà cửa ngay trên bờ biển thế nào. Tôi kể nhiệt tình, hào hứng, còn hắn lắng nghe một cách trầm ngâm, cặp môi chả mấy khi hé mở, khi nào đến chỗ đắc ý hắn lại đưa tay lên gãi đầu đánh roạt. Khi chuyện của tôi đã hết, tôi quay sang hỏi hắn từ ngày về vợ chồng hắn làm những gì, con cái đã trưởng thành chưa, mà sao không quay lại cái nghề làm phóng viên mà lại ra tận cái góc biển heo hút này mà nuôi cá? Hắn thủng thẳng: “Đã về đến nhà đếch đâu!” Tôi sững sờ: “Thế là thế nào? Sao anh rắc rối thế? Nếm mật nằm gai với nhau mấy năm trời, rồi lại xa nhau đến giờ đã đến hai chục năm bỗng nhiên em chẳng hiểu gì về anh cả?” Nghe xong câu nói của tôi hắn lại mím chặt đôi môi, mặt đỏ tía lên rồi chợt tái đi. Hắn nhìn trân trân ra tận luồng nước xanh. Đột ngột hai dòng nước mắt hắn lăn dài xuống má làm nước mắt tôi cũng ứa ra. Tôi đường đột ôm hắn và hắn cũng ôm tôi, nhưng lần này hắn không xiết tôi chặt như cái hôm hắn xiết tất cả đám Bụi trần trong nhà giam để biến vào sương khói. Sau cái ôm vừa đủ cho cả hai cảm nhận về nhau, hắn thả tôi ra rồi dốc ngược cốc rượu trong như nước mưa vào tận cổ, tiếp đến hắn gắp một miếng cá bằng quả dừa non bỏ vào bát tôi và lại uống một hơi gọn một cốc, uống xong hắn lại tự rót.... Tôi giằng lấy cốc rượu cũng dốc thẳng vào cổ mình và đe hắn: “Em nói để anh biết, nếu anh còn uống kiểu này và trốn tránh chuyện đời thì em thề hôm nay em sẽ đấu với anh một trận, rồi em sẽ lại để khách ngủ đêm trên tàu, rồi em sẽ lại vào ở tù mặc kệ vợ con cho anh xem!” Dứt lời, tôi rót cốc rượu nữa dốc vào cổ, rồi lại rót đầy ắp cốc khác giơ ra trước mặt hắn đòi chạm cốc. Hắn giật cái cốc đặt phịch xuống sàn, mắt hắn long lên, rượu bắn tung toé làm tôi tối mắt. Hắn bảo: Nếu chuyện gì nói ra xung quanh cũng hiểu được thì đời đâu đến nỗi dâu bể! Tôi tấn công: Vậy anh nói đi, người đời không hiểu nhưng em hiểu, được chưa, vợ anh tay bồng tay bế con lặn lội lên tận trại thăm anh, động viên anh, người ta đã minh oan cho anh, người ta đã xin lỗi anh, đã đền bù thiệt hại cho anh, vậy thì gần hai mươi năm qua anh không về nhà thì đi những đâu, đày ải mình thế nào? Anh bỏ mặc bố mẹ, vợ con anh nghĩa là sao? Hôm nay anh không nói thì em không về! Hắn ngồi trầm ngâm cho đến khi hai con mắt mọng ra, hai gò má chảy sệ xuống, trán ướt rịn mồ hôi hắn mới chịu mở miệng:

- Hơn hai mươi năm qua tao làm đủ mọi việc, và bây giờ thì mày biết rồi.

- Trời ơi, sao anh cứ dùng dằng mãi thế, hãy kể cho rõ hơn xem nào?

- Nhưng nghe rồi bất cứ hoàn cảnh nào mày cũng không được học tao nghe không?

- Em hứa!

Hắn kể: Cái ngày cô ta (vợ hắn) vào trại thăm tao, ban đầu cô ta ôm lấy tao, vít cổ tao vào ngực cô ta mà khóc thảm thiết, làm tim tao tái tê, tao ân hận lúc trước ăn ở với nhau tao còn nhiều thiếu sót với cô ta, ai ngờ nước mắt chưa ráo cô ta đã chìa ra một tờ giấy viết sẵn bảo tao ký. Mày biết cái gì không? Đơn ly hôn. Đọc xong tao thấy trời đất sụp dưới chân. Mày bảo một thằng đàn ông chưa đầy ba mươi tuổi đầu trời đã giáng cho một đòn, vào tù còn chân ướt chân ráo, trần gian lại bồi tiếp đòn thứ hai, cả hai đều hiểm ác như nhau: một thằng phạm tội và một thằng bị vợ con chối bỏ, liệu tao có còn sống được nữa không?

- Cô ta thành thật, cô ta không chịu nổi áp lực từ những cái nhìn thương hại của đồng nghiệp, những ánh mắt thị phi của xóm giềng. Cô ta không muốn mất những giọt mồ hôi đã tích góp gần nửa người. Cô ta không muốn con cái cô ta phải mang cái lý lịch có bố đi tù. Cuối cùng cô ta ra lệnh cho tao phải chọn cuộc sống của tao hay là tương lai của đứa con. Chuyện là thế đấy!

Tôi đá vèo cái bát ở trước mặt lăn lông lốc trên mặt sàn ván và hét lên:

- Đời sao tàn nhẫn thế? Nhưng mà chỉ vì hận tình mà anh tự nặn ra cuộc đời anh thế này sao? Anh không thể coi cô ta như chưa từng có mà xây cho mình cuộc sống mới được sao?

- Hừ, coi được thì mấy ai phải khổ.

- Thế khi anh được được minh oan, cô ta có biết không?

- Biết.

- Biết thì sao?

- Biết tao được trả về cơ quan cũ, cô ta dắt con đi gặp tao. Lần nào cô ta cũng khóc, khóc thảm thiết như cái lần cô ta khóc ở trại giam.

- Thế thì sao anh không cho cô ta một cơ hội để hai người đỡ khổ!

- Tao đã thử đến cả chục lần mà lần nào cũng bị thằng người thứ hai trong tao nó chặn lại. Cô ta càng níu kéo tao càng kinh hãi.

Hắn lập luận với tôi rằng: con người ta có ba điều cần phải dứt khoát, đó là: vợ chồng không có niềm tin ở nhau, hai là trong hai người có một người cố tình ra đi, ba là trong đời sống vợ chồng thiếu lòng vị tha, cô ta đã dành cho tao cả ba điều, thế thì mày bảo tao còn quay đầu về bến cũ được không?

Hắn nói, mắt hắn nhìn vào mắt tôi chăm chắm! Rồi hắn khóc, khóc rống lên như mấy mươi năm qua hắn chưa có ai để mà khóc!

- Những năm qua anh làm những gì và ở những đâu? Tôi hạ giọng:

- Ban đầu tao quay trở lại nơi cũ, tay trưởng phòng bảo tao tạm thay chân bảo vệ một thời gian vì cái chỗ của tao đã có người khác thế vào rồi. Tao gác cổng đến hai năm, đề đạt nguyện vọng hai lần họ đều bảo tao chờ, chờ mãi không có hy vọng, tao quyết định xin lên miền núi làm nghề dạy học, ai ngờ cái nhãn thằng tù theo tao lên tận đỉnh núi. Mỗi năm hết hè, tao lại nhận quyết định chuyển trường, thì ra cha mẹ học sinh sợ mình làm hỏng con cái họ, họ ngấm ngầm đưa đơn đòi ngành giáo dục không được cho tao dạy con họ. Hiểu ra, đêm tao bỏ trường ra đi mang theo một lời thề, quyết không làm cái nghề dính líu đến con người, và rồi cuối cùng tao đỗ chân xuống miền biển này.

- Anh định sống cả cuộc đời thế này sao?

- Có lẽ thế! Số phận đã an bài, tao phải ở chốn này và chỉ có ở đây tao mới được yên hàn, mới tránh được kiếp nạn cho những người xung quanh, vậy thì tao còn mất công đi đâu nữa? Đời mà, cứ sống đi rồi sẽ quen!

Câu chuyện còn dở dang thì hắn đã dựa hẳn lưng vào cây cột cái của mái lán, đầu nghẹo sang một bên, trước khi cất tiếng ngáy, hắn phảy tay bảo tôi về đi, về đi nếu còn muốn gặp lại hắn. Tôi choáng váng, không thể ngờ một con người chỉ lạc một bước mà lưu lạc cả cuộc đời. Tôi lắc người một cái thoát ra khỏi mớ hỗn độn những đau, buồn, tiếc, thương cùng những suy đoán trước sau của đời người rồi vùng dậy bước ra khỏi mái lán. Ngoài kia đám khách của tôi ai cũng hởn hở với những khăn áo, túi tắm, bị bọc bùng nhùng những tôm, cá và cua mà cánh dân chài đem từ tít tận ngoài khơi xa về, chứng tỏ họ cũng đã xong một bữa thoả thê về đặc sản biển.

Cách ngày tôi gặp hắn đúng một tháng, đài báo sắp có giông bão, tàu thuyền không nên ra biển, tôi ngồi thu lu ở nhà mở trang mạng Cư Dân để giết thời gian. Hàng chữ vừa hiện lên tôi bị hút ngay vào bức thư của người phụ nữ nào đó gương mặt đầy đặn mà cặp mắt u sầu như sắp rơi lệ, nhìn thời gian đăng thư đã khá xa nhưng nội dung lại như vừa mới hôm qua. Thư đề: Gửi vào nhân gian:

“Tôi sinh ra từ vùng quê một năm chưa ra khỏi mùa đông tê tái, xác xơ bởi những trận gió bắc và sương muối, con trâu phải ghì mõm lôi gốc cỏ lên nhai, con gà bới chán không tìm thấy cái ăn đứng ủ dột dưới gốc cây, đã nơm nớp nỗi lo chống chọi với bão giông ập tới. Qua mỗi cái bão, mỗi trận lụt người quê tôi lại đắp thêm lên mình một lần sắt xỉn. Tôi đã đi lên từ làng quê ấy mà thấy những gì tôi có được trong tay như là kỳ vĩ, như là chiêm bao...Đến một ngày gặp điều trắc trở, tôi tự bảo với chính mình phải giữ nó bằng mọi giá và tôi đã làm cái điều như tôi nghĩ... Rồi một ngày tôi tự nhận ra những cái tôi coi là báu vật lại không phải là cái cốt lõi của cuộc đời. Tôi đã làm thú giải, tôi đã sám hối, tôi thề với trời tôi sẽ hóa đá ngay sau cái giây phút tạo hóa cho tôi chuộc lại lỗi lầm. Nhưng tôi đã chờ đợi quá nửa đời người, ngày lại ngày tôi bám vào hy vọng, dựa vào vận may mong đến một ngày tôi và người tôi bội bạc có thể gặp lại nhau cho dù ở phía cuối cuộc đời! Thế cũng đủ cho tôi thỏa mãn niềm khát khao: Tôi được làm người đàn bà của ngày xưa cũ!”.

Thư của vợ hắn, thư của người đàn bà tôi chưa biết mặt. Không hiểu bám vào cái gì mà thâm tâm tôi cứ một mực mách bảo trực giác của tôi, đó là thư của vợ hắn, cho dù câu chữ, ý và lời có biển lận vào đất, nước, gió và mưa thì tôi cũng vẫn nhận ra đó là vợ hắn. Tôi bỏ máy hộc tốc xuống tàu phi hết tốc lực. Tôi phải quay lại bè cá của hắn. Tôi phải đi tìm hắn bằng được, ngay lúc này dù hắn có biến vào chân trời góc bể nào thì tôi cũng phải moi ra bằng được và bảo vào mặt hắn rằng, nếu hắn không tha cho vợ hắn, nếu hắn không quay về với vợ con hắn thì nhất định tôi sẽ lại uống rượu, sẽ lại thả neo cho tàu đậu ở ngoài biển khơi và mặc cho khách ngủ đêm trên tàu...!

“Bên kia thinh lặng”



 Phương Uy tên thật là Hoàng Lê Diễm Trang, hiện là giáo viên trường THCS Tân Hà, Hàm Tân, Bình Thuận. Nếu từng đọc thơ chị ở đâu đó, bạn đọc sẽ khó quên được một niềm “ray rứt” (từ dùng của Phương Uy) thường trực trước mọi điều xung quanh cuộc sống. Dường như những thứ vô hình (nỗi buồn, niềm hy vọng, sự tiếc nuối hay sám hối…) lại được hiển thị một cách rất tự nhiên và độc đáo trong thơ Phương Uy. Xin trân trọng gửi tới bạn đọc chùm thơ mới nhất chị chọn và gửi tới VanVN.Net.









HÓA THÂN


Em cầm nửa vòng đêm đứng bên bờ thần thoại
nghe khúc The Myth chảy ray rứt dưới trăng
mùa rơi mù mắt lá
thốt lạnh đêm rằm

tôi gói mình giữa hình hài cô đơn thô vụng
khoác một hóa thân gượng gạo trước mặt trời
nghe kí ức loảng xoảng rơi trên vùng trăng biển
dấu cát xóa nhòa nước mắt mù khơi


Em cầm nửa nụ cười đi về nơi quá vãng
cánh đồng xưa đã không còn vọng tiếng từ ngày hôm qua
đừng quay lại
để tuyệt vọng chảy tràn qua mớ âm thanh tím thẫm

Em cầm nửa u hoài đi về phía ngập vùi trí nhớ
theo mùa đông rũ áo trước hiên nhà
tôi hóa thân thành ánh nhìn trống rỗng
nghe lời ca vỡ máu ngân nga
ảo giác bong tróc rêu xám
đong đưa lời muộn trùng trùng
giữa cơn bão từ đôi mắt em dội lại
lời xin lỗi của nỗi tuyệt vọng màu trắng
gói một nỗi buồn

khi mọi cố gắng đã hoàn tất
câu từ khước bao dung không còn nói nữa
yên vị trên môi lời mật ngọt sau cùng
trong góc tối những âm thừa run rẩy
khóc một hình dung




CƠN MỚ LỘI NGƯỢC DÒNG



Cơn mớ lội ngược dòng
bờ lau lách cũ
tà dương son lời hẹn trăng rằm
cơn đau chập chờn màu bóng rũ
loang dần trên tịch mịch thâm căn
ngách tối

khói nhang trầm tự vẫn
đền đài phế tích ru hời
hanh hao chiều vắng gió
hồn liễu căm căm.

Đá toát mồ hôi huyết dụ
vẳng tiếng ca nguyện cuối ngày
mảnh thời gian màu tàn thuốc
nối giọt buồn trên tay

Cơn mớ lội ngược dòng
mắt em xanh ngời mị hoặc
băng phiến lòng người đối mục
nhập siêu mộng mỵ trăm năm
miền không gian không màu
chảy máu bùn non cơn mưa tạnh
nhớ ngây dại một bàn tay
nuốt lạnh quá khứ ô cửa trống
chiều mù không mây.

Cơn mơ chấp chới
cánh diều lên quá cao và đứt dây
ngày trôi nhanh
đời nhau không buộc chặt
nụ môi nhiệt hạch loang dần
ố đỏ
cơn đau nào gánh dùm nhau?

Thôi cứ tái tê mùa gió lộng
giọt mưa rơi ướt mắt gầy
cà phê loang khói mỏng
thôi cứ trả ngày cho cạn
mọc giữa quá khứ một nhánh buồn (*)
niềm vui không có trong tiền kiếp
tìm chi được một vòng ôm?

-----------------

Ý thơ K. Lan





BÊN KIA THINH LẶNG




cô gái đã biến mất vào nửa buổi chiều
nơi những tiếng ve nở rộ
hàng cây nhảy múa trong gió và bụi mù
tôi ngồi chuyện trò với những câu nói của mình
tảng đá dưới chân tôi gào lên câm lặng

trong nhà
chiếc ti vi độc thoại
về sự ngộ độc và những cuộc mất tích
người đã bỏ đi từ năm ngoái .

tôi lột chiếc bóng in trên vách tường ngày hôm qua
một luồng ánh sáng lóe qua lỗ đinh
đó là tuổi trẻ không sợ hãi

tôi đã không thể viết những ngôn từ dịu dàng bay bổng kể từ ngày em đi
đã tẩm liệm những dòng sông xanh những tán cây xanh những đám mây xanh
vào
xa
kiệt
cùng
trí
nhớ
em mất hút vào bầu trời không màu
tôi ngồi bên các dấu câu bị hỏng
rủ rê ngọn gió cùng cất cao giọng hát
rủ rê hàng cây trở về với khu vườn
nơi bầy chim lạnh không hót khi trời không mưa
bầy chim mù lòa mà em đã bỏ rơi sau lễ phóng sinh mùa tết
một loạt những vết thương nhỏ đang thành hình
trong tôi
đừng
chảy
máu
nữa!
mệt rồi, tôi!

Đã bỏ lại nỗi nhớ ở nhà
và chạy mệt nhoài trên đường
chân bỏng rát
con đường nối dài về quá khứ
đá sắc lặng lẽ
cứa
nát
dấu chân nguyệt bạch
ngày chiêm bao về cuộc trăng mật
nơi những tảng đá trổ hoa
đám sao trời rơi dày trên lòng suối khô
ngày chói lòa suy niệm

tôi nói chuyện với người
trong thinh lặng
tột cùng
bên kia bóng tối
phải chăng
người đã lãng quên tôi?

Bạn có đang " đẽo cày giữa đường"?



Ngày xưa, có một bác nông dân rất nghèo, bác muốn có một cái cày để tăng năng suất và đỡ vất vả hơn. Một hôm, bác có khúc gỗ tốt nhưng bác lại chưa đẽo cày bao giờ, thế là bác mang khúc gỗ ra ven đường ngồi đẽo và hỏi ý kiến mọi người. Người này bảo bác đẽo nhỏ quá, người kia bảo bác đẽo to quá, 9 người thì 10 ý… họ cứ bảo sao, bác lại sửa theo như thế. Đến cuối ngày, bác chỉ còn lại khúc gỗ nhỏ xíu và không có cái cày nào hết.

Đó là một dị bản truyện “Đẽo Cày Giữa Đường” mà tôi được nghe hồi bé. Bác nông dân trong câu chuyện không có chính kiến của mình, “gió chiều nào theo chiều ấy” nên dù có khúc gỗ tốt, bác cũng không đẽo nổi cái cày. Bài học rút ra từ câu chuyện dân gian ấy vẫn còn đúng đến tận bây giờ. Thậm chí, càng lớn tôi càng thấy “ngấm” tư tưởng của các cụ về việc kiên trì theo đuổi con đường của mình đến cùng.

Mỗi chúng ta đều là một “bác nông dân” như vậy. Bạn có thấy từng việc bạn làm, từng quyết định bạn đưa ra, từng lối rẽ bạn chọn, lúc nào cũng có “người đi qua” và góp ý cho bạn không? Bạn bị lạc vào mê cung của những lời khuyên, bị rối và bế tắc. Theo tôi, đây có lẽ là một nguyên nhân dẫn đến stress và tệ hơn là cảm giác thất bại cùng suy nghĩ “mình sẽ chẳng bao giờ làm được gì ra hồn” luôn đeo bám bạn khi bạn cứ mù quáng tin rằng “người ta bảo chẳng có ai làm được đâu” hay “người ta bảo khó lắm đấy”.

Vậy nên trước khi làm bất cứ cái gì, hãy tự hỏi:

Ai là người thực hiện? Bạn.

Ai là người chịu trách nhiệm? Bạn.

Ai là người hưởng thành quả? Bạn.

Ai là người lãnh hậu quả? Chỉ Bạn mà thôi.

Khi đứng ở ngã ba đường của những sự lựa chọn, tâm trí bạn rất dễ bị ảnh hưởng bởi lời nói của người khác. Đôi khi ta chỉ thấy le lói một ý kiến tích cực trong hàng tá ý kiến tiêu cực và muốn bỏ cuộc ngay lập tức. Cái đầu bình tĩnh là rất cần thiết cho lúc này. Bạn nên sáng suốt nghĩ xem điều gì phù hợp, điều gì không phù hợp với mình. “Dục tốc bất đạt”, đừng vội vã nghe theo tất cả mọi người như bác nông dân rồi hỏng việc. Bản thân tôi thấy có ba loại lời khuyên như sau:
Lời khuyên của người chẳng hề muốn bạn thành công. Họ ghen tỵ rồi ra sức phê phán, gây khó khăn cho bạn bởi họ sung sướng khi thấy bạn thất bại. Nếu muốn thỏa mãn những người này thì hãy nghe theo họ.
Lời khuyên của người không muốn làm mất lòng bạn. Chúng vô thưởng vô phạt, thực sự thì có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Tuy không làm bạn ức chế như loại 1 nhưng những ý kiến chung chung, không đề xuất được giải pháp ấy chẳng giúp ích gì cho bạn hết.
Lời khuyên từ những người muốn thấy bạn thành công. Họ cho lời khuyên vì đơn giản họ nghĩ như vậy sẽ tốt cho bạn. Dù ủng hộ hay phản đối, lời khuyên nhẹ nhàng hay cay đắng, chua chát ra sao, đó cũng chỉ là quan điểm của cá nhân họ. Bạn thấy hợp thì nghe và làm theo, không thì thôi.

Mọi lời khuyên không phải lúc nào cũng hoàn toàn đúng. Suy cho cùng, người quyết định lại vẫn là bạn đấy. Khi bạn đã chọn thì đừng tiếc nuối vẩn vơ hay trách móc ai hết:


“…Tiếc làm gì cho phí phạm, mỗi lúc mình chỉ có thể quyết định điều gì tốt nhất vào lúc đó thôi cưng, mình làm sao biết được quyết định đó là tốt nhất hay không, đời thì dài, chết có khi cũng còn chưa là kết thúc thì làm sao tính được?”

- Trích Bất Hạnh Là Một Tài Sản, Phan Việt

Tóm lại, nên lắng nghe và tiếp thu góp ý của người khác nhưng đừng quên nghe xem chính mình muốn thế nào vì điều này mới thực sự quan trọng. Hãy đẽo một cái cày thật tốt hoặc chuẩn bị bất cứ công cụ gì bạn có để sẵn sàng làm việc. Bạn chỉ có một cuộc đời để sống và tuổi trẻ có lẽ là quãng đời mà người ta liều nhất nhưng cũng mắc nhiều sai lầm nhất. Bạn trẻ à, dũng cảm lên, đừng run sợ hay nản chí bởi ai cũng có một tuổi trẻ như thế.


“Hãy học từ sai lầm của người khác. Bạn sẽ không bao giờ sống đủ lâu để phạm phải tất cả sai lầm.” – Groucho Marx



Anh Nguyễn LP

Nghịch lý văn chương và thông điệp “đẫm máu”



Tác giả: Hà Nhân (Nhân đọc PGS. TS Phan Trọng thưởng: Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn- đăng trên VanVn.net, ngày 19/4/2014)

Bài nhận xét luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan do PGS.TS Phan Trọng Thưởng viết khá dài, ước chừng khoảng 10 trang A4. Đọc đi đọc lại thì thấy có nhiều chỗ “bi hài thống thiết” nên phải viết ra đây, coi như lời tản mạn, nhàn đàm của một “thảo dân” biết chữ.

1. Nghịch lý thứ nhất: Luận văn phức tạp, còn lời nhận xét thì đơn giản ngoài sức tưởng tượng.

Tôi cho rằng luận văn của Đỗ Thị Thoan rất phức tạp trên nhiều phương diện: vấn đề phức tạp, phương pháp phức tạp, câu chữ phức tạp, kết luận phức tạp, dư luận phức tạp.

Vấn đề phức tạp: vì đối tượng nghiên cứu không chỉ là nhóm Mở Miệng và thơ của nhóm này mà là vấn đề “thực hành thơ” dưới góc nhìn “văn hóa”. Không thể phiên dịch “thực hành thơ” chỉ là làm thơ (bởi nội hàm nó rộng hơn, còn có nghĩa là “nghịch thơ”, “chơi thơ”, v.v…), ở đây cần hiểu là một hành vi sáng tạo chưa định danh, một xu thế về thể loại. Nghiên cứu một xu thế văn chương cũng giống như giải một bài toán về quĩ tích, tìm một điểm M vô hình nào đó luôn động của một tập hợp điểm, phức tạp quá chứ còn gì.

Phương pháp phức tạp: cách tiếp cận và giải quyết vấn đề trong trường hợp này đòi hỏi một phương pháp liên ngành ở chiều sâu (đòi hòi quá nhiều tri thức vệ tinh như lý thuyết thơ đương đại, lý thuyết hậu hiện đại, triết học hậu hiện đại,…), đồng thời phải có bản lĩnh về loại hình học. Chỉ cần đặt câu hỏi thơ nhóm Mở Miệng có phải là thơ không, thì toàn bộ luận văn đã có nguy cơ đổ. Vì thế, cô Thoan thông minh đã đặt “Mở miệng” vào “góc nhìn văn hóa”, vào thế “thực hành”. Đó là cách “thoát” của cô. Xét về bản lĩnh học thuật, cách thoát đó cũng đã đủ làm chứng cho trình độ thạc sĩ của cô rồi.

Câu chữ phức tạp: Cô Đỗ Thị Thoan dùng rất nhiều câu ghép, câu phức, phương tiện liên kết câu linh hoạt, trích dẫn trùng điệp, trộn lẫn câu nghi vấn và câu khẳng định khiến người không quen đọc rất khó tiếp cận. Chưa kể những dẫn chứng về tác phẩm của nhóm Mở Miệng cũng thuộc loại ngôn từ khó đọc.

Kết luận phức tạp: Tuy cô Thoan có viết phần kết luận trong luận văn (theo nguyên tắc trường qui đối với luận văn cao học) nhưng vấn đề về Mở Miệng không thể kết luận, vì tính đương đại của nó, và vì bản chất khoa học xã hội, nhân văn không phải là thứ dễ đi đến một kết luận cuối cùng. Cái thông minh của cô Thoan lại nằm ở mấy câu hỏi.

Dư luận phức tạp: Cô Thoan viết luận văn khi mà trước đó, trong khi đó, và sau này, những đánh giá về nhóm Mở miệng vẫn còn phân hóa cao độ.

Với một núi phức tạp xoay quanh đề tài, có thể nói rằng, luận văn của cô Thoan được viết bằng tất cả sự “ngây ngô chính trị” của một người trẻ ham hiểu biết, ham đọc, ham nghĩ, ham trình bày và diễn giải, ham đặt vấn đề, ham ngắm mình qua vấn đề mà mình tâm đắc đến cao độ. (Tôi phải dùng từ “ngây ngô chính trị” trong ngoặc kép để đối lập cái nhận xét của ông Thưởng dành cho cô Thoan là “kích động chính trị”. Nếu muốn kích động, thì hỡi ôi, Thuyên ơi là Thuyên, dại gì mà viết hàng trăm trang trong một bài tập luận văn để người ta đánh giá, chấm điểm, công bố?). Cô Thoan nói về chính trị bằng sự ngây ngô trong thái độ (sống) và sự già dặn trong nhận thức học thuật (trong tình huống nghiên cứu của cô). Cái “ngây ngô” của cô Thoan rất gần với sự hồn nhiên. Cô không biết (hoặc không chú ý rằng) việc chọn lựa đối tượng nghiên cứu và cách viết của mình sẽ “chạm nọc” một thiết chế cằn cỗi, một hệ thống báo động thuần thục, một cảm hứng “truy xét” vốn tràn trề trong cái bầu khí quyển xứ này.

Ngược lại, người nhận xét (là Phó Giáo sư Phan Trọng Thưởng) lại có vẻ “già dặn” trong thái độ (sống) và “ngây ngô” trong nhận thức học thuật. “Già dặn” vì ông chấm luận văn nhưng toàn nói chuyện “quốc gia đại sự”, ngỡ như giọng của một người “ưu dân ái quốc” xa xưa. “Ngây ngô” vì chỗ cần phân tích thì ông không nói, chỗ cần lý luận thì không bàn, ông chỉ nói cái ông đã “đinh ninh”, cái ông nghĩ trước rồi đặt vào “cho tiện” (một phong cách rất chuẩn “quan cách”). Ông trích dẫn nhiều nhưng không mổ xẻ (chắc ông cũng ngại!), trích dẫn nhiều đến nỗi thi thoảng người đọc có cảm giác ông cũng …ngầm thích mấy cái dẫn chứng đó hay sao (?!), hoặc không đủ sức phân tích cái đống ngôn từ ngồn ngộn mà ông trót trích ra. Thế không “ngây ngô” thì gọi là gì?

Cô Thoan không thể nhân danh một quyền lực chính trị nào để viết (vì làm sao có được một quyền lực nào?). Cô Thoan lập luận nhiều hơn kết luận (vì cô phải cố gắng viết để còn ra bảo vệ trước hội đồng học thuật). Còn ông Thưởng thì không nhận xét mà phán xét (vì ông được cho và tự cho mình quyền đó), không lập luận mà kết luận (vì ông không có thời gian và trình độ để thông diễn). Thái độ hai chiều trong tương quan người viết-người đọc ở đây là rất “bí hiểm”.

Mà mấy cái câu kết luận của ông, hình như câu nào cũng có vấn đề. Ví dụ: “Với quan điểm lựa chọn như trên, có thế nói luận văn đã tập trung nghiên cứu một hiện tượng nổi loạn, không chính thống, một hiện tượng bên lề, một dòng ngầm không chỉ mang ý nghĩa văn chương đơn thuần mà còn mang ý nghĩa chính trị phản kháng, phản động”. Sao vậy? Sao “một hiện tượng nổi loạn, không chính thống, một hiện tượng bên lề, một dòng ngầm” thì lại “mang ý nghĩa chính trị phản kháng, phản động”? Chắc ông lo làm chính trị nên quên cách viết văn sao cho có nghĩa. Viết như thế làm gì có nghĩa gì. Một số kết luận khác trong bài nhận xét của ông Thưởng:

“Đó là những luận điểm sai trái mang tính kích động chính trị rõ rệt”
“đây là chương được xem như cơ sở lý thuyết, như là khung lý luận của luận văn”
“Về thực chất đây là một luận văn chính trị trá hình, văn chương chỉ là cái cớ”.
“Trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra khá phức tạp hiện nay, nếu để lưu hành luận văn này sẽ gây tác hại không chỉ đến văn học, nghệ thuật mà còn gieo rắc những tư tưởng nổi loạn, chống đối, gây mất bình ổn trong đời sống chính trị, tư tưởng, tác động tiêu cực tới thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong nhà trường”.
Về mẫu câu, ta thấy chủ yếu ông dùng mẫu: “Đây là”, “Đó là” (vì nó rất dễ dùng). Ở câu cuối cùng, ngữ pháp tiếng Việt được ông sử dụng “loạn xạ”, ai hiểu được thì hiểu.

Viết như thế, hoặc là ông không thể suy nghĩ được nữa, do tuổi tác, do lạm dụng hay ám ảnh quá khứ quyền lực, hoặc là ông quen với một số “mẫu câu cơ bản” được rèn luyện qua mấy đợt học chính trị cao cấp, dùng để đọc người khác, cái khác, hoặc ông mất khả năng liên tưởng về ngôn từ. Cái nào cũng nguy hại quá chừng!

Dùng một cách viết đơn giản, ngây ngô như một nắm tay sắt để đối chọi lại một hiện tượng học thuật vô cùng phức tạp, đó là “bản lĩnh chính trị” của PGS Thưởng hay thói quen “viết lách” của ông từ trước đến nay? Câu hỏi này làm tôi nghĩ mãi.

2. Nghịch lý thứ hai: Luận văn viết theo phong cách khá nghệ sĩ, bản nhận xét thì có màu sắc lời nghị án của tòa.

Luận văn được viết trong tâm thế cho một người đọc lý tưởng – người đọc được đón đợi nhiều nhất trong tâm lý người viết. Điều này cũng là bình thường. Ai cũng biết đó là qui luật của tâm lý tiếp nhận, mỹ học hồi đáp. Nói như thế để thấy sự đam mê quá đàcủa cô Thoan trong quá trình viết luận văn. Nhưng đọc kỹ luận văn thì mới thấy là không phải cô đam mê chính nhóm Mở miệng mà cô đam mê những hiện tượng tinh thần và các rắc rối của nhóm Mở miệng xoay xung quanh những dự cảm và hệ lụy của kiểu sáng tác này. Cô đam mê đến mức viết luận văn mà như viết thơ, viết tùy bút, nhiều chỗ phóng bút mạnh mẽ, liều lĩnh để chờ đợi những tri âm của mình.

Và đó cũng là điều mà Hội đồng chính thức cách đây hơn 3 năm đã trân trọng đánh giá cô. Điểm 10 của cô là điểm 10 của tiềm năng, hứng khởi chứ không phải là một sự xác quyết về tài năng tuyệt đối hay sự xác lập thái độ phe cánh chính trị. Đó là cái lý của Hội đồng chính thức lần 1. Họ có quyền nghiêng về quan điểm phóng khoáng, nghệ sĩ hay chặt chẽ, kín kẽ trong quá trình đánh giá, phản biện. Sự chênh lệch về điểm khi nghiêng về quan điểm này hay quan điểm khác hoàn toàn nằm trong cái khung đảm bảo những đúng đắn về tiêu chí đào tạo sau đại học; cho nên kết quả của Hội đồng lần 1 không có bất kỳ lý do gì để bị phủ quyết. Họ còn xa lắm mới “thấp xuống” thành cái gọi là “ổ phản động” như nhận định của ai đó trong cuộc chiến nóng hổi “đánh Nhã Thuyên” đã (và đang) diễn ra.

Nhưng có vẻ như ông Thưởng không thuộc vào số người đọc lý tưởng của cô Thoan (đương nhiên, mà ông cũng không muốn thế chút nào!). Ông thuộc vào “số khác”.

Tôi rất lấy làm lạ kỹ năng “đọc nhanh”, “đọc lướt” của PGS Phan Trọng Thưởng (và ngờ ngợ hay giáo sư không quen đọc tiếng Việt, nhất là mấy câu phức khó, dài?). Cô Đỗ Thị Thoan chưa bao giờ từ nhận mình là “chính trị đội lốt văn chương”. Nhưng ông Thưởng thì chắc như đinh đóng cột: “Như tác giả luận văn đã tự xác nhận, đây là một luận văn “chính trị đội lốt văn chương””. Nguyên văn đâu phải thế, cô Thoan viết là: “Câu hỏi đây là sự cách tân văn chương mang tính chính trị hay là hành vi chính trị đội lốt văn chương thấm đẫm nguyên lý ý thức hệ và sự lệ thuộc vào một từ chính trị được cắt nghĩa hẹp hòi: Tại sao các anh không cứ cách tân đi, bởi văn chương mới chính là lĩnh vực của anh? Tại sao phải lên tiếng về chính trị và bình luận xã hội? “Nay ở trong thơ nên có thép” có chính trị không? Không phải chúng ta đã bội thực thứ văn chương (phục vụ) chính trị rồi sao?”.

Ôi ông Thưởng ơi, đời thuở nhà ai lại có người ngu dại thế, lại tự nhận mình là “chính trị đội lốt văn chương” làm gì cho khổ. Cô Thoan cô ấy nói rằng nếu như đặt hai câu hỏi đối với hiện tượng nhóm Mở Miệng: 1 là “cách tân văn chương mang tính chính trị”, 2 là “chính trị đội lốt văn chương” thì cả hai câu hỏi đó đều bị hạn hẹp bởi cách hiểu thô thiển về chính trị. Sau đó, cô ấy đặt ra mấy câu hỏi mở rộng. Mà mấy câu đó đều xoay quanh vấn đề bản chất của văn chương là gì? Mối quan hệ giữa văn chương và chính trị thực chất là gì? Cô Thoan quan tâm điều đó, chứ cô Thoan không gọi làng nước tới hoặc be be lên chứng minh mình là cừu đen lạc trong đám cừu trắng đâu.

Cái nghịch lý bi hài cao độ của vụ Nhã Thuyên là: Hội đồng chấm luận văn lần thứ nhất (chính thống về học thuật) là một sự hợp nhất của cái nhìn nghệ sĩ (tất nhiên nghệ sĩ tuyệt đối trong học thuật thì cũng có mặt hay dở của nó). Hội đồng thứ hai (chính thống về chính trị) là một sự “thăng hoa” của uy quyền. Điểm 10 được biểu quyết là sự cộng hợp các trạng thái nghệ sĩ của người viết, người chấm. Còn kết luận hủy diệt là sự đồng tình nhất trí của những người “bảo hoàng hơn vua”, quyết tâm sống mái chấm dứt những “thăng hoa” … không giống mình.

3. Nghịch lý thứ ba: Luận văn thực sự là một hiện tượng trong nghiên cứu và giảng dạy văn học đương đại, bản nhận xét là một “hiện tượng ăn theo” có khả năng “nổi tiếng” hơn “chính chủ”.

Có thể nói, đến giờ phút này, PGS. TS. Phan Trọng Thưởng “nổi tiếng ngoài dự kiến”, đi vào lịch sử ngoài dự kiến. Ông có đến mấy cái nổi tiếng hơn người. Trong danh sách tham gia “thẩm định lại” luận văn cô Đỗ Thị Thoan, ông là người từng có địa vị danh giá nhất (Viện trưởng Viện Văn học). Đó là cái nổi tiếng thứ nhất. Danh giá thế mà lại dự phần vào cái “cuộc nhiễu nhương” này. Đó là cái nổi tiếng thứ hai. Tham gia chấm lại xong, ông rất bình tĩnh đưa bài nhận xét lên báo mạng (tất nhiên là báo chính thống của Hội Nhà văn Việt Nam). Đó là cái nổi tiếng thứ ba. Bài nhận xét, đứa con tinh thần của ông, giờ phiêu bạt chân trời nào, bị thiên hạ đối xử ra sao, chắc ông không thể lường nổi, không thể lường hết. Đó là cái nổi tiếng thứ tư của ông. Và chắc là ông còn được nhắc đến nhiều nữa như một “huyền thoại” của “kỳ tích” đào tạo đại học xứ Việt.


4. Nghịch lý thứ tư: Người viết luận văn thì say cuồng văn chương, người viết nhận xét thì mê mẩn uy quyền

Cô Đỗ Thị Thoan quả là say nghề say chữ. Có lẽ phong cách viết của cô Thoan đã chiếm được cảm tình Hội đồng lần 1 bởi tính chuyên nghiệp và bản lĩnh ngôn từ. Cô Thoan không viết luận văn như học trò làm bài tập mà viết như một trí thức có nhiều suy nghĩ trưởng thành, sắc sảo, có một trình độ diễn đạt nhuần nhuyễn. Đó là một sự khác biệt không thể bỏ qua. Nhưng cô cũng là nạn nhân của chính mình.

Cái sai lớn nhất của Nhã Thuyên là (có lẽ do quá say viết) đã chọn nhầm điểm-rơi-thái-độ với đối tượng nghiên cứu của mình: đẩy thực hành thơ của Mở miệng lên góc nhìn mỹ học (Không phải bất kỳ một hiện tượng thực hành thơ nào cũng có một nền tảng mỹ học hoặc có khả năng xây dựng một mỹ học cho mình. Ngay nhóm Xuân Thu nhã tập với hoài bão làm nên một mỹ học về Đạo, về sự trong sáng của thơ, cũng chấp nhận dở dang và không thể xem là đã có một mỹ học, huống gì những bước đi tìm kiếm và bề bộn của Mở miệng). Đó mới là cái lệch lớn nhất của luận văn. Cái lệch ấy, nếu có thể gọi là sai, thuộc về cái sai của một đẳng cấp học thuật, chứ không phải cái sai của tư cách công dân.

Thế nhưng, trong khi người viết say mê văn chương bao nhiêu thì người chấm lại mê mẩn việc tiêu diệt văn chương bấy nhiêu. Cái uy quyền mà PGS Thưởng thể hiện trong bài nhận xét thể hiện ở lượng từ vựng “an ninh” được dùng một cách hào hứng và kiên trì. Đặc biệt, như trên đã phân tích, luận văn được trích trong bài nhận xét rất nhiều (chắc là phải đến gần 80% lượng chữ), không cân đối một chút nào với mấy lời điểm chú rất “quái dị”, tối tăm của ông giáo sư.

Chỉ có sự uyên bác, tài năng và niềm tin vào chân lý học thuật mới là quyền lực cao nhất và cần có nhất ở môi trường trí thức. Ngoài ra, mọi “quyền lực khác” đều là lố bịch.

Trong cuốn tiểu thuyết Vạn Xuân viết về Nguyễn Trãi của một tác giả người Pháp Yveline Féray, tôi nhớ có một câu như thế này: “Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của một vĩ nhân sống trong một xã hội nhỏ bé”. Cái thước thì ngắn mà đo những thứ quá cao quá dài – sự thật đó là bi kịch của cái thước hay bi kịch của cái thứ cao dài kia? Nguyễn Trãi bi kịch vì sinh ra ở Việt Nam, hay Việt Nam bi kịch vì đã giết Nguyễn Trãi? Một môi trường học thuật mà quan hệ giữa thầy và trò trở thành quan hệ dân – quan, quan hệ tử tù và thẩm phánthì hỡi ôi, trước khi cái thước ngắn cũn cỡn kia lâm vào bi kịch bất lực, nó cũng giết đi bao nhiêu thứ dài cao vô hạn; nó đo hết và trảm hết những cái vượt ra ngoài cái nó đo. Ai đã đẻ ra cái thước đó, và ai cho nó quyền được đo tất cả?


5. Nghịch lý thứ năm: Nhan đề phản chủ

Có lẽ ông Phan Trọng Thưởng suy nghĩ rất cẩn trọng để chọn một nhan đề rất nhã nhặn, lịch sự trong bối cảnh “dầu sôi lửa bỏng” hiện nay: “để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn”. Song, chẳng hiểu thế nào mà nội dung bài viết ấy lại làm người đọc hiểu rõ hơn thực chất về… PGS.TS Phan Trọng Thưởng! Đó là sự diễn tiến của chữ nghĩa ngoài đoán định của PGS. Nếu như thế thì chính chữ nghĩa của ông đã nổi loạn với chính ông. Vậy, chẳng phải “nổi loạn là điều kiện để sáng tạo hay sao”, thưa ông? Vậy, sao ông lại bức xúc khi người khác nói về sự “nổi loạn”?


6. Nghịch lý thứ sáu: Viết về “Mở miệng” nhưng bị bắt “Im mồm”

Cô Đỗ Thị Thoan hẳn không thể tưởng tượng nổi một kết cục cười ra nước mắt: luận văn viết 3 năm được thông qua bây giờ bị hủy, hào hứng viết về “Mở miệng” thì bị tịch thu, đuổi việc và bắt “im mồm”…

Khi viết bài này, tôi luôn ám ảnh trong đầu ông Phan Trọng Thưởng là một “thiên sứ”, hoặc một “sứ giả” mang thông điệp từ một Đấng nào đó để đáp xuống cái Khoa Ngữ văn của Đại học Sư Phạm Hà Nội đang bề bộn bao nhiêu vấn đề… Đúng như cái tên ông vậy, một sự “trọng thưởng” từ phía nào đó vô hình trên cao dành cho cương vị ông có, cho tiếng nói ông nói. Ông viết nhận xét như dạo một bản “nhạc thánh”, tuyên bố về luận văn như tung chiếu chỉ!

Không một trí thức đích thực nào ở nước Việt Nam này không biết đến vụ án Nhân văn Giai phẩm hồi giữa thế kỷ XX; Gọi là một cuộc chơi cũng đúng, một cuộc chiến cũng đúng, một lỡ lầm, một quá đáng, một ăn năn, một uất nghẹn…, đều đúng! Chắc chắn rằng bao nhiêu con người ngậm khối tinh thần đau đớn đem chôn xuống ba tấc đất ngày ấy cũng đã thấm thía những tờ “thánh chỉ” có một không hai kiểu như “bản nhận xét thẩm định” của ông Thưởng. Những thông điệp bên ngoài có vẻ lịch sự, nhã nhặn, trịnh trọng tựa như lời của kẻ “cầm cân nảy mực” cho sơn hà lại chứa đựng nhiều dự cảm đẫm máu (như đã từng xảy ra).

Văn chương, nghệ thuật không nhất thiết phải trở thành nạn nhân trong bất cứ thời đại nào, cũng như không có quy luật nào cho phép khoa học là nạn nhân của thần học cực đoan. Nhưng sự thật là: khoa học vẫn từng chết dưới tay thần học, văn chương vẫn bị chính trị hành quyết. Những cuộc “tuẫn tiết” diễn ra trong quá khứ đã chứng minh rằng khi một nền văn nghệ sống trong sự kiểm duyệt của “văn hóa công an” thì bề nào nó cũng trở thành nạn nhân. Hoặc là nó “vinh dự” trở thành một nạn nhân tự nguyện, tự mình cắt cụt chiếc cánh tự do vô tận, hoặc là nó cam khổ trở thành một nạn nhân bị cưỡng bức, mọc chiếc cánh tự do như một “quái thai” bay tới một chân trời mà điểm dừng của nó là những song sắt nhà tù lè tè dưới mặt đất.

PGS.TS Phan Trọng Thưởng thật “dũng cảm” khi công bố bản nhận xét của ông (“Dũng cảm” trong nhiều nghĩa!). Vậy là vẫn còn những bản nhận xét khác nữa (vì Hội đồng thẩm định đâu chỉ một người). Ai quyết được rằng hàng tá lời thẩm định trong bóng tối kia sẽ không dắt díu tới những ngày buồn đẫm máu một thời của “nạn chữ nạn văn”…?

22.4.2014






 Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn

PGS.TS. Phan Trọng Thưởng


VanVN.Net - Gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện một số ý kiến khác nhau về luận văn thạc sĩ của học viên Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên), ngày 12-2-2014, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã ra Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định luận văn này. Đây là việc bình thường ở các cơ sở đào tạo sau đại học hoàn toàn nằm trong thẩm quyền của các cơ sở đào tạo. Để bạn đọc hiểu rõ hơn thực chất luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan về đề tài: “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn hóa”. VanVN.Net xin đăng toàn văn bản nhận xét phản biện của PGS.TS Phan Trọng Thưởng tại Hội đồng thẩm định luận văn do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thành lập.


PGS.TS. Phan Trọng Thưởng: Dựa trên quy cách của một bản nhận xét luận văn và những yêu cầu do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đề ra, tôi có một số nhận xét sau đây về luận văn của tác giả Đỗ Thị Thoan.



1. VỀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Theo tác giả luận văn, “chỉnh thể văn học và văn hóa trong bất kỳ không gian và thời gian nào cũng luôn luôn bao gồm dòng chính và dòng ngầm, trong đó dòng chính được coi là Trung tâm; dòng ngầm được coi là ngoại vi, là bên lề”. Dòng chính được coi là “có quyền năng chi phối tác động, quyền năng hình thành qui phạm, hình thành thiết chế; còn Dòng ngầm có vai trò “giải qui phạm và phá hủy thiết chế, nhất là khi thiết chế đó bộc lộ xơ cứng và bảo thủ diễn ra ngay trong dòng chính như một qui luật của vận động”.

Từ luận điểm trên, tác giả chọn đề tài và đối tượng nghiên cứu của mình là thơ của nhóm Mở miệng với các lý do: “Mở miệng là một hiện tượng coi là nổi loạn trong thơ đầu thiên niên kỷ, có thể coi đó là “thời điểm cách mạng” của quá trình giải qui phạm và phá hủy thiết chế” (tr3). Tác giả luận văn cho biết tác giả dùng từ cách mạng để chỉ hoạt động của nhóm Mở miệng là vì chú ý đến “tính chất đột ngột và hiệu ứng kích động của nó”. Theo tác giả, vì “là một hiện tượng nổi loạn, nổi tiếng cả trong lẫn ngoài nước, trong văn chương và ngoài văn chương”, cho nên chọn đối tượng này không chỉ là “chọn một nhóm thơ đã gây ra náo loạn văn đàn”, mà còn chọn “cả một không gian xã hội-chính trị-văn hóa của thời đại”. Bản thân tác giả đã tự đặt ra rất nhiều câu hỏi trong đó có câu hỏi: “Đây là một hiện tượng chính trị đội lốt thơ ca hay là một cuộc cách tân văn chương gây hiệu ứng chính trị?; hay “khi đã xác định hiện tượng thuộc dòng ngầm, bên lề thì cần được hiểu các khái niệm dòng chính, dòng ngầm ở Việt Nam như thế nào?... Đó là những câu hỏi sẽ được trả lời trong nội dung luận văn.

Theo chỉ dẫn của tác giả, “vì Mở miệng tự đặt mình vào một xu hướng rộng hơn, có tính chất liên quốc gia (xu hướng ngoại vi hóa) nên nó hấp dẫn cộng đồng nghệ thuật trong và ngoài nước như là biểu hiện của nỗ lực đổi mới nghệ thuật và đòi tự do ngôn luận”. Tác giả cũng tự nhận thấy: “cơ quan an ninh văn hóa Việt Nam vẫn tìm cách kiểm soát và ngăn chặn sự phát triển” của nhóm này. Và vì vậy khi nghiên cứu hiện tượng này, tác giả luận văn cũng “không được tự do”, “tính khách quan trong nghiên cứu không được đề cao”, và vì thế tác giả “cũng là một kẻ ngoài lề khi trực tiếp hay gián tiếp lựa chọn đứng về phía những cái bên lề”.

Với quan điểm lựa chọn như trên, có thế nói luận văn đã tập trung nghiên cứu một hiện tượng nổi loạn, không chính thống, một hiện tượng bên lề, một dòng ngầm không chỉ mang ý nghĩa văn chương đơn thuần mà còn mang ý nghĩa chính trị phản kháng, phản động.



2. VỀ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Đây là một nội dung quan trọng của bất kỳ luận văn, luận án nào. Hiểu biết, nắm vững lịch sử vấn đề là điều kiện để triển khai đề tài, để không lặp lại người đi trước, để kế thừa phát triển các thành tựu nghiên cứu có sẵn, để xác định những đóng góp mới của luận văn, luận án.

Đáng lẽ, lịch sử vấn đề ở đây phải là lịch sử nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhưng do Mở miệng là một hiện tượng mới, lại là hiện tượng bên lề, hiện tượng thuộc về Dòng ngầm theo nhãn quan của tác giả nên phần Lịch sử vấn đề,ngoài hai tài liệu (luận văn, luận án) được thực hiện ở Khoa Ngữ văn – Đại học Sư phạm Hà Nội trong năm 2009 có liên quan ít nhiều đến đề tài, thì phần lớn các tài liệu được viện dẫn đều là những bài báo, bài giới thiệu công bố trên mạng Internet, trên các Blog cá nhân. Theo tác giả “cho đến thời điểm này (cuối 2010) các báo chí trong nước vẫn từ chối các bài viết về, hay thậm chí việc điểm danh đến Mở miệng cũng không được chấp nhận”. Các chỉ dẫn về tài liệu cho thấy phần lớn là các bài báo in ở Hải ngoại, của những người mà tác giả cho là “cùng hội cùng thuyền”, cùng vị tríbên lề so với vị trí quyền lực chính thống ở Việt Nam. Nhưng “dù mang tính chất tán tụng hay chính trị, hay nghiên cứu cũng đều cho thấy sự hiện diện và khả năng gây hấn mạnh mẽ của họ”.

Trên cơ sở của một lịch sử vấn đề như vậy, tác giả luận văn nhận thấy có 3 khoảng trống cần lấp:

- “Các lý thuyết Âu Mỹ chưa được dịch và chú giải kỹ ở Việt Nam nên việc tiếp thu không đầy đủ, vận dụng còn vênh lệch, mô phỏng lý thuyết, mượn danh lý thuyết… Cho nên cần có những mô tả trung thực về thực tiễn văn học sử, từ đó dựa trên sự thẩm thấu các lý thuyết mới để nhìn lại các vấn đề của Việt Nam”.

- “Do sự chi phối của các định kiến, trong đó có “định kiến tách rời mối quan tâm giữa văn chương và chính trị”. Sự nặng nề của từ chính trị mang đặc thù Việt Nam khiến cho người nghiêm túc và phê bình e dè trước các hiện tượng có vẻ gây hấn, quan niệm hướng tới cái tích cực hơn cái tiêu cực, khẳng định cái chính thống hơn cái ngoại biên cùng việc thiếu diễn đàn chính thức cho tranh luận…khiến cho các chuyển động văn học bị ách tắc, ngạt thở. Hệ quả là không gian ngoại biên lẽ ra phải được quan tâm để trở thành đối tượng thì lại trở thành vùng cấm kỵ trong nghiên cứu…”

- “Do thân phận ngoại biên nên những tiếng nói mới mẻ, tiếng nói ngầm không được thừa nhận, chỉ ồn ào trong một ngôi nhà bịt kín bằng vải đen không gây được ảnh hưởng nguy hại hơn chính những tiếng nói tiên phong lại có thể biên thái thành sự thủ dâm tinh thần, còn những cái già cỗi thì lại cố thủ thành trì ù lì và chật chội của nó”.

Có thể xem đó là căn cứ thực tiễn để tác giả xác định mục tiêu và nội dung nghiên cứu.



3. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU


“Đối tượng của luận văn là thực hành thơ của nhóm Mở miệng với vị trí bên lề và những cách tân, cách mạng trong tư tưởng nghệ thuật của họ. Mở miệng cùng với các hiện tượng khác tạo thành Dòng ngầm, thành một quá trình ngoại vi hóa đang diễn ra như một hiện tượng có tính chất quốc tế”.

“Các tác phẩm được khảo sát là những tập thơ của thành viên nhóm Mở miệng và những người cùng chí hướng. Ngoài một số bản đã bị công an văn hóa tịch thu, thiêu hủy, tư liệu nghiên cứu hầu hết là những tác phẩm thơ của Mở miệng mà Giấy vụn xuất bản được lưu giữ bằng File hoặc chuyển qua Email”.

Như vậy có thể thấy đối tượng, tài liệu nghiên cứu đều không mang tính chính thống, thiếu độ tin cậy.



4. VỀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU


Theo tác giả, luận văn “chú ý ít hơn” đến thư pháp của từng tác giả. Trọng tâm nghiên cứu chính được xác định là “vị trí bên lề của Mở miệng. Vị trí này là gì? Hình ảnh tương lai của nó? Có thể bình luận gì về tính cách tân, cách mạng của nó?

Phần Nội dung nghiên cứu gồm 3 chương:

Chương I: Ngoại vi hóa như một chiến lược tồn tại của cái khác

Có thể xem đây là chương tác giả luận văn viết về hoàn cảnh của sự ra đời nhóm Mở miệng.

Nội dung chương này gồm 3 luận điểm chính:

I. Sự trỗi dậy của cái bên lề - một hiện tượng có tính qui luật của vận động

Dựa trên các quan điểm của J.Derrida và một số nhà tư tưởng khác ở châu Âu, tác giả luận văn giải thích rõ các khái niệm: Lề, Trung tâm, Ngoại vi, Cái khác và xem đó như là những điểm tựa lý thuyết, là những khái niệm công cụ để từ đó nhìn rộng ra các lĩnh vực xã hội, chinh trị và văn hóa khác; đồng thời là công cụ lý thuyết để giải mã sáng tác thơ của nhóm Mở miệng. Theo các lý thuyết gia này, đi đôi với quá trình xây dựng các thể chế, thiết chế để củng cố vị trí Trung tâm (trong tất cả các lĩnh vực) là quá trình giải trung tâm. “Các trung tâm được tạo ra một cách nhân tạo qua thời gian và nhiều trường hợp có vẻ vĩnh viễn, nhưng luôn có nhu cầu liên tục về sự phá huỷ và giải trung tâm”. Theo tác giả, luận điểm đó “cần được thẩm thấu để chỉ ra những cấu trúc xã hội, ngôn ngữ, các thiết chế được xem là chân lý cần giải trung tâm”.

“Trong nỗ lực giải trung tâm thì ngoại vi hóa là cách mà những cái bên lề chọn để chống lại sự trấn áp và tiêu diệt của Trung tâm, cũng là cái cách để cái bên lề tồn tại như một cái khác với kinh nghiệm bên lề của nó. Cái bên lề xuất hiện đòi làm cách mạng khi cái trung tâm trở nên già cỗi. Quá trình kết tụ sức mạnh thành Dòng ngầm của những cái bên lề và gây hấn ở những thời điểm cách mạng không phải là một thuộc tính văn chương mà là một hiện tượng phổ biến và nằm trong bản chất của vận động, do đó, cũng là một hiện tượng có tính qui luật của lịch sử văn học ở bất kỳ thời gian, không gian, bất kỳ thể chế, thời đại, quốc gia, lãnh thổ nào. Nó luôn là biểu hiện của một nỗ lực tìm kiếm ý thức văn hóa mới có tính chất thay thế, làm đối trọng với cái đang trở nên già cỗi, mòn sáo và chuyên chế”.

Từ cơ sở lý thuyết và sự tri nhận lý thuyết của tác giả, văn học Việt Nam đương đại được nhìn nhận như sau: “Dòng ngầm văn chương và nghệ thuật trong bối cảnh Việt Nam đương đại đã hiển hiện như một xu thế mạnh mẽ, đặc biệt từ điểm khởi đầu thiên niên kỷ mới. Sự xuất hiện của những cặp khái niệm ngoại vi-trung tâm; chính thống-phi chính thống; phụ lưu-chính lưu… cho thấy nỗ lực mô hình hóa những không gian văn chương xung đột (thấy được và ngầm ẩn) và phân chia quyền lực; những cuộc tấn công và chống giữ, những tranh đấu khó hòa giải… khi tính thống nhất của ý thức hệ bị phá hủy”.

Đó là những luận điểm sai trái mang tính kích động chính trị rõ rệt.

II. Mất diễn đàn-khủng hoảng không khí sáng tạo thời Hậu đổi mới

Để làm rõ nhận định này, tác giả luận văn đưa ra 3 luận điểm sau đây:

Tác giả sử dụng khái niệm Hậu đổi mới để mô tả xã hội Việt Nam từ 1991 đến nay. Theo tác giả, với Đại hội VII (1991), “Cơn hưng phấn của thời đổi mới nhanh chóng biến thành nỗi hụt hẫng vì sự thắt lại của chính sách”. “Tại Việt Nam, Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư đánh dấu sự khôi phục quyền lực của Đảng với tư tưởng bảo thủ về văn nghệ bằng cách tái chế lại định nghĩa của Nguyễn Văn Linh về Đổi mới”. Theo tác giả, “tinh thần đổi mới đã bị bóp méo hay vo tròn lại”.

Trong thời kỳ này, các nhà văn rơi vào tình trạng tác giả gọi là “mất diễn đàn chính thống”. Ở thời kỳ Đổi mới, các nhà văn như Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu khi đòi quyền tự do cho nghệ thuật vẫn còn niềm tin vào nhà nước và trông đợi vào tờ Văn nghệ như là một diễn đàn chính thức. Theo nhận xét của tác giả luận văn, “tờ Văn nghệ thời 1987-1988, khi Nguyên Ngọc là Tổng Thư ký thể hiện rõ sự chuyển hóa từ vai trò cơ quan ngôn luận của chính phủ thời chiến thành một diễn đàn quan trọng cho các nhà văn và trí thức với các cuộc tranh luận nghệ thuật, nay đã như mất sức”. Các nhà văn không thể chờ đợi vào sự hồi sinh của tờ báo. “Tờ Văn nghệ với một bộ phận người trẻ trở thành hình ảnh bảo thủ của một ý thức hệ lỗi thời và sự hèn nhát của một lớp nhà văn bại trận”.

Đó là lý do dẫn đến “nhu cầu phản kháng, chống đối, đòi thay đổi”… xuất hiện trong chính đội ngũ nhà văn.

Tác giả đặt sự ra đời của nhóm Mở miệng trong sự so sánh với nhóm Nhân văn giai phẩm trước đây để nhận diện tính chất phản kháng có ở 2 hiện tượng này. Tác giả nỗ lực phân tích, biện giải để chứng minh sự phản kháng của nhóm Nhân văn giai phẩm thời kỳ những năm năm mươi của thế kỷ XX và của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài… vào những năm tám mươi, chín mươi là hoàn toàn khác so với Mở miệng. Theo tác giả, các nhà văn trong Nhóm nhân văn và các nhà văn thời kỳ đổi mới dù có phản kháng thì cũng chỉ là sự phản kháng nửa vời, phản kháng của kẻ ở trong, vừa muốn chối bỏ, vừa không muốn chối bỏ; phản kháng nhưng vẫn kỳ vọng vào sự thay đổi, vào quyền được nói thật. Còn các tác giả của nhóm Mở miệng và những người đồng chí hướng hiện nay không chịu dừng lại ở đó. Họ đi xa hơn, họ “muốn lật đổ hơn là xây dựng”, “họ không thể chỉ gây hấn bằng cách nỗ lực nói thật vì niềm tin vào sự thật cũng không còn”…

Từ các phân tích trên, tác giả luận văn nhận định: “Trong mối quan hệ của văn chương và thể chế, nếu thể chế ở thời thịnh, được lòng người; nhu cầu chống đối thường ít khi được đặt ra như một yếu tố trội. Nhưng giai đoạn khủng hoảng, phẩm tính phản kháng vốn tiềm tàng trong lòng các xã hội chuyên chế sẽ trỗi dậy. Đây là giai đoạn thích hợp cho nổi loạn, cho phá phách, cho thái độ vô trật tự, vô chính phủ. Chính tại đây, sự mất niềm tin vào bối cảnh, chán ngấy cái trung tâm, cái chính thống, cùng với nó là sự tan rã của ý thức hệ nền tảng, diễn đàn chính thống, sự ồ ạt du nhập của những tư tưởng mới và sự khơi nguồn những sáng tạo và phẩm tính phản kháng của các thế hệ đi trước… đã tạo một không khi giao tranh hỗn độn thích hợp cho những cuộc cách mạng một không khí rã rời, vừa dễ nổi loạn, vừa thiếu liên kết, vừa dễ tập hợp nhóm, vừa phi trung tâm, vừa có những điểm để thiết lập một trung tâm mới”. (tr32).

III. Sự khác biệt trong ý thức phản kháng của Nhóm nhân văn giai phẩm với nhóm Mở miệng còn được tác giả đặt trong bối cảnh rộng hơn là miền Nam và miền Bắc, Hà Nội và Sài Gòn để so sánh nhằm thấy rõ “sự khác biệt trong chủ trương đường lối và ý hướng thơ ca”.

Theo Đỗ Thị Thoan, “Nhân văn giai phẩm là phản ứng Chống sự áp chế của bộ máy quản lý văn nghệ. Họ chủ yếu “đòi một thứ dân chủ gọi tên được, chống lại dàn đồng ca thơ cách mạng”. Còn nhóm Mở miệng cũng Chống nhưng hướng tới cái Khác biệt”.

Sau những phân tích, phê phán thái độ phản kháng nửa vời của nhóm Nhân văn giai phẩm, tác giả luận văn cổ súy cho những động cơ cách tân và cách mạng của nhóm Mở miệng như sau:

“Nhu cầu cách tân như một lẽ sống còn của nghệ thuật mới là lý do tồn tại thực sự của Mở miệng – một nhóm văn chương; nhưng nhu cầu cách mạng lại trở thành điều kiện để họ thực hiện cái lẽ sống còn đó”... “Chính sự biến đổi từ nhu cầu cách tân sang cách mạng này tiết lộ một đặc tính của văn chương nghệ thuật trong mối quan hệ với bối cảnh: ý hướng cách tân văn chương không thể thực hiện được nếu không kết hợp với sự đấu tranh, với những tiếng nói đòi quyền lực, hay đòi xác lập một bản đồ văn chương mới. Đấy cũng là tiền đề cho một sự thay đổi nhận thức về tính tiên phong của văn chương giai đoạn này: mọi cách tân văn chương ở những giai đoạn khủng hoảng niềm tin và những trông đợi vào thể chế thường đến cùng với những tham vọng lật đổ ý thức hệ”.

So sánh hai nhóm (NV và MM) tác giả nhận xét: “Tính chất chính trị trong tinh thần đấu tranh với quyền lực thống trị là đặc điểm chung của họ, nhưng sự khác biệt về vị trí kẻ ở bên lề và kẻ ở bên trong dẫn đến sự khác biệt và bản chất ý nghĩa của từ chính trị: NV – GP quan hệ với thể chế hữu hình; MM xác lập quan hệ với những thiết chế vô hình trong sự tan rã của ý thức hệ thống nhất của thế chế”... “Ở đây không gian văn hóa đã thành không gian đấu trường của những quyền lực văn hóa với khát vọng chính đáng của sự thay thế, chuyển động”.

Kết thúc luận điểm này, tác giả luận văn hô hào: “Chính thời khắc khủng hoảng luôn là thời khắc có tính quyết định: hủy bỏ cái cũ, thiết lập cái mới, với nhu cầu của một thế hệ khác”.

IV.Tôi khác, vậy tôi phải tồn tại

(Mệnh đề này có lẽ dựa theo mệnh đề triết học nổi tiếng của R.Decarte: “Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại”.)

Dựa trên nền tảng lý thuyết đã được xác định từ đầu, tác giả đưa các hiện tượng được khảo sát vào một bối cảnh, một không gian rộng lớn hơn để phân tích và khái quát, tìm ra các cặp khái niệm tương ứng. Theo tác giả

Hà Nội – Chính thống – Trung tâm

Sài Gòn – Phi chính thống – Phi trung tâm (ngoại vi hóa, bên lề)

Tác giả đã sử dụng những dẫn liệu văn chương và lịch sử để làm rõ ý tưởng và các cặp khái niệm này.

Theo tác giả, nhận thức rõ vị trí bên lề, cái ngoài lề, cái phi chính thống, nhận thức rõ thân phận kẻ khác, cái khác để không bị tan biến, không bị trấn áp và tiêu diệt thì hướng vận động là phải ngoại vi hóa, phải đứng bên lề. Sự phản kháng của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương... đã trở nên già cỗi và trở thành lực cản ngay cả khi đang bứt phá chỉ vì trong nhiều năm cứ phải nói theo ý thức chính thống.

Trong tình hình đó, “những kẻ bên lề, những kẻ nhận thức về vị thế nhỏ bé của mình muốn thoát ra nhưng để không nhanh chóng rơi vào trạng thái già cỗi của sự xác lập các trung tâm mới, rất cần một quá trình giải trung tâm liên tục, hay là một sự phản tư liên tục về chính sự tồn tại của mình”.

Theo tác giả: “Nỗ lực của cái bên lề trong việc giải trung tâm các quyền lực chính thống chính là khía cạnh chính trị trực diệ n của nó. Và chắc chắn, cùng các hiện tượng khác phải ghi nhận sự có mặt của Mở miệng không phải như một sự bột phát mà như một tất yếu; không phải như những anh hùng riêng lẻ mà như những người tiên phong của một tập hợp. Nỗ lực của nhóm Mở miệng trên thực tế không phải là nỗ lực chiếm chỗ Hội nhà văn mà là nỗ lực chiếm chỗ để hất gạt cái cũ kỹ, cái chuyên chế, cái đè nén. Ở đây, việc tiến vào trung tâm không nên được hình dung như hình ảnh đám đông ào ạt xông lên vì u tối và vì không biết phải làm gì một cách vô chính phủ, mà là sự tập hợp những người muốn, trong giai đoạn này, giữ chặt lấy cái địa vị bên lề đó vì nó nuôi dưỡng kinh nghiệm chống đối, nó mang tiềm năng sáng tạo một năng lực chống đối, sáng tạo một thế giới có tính chất thay thế, một không gian phá cách, có nghĩa nó là một năng lượng sáng tạo mới.” (tr43).

Và cuối cùng, giữa hai khía cạnh cơ bản: thực hành thơ và thực hành xuất bản, tác giả xác định “sẽ tập trung vào khía cạnh chính trị và tính cách tân – hai phẩm chất thường xung đột nhau trong nghệ thuật, nhưng trong trường hợp này, ở bối cảnh Việt Nam đương đại, nó lại trở nên gắn bó và đầy tiềm năng dung hòa.”

Tóm lại, đây là chương được xem như cơ sở lý thuyết, như là khung lý luận của luận văn. Về thực chất đây là một luận văn chính trị trá hình, văn chương chỉ là cái cớ.

Chương II: Tự xuất bản và sự xác lập không gian phá cách.

I. Xuất bản ngầm trong các xã hội chuyên chế (Samizdat)

Trước hiện tượng tự xuất bản (Samizdat) và các hiện tượng phổ biến, lưu truyền một cách phi chính thống tương tự mà nhóm Mở miệng và nhà xuất bản Giấy vụn tiến hành, tác giả luận văn giải thích:

“Vậy bối cảnh hậu đổi mới với nỗi thất vọng về chính trị, sự đa dạng về văn hóa và công nghệ Internet dẫn đến quá trình giải phân lập không gian địa lý, và hình thành một không gian phân lập trừu tượng hơn của chính thống – phi chính thống Sài Gòn – Hà Nội (không viết hoa). Các nhà văn ngầm ở Việt Nam đã quy tụ với nhau trong những tuyển tập và không gian mạng rộng lớn hơn là trong một điều kiện cư trú tạm thời. Do đó, Samizdat ở Việt Nam đương đại với sự phát triển của dòng thơ phôtô lại có những đoạn nhập dòng với các trào lưu văn hóa mạng, của những tiếng nói ngoại biên, những tiếng nói đòi dân chủ có tính cách tham dự của trí thức như là hệ quả của khủng hoảng về bối cảnh lẫn tiếp thu những xu hướng mới.” (trang 53)

II. Samizdat (tự xuất bản) như một hành vi tham dự: phản kháng và kết nối

Tác giả biện hộ, bênh vực cho hành vi tự xuất bản, xem đó là cách để đạt được tự do cá nhân. Theo tác giả: “Ở Việt Nam, sau nhiều năm truyền thông dòng chính, ở khía cạnh nào đó cũng đồng lõa với những trấn áp thì xuất bản vỉa hè là một hành vi phản kháng lại sự biên tập (thường đồng nghĩa với cắt xén và kiểm duyệt do quan điểm chính trị)... Trong nỗ lực phi chính trị ấy, sự từ chối lại bộc lộ tính chất tham dự... Tính chính trị của Samizdat đương đại biểu hiện ở nỗ lực xác lập quyền lực, một cách tạo không gian chơi mang tính chiếm chỗ và thay thế.”.

Với giải thích của tác giả, các nhà văn tự xuất bản do tự lựa chọn vị trí ngoài lề nên “không cần tham gia vào Hội Nhà văn, đó là những lựa chọn cá nhân khi thể hiện thái độ chống đối hay quan điểm phi chính trị, không cần đến các Hội chính thức của nhà nước”.

Theo tác giả, “Nhân văn giai phẩm vì nỗ lực đòi dân chủ thông qua hình thức xuất bản báo chí công khai nên cuối cùng bị đàn áp khi vượt qua những luật định ngầm của chế độ. Còn nhóm Mở miệng do lựa chọn ngay từ đầu và trung thành với tự xuất bản mang tính chất bán công khai nên tạo thành một vùng văn hóa mới”. Vì vậy, chọn phương thức tự xuất bản là cách “để có thể chống đối”, “là tiềm năng chống lại sự đơn độc và làm tăng sức mạnh của các cá nhân đơn lẻ dưới sự chuyên chế văn hóa”. Hiệu ứng của nó có thể lan rộng trong cộng đồng để mở ra những lối đi mới, một ý thức văn hóa có thể thay thế cái xơ cứng. Bản sắc nhóm cũng là một khía cạnh chính trị.”

Theo tác giả, “phương thức tự xuất bản trước hết là một điều kiện cho tiềm năng cách mạng”.

III. Phẩm chất cách mạng của tự xuất bản (Samizdat)

1. Tính chất phi chuẩn – một thẩm mĩ mới

Theo tác giả, xuất bản vỉa hè ở Việt Nam ít khi gợi cảm giác thiếu phẩm chất văn chương do không được biên tập mà sự phi chuẩn của nó lại biểu hiện một phẩm chất mới, một thẩm mĩ mới. Tác giả dẫn ra những lời lẽ, hình ảnh tục tĩu trên các ấn phẩm Mở miệng để chứng minh (Vì quá tục tĩu nên xin không dẫn ra ở đây)

2. Ngữ pháp của giải phóng

Bằng cách trích dẫn và nêu nguyên văn những bài thơ mà theo Đỗ Thị Thoan “phải gọi là Thi phẩm mới đúng” với lời lẽ thô bỉ, nhảm nhí, với ngôn ngữ phá cách do các tác giả Mở miệng chế tác, tác giả luận văn đã hết lời ca ngợi, nào là“năng lượng thẩm mĩ mới”, nào là sự giải phóng ngôn ngữ, ngữ pháp; nào là sự trải nghiệm sâu sắc, sự tài tình hấp dẫn và “đầy sức mạnh lật đổ”.v.v...

Nguy hiểm hơn, tác giả luận văn còn cổ vũ cho việc đem tác phẩm Đường Kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra để giễu nhại, sàm sỡ và xem đó là sự “lật đổ của Slogan xã hội, các ảo tưởng đóng đinh trong ngôn ngữ ý thức hệ.”(trang 71)

Ở trang 73, cuối chương II, tác giả đã tự đặt câu hỏi, tự trả lời và tự bộc lộ động cơ chính trị của mình khi thực hiện luận văn này: “Câu hỏi đây là sự cách tân văn chương mang tính chính trị hay là hành vi chính trị đội lốt văn chương thấm đẫm nguyên lý ý thức hệ và sự lệ thuộc vào một từ chính trị được cắt nghĩa hẹp hòi: Tại sao các anh không cứ cách tân đi, bởi văn chương mới chính là lĩnh vực của anh? Tại sao phải lên tiếng về chính trị và bình luận xã hội? “Nay ở trong thơ nên có thép” có chính trị không? Không phải chúng ta đã bội thực thứ văn chương (phục vụ) chính trị rồi sao? Khi nhà thơ tự mang mình ra như tang chứng của đời sống, của sự áp chế, họ không sở hữu quyền lực thực sự. Có lẽ chính tính chất vô ích của loại hình nghề nghiệp này, những câu hỏi về vị trí, trách nhiệm của nhà văn với xã hội và bối cảnh vẫn cứ được đặt ra, nhiều nghịch lý hài hước mà khó trốn thoát. Vậy cái tình thế của một nghệ sĩ Việt Nam, hoặc là thoát khỏi bối cảnh, trở thành một công dân toàn cầu, hoặc vị nghệ thuật, vị cá nhân, hoặc gắn chặt với bối cảnh thì phải vừa chính trị, lại vừa văn nghệ và cách tân”.

Đây là một luận điểm mang tính chất kích động rõ rệt.

Chương III: Cách tân hay cách mạng: từ tuyên ngôn đến các thực hành thơ

Giải trung tâm quan niệm thơ

Sau khi đưa ra nhiều dẫn liệu thơ để chứng tỏ nỗ lực giải trung tâm của Mở miệng, tác giả luận văn nhận xét: “Thành ra, khi kẻ ngoài lề nhận ra tình thế ngoài lề của mình, họ cũng nhận ra rằng không thể có tiếng nói chung giữa người đang sống trong cùng một đất nước, một lãnh thổ như hiện nay. Không ai muốn mình thuộc về bóng tối, họ đặt câu hỏi về cách mạng và kẻ lãnh nhận cách mạng thơ.” (Trang 74)

Khi đã xác định sứ mệnh cách mạng của nhóm Mở miệng, tác giả luận văn lần lượt đi vào các phương diện khác nhau của cuộc cách mạng này.

- Trước hết là giải trung tâm về quan niệm thơ

- Thứ hai là thực hành thơ rác, thơ dơ như là mỹ học của cái tục

- Thứ ba là thực hành thơ nghĩa địa như là sự trở lại của các xác ướp.

Với sự nhìn nhận 3 phương diện “cách mạng” này của Mở miệng, tác giả luận văn trở thành người cổ súy, bênh vực nhiệt thành cho những thứ văn chương bên lề, văn chương rác rưởi, dơ bẩn, văn chương nghĩa địa. Với loại văn chương này, tất cả những gì nghiêm chỉnh nhất, thiêng liêng nhất cũng được đưa ra để biếm nhại, công kích, đả phá và kêu gọi lật đổ.

Kết luận của luận văn

Từ các nội dung trên, tác giả luận văn đi đến 4 kết luận sau đây:

1. “Mở miệng tuy tự xác định theo tinh thần hậu hiện đại, nhưng là hậu hiện đại trong văn cảnh Việt Nam, và vì vậy nó cần được nhận diện để không lầm lẫn với các trào lưu hiện đại ra đời từ thế kỷ trước ở các nước khác”

2. “Mở miệng ở các nỗ lực thực hành thơ là biểu hiện của sự giải phóng trong nỗ lực giải phóng của nghệ thuật Việt Nam đương đại. Trong sự so sánh với truyền thống thơ Việt Nam, Mở miệng là sự “chối bỏ quyết liệt”, “lên tiếng đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên chế khi niềm tin vào chế độ và sự tự do đang có sự tan rã. Sức mạnh và hiệu ứng chính trị của một nhóm văn chương không phải là sức mạnh của những tuyên bố, những khởi loạn súng ống và đàn áp, mà bằng tư cách nhà thơ của họ.”... “Dù hình ảnh của Mở miệng thường bị đồng nhất với hình ảnh của sự phá phách trong hỗn loạn, nhưng điều quan trọng nhất họ đã làm và làm được là phá vỡ sự độc tôn, sự chuyên chế của cái lớn, cái chủ lưu, cái trung tâm chính thống đã bộc lộ sự bảo thủ đáng sợ. Chính sách truyền thông văn hóa hà khắc tạo nên một không gian xã hội nóng bỏng và căng thẳng cao độ bộc lộ ra ưu thế và cả những giới hạn, sự thoái hóa trong thực hành của họ. Khi Mở miệng nỗ lực giải trung tâm cái hiện hữu, cùng lúc nó ngầm bộc lộ tham vọng xác lập một quyền lực văn hóa mới – cái vắng mặt – cái bị trấn áp được nhận thức, đồng thời được nhận thức như một khả năng sản sinh ra quyền lực văn hóa mới. Sự giải phóng này làm nên bản chất chính trị của họ”.

3. “Bên lề được nhận diện như là bản chất chính trị - văn hóa của nhóm Mở miệng. Nỗ lực của nhóm là nỗ lực giải trung tâm, giải huyền thoại, giải định kiến. Nó là hiện tượng có tính chất toàn cầu nhưng cần được nhận diện trong bối cảnh Việt Nam”.

4. “Mở miệng là tiếng nói ngầm, là tiếng nói khác, là khát vọng tự do sáng tạo khi bị bóp nghẹt. Tác giả mượn Thanh Tâm Tuyền để kết luận: “Nổi loạn là một hành động đòi được gia nhập đời sống. Kẻ nô lệ đòi quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo”.

Kết luận và kiến nghị của người nhận xét

1 – Như tác giả luận văn đã tự xác nhận, đây là một luận văn “chính trị đội lốt văn chương” với rất nhiều quan điểm chính trị và học thuật sai trái, mang tính chất kích động, đả phá chế độ, xúc phạm chủ tịch Hồ Chí Minh; đánh giá sai lệch về sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước; không có giá trị khoa học và thực tiễn; sai lầm trong việc chọn đối tượng nghiên cứu; tài liệu không chính thống, không có độ tin cậy; cổ súy và biện hộ cho những hiện tượng văn chương tục tĩu, thấp kém; miệt thị văn học và văn hóa chính thống của dân tộc; tạo hậu thuẫn về mặt lý luận và tiếp tay cho những phần tử chống đối, nổi loạn ở trong và ngoài nước... Luận văn lại được viết bằng một văn phong trôi chảy, có sự mở rộng trên cả hai lĩnh vực văn chương và chính trị, vì vậy, đây là luận văn nguy hiểm, cần được chỉ ra các sai sót để hạn chế các tác động tiêu cực đến xã hội và văn học. Đáng tiếc, đây là luận văn khoa học được bảo vệ ở một trường Đại học Sư phạm danh tiếng có truyền thống mô phạm và truyền thống học thuật. Do tính chất nguy hiểm của những tư tưởng chính trị và học thuật sai lầm của luận văn, chúng tôi đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nghiêm túc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm từ khâu giao đề tài đến khâu tổ chức đánh giá luận văn, để bảo vệ uy tín cho cơ sở đào tạo và cho nhà trường.

2 - Từ luận văn này, với bút danh Nhã Thuyên đã phát triển thành 5 tiểu luận nằm trong một cấu trúc thống nhất mang tên: Những tiếng nói ngầm được đăng trên mạng Internet (Da màu) dưới sự tài trợ của các tổ chức nước ngoài. Nội dung được viết lại chặt chẽ hơn; các ý tưởng cụ thể hơn; động cơ công kích, đả phá chế độ chính trị rõ rệt hơn. Trong đó, tác giả công khai cổ súy cho “chủ đề giải thiêng hình tượng Hồ Chí Minh, chống lại sự thống trị dai dẳng của tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán chế độ cộng sản, bình luận và giễu nhại về Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thơ bất đồng chính kiến đã tỏ rõ thái độ trực diện trong quan hệ với quyền lực của thể chế, với nhu cầu phá hủy quyền lực đó. Cộng sản được hiểu như một biểu tượng của sự khống chế tư tưởng và do đó nó thành mục đích nhắm vào của thơ ca trong cuộc tấn công vào ý thức hệ chính thống này” (in trên Da màu).

Rõ ràng, những sai phạm về tư tưởng của tác giả luận văn là có hệ thống và có chủ đích.

3 - Trong thời gian gần đây, trên nhiều tờ báo lớn trong nước đã có hàng loạt bài phân tích, phê phán những động cơ chính trị và những sai lầm về tư tưởng học thuật của luận văn. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra khá phức tạp hiện nay, nếu để lưu hành luận văn này sẽ gây tác hại không chỉ đến văn học, nghệ thuật mà còn gieo rắc những tư tưởng nổi loạn, chống đối, gây mất bình ổn trong đời sống chính trị, tư tưởng, tác động tiêu cực tới thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong nhà trường.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Sinh

Lưu Mêlan







1.
Tiếng vọng kinh cầu đâm đêm phụt rỗng
Thượng đế chối từ mi, Jesus, Đức Phật
Chỉ còn thân xác rã rời mi
Quần la trong đêm tối
Mảnh hồn mi nhòa khan cát bụi
Gió phi trường Thành Sơn xa lạ mi
Núi Chà Bang xa lạ mi
Và cả biển
Réo gọi người
Khác

2.
Mi sinh ra
Thời thế khác
Dòng họ khác, con sông khác
Mùa lũ, mùa khô, thời gian đã
Khác
Bụm xương rồng ngạo ngang thời khóc
Bãi đất hoang nứt đỡ thân ngươi
Sụp
Tàn

3.
Mi đứng đi
Cách đời bít lối
Luồng gió lay úp ngạt núi đồi
Mi không người yêu
Guru khuất
Tiếng hát nụ cười lời ru
Không
Nắng Ninh Thuận tê hồn
Núi Cà Đú ngược sâu
Bãi cát Nam Cương lằn xoay xoáy lửa
Ngưng Dinh khốc
Rỗng
Máu hụt trờ sông

4.
Mi hổng mắt khóc
Dựa mảnh hơi tàn lê ngang hốc núp
Đồi lạnh quay mi
Trăng vầng sói hú
Chỏm tóc hồng cháy đỏ
Nhịp định phận nhanh
Nhanh
Không còn gì
Không còn
Rụng giữa đời
Đi

Đ i

TẦNG TRỆT THIÊN ÐƯỜNG






Tầng trệt. Trong phòng. Chẳng có đồ đạc gì ngoài một tủ kê sát tường, một bàn kê sát tủ, và hai ghế kê sát bàn.


Hai hữu thể có cánh, rã rượi, ố bẩn, như chưa một lần bay lượn: Một, có cặp mông lớn lao và hung hãn, đang đứng kiễng chân trên đầu bàn, ghé tai vào cái đài bán dẫn made in Hell giấu trên nóc tủ, vẻ lắng nghe, thỉnh thoảng quay lại bộ mặt xanh xao, mắt quầng thâm, thở dài, ... Một kia, đang ngồi ở ghế cạnh bàn, đầu cúi, viết không ngưng nghỉ, ... Những dòng chữ chảy lênh láng, ngập một tấc trên sàn, tràn cả ra cống rãnh ngoài cửa. Bầu khí thì oi, thoang thoảng mùi chuột, và gián, và rác ...


- Em van anh. Hữu thể đang đứng nhắc lại, giọng ủ dột. Anh viết gì mãi thế?

Hữu thể kia vẫn mải mê không đáp.

- Không. Giọng càng ủ dột. Không thể thế được. Em không tin.

- Gì cơ? Giọng hỏi lơ đãng.

- Em không tin.

- Nhưng tin gì cơ?

- Không thể vui thế được. Ở dưới ấy đã được giả thiết là buồn thảm.

Hữu thể kia bất giác ngửng đầu, vẫn lơ đãng. Chiếc đài dang lần lượt nhả ra âm thanh của chín kênh địa ngục.

*

Anh bất giác ngửng đầu, lúc nàng đưa tay vặn nút, dò tìm kênh một, VOHell. Một bản giao hưởng tấu bằng các hậu môn. Anh ngừng bút, nhưng không có ý nghe, chỉ lơ đãng đưa mắt nhìn sang phải , ở đó, một mảng vôi xám nữa vừa rơi xuống từ cái vách ố bẩn, la liệt những chữ Dieu, Love, Rai,...viết nguệch ngoạc bằng phấn và than, chung quanh những nét vẽ, còn nguệch ngoạc hơn, phác thảo chân dung của Thượng Đế, vẻ mặt vừa đáng kính vừa đáng ngờ, với một vòng hào quang mầu hoen rỉ. Phải hào quang.


Bản giao hưởng dứt. Chương trình được tiếp tục bằng một giọng xướng ngôn chuyên nghiệp: ....... Sau đây là bản tin cuối ngày. Vừa qua chúng tôi đã tiếp nhận thêm 12 hữu thể có cánh. Một trong số cho biết, họ đã ... từ những bóng tối thiên đường nào trung cổ, những xứ sở nào buồn bã vô song. Thẩy đều bơ phờ, liệt nhược. Một số đã chết. Hiện chưa tìm được một biện pháp nào khả dĩ giúp số còn lại vui lên được một chút. Chúng tôi thành kính nghiêng mình trước... Chúng tôi trân trọng mọi nỗi đau thiên đường...Anh ngáp.


Tiếng rột rạt phát ra từ cái nút vặn đài. Nàng rà sang kênh hai. Một bài triết luận đang đọc dở: ... Cuối cùng, rõ ràng sứ mệnh cay nghiệt mà trung thành nhất của ý thức vẫn là phản bội, và, rất tiếc, ấy lại chính là phương tiện duy nhất cứu rỗi cho chân lý ... Anh vẫn không buồn nghe. Sự chú ý của đôi tai anh đột ngột được dành cho những âm thanh đang vọng xuống từ những tầng trên của toà cao ốc, những tiếng cãi cọ, chì chiết chua ngoa, những tiếng quát tháo, rồi là tiếng khóc khô khan,... Mắt anh thì để ra cửa sổ. Ngoài ấy, một cơn gió đang cuốn bụi bay tung. Mầu trời u uất. Có một con trốt xám vẫn lơ lửng ở đâu đó, anh biết.


Kênh ba. Tin về phát hiện khoa học mới nhất... Vừa qua, các nhà... đã thí nghiệm thành công... Tia nhìn anh bất động, bám lấy cái cửa sổ, trong lúc cố hình dung ra điều gì nghiêm túc, chẳng hạn một phòng thí nghiệm, những ống thuỷ tinh, những cái blouse trắng ... Anh cố gắng đến đau mỏi, cuối cùng lắc đầu. A, một lần nữa anh kịp nhận ra, chẳng có hình ảnh nào gọi được là nghiêm túc lại có thể lưu trú trong trường ý thức của anh. Nhưng mà không, xét cho cùng, có hề chi. Những điều ấy, dầu nghiêm túc đến đâu mặc, có liên quan gì đến anh, đang ngồi đây, giữa một nỗi hỗn mang oi ả, thoang thoảng mùi chuột và gián và rác!


Cái nút đài tiếp tục kêu lên. Nó lại được hăm hở vặn đi. Kênh bốn. Tiếng Thét Vượt Thời Gian. Anh mệt mỏi đặt bút xuống. Ấy là từ ngữ anh thật sự không muốn nghe. Thời gian!


Kênh năm. Bản tin lúc không giờ. Lại thời gian! Cái gì vậy? Có phải mớ khái niệm gắn liền với từng múi giờ, mà bầy hữu thể có đuôi nào đó cam lòng chia nhau gặm nhắm? Thế, anh chẳng thể chia sẻ với họ. Ở đây, nơi thường trú anh, dù sáng hay tối, ngày nắng hay ngày mưa, mùa ít nóng hay mùa rất nóng, thì ngọn đèn duy nhất giữa trần phòng kia cũng cứ thắp suốt, chẳng khác một con mắt võ vàng treo dọc, không bao giờ nhắm lại, và, dưới ánh sáng tự kỷ ám thị kinh niên vàng vọt của nó, anh không thể xác định được là mấy giờ. Thời gian của anh là mênh mang vô bờ bến, hay co xoắn đậm đặc, theo cách nào đó, anh không thể diễn tả bằng ngôn ngữ phàm tục bất toàn, - nó phải được thể nghiệm và diễn giải theo những phạm trù siêu việt hẳn, vượt khỏi tầm với của ý thức lẫn tưởng tượng anh. A, thời gian! Đã lâu rồi, anh không còn biết đến nữa.


Bản tin bỗng níu kéo thần trí anh trở về với cái đài: Nghe nói, ở tầng trệt của Thiên Đường, từ một nỗi đau giả, một hữu thể có cánh đã để chẩy lênh láng những giòng thơ, làm ngập lụt mọi cống rãnh... Nàng quay lại, giọng trách móc.


- Người ta đang nói về anh. Mắt nàng như quầng thâm hơn.

Anh lắng nghe, vẻ buồn bã.

- Không. Họ lầm. Nỗi đau của anh là có thật.

Và anh cúi mặt, vẻ rất buồn bã, nhìn những giòng chữ chẩy khôn cầm. Họ có thể hiểu gì về việc anh đang làm! Nhưng thôi, thây kệ, anh chẳng cần. Khi anh sáng tạo, một mình anh là đối trọng của thế giới, anh tự triển khai thành một thế giới của riêng anh ...


Kênh sáu. Tiếng động kẽo kẹt của một chiếc giường. Tiếng thở hổn hển lẫn tiếng rít khe khẽ, khuyến khích ,...

- Nghe nói, ở dưới ấy bọn quỷ cái đẹp lắm, đúng thế không, anh? Giọng nói ủ dột của nàng vang lên, như rên.

- Có đâu. Anh vẫn cúi mặt. Đã được chứng minh là ở dưới ấy những hữu thể có đuôi, giống cái, phải ngồi trước gương hàng giờ và tô đi tô lại đường viền những lỗ thủng trên mặt bằng những mỹ phẩm thượng thặng. Họ hẳn phải xấu xí.


Nhưng nàng vẫn chẳng có vẻ gì là nguôi ngoai. Những ngón tay run rẩy lại đay nghiến cái nút vặn.


Kênh bảy. Tiếng cốc tách chạm nhau. Tiếng cười. Tiếng chúc tụng. Một buổi liên hoan. Nào, nào, xin cạn ly, nhân kỷ niệm lần thứ 1991 ngày qua đời của... Anh không thể không một lần nữa nhìn qua cửa sổ. Đằng xa, ở cuối tầm mắt, cách một quãng đồng vắng không cây, có một cái gò lớn, vẫn được mệnh danh Nấm Mồ Của Thượng Đế. Phần anh, chưa bao giờ gọi nó bằng cái tên đó. Thật xúc phạm đối với con tim khi phải nhìn thấy nó hôm nay, cỏ xanh loang lổ. Anh vẫn nghĩ, lẽ ra ra nó phải được lát bằng những phiến cẩm thạch, mát lạnh và lặng lẽ, an nghỉ dưới bóng râm của những rặng trường xuân.


Kênh tám. Tiếng cười sặc sụa ...


*


Nàng cứ rà đi rà lại cái nút vặn, vẻ thất vọng. Cuối cùng, bật khóc.

- Không. Nàng gục đầu vào cái tủ, vai rung lên. Em không tin.

- Thôi nào! Giọng nhẫn nại, anh nói, trong lúc quờ tay lấy cây bút , cách vô thức.

Anh lại cúi xuống, cắm cúi viết. Chữ nghĩa lại chẩy lênh láng, ngập ngụa, ào ạt khắp, phần lớn xuống cống rãnh sặc mùi chuột và gián và ..., chỉ một ít bay tung theo gió, lấp lánh giữa đám bụi. Vẫn lơ lửng một con trốt xám ở đâu đó, bên ngoài ,... Bầu khí thật oi.


Anh ước ao nàng sẽ vặn cái đài về kênh chín. Nhưng chẳng hề hy vọng điều đó. Nàng chẳng bao giờ lại chọn nghe kênh chín, cũng như chẳng bao giờ lại chịu tắt đi cả. Chẳng thà vặn suốt, và cứ như thế, để cho tiếng rột rạt hăm hở kéo dài tưởng chừng vô tận. Dù sao vẫn hơn. Nàng bảo. Em ghét kênh chín. Phải, anh biết, ở đấy chỉ được nhả một Dấu Lặng Vĩnh Cửu. Còn anh, thì thèm khát nghe nó xiết bao.


Từ một tầng bên trên của toà cao ốc lại vọng xuống một giọng lanh lảnh, át cả tiếng rột rạt ngoan cố của cái nút vặn đài: Gớm, lại sặc. Rõ khốn khổ. Người ta vẫn nuốt cả tấn địa ngục vào họng đến là tươm tất, còn ông, có mỗi cái hạt tấm cũng cố mà sặc. Thật, tôi đến độn thổ ...


Anh chẳng muốn nghe chút nào, cứ lẳng lặng viết xối xả. Song, thật đáng buồn, đôi vành tai của anh đâu thể đóng lại! Đấy, và anh cũng lại nghe nàng rảo trở về kênh bẩy...


Tiếng ngáy như sấm. Buổi liên hoan đã vãn rồi sao? Anh lẩm bẩm... Bất thần vang lên, trong khoảnh khắc, một đoạn Adagio của bản..... N°14, của .... Kênh sáu, phải không em? Anh định hỏi, nhưng cái nút đã vặn đi. Phải rồi, kênh sáu. Người ta đã ngưng chuyện ấy, chỉ còn tiếng đàn rướm máu, ánh trăng rướm máu. Anh lại bất giác nhìn ra cửa sổ, nhìn những đám mây trên cánh đồng thiên thu, chẳng phải mùa xuân, chẳng phải mùa hạ, cũng chẳng phải..., những đám mây ấp ủ mộng đời nào bất tuyệt. Chúng đến từ đâu? Anh bỗng cảm giác xa lạ, xa lạ, xa lạ...

Kênh năm lại vồ lấy thần trí anh với cái giọng thường trực: Chẳng bao giờ đã và cũng sẽ chẳng bao giờ có ai từng nghe nói về một vụ tự tử như thế, - tự tử bằng thơ. Thơ dâng lên từng milimét, chắc chắn sẽ ngập đến cằm, đến miệng, đến mũi, và thế là hết, chỉ còn hai con mắt, thao láo, dần dần bất động, ngưng thần. Đồng thời, mức thơ không dâng lên nữa. Phải mất lâu lắm, thơ mới rút đi hết, qua ngả cống rãnh, và trên nền nhà chỉ còn lại sõng sượt một mình thi nhân, với đôi cánh nát tan ...

- Họ lại nói anh. Giọng nàng nghe khô khốc.

- Không. Anh lơ đãng nhìn xuống bàn, gẩy gót cây bút, nhưng không viết. Họ không hiểu gì hết. Chúng ta không biết đến sự chết. Khái niệm đó đã được qui ước là vô nghĩa ở Thiên Đường.


Anh vẫn gẩy gót cây bút. Sao họ lại dối trá thế? Chẳng ai đã từng biết được điều gì về chốn đây. Tự tử bằng thơ! Có buồn cười không. Anh nào có làm thơ! Anh chỉ để chữ nghĩa tuôn chảy mãi thế này, ngập sàn một tấc, và chỉ thế không hơn. Còn anh, thì tồn tại đã được chỉ định là chẳng bao giờ kết thúc.

- Nhưng, em van anh. Anh viết thế để làm gì chứ?

- Anh van em. Giọng anh cũng khô khốc. Anh không biết. Có thể nào khả hữu một câu trả lời khác hơn, mà vẫn trung thực đến thế? Cũng như có thể nào tìm thấy một điều gì khác hơn là cây bút xấu xí này, để cho anh trang trải hết cái chiều kích ghê gớm của thiên thu? Quả thật, anh không biết.

Anh thoáng thấy nàng mím môi. Cố nhiên, ấy chẳng phải lần đầu tiên được đặt cho anh một câu hỏi đại loại. Nhưng thôi, hãy quên đi những điều nhỏ nhặt, khi một mình anh cũng đủ khả năng là đối trọng của thế giới, một mình anh cũng có thể tự triển khai thành ...

Dường như nàng cũng thế, cũng biết quên. Thoắt cái, nàng đã trẩy sang kênh khác, vẻ lãnh đạm.

Kênh bốn. Chương trình đọc thơ. Đã về đâu rồi, Tiếng Thét Vượt Thời Gian? Và bây giờ, thì thơ! Một giọng đọc có cái gì đó khẩn thiết, buộc anh phải lắng tai.


... Anh ra ngõ, ngồi xuống một phiến đá, và bắt đầu khóc. Anh khóc trước tiên cho bản thân anh, rồi sau đó, cho mọi thứ, mọi sự trên đời: Khóc cho trời đất quá bao la, cho những đám mây quá xanh, cho mặt trời quá rực rỡ, cho đồng lúa quá vàng, cho dòng sông quá nhiều nước, cho những kẻ đi vụt qua ; - cho người đàn bà kia đôi vai quá mảnh, đôi vú quá lớn ; cho người đàn ông kia dáng đi đã quá nhọc nhằn, lại còn sở hữu thêm cái dương vật quá khổ ... A, mọi sự tồn tại đều đẹp đẽ và tội nghiệp đến mức không chịu nổi. Song, điều càng lúc càng trở nên khủng khiếp nhất, là anh vẫn không thể nào hiểu được cái lẽ tồn tại của chúng. Thế là, anh lại khóc và khóc, và phát hiện ra đôi mắt là cả một nguồn mạch đầm đìa.


Ôi khốn khổ. Tạo vật có đuôi vô danh nào đã có thể cưu mang một nỗi đau nhường ấy, nỗi đau đồng dạng với nỗi đau anh? Đoạn thơ khiến anh thật sự ganh tị, dù chỉ có bấy câu. Chao, chẳng bù cho bao tuyệt phẩm anh đã từng biết, trường giang đại hải, hoàn thiện một cách vô tích sự ; hay hớm, thông minh và vĩ đại một cách vô tích sự, chẳng đáng để anh nhớ lại mảy may...


Dù sao, rất tiếc, thi ca vẫn không phải điều nàng quan tâm. Tiếng rột rạt lại cương quyết nói lên điều đó ... Cái đài đang trở về kênh ba...


Vẫn những mẩu tin nhanh về những phát hiện mới nhất ... đã xác nhận tồn tại của lỗ đen...Vấn đề bản chất của lỗ đen,- điều kỳ diệu đến nghịch lý của thực tại vật lý ... Lại những điều đồng thời vừa nghiêm túc vừa chẳng liên quan gì đến anh, đang ngồi đây, giữa nỗi hỗn mang oi ả, thoang thoảng mùi chuột và gián và rác, dưới cái áp suất song trùng, vừa xám xịt, của một con trốt vẫn lơ lửng ở đâu đó ngoài kia, vừa võ vàng, của ngọn đèn duy nhất trong phòng, chẳng khác một con mắt kinh niên tự kỷ ám thị treo dọc, không bao giờ nhắm lại...


... Nghiên cứu cho thấy, ở điều kiện..., dung dịch từ mắt sẽ không chảy xuống má, nhưng sẽ... Những từ vựng lại tiếp tục nổ dòn một cách nghiêm túc phi thường, trong khi anh chẳng biết làm gì khác hơn là ngáp, và kín đáo nhận ra, chẳng bao giờ kịp che miệng.


Cái ngáp của anh kéo dài cùng với tiếng rột rạt của cái nút vặn đài, và không thể ngưng lại, ngay cả khi trên kênh hai đã vang lên bài triết luận dị hợm quen thuộc: ...Đã đành năng lượng phải được tiêu hao dưới mọi hình thức, thế này hay thế khác, song bi kịch nhất vẫn là nỗ lực vận dụng nó cho việc ghi nhớ những điều chẳng... hay trả giá nó cho niềm tin vào những thứ chẳng..., vâng, và ngay cả khi anh, như theo một phản xạ tự nhiên, vụt ngoảnh ra cửa sổ, đưa mắt nhìn về phía Nấm Mồ Của Thượng Đế, với vẻ buồn rầu...


Lúc này đây, anh càng khát khao chuyển cái đài về kênh chín, khát khao đắm mình vào nó, - cái Dấu Lặng Vĩnh Cửu, chưa một lần được nghe nọ, xiết bao. Song, anh vẫn ngồi yên thế, vân vê cây bút, lặng lẽ ngáp, và cuối cùng, lại lặng lẽ cúi xuống, tiếp tục viết và viết, lênh láng, xối xả, ào ạt khắp...


Thôi, cứ xem như giải pháp duy nhất cho anh là thế, và anh sẽ mãi còn trung thành với nó, thây kệ mọi sự, thây kệ cả cái đài đã được nàng vặn hối hả, rột rạt trở về kênh một, nơi cũng vừa kết thúc một bản tin hay một bài triết luận hay một bài thơ nào đó anh chẳng rõ: ... Sẽ chỉ còn lại một mình anh thôi, và thế cũng đủ để hoàn tất sứ mệnh làm chứng cho nỗi vô nghĩa bí ẩn và vĩnh cửu của tồn tại Thiên Đường. Và cố nhiên, ngay cả cái lối kết thúc này nữa, anh tự nhủ, cũng phải được thây kệ nốt.


Bùi Hoằng Vị


MỌI RANH GIỚI ĐỀU KHÔNG CÓ THẬT



Nguyễn Viện






(1) Hiện số mệnh  truyện ngắn trong giới văn học Việt trong và ngoài nước?

Số mệnh truyện ngắn của Việt Nam theo tôi, giống như số phận của một dân tộc nhược tiểu. Ngôn ngữ của nó trên mặt bằng thế giới, giống như ngôn ngữ của người thiểu số. Nếu như văn chương Việt Nam được dịch và giới thiệu một cách tử tế hơn (phi mậu dịch quốc doanh) qua những ngôn ngữ phổ biến như Anh, Pháp… thì tôi tin rằng văn chương Việt Nam sẽ có một vị thế khác hơn hiện nay.

Có không ít tác giả nước ngoài được in ở Việt Nam mà chất lượng tôi cho rằng cũng giống như người ta nhập khẩu rác trong kinh tế.

(2) Truyện ngắn có được giới độc giả Việt đánh giá cao hơn truyện dài không? Tại sao?

Độc giả thông thường vẫn đánh giá truyện dài cao hơn truyện ngắn, có lẽ một phần vì truyện dài đòi hỏi tính chuyên nghiệp hơn, công phu hơn. Trong khi truyện ngắn thường chỉ là một cảm xúc sự kiện (đôi khi là một từ), một ý nghĩ… cần bày tỏ ngay. Tất nhiên, giá trị tác phẩm hay nhà văn không ở chỗ anh ta viết dài hay ngắn.

(3) Yếu tố nào là yếu tố chung của các nhà văn viết truyện ngắn đã tạo ra sự chú ý từ độc giả? Ngoài ra, yếu tố nào là đã tạo cho họ vị trí cá biệt trên văn đàn? Những yếu tố này có phải cũng là những yếu tố định nghĩa cho sự sinh tồn của truyện ngắn?

Cái bầu khí văn chương hay cái không khí của truyện và giọng văn của tác giả thường được độc giả chú ý. Nguyễn Ngọc Tư với chất miệt vườn Nam bộ, Nguyễn Huy Thiệp với đặc trưng của phong cách hút thuốc lào uống trà rất Bắc bộ, Phạm Thị Hoài với kiểu nanh nọc mà sang trọng của gái Bắc kiêu kỳ, hay Bùi Hoằng Vị sống và viết vừa như “kẻ sĩ” ẩn mình vừa đểu cáng công nhiên… là những ví dụ của bản sắc cá nhân. Nhưng điều quan trọng nhất cho sự sinh tồn của truyện ngắn lại dường như ở chỗ, anh cho người ta cái gì để nhớ sau khi gấp cuốn sách lại. Một thứ ngôn ngữ không thể tìm ở đâu khác. Một cách kể chuyện không lẫn lộn.

(4) Có cần nên có ranh giới giữa truyện ngắn và truyện dài? “Ngắn” và “dài” nên là bao nhiêu trang? Một truyện ngắn có thể mô tả một thời gian dài tương đương như truyện dài (10, 20, 50 năm), hay phải ngắn hơn? Trong bối cảnh văn học Việt Nam, đã có nhà văn nào “phá giới” giữa quy luật truyện ngắn và truyện dài chưa? Tại sao chúng ta chưa chịu phá giới thường xuyên hơn?
Mọi ranh giới đều không có thật (có vô số thí dụ để khẳng định điều này). Có lẽ vì thế chính tôi đã từng gọi những tập truyện ngắn của mình là tiểu thuyết. Tất nhiên cũng có lý do của nó. Một cách viết. Một bối cảnh. Đôi khi là một giai đoạn mà nó có những yếu tố chung. Một tiểu thuyết với những module khác nhau. Một kiểu chơi xếp hình.

Nếu ranh giới (độ dài, số chữ, số trang) để phân biệt giữa truyện ngắn và truyện dài là không thật thì làm thế nào để xác định một truyện ngắn hay truyện dài? Theo tôi, sự phân biệt đó không nên dựa vào dung lượng của số chữ, mà cần định lượng bằng cái không gian/ thời gian của truyện. Vì thế, có thể gọi một tác phẩm là một tiểu-thuyết-ngắn, tiểu-thuyết-mini, truyện-dài-không-dài, hay một truyện-ngắn-ngoại-cỡ, truyện-ngắn-không-ngắn, truyện-cực-ngắn, truyện-nóng, truyện-cực-ngắn-liên-hoàn (tôi đã phổ biến một số trên Tiền Vệ và Blog Phạm Thị Hoài –procontra.asia) … bên cạnh các truyện ngắn hay truyện dài, truyện vừa như chúng ta quan niệm hiện nay. Từ cách gọi này có thể gợi mở ra những cách viết khác, bố cục khác, ý niệm khác. Nén. Đóng gói. Bung hàng. Xổ hàng…

Cách gọi một tác phẩm ngắn hay dài có thể mang đến một định nghĩa khác cho truyện dài/truyện ngắn. Một định nghĩa khác là một sáng tạo khác.

(5) Yếu tố địa lý – vùng Ontario ở miền Trung của Canada – là bối cảnh chính trong nhiều truyện ngắn của Alice Munro. Yếu tố không gian/địa lý có quan trọng trong truyện ngắnViệt Nam hay không? Tại sao (không hay có)?
Tôi cho rằng yếu tố không gian/ địa lý (tất nhiên sẽ kèm theo yếu tố lịch sử và văn hóa) có những ảnh hưởng nhất định lên những sáng tác của nhà văn, cho dù anh ta viết hoàn toàn hư cấu. Trường hợp Nguyễn Ngọc Tư hay Nguyễn Huy Thiệp là rõ nhất. Ngay cả khi anh thoát ra khỏi thực tại, cái bối cảnh sống của anh cũng vẫn là một yếu tố tạo nên tính cách. Nó giải thích thái độ và hành động viết văn của anh. Thậm chí góp phần vào sự thành bại của tác phẩm của anh. Đặc biệt khi anh sống ở một nơi mà sức ép của nó không thể trốn chạy.

Có một ngoại lệ có thể đẩy quan điểm của tôi về bối cảnh sống hay địa lý vùng miền xuống loại cổ điển. Đó là trường hợp của Vũ Lập Nhật trong văn xuôi (và Lưu MêLan trong thơ). Phi chính trị (theo một nghĩa tương đối), thoát khỏi mọi hệ lụy của các vấn đề thời sự nơi họ đang sống. Tác phẩm của họ lại là một thứ địa lý khác, thời của toàn cầu hóa, của một sản phẩm đô thị đích thực (đối chiếu với các loại nhà quê lên tỉnh). Một mê cung mà không hẳn cuối đường của nó là một kho báu. Sự hấp dẫn và vẻ đẹp của nó nằm ngay trên lối đi và những ngõ ngách đưa người ta bước vào. Tôi cũng coi đây là một niềm hy vọng cho những khả thể của văn chương Việt Nam. Văn chương bẩm sinh, tự nó gieo trồng và lớn lên. Một thứ văn chương không cần mượn đến trải nghiệm cuộc sống bên ngoài để làm tuyên giáo cho mọi kiểu cách khác nhau.

Không có gì cũng là một loại tài sản!




*Photo: Max Ho



Đọc sách báo nhiều và xem tivi nhiều, hẳn chuyện hàng năm vẫn cứ lặp lại mỗi mùa thi qua….

Cứ mỗi mùa thi đại học là có một loạt các bài viết về các thủ khoa trường X con nhà nghèo, thủ khoa trường Y có hoàn cảnh khó khăn… vân vân và vân vân. Câu chuyện tự thưở nào của tôi vẫn luôn hằn sâu trong ký ức mỗi khi một mùa thi đại học nữa đang về. Đó là chuyện ba hễ cứ đọc báo thấy tấm gương nào thủ khoa con nhà nghèo học giỏi là lại cắt cái bài báo đó mang về. Ba làm vậy với tôi trong nhiều năm liền. Chuyện đó dần hình thành một cái nếp và những mùa thi đại học trôi qua với tôi luôn là cảm giác sống trong một mớ những ngưỡng mộ những con người như thế. Họ nhà nghèo nhưng luôn vươn lên và học hành rất giỏi giang.

Còn nhớ có lần; hồi năm học lớp 10, tôi đang nghỉ hè ở quê sau một năm dài học hành không có kết quả khả quan là mấy. Năm đó cả nước đi thi Olympic Toán quốc tế được 2 huy chương vàng thì cả hai huy chương đó đều rơi vào 2 anh của trường Lam Sơn – Thanh Hóa. Cha nghe được điều đó nên ngay cái buổi chiều mà anh Hoàng Đức Ý về (một trong hai huy chương vàng) đã đèo tôi đến nhà anh này để xem.

Căn nhà của anh nhỏ nhỏ, đúng kiểu nhà của những vùng quê Việt Nam, mặc dù khu đó vẫn được tính là trong thành phố. Ngoài có cái cổng sắt và hàng rào cắm lởm chởm những mảnh chai mảnh sành đầy tường. Bức tường thấp tè đến độ chỉ với chiều cao của tôi lúc đó; nhỏng cổ nhìn qua tường cũng có thể thấy rõ mồn một cảnh tượng ngôi nhà và những người đi lại trong đó. Bên cạnh tường có một đống rơm to và cả một chiếc bồ cào; lúc đang vào vụ thu hoạch, rơm tươi ngổn ngang khắp mặt sân.

Đi sâu vào trong nhà một chút thì đến khu vườn rộng, cũng đủ trái cây như: Đu đủ. ổi, xoài… Lúc đó cả căn nhà nhỏ của anh ngập người ra vào. Cha mẹ anh thì nghèo thật, đúng độ chất phác của chân quê. Anh Ý có một người chị gái thì đã bỏ học từ năm lớp 9. Nhìn nhà cửa nhỏ và đơn sơ nhưng thứ hút ánh nhìn của tôi nhất là một giá sách đã cũ mòn. Những quyển sách xếp ngay ngắn trên giá được sắp đặt gọn gàng. Và quả thực khi mà chị anh Ý làm cơm trong lúc chờ đoàn xe đón anh từ sân bay Nội Bài trở về thì tôi thấy chị đang chuẩn bị một nồi ốc om chuối đậu. Nhìn vào cái rá con có lèo tèo vài ba con ốc. Ba tôi nói với tôi ngay khi hai ba con trên đường về là: “Con thấy không? Kể cả khi đạt giải cao như vậy rồi người ta cũng chỉ có ốc om vậy thôi!” Tôi cũng chỉ vâng dạ rồi để đó cho qua chuyện.

Đến khi đoàn người dãn ra, một cái xe u oát đỗ xịch trước cái cổng sắt đã mòn vẹt… Tôi lúc này nhìn thấy anh bước xuống, người gầy cà tong cà teo, hơi ốm yếu đang đeo huy chương vàng. Cha tôi đã lôi tôi đến trước mặt ba anh này. Sau một hồi nói chuyện thì cuối cùng tôi cũng được sờ thử cái huy chương.

Lúc ra về tôi chỉ nhớ là cái huy chương chắc là bằng vàng xịn, dây đeo là dây dù nên khá chắc và bền. Nhưng cái thuở ấy tôi chỉ thấy nó như một thứ rất đáng để ngưỡng mộ, mà phấn đấu cố gắng vươn lên. Đấy chỉ là suy nghĩ nhất thời của một đứa con nít lúc mới đến đó thôi. Nhưng rồi khi vượt qua lũy tre làng, vượt qua những rặng rơm đầy mồ hôi sương gió đó, khi trở lại thành phố thì tôi lại quên phắt đi chuyện phải cố gắng ra làm sao. Vài tuần sau đó với tôi mọi thứ lại trở nên như cũ.

Kể một câu chuyện dài như vậy chỉ để nói với bạn rằng: “Không có gì cũng là một loại tài sản.” Bản thân những con người sống trong đủ đầy và nhung lụa, tự bản thân cũng sẽ thấy rất ít thiếu thốn vật chất. Và bản tính nhân loại chỉ đi tìm những gì mà mình không có hoặc rất muốn có chứ chả ai tìm tòi những cái mà mình đã cho là đủ.

Người nhà nghèo thường mong muốn thoát nghèo, cho nên họ là những người rất cách mạng. Từ thưở còn chiến tranh với những cường quốc lớn, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định là giai cấp chính để lật đổ đế quốc thực dân là “giai cấp vô sản”. Nếu coi cái đói nghèo là quân giặc, giặc đói, giặc dốt thì người nghèo là những người thực sự rất biết làm cách mạng.

Khi họ học hành và có tri thức thì tức là họ đang dùng vũ khí là tri thức của họ đánh bật những xiềng xích xung quanh. Họ chỉ mất đi xiềng xích. Còn họ sẽ được gì? Họ được cả thế giới. Cho nên chúng ta khó mà hiểu được rằng, những vị cương vị cao ở các thành phố lớn hiện nay đều do người ngoài đến chiếm giữ. Những người nghèo đến từ những vùng núi gian khổ, từ vùng nông thôn nghèo, những huyện nhỏ xa xôi, bất kì ai đều không nên coi thường họ. Họ không hề có những ưu thế tự nhiên, hoặc thông qua tuyển chọn thi cử, hoặc thông qua làm thuê mà chỉ dựa vào một nguyện vọng mãnh liệt được mở mày mở mặt ở thành phố lớn, họ bắt đầu từ tầng lớp thấp nhất, gian khổ vươn lên, dần dần gìữ vị trí quan trọng, về sau họ còn giống người thành phố hơn cả dân bản địa.

Chẳng có gì cũng là một thứ tài sản, nó buộc người nghèo tạo ra động lực để thay đổi vận mệnh của mình, tạo ra một sự kích thích sáng tạo. Đồng thời, chẳng có gì cũng có nghĩa là chẳng lo lắng gì cả, năng lượng bản thân sẽ phát huy được triệt để hơn. Người nông dân muốn vào thành phố làm thuê, cái mà họ bỏ lại chỉ là cái cuốc, nhưng đối với người thành phố được giáo dục chu đáo mà nói, nếu rời bỏ môi trường vốn có mà đi dựng sự nghiệp mới thì họ phải bỏ lại rất nhiều thứ. Kết quả là phần lớn họ không đành lòng bỏ chúng, nên sự nghiệp mới chỉ còn là ảo tưởng.

Thế cho nên những đứa con nhà nghèo, nếu họ coi việc học là niềm vui thì phần lớn con nhà giàu đều cho đó là cực hình, vì họ phải rời bỏ môi trường quen thuộc; lăn lộn nhiều và trải đời nhiều hơn. Cái được thì như một phần thưởng vô hình, rất khó để nhìn cho ra, còn cái vất vả khó khăn thì thấy rõ mồn một. Vậy cho nên thường là con nhà nghèo tu chí hơn con nhà giàu rất nhiều.

Nói như vậy để thấy rằng, dù là người giàu hay người nghèo, khi ưu thế vốn có của họ bị uy hiếp, chính là lúc họ thực sự đang đứng trước một cơ hội; khi hoàn cảnh buộc bạn đến nước chẳng còn gì, thì thực tế chính là nó đã mang lại cho bạn một chiếc cuốc để đào một mỏ quý. Đừng ôm khư khư những thứ bạn vốn có, chỉ cần đặt mình vào hoàn cảnh trong tay bạn chẳng có gì mới có thể nhẹ nhàng xông ra trận. Tới lúc đó bạn mới phát hiện ra rằng, bản thân trạng thái đó mới là một tài sản quý báu. Không có gì cũng là một thứ tài sản, nó buộc người nghèo phải tạo ra một động lực để thay đổi vận mệnh.



Thu Li

Vạn sự do Tâm



BY KIM DUNG/KỲ DUYÊN



Tâm là chủ-đạo , vạn sự đều do Tâm , Nghiệp tốt , xấu được tạo cũng bởi Tâm. Giá-trị đích-thực của 01 con người là ở Tâm không phải ở Tài.
“Tài” là Tài-năng , Tài-sản
Có Tài mà ko có Tâm, rất nguy-hiểm!
Tài-sản kếch-xù? Khi buông-tay nhắm-mắt chắc-chắn bạn sẽ ko mang theo được 01 xu, chỉ có cái Tâm và những Nghiệp tạo bởi nó đi theo bạn mà thôi!
“Thiện-căn bởi tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài” (Nguyễn Du)



Tâm của chúng ta càng quan-trọng hơn vì nó nói lên nhân-cách của một con người :
Tâm lệch-lạc thì cuộc-sống nghiêng-ngả đảo-điên



Tâm gian-dối thì cuộc-sống bất-an
Tâm ghen-ghét thì cuộc sống hận-thù
Tâm đố-kỵ thì cuộc sống mất hoan-hỷ
Tâm tham-lam thì cuộc sống dối-trá
Tâm bất-khoan-dung thì cuộc-sống bực-bội triền-miên

Cho nên, ta không những đem Tâm của mình đặt ngay trên ngực để yêu-thương, mà còn:
- Đặt Tâm trên Mắt để nhìn thấy nổi đau-khổ của tha-nhân
- Đặt Tâm trên Tay để giúp đỡ người khác
- Đặt Tâm trên Chân để mau mắn chạy đến với người cùngkhổ
- Đặt Tâm trên Miệng để nói lời an-ủi và đừng xúc-phạm ai
- Đặt Tâm trên Tai để biết nghe lời thống thiết của người khác
- Đặt Tâm trên Vai để biết chia sẻ trách nhiệm với mọi người, nhất là với những người thânyêu nhất (vợ-chồng , cha-mẹ , con-cái , anh-chị-em …)