Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Thơ dặn riêng



Nguyễn Đông Nhật







Anh có danh hay anh có thơ
câu hỏi ỡm ờ, có phải?
Thế sự làm người ta yếu đuối
cây thập tự nặng hơn thời đấng Ky-tô.

Anh viết dăm bài, anh viết ngàn trang.
Hay dở khen chê cái vòng luẩn quẩn.
Thơ là thơ, dẫu nghiệp hay nghề
đều khó như giản đơn mọi việc.

Nhiều định nghĩa thường xuyên biến dạng.
Cái bóng của anh không thể ngồi yên lặng.
Sau khi tan vào những gì xa lạ
anh thấy gương mặt mình trên vách tường câm.

Bi kịch hay hài kịch đều phải dàn dựng
bằng tất cả máu của đời anh.
Đốt hết bao nhiêu cánh rừng năm tháng
còn chút xá-lợi-thơ hay chỉ tro tàn?

Vì sao giá một bitcoin có thể lên đến $800 ngàn đô la




Lịch sử

Nhiều ngàn năm trước, người ta đã bắt đầu gán ghép giá trị danh nghĩa lên những thứ như vàng bạc và đá quý. Gọi là giá trị danh nghĩa vì giá trị của chúng chỉ là trên danh nghĩa; giá trị thực dụng trực tiếp của chúng hầu như có liên quan rất ít. Người ta gán giá trị lên chúng là vì họ muốn có được sự tiện lợi trong việc luân chuyển và cất giữ tài sản.

Từ vàng tới đá quý và từ đồng euro tới đồng dollar, người ta đã tạo ra nhiều loại tài sản danh nghĩa khác nhau. Thông thường, mỗi khi một loại tài sản danh nghĩa được tạo ra, nó sẽ được gắn kết cố định với một loại tài sản danh nghĩa hay tài sản thực tế đang tồn tại. Ví dụ, khi đồng Mỹ kim được tạo ra, nó được gắn liền với vàng; khi đồng Euro được tạo ra, nó được gắn liền với những loại tiền tệ đang tồn tại ở Châu Âu. Thậm chí vàng cũng rất có thể ban đầu đã từng được gắn liền với lúa gạo hay một cái gì đó tương tự.

Bitcoin là một loại tài sản danh nghĩa chưa từng được gắn liền với cái gì. Lịch sử không cung cấp cho chúng ta những ví dụ rõ ràng, và vì thế các nhà kinh tế học thiếu đi một trực giác nhạy bén và một mô hình đánh giá, họ không biết phải định giá nó như thế nào. Tuy nhiên, giá của một bitcoin sẽ được xác định giống như giá của bất kì thứ gì khác: thông qua sự cân bằng giữa cung và cầu. Và đối với những mặt hàng có nguồn cung cố định như bitcoin, vấn đề còn lại chỉ là cầu. Vậy thì nhu cầu dành cho bitcoin là bao nhiều? Vì chúng ta không có sẵn một mô hình tính toán, chúng ta phải tự suy nghĩ lấy.

Tài sản
Tài sản của nhân loại bao quát có thể được thành 2 loại: tài sản thực tế, và tài sản danh nghĩa. Tài sản thực tế là những tài sản có giá trị thực dụng trực tiếp chẳng hạn như đất đai, xe hơi, dầu, nông sản… Tài sản danh nghĩa là những tài sản không có giá trị thực dụng trực tiếp; chúng chỉ có ích để thực hiện giao dịch và lưu trữ của cải. Vàng, kim cương, dollars, và euros là những ví dụ của loại tài sản danh nghĩa. Nếu việc dự trữ táo là tiện lợi, hay trao đổi những chiếc xe hơi để lấy những căn nhà, thì thế giới cũng không phải cần đến tiền hay vàng; nhưng nó không tiện lợi, nên thế giới cần một cái gì đó để làm vật trung gian giao dịch.

Giá trị của tất cả tài sản thực tế trên thế giới hiện nay lớn hơn rất nhiều so với giá trị danh nghĩa, dù là không có quy luật nào nói rằng điều này sẽ luôn đúng. Cũng như mọi đánh giá tương đối, điều này được quyết định bởi thị trường. Vì các tài sản danh nghĩa phần lớn phục vụ cho mục đích giao dịch và dự trữ, nếu những nhu cầu này được nới rộng (vì lượng trao đổi tăng, chẳng hạn), thì giá trị tổng hợp của các tài sản danh nghĩa cũng sẽ nới rộng, và ngược lại.





Không ai biết được con số chính xác của tài sản thực tế và tài sản danh nghĩa, nhưng nó có thể được ước lượng:

Tài sản thực tế: Dựa theo năng suất sản xuất toàn cầu ở mức $71 trillon (1 trillion = 1000 billion (1000 tỉ)), và giả định tỉ lệ lợi nhuận 5% từ vốn capital, chúng ta có thể ước tính được tổng giá trị thực tế là vào khoảng $71 trillion/0.05 = $1.4 quadrillion (1 quadrillion = 1000 trillion). Tuy nhiên, năng lực sản xuất toàn cầu có lẽ không tận dụng được nguồn tài nguyên nó có và thấp hơn mức 5% rất nhiều*. Suy ra tổng giá trị của tài sản thực tế có thể lên đến nhiều quadrillions dollars, thậm chí có thể là nhiều chục quadrillions.

*Một ví dụ, Hoa Kỳ có khoảng 250 tỉ tấn than đá dưới lòng đất, nhưng nó chỉ sản xuất khoảng 1 tỉ tấn mỗi năm, khoảng 0.4%

Tài sản danh nghĩa: Chúng ta có thể ước lượng được giá trị của tài sản danh nghĩa bằng cách sử dụng lượng cung tiền tệ M2 từ những nền kinh tế lớn nhất thế giới, cộng thêm giá trị của tổng số lượng vàng trên thế giới
Đồng Yuan Trung Quốc $14 trillion
Đồng Euro $12 trillion
Đồng Dollar Mỹ $10 trillion
Đồng Yen $8 trillion
Đồng Pound $3 trillion
Vàng $8 trillion
Khác $20 trillion (tiền của các nước khác, kim loại quý, đá quý…)
Bitcoins $0.01 trillion
Tổng cộng $75 trillion (ước lượng)


Cũng như nhu cầu thị trường quyết định kích cỡ của tổng lượng tài sản thực tế so với tổng lượng tài sản danh nghĩa, kích cỡ của từng phần trong khối tài sản danh nghĩa cũng giao động tự do trong thị trường. Nếu sự ổn định của đồng đô la Mỹ bị rơi vào nghi vấn, hoặc nếu một loại tiền tệ mới nổi lên tham gia vào thị trường, thì thị phần của đồng đô la Mỹ sẽ bị thu hẹp, nhường lại cho cái mà thị trường cho là thu hút hơn.
Đánh giá một bitcoin
Thị trường đánh giá một món hàng dựa vào câu hỏi “người ta muốn nó bao nhiêu, như thế nào?” và vì người ta muốn có được tài sản danh nghĩa vì mục đích trao đổi mậu dịch và dự trữ tài sản, một nhà đầu tư muốn định giá được một bitcoin nên cân nhắc xem bitcoin đáp ứng lại hai nhu cầu này như thế nào so với những loại tài sản danh nghĩa khác trên thế giới. Nếu bitcoin đáp ứng hiệu quả hơn, thì giá trị của tất cả số bitcoins nên tăng lên và chiếm một phần lớn trong “cái bánh”* tài sản danh nghĩa toàn cầu; nếu không thì bitcoin hoàn toàn tuyệt đối không nên chiếm được một phần nào hết. Vì chính xác là sẽ có 21 triệu bitcoins được tạo ra, giá trị của một bitcoin sẽ bằng kích cỡ của thị phần bitcoin trong cái bánh, chia cho 21 triệu.

*Biểu đồ hình quạt trên trong tiếng Anh gọi là pie chart, pie = bánh

3 đặc điểm nổi bật của Bitcoin

Bitcoin có thể được chuyển đến tất cả mọi người, mọi lúc, và mọi nơi, với lệ phí cực thấp, trong thời gian cực nhanh (trung bình 10 phút) so với nhiều ngày ở ngân hàng.
An toàn: Bitcoins không thể được gửi đi mà không có chìa khóa tương ướng (hiểu nôm nha như bạn không thể đăng nhập mà không có mật mã). Những chìa khóa này có thể được cất giữ offline, thậm chí là có thể được viết lên giấy hay lưu vào thẻ nhớ. Tin tức về những vụ trộm cắp bitcoins không phải là vì giao thức của bitcoin có vấn đề, mà là cá nhân người dùng đó không biết bảo vệ chìa khóa của họ. Chưa bao giờ xảy ra trường hợp bitcoin được gửi đi mà không có chìa khóa của nó.
Bitcoin không thể bị mất giá giống như tiền bị mất giá qua lạm phát; chỉ có 21 triệu bitcoins sẽ được tạo ra. Thậm chí người phát minh ra Bitoin, Satoshi Nakamoto, cũng không thể tạo thêm bitcoin nếu ông muốn.

Bất chấp những ưu thế rõ rệt của Bitcoin so với vàng hay tiền tệ thông thường, vị trí của nó trong miếng bánh tài sản danh nghĩa còn xa mới chắc chắn, và tương lai của nó có thể dễ dàng bị ngăn cản bởi một số những điều không chắc chắn có thể xảy ra.
4 điều chưa thể biết trước
1. Cạnh tranh từ một loại tiền điện tử mới

Cũng giống như Facebook đã từng thay thế Myspace, bitcoin cũng có thể bị thay thế bởi một loại tiền mới có nhiều tính năng vượt trội không đoán trước được hơn. Thực tế là đã có nhiều loại tiền điện tử được tạo ra, tuy nhiên hiện vẫn chưa có một loại nào có được những ưu điểm đáng kể so với Bitcoin.
2. Sự ngăn cản từ phía chính phủ

Các chính phủ có được một động lực để cho phép bitcoin vì nó giúp tăng trưởng kinh tế, nhưng họ cũng có động lực để ngăn cản nó vì đại trà hóa bitcoin cũng đồng nghĩa với tiền tệ của chính phủ đó bớt áp đảo hơn, hạn chế khả năng in tiền, và chi tiền của họ. Trung Quốc trong trường hợp này phải đối mặt với một con dao hai lưỡi: Nó có động lực để ngăn cản Bitcoin vì Bitcoin sẽ cho phép người Trung Quốc một lối thoát khỏi vòng kiểm soát tư hữu, nhưng nó cũng có động lực để ôm hôn Bitcoin, vì Bitcoin cung cấp cho Trung Quốc thêm một đầu ra cho đồng Yuan đang dư thừa và là một kế sách mới để loại bớt tình trạng lệ thuộc vào đồng đô la Mỹ.
3. Những vấn đề kĩ thuật về bảo mật

Giao thức (protocol) của Bitcoin đủ an toàn để có thể nói rằng các cuộc tấn công vào mạng lưới chỉ là những rủi ro rất thấp:

Phân trung: Giao dịch diễn ra trực tiếp (peer to peer). Không có một máy chủ trung tâm nên cũng không có một điểm thất bại duy nhất (single point of failure).

An toàn khi cất giữ: Không ai có thể cướp được bitcoins nếu không có được chìa khóa bí mật.
4. Sức thu hút đối với người tiêu dùng

Cho tới thời điểm này, mua bitcoins và giữ bitcoins đòi hỏi một khả năng hiểu biết về công nghệ khá cao, không phù hợp với đại đa số người tiêu dùng. Vấn đề chỉ là thời gian cho tới khi những giải pháp dễ dàng hơn được đưa ra thị trường.
Kết luận

Những đặc điểm về giao dịch và dự trữ rất thu hút của Bitcoin cho nó một tiềm năng phát triển to lớn, mở ra một khả năng rằng một ngày nào đó nó sẽ chiếm một phần đáng kể trong miếng bánh tài sản danh nghĩa của thế giới. Vì hiện nay Bitcoin đang chiếm một mẩu nhỏ khoảng $10 tỉ trong một cái bánh $75 ngàn tỉ, sức phát triển đó cho chúng ta thấy rằng một bitcoin có thể sẽ đáng giá hơn gấp nhiều lần giá trị hiện tại của nó:



Những khả năng phát triển của Bitcoin khiến cho đầu tư vào nó là một việc làm cực kì hấp dẫn, tuy nhiên cũng rất quan trọng để cân đo đong đếm tiềm năng này so với nhiều khả năng bất định có thể cản trở tiến trình đại trà hóa của nó. Mọi sự đầu tư vào bitcoin nên được thực hiện với cẩn trọng, với một cặp mắt sát sao theo dõi tình hình phát triển của các loại tiền tệ khác, những thách thức kĩ thuật chưa thấy được, và những vấn đề liên quan đến pháp lý, sự chấp nhận của xã hội.



Tác giả: Michael Naber
Dịch: Nguyễn Hoàng Huy

Cù Huy Hà Vũ là người thế nào?


Trần Chung Ngọc








Cù Huy Hà Vũ sẽ được phúc thẩm lại sau hơn 1 ngày nữa, và đây là cơ hội để chúng ta nhìn nhận lại nhân vật này 1 lần nữa qua entry dưới đây của giáo sư Trần Chung Ngọc:


Tôi đã đọc khá nhiều về Cù Huy Hà Vũ trên những diễn đàn thông tin ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Lẽ dĩ nhiên những người hành nghề chống Cộng ở hải ngoại lại có dịp hoan hô ủng hộ những lời tuyên bố của Mark Toner, của HRW, RFA, RFI, Liên hiệp Âu Châu v…v… để lên án Nhà Nước về vụ xử “Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ”. Tôi không thấy một tài liệu nào nói về Cù Huy Hà Vũ tốt nghiệp Tiến sĩ Luật ở Đại học nổi tiếng của Pháp, Sorbonne, năm nào, với Luận Án như thế nào, nhưng lại không được phép hành nghề luật sư ở Việt Nam. Có thể nói là Cù Huy Hà Vũ có một đầu óc bất bình thường, nếu không muốn nói là vô trí trong vài vụ ông ta kiện lung tung và những phát biểu bậy.

Tôi không có thì giờ đi vào những thông tin về Cù Huy Hà Vũ có thể nói là đầy đủ nhất trên trang nhà http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B9_Huy_H%C3%A0_V%C5%A9. Tôi chỉ có thể điểm qua vài hành động điển hình của Cù Huy Hà Vũ, một nhân vật mà có người ở hải ngoại, Trần Khải, ca tụng một cách không thể nào lố bịch hơn:

Phiên xử Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ vào ngày 4-4-2011 tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội sẽ có một vị trí độc đáo trong lịch sử Việt Nam. [Nhưng trước tòa chỉ có một bị cáo tên là Cù Huy Hà Vũ trước một bản cáo trạng, không làm gì có “Tiến sĩ luật”]

Cù Huy Hà Vũ là trí thức thực sự [Chúng ta sẽ xem thực sự CHHV trí thức như thế nào]

Bất kỳ ai kết án Cù Huy Hà Vũ, đều là kết án những trật tự của trí thức và pháp lý. [Những hành động ngông cuồng vô trí của CHHV là “trật tự của trí thức và pháp lý”?]

Bất kỳ một xúc phạm nào tới một người như Cù Huy Hà Vũ đều sẽ là xúc phạm tới dân tộc, tới quyền lợi của toàn dân. [CHHV là dân tộc, là quyền lợi của toàn dân, viết ngu như vậy mà cũng viết lên được]

Không trả tự do cho Cù Huy Hà Vũ sẽ có nghĩa là cầm tù cả hồn thiêng sông núi. [Cù Huy Hà Vũ, một người mà trong một số hoạt động đã tự chứng tỏ là thiếu trí tuệ, như sẽ được chứng minh trong một phần sau, mà là Hồn Thiêng Sông Núi?]

Viết những lời khoa trương lố bịch và ngu đần như vậy thì có đáng để cho chúng ta phê bình không. Nhưng đó lại là phản ánh trí tuệ của một số người hành nghề chống Cộng cho thương vụ của mình.

Sau đây tôi có vài nhận xét về một số hành động và phát ngôn thuộc loại “trật tự của trí thức và pháp lý” của Cù Huy Hà Vũ. Nhưng trước hết chúng ta hãy điểm qua vài dư luận về Cù Huy Hà Vũ. Trước hết là của Hội Nhà Văn Việt Nam:

http://hoinhavanvietnam.vn/Details/ly-luan-phe-binh/ve-vu-cu-huy-ha-vu/32/0/2681.star trích đăng ý kiến của nhà văn Đông La:

Đọc những bài của Vũ trước hết tôi thấy thật lạ lùng, Vũ vừa là TS luật vừa là Thạc sỹ văn chương, tưởng viết phải rất đúng luật và chặt chẽ, nào ngờ hoàn toàn ngược lại. Trong nhiều bài viết, Vũ đã sử dụng ngôn ngữ chợ búa, phạm luật, và trước những vấn đề đại sự lại rất ấu trĩ.

http://www.cand.com.vn/vi-VN/binhluan/2009/11/139859.cand

Việc một Cù Huy Hà Vũ ảo tưởng và ngông cuồng sa lưới pháp luật âu cũng là hệ quả tất yếu. Ở đâu cũng thế thôi, cố tình đi trái làn mãi, ắt sẽ gặp phải tai nạn giao thông. Chỉ có điều, đến giờ phút này, trên nhiều diễn đàn mạng thông tin điện tử, nơi vẫn được coi như một công cụ chính để Vũ thể hiện những ngông cuồng ấy, nhiều học giả, trí thức đã từng rất thiện chí mà chỉ ra những việc làm sai trái của Vũ từ lâu rồi.

Cù Huy Hà Vũ không phải là người bình thường! Bởi người bình thường thì không ai lại cố tình có hàng loạt hành vi vi phạm pháp luật đến như thế.

Sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (chuyên ngành tiếng Pháp), năm 1979, Vũ nhận công tác tại Ban Thông tin Học viện Quan hệ quốc tế. Trong thời gian 5 năm làm việc ở Học viện, Vũ liên tục được đi Pháp để tiếp tục học tiếng Pháp và học thêm các chuyên ngành quản lý nhà nước, quan hệ quốc tế, luật kinh tế.

Hơn 15 năm được ưu tiên du học nước ngoài, đủ mọi loại bằng cấp nhưng Cù Huy Hà Vũ chẳng cống hiến được gì với nơi đã tạo điều kiện cho Vũ ăn học cũng như cho xã hội. Đã thế, khi về nước vào năm 1999, Vũ không đến cơ quan làm việc, không chấp hành kỷ luật của tổ chức. Đùng một cái, đến năm 2004, Vũ trở mặt quay lại kiện cáo đòi cơ quan phải trả lương.

Có thể nói, lật giở các trang hồ sơ từ Học viện Quan hệ Quốc tế đến UBND phường Điện Biên, thông qua những người anh em họ hàng cũng như hàng xóm, khối phố của Cù Huy Hà Vũ mới thấy con người này quả là "danh bất hư truyền" về thói hung hăng, côn đồ, coi thường gia phong, coi thường luật pháp.

Tính cách thiếu đàng hoàng ấy lại thêm một lần bộc lộ ở ngay chính cái biển to chềnh ềnh trên nóc cổng số nhà 24 đường Điện Biên Phủ. Mặc dù đã nhận bào chữa cho một số vụ kiện dân sự, thậm chí có bằng Tiến sĩ Luật kinh tế của Pháp hẳn hoi, nhưng Cù Huy Hà Vũ chưa từng được pháp luật công nhận hành nghề luật sư tại Việt Nam.

Cụ thể, Đoàn Luật sư Hà Nội đã phải ra thông báo chính thức rằng Cù Huy Hà Vũ không phải là luật sư. Còn về Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ: Văn phòng này được thành lập và đăng ký hoạt động ngày 9/4/2007 do Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà (vợ Vũ) làm Trưởng Văn phòng và tên giao dịch của nó thì lại được đặt trúng tên... Cù Huy Hà Vũ!!!

Đọc những thông tin trên, tôi có cảm tưởng là Nhà Nước đã rất ưu ái và nhân nhượng với Cù Huy Hà Vũ, cho ông ta đi học thành tài, quá nhân nhượng trong những vụ bỏ sở làm, đánh người v…v… của Cù Huy Hà Vũ, có lẽ vì ông ta là con của Cù Huy Cận. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà Cù Huy Hà Vũ cứ làm tới qua những hành động cực kỳ ngông cuồng vô lý, liên hệ với nhiều tổ chức ngoại quốc, một vấn đề rất nhạy cảm đối với Việt Nam, phát biểu bừa bãi với những ngôn từ phi trí thức, nên cuối cùng Nhà Nước không thể tiếp tục nhân nhượng để ông ta tiếp tục làm càn.

Sau đây tôi sẽ đi vào vài hành động ngông cuồng vô trí của Cù Huy Hà Vũ. Thứ nhất là vụ kiện album Chat với Mozart của ca sĩ Mỹ Linh.

Theo http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B9_Huy_H%C3%A0_V%C5%A9, thì:

Năm 2006, ông kiện album Chat với Mozart của ca sĩ Mỹ Linh và nhạc sĩ Dương Thụ vì cho rằng việc đặt tên và lời tiếng Việt cho các tác phẩm của các tác giả nhạc cổ điển trong album này đã "vi phạm quyền nhân thân" của họ.[12]

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Công an Nhân dân, Cù Huy Hà Vũ cho rằng, theo Luật Sở hữu trí tuệ, nhạc có hai loại: nhạc có lời và nhạc không lời. "Nhạc người ta đang không lời, mình cải biên thành có lời là không được", và nhạc của Mozart "là đỉnh cao của âm nhạc. Người ta đang ở “cao”, mình kéo xuống “bình dân” là phá hoại văn hóa." Ông cho rằng cách làm của ông nặng về luật hơn là cảm tính.[12] Ông Vũ cũng nói đùa rằng ông kiện ca sĩ trong nước vi phạm bản quyền nhạc nước ngoài là nhằm sau này "bảo vệ các nhạc sĩ trong nước nếu họ bị vi phạm bản quyền ở nước ngoài".[12]

Đây là một vụ kiện kỳ cục và vô lý nhất hành tinh. Ông Cù Huy Hà Vũ không hiểu gì về luật về bản quyền. Thứ nhất ông Vũ lấy tư cách gì để kiện, kiện cho ai? Đại diện cho Mozart (1756-1791)? Đại diện cho thân nhân của Mozart? Ông Vũ không biết rằng bản quyền không phải là vô thời hạn mà bao giờ cũng có giới hạn về thời gian. Và mỗi quốc gia đều có luật giữ bản quyền cho những tác giả văn học, nghệ thuật v…v… trong nước mình. Luật bản quyền của Mỹ bảo vệ quyền tác giả trong suốt đời sống của tác giả, cộng thêm tối đa là 70 năm cho thân nhân sau khi tác giả qua đời. Sau thời gian này, các tác phẩm văn học, nghệ thuật v..v… đều đi vào lãnh vực công cộng (public domain).

http://en.wikipedia.org/wiki/Copyright :

Những người giữ bản quyền có đặc quyền kiểm soát sự sao chép và khai thác những tác phẩm của mình trong một thời gian nhất định, sau đó tác phẩm thuộc lãnh vực công cộng (nghĩa là mọi người đều có quyền sử dụng mà không cần phải xin phép tác giả).

(Copyright owners have the exclusive statutory right to exercise control over copying and other exploitation of the works for a specific period of time, after which the work is said to enter the public domain.)

Ông Vũ có nhắc tới luật bản quyền của Berne Convention, nhưng đây là giới hạn thời gian của bản quyền:

http://en.wikipedia.org/wiki/Berne_Convention_for_the_Protection_of_Literary_and_Artistic_Works:

Hội nghị Berne tuyên bố là mọi tác phẩm ngoại trừ nhiếp ảnh và phim ảnh sẽ được giữ bản quyền ít nhất là 50 năm sau khi tác giả chết.

(The Berne Convention states that all works except photographic and cinematographic shall be copyrighted for at least 50 years after the author's death.)

Mozart chết năm 1791, tới năm 2006 là bao nhiêu năm, ông Vũ tính không ra, nhưng tôi biết làm tính trừ nên tính ra được là 215 năm. Vì sự hiểu biết quá kém về luật bản quyền cho nên ông Vũ còn cường điệu:

Chưa xuôi đâu. Sắp tới chắc chắn Cục Bản quyền và Sở VH-TT Hà Nội sẽ phải chính thức trả lời tôi. Có cơ sở pháp lý nào bênh vực được? Tôi tin tưởng việc phạt Mỹ Linh là chắc chắn. Luật Sở hữu trí tuệ ghi rất rõ: Nhạc có hai loại: có lời và không lời. Nhạc người ta đang không lời, mình cải biên thành có lời là không được.

Ấy là chưa nói tới việc nhạc không lời (trong trường hợp này là nhạc giao hưởng - NV) là đỉnh cao của âm nhạc. Người ta đang ở “cao”, mình kéo xuống “bình dân” là phá hoại văn hóa.

Tôi tự hỏi, Cục Bản quyền và sở VH-TT Hà Nội dựa vào cái gì để phạt Mỹ Linh. Từ xưa tới nay không biết là đã có bao nhiêu trường hợp đặt lời ca, nhiều khi chỉ một đoạn, cho những bản nhạc không lời nổi tiếng. Thí dụ, bài “Tristesse” của Chopin với 2 câu đầu: L’ombre s’enfuit, Adieu vos rêves… chẳng qua là đặt lời ca cho đoạn đầu của bản “Etude No. 3 en Mi” của Chopin vì đoạn giữa là đoạn rất khó để tập dương cầm, không thể nào đặt được lời ca. Ông Vũ cũng không biết là ở Việt Nam, những bản nhạc như Le Beau Danube Bleu, Les Flots du Danube, Ave Maria, Hồ-Ly Nai, Sài Lang Nai (Holy Night, Silent Night) v...v... đều có lời ca Việt Nam mà có vấn đề gì đâu. Tại sao? Vì tất cả đều ở trong “Public Domain”. Người ta thấy hay cho nên mới đặt lời chứ đâu có phải là kéo một cái gì đang “cao” (sic) xuống “bình dân” (sic).

Mặt khác, trong nghệ thuật chẳng có gì có thể gọi là đỉnh cao mà tất cả mọi người đều phải công nhận, tất cả chỉ tùy thuộc sở thích cá nhân. Tôi thích và mê vọng cổ thì đối với tôi nhạc giao hưởng của Mozart chỉ như gõ thùng thiếc bể. Một bức tranh của Picasso giá cả triệu đô, nhưng đối với tôi nó như tranh vẽ bùa, kém xa tranh mạc thủy của Tàu giá vài đô. Ông Vũ lấy cái sở thích cá nhân của mình và đi kiện củ khoai vì cho rằng ai cũng phải đồng quan điểm của mình. Đó là ý tưởng của một trí thức dỏm, đầu óc bất bình thường.

Hành động ngông cuồng vô trí thứ hai của Cù Huy Hà Vũ là “nộp đơn tự ứng cử chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin.” Các Bộ Trưởng trong Nội Các là do Tổng Thống hay Thủ Tướng tuyển chọn, có thể phải qua sự chấp thuận của Quốc hội, nếu Hiến Pháp qui định như vậy, để thi hành đường lối của chính phủ hay phải qua một cuộc bầu cử? Từ xưa tới nay các nguyên thủ quốc gia đều thảo luận trước với người mình chọn là Bộ Trưởng để xem họ có cùng một đường lối như mình không chứ đâu có tuyển chọn một tên cha căng chú kiết nào ở ngoài do người dân bầu, mà ông Vũ tự ra ứng cử vào một chức vụ chưa bao giờ có chuyện bầu bán. Ông Vũ còn tự khoe:

Tôi là người được đào tạo bài bản ở Tây, luôn luôn nghĩ tới tính hiệu quả. Không bao giờ nghĩ “không được” mà tôi lại ra ứng cử. Xét về nhiều phương diện, tôi thấy việc tôi ra ứng cử lúc ấy là chín muồi.

Được đào tạo bài bản ở Tây mà sự hiểu biết của ông Vũ lại quá kém cỏi như vậy, học luật mà chẳng biết rõ về luật, thì nói ra chỉ tổ làm cho người ta coi thường cái bài bản của ông ở Tây, và trên thực tế ông Vũ đã hạ thấp những trường đã đào tạo ra một người như ông Vũ. Bởi vì thiếu gì người đã được đào tạo bài bản ở Tây nhưng có ai lại kém hiểu biết và ngông cuồng vô trí như ông Cù Huy Hà Vũ đâu.

Ông Cù Huy Hà Vũ thường phát ngôn bừa bãi một cách thiếu suy nghĩ, có thể vì sự hiểu biết của ông rất giới hạn, mà có thể vì ông ta ngông cưồng, dựa vào vào cơ quan truyền thông ở hải ngoại và sách lược nhập cảng, áp đặt dân chủ và nhân quyền trên đất nước Việt Nam, nên phá rối chính quyền Việt Nam để gây tiếng tăm cá nhân. Ông ta phát biểu:

"Mọi người Việt Nam chỉ có một tổ quốc là Việt Nam, chủ nghĩa xã hội không phải là tổ quốc của người Việt Nam." "Tổ quốc là do tổ tiên tạo lập, còn chủ nghĩa xã hội là một học thuyết chính trị, không phải là quốc gia, và không thể là quốc gia do các vua Hùng lập ra."

Ông Vũ đã nói lên một câu rất ngớ ngẩn và thừa thãi. Có ai cho một chủ nghĩa, bất cứ là chủ nghĩa nào, là tổ quốc bao giờ đâu. Chủ nghĩa Xã Hội là một hệ thống chính trị, kinh tế nhằm phục vụ tổ quốc theo một đường hướng mà những người theo chủ nghĩa này tin rằng đường hướng đó có lợi cho tổ quốc. Ông Vũ đã dựng lên một người rơm, cho Chủ Nghĩa Xã Hội là Tổ Quốc để lên tiếng bài bác, không biết rằng luận điệu của mình ngớ ngẩn đến mức nào. Tôi thật phục sát đất cái “bài bản ở Tây” của ông Vũ.

Báo Quân đội Nhân dân viết:

"Trong nước, trước những khó khăn về tình hình kinh tế - xã hội, thiên tai hoành hành… Vũ thường lợi dụng vào đó để bịa đặt, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước, kích động và vận động nhân dân chống đối chính quyền, xúc phạm danh dự cá nhân các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước... Cù Huy Hà Vũ không ngần ngại kiện bất kỳ ai, có những đơn kiện của Vũ hình như không phải để thắng kiện, mà để nổi danh…

Sau đây tôi muốn nói về vài nhận định của ông Cù Huy Hà Vũ về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua. Ông Vũ phát ngôn:

Không có Đảng cộng sản Việt Nam thì Độc lập dân tộc và Thống nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam như lịch sử đã minh chứng trong suốt hai nghìn năm qua... Chắc chắn, Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt,Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ không phải là Đảng cộng sản Việt Nam hay ủy viên trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khi tiến hành thành công các cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược phong kiến Trung Hoa để giành Độc lập dân tộc hay để thống nhất đất nước.

Tôi nghĩ rằng đầu óc của Cù Huy Hà Vũ quả thật thuộc loại bất bình thường. Tất cả những nhân vật lịch sử của Việt Nam ông Vũ nêu trên đều thuộc những thời đại Đảng Cộng Sản chưa ra đời, vậy tất nhiên họ “không phải là Đảng Cộng Sản” (sic) hay “Ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” (sic). Nhưng thử hỏi, không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì chế độ nô lệ thực dân Pháp có cáo chung không? Trong hơn 80 năm dưới sự đô hộ của Pháp, đã có biết bao cuộc nổi dậy của những người Việt Nam yêu nước chống Pháp, nhưng có ai thành công không? Từ phong trào Cần Vương, Hoàng Hoa Thám v…v… cho đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, những người yêu nước trên đã đạt được những kết quả gì trong công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp? Lê Lợi, Nguyễn Huệ v…v… đâu, sao không thấy, mà chỉ thấy có Hồ Chí Minh, theo gương các tiền nhân anh hùng của Việt Nam là thành công đánh đuổi được thực dân Pháp. Độc Lập dân tộc và Thống Nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam bằng cách nào, phải chờ bao nhiêu lâu nữa, hay nằm hút thuốc phiện há miệng chờ sung, hay chờ cho một Lê Lợi, Nguyễn Huệ khác, không phải là Cộng sản, xuất hiện? Đừng có quên là Pháp trở lại với mục đích tái lập nền đô hộ ở Việt Nam với 80% quân phí do Mỹ yểm trợ. Và cũng đừng quên là Mỹ đã đơn phương dựng lên một chế độ bù nhìn Công Giáo Ngô Đình Diệm ở Việt Nam, không chịu thi hành khoản Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 trong Hiệp Định Geneva. Ông Cù Huy Hà Vũ có vẻ như không hiểu mấy về lịch sử cận đại Việt Nam. Ông không biết rằng cuộc chiến thắng chống ngoại xâm của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã gây nên tiếng vang trên thế giới như thế nào. Ông công nhận những cuộc chiến thắng quân Tàu ngoại xâm của Việt Nam trong những thời trước nhưng lại muốn phủ nhận công chiến thắng quân ngoại xâm Pháp rồi Mỹ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cái chuyện ngày nay chính quyền thoái hóa, xa rời lý tưởng, tham nhũng v…v… là một chuyện, còn chuyện giành được độc lập và thống nhất cho đất nước lại là một chuyện khác. Không thể dựa vào những chuyện của chính quyền ngày nay mà ông không đồng ý để mà phủ nhận những công trên của Đảng Cộng sản, dù trên con đường cứu quốc, Đảng Cộng sản đã có những biện pháp quá khích và tàn nhẫn. Nhưng nay, có một điều ông Vũ cần phải hiểu là, nếu Đảng Cộng sản vẫn như xưa thì không làm gì còn Cù Huy Hà Vũ, hay Lê Quốc Quân, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Lý v…v…

Ông Vũ còn nói:

Khi nói "giải phóng Miền Nam" thì không thể không xác định giải phóng Miền Nam khỏi ai, khỏi cái gì. Chắc chắn không phải "giải phóng Miền Nam" khỏi sự chiếm đóng của Hoa Kỳ vì ngày 30 tháng 4 năm 1975 quân đội cộng sản nhận sự đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh, đó chưa kể Hoa Kỳ đã rút hết quân khỏi Miền Nam từ năm 1973 theo Hiệp định Paris.

Nếu ông Hà Vũ không hiểu “giải phóng miền Nam” là giải phóng khỏi ai và giải phóng khỏi cái gì thì không nên đặt thành vấn đề xác định, vì ông còn thiếu một thắc mắc là “giải phóng miền Nam” để làm gì? Hoa Kỳ chưa bao giờ chiếm đóng miền Nam, chỉ dựng lên miền Nam rồi khi tình hình nguy ngập, đổ nửa triệu quân vào đánh giúp miền Nam để miền Nam khỏi rơi vào tay Cộng sản, và khi thấy không thể thắng được và không còn muốn giúp nữa thì Hoa Kỳ tháo chạy (từ của Nguyễn Tiến Hưng) hay văn vẻ lịch sự hơn là “rút lui trong danh dự”.

Thực tế là trong miền Nam còn có Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và số người dân miền Nam ủng hộ Mặt Trận này, nếu không chẳng bao giờ Cộng sản có thể thành công “giải phóng miền Nam” được. Lẽ dĩ nhiên một số người ở miền Nam, vì hoàn cảnh đất nước nên dù muốn dù không cũng thuộc miền Nam, trong đó có tôi, chẳng muốn mình được giải phóng. Nhưng không muốn là một chuyện mà chuyện thống nhất quốc gia để hợp với lòng dân, ít ra là đa số người dân, lại là một chuyện khó tránh, vì người dân không muốn cảnh Trịnh Nguyễn phân tranh trong lịch sử tái diễn. Hơn nữa, CS đã lãnh đạo người dân kháng chiến chống Pháp, tốn bao xương máu, đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ, ký Hiệp Định Geneva với hi vọng thống nhất đất nước qua giải pháp chính trị Tổng Tuyển Cử năm 1956, nhưng bị Mỹ dựng lên miền Nam, cường quyền thắng công lý, không thi hành điều khoản Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 quy định trong Hiệp Định Geneva. CS có cách nào hơn để đi đến thống nhất đất nước, chẳng lẽ tốn bao xương máu để cho miền Nam trù phú ở trong tay một “chí sĩ” Công giáo nằm trong các tu viện Công giáo suốt trong thời gian toàn dân kháng chiến chống Pháp hay sao? Cho nên câu hỏi của ông Vũ chứng tỏ là ông không biết mấy về cuộc chiến ở Việt Nam. Tôi cũng là người đã tháo chạy trước ngày 30/4/75 vài ngày, nhưng với lương tâm trí thức, chẳng thể nào phủ nhận diễn biến lịch sử nó là như vậy.

Vài lời kết luận

Tôi biết rằng viết ra những ý kiến cá nhân ngược dòng dư luận hải ngoại thể nào cũng lại bị chụp vài cái mũ trên đầu. Nhưng chẳng sao, vì những kẻ buôn nón cối thường không đủ khả năng để thảo luận những vấn đề tôi viết trong bài. Nếu người nào đọc bài này mà cho rằng tôi bênh vực chính quyền Việt Nam hoặc lên án Cù Huy Hà Vũ thì người đó chưa bao giờ hoạt động trong lãnh vực học thuật.

Tôi ở trong quân đội Quốc Gia cho nên năm 1954 đã di cư vào Nam. Tôi đã phục vụ trong quân lực của miền Nam tổng cộng là 8 năm rưỡi, và đã phục vụ trong ngành giáo dục Việt Nam cho đến ngày cuối. Tôi nghĩ mình ở đâu, làm đầy đủ bổn phận công dân ở đấy là đủ, không có gì phải hổ thẹn với lương tâm. Nhưng cuộc chiến Quốc - Cộng đã ngưng 36 năm trước đây rồi, cho nên trong đầu óc tôi không còn Quốc - Cộng mà chỉ còn người Việt Nam. Khi nghiên cứu về lịch sử thì chúng ta phải hiểu rõ là những sự thật lịch sử thì không có tính cách bè phái hay Quốc - Cộng. Và dù những sự thật đó có làm chúng ta đau lòng cách mấy chúng ta cũng phải chấp nhận. Đó là sự lương thiện trí thức của con người.

Viết bài này, tôi chẳng bênh vực chính quyền mà cũng chẳng lên án Cù Huy Hà Vũ mà tôi chỉ nghiên cứu sự việc qua những thông tin trên Internet, tổng hợp, phân tích và đưa ra những ý kiến dựa trên những thông tin và những sự kiện chứ không dựa trên cảm tính cá nhân. Nhưng tôi cần phải nói là tôi chống những sự can thiệp của bên ngoài, bất cứ từ đâu, vào nội bộ Việt Nam. Không phải chỉ vì tôi đã thấy rõ bản chất của chính sách đối ngoại của Mỹ, thực chất của những tổ chức như RFA, HRW, RFI v…v... Mà lý do chính là vì, như trên tôi đã nói, tôi là một công dân Mỹ gốc Việt Nam, mà đã là gốc Việt Nam thì tôi nghĩ, những vấn nạn của Việt Nam hãy để cho người Việt Nam tự giải quyết, không cần đến những sự can thiệp trịch thượng và đạo đức giả vào nội bộ Việt Nam của bất cứ ai hay thế lực nào khác.

Tôi chẳng có ác cảm gì với những cá nhân hay tổ chức chuyên can thiệp vào những chuyện nội bộ Việt Nam, vì đó là mục đích chính trị của họ. Tôi cũng chẳng có ác cảm gì với Cù Huy Hà Vũ và những người ở trong nước tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, vì đó là quyền tự do của họ. Vấn đề là ở chỗ thẩm quyền của những tổ chức bên ngoài để can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam và hình thức tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền của những người trong nước. Hung hăng chửi bậy trong tòa như Nguyễn Văn Lý thì không phải là tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Thắp nến cầu nguyện với búa, kìm và xà beng ở Tòa Khâm Sứ thì không phải là hình thức tranh đấu hợp pháp. Tuyên ngôn Phục linh không phải là quyền tự do ngôn luận. Những người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở trong nước mà dựa thế nước ngoài là tranh đấu một cách rất vụng về. Phải nhờ đến người ngoài là phương thức tranh đấu không có hiệu quả, vì chính quyền Việt Nam và đa số người dân Việt Nam, theo truyền thống lịch sử, rất nhạy cảm đối với sự can thiệp của nước ngoài. Nhìn lại lịch sử, chúng ta có bao giờ nghĩ rằng các cường quốc Tây phương thực tâm vì nhân quyền mà ủng hộ sự tranh đấu cho nhân quyền của chúng ta hay không? Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thôi, không tranh đấu cho nhân quyền nữa. Nhưng vấn đề là làm sao tạo được uy tín, được sự ủng hộ của người dân mà không có bóng dáng của bất cứ một cá nhân hay tổ chức nào ở ngoài, chỉ như vậy mới có thể đi đến thành công.

Dựa vào thế lực ngoại quốc để tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, hoặc liên hệ truyền thông với những tổ chức ở nước ngoài mà mọi người đều biết là không có thiện cảm với chính quyền Việt Nam, tôi cho là những hình thức tranh đấu không có mấy hiệu quả, hơn nữa có thể gây nên những phản tác dụng đối với chính quyền Việt Nam hiện thời, một chính quyền rất nhạy cảm trước mọi hành động có tính cách xen vào nội bộ Việt Nam. Kết quả những công cuộc vận động ngoại quốc để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam sẽ không mang lại kết quả khả quan nào, vì những người Việt yêu nước, bất kể là chính kiến khác nhau như thế nào, đều không thể ủng hộ đường lối nhờ sự can thiệp của người ngoại quốc vào những chuyện bất đồng ý kiến giữa người Việt với nhau.

Nhìn vào quá khứ, chúng ta thấy đã có biết bao nghị quyết nọ kia, kể cả nghị quyết của Liên Hiệp Âu Châu, và cả danh sách CPC, dự luật về nhân quyền cho Việt Nam (sic) của Hạ Viện Mỹ, nhưng kết quả là bao nhiêu, chính quyền VN lùi một bước tiến hai bước và cứ làm theo ý. Tại sao? Vì chính quyền VN thừa biết rằng tất cả chỉ là những tài liệu chính trị chống Việt Nam và cũng thừa biết chiêu bài nhân quyền của các cường quốc Âu Mỹ là đạo đức giả, có tính cách lưỡng chuẩn (double standard), thường để che đậy những mưu đồ chính trị sau bức bình phong nhân quyền. Những cuộc vận động ngoại nhân để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam mà không nghĩ tới những hậu quả nghiêm trọng có thể xâm phạm đến trật tự, an ninh và chủ quyền quốc gia, là những bước đi chính trị vụng về, thiếu trí tuệ, không nghĩ đến truyền thống yêu nước của người Việt Nam.

Ông Hà Vũ tuyên bố: "Đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ, toàn vẹn lãnh thổ, giàu mạnh, công bằng và văn minh". Đây là một câu nói vu vơ, ai nói cũng được. Là một trí thức đã được đào tạo bài bản ở Tây, ông Vũ phải chỉ ra một con đường là Việt Nam sẽ đi đến đa đảng và dân chủ như thế nào, đa đảng là bao nhiêu đảng, điều kiện để lập đảng là như thế nào, thế nào mới có thể gọi là một đảng, cá nhân nào, tổ chức nào có quyền lập đảng và trong bao lâu hay ngay lập tức với những luận cứ chặt chẽ về tình trạng xã hội hiện nay, về hình thức dân chủ, về giới hạn của nhân quyền, về giới hạn của tự do ngôn luận, về tinh thần trách nhiệm của người dân trước luật pháp, về trình độ dân trí, có ngoại quốc nhúng tay vào không v…v... Ai cũng biết tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, đa đảng, dân chủ là tốt nhưng vấn đề là tự do tới mức nào, đa đảng như thế nào, và hình thức dân chủ ra sao. Không thể đi tới dân chủ mà không có sửa soạn. Làm sao để người dân thấm nhuần được ý thức một nền dân chủ riêng cho Việt Nam, trách nhiệm người dân trong thể chế dân chủ, bổn phận người dân góp sức cho dân chủ v...v… Tất cả đều phải đi qua một quá trình giáo dục cần thời gian, và tất cả đều phải rõ ràng trong giai đoạn sửa soạn tiến tới dân chủ và đa đảng để tránh những hành động vô cương vô pháp gây hỗn loạn trong xã hội, cảnh lạm dụng tự do ngôn luận, cảnh lạm dụng quyền tự do tôn giáo, hoặc cảnh “lắm thầy thối ma”. Đa đảng và dân chủ, hay lắm! Nhưng không đơn giản như chỉ cần tuyên bố đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ. Mặt khác, trên thế giới ngày nay tôi đố ông Vũ tìm đâu ra một quốc gia thực sự dân chủ.

Tôi rất đồng cảm với quan niệm của Lê Dọn Bàn trong bài “Dân Chủ Và Đạo KiTô Ở Việt Nam” http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuL/LeDB00.php:

Dân chủ là thành quả của những vận động lâu dài vốn và phải có sự tham dự của toàn bộ dân chúng trong một quốc gia, và từ cả hai bộ phận cầm quyền và không cầm quyền - dĩ nhiên là không thể nhập cảng, không đến từ bất cứ áp lực nào bên ngoài, và nếu có gây dựng ở trong, càng không thể đến từ những niềm tin tôn giáo. Dân chủ là hoa nở từ trí tuệ - hay thu hẹp hơn – ý thức chính trị xã hội - của dân chúng được phát triển – khi dân chúng thực sự đạt đến một trình độ ý thức trưởng thành, tự mình thấm nhuần được những quan niệm xã hội và chính trị sáng suốt, thuận tình hợp lý với cộng đồng của mình. Thêm nữa, không phải chỉ vài dăm bông hoa, nhưng cả một mùa hoa, và cũng phải hết sức chăm sóc để sẽ nở mãi, qua năm tháng. Trong tình trạng VN, dân chủ phải đi đôi với dân trí, và có lẽ điều này làm chúng ta nhớ kinh nghiệm của Phan Chu Trinh, một người rất sáng suốt và có lý tưởng, cùng can đảm, đã đi trước thời đại của ông.

Cũng như quan niệm của Nguyễn Tâm Bảo trên Đàn Chim Việt:

Việc DÂN CHỦ HOÁ phải là việc của người dân TRONG NƯỚC, xuất phát từ nhu cầu của chính họ, do chính họ đảm nhận trọng trách, do chính họ tiến hành, chứ không cần bất cứ sự trợ lực nào từ bên ngoài.

Ông Cù Huy Hà Vũ cũng có vài hành động tốt, thí dụ như kiện Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên - Huế về quyết định cấp phép đầu tư xây dựng dự án khách sạn Life Resort trên đồi Vọng Cảnh. Nhưng phần lớn là ông đi kiện lung tung mà không suy nghĩ, thí dụ như vụ kiện album Chat của Mỹ Linh, vụ kiện Vũ Hải Triều mà không đưa ra bất cứ bằng chứng nào có tính cách thuyết phục và không biết phân biệt những blog nào đứng đắn, những blog nào chuyên xuyên tạc và nói xấu Việt Nam. Mặt khác những lời ông phê bình, bằng loại ngôn từ không thích hợp với một trí thức đã được đào tạo bài bản ở Tây, các viên chức nhà nước như Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng, mà thực ra chỉ là những ý kiến cá nhân và trên thực tế là vô giá trị vì không phải ai cũng đồng ý với ông như vậy. [http://hoinhavanvietnam.vn/Details/ly-luan-phe-binh/ve-vu-cu-huy-ha-vu/32/0/2681.star]

Vụ kiện Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng là một điểm son cho Cù Huy Hà Vũ, một hành động can đảm và đúng vì đã có nhiều nghiên cứu về sự nguy hại trên môi trường của chất thải bùn đỏ trong quá trình tinh luyện Bauxite, và vùng Tây Nguyên là vùng chiến lược quân sự liên hệ đến sự bảo vệ lãnh thổ. Nhưng mặt khác, Việt Nam có mỏ bauxite lớn thứ ba trên thế giới, và đó là một nguồn tài nguyên khổng lồ của nước nhà vì quặng bauxite sẽ đưa đến sự chế tạo ra nhôm (aluminum), một kim loại sử dụng rất nhiều trong nhiều ngành kỹ nghệ. Ngoài Trung Quốc, cả Mỹ, Nga và Úc cũng muốn thiết lập các nhà máy tinh luyện Bauxite ở Việt Nam. Nếu không khai thác thì cả cái khối tài nguyên đó trở thành vô dụng. Vậy vấn đề không phải là không khai thác Bauxite mà là kỹ thuật khai thác sạch, và ai phụ trách khai thác. Việt Nam đã vội vã cho Trung Quốc khai thác, trong khi có thể gửi người đi học, nghiên cứu kỹ vấn đề để người Việt Nam tự khai thác và đủ kinh nghiệm để kiểm soát việc xử lý chất bùn đỏ. Và nếu Việt Nam không có những quy định kiểm soát rõ ràng trong hợp đồng khai thác, và không có khả năng kiểm soát phương pháp khai thác, biện pháp xử lý an toàn bùn đỏ, thì rất có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả tác hại không thể lường được.

Nếu ông Cù Huy Hà Vũ chỉ có những hành động như kiện UBND Tỉnh Thừa Thiên – Huế hay kiện Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng về vụ Bauxite thì tôi chắc ai cũng ủng hộ vì đó là những hành động xây dựng, bảo vệ văn hóa, môi trường của Việt Nam. Nhưng ông ta lại đi kiện lung tung và lang bang vào những chuyện không rõ ràng như đòi dân chủ, đa nguyên đa đảng mà không đưa ra một mô thức nào cho dân chủ, đa nguyên đa đảng thích hợp với hoàn cảnh chính trị Việt Nam ngày nay, và mặt khác những chuyện làm lung tung của ông chứng tỏ trình độ hiểu biết của ông còn thiếu sót nhiều cho nên đã có phản tác dụng, làm loãng đi giá trị của những việc làm đáng khen của ông. Thật là đáng tiếc.

Trần Chung Ngọc
Grayslake, Illinois
Ngày 26 tháng Tư 2011

Vô cùng tàn nhẫn, vô cùng yêu thương




*Photo: Frankie Capone



Tôi là một người rất thích đọc, có thể nói là ham đọc. Khi còn là sinh viên, tôi có thể đọc ngấu nghiến tất cả mọi thứ miễn sao nó được in trên giấy. Giờ đây, nhiệt huyết đọc của tôi đã giảm nhiều, tôi chỉ đọc ít rất ít, điều đó do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là tôi không còn tìm thấy niềm hứng thú ở các trang sách. Phụ nữ ở tuổi ngoài 30 họ không còn hăm hở khám phá mọi thứ và ngốn ngấu chúng, họ đã hiểu người, hiểu đời và chỉ tiếp nhận thông tin mà họ cần. Tôi cũng vậy, hiện tại giống bao người phụ nữ khác điều tôi trăn trở, quan tâm hơn hết thảy là vấn đề giao dục con cái…Tôi tìm hiểu nhiều và tìm đọc nhiều các phương pháp dạy con và cảm thấy thất vọng với phần lớn những cuốn sách đang hiện hành cho đến khi bắt gặp “Vô cùng tàn nhẫn, vô cùng yêu thương“.
Lần đầu, khi nhìn bìa sách trên kệ, tôi đã bị lôi cuốn bởi nhan đề cua nó nhưng lại nghĩ đó là một cuốn tiểu thuyết tình cảm. Quyển sách này thật thú vị khi nó mang đến cho tôi hết sự ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đầu tiên, là sự bất ngờ về nội dung, nó hoàn toàn khác với dự đoán của tôi ban đầu đây là một cuốn sách về vấn đề giáo dục con cái chứ không phải câu chuyện tình yêu đôi lứa. Ngạc nhiên thứ hai tác giả không phải là một tác giả tên tuổi, thậm chí là không có tên tuổi. Ngạc nhiên thứ ba là cô ấy thuộc về một dân tộc rất xa lạ mà gần gũi với chúng ta, một phụ nữ Do thái sống tại Trung Quốc. Ngạc nhiên thứ tư là quan niệm về yêu thương của tình mẫu tử, nó đảo lộn mọi suy nghĩ, mọi quan điểm về tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái của tôi trước kia.


Dù rằng tôi chưa có con nhưng có thể chính vì thế mà tôi luôn khao khát yêu thương con cái, từ trong tôi luôn nghĩ rằng yêu con cái là một tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn bản năng. Đã là yêu thương thì phải là hoàn toàn cảm xúc, để trái tim làm theo mọi điều nó muốn mà không cần sự suy xét của lý trí, tình yêu con cái trong tôi trước kia là như vậy cho đến khi tôi đọc được “Vô cùng tàn nhẫn, vô cùng yêu thương” thì tôi đã nhận ra một điều vô cùng mới mẻ, yêu thương không đơn giản chỉ là cảm xúc. Yêu thương không đơn giản như tôi vẫn nghĩ, đặc biệt là tình yêu thương dành cho con trẻ không thể cứ là yêu thôi, yêu vô điều kiện, vô nguyên tắc, vô thức. Yêu thương con trẻ giờ với tôi thật sự trở nên khó khăn bởi tôi phải học cách để yêu thương. Mà sự học bao giờ cũng khó nhọc nhất là học đưa những cái mênh mông vào khuôn nếp, học kiểm soát những thứ tuân trào vô độ, học che dấu kìm nén biểu hiện của yêu thương, học khước từ những niềm vui mà mình mong muốn đem lại cho con trẻ…

Đọc và thực hiện những gì theo cuốn sách hướng dẫn để có một cách giáo dục con cái nghiêm khắc, để tương lai con có thể tốt đẹp, để góp phần tạo ra một thế hệ trẻ tri thức, độc lập, chân thật và nhân ái là vô cùng khó khăn. Nhưng dù khó, dù biết rằng sẽ nhiều lần phải rơi lệ và đối diện với ánh nhìn oán hờn trẻ thơ, sự đánh giá của người lớn thì các bà mẹ hãy dũng cảm để học và thực hiện. Bởi, với cách yêu thương vô đối như phần nhiều bậc phụ huynh hiện nay, tôi e ngại rằng chúng ta đang gieo trồng một thế hệ “dâu tây”, một lớp trẻ “ăn bám”, và chúng ta đang biến mình thành những “bà mẹ trực thăng”.

Đọc đến những trang cuối cùng của cuốn sách, tôi vẫn chưa hết bàng hoàng bởi những gì mình cảm nhận. Tôi đã sai, sai cơ bản nhận thức về yêu thương. Yêu thương không đơn thuần là cảm xúc có thể mặc nhiên tuôn trào, yêu thương không đơn thuần là tự nhiên thế. Con cái chúng ta chính là sự phản ánh tri thức yêu thương của bố mẹ. Nhưng hành vi, ứng xử, suy nghĩ của lũ trẻ phản ánh tình yêu của chúng ta với lũ trẻ. Do đó, yêu thương không đúng cách, không có sự học hỏi những phương thức đung đắn góp phần huỷ hoại tương lai của các con. Yêu thương cần phải học bởi yêu thương là tri thức.

Có lẽ, tôi không cần phải nói thêm gì về dân tộc Do Thái bởi phần nhiều trong chúng ta đều biết về sự ưu việt của những con người mang dòng máu này. Họ ưu việt đến mức những người mù mờ nhất, thơ ơ nhất về họ dù chẳng biết gì về khái niệm “người Do Thái” cũng có thể biết rằng họ rất trí tuệ. Chúng ta luôn nghĩ rằng họ ưu việt như vậy là bởi dòng máu đó vốn sẵn sở hữu một trí tuệ thông thái. Nhưng tôi thì đã hiểu khác đi khi đọc “Vô cùng tàn nhẫn, vô cùng yêu thương“. Tôi ngộ ra chân lý của họ, trí tuệ khác tri thức. Họ không tự phụ với việc sở hữu một trí tuệ thông thái sẵn có mà họ luôn răn dạy con cái mình hãy tận dụng điều may mắn đó để tích lũy tri thức.

Các thể hệ của họ kế thừa và duy trì niềm đam mê học, đọc, quan sát để rèn luyện kĩ năng sống là chủ yếu. Họ học lý thuyết, đọc sách vở để biến chúng thành kĩ năng thực tế vận dụng vào cuộc sống chứ không học, đọc để lấy điểm số, để gia giảng, để nói nhưng điều sáo rỗng. Xuyên suốt tinh thần giáo dục của cuốn sách là đề cao sự nghiêm khắc, rèn luyện tinh thần yêu lao động, hun đúc tư duy có làm mới có hưởng và cần thiết nhất đó chính là hãy để con cái chúng ta độc lập, xoay sở với cuộc sống. Cha mẹ Do Thái càng giàu có, con cái họ lại càng vất vả lao động để hiểu rằng bố mẹ đã khó nhọc ra sao để có được những điều họ có.

Có thể nói, những đứa trẻ như dòng lịch sử tái hiện cuộc đời của bố hay mẹ chúng. Nhìn những đứa con của họ lao động có thể lý giải cho việc tại sao cha mẹ chúng giàu có như vậy. Khái niệm không ai giàu ba họ không tồn tại trong suy nghĩ của người Do Thái. Với họ, sự giàu có là truyền thống kế tục từ đời này qua đời khác. Đời sau phải có trách nhiệm giữ gìn và phát triển sự giàu có của gia tộc chứ không phải hưởng thụ và làm hao hụt, mai một đến tiêu tán. Người Do Thái không đánh giá cao điểm số tối đa, họ không cần con cái họ học để lấy điểm cao. Họ cần con cái họ học và hiểu những gì chúng được dạy và biến lý thuyết sách vở thành hành động thực tế. Họ không khoe khoang và hãnh diện về kết quả học tập của con được bao nhiêu điểm, đứng thứ mấy mà họ tự hào con họ có thể làm được gì, giúp đỡ cha mẹ và mọi người như thế nào, đóng góp cho gia đình và cộng đồng ra sao v.v…

Một điều rất nghịch lý là người Do Thái không có tư tưởng mong muốn con mình trở thành người số một hay hun đúc con mình trở thành các vĩ nhân, các bậc kỳ tài. Họ không ham hố thành tích, họ không mong mỏi thư hạng, đối với họ người mẹ 80 điểm tốt hơn người mẹ 100 điểm. Họ chú trọng và quan tâm đến việc rèn luyện con cái kĩ năng sống để thích nghi thật nhanh, sống thật tốt trong mọi hoàn cảnh bằng khả năng kiếm tiền và kiểm soát tài chính. Chính vì thế mà có thể thấy rất nhiều các vĩ nhân, các nhà khoa học hay doanh nhân thành đạt người Do Thái không có kết quả học tập cao ngất khi còn đi học. Nhưng họ có một điểm chung dễ nhận là rất hiếu động, ưa khám phá đôi khi còn thấy họ giống như những đứa trẻ nghịch ngợm.

Tổng kết lại cuốn sách cho ta thấy cách dạy con của người Do Thái cũng giống như tất cả các bậc phụ huynh trên thế giời là mong ước con mình lớn lên thành người có ích cho xã hội, hiếu thuận và thành đạt. Tình yêu của họ cũng như tất cả các bậc phụ huynh khác dành cho con cái là vô bờ bến. Chỉ có cách suy nghĩ và phương thức thể hiện của họ khác hoàn toàn với chúng ta. Con cái người Do Thái từ nhỏ đã thấm nhuầm những giá trị sau đây: Trí tuệ là tất cả nhưng nó chỉ thực sự quý giá khi được bồi đắp bằng việc học hỏi không ngừng. Trí tuệ cộng với việc học hỏi tạo nên trí thức. Đó mới là tinh hoa của trí tuệ và lao động. Tài sản quý giá nhất đối vơi họ là trí tuệ, điều này thể hiện qua nhiều câu hỏi ăn sâu vào ý niệm của người Do Thái đó là khi đưa ra một tình thế nguy cấp, sống còn câu hỏi đặt ra là phải mang theo thứ gì? Câu trả lời duy nhất: Trí tuệ!

Không coi việc học với những thành tích số 1 là mục đích, lý tưởng để con cái hướng tới. Việc học và lao động luôn được thực hiện bình đẳng. Quỹ thời gian dành cho việc học và lao động là như nhau. Từ nhỏ, những đứa trẻ Do Thái đã được dạy làm những việc tùy sức của mình. Chúng coi việc lao động là tất yếu với phương châm: Có làm có hưởng. Hương thụ lao động của người khác là một việc đáng xấu hổ nên không có chuyện những đứa trẻ Do Thái ngồi không chờ đồ ăn bưng lên miệng trong khi mẹ chúng luôn tay chuẩn bị bữa ăn.

Đọc, nghe, quan sát, khám phá để có thể làm được nhưng việc người khác làm. Hỏi, hỏi và hỏi là điều mà các bậc cha mẹ luôn khuyến khích con cái họ làm

Rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử tinh tế. Điều này đối với họ vô cùng quan trọng, họ coi khả năng nắm bắt tâm lý là mấu chốt của thành công trong thương lượng. Việc giao tiếp được họ coi trọng đến mức coi nó như nền tảng để thành công. Hầu hết bất cứ một người Do Thái nào cũng có thể nói thành thạo 3 ngoại ngữ. Những đứa trẻ dù nhút nhát hay e dè đến đâu cũng phải rèn luyện khả năng diễn thuyết trước đám đông và lễ độ với mọi người. Khi nghe một người nói bạn có thể nhận ra ngay đó là phong cách nói của người Do Thái, bởi nó luôn được cất nhắc kỹ lưỡng và sử dụng những từ ngữ lịch thiệp nhất trong giao tiếp.

Khác với những bậc phụ huynh Việt Nam, trẻ em Do Thái được tiếp xúc với tiền từ rất bé. Khoảng 8 tuổi, các bé đã có thể kiếm tiền, tiêu tiền, quản lý tiền. Việc tiếp cận với đồng tiền từ nhỏ khiến những đứa trẻ sớm hiểu giá trị của đồng tiền và rèn luyện kỹ năng quản lý tiền một cách hoàn hảo.

Sống có trách nhiệm với con người, với cộng đồng, luôn chân thật và biết ơn sự tử tế. Hầu hết những đứa trẻ Do Thái đều hiếu thuận với cha mẹ. Steve Jobs dù là con nuôi nhưng ông vẫn vô cùng kính yêu cha mẹ nuôi mình. Nếu để ý bạn sẽ thấy những nhà tỷ phú người Do Thái là những nhà hoạt động từ thiện tích cực nhất. Thậm chí, họ sẵn sàng hiến nguyện phần lớn số tài sản của mình cho công việc từ thiện. Họ không lấy việc từ thiện để đánh bóng bản thân và càng không làm từ thiện vì miễn cưỡng. Với tấm lòng nhân ái, làm từ thiện là tâm nguyện và mong muốn của họ, nó mang đến cho họ niềm vui và ý nghĩa cuộc sống.

Tôi chắc chắn rằng, hầu hết những người đã có gia đình dù là đàn ông hay đàn bà khi ngồi với nhau thì chủ đề chính luôn được bàn luận là chuyện con cái. Nuôi ra sao? Dạy thế nào? Tôi cũng đoán không ít lần chúng ta than vãn về việc dạy lũ trẻ ngày càng khó khăn, cũng chắc rằng chúng ta đã nói rất nhiều lần nói về sự khác biệt giữa những đứa trẻ Việt Nam và nước ngoài, chúng ta kể cho nhau nghe về cách dạy con cái của họ, chúng ta thán phục và tâm đắc với những gì họ làm. Và không ít người gửi gắm con cái vào các trường nước ngoài với mong muốn con cái mình sẽ được dạy dỗ một cách tốt nhất để trưởng thành. Mà chúng ta không thấy rằng chính chúng ta mới là những người cần học hỏi, cần được đào tạo lại để thay đổi tư duy, thay đổi cách hiểu và nhìn nhận đúng về khái niệm yêu thương. Vậy muốn thay đổi nhận thức, muốn áp dụng phương pháp dạy con theo tư duy thực tế phải bắt đầu từ đâu? Hãy đọc “Vô cùng tàn nhẫn, vô cùng yêu thương“- một cuốn sách vô cùng hữu ích.



Totto Chan

TẠI SAO “VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP” KHÔNG THU HÚT CÁC NHÀ VĂN ĐỘC LẬP?





“Mục đích của người viết văn là giữ cho nền văn minh không tự hủy diệt” – Albert Camus


Đây không chỉ là mục đích hay trách nhiệm, đây là sứ mệnh của người cầm bút. Trong quá trình tạo dựng một đất nước Công bằng – Dân chủ – Văn minh, thì các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình thật sự đảm nhiệm 1/3 trách nhiệm. Đó cũng chính là những gì được nhấn mạnh trong bản tuyên bố thành lập Văn đoàn độc lập. Ngay phần đầu của bản tuyên bố thành lập, những người này đã khẳng định: “Những người viết văn tiếng Việt không thể nói rằng mình hoàn toàn không có phần trách nhiệm về thực trạng đó. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội. Trong bước ngoặt lớn này của lịch sử, văn học Việt Nam đã không làm đúng được vai trò của mình”, và họ cũng nhận rằng đây là trách nhiệm của chính những người cầm bút. Bởi vậy, ngay khi được thành lập, “Văn đoàn độc lập” đã thu hút một số cây bút ký tên, nhưng vẫn dừng ở đấy, bởi những cây bút ấy có thực sự đã làm đúng như sứ mệnh mà họ xướng lên?

“Văn đoàn độc lập” mang màu sắc chính trị ?


Trong nhiều năm qua, văn chương không có sáng tác nào có giá trị, lý luận phê bình cũng chỉ lác đác vài cuốn, đa phần là văn học dịch. Hiện tượng này có phải thật sự là do lỗi của chính quyền, rằng các chính sách quản lý văn học nghệ thuật cản trở việc sáng tác? Quản lý và kiểm duyệt nội dung là vấn đề không thể tránh được trong quản trị nhà nước, để đảm bảo tính chính thống của tư tưởng và thái độ xã hội. Kiểm duyệt không có nghĩa là hạn chế tính sáng tạo, bởi vì, trên thực tế, hai điều này không liên quan và song hành với nhau. Nếu vấn đề kiểm duyệt gây cản trở cho sáng tạo nghệ thuật thì những tác phẩm lớn trên thế giới như “Thủy Hử truyện” (Thi Nại Am), “Hamlet” (William Shakespeare), “Những người khốn khổ” (Victor Hugo) hay ngay cả “Số đỏ” (Vũ Trọng Phụng), “Chí Phèo” (Nam Cao), … có lẽ đã chẳng bao giờ tồn tại trên đời. Tính sáng tạo của người cầm bút nằm ở chính bản thân người cầm bút chứ không thể phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài. Ở đâu có áp bức, ở đó văn chương thơ ca càng cất lên những tiếng nói mạnh mẽ. Nhưng ở Việt Nam, lâu lắm rồi không có tác phẩm nào có hơi thở đời sống.



“Văn đoàn độc lập” ra đời với mong muốn phục dựng nền văn học nước nhà, nhiệm vụ mà họ cho rằng Hội nhà văn Việt Nam không làm được. Nhưng thay vì kêu gọi trách nhiệm của người cầm bút, họ lại trút toàn bộ trách nhiệm này lên nhà nước và Hội nhà văn. Bởi thế, “Văn đoàn độc lập” bị nhuốm màu sắc chính trị. Dư luận dễ dàng để nghĩ rằng, đây là một tổ chức li khai và đối kháng với Hội nhà văn Việt Nam. Các chữ ký có trong “Văn đoàn độc lập” đều là của những người đã và đang ở trong Hội nhà văn Việt Nam, hoặc đã từng được giải thưởng của Hội nhà văn. Nguy hiểm hơn, tên tuổi của các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình có uy tín lớn lại được xếp cạnh những cây viết nghiệp dư chống chính quyền. “Văn đoàn độc lập” được tổ chức như một sự tuyên bố và thách thức, điều này khiến chính bản thân những cây viết độc lập cảm thấy rằng mình không nên dính vào cuộc đấu đá này.



Nhưng sai lầm lớn nhất là, “Văn đoàn độc lập” đã nói một câu dễ làm mất lòng các nhà văn “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Trong bản tuyên bố, các cây bút này bị quy kết là “thờ ơ đối với trách nhiệm xã hội, vô cảm trước thời cuộc, quan trọng hơn nữa là thiếu độc lập tư duy, từ đó mà tự hạn chế năng lực sáng tạo”. Văn chương hiện thực không phải là tất cả của nền văn học. Bất cứ ai nghiên cứu văn học thế giới đều biết điều này. Đa số các tác giả lớn đều là những người “vị nghệ thuật”. Các nhà văn trong “Văn đoàn độc lập” đã nhầm lẫn giữa kiểu viết “ôn nghèo kể khổ” và trách nhiệm của văn chương. Văn chương không chỉ đơn thuần mô tả cuộc sống để phơi trần bộ mặt xấu xa của nó (công việc này có thể báo chí làm tốt hơn), văn chương, vĩ đại bởi khả năng hướng con người tới cái đẹp bằng nghệ thuật ngôn từ.

Mọi sự đổi mới cần đến từ chính bản thân tác phẩm


Thời kỳ văn học Phục Hưng được đánh dấu bằng những tên tuổi lớn như Cervantes với “Don Kihote”, các vở kịch về tự do cá nhân của William Shakespeare. Các tác phẩm hiện thực lớn của Balzaq, Charles Dicken, Dostoyevski… đều là những tuyên bố hùng hồn về sự đổi mới, thay đổi, thậm chí là Cách mạng trong thời đại của họ. Không cần các tuyên bố dài dòng về quyền tự do, quyền con người hay lẽ công bằng, bằng chính các biến cố trong tác phẩm của mình. Những ý tưởng đó trong tác phẩm lan tỏa đến các cây viết khác và ảnh hưởng sâu sắc đến người đọc. Từ đó, một cuộc đổi mới bắt đầu diễn ra. Để thực hiện điều đó, những cây bút đứng đầu một phong trào hoặc một nhóm, phải là những cây bút xuất sắc nhất.



Không có điều này ở “Văn đoàn độc lập”! Không có gì ngoài độc nhất một bản tuyên ngôn! Các trào lưu và các nhóm sáng tác trong lịch sử văn học cũng có bản tuyên ngôn của riêng họ, nhưng đó là sau khi các tác phẩm của họ đã đi trước và thuyết phục được xã hội. Nếu không thể chứng minh bằng chính tác phẩm, các bản tuyên ngôn đều chỉ là sáo rỗng, không thể đảm bảo chắc chắn rằng những cây bút đó sẽ có khả năng bảo vệ những người cầm bút khác. Trong khi sự bảo vệ này không đơn thuần chỉ là quyền lợi chính trị, người cầm bút hơn cả thế, cần được xã hội công nhận đúng với tài năng và tư tưởng của mình.

Người cầm bút thật sự có cần đòi hỏi sự “độc lập”?


Hội nhóm, với các tác giả, đôi khi chỉ là chỗ để gặp nhau nói chuyện, giới thiệu tác phẩm, chia sẻ hiểu biết. Ở Việt Nam có rất nhiều nhà văn độc lập, không tham gia bất cứ hội đoàn nào, kể cả Hội nhà văn Việt Nam, nhưng họ vẫn được xuất bản sách, vẫn được báo chí đưa tin, vẫn được diễn thuyết trước công chúng, họ hiện nay vẫn được đảm bảo mọi điều kiện để thể hiện năng lực sáng tác. Họ hoàn toàn chứng minh bản thân, bao gồm tư tưởng và tài năng, bằng chính tác phẩm của mình. Nhà nước không có bất cứ sự cản trở gì đến con đường sự nghiệp của những cây bút này.



Sự phát triển của Internet, Blog, Mạng xã hội… càng tạo điều kiện lớn hơn cho các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình. Nếu không thích đi theo con đường xuất bản chính thống, bất cứ cây bút nào cũng có thể chia sẻ bài viết của mình trên mạng, không cần kiểm duyệt của nhà nước hay của cơ quan quản lý nghệ thuật. Tác phẩm của họ có đến được với đông đảo công chúng hay không hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng của người viết có đủ thuyết phục hay không. Không gian mạng đã cho phép các nhà văn độc lập hơn trong sáng tác. Nhưng vấn đề là, vẫn không có tác phẩm nào lớn.


Người cầm bút chân chính là những người không chịu bất cứ áp lực nào của thị trường, không ngả nghiêng theo các xu hướng chính trị, hoàn toàn cống hiến mình cho nghệ thuật ngôn từ. Hướng con người tới các giá trị Chân - Thiện – Mỹ mới chính là tạo dựng nền văn minh, giống như nhà văn vĩ đại của Chủ nghĩa Hiện sinh Albert Camus đã nói đến.

Nguồn : Giai điệu tổ quốc tôi

Tự Do Báo Chí Cho Ai ?


Tác Giả: AMARI TX - VHN.NET



Bà con vùng cao theo dõi tin tức trên báo chí (ảnh internet)





Báo chí Mỹ đã nhất loạt thổi phồng làm rùm beng cái gọi là “khả năng hạt nhân” và “tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt” của Irắc, họ đưa tin Irắc mua plutoni của một nước châu Phi để chế tạo bom hạt nhân. Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang treo lơ lửng trên đầu nhân loại, vì thế Mỹ phải ra tay trước, thể hiện như một “Người hùng” cứu nhân độ thế?! Khi cuộc chiến tranh Irắc nổ ra, nhiều hãng thông tấn, nhiều tờ báo đưa tin không hợp “khẩu vị” của họ thì bị cấm đưa tin, bị kiểm duyệt. Chính quyền Mỹ đã kiểm soát rất chặt chẽ các báo, đài đưa tin chiến sự, họ chỉ đồng ý cho những hãng thông tấn báo chí nào tuân theo những “Luật” do họ đặt ra. Những nhà báo đưa tin về sự thật tàn bạo của quân đội Mỹ gây ra đối với dân thường đã bị đe doạ. Một phóng viên nổi tiếng của Hãng Truyền hình CNN bị đuổi việc ngay lập tức, vì đã thông tin một sự thật không có lợi cho nhà cầm quyền Mỹ. Đài BBC bị Chính phủ Anh kiện ra toà. Ở Mỹ, khi CNN và tạp chí Thời đại (Time) công bố phóng sự của Ôlivơ và Xmit ngày 7/6 và 14/6/1998, về sự kiện quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc Sa-rin trong chiến dịch “Gió xuôi chiều” vào tháng 9/1970 để giết hại một số quân nhân Mỹ đảo ngũ trong chiến tranh Việt Nam và trốn tại Lào, thì đến đầu tháng 7 cả CNN và tạp chí Thời đại đều phải công khai xin lỗi Lầu Năm góc, đồng thời sa thải hai nhà báo đó, mặc dù các nhà báo đều đã nêu đủ những bằng chứng xác thực khẳng định sự đúng đắn của họ và tố cáo những hành vi thúc ép về chính trị và quân sự đối với họ trong vụ việc.
Điều quan trọng nhất và cũng cơ bản nhất là tất cả các tờ báo lớn có sức ảnh hưởng mạnh đến đời sống xã hội đều nằm trong tay những ông chủ giầu có. Bất chấp tự do tư tưởng, các nhà tư bản đã không ngần ngại dùng báo chí để bành trướng, áp đặt quan điểm của mình trên qui mô toàn cầu. Họ đầu tư nhiều triệu đô la, phát triển một hệ thống báo chí hùng hậu nhằm quấy nhiễu tư tưởng ở tất cả các nước không cùng quan điểm. Diễn biến thế giới gần đây đã phản ánh khá sinh động điều ấy. Bằng cái gọi là “tự do báo chí”, các nhà tài phiệt tư bản, đứng đầu là nước Mỹ đã không ngần ngại dùng các cơ quan báo chí của mình thổi phồng lên các chiêu bài “chống khủng bố, truy lùng Binlađen”, “săn lùng vũ khí hủy diệt”, kiếm cớ “hợp pháp” để can thiệp quân sự một cách thô bạo vào những quốc gia có chủ quyền, ở nơi mệnh danh là mỏ “Vàng đen” của thế giới. Các nhà tư bản dùng báo chí để lừa phỉnh dư luận, kiếm về cho mình những món lợi kếch xù. Như vậy thì làm gì có cái gọi là “tự do báo chí thuần túy”, “tự do báo chí tuyệt đối”, nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước Mỹ. Vậy cái mà họ gọi là “Tự do báo chí” thực chất là sử dụng báo chí để bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của họ. Đó chính là thứ tự do giả dối, lừa gạt dư luận, thủ tiêu vai trò của báo chí.
Còn ở Việt Nam có một số người cơ hội chính trị đã kết bè với nhau và liên kết với các tổ chức chống cộng cực đoan, các tổ chức thù địch với Việt Nam để phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Họ viết báo, hồi ký phát tán ra ngoài với những lời lẽ hằn học, biêu riếu, vu cáo hèn mạt, họ nhổ toẹt vào những hy sinh vô cùng to lớn về sinh mạng của cả một dân tộc mà có cả những người thân của họ trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Họ gầm gừ, rên rỉ rằng ở đất nước này không có “tự do báo chí”(!) như họ muốn như: “Viết báo trong vòng kìm kẹp của luật”(!) hay “Không có tự do báo chí thì dân tộc này mãi mãi sống trong hang tối”(!) v v..Những người cơ hội chính trị đó đã thực sự đối lập với lợi ích Tổ quốc, một khi họ nuôi dã tâm xấu xa đó thì không có quyền nói đến “tự do báo chí”, theo nghĩa chân chính nhất của từ này. Ngày Tự do Báo chí Thế giới 3-5 2014 với chủ đề là: “Tự do cho truyền thông vì một tương lai tốt đẹp hơn”. Dấu nhấn được đặt trên các vấn đề: “truyền thông tự do, Nhà nước pháp quyền, báo chí chuyên nghiệp là một bộ phận của phát triển”. Một chuyện hài hước đã diễn ra là, ba nhà hoạt động cho cho cái mà họ gọi là “tự do và nhân quyền” của Việt Nam đã tới Hoa Kỳ, theo lời mời của các dân biểu Hoa Kỳ và một số các tổ chức cổ súy cho cái gọi là” tự do thông tin”. Các khách mời này sẽ tham gia một loạt các sinh hoạt như thảo luận về những thử thách của việc khởi động một nền báo chí độc lập tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các “nhà” này sẽ tiếp xúc với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc, một số dân biểu Mỹ, các tổ chức nhân quyền, công ty tin học, tham gia khóa huấn luyện về truyền thông và an ninh mạng. Lố bịch,ngược ngạo, thử hỏi ba vị khách mời đó là ai ? họ lấy tư cách gì mà “đòi” về tự do cho báo chí Việt Nam? Họ biết gì mà hội thảo? các vị đó có viết nổi một mẫu tin theo đúng nghĩa của sự việc không? xin trả lời rằng họ hoàn toàn không đủ năng lực và tư cách. Ấy vậy mà nghịch lý đó vẫn diễn ra !
Vậy do đâu mà những người đó có đòi hỏi vô lý, hài hước trên? chúng ta sẽ tìm hiểu “căn bệnh” này. Có nguyên nhân từ bên ngoài hẫu thuẫn, đó là những tổ chức không có thiện cảm với Việt Nam luôn luôn đẻ ra những sản phẩm “quái thai” từ những định kiến, nhận thức mơ hồ về quyền tự do báo chí Việt Nam.Trong báo cáo thường niên về tự do báo chí trên thế giới do tổ chức Freedom House công bố ngày 1-5-2013 họ xếp Việt Nam vào nhóm các nước “Không có Tự do báo chí”?! Một cuộc phỏng vấn dành cho ban Việt ngữ –VOA, ông Shawn Crispin, Đại diện cấp cao của Ủy ban Bảo vệ các Ký giả ở Đông Nam Á (CPJ), và là tác giả của cái gọi là:”phúc trình về tự do báo chí tại Việt Nam” đã đánh giá về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam trong năm 2013 như sau:“Rõ ràng là tình hình tự do báo chí ở Việt Nam đã xuống dốc rất nhanh. Cuộc nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, chính quyền Việt Nam đang tăng cường đàn áp các blogger độc lập, và các nhà báo viết bài đăng trên mạng. Điều đó chứng tỏ là chính quyền Việt Nam đã có một nỗ lực phối hợp để siết chặt một thế giới mạng từng hoạt động tương đối cởi mở, cung cấp các quan điểm và tin tức đa dạng bên cạnh giới truyền thông chính thức bị nhà nước chi phối”?! Do hiểu phiến diện hoặc cố tình hiểu sai về tự do báo chí, tổ chức này đã ra công cổ súy, đấu tranh đòi “tự do báo chí” theo kiểu phương Tây, coi đó là biểu hiện của “tinh thần dân chủ”, Song, họ không hiểu rằng dân chủ là một thể chế, trong đó, quyền tự do báo chí của người này không được làm tổn hại đến quyền tự do của người khác, đến lợi ích của toàn dân tộc. Mặt khác, trong một số ít người, tư tưởng nêu trên xuất phát từ những toan tính liên quan đến lợi ích, quyền lực, động cơ cá nhân, từ sự bất mãn của họ với Đảng và Nhà nước. Họ luôn luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của đất nước, chính vì thế, họ có những ý kiến lạc lõng cực đoan phản lại quyền lợi của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần sự thật về chính sách báo chí của chính quyền thực dân: “Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ do chính quyền thành lập và giao cho bọn tay chân điều khiển, chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ quyền thế đương thời, kể chuyện vớ vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hoá và ru ngủ dân chúng. Báo đầu độc người ta như thế, thì ở Đông Dương cũng có ba hay bốn tờ đấy”. Như chúng ta đã biết luật Báo chí của Việt Nam ghi rõ hai điều rất quan trọng:
Điều 4: Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Công dân có quyền:
1. Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới;
2. Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;
3. Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;
4. Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
5. Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.
Điều 5: Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.
Cơ quan báo chí có trách nhiệm:
1. Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do;
2. Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến”..



Để làm rõ vấn đề cốt lõi, chỉ rõ thực chất cái gọi là “tự do báo chí” của phương Tây và thực trạng hoạt động báo chí của Việt Nam hiện nay thì chúng ta đều nhận ra rằng: Đối với báo chí phương tây thì:Tuy không can thiệp vào hoạt động báo chí, nhưng luật pháp của các quốc gia đều có những quy định nhằm ngăn chận sự lạm quyền của báo chí, chẳng hạn, về các thông tin của chính phủ, mọi chính phủ đều phân biệt những thông tin nào được phép phổ biến cho công chúng và những thông tin nào thuộc loại phổ biến hạn chế hay tuyệt mật không thể tiết lộ với mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia. Hầu hết các tổ chức làm báo của phương tây đều tự đưa ra những quy định của tổ chức mình và yêu cầu những người thuộc tổ chức phải tuân thủ. Các tổ chức báo chí cũng họp thành những hiệp hội báo chí để bảo vệ quyền người làm báo, và những hiệp hội này cũng nêu ra các quy định về đạo đức nghề nghiệp. Mặc dù báo chí phương tây có quyền tự do nhưng xã hội phương tây cũng tôn trọng quyền tự do cá nhân và báo chí không có quyền làm phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân. Do đó, nền báo chí dân chủ phương tây tự đặt ra cho họ những tiêu chuẩn của việc hành nghề gọi là hệ thống đạo đức báo chí. Chính vì thế mà ông Tony Burman, cựu tổng biên tập của một hãng tin lớn trên thế giới là CBC News, đã phát biểu:“Mọi tổ chức báo chí đều chỉ có thể dựa vào danh tiếng và sự được tín nhiệm của chính mình.” Những người làm báo thiếu cẩn trọng vì nôn nóng phát hiện vụ việc hoặc khao khát giải thưởng làm báo cũng có lúc đi quá phận sự của người làm báo. Nhận thấy những hành vi của một số người làm báo là không thỏa đáng, các định chế báo chí đứng đắn đã đặt ra những quy tắc đạo đức của nghề báo và của người làm báo. Mặt khác, các quốc gia Tây Âu và Bắc Mỹ cũng ban hành nhiều luật lệ nhằm ngăn ngừa sự vi phạm của người làm báo trong lúc hành nghề.Chỉ khi nào nhận thức đầy đủ những cơ sở xuất phát này thì người làm báo mới giải quyết đúng đắn và xử lý hài hòa các mối quan hệ liên quan đến các thành tố trên để giữ vững đạo đức nghề nghiệp trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, ở mọi lúc, mọi nơi.
Trong thời gian xảy ra thế chiến thứ hai, vị chủ báo của nhật báo Times và tạp chí ảnh Life (Hoa Kỳ) là Henry Luce có đề nghị với Giáo sư Robert Hutchins là Viện trưởng Viện đại học Chicago lúc bấy giờ giúp tuyển mộ một ủy ban thực hiện việc tìm hiểu về chức năng thích đáng của hoạt động truyền thông trong một nền dân chủ hiện đại. Sau hơn bốn năm cân nhắc, mãi đến năm 1947, Ủy ban này mới đưa ra một bản hướng dẫn tổng quát gồm 7 điều:


1. Bất kỳ ai được hưởng một phạm vi tự do đặc biệt, như một nhà báo chuyên nghiệp chẳng hạn, đều có một nghĩa vụ đối với xã hội trong việc sử dụng quyền hạn và tự do của mình một cách có trách nhiệm.
2. Phúc lợi của xã hội là tối cao, quan trọng hơn hẳn sự nghiệp của từng cá nhân hoặc kể cả những quyền cá nhân.
3.Báo chí phải trình bày những tin tức có ý nghĩa, chính xác, và tách biệt với ý kiến riêng.
4. Báo chí phải phục vụ như một diễn đàn cho việc trao đổi những bình luận, phê phán và để mở rộng việc tiếp cận những quan điểm khác biệt.
5.Báo chí phải hướng đến một hình ảnh có tính cách đại diện cho mọi cộng đồng họp thành xã hội bằng cách tránh những định kiến và phải kể đến những cộng đồng thiểu số.
6.Báo chí phải làm sáng tỏ những mục tiêu và những giá trị của xã hội; hàm ý là một lời kêu gọi tránh việc làm thỏa mãn cho nhóm thuộc mẫu số chung nhỏ nhất.
7.Báo chí phải mang lại một sự đưa tin rộng rãi về những gì được biết liên quan đến xã hội.
Bản hướng dẫn tổng quát của Ủy ban Hutchins đã gợi ý cho Hiệp hội nhà báo Chuyên nghiệp Hoa Kỳ (Society of Professional Journalists) đưa ra một bản quy tắc đạo đức của người làm báo, ngoài những điều khoản có tính cách cụ thể hóa và chi tiết hóa những hướng dẫn tổng quát trên dưới đề mục chung là: Tìm kiếm sự thật để tường thuật, có đưa thêm ba đề mục chính là: Giảm đến mức tối thiểu sự tác hại – Hành động một cách độc lập - Có trách nhiệm. Đặc biệt, vào năm 1993, Nghị viện Liên hiệp châu Âu (European Parliament) thông qua nghị quyết số 1003 nói về đạo đức của báo chí, là một trong những văn bản hiếm có của giới lãnh đạo chính trị phương tây bàn về vấn đề này. Bản nghị quyết này gồm 6 mục với 38 điều. Mục thứ nhất nêu sự phân biệt giữa tin tức và ý kiến riêng; mục thứ hai xác định quyền được thông tin là một quyền căn bản của con người và phân biệt chức trách vai trò giữa người sở hữu cơ sở báo chí, người chịu trách nhiệm về cơ sở báo chí và người thực hành việc làm báo với tư cách nhà báo chuyên nghiệp, mục thứ ba nêu rõ chức năng báo chí và nêu rõ như thế nào là các hoạt động mang tính đạo đức của báo chí, mục thứ tư chỉ có một điều nói về những luật lệ quản trị đối với ban biên tập, mục thứ năm nói về những tình huống có tranh chấp và những trường hợp cần bảo vệ đặc biệt; và mục cuối cùng nói về đạo đức tổng quát cùng với việc tự đặt ra điều luật phải theo của các cơ sở báo chí.

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định quyền tự do báo chí. Mọi hoạt động báo chí đều phải phục vụ sự tiến bộ, công bằng xã hội, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Luật Báo chí chỉ cấm các hoạt động báo chí đi ngược lại lợi ích tối cao của đất nước là độc lập, tự do của dân tộc, thành quả kết tinh sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam mới giành được. Luật Báo chí cấm các hành động tuyên truyền chống lại con người. Luật Báo chí Việt Nam khẳng định báo chí không chỉ là cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,… mà còn là diễn đàn tin cậy của người dân. Báo chí đã là món ăn tinh thần không thể thiếu được của các tầng lớp nhân dân, thực sự đến với nhiều đối tượng trở thành người bạn thân thiết hằng ngày của họ. Đó là vì báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tiếng nói của nhân dân,… đồng thời là bầu bạn tin cậy của các tầng lớp nhân dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của nhân dân. Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây dựng một xã hội hoà bình, ổn định, vì hạnh phúc. Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, phát hiện những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ tục, những tệ nạn xã hội. Vậy thì, sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam có cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng như những hoạt động báo chí của các nhà báo không ? Xin thưa với các vị chuyên hành nghề vu khống là không hề. Tất cả những điều quy kết của các vị dựa trên mớ cái gọi là “bằng chứng” của một số người có tư tưởng xuất phát từ mưu đồ cá nhân, mưu toan quyền lực, với não trạng luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích dân tộc, luôn tìm cách vu cáo, xuyên tạc về tự do báo chí trong nước hòng nhận được sự hậu thuẫn của các thế lực từ bên ngoài về tinh thần lẫn vật chất. Chúng ta đanh thép nói rằng: Những kẻ nào, tổ chức nào dù cho họ được đỡ đầu bởi một chính phủ có tiềm lực như thế nào đi chăng nữa Việt Nam vẫn dõng dạc tuyên bố rằng : Việt Nam là quốc gia có nền báo chí cách mạng tự do !


AMARI TX
Texas Hoa Kỳ 20-4-2014

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

Khởi tố oan dẫn đến hậu quả chết người- Xin lỗi là xong !



Bị khởi tố oan, Ông Vũ Thanh Hải -nguyên trưởng phòng công chứng số 3-tỉnh Vụng tàu -Bà Rịa đã suy sụp và tự tử chết. Mười năm sau ông mới được minh oan và gia đình chỉ nhận được lời xin lỗi của Viện KSND tỉnh. Thế là xong!

Xem xét vụ án sẽ dễ dàng nhận ra có sự mờ ám trong việc khởi tố ông Hải. Căn nhà là một tài sản cố định, không thể di dàng, biến mất nên việc xác định căn nhà 60 hay 60 A- Lê hồng Phong chỉ là một, đây việc làm hết sức đơn giản thế nhưng ông Hải đã bị cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh khởi tố về hành vi " thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" và được VKS tỉnh phê chuẩn.

Quá uất ức vì bị kết tội oan, ông Hải đã tìm đến cái chết để minh chứng cho sự vô tội của mình.

Phải mất 10 năm sau ông Hải mới được minh oan và được các cơ quan chức năng xin lỗi. Thế là xong!?

Thế những kẻ đã " cố tình" hay " vô trách nhiệm" đến mức chẳng cần điều tra, xác minh làm rõ, chỉ căn cứ vào sự nhầm lẫn trên giấy tờ : xác định căn nhà số 60 và 60A Lê Hồng Phong để khởi tố ông Hải khiến ông Hải phải tìm đến cái chết.

Hành vi của các bộ điều tra ở đây có phải là : " Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng " hay không? Sự thiếu trách nhiệm vốn đã quá rõ khiến một người phải tìm đến cái chết trong oan khuất.

Cần phải khởi tố cán bộ điều tra đã kết luận : căn nhà 60 và 60A là 2 căn khác nhau và đề nghị khởi tố ông Hải

Hãy trả lại sự công bằng cho ông Hải và gia đình ông không phải chỉ đơn giản là lới : Xin Lỗi!

Cần khởi tố vụ án " thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" của các cán bộ điều tra liên quan để trả lại công bằng cho người đã chết oan và an ủi cho những người đã và đang bị oan sai mà chưa được minh oan.Xin nhớ cho một điều : Ông hải không hề bị bệnh tâm thần!
Luật pháp không minh bạch lòng dân ngày càng bất ổn là điều tất yếu!
Có cần phải chờ gia đình Ông Hải khởi kiện hay không? Xin nhường câu trả lời này cho những người thực thi công lý vậy!


Trúc Lam

Các bạn có thể xem về vụ án :


Chết 10 năm mới được xin lỗi vì bị oan saihttp://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Phap-luat/603367/chet-10-nam%C2%A0moi-duoc-xin-loi-vi-bi-oan-sai.html




Ngày 18-4, tại trụ sở UBND phường Kỳ Bá, TP Thái Bình, VKSND, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tổ chức xin lỗi công khai gia đình ông Vũ Thanh Hải (nguyên trưởng phòng công chứng nhà nước số 3 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) vì đã khởi tố oan đối với ông cách đây 10 năm.

Tham dự buổi xin lỗi có ông Phạm Hữu Dương (trưởng phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự về án kinh tế, chức vụ và tham nhũng VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), ông Nguyễn Tiến Yên (thượng tá, phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).

Thay mặt các cơ quan tố tụng hình sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ông Dương xin được nhận lỗi và trân trọng gửi lời xin lỗi đến gia đình ông Vũ Thanh Hải vì các cơ quan tố tụng của tỉnh đã sơ suất trong quá trình điều tra, khởi tố điều tra dẫn đến oan sai cho ông Hải. Ông Dương cho biết, lời xin lỗi công khai của các cơ quan tố tụng đã được đăng tải công khai trên báo chí.





Thượng tá Nguyễn Tiến Yên, phó thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an Bà Rịa - Vũng Tàu xin lỗi gia đình ông Hải - Ảnh: Thân Hoàng





Bà Hoàng Thị Vui và con trai trong buổi VKSND tỉnh BR-VT xin lỗi công khai vì kết tội oan cho chồng bà - Ảnh: Thân Hoàng




Suy sụp, trầm cảm đến phát bệnh tâm thần vì bị oan

Bà Hoàng Thị Vui (vợ ông Hải) cùng con trai đã kịp đi từ Vũng Tàu ra Thái Bình vào đêm 17-4 để dự buổi xin lỗi này. Bà Vui cho biết: những nỗi đau của gia đình phải chịu đựng trong suốt 10 năm đằng đẵng qua không thể nào bù đắp nổi, “niềm vui được minh oan” cũng không trọn vẹn bởi chồng bà đã tự vẫn do không thể chịu nổi nỗi oan khi bị Công an cùng VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khởi tố với tội danh thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong một vụ án kinh tế từ năm 2004.

Theo hồ sơ vụ việc, tháng 4-2004, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quyết định khởi tố bị can ông Vũ Thanh Hải để điều tra hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” trong vụ án tranh chấp ngôi nhà số 60 đường Lê Hồng Phong, TP Vũng Tàu. Ông Hải - khi đó đang là trưởng phòng công chứng nhà nước số 3 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Cơ quan điều tra cáo buộc ông Hải thiếu trách nhiệm vì đã công chứng vào hợp đồng mua bán căn nhà số 60 trên của ông Nguyễn Văn Tuân (TP Vũng Tàu) giúp ông Tuân chiếm đoạt căn nhà này.

Theo hồ sơ, năm 1993 ông Tuân được gia đình ông Nguyễn Văn Nữ (bác ruột ông Tuân) ủy quyền cho sử dụng căn nhà số 60 đường Lê Hồng Phong, TP Vũng Tàu. Năm 1996, vợ chồng ông Tuân làm hợp đồng bán căn nhà này cho người khác. Khi mang hợp đồng ra công chứng, số 60 được viết thêm chữ A đằng sau bằng bút viết tay. Hợp đồng này do ông Hải làm thủ tục công chứng.

Sau đó gia đình ông Nữ làm đơn tố cáo ông Tuân đã gian dối, chiểm đoạt ngôi nhà này. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh BR-VT đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với ông Tuân về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khởi tố ông Vũ Thanh Hải về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Tháng 4-2006, TAND tỉnh BR-VT xét xử sơ thẩm và tuyên phạt ông Tuân 11 năm tù. Sau khi ông Tuân kháng cáo, tháng 12-2006, TAND tối cao tại TP.HCM xét xử phúc thẩm đã xác định nhà số 60 và số 60A Lê Hồng Phong chỉ là một. Căn nhà này thuộc quyền sử dụng của ông Tuân, vợ con ông Nữ đã ủy quyền cho ông Tuân được quyền định đoạt. Ông Tuân được quyền bán căn nhà cho người khác. Việc sửa 60 thành 60A trong hợp đồng công chứng là do sơ suất, không có gì gian dối.

Tòa đã tuyên ông Tuân vô tội và yêu cầu TAND tỉnh BR-VT tổ chức xin lỗi công khai và bồi thường oan sai. Hành vi của ông Hải cũng không cấu thành tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” nhưng việc khởi tố, điều tra đối với ông Hải đã bị đình chỉ từ trước đó do ông Hải đã chết.


Bà Vui cho biết, ông Hải là một bí thư chi bộ của cơ quan, là con người mẫn cán với công việc. Ngay sau khi vụ việc xảy ra, vợ chồng ông đã tìm hiểu lại vụ việc và thấy mình không làm sai.

“Chồng tôi tin tưởng cơ quan pháp luật sẽ không khởi tố vì việc rõ như ban ngày. Việc công chứng của anh ấy là đúng quy định của pháp luật. Thế nhưng niềm tin ấy bị giập tắt khi cơ quan Công an vẫn ra quyết định khởi tố đầy phi lý. Hai vợ chồng tôi sốc nặng! Anh ấy suy sụp, trầm cảm rồi sinh bệnh”, bà Vui kể lại.

Đến tự tử vì không chịu được nỗi oan

Tai họa liên tục xảy đến với gia đình bà Vui, sau thời gian lo nghĩ ông Hải bị tâm thần. Bà Vui đang là giảng viên của Trường Chính trị tỉnh BR-VT đành phải xin nghỉ việc đưa chồng đi chữa bệnh và đi khắp nơi gõ cửa kêu oan cho chồng. Nỗi oan chưa được làm rõ thì tháng 8-2004 ông Hải đã thắt cổ tự tử tại nhà.

“Lúc bệnh hay lúc tỉnh ông ấy cũng kêu la vì bị oan. Đêm hôm trước khi chồng tôi tự vẫn, ông ấy vẫn còn lảm nhảm nói: sao lại khởi tố oan? Tôi khuyên ông ấy giữ gìn sức khỏe để cùng đi kêu oan nhưng ông ấy vẫn tìm đến cái chết để giải thoát”, bà Vui nghèn nghẹn...

Bà Vui đã đề nghị các cơ quan tố tụng tổ chức buổi xin lỗi công khai này tại TP Thái Bình, nơi ông Hải đã sinh ra. Bà Vui nói: “Những oan trái mà các cơ quan tố tụng gây ra đã làm cho chồng tôi phải tìm đến cái chết. Hôm nay tối muốn buổi xin lỗi công khai được tổ chức tại quê nhà như một ước nguyện để anh ấy được sinh ra một lần nữa..."

THÂN HOÀNG

Đất thơm lời tình ca



HỒ ĐẮC THIẾU ANH

*Ghi nhớ ngày tiễn đưa Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 01-04-2001

Một góc nhìn mộ Trịnh Công Sơn - Ảnh: internet


Đi giữa Sài Gòn
Lửa nắng làm nến thắp trên đỉnh buồn tự nguyện
Tìm những nụ hoa lài chưa kịp nở
Kết vòng chuỗi quà tặng
đưa Người về chốn xưa

Mỗi mũi kim xâu
xuyên qua tim từng nốt nhạc trắng
Khúc du ca đời người tỏa ngát hư không

Vòng chuỗi bình yên
Đặt lên áo quan
thay lời kinh nơi cõi tục
Mười phương Người về không còn dấu vết thương đau

Vòng chuỗi quê hương
Tạ ơn cỏ, tạ ơn hoa, tạ ơn Người
Vây tình thương hai mùa mưa nắng
Cho Huế đa tình sương tím chiều giăng

Vòng chuỗi tình yêu
Ngát hương từ bi tràng hạt bồ đề
Phủi sạch bụi trở trăn trên vai áo
Cho tiếng vọng tình sầu, tình xa, tình vơi
Lấp đầy vực thẳm vô đơn

Giây phút viễn hành
Tâm linh tỏ ngộ
Vịn vào áo quan
Là bắt tay tạm biệt Người xa
Rừng người bật lên tiếng hát
Lời kinh giữa buổi sớm mai
Đất trời chập lại
Vọng âm từ chốn vô cùng
Mỗi bàn tay
Một nắm hoa lài trắng ngần lòng đất

Đất thơm lời tình ca
Ngàn chuỗi âm thanh dắt dìu tình yêu thăng hoa
Hào quang tỏa sáng ôm ấp từng trái tim thân thiết
Âm hưởng diệu huyền ngộ nhập
Vòng khói trắng vỗ về nỗi đời chông chênh

Mở lòng bình minh
Xin làm người ở lại cõi chờ
Gởi hương hoa vào đất
Theo Người làm vật tín
Thay lời ước hẹn
Buổi hội ngộ cõi thiên thu.

Đam mê là chịu đựng



Chắc chắc bạn đã nghe đến thối tai về “đam mê” và hàng tá thứ xoay vòng vòng xung quanh nó: “Phải có đam mê và sống với đam mê” “Phải biết đam mê và chỉ có đam mê mới có thể dẫn đến thành công” “IQ chẳng là cái đinh gì, mà PQ (Passion Quotient) mới đáng giá”… Những khẩu hiệu muôn thuở. Có bạn còn làm luôn bài thơ ngắn như thế này:


“Cuộc đời ai cũng có quê
Có cha có mẹ có niềm đam mê
Dù công việc khó không chê
Bởi vì mình thích say mê trong lòng
Công việc không thích chẳng hòng
Không làm việc đó khi lòng không mê
Đã làm thì phải cho “phê”
Thì là gọi đó “đam mê”…chứ gì?”

Không biết các bạn nghĩ thế nào, chứ với tôi thì đam mê – passion có vẻ hứa hẹn thứ gì đó dễ chịu, êm ái và ngây ngất, tuyệt vời vô cùng. Chẳng thế mà rất nhiều người muốn “xách ba lô lên và đi” tìm niềm đam mê của mình, mong thoát khỏi sự nhàm chán của cuộc sống, công việc hiện tại.
Nhưng… Passion - Đam mê còn một lớp nghĩa ẩn chứa khác mà đa số chẳng hề biết

Từ “passion” xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỉ XII, nó có nghĩa ban đầu là suffer (chịu đựng) trong ý nghĩa thuần khiết nhất. Không đơn thuần là chịu đựng – nó phải là sự chịu đựng tự nguyện và trong sáng. Từ này xuất phát từ việc Jesus tự nguyện nhận khổ hình trên thập tự giá.

Xung quanh bạn hẳn có ai đó mà bạn biết rằng, người đó đang sống với đam mê của chính mình. Quan sát họ kỹ hơn xem, bạn sẽ thấy với “đam mê” của mình họ chịu đựng những thứ ta không chịu được – và họ vượt qua nó.

Tôi chắc chắn không thể xoạc chân, kiễng chân từ sáng tới tối như các bạn tập ba lê – ĐAU lắm! Không thể ngồi lỳ từ sáng tới tối trước máy tính hoặc trước tấm voan để sáng tác, vẽ vời như các bạn artist, concept game – CHÁN lắm! Không thử đi thử lại sau mỗi lần startup, mở cửa hàng , làm dự án thất bại như các bạn kinh doanh – NẢN lắm! Không đủ kiên nhẫn tập thể hình cải thiện cái body còm cõi của mình, rồi guitar, thổi sáo, viết truyện,… Vẫn nghĩ rằng: “Mình chưa đủ đam mê chăng?” Tôi chạy khắp nơi mong tìm cho ra đam mê của mình – cái gì mà mình thấy THÍCH cơ.

Dù trong bất cứ công việc nào , sẽ đến một lúc mà người ta cảm thấy chán nản lắm, vô vọng lắm, muốn bỏ cuộc lắm, không thể chịu đựng hoặc tiếp tục nữa! PASSION!

Những người có passion sẵn sàng chấp nhận chịu đựng những khoảng thời gian đó – và họ vượt qua những cột mốc thử thách đó. Và, đó chính là sự khác nhau giữa amateur và master; sự chênh lệch giữa trung bình và xuất sắc trong bất cứ lĩnh vực nào.
Đó – Không đơn giản chỉ là sở thích, sự vui thú. Đam mê là chịu đựng, là gian khổ, là không hề dễ dàng

Đam mê như một lời thề nguyện, cam kết gắn bó và cống hiến hết lòng sự sống của bạn cho thứ bạn đã chọn trong mọi hoàn cảnh,vui hay buồn, tốt hay xấu, giàu hay nghèo, khỏe mạnh hay đau yếu, nghe như lời thề trong lễ đính hôn nhỉ? Nó chính – xác – là – thế.

Sau khi biết tất cả những điều đó mà bạn vẫn chọn nó, chân thành chúc mừng bạn. Và, nhớ messenger cho tôi nhé, tôi ao ước muốn được nhìn thấy, sờ tận tay những người như bạn đấy.


Leo Ngu

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

Hoa dại




Photo: TKFFH



Em có biết tình-yêu-thực-sự trên đời cũng như một loài hoa ?!
Chỉ nở trong lặng im không sắc màu sặc sỡ
Dưới lối em đi dẫu thấp hèn hoa vẫn nở
Cho đến những vực sâu hay núi cao với muôn trùng trắc trở
Hoa vẫn vươn lên chấp hết mọi bão giông của cuộc đời đáng sợ
Dù chưa từng một lần
Loài hoa ấy được gọi tên...

Này em có thấy những đóa tinh khôi bên thềm
Đang ấp ôm những giọt long lanh ban sớm
Phải đi qua hết đêm tối cô đơn như mùa đông vừa chớm
Đau thương mới tan ra thành những giọt sương trong suốt
Mang trong mình hạnh phúc lấp lánh được chắt lọc từ những gì giá buốt
Để nuôi sống đời hoa !

Tại sao ư ?
Ừ thì có lẽ là…
Thượng Đế thích đặt tình-yêu vào những gì mọn hèn nhất
Nên chỉ những con người mang trái tim chân thật
Không tìm kiếm hào quang – những bộn bề tất bật
Không tìm kiếm sắc hương – chói lòa hơn nguyệt nhật
Mới nhìn thấy tình-yêu !
Mới tìm thấy tình-yêu !

Bởi tình-yêu-thực-sự đơn giản hơn rất nhiều
Thứ tình yêu tầm thường – được bọc trong nhung lụa
Thứ tình yêu si mê – khiến bản thân mình tàn úa
Thứ tình yêu vị kỷ – đóng vai hề với những lời hứa
Những tình yêu ngỡ là giống tình-yêu

Và loài hoa ấy cũng chẳng cần gì nhiều
Chằng cần sự nâng niu, yêu chiều hoa vẫn nở
Chỉ cần được cho đi hương sắc của mình như một lời bày tỏ
Một tình-yêu vẹn nguyên cho cuộc đời thêm rạng rỡ
Chẳng cần một cái tên, chẳng cần ai nhớ ai quên dẫu muôn đời hoa vẫn nở
Cũng giống như tình-yêu !
Cũng đẹp như tình-yêu !

Nhắm mắt lại đi em và hãy ước một điều
Rồi mở mắt ra xem liệu đã thành thực tại…
Thấy không em đây là loài hoa tượng trưng cho những gì mãi mãi…

Ngày ấy anh tặng em nhành hoa dại
Em nhoẻn miệng cười : “Anh cũng dại như hoa !”
Em nhoẻn miệng cười – anh ngây dại như hoa…



–The Kid Falling From Heaven–