Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Nhật kí phải sống


Dương Bình Nguyên

- Ngày...
Mùng sáu Tết, cả bọn rủ nhau đi Yên Tử, nghe nói năm nay có cáp treo, đỡ phải leo mấy ngàn thước dựng để tìm đỉnh Phù Vân. Tháng giêng vừa ăn vừa chơi cho phởn phơ, làm cả năm rồi, không việc gì phải vội. Phan đến toà soạn, hỏi anh có đi được không. Mình cười, cũng lâu lắm rồi quên hết đình đám hội hè, thấy không còn nhiều hứng thú nữa. Phan bảo, anh lúc nào cũng chùng chình thế, em sẽ đi một mình. Mình không thích tranh cãi, nếu Phan thích thì mình đi cũng được. Mọi người bảo rằng, thằng Nguyễn mai mốt sợ vợ. Con bé mới nói vài câu đã răm rắp làm theo. Cơ mà như thế cả nhà lại dễ êm ấm hơn. Trong tiếng trêu ghẹo, xì xào của đám đồng nghiệp, tiếng điện thoại trong túi bỗng gào lên. Là sếp. Sếp bảo, cậu đặt vé nhanh lên, mai bay nhé. Đi đâu hả chú? Đi Tây Nguyên. Có vẻ cậu rất thông tỏ vùng đó mà. Mình ngồi hờ hững trong phòng máy, không vui, chẳng buồn, không còn sửng sốt quá nhiều trước mỗi chuyến đi xa. Đi thì đi! Điều mà nhiều vị tổng biên tập ưng nhất ở các nam phóng viên chính là cái chuyện đi thì đi. Không cấn cái, không cầu kỳ dích dắc chuẩn bị rồi lo toan vặt vãnh và đương nhiên là không có nước mắt ngắn nước mắt dài. Chỉ cần một cái túi xách gọn nhẹ chạy ngay ra bến xe ga tàu, thế là đã có thể đến bất cứ chốn nào. Đi nhanh, tay khua bàn phím cũng nhanh rồi quẳng vào mạng cho nó chạy về Hà Nội. Hình như đã thành quen thì phải, tháng nào cũng chia thành hai nửa, một nửa đi và một nửa về. Tháng nào cũng lên ban trị sự lấy giấy đi công tác, đi rồi về đóng dấu đỏ kín cả hai mặt, chữ ký đè xéo lên nhau. Bà tài vụ bảo, nội cái chuyện làm thanh toán công tác phí cho cậu cũng đã thấy mệt. Em thư viện bảo, anh cầm trong tay cả cục tiền to tướng, sướng nhé. Có vẻ như nếu khao nhau một bữa thì tình thương mến sẽ dày hơn. Không có gì đáng khao nhưng đi ăn thì được. Thế là đi ăn kem, đi uống Hà Nội trà. Mình nhìn Phan bảo, thôi em ạ. Yên Tử sang năm đi cũng được, năm nào mà chẳng phù vân. Phan bảo, nhưng như thế thì lúc nào em cũng phải đợi à? Phan về, áo Phan màu lá vàng, tóc Phan màu bạch kim, ép thẳng. Mình lắp pin vào đèn flash. Đèn nổ tốt, sáng loá cả căn phòng lạnh. Cuộc sống vốn vậy. Đi thì đi!

- Ngày...
Tây Nguyên. Tấm vai cường tráng của thân hình chữ S đang vẫn còn tấp nập hội mùa, dù hoa cúc quỳ đã lụi tàn từ lâu lắm. Mình lại lang thang vào cái làng cũ, cái làng của Mơng. Mơng đã bắt chồng từ hồi cuối năm rồi. Già làng ôm chầm lấy mình. Tưởng mi vui thành phố mà quên núi nước này rồi. Còn nhớ à, còn nhớ thì vô đây, làm một cang rượu cho ngọt bụng. Nào, làm cang nữa cho nỗi nhớ tràn ra. Uống đi, cang này mừng làng được mùa. Còn cang này, con Mơng đâu, vô đây, uống với anh Nguyễn đi chớ. Mơng nó chờ mi mãi. Ờ, nhưng mà tình yêu... Chẳng trách được, tình yêu chẳng thể trách được. Mơng vẫn đẹp, da màu đồng hun và mái tóc đổ dài. Mắt Mơng đã ngấm mệt mỏi và buồn phiền rồi. Mơng địu một đứa con gái, da nó cũng vậy, da nâu từ khi mới lọt lòng. Mình bảo, Mơng đi lấy chồng mà Mơng không nói cho mình. Mơng bảo, lâu quá rồi, chẳng muốn gọi nhau nữa, gọi nhau thì chỉ muốn khóc. Chồng Mơng không muốn Mơng khóc, nên thôi. Mình hỏi, Mơng sống có vui không? Mơng cười, quấn một bản thuốc thật lớn như con sâu kèn bự. Mơng hút thuốc từ khi lấy chồng. Hút cho cái mệt cái chán chạy theo hơi khói mà ra. Chẳng có gì, lấy chồng, sinh con, mọi thứ chồng lẫn vào nhau, niềm vui vừa đến lại qua đi, nỗi buồn chạy đi rồi chạy về. Bao tháng bao ngày rồi, đã quen rồi. Nó là một phần hay tất cả đời sống? Một cuộc sống như Mơng, phỏng đem lại được những niềm vui gì? Mình bung lung trong những ý nghĩ về Mơng. Mơng bảo, không nên nhớ đến ngày xưa nhiều, nhớ đến ngày xưa là nước mặt lại nhớ gò má. Hôm nay là ngày vui của cả làng mà. Vui hết đêm. Mai anh Nguyễn về nhà Mơng chơi. Chồng Mơng là Blum. Anh ấy làm ở trạm y tế. Hiền lắm, chẳng biết buồn bao giờ đâu. Nhà vẫn còn một con gà, mai sẽ bắt thịt, hai người nhậu chơi. Mình cười. Mơng hoạt bát trở lại. Nao nao một cái gì đó trong lòng, hương rượu cần vít chặt mọi cảm giác. Hội tràn ngày qua đêm, sáng ra mọi người lấm lem nằm ngủ trên nền đất, kề bên là đống than đang lụi dần và mùi thịt trâu nướng cháy khen khét. Mình đã thiếp đi lúc nào không biết, những giấc mơ cũ lại xâm chiếm, choán lấy toàn bộ tâm trí. Nỗi khổ của mình là luôn bắt đầu óc phải nghĩ ngợi vượt sức. Cũng như vậy, lúc này có cái gì giật mạnh hai bên thái dương. Có thể vì rượu. Rượu xứ này ngọt đậm. Ngọt mà say bền. Như Mơng. Mơng là ai mà bắt mình phải nghĩ, phải nhớ từ năm này qua tháng khác, nỗi nhớ bền dai mà sắc lịm trong người. Hừ, mình đã tự nhủ chẳng nên đau khổ vì một tình yêu đã trót qua đi...

- Ngày...
Những ngày về lại làng như một chuyến hành hương đầy kỷ niệm, hạnh phúc chan lẫn tiếc nuối bời bời. Bụi vẫn đỏ mà nắng cứ trải thẫm sắc vàng đến chói loà. Những ngôi làng trong ký ức mình lần hồi trở lại, nguyên vẹn và im lìm trong mỗi ban mai. Mình vẫn hằng nhủ, sống một cuộc sống đơn giản dưới mái nhà sàn kia cũng là một hạnh phúc khá lớn, cơn cớ gì lại buồn. Mình hay là Mơng bây giờ đang hạnh phúc? Chẳng biết. Buổi sáng đến nhà Mơng, nghe tiếng cãi vã vọng ra mà mình muốn bỏ về. Hình như có một sự hiểu lầm nào đó. Mơng chạy ra cầu thang ngồi khóc, điếu thuốc trên môi trễ tràng như một dấu than câm lặng. Mình bảo, hai người cãi vã nhau vì anh đã trở lại, đúng không? Mơng gạt nước mắt, chỉ là chuyện linh tinh, chẳng có gì. Nhưng mà anh ấy nổi xung nhanh lắm, chẳng cần chuyện gì lớn đâu. Mình nghĩ đến một cuộc sống không mấy thành công, nghĩ đến những hục hặc, va chạm trong quan hệ của hai người được ràng buộc bằng một hợp đồng hôn thú. Như vậy thì gọi là cuộc sống lứa đôi? Hừ, hạnh phúc. Hạnh phúc vốn như một cái bao diêm mà, làm sao có thể làm ấm được cả loài người.

- Ngày...
Hoàn thành chuyến đi một cách êm xuôi. Những bài báo về Tây Nguyên được truyền về toà soạn nhanh chóng và an toàn. Mơng đưa mình ra tận sân bay trong khi ở ngoài Hà Nội tiếng Phan đang xa xả trong điện thoại. Mơng nhìn vẻ mặt khó chịu của mình, chị ấy yêu anh quá đấy mà. Anh mang cái bầu này về, nói em tặng chị ấy. Thực ra, chị ấy mới là người hạnh phúc chứ không phải Mơng đâu. Mơng hạnh phúc hay không hạnh phúc? Câu hỏi ấy theo mình suốt dọc đường về. Mơng nhìn mình qua cửa kiểm soát an ninh lên phòng chờ, ánh mắt Mơng như chẳng nhìn vào đâu. Chống chếnh. Và đầy mất mát.

Thêm một lần nữa mình nói lời tạm biệt mảnh đất này. Hùng vĩ lắm, đáng yêu lắm nhưng chào bạn, tôi phải về. Hà Nội vẫn còn nhiều thứ níu kéo tôi, ghì chặt tôi trong những cua làm việc điên loạn đến khi mặt mũi tối tăm. Nhìn qua cửa kính máy bay, thấy Pleiku hệt một tấm áo sải rộng với hoạ tiết đậm màu và những con đường như những nẹp viền lố nhố những đàn kiến chạy. Cô tiếp viên trong chiếc áo dài màu hồng có khuôn mặt giống Phan kỳ lạ, đến nỗi khi cô xuất hiện cùng chiếc áo phao cứu sinh và những chỉ dẫn cần thiết khi có sự cố, mình bỗng giật thót. Một liên tưởng vụt đến, ngỡ như Phan mang chiếc áo đen đúa chụp thẳng lên đầu mình. Cô tiếp viên nhìn vẻ hốt hoảng của mình liền tiến lại gần, anh có làm sao không? Mình cố điềm tĩnh, cười, không, có gì đâu. Mình nghĩ đến phút gặp lại Phan, không biết khuôn mặt Phan sẽ như thế nào, xinh đẹp lạnh lùng hay trở nên bất thường dữ tợn. Phan là vậy, biến hoá như mấy cô diễn viên trong phim truyền hình. Không khó phát hiện ra sự biến hoá ấy nhưng để thay đổi thì không mấy dễ dàng.

- Ngày...
Nội Bài. Vẫn đang là tháng giêng xuân. Phan ra đón, mái tóc vẫn màu bạch kim và áo vẫn là màu lá vàng. Phan lao đến, em nhớ anh lắm, làm mấy ông Tây bà đầm bên cạnh bất giác mỉm cười. Mình bảo, về nhà đi, anh rất thèm một bồn nước nóng. Phan chun mũi, chắc nửa tháng rồi anh chưa thèm tráng qua hàng nước chứ gì. Ui, anh là chúa ở bẩn. Lần này thì không cho anh đi đâu nữa. À... anh này..., em có bầu rồi nhưng em không giữ nó lại đâu. Không thể bỏ quên tuổi trẻ bằng việc sinh ra một đứa trẻ. Rất phí phạm. Anh buồn gì nào. Đời còn dài cơ mà. Phan là vậy, giận dỗi nhanh và quên nhanh như rất nhiều cô gái kiêu kỳ khác. Phan làm việc theo ý mình và... hoàn toàn cảm tính. Nhưng nó là con anh, em giữ lại cho anh. Báu vật của đời đấy. Phan nhìn mình, cười, em đã "giải quyết" từ tuần trước rồi. Phan nói thản nhiên và nhẹ nhàng như chuyện người ta cắt tóc gội đầu sơn sửa móng tay vậy. Mình đứng lặng. Hôm đó Hà Nội sao mà lạnh, gió mùa đông bắc lùa qua cánh tay xộc vào khoang bụng. Buốt xót.

- Ngày...
Sếp bảo, cậu nghỉ ngơi đi, lấy sức mà chuẩn bị... chiến đấu tiếp. Mình ngồi lại trong phòng, ánh đèn flash của mấy cậu sinh viên thực tập loé lên lành lạnh. Em chụp tặng anh một kiểu ảnh, đảm bảo đó là khoảnh khắc đáng nhớ nhất cho mà xem. Cậu sinh viên hỉ hả. Rồi vẻ như thấy sự thái quá của mình, cậu ta quay lại, em xin lỗi nhưng đó thực sự là khoảnh khắc khuôn mặt anh buồn bã nhất. Buồn? Có lẽ thế thật. Đi đã gần nửa cuộc đời rồi nhưng vẫn thấy mình như ký gửi trên mặt đất. Chưa là ai cả, chưa có nổi một người thông tỏ được mình. Nếu có thì là Mơng, nhưng Mơng ở xa quá, Mơng lại thuộc về một cuộc sống khác rồi. Như thế nếu là bạn, dù bạn là bất cứ ai, bạn có thể gọi là nỗi buồn không?

Mình bỏ đi lang thang trên đường. Thành phố này rất rộng và rất dài. Nhưng mình không thể đến và không thể về bất cứ số nhà nào. Mình không có nhà. Hôm qua, bà chủ nhà đã bắt mình dọn đi. Anh bạn học cũng ở nhà thuê nhưng vừa mới rước thêm một cô nàng xinh đẹp đến thổi cơm chung, giặt quần áo hộ. Mình ném đống đồ vào góc nhà nó rồi bảo, máy cứ để đấy, mấy hôm nữa không thấy tao quay lại thì gọi bà đồng nát mà thanh lý, có khi cũng được một tháng xôi sáng chứ không xoàng đâu. Rồi mình đi, tối mình nằm tạm trên bàn cơ quan, ngày lầm lũi từ góc này sang góc khác. Bây giờ thì vô gia cư thật rồi. Có cảm giác cát đập tràn vào mặt. Rát, cát thị thành thường bỏng rát. Mình dừng lại, lau mắt kính. Một bên kính đã bị rạn. Trong ấy những ngôi nhà như đang vụn dần ra.

"Tít tít...!" là Phan. Phan dóng dả hỏi, anh đang ở đâu, anh về nhà với em đi, em đang ở một mình, bố mẹ đi Yên Tử rồi, nhà rộng hoác như cái bảo tàng ấy. Mình bảo, em lớn rồi. Phan gào lên, đã nghe thấy giọng điệu của nước mắt, anh không đến là em tự tử đấy. Anh không thể bỏ rơi em dễ dàng như thế đâu. Mình tắt máy, đi tiếp. Ngoại thành. Buổi tối ngoại thành ít nhiều vẫn còn thanh sạch dù trời có rét đậm hơn. Mình nghĩ đến cái tháp thùng thình của Phan, kể cũng đáng sợ thật. Tự con người nghĩ ra những cái nhà quá kín cổng cao tường, quá tiện nghi vương giả để rồi giam nhau trong đó. Nó không hiện hữu trong thế giới của mình. Mình chống xe và ngồi trong cái điếm canh đê đã cũ nát lắm rồi. Ngồi mà không để làm gì. Phan, mình và Mơng, ai sung sướng và hạnh phúc?

Mình tỉnh dậy. Khi ấy sương vẫn còn bay quẩn quanh điếm canh. Mình nhìn quanh, cái bầu của Mơng đã bị lũ trẻ trâu lấy mất, chúng đang tranh nhau tít phía bờ sông. Thôi, gửi bầu về phía dòng nước, cho bầu mãi sạch mãi thơm. Tiếng điện thoại lại rền rĩ. Lại Phan. Em quyết định rồi, từ hôm nay em sẽ bỏ anh. Anh sẽ phải ân hận đấy. Kề theo tiếng Phan là giọng một người đàn ông quen thuộc. Tiếc làm gì cái thằng nhà quê ngộ chữ ấy hả con. Không dưng mình bỗng cười sặc sụa, cái cười không cưỡng lại được, cười đến mặt đỏ trong gương xe và từ hố mắt tràn ra những hạt bụi. Người ta bảo đấy là giọt nước trời, nó mặn đắng hơn cả muối và chát hơn mọi thứ cộng lại. Hừ, nước trời rớt tràn qua mặt, rớt xuống đất. Đất cằn khô xoá đi hết dấu vết. Tiếng cười mình khô khốc. Đường về thành phố sao mà dài.

- Ngày...
Mình vẫn đi làm, nhận thêm một số công việc biên tập cho một công ty văn hoá. Những cuốn sách in làm sáng, những tập thơ của những ông chủ nhiều tiền... Thế rồi quen đi. Nhà mới mình thuê được là một căn xép ở giữa xóm liều. Đêm về lại cặm cụi gõ máy vi tính, những bài báo dẫn dụ mình đi vào đủ mọi chuyện của đời người. Cuối cùng, mình tạo thêm thư mục mới: Nhật ký. Đó là những trang buồn bã. Nhưng mỗi khi sang trang mới mình đều nắn nót tạo phông VnPresent hai chữ thật riết róng nhưng cũng thật bình thường: Phải sống. Sống cho đủ một cuộc đời, cho dù còn cô đơn dài dài, còn thiếu thốn và còn nhiều khốn khó. Những dòng chứ ấy đủ tạo dựng niềm tin để dỗ mình vào giấc ngủ, nó gợi cho mình một câu nói, phải, suy cho cùng mai lại là một ngày mới, khác với ngày hôm nay. Trong điện thoại thi thoảng lại có tin nhắn, anh mới nhận được cục tiền lớn phải không, mời em đi Hà Nội trà cho tnfh thương mến thương đi. Đi thì đi, đi ăn kem đủ mùi, đi uống Hà Nội trà và được nghe em hỏi, anh sắp lấy vợ chưa. Mình cười, tháng mười? - nghe thật oách. Tháng mười? Bao giờ cho đến tháng mười! Ừ, bao giờ nhỉ, nhưng mà hết ngày hết tháng thì cũng phải đến thôi...

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

ta vỡ

Đài Sử


ta vỡ. những tế bào. phân hủy
té vào nhau. để giằng xé. từng ngày
nốt nhạc lửng. điệu đen. xanh. lạ
vụn những mảnh chiều. khâu vá hoàng hôn

ta vỡ. cơn điên ù té. chạy
lá điểm trang. màu dỗi. thời gian
xốc xệch tiếng. cười âm ba. mộ
gốc nhang không đều. bãi tha ma

gió. vỡ tiếng. người căng lồng ngực
ấp ủ. mềm giọt hôn tinh khôi

ta vỡ. linh hồn nghìn năm trước
trộn. những u sầu. núi đắp cao
cánh chim mõi. đáy lũng mù. huyệt lạnh
chơi vơi. ngôi sao nhỏ. hướng về. đông

ta vỡ. tìm ngôi nhà. trú tạm
đặc bóng người. câm nín. ù tai
dấu chân. đi. dấu chân. trở lại
cỗi cằn . mốc thếch. chỗ tạm. dung

ta vỡ. luật vỡ*. thưở hôm nào
tinh tú vỡ. vũ trụ. từ những vỡ
mới. tinh khôi. và cũ. tự bao giờ
thời gian niú. hư vô không. đáy

ta vỡ. vỡ ta(n). ta vỡ. ta(n)


* big bang theory





Chữ




Võ Đình


Ngày xuân, chúng ta thường nói chuyện hoa mai, hoa -dào. Hoa -dào lại thường gợi nhớ đến một người: Ông đồ của thi sĩ Vũ Đình Liên. "Bao nhiêu người thuê viết" tấm tắc ngợi khen chữ ông đồ đẹp như "phượng múa rồng bay".

Xin nói ngay: Chữ đây không phải là thứ chữ ông đồ viết. Chỉ có những a, b, c,... dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã mà thôi. Thứ chữ các cụ ngày xưa chê là ngoằn ngoèo như con trùn (thưa bạn đọc Bắc Nam: con giun, con trùng đấy ạ). Cũng xin nói rõ: Chữ đây là chữ viết, không phải "chữ nghĩa". Không có chuyện văn chương ở đây.

Chưa đầy sáu mươi năm về trước cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân ra đời. Thuở đó nhà văn Việt Nam chỉ sử dụng toàn thứ chữ "con trùn" này. Viết thì viết thứ chữ "con trùn" đó nhưng trong "Chữ Người Tử Tù" ông Nguyễn lại có cái giọng bi tráng tiếc thương nét chữ đẹp đã mai một. Nguyễn Tuân không nói ra nhưng người đọc thừa biết cái chữ đẹp đó không phải là chữ quốc ngữ như ta biết ngày nay mà là chữ Hán, chữ Nôm với những nét sổ, nét mác, nét câu, nét nại, v.v. Chẳng những người tử tù Huấn Cao cho chữ, ông còn có lời dặn dò viên quan coi ngục: "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn, rõ ràng như thế. Thoi mực, kiếm được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?"

Đọc mê lắm. Tuy nhiên, cái mê thời nhỏ tuổi khác với cái mê lúc về già. Đọc lại Nguyễn Tuân, tôi hụt hẫng: Làm sao ở bực thầy về một cách viết văn, sự hiểu biết về cái đẹp của chữ Hán lại có thể lơ mơ như thế! Nét chữ "vuông vắn, rõ ràng" thì đẹp nỗi gì mà viên ngục quan phải cung phụng "người tử tù" đến mức ấy? "Vuông vắn, rõ ràng" đâu có làm nên thư pháp đẹp. Rồi lại thoi mực và chậu mực. Phải mấy thoi mới mài cho đầy một "chậu"?

Nhưng thôi, Nguyễn Tuân là Nguyễn Tuân, nhăn nhó với ông về ba cái lẻ tẻ này mà làm chi! Thời các ông Nguyễn Tuân, Huấn Cao đã qua rồi. Thời chúng ta, bây giờ đây này, thời những "con trùn" đã thực thụ trở thành con chữ, duy nhất, độc tôn, thứ chữ chúng ta dùng để làm thơ cũng như để thảo văn kiện, để viết thư tình cũng như để gắn "mét xa" lên tủ lạnh, thời nay chúng ta có ông Võ Phiến. Người tạo nên những nhân vật Bốn Thôi, Bốn Tản, Ba Thê Đồng Thời sanh ra thì chữ quốc ngữ đã bám rễ thật sâu, thật chắc rồi. Cho nên ông gần gũi với chữ "con trùn" hết sức. Ông viết về người nọ ngồi một mình xem sách: "Ở góc bên trái phía dưới trang sách, một chữ O nhoẻn cười, vui ra phết. [...] Cái chữ O này láu lỉnh lắm nhá". Thấy được một chữ O cười, đã là tinh. Thấy được "Giữa trang, một chữ N ngúc nga, ngúc ngắc[...]", đấy mới tài tình, chẳng phải ai cũng thấy được.

Trước ông Võ Phiến, trước cả ông Nguyễn Tuân, ở cái xứ từng đem quân qua xâm lược nước ta, cái xứ cũng dùng thứ chữ "con trùn" nói trên, có ông Arthur Rimbaud ["Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/ Hai chàng thi sĩ choáng hơi men"... – Xuân Diệu] lại thấy cả màu sắc nơi các con chữ nữa kia:"A noir, E blanc, I rouge"... (A đen, E trắng, I đỏ...).

Các nhà văn, nhà thơ, họ mẫn cảm lắm. Ông Nguyễn Tuân tiếc thương thứ chữ sổ dọc đá ngang của tiền nhân. Ông Võ Phiến thấy những con chữ đứa thì "cười" đứa thì "ngúc nga ngúc ngắc". Ông Rimbaud bên trời Tây xa xôi lại thấy những nguyên âm (bài thơ có tên là Voyelles)...có màu có sắc! Cả ba ông, ông Tây của thế kỷ 19, hai ông Việt của thế kỷ 20, cả ba ông đều cầm bút sắt viết chữ "con trùn" cả, thứ chữ các cụ ta ngày xưa vừa ghét vừa khinh (và, có lẽ, vừa sợ).

Tôi không chia sẻ cái nhìn đầy thành kiến của các cụ.

Tôi lớn lên, chữ Hán, chữ Nôm đã mất hết địa vị ở nước ta từ lâu. Thuở nhỏ, tôi cũng có được học mót dăm ba chữ của "thánh hiền". Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám, thuộc như cháo đôi ba đoạn. Rồi đến tuổi mươi, mười lăm, tuổi ngấp nghé dòm ngó các nàng "văn học nghệ thuật", thú thật cũng đã có lúc trang trọng... ngoái ngược kiểu "vang bóng", ra cái điều cốt cách: nghí ngoáy viết chữ quốc ngữ theo lối viết chữ Hán, có đá, có móc, đủ ngón. Không viết ngang, từ trái sang phải mà viết dọc từ trên xuống dưới. Cổ kính lắm! Những năm chưa được một ông bạn người Hoa khắc cho cái triện son, cũng có khi ký tên xong còn lẩn thẩn vẽ thêm cái hình vuông vuông rồi ngọ ngoạy chêm vào dăm ba đường nét kỳ khu: Khi thì cái tên, khi thì cái năm. Ông Huấn Cao mà thấy được cái lối đóng triện son này e rằng ông cũng phải khóc thét lên!

Sao lại có chuyện rắc rối như vậy?

Chung qui chỉ vì cái nọc độc hại của một mớ thành kiến: Cái ghét, cái khinh của các cụ đối với chữ "con trùn" đã ăn sâu vào mình hồi nào không hay. Chữ "con trùn" là chữ của quân xâm lược, của ngoại nhân, của những giống "bạch quỉ". Chữ "con trùn" không được viết bằng bút lông mực Tàu cho nên những tiêu chuẩn truyền thống vốn để đánh giá cái nét đẹp, cái nét xấu, chỉ còn là một lũ ngơ ngáo không dùng vào đâu được. Chữ "con trùn" mà dùng để ghi chép lời hay ý đẹp của "thánh hiền", của "tao nhân mặc khách" à? Không được, không được! Vang Bóng Một Thời ra đời năm 1943: Tôi lên 10. Đâu ngờ hàng trăm năm sau ngày chữ "con trùn" xâm nhập vào đất nước của ông cha ta mà cái nọc độc của thành kiến vẫn còn sức công phá như thế.

*

Ông đồ già của thi sĩ Vũ Đình Liên, người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân, họ phải chịu phần nào trách nhiệm về cái sức công phá ấy. Trong mấy chục năm, thanh thiếu niên Việt nam gồng mình cõng trên lưng khi thì ông đồ này khi thì người tù kia. Ông Vũ và ông Nguyễn không thể nào ngờ được rằng một ngày, đâu có xa xôi gì, thứ chữ "con trùn" ấy, khi đã hoàn toàn trở nên "quốc ngữ", tuyệt đối được chấp nhận và phổ biến, lại có nguy cơ bị hủy diệt. Xin thêm hai cái dấu kép: "hủy diệt". Bởi chăng cái tiếng (Việt) thì vẫn còn, cái lời (văn) thì vẫn sống nhưng cái chữ (viết) lại đang trên đà tiêu tùng.

Cuối thế kỷ 20, sáu thập niên sau "Chữ Người Tử Tù", kẻ phá hoại không phải là thái độ bảo thủ của các cụ ngày trước mà là khoa học kỹ thuật Tây phương. Cũng chính một phương Tây ấy, khi thì đem qua cho ta chữ "con trùn", khi thì, với áp lực hay cưỡng bách kinh tế, "vô tình" loại bỏ cái chữ viết của ta nay đã đến giai đoạn thay thế được những nét bút lông mê hoặc thuở nào.

A! đồ "bạch quỉ"! Đầu têu là cái máy đánh chữ (machine à écrire; typewriter).

Thuở nhỏ, tôi coi cái máy đánh chữ là một phát minh tuyệt vời. Được người lớn cho phép gõ lóc cóc vài chữ, sướng vô kể. Trong mấy thập niên nó được sử dụng để những gì viết (tay) ra nom gọn gàng, tươm tất, dễ đọc hơn, chính xác và "chính thức" hơn. Cho đến mươi năm trước đây cái máy đánh chữ còn được dùng đều đặn. Đồng thời người ta cũng vẫn còn cầm bút mà viết. Nếu cần, viết xong "cho đánh máy" lại. Viết thư, viết bài (học), viết báo, viết văn... Ngoại trừ một số trường hợp ở Âu Mỹ (viết thẳng với máy đánh chữ) cái máy vẫn chưa thay thế cây bút. Chẳng những thế, trong giới thượng lưu có học Âu Mỹ, người ta còn coi một lá thư viết tay như một dấu hiệu lịch sự của cung cách người viết. Ngày nay vẫn còn có những nữ chủ nhân cặm cụi viết tay những tấm thiệp mời đến dự một họp mặt tao nhã... Nhưng rồi cái còm-piu-tơ cá nhân được sản xuất hàng loạt, tung ra thị trường, ngày càng tân tiến, càng hoàn bị. Lúc đó, trong giới tiêu thụ nói chung, trong giới viết lách nói riêng, cây bút mới biết thân, biết phận, vội vàng rút lui.

Người ta không cầm cây bút mà viết nữa. Người ta gõ lóc cóc lên mặt chữ. Những con chữ chui ra từ máy điện não, gọn ghẽ, sắc sảo, và... trần trụi. Chữ không còn là "trùn" nữa.

Gõ lên mặt chữ cho cái máy nó in ra, nhanh hơn, khỏe hơn, hợp thời hơn. Dĩ nhiên. Dĩ nhiên, xe hơi nhanh hơn xe đạp. Xe đạp nhanh hơn đi bộ. Cái hay, cái tiện rành rành. Kỹ thuật tuyệt vời. Cho nên viết không được hiểu như trước. Viết được định nghĩa lại. Viết không nhất thiết phải là cầm cây bút mà viết những chữ "con trùn" ngoằn ngoèo lên giấy. Hoặc người ta không cầm cây bút mà viết nữa, hoặc bất đắc dĩ lắm phải cầm thì... Lẽ tự nhiên, cái gì mà không làm thường xuyên, để ngày càng nhuần nhuyễn, càng thuần thục, đến khi cần phải làm, tránh sao khỏi lọng cọng, vấp váp. Trong một bài viết cũ, tôi có kể lại kinh nghiệm bản thân: Thật lâu về trước, trong mấy năm trời, tôi không có dịp nói tiếng Việt. Một hôm, đột nhiên, có cơ hội nói mới kinh hoàng thấy rằng mình nói tiếng Việt... ngọng! Phải chăng những ngón tay ngày ngày gõ lóc cóc lên mặt chữ của một cái máy, đến lúc cần phải cầm cây bút, chúng nó tránh sao khỏi có lúc ngượng ngập, cứng cỏi. Hậu quả: Chữ viết bằng bút "xuống cấp" thê thảm.
Võ Đình



Sáu thập niên về trước, nhà văn Nguyễn Tuân tiếc thương cái chữ đẹp mặc dù đó là thứ chữ của những kẻ đã bao lần đày đọa ông cha ta. Ngày nay, chẳng biết sẽ có một ông Nguyễn Tuân nào khác "dư nước mắt" khóc cho cái chữ "con trùn" trên đà mất dạng. Bởi vì những "con trùn" hạ tiện ấy cũng có cái đẹp của chúng.

*

Chữ "con trùn" mà đẹp à?!

Đẹp chứ. Xin lạy các cụ ngày xưa mấy lạy. Chúng con chỉ biết có thứ chữ "con trùn" này mà thôi. Tuy phần đông chúng con không đủ khả năng thưởng thức thứ chữ của "thánh hiền" đến từ phương Bắc, chúng con vẫn trân trọng lòng kính yêu quí Cụ đã dành cho nó. Sự trân trọng đó, xin quí Cụ thông cảm cho, vẫn cho phép một số chúng con để mắt đến... cái đẹp của thứ chữ ngày trước quí Cụ đã vừa ghét vừa khinh. Bởi vì chữ "con trùn" không đẹp bằng chữ Hán viết với bút lông mực Tàu nhưng nó cũng đẹp. Cái đẹp riêng của chính nó.

Ngày trước, khi ở Âu Mỹ người ta còn dùng ngòi bút lông ngỗng (tiếng Pháp, plume là lông vũ mà cũng có nghĩa là ngòi bút) viết chữ "con trùn" thật đẹp được đưa lên hàng một nghệ thuật: Calligraphy, một từ ngày nay còn được dùng để gọi cả thư pháp Trung Hoa, Chinese Calligraphy. Bạn đọc ở Mỹ cứ vào thư viện mà xem hình chụp bản Tuyên ngôn Độc lập. Hơn hai trăm năm về trước, người ta viết chữ "con trùn" bay bướm thế đấy, phóng túng thế đấy.

Hiềm nỗi, các "cha già dân tộc" Hiệp chủng quốc còn dựa dẫm quá nhiều vào cái đẹp ước lệ, dễ dãi: những đường cong lả lướt, vi vút, những râu ria xoắn tít xoắn mù, những "đuôi", những "vòi" chờn vờn, loanh quanh, điểm điểm tô tô, thừa thãi và vô bổ. Công bằng mà xét, cái đẹp của chữ viết như thế chưa bước đến gót chân của nét bút Vương Hi Chi, Tống Huy Tông, Tô Đông Pha và những đại thư pháp gia khác của Trung Hoa xưa. Tuy nhiên, cũng vì lẽ công bằng mà không thể đem so những "con trùn" với chữ viết của "thánh hiền". Cần phải có một cách nhìn khác.

Cách nhìn đó phải gạt bỏ ra ngoài vòng chơi những thứ trang sức hoa hòe hay điểm tô thừa thãi. Vì chữ "con trùn" được viết với bút sắt nên không thể bàn chuyện đẹp xấu của "thịt", "xương", "gân" như khi thưởng ngoạn thư pháp Trung Hoa. Vì chữ "con trùn" được viết ngay hàng thẳng lối, theo một thứ tự đều đặn và liên tục của những mẫu tự nối chân nhau nên cũng không thể có chuyện con chữ "vuông vắn, rõ ràng" như "chữ người tử tù" của ông Nguyễn Tuân. Ấy thế mà nếu được một bàn tay viết đẹp thì chữ "con trùn" cũng có thể đẹp lạ lùng.

Nhìn từ một góc độ khác, ở một thời điểm khác, trong một hoàn cảnh khác, đối tượng của cái nhìn đem lại cho ta một cái thấy mới mẻ đầy thú vị, những khám phá không ngờ. Bạn đọc hãy làm một thí nghiệm đơn giản sau đây.

Trên một mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay, bạn lấy bút mực đậm (hay magic marker đen) viết tên bạn. Dưới tên, ghi năm sinh, nơi sinh... Chỉ cần để ý một điều: Hãy viết thật nhanh, tự nhiên, đừng nắn nót, gò bó. Đoạn bạn lật ngược giấy lại, soi lên ánh đèn. Những chữ (ngược), những con số (ngược) đó ngộ nghĩnh hẳn ra. Thoạt đầu, bạn có thể bỡ ngỡ không đọc được tên mình vốn là những chữ quen thuộc nhất. Nhìn kỹ hơn, những nét bút lạ sẽ đem lại cho bạn một niềm thích thú mới. Bây giờ bạn hãy xoay mảnh giấy dựng đứng lên. Tên bạn, v.v... bây giờ nằm dọc chứ không nằm ngang nữa. Cái thứ chữ "con trùn" này, đâu ngờ nó cũng có móc, có câu, có sổ, có đá đấy chứ không đâu! Bây giờ bạn thấy rằng, hiển nhiên, cái đẹp cũng có thể tìm ra được ở cái chữ "con trùn". Bây giờ, bạn hãy xoay mảnh giấy lại mặt phải của nó, và nhìn những chữ bạn đã viết với một đôi mắt mới tinh.

*

Nhất Linh là một nhà văn mà tôi hết lòng kính yêu từ thuở chưa được phép... mặc quần tây dài! Yêu cả khuôn mặt dạn dày và bộ ria dáng dấp phóng đãng của ông. Ấy vậy mà khi có dịp được thấy thủ bút của ông (được in lại), tôi tiu nghỉu. Chữ nhỏ li ti, đều đặn, liền lạc với nhau như những hạt mè đen nằm nối đuôi. Làm sao một người như Nhất Linh, nghệ sĩ, chính khách, một người có cuộc sống xuôi ngược, hào hùng như thế mà lại có chữ viết dè xẻn, cần cù như vậy? Tôi cũng từng được thấy chữ ký của Khái Hưng. Vì ông ký một cách như viết nên thấy được "nét" chữ của ông: Dõng dạc, phóng khoáng, đẹp.

Vốn thường lưu tâm đến chữ viết tay, tôi có cái thú... "bới lông tìm vết"! Phân tích chữ viết như một phương pháp khoa học tâm lý, tôi không màng. Tôi chỉ tò mò lấy làm lạ là có người viết (văn) hay mà viết (chữ) tồi. Có người bụng dạ thật tốt mà chữ viết... thật xấu. Có người tính khí mạnh mẽ mà chữ viết tầm tầm. Có người dè dặt, hiền lành mà chữ viết ngang nhiên, gân guốc. Vì thế tôi không dại gì đặt nhiều lòng tin vào nghệ thuật xem chữ đoán người. Sái một ly đi một dặm, là cái chắc.

Nhân nói chuyện về CHỮ không thể không nghĩ đến một vài người quen biết gần xa, những người tôi vẫn coi là viết chữ tốt. Dĩ nhiên, cái nhìn của tôi đâu có thể không chủ quan!



Ở Việt nam, Trịnh Công Sơn viết chữ thật tốt mặc dù có khi đều đặn quá, hay có khi lại bay bướm quá. Chữ Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể không "tốt" bằng chữ Trịnh Công Sơn, nhưng cứng cỏi hơn, rạch ròi hơn. Trương Thìn có chữ viết phóng khoáng, mạnh mẽ, nhiều tính nghệ sĩ. Hơn nửa thế kỷ, chữ viết cụ Vân Trì không thay đổi: Nét nào ra nét ấy, không thiếu, không thừa một ly. Chữ như vậy là tốt, nhưng đẹp?

Ở Pháp, thầy Nhất Hạnh cũng có lối chữ tương tự. Viết như thở: "Hít vào thì biết rằng hít vào"; "Thở ra thì biết rằng thở ra". Cho nên chữ viết dung dị, nghiêm túc, đều đặn. Và vắng bóng những nét bung phá ngoạn mục. Chữ Đặng Tiến có cá tính mạnh: Trúc trắc, gập ghềnh một cách nghênh ngang. Thi Vũ: Chữ viết chăm chút, nhưng rộng rãi, vững vàng.

Miền Đông Gia-Nã-Đại có một số chữ thật tốt: Nguyễn Quý Bổng ở Ottawa, Trân Sa ở Toronto, Hoàng Xuân Sơn và Hồ Đình Nghiêm ở Montréal.

Miền Tây Gia-Nã-Đại, ngươi Hạnh Cơ viết chữ quốc ngữ thật tốt mà viết chữ Hán với bút lông cũng nhuyễn lắm.

California, ha!

Ở Nam Cali, Bùi Vĩnh Phúc viết văn khúc chiết, sáng sủa, nhưng chữ viết của họ Bùi, thật tốt, lại có lúc bay bướm quá. Hoàng Quốc Bảo cũng vậy: Chữ thật tốt nhưng đôi khi quá hoa hòe. (Nguyễn) Khánh Trường không tránh né cái bay bướm, cái hoa hòe ấy được bao nhiêu cho nên lắm lúc bị chúng tóm được! Phóng bút là một cái "sướng" mà cũng là một cái "tật". "Tật" ấy, tìm thấy tận bên trời Úc châu xa xôi: Nguyễn Hưng Quốc, văn đã hay mà chữ lại tốt. Chỉ tiếc đôi khi chữ người trượt chân xuống chỗ hoa hòe – như ba ông, Bùi, Hoàng, và Nguyễn ở Nam Cali. Cũng ở tận bên trời Úc châu xa xôi có Hoàng Ngọc-Tuấn viết chữ thật tốt. Tốt và đẹp. Gần miền Đông Hoa kỳ hơn, bên Đức quốc, có Đỗ Quang Nghĩa – chồng của Lê Minh Hà – chữ viết cũng vào hạng cừ khôi.

Cũng ở Nam Cali, nhưng không như ông Bùi (Vĩnh Phúc) viết chữ bay bướm, có bà Bùi (Bích Hà) viết chữ thẳng thớm, đều đặn, rất tốt, tuy không có cái nét bóng bẩy lắm khi tìm thấy trong văn. Chữ viết của nhà thơ Viên Linh, thuộc vào bực thượng thừa. Cẩn trọng, đài các như người, là chữ viết của nhà thơ Thanh Nhung (Công huyền Tôn nữ Nha Trang).

Bắc Cali có Nguyễn Bá Trạc: Bây giờ không biết thế nào chứ nhiều năm về trước, gặp nhau, thấy người thì năng nổ, "bất cần đời" mà chữ viết lại ung dung, cẩn túc. Lạ. Đó cũng là trường hợp Nguyễn thị Hoàng Bắc ở Virginia: Chữ viết tốt, nghiêm trang, thon thả, không sắc nhọn, nghịch ngợm như người. Virginia lại có nhà thơ Vi Khuê, chữ viết trang trọng, nghiêm chỉnh. Có điều, chữ bà tốt nhưng vì chăm chút quá, nắn nót quá, thành ra gò bó. Cũng ở Virginia, có ngươi Đinh Cường viết chữ tốt. Tốt nhưng, không như danh tính, hơi nhu.

Trở về California, thủ đô tị nạn: Nhiều người, lắm tài. Có một anh, hay bệnh, gầy nhom, nhưng chữ viết lại ngang tàng, gân guốc. Nhịp chữ phóng khoáng, tự do mà trang trọng, chu đáo. Nét chữ sắc sảo mà vẫn có dáng uyển chuyển, hào hoa. Đó là người viết Hà Thúc Sinh.

*

Có một số chữ tốt khác, trong nước cũng như ở hải ngoại. Nhưng "tốt" chưa đủ; chữ tốt lại cần phải có "nét" nữa kia.

"Nét" là gì? "Nét" quyến rũ cái nhìn của ta. Một khuôn mặt đầy đặn và đều đặn, mắt, mũi, miệng, cân đối có thể được coi là một khuôn mặt tốt. Nhưng phải có một hay đôi ba "nét" nào đó thêm vào mới làm nên một khuôn mặt đẹp. "Nét" đó không nhất thiết phải là một cái gì hoàn chỉnh, hoàn hão. Chiếc răng cời, cái má lúm, con mắt mại có thể làm cho một khuôn mặt tốt trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng thôi, chuyện đẹp xấu, nói không cùng. Người Mỹ có câu nói, đại khái chuyện xấu đẹp tùy nơi con mắt người nhìn. Thế này đã là chủ quan lắm lắm.

Tôi ước mong bạn đọc, bạn viết xa gần, gõ còm-piu-tơ thì cứ nhưng mỗi ngày hãy cầm lấy cây bút, tí toáy với nó một lúc đến khi nào ấm tay thì thôi, đừng để nó nằm vất vưởng một mình, tội nghiệp. Nhất là những vị may mắn được "trời cho" cái chữ tốt. Đừng để tác giả "Chữ Người Tử Tù", nơi minh mông, ông ấy tủi thân. Hỡi những ông (bà) đồ của thời nay!



Giáng Sinh Khó Quên



truyện ngắn



Mới giữa tháng Mười Hai nơi tôi làm việc đã trang trí mừng lễ Giáng Sinh. Dây kim tuyến trắng bạc giăng khắp nơi. Ở góc tường chiếc xe lửa có nhiều toa màu đỏ chạy vòng quanh cây Noel gắn đèn chớp tắt màu trắng làm không khí có vẻ tưng bừng hẳn lên. Viền quanh phòng làm việc của bà Jean Đi Bộ là mấy chiếc vớ to màu đỏ và các nốt nhạc màu trắng cắt bằng những miếng nhựa xốp. Ban Công chánh ăn tiệc sớm vì đa số nhân viên nghỉ hai tuần cuối năm mừng lễ, mãi đến sau Tết Dương Lịch mới trở lại. Tôi vẫn chưa mua quà cho con tôi. Hôm nay thứ Năm là ngày lĩnh lương. Cuối tuần này tôi sẽ đưa con gái đi mua quà. Tôi đến gặp Natasha.

“Tôi cần chị đi với tôi đến cầu Moor.”

“Tại sao phải đi hôm nay? Trưa nay là tiệc Giáng sinh mà. Để tuần sau đi.” Natasha vùng vằng.

“Nếu không cần gấp thì tôi đã không làm phiền chị. Đi hôm nay trời rất ấm vì có Indian summer. Tôi hứa sẽ đưa chị về trước giờ ăn trưa để dự tiệc Giáng sinh.”



Tôi lái xe đưa Natasha đến cầu Moor. Đây là loại cầu quay, giống như một cái bàn chân, khi mở, những “ngón chân” ngóc lên, còn cái “gót chân” sà xuống gần mặt nước. Trong lúc lái xe tôi giải thích, cần phải đi ngày hôm nay vì lệnh trên đưa xuống. Tổng Giám đốc của công ty muốn áp dụng cách khóa cầu của một công ty ở tiểu bang khác vào cầu Moor. Đường hỏa xa chạy trên cầu này băng qua eo biển có nhiều thuyền qua lại. Cầu mở cho đường thủy giao thông. Khi hạ cầu xuống đường rầy trên cầu phải nối liền với đường rầy trên đất như không hề bị cắt làm đôi. Để đề phòng cầu bị tách rời khi xe hỏa đang đến, giữa hai mối cắt này là một thanh khóa rất to được điều khiển bằng máy. Máy khóa cầu của cầu Moor vẫn còn tốt nhưng thuộc loại máy cũ. Tổng Giám đốc muốn dùng máy mới điều khiển bằng điện tử. Lệnh của Tổng Giám Đốc đưa xuống, sếp tôi muốn được lòng thượng cấp, ra lệnh phải thi hành ngay trong ngày hôm nay.

“Chị biết. Tôi chỉ là lính, phải tuân lệnh cấp trên. Sếp bảo nhảy là nhảy thôi!”

“Chẳng những thế, chị phải hỏi lại là cần nhảy cao đến mức nào.” Natasha trêu tôi.



Những khi cần ra ngoài công trường tôi thường yêu cầu Natasha đi với tôi. Một để giữ an toàn, trường hợp có tai nạn thì có người gọi cấp cứu. Hai, vì cùng là đàn bà với nhau. Tôi phân công. “Chị vào trạm gác cầu báo là tôi sẽ làm việc trên giàn máy quay cầu chừng hai giờ đồng hồ. Chị có thể ở trong trạm gác cho ấm, khi nào tôi cần chị giúp trong việc đo đạc tôi sẽ gọi. Nhắc người gác cầu mở còi hụ báo cho tôi biết khi phải mở cầu cho thuyền đi qua.”

Hồ sơ của máy quay cầu đều có ở văn phòng. Hôm nay tôi đi chỉ để kiểm chứng, so sánh hiện trường với tài liệu ở văn phòng. Tôi cũng muốn xem có chỗ trống đủ để gắn bộ máy mới hay không. Đo một khoảng rộng tôi cần có người giữ một đầu của cái thước dây nhưng Natasha ở trong trạm gác cầu nên công việc hơi khó khăn hơn. Một tay tôi cầm thước đo. Một tay tôi cầm cái bảng nhôm có kẹp sắt để giữ tập giấy tôi dùng để ghi chép. Đây là loại thước bằng kim loại mỏng. Ở đầu thước có cái móc nhỏ tôi có thể móc vào những thứ tôi muốn đo. Thước có nút bấm để rút thước dây lại cuộn vào bên trong cái vỏ kim loại. Vì thước mỏng và mềm nên tôi không thể đo cái gì cao quá đầu tôi. Tuy thế tôi có thể thả thước xuống để đo một khoảng cách phía dưới chân tôi.



Ước tính khoảng cách từ dưới mặt đất đến chỗ đặt máy để có thể mang dụng cụ và đồ phụ tùng để lắp ráp bộ máy điều khiển cái khóa cầu, tôi nhìn xuống bên dưới sàn chứa máy lót bằng fiberglass màu vàng. Có một sợi dây chạy song song theo đường rầy xe lửa mà lần trước ra cầu này tôi không để ý. Đường dây này cản trở công việc của tôi. Trên cầu thường có những dây chạy tín hiệu không còn dùng nữa nhưng công nhân không muốn mất thì giờ tháo bỏ chúng. Những dây này gọi là dây chết, vì không có điện. Tôi nghĩ sợi dây này là dây chết và tôi sẽ đề nghị tháo bỏ nó. Muốn biết khoảng cách từ đường dây điện đến sàn chứa máy bao xa tôi kéo thước dây bằng thép nghiêng người thả thước dây xuống. Đo cái này xong là tôi có thể đưa Natasha về. Công việc nhanh hơn tôi dự tính. Ăn tiệc Giáng sinh xong tôi sẽ về sớm. Có lẽ tôi sẽ nhân dịp này đi mua quà cho con tôi. Con bé muốn Santa cho một con búp bê bằng vải đội hoa hướng dương.



- “Ê! Chị kia… A! STOP! Ngừng lại! Đụng…chết! Tiếng la hét xôn xao hỗn loạn phía dưới đất vọng lên, mỗi lúc một cấp bách hơn. Tôi nghe nhưng không mấy chú ý cứ cố gắng giữ cây thước thả xuống phía dưới cho thẳng để đo khoảng cách của sợ dây đến sàn của giàn máy nơi tôi đang đứng. Gió thổi cây thước của tôi nên tôi cố gắng mấy lần mà không được. Cho dù Natasha có ở trên giàn máy này cũng chẳng giúp tôi được.



Tiếng la hét rõ rệt hơn và người la hét không ai khác hơn là Natasha và người gác cầu. Cả hai hối hả rời trạm gác chạy về hướng tôi. Natasha vẫy tay lia lịa, tôi chẳng hiểu chuyện gì. Người gác cầu ở phía sau Natasha dường như rượt nàng. Tôi ngơ ngác nhìn, tay vẫn cầm cây thước một đầu thả đong đưa phía dưới. Người gác cầu thổi còi. Tiếng còi xé rách không khí. Đâu có chuyến xe lửa nào. Phải còn ít ra hai mươi phút mới có chuyến xe lửa kế tiếp. Tôi nhìn người gác cầu. Anh ta tréo hai cánh tay trước mặt như hình chữ X rồi dang tay ra, ba lần liên tiếp. Tôi chợt nhận ra những tiếng la hét ấy dành cho tôi với dụng ý bảo tôi ngừng tức khắc công việc tôi đang làm.



Khi người gác cầu và Natasha đến gần, ngước mặt lên quát mắng tôi.

“Sao chị ngu thế. Chị thả thước dây lòng thòng xuống nhỡ chạm vào dây điện cao thế là chết đấy.”

“Dây điện cao thế nào?” Tôi hỏi ngớ ngẩn, không tin sợi dây điện màu nâu tầm thường này dây điện cao thế.

“Tôi không chạm vào dây điện. Dây điện thì phải có bọc chất cách điện bên ngoài cây thước của tôi nhỡ có chạm vào thì cũng chẳng hề gì.” Tôi cố cãi.

Người gác cầu vừa quát, vừa khoác tay ra hiệu bảo tôi phải xuống ngay lập tức. Công việc coi như đã xong, tôi vâng lời. Anh ta và Natasha quay trở lại trạm gác cầu. Tôi xốc túi đồ nghề lên lưng. Cây thước dây bằng thép bất ngờ rơi xuống đụng vào sợi dây điện. Một ánh chớp lóe lên, một tiếng nổ lớn, tôi ngã vào hàng rào cản trên sàn chứa máy. Hình ảnh đôi mắt đen láy, mái tóc pompei, xúng xính trong bộ áo ngủ trắng có hình trái dâu tây màu đỏ của con tôi là điều cuối cùng mà tôi nhớ.



Có một dạo tôi không ưa Natasha vì Natasha cùng phe với Sue White. Nghĩ cũng lạ. Lẽ ra chúng tôi phải thân với nhau thay vì xem nhau như kẻ thù. Cả ba chúng tôi đều là di dân. Natasha là người Nga, đến Mỹ trước tôi và Sue. Tôi và Sue đều là dân da vàng, cùng là kỹ sư cơ khí. Trong ban Công chánh có mấy chục kỹ sư toàn là đàn ông, nhưng chỉ có hai chúng tôi là phụ nữ. Natasha là họa viên chuyên vẽ kỹ thuật. Sue gốc Hoa sinh ra ở Costa Rica, mười lăm tuổi di dân sang Hoa Kỳ. Lấy chồng Mỹ, Sue đổi họ Wang lấy họ White của chồng. Cô ta bảo rằng muốn bứt cho sạch cái gốc người Hoa. Sue có đôi mắt xếch, rất đẹp. Khuôn mặt trái xoan dễ nhìn tuy nhiên hàm răng khấp khểnh vì không đeo niền chỉnh răng như người Mỹ từ lúc nhỏ. Thêm vào đó Sue thuộc tạng người béo phì và bị chứng hói. Phụ nữ mà bị hói như đàn ông, đầu Sue đã mang máng lộ chỗ hói hình tròn giống như cái bánh donut.



Sue nhiều tham vọng, muốn trở thành kỹ sư trưởng nên lúc nào cũng nhắc nhở và phóng đại năng khiếu chỉ huy của mình. Chuyện này đáng lẽ chẳng phiền lòng tôi nếu Sue không dùng tôi làm đối tượng cho khả năng tự thổi phồng của Sue. Gặp ai Sue cũng giới thiệu tôi là nhân viên của Sue. Sue vào làm trước tôi hai năm, chức vụ cao hơn tôi một bậc, nhưng không phải là sếp của tôi. Tất cả chúng tôi lúc ấy đều làm việc dưới quyền một ông già Mỹ, người da trắng tên Weber.



Đôi khi tôi tự hỏi tôi không phục tùng Sue, không xem Sue là cấp trên của tôi vì bản tính tôi bướng bỉnh, bất trị bởi thời thơ ấu không ai dạy dỗ, suốt ngày chạy rong trên đồng cỏ, hay vì Sue trẻ tuổi và là đàn bà. Đàn bà thường không phục tùng đàn bà. Tôi đã nghe rất nhiều phụ nữ nói rằng họ không thích làm việc dưới quyền đàn bà vì đàn bà thiển cận, đói khát quyền lực, thiếu ý chí, không biết quyết định, và còn hằng chục lý do khác nữa. Đàn bà thường sợ người khác giỏi hơn mình vì thế hay dìm tài người khác. Phụ nữ không biết làm việc chung với nhau, không biết làm “teamplayer.” Kẻ thù của phụ nữ là một người phụ nữ khác. Phải chăng đàn bà, kể cả tôi, quá quen thuộc với nền văn hóa phụ hệ chỉ muốn tuân lệnh đàn ông? Hay vì Sue không có tài chỉ huy? Tôi ghét Sue làm tài lanh dạy dỗ tôi những chuyện chẳng liên quan gì đến công việc, thí dụ như “chị phải dạy ông chồng Việt Nam của chị cho biết cách đối xử với đàn bà.” Sue quan niệm đàn ông Á châu nào cũng chồng chúa vợ tôi, giống như bố Sue. Cô nàng hay nói lớn giọng với tôi về việc phụ nữ bị trả lương ít hơn nam giới dù công việc họ làm giống nhau. Tuy nói với tôi nhưng dụng ý của Sue là muốn ông Weber nghe. Dường như Sue muốn chứng minh Sue xứng đáng là sếp của tôi bởi vì cái gì cô cũng giỏi hơn tôi. Khi tôi khoe một môn học tôi được điểm cao. Sue bảo “tôi ghét phải van xin nịnh nọt mấy ông thầy để được điểm cao.” Biết chồng tôi là người Việt, Sue bảo phải lấy chồng Mỹ thì mới thấm nhập văn hóa Mỹ để có thể được tiếp nhận vào xã hội Mỹ. Những chuyện như thế tuy nhỏ nhặt nhưng dần dần tôi đâm ra ghét Sue. Ghét đủ đến mức thầm nguyền rủa cho cô nàng té xuống sông chết chìm khi ra công trường. Nếu hai chúng tôi có ý tưởng khác biệt trong công việc Sue thường bắt tôi phải chìu ý Sue vì cô nàng lúc nào cũng nghĩ là mình đúng. Để được lòng sếp có lần Sue sai tôi mang xe sếp ra tiệm rửa xe. Tôi chống đối yếu ớt, thường làm lơ hơn là cãi lại. Không vừa ý tôi không phản đối mà ngấm ngầm uất ức rồi trở nên cau có hay lạnh nhạt. Tuy nhiên Sue chỉ lắng nhắng với tôi chứ không làm thế với Natasha. Tôi tự hỏi có phải vì tôi nhút nhát hay vì tôi không giỏi cãi nhau bằng tiếng Anh. Hay vì Natasha là người da trắng và được lòng của cấp trên? Hay tại Natasha biết cách bày tỏ ý nghĩ mỗi khi bất đồng ý kiến với Sue?



Vì nói tiếng Anh không giỏi nên tôi tránh tranh luận với Sue. Tôi trả đũa bằng cách khác. Sue thường ví von:

“Ban Công chánh giống như là một cái sở thú. Richard là con cọp. James là con gấu. Natasha là một con thiên nga đỏm dáng. Nhìn chị ấy xem lúc nào cũng yểu điệu mượt mà. Bob là con chó sủa to mà không cắn.”

“Chị có biết chị giống con gì không?” Nhìn thẳng vào mắt tôi, Sue hỏi.

“Tôi không nghĩ là tôi giống bất cứ con vật nào.” Tôi nhìn thẳng vào mắt Sue. Có lẽ vẻ hằn học hiện rõ nên cô nàng nhìn lảng sang chỗ khác. Tôi thầm nghĩ tôi giống như con hummingbird, chăm chỉ, và có cái mỏ nhọn sẵn sàng rỉa rói tấn công. “Còn chị giống con gì?” Tôi hỏi.

“Con heo!” Sue tự chế nhạo nàng.

Tôi mỉm cười không nói gì. Và có lẽ cái cười mỉm này làm Sue không vừa ý.

“Heo là con vật khôn ngoan và rất sạch sẽ.” Cô nàng nói tiếp.

Tôi lại cười.

“Má tôi nuôi nhiều heo. Chị dâu tôi chịu không nổi mùi heo, cám heo, và phân heo đã bỏ nhà chồng chạy về nhà mẹ ruột ba ngày sau khi kết hôn.”

Buổi trưa hôm ấy Sue rủ tôi đi ăn buffet. Sau câu chuyện tự ví von với heo, tôi biết Sue mặc cảm vì cái dáng béo của nàng. Tôi ngoáy vào vết thương của Sue.

“Ôi, tôi béo lắm rồi. Đi ăn kiểu này thì tôi sẽ như con lợn mất. Tôi đang cố gắng mất vài pound đây.”

“Chị mà diet thì trước tiên là mất cả bộ óc.” Sue trả đũa giọng chua như giấm.

“Nếu nhịn ăn mà mất bộ óc thì sao cô ăn nhiều mà óc không lớn lên.” Tôi nói thầm; muốn nói thẳng với Sue nhưng e sẽ cãi nhau lớn chuyện nên tôi làm thinh, nhưng tức tối. Và ghét.



Nếu Sue như một con lợn thông minh lắm mồm thì Natasha như một con thiên nga sang trọng, đài các và yểu điệu. Sue không bao giờ nặng lời với Natasha như với tôi, dù chức vụ của Natasha thấp hơn của tôi. Có gì không đồng ý về đồ án và bản vẽ Natasha không nói với tôi mà đi nói với Sue. Không chỉ được lòng Sue, Natasha được lòng tất cả mọi người cấp trên. Mỗi khi vào họp toàn ban, người đông thiếu ghế, Natasha luôn được sếp mời ngồi trong khi đám kỹ sư, kể cả phụ nữ như tôi và Sue, phải đứng. Bình đẳng mà. Khi công ty có một cuộc chấn chỉnh nội bộ Sue rời khỏi ban công chánh. Trong công việc mới tuy Sue không được tăng lương nhưng được quyền chỉ huy chừng hai tá công nhân, thế là thỏa lòng mơ ước. Được một thời gian, có lẽ không vừa ý nên cô nàng lại chuyển qua ban khác. Vốn đã bị hói đầu, tóc của cô nàng càng rụng nhiều hơn. Thỉnh thoảng gặp Sue White trong công ty, chúng tôi giả vờ không nhìn thấy nhau.



Thoát khỏi sự kềm kẹp của Sue, tôi im lặng làm việc. Tôi tuân lệnh cấp trên tuyệt đối vì tôi biết trong cái xã hội nho nhỏ này, nó rập khuôn xã hội lớn ngoài kia, đàn ông là chúa tể. Rất ít phụ nữ có quyền thế trong công ty này, và những người phụ nữ quyền thế này chẳng đoái hoài gì đến tôi. Tôi đoán trước ý muốn của cấp trên luôn hoàn thành nhiệm vụ, và vượt qua những dự đoán của sếp. Tôi được giao nhiều đồ án có giá trị tài chánh rất cao, lên chức hai ba lần và Natasha trở thành nhân viên dưới quyền tôi. Vẫn còn căm ghét Natasha đã về phe với Sue, tôi muốn trả đũa tận tình nhưng chỉ có thể dở trò xéo xắt. Tôi không thể đối xử tệ với Natasha vì chị được cấp trên mến chuộng dù chị không chăm chỉ làm việc như tôi. Tôi vẫn thường nghe nói, nhưng không tin, là xã hội Hoa Kỳ có một thứ tự, không nói thành lời cũng không viết thành văn bản. Đó là đàn ông da trắng được xếp ở địa vị cao nhất, kế đến là đàn ông da đen, rồi phụ nữ da trắng, phụ nữ da đen, đàn ông Á châu và cuối cùng mới đến đàn bà Á châu. Cho dù tôi có học cao hơn, làm việc siêng hơn, nhưng Natasha vẫn được yêu mến hơn và kính trọng hơn.



Không hiểu tại sao tôi và Sue lại có thể ghét nhau như mèo với chó, thật ra chúng tôi rất giống nhau. Giàu tham vọng, và thích quyền hành. Sue thích chỉ huy nhưng tôi thì thích được ở vị trí của người chỉ huy mà không cần phải chỉ huy. Thỉnh thoảng họp với các hãng kỹ sư tư vấn phụ trách công việc sửa chữa cầu giúp tôi, tôi được làm chủ tọa. Tôi ngồi ở đầu bàn và hai bên là những kỹ sư sẽ làm công việc giúp tôi. Tôi có cảm tưởng tôi là lãnh đạo của những người ăn mặc nghiêm chỉnh sang trọng, ăn nói lưu loát, hiểu biết, và nhiều kinh nghiệm này. Say sưa với giấc mơ thành công, tôi làm việc tận lực. Có con đầu lòng, tôi chỉ nghỉ sáu tuần trong khi đa số phụ nữ nghỉ sáu tháng. Trời mùa đông, lạnh đến độ tất cả các bắp thịt trên mặt dường như đông cứng lại tôi vẫn ra công trường trông coi những công trình sửa chữa cầu. Trong khi tôi đang cố gắng đuổi theo một chức vị cao hơn thì má tôi qua đời. Tôi không về Việt Nam dự đám tang vì nếu người khác làm thế công việc tôi, mọi cố gắng của tôi có thể sẽ tan như bọt sóng. Chức vụ, cái biểu tượng của sự thành công, lủng lẳng trước mắt tôi, chỉ cần ráng chút nữa, vươn chút nữa, tay tôi sẽ chạm đến. Nhưng tôi không đạt được chức vụ tôi muốn. Chị tôi làm đám tang cho mẹ vắng mặt tôi. Tôi nghĩ, nếu tôi thành công má tôi sẽ vui và có lẽ bà tha tội bất hiếu cho tôi.



Khi tỉnh dậy tôi thấy đầu tôi đang gác trên đùi Natasha. Vẻ mặt Natasha đầy lo lắng.

“Tôi làm sao thế?”

“Cây thước dây chị đánh rơi đụng vào dây điện. Cây thước bốc cháy và cái biến điện gần đó bị nổ. Chị bị ngã đụng đầu ngất đi. Xe cứu thương sắp đến để chở chị vào nhà thương.” Natasha nói. “Nếu chị còn cầm cây thước trên tay thì có lẽ chị đã biến thành trái banh lửa.”

“Nổ máy biến điện à? Chắc tôi sẽ bị mất việc làm thôi. Tôi xin lỗi đã không thể giữ lời hứa đưa chị về kịp giờ để ăn tiệc Giáng sinh.”

Natasha khoác tay. Giọng Natasha ấm áp, dịu dàng.

“Chị đúng là điên. Suýt mất mạng không sợ mà lại lo mất việc. Chị bình an là mừng rồi.”



Chuyện như mới hôm qua nhưng thật ra đã xảy ra mười lăm năm về trước. Sau cái tai nạn suýt chết đó tôi nhìn Natasha bằng đôi mắt khác. Ở chị có vẻ điềm tĩnh vui vẻ với công việc và mọi người chung quanh. Chị làm việc vừa phải tránh những tranh giành ganh tị, không nói những lời chua ngoa hay lên mặt với người khác. Dù tôi nhiều khi khắc nghiệt Natasha vẫn dịu dàng với tôi. Tôi nhận ra rằng sự ganh tị và tranh giành của tôi là những chuyện vô bổ. Người ta thành công nhiều khi nhờ may mắn hơn là tài ba. Sự hung hăng và hiếu thắng của tôi biết đâu chừng lại cản trở mức độ tiến thân, bớt hung hăng có lẽ tôi có nhiều bạn bè hơn và được nhiều người hỗ trợ hơn. Thành công và sự nghiệp có thể biến thành trái banh lửa trong nháy mắt. Sau cái Giáng sinh ấy tôi có nhiều thay đổi. Tôi nhận ra rằng cuộc đời rất mong manh. Tôi có thể vĩnh viễn không về sau một ngày làm việc. Suýt tí nữa con tôi đã không có quà, mà cũng chẳng còn mẹ.


Nguyễn Thị Hải Hà

TÔI TÌM TÔI








Tôi tìm tôi
mệt nhoài không thấy
Ngày vật vờ
đêm ngủ trên non
Núi vẫn cao
suối rừng vẫn
chảy
Chuyện xưa nay
được mất có còn

Dòng suối chạy
đi đâu em biết
Thương đời nhau
không biết đâu về
Đá nghin năm
có tên không tuổi
Có đau không
nước chảy đá mòn

Có buồn không
suối khô sông cạn
Nắng bên này
đồng cháy bên đây
Nước xa khơi
chất đầy nần nợ
Tôi thấy tôi
nửa giọt Trăng ngày

Vĩnh Thuyên








Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

Hẹn hò



Âu Thị Phục An


sáng
những luồng xe bạo hành mặt đất
bụi tung tăng điệu vũ

trên viền áo lót
mùi nước hoa chanel

áo đan lưới nâu
phập phồng vòm ngực yêu
yêu yêu yêu

nắng tràn trên tóc những giọt điên
thân thể trắng muốt
căng
da cuồng thèm vuốt
đang là cơn động cấp 10

cánh cửa khép vội
vòng tay khép vội
15 phút ngọt ngào

ngọt ngào
trôi nổi.

Sám hối




Đỗ Trường


Hôm rồi, ngồi nghe ông bạn giảng giải về triết học, có đoạn ngoài lề, ông nói tôi rất thích: Một xã hội yên bình, kinh tế, khoa học tân tiến, thì dứt khoát luật pháp và Tôn giáo phải độc lập và song song phát triển. Để diễn giải cho việc mua thần bán thánh, hoặc sự lạm dụng, lừa đảo của các nhà ngoại cảm, trong nước, ông cho rằng, đó là sự bế tắc của xã hội cũng như tôn giáo hiện nay. Con người mất phương hướng, mất lòng tin hoàn toàn vào chế độ xã hội, nên tìm đến tâm linh, ngoại cảm nhưng đằng sau nó thực ra là mê hoặc, lừa đảo. Họ bấu víu vào bất kể lời hứa hay con đường nào, dù là phi lý, mơ hồ nhất, hòng giải thoát bế tắc. Do vậy, các nhà ngoại cảm đểu sinh sôi nảy nở là điều tất yếu, để đáp ứng nhu cầu đó.

Có lẽ chưa bao giờ lương tâm, đạo đức, tình người xuống thấp như hiện nay. Dù có người phản đối, nhưng tôi vẫn phải viết, con người chính là sản phẩm của xã hội đương thời. Một bác sỹ phi nhân, đã hủy xác phi tang, khi làm chết chính người bệnh của mình. Những cảnh sát, công an Bắc Giang, chỉ vì một chút thành tích bổng lộc, không ngần ngại cho người dân vô tội vào tù. Hay những ông có chức có quyền các công ty tầu biển, xây dựng cầu đường… trộm cắp, bòn rút máu của dân để gái gú, xa hoa trác táng, có khi nào lương tâm gợn lên một chút dằn vặt?

Vâng! Những sự việc kinh hoàng đó nhiều lắm, đầy đặc trên mặt báo. Và xã hội càng bế tắc, thì cái ác càng phát triển, nảy nở. Để rồi, người ta cũng lợi dụng cái u mê bế tắc đó, để thần thánh hóa lãnh tụ, thần thánh hóa con người. Và sự thần thánh hóa đó, chỉ thấy xảy ra ở những nơi, những nước lạc hậu, đói nghèo.

Sau cái chết và lễ tang cụ Võ Nguyên Giáp, một nhóm, trong đó có cả một số nhà thơ tên tuổi, phát động, cùng nhau làm thơ, viết thơ về cụ Giáp. Tôi vui, buồn lẫn lộn, nhưng ông bạn nghiên cứu triết của tôi bảo, thơ ca gì, đọc lên sao thấy nó giống như dàn kèn, tụng ca vua chúa thời phong kiến vậy…. Và không hiểu sao, dạo này các bác hay đùa dai đến thế: Cứ bảo, cụ Giáp về với dân. Về với dân có nghĩa là như các bậc tiền nhân, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, dám từ bỏ quyền lực, trở về ngôi nhà cũ của gia đình dòng họ và làm lại đúng cái nghề gõ đầu trẻ của mình. Chứ ai lại về với dân, mà sau khi thắng giặc, cụ ngự Villa to vật vã giữa lòng thủ đô. Không phải ai muốn gặp cụ cũng được. Khi mất, lăng mộ cụ lại ngự nơi được cho có long mạch đẹp, lưng là núi mặt tiền là biển và dường như có cả lính túc trực ngày đêm? Vậy là xa dân, chứ làm sao có thể nói, cụ gần dân, về với dân. Thôi thì, cụ cứ nằm chung với các đồng chí của mình giữa thủ đô, có người chăm sóc luôn thể, có khi lại giản dị, đỡ tốn kém hơn.

Vâng! Người có công với chế độ như cụ Giáp, được hưởng thụ ở mức “đại Nhà Thờ, đại Tôn Đản“ là điều đương nhiên, khỏi bàn cãi. Nhưng các bác cứ cố gò ép, cụ về với dân, quả thật nó vênh, tội và oan cho dân lắm.

Viết ra điều này, không có nghĩa là tôi không tôn trọng ý kiến cũng như việc làm của các bác về cụ Giáp. Và chắc chắn có người, trong đó có cả bạn bè, người quen biết không cùng chung suy nghĩ với tôi. Nhưng đây là ý kiến cá nhân, dù tôi cũng rất kính trọng con người, cũng như sự trường thọ của cụ.

Có lẽ, do quá yêu quí cụ, nên nhiều người, trong đó có cả những nhà văn, trí thức cho rằng, cụ Giáp không vướng vào những sai lầm cải cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm ..v..v.. Dù là người dốt về chánh trị, cũng có thể nhận ra, chủ trương dẫn đến những sai lầm này, của cả bộ chính trị, không phải chỉ có riêng các cụ Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng gánh chịu, mà phải tính từ cụ Hồ trở xuống. Cụ Giáp lúc đó là ủy viên bộ chính trị, uy tín, tiếng tăm đang lẫy lừng, quyền hạn cao chót vót, nên không thoát khỏi trách nhiệm này.

Cũng như vậy, nguyên nhân sự xuống đường của Phật giáo, rồi chính phủ đưa quân đội, cảnh sát ra “chiến đấu“ thời cụ Diệm, cụ Thiệu, cụ Kỳ không nên đổ lỗi hết cho người cộng sản, hoặc cá nhân nào đó… Miền Nam trù phú, lại có gần một triệu đồng bào miền Bắc di cư làm nhân chứng và hậu thuẫn, nếu như không có cái tôi lớn hơn cái chúng ta của các cụ ngồi trên, thì kẻ nào dám xách động và sợ gì xách động? Khi đã chạy sang Âu – Mỹ rồi, có lúc nào các cụ có một chút lăn tăn, ân hận? Hay cái tôi lại trỗi dậy, quay ngoắt trở về ôm vai bá cổ…, thao thao bất tuyệt, như diễn viên trên sân khấu với nhau?

Sự sai lầm này, trách nhiệm chính và trước nhất thuộc về cụ Diệm, cụ Thiệu, những người đứng đầu quốc gia.

Không phải là người nghiên cứu sử, nên suy nghĩ trên của tôi chỉ ở những sự việc, hiện tượng, nhìn thấy, không biết đúng sai thế nào? Nếu đằng sau còn những uẩn khúc khác, có lẽ phải nhờ đến sự giảng giải, nghiên cứu công tâm của sử gia Trần Gia Phụng (Canada). Chứ ở trong nước, đến như nhà sử học Dương Trung Quốc, chưa đến bảy bảy, bốn chín ngày cụ Giáp, bác đã vội vàng (bộp chộp) đưa ra ý kiến, bằng cách ghép tên Võ Nguyên Giáp vào tên đường Điện Biên Phủ. Thì quả thật, dù tôi rất thích tính khí bác đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc này, nhưng cũng buộc phải lăn tăn (nghi ngờ) tính nghiên cứu sử học của bác.

Tất cả những gì đã qua, đều chứa giá trị lịch sử văn hóa của nó. Con đường nói chung chỉ là vật chết, vật câm, nhưng khi được đặt, gắn tên mang tính đặc trưng riêng, mặc nhiên nó trở nên có linh hồn và sự sống, tự bản thân nó nói lên được giá trị lịch sử văn hóa của mình. Với cái tên Tây Avenue Puginier, sau này các cụ nhà ta đổi thành đường Cột Cờ là đẹp và hoàn toàn chính xác bởi nó gắn liền với Cột Cờ Hà Nội (1812) từ thời nhà Nguyễn. Cái sai lầm năm 1970, chính quyền Hà Nội đổi tên thành đường Điện Biên Phủ. Bây giờ, theo đề nghị của bác Dương Trung Quốc một lần nữa ghép chung tên Võ Nguyên Giáp vào con đường này. Thành ra, đường Võ Nguyên Giáp- Điện Biên Phủ, xét về ngôn ngữ cũng như văn hóa hoàn toàn bất ổn, đọc lên chẳng khác gì mittinh, hô khẩu hiệu. Về tâm linh, ông bạn tôi (Không biết đùa hay thật) bảo, càng không nên. Trận Điện Biên Phủ địch và ta chết rất nhiều, cứ mỗi lần đọc tên phố Võ Nguyên Giáp- Điện Biên Phủ liền tù tì (như hai cái mệnh đề chính) như vậy, cô hồn (vất vưởng) của những người lính tử trận cả hai phía, tưởng là ngày lễ, ngày mừng chiến thắng. Cô hồn đồng chí, đồng đội đến thăm hỏi, chúc tụng, có khi lại kêu oan báo oán, kẻ thù đến quấy quả, cụ không thể trọn giấc ngủ ngàn thu …

Như vậy, sai lầm chồng lên sai lầm. Với cái nhìn tủn mủn này, dẫn đến phá sử, chứ không phải nghiên cứu sử, làm sử. Thật ra, đặt tên phố, tên đường cho danh nhân có nhất thiết cứ phải ở Hà Nội mới là ý nghĩa, mới là sang trọng? Khi nơi đó không phải quê quán, hoặc nơi gắn liền với tên tuổi chiến tích của họ.

Do vậy, các bác muốn đặt tên danh nhân hay cái gì gì đó, nên tìm con đường mới. Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung, hiện tại không thiếu đất các bác đã, đang và sẽ thu hồi của dân để làm những công trình, những con đường đại hoành tráng, đại qui mô như các bác đã vẽ ra.

Ở cạnh nhà tôi, quận Grünau, thành phố Leipzig, thời Đông Đức có con đường mang tên cụ Hồ, (Ho Chi Minh Strasse). Nhưng sau ngày thống nhất nước Đức, chính quyền mới bỏ tên Ho Chi Minh Strasse, trả lại tên cũ đường (người) Karlsruher Strase. Trong phe xã hội chủ nghĩa, hình như bác nào cũng khoái thay tên, đổi phố, chẳng cần tính đến văn hóa lịch sử, địa lý như vậy, chứ không riêng đất Việt ta.

Các cụ nhà ta có câu, bỏ dao thành phật, không biết đúng sai thế nào. Nhưng sáng nay, vô tình đọc câu chuyện trên báo Bild dưới đây, không hiểu sao, tôi tin tuyệt đối vào cái thiện trong mỗi con người cũng như luật nhân quả:

“Tháng 3 năm 2008, một kẻ móc túi, lấy đi bóp đựng giấy tờ và 350 Euro của ông Jürgensen ở Walsrode (CHLBĐức). Sau hơn sáu năm giày vò lương tâm, kẻ cắp đã hoàn trả lại nạn nhân, toàn bộ giấy tờ, tiền bạc. Cũng theo báo Bild (ngày 14-11-2013), ngoài số tiền 350 Euro đó, kẻ móc túi đã trả thêm cho ông Jürgensen 50 Euro, kèm theo bức thư xin lỗi. Để lý giải hành động này, ngoài sự day dứt, hắn bảo, còn tin vào chúa và luật nhân quả, nên gửi trả lại tài sản cho ông“


Ông Jürgensen nhận lại ví tiền sau 6 năm do kẻ móc túi gửi trả lại
(Ảnh báo Bild ngày 14-11-2013)

Vâng! Sự sám hối của kẻ móc túi tuy có muộn màng, nhưng đó là một hành động dũng cảm với tâm hồn đẹp và trong sáng vô cùng. Từ đó tôi mới ngộ ra một điều, khi đã trèo lên, ngồi được ngất ngưởng trên cao, người ta ít khi nhìn lại, chiếc đế giầy bẩn của mình. Và nếu như được trở về cái thời cắp sách sách đến trường, phải viết bài luận gợi ca, thần thánh hóa con người, một điều chắc chắn tôi sẽ nghĩ đến hắn (Kẻ móc túi vặt này).

Đức Quốc- 23-11-2013

Anh em nhà Yakuno



Ngụy Khắc Quái

Lời tác giả: Đây là một câu chuyện “phiệu”. Nếu ai đó thấy sao nó giống chuyện đời mình thì đừng “có tật giật mình” vì đó chỉ là sự trùng hợp ngoài ý muốn của tác giả.


Chuyện kể bắt đầu từ vùng Dannoura Nhật Bản năm 1180.

Hôm ấy, hai anh em nhà Yakuno rủ nhau đi bẫy chim cu rừng. Thằng anh, Koizumi Yakuno, 11 tuổi, hơn em nó Toshiro Yakuno một tuổi. Cha chúng nghèo khó, làm nghề đánh cá voi trên biển cả, có khi đi xa mấy tháng trời mới về nhà, phải tạm gửi chúng cho bà dì ở cách đó nửa dặm đường. Mẹ mất càng làm gia đình túng thiếu hơn nhưng chúng thương yêu nhau rất mực. Không bao giờ người ta thấy chúng rời nhau nửa bước. Bắn bi, ú tim, bơi lội, bẫy chim …đâu đâu người ta cũng thấy anh em chúng sánh vai nhau. Koizumi tuy còn nhỏ nhưng tướng mạo to lớn dữ dằn như một đưá trẻ 16, 17 tuổi. Học hành dốt nát nhưng đánh nhau và mưu mẹo thì không ai bằng. Toshiro trái lại học hành rất đỗi thông minh nhưng giàu tình cảm và hiền lành nhu mì. Cả hai anh em đều còn để chỏm trên đầu. Trò vui thích nhất của chúng là bẫy chim cu rừng.

Mùa này chim cu từ đâu bay về nhiều thế. Làm xong chiếc bẫy cho em, Koizumi bảo thằng Toshiro đem đặt ở đầu rừng gần nhà lão Fujiwara. Còn nó đặt một chiếc ở mé rừng cuối sông. Toshiro nghe lời anh đi ra tít đầu rừng đặt bẫy, xong lom khom chui vào bụi cây rình kéo cho bẫy xập. Bỗng nó nghe từ xa dường như có tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng ngựa hí vang trời, chim muông hoảng hốt bay xáo xác khắp nơi. Những âm thanh ấy càng lúc càng tiến về gần nó. Hoà trong tiếng ngựa hí là tiếng đao kiếm chạm nhau chát chuá, tiếng người hét to như tiếng võ sĩ đạo lâm trận, tiếng rên la, thây người đổ xuống. Những chiếc đầu rơi lông lốc, máu phun có vòi lên mặt nó. Hoảng quá, Toshiro nằm bẹp xuống đất trong bụi rặm. Bùn, máu lấm đầy mình tanh tửi. Chờ cho đoàn người ngựa chém giết nhau đi qua hết rồi, Toshiro mới hoàn hồn chui ra khỏi bụi gai, chạy vội về nhà.

Xa xa, nó đã nhìn thấy xóm làng, nhà cửa bị đốt cháy, khói lửa ngất trời. Lửa nóng được gió thổi hừng hực tưởng chừng như đốt cháy nó tới nơi. Khi về đến nhà, Toshiro chỉ còn nhìn thấy cột kèo bị thiêu rụi, người cha thân yêu đã cháy thành than. Thằng Koizumi chưa về tới, không biết số phận ra sao. Toshiro nhận ra cha vì ông luôn đeo trên người chiếc răng con cá voi đầu tiên mà ông đã cùng bạn săn trong làng đánh bắt được khi còn thanh niên. Ngồi khóc bên xác cha một lúc, Toshiro lủi thủi đi tìm Koizumi, vừa đi vừa khóc lóc ai oán. Tất cả nhà cửa trong làng đều bị giật sập hoặc cháy rụi ra tro hết. Dân làng kẻ chết cháy, người chết vì bị đâm chém. Ðứng, ngồi, nằm, già, trẻ, bé, lớn, đàn ông, đàn bà chết đủ tư thế, đủ mọi tuổi tác.

Người sống sót kể lại trận chiến này do sứ quân (Shogun) Yoshitsume đánh nhau với các sứ quân khác, quan trọng nhất là với sứ quân Taira, địch thủ đáng gờm nhất của ông ta, để giành quyền bá chủ nước Nhật. Các sứ quân khác đã bị đại bại. Kẻ bị chém đầu, bêu giữa chợ, người bị chặt hết chân tay. Chỉ riêng sứ quân Taira lực lượng hãy còn nguyên vẹn. Nhưng yếu thế hơn, ông quyết định kéo quân về hướng Nam để gây dựng cơ đồ hầu chống lại quân của Yoshitsume sau này.

Ðang lầm lũi trên đường tìm anh ở mé rừng cuối sông, Toshiro lại nghe tiếng vó ngựa của cả một đoàn quân hùng mạnh chạy sau lưng. Quay đầu lại, nó thấy một sứ quân tướng mạo phi phàm râu dài bạc trắng, cưỡi trên lưng con bạch mã. Ông đeo kiếm bên hông sáng loáng, cung tiễn sau lưng, áo giáp sắt tề chỉnh. Chung quanh ông là những hiệp sĩ Samurai, người nào người nấy uy dũng tuấn tú. Cờ xí rợp trời. Ðó là tướng quân Taira. Nhìn thấy Toshiro vừa đi vừa khóc một mình ông ra lệnh đoàn quân dừng lại và quát hỏi Toshiro. Thằng bé sợ xanh mặt run lẩy bẩy. Tuy quát tháo nhưng giọng ông đầy thương cảm:

- Này bé kia, cha mẹ anh chị em con đâu mà lủi thủi khóc một mình thế hả?

Toshiro lí nhí:

- Dạ con chỉ còn một cha nhưng đã bị chết cháy trong trận chiến vừa rồi. Còn anh con là Koizumi bây giờ không biết ở đâu.

Sứ quân Taira vội ra lệnh cho quân sĩ lấy quần áo thay cho nó, cho ăn uống rồi ra lệnh cả đoàn quân đi về phương Nam, tránh đụng độ với quân của Yoshitsume vì ông biết đánh thêm nữa bây giờ chỉ hao quân tổn tướng mà chắc cũng chỉ rước lấy thảm bại thôi.

oOo

Từ đó Toshiro Yakuno trở thành con nuôi của sứ quân Taira Fujiwara. Toshiro được cha nuôi cưng chiều dạy dỗ. Ông buộc cả những samurai dạy cho nó đủ thứ võ nghệ nổi tiếng thời đó kể cả dạy đánh gươm Kendo. Lớn lên, Toshiro theo cha chinh chiến khắp nơi, lập nhiều công trận trong đó quan trọng nhất là hai lần đánh bại được quân Mông Cổ xâm lăng Nhật Bản. Chiến công của Toshiro không do lực lượng hùng mạnh mà do mưu lược, chiến thuật thiên tài của chàng. Sứ quân Taira thương yêu chàng như con ruột nên ông đứng ra mai mối và chủ hôn cho chàng lấy con gái nhà tướng quân Hayakawa có họ hàng thân thích với ông, nàng Yamaguchi Hayakawa kiều diễm. Lúc ấy Toshiro đã tròn 30 tuổi.


Nàng Yamaguchi kiều diễm

oOo

Về phần Koizumi Yakuno, ngày làm bẫy cho em bắt cu, lúc xảy ra chiến trận, nó cũng đang rình trong bụi rặm ở mé sông. Ðột nhiên, Koizumi nghe tiếng vó ngựa, tiếng ngựa hí, tiếng người kêu la rên siết, lửa cháy bốn bề, thây người ngã gập. Hoảng quá nó chui ra khỏi bụi rậm, ù té chạy về hướng nhà cha nó đang ở đó. Xóm làng rực cháy trong cơn khói lửa ngập trời. Koizumi chạy băng qua sông để về nhà cho nhanh. Sông loang đầy máu đỏ. Thây người chồng chất lên nhau. Nó dẫm lên xác chết làm cầu chạy về đến nhà. Cũng như Toshiro, nó nhìn thấy xác cha đã cháy thành than. Koizumi gọi réo tên em nhưng vẫn không sao tìm ra đứa em thân yêu. Dân làng kẻ mất cha mẹ, kẻ mất vợ con, người chết cháy trong đống tro tàn hay thân thể bị phanh từng mảnh. Người sống sót kéo nhau chạy về hướng Nam. Họ muốn chạy theo sứ quân Taira để được bảo vệ. Koizumi không biết đi về đâu, đành lê gót theo đám người khốn nạn đi về phương Nam. Dọc đường nó nghe người ta kể sứ quân Yoshitsume không bắt được sứ quân Taira nên nổi giận chém, giết tứ tung rồi phóng lửa đốt nhà dân lành. Có người nói còn thấy thằng Toshiro được sứ quân Taira đem đi về hướng Nam rồi. Koizumi khóc thương em đến sưng cả đôi mắt. “Từ đây còn bao giờ gặp lại đứa em yêu dấu, cùng nhau đánh bi, lội sông, bẫy chim nữa hở em Toshiro thân yêu của anh?”, Koizumi vừa than thở vừa ôn lại kỷ niệm với cha, với em nơi cái làng đánh cá nghèo nàn này. Ðoàn người cứ thế lầm lũi đi, băng rừng lội suối, trèo non, qua đèo. Ðói khát, có kẻ đã chết dọc đường.

Ðến một khúc sông, mọi người mừng rỡ vì đã có nước uống. Họ nhào xuống vục từng vốc nước đổ vào mồm. Ðang lom khom vục nước uống nữa, họ bỗng nhìn thấy, phản chiếu dưới lòng sông, những giáo mác, cờ xí, ngựa chiến đông nghịt. Ngẩng mặt lên họ bắt gặp một ông tướng lưng mười thước cao, râu ria, mắt sâu như cú vọ, áo giáp, mũ trận bằng thép sáng ngời còn nhuộm đầy máu tanh, ngồi trên lưng một con tuấn mã màu đen tuyền. Thôi rồi! Sứ quân Yoshitsume! Lão thét to lên ra lệnh binh sĩ chém, giết hết những người sợ lão mà bỏ chạy về hướng Nam theo chân Taira. Không theo lão, bỏ chạy là phải chết. Thật ra lão đến con sông này với mục đích chặn đoàn quân di tản của Taira, nhưng Taira đã nhanh chân đến đây trước và đã vượt sông đi về hướng Nam an toàn. Lão không dám đuổi theo nữa vì biết dân ở phương Nam không ưa gì lão và nơi đó lão cũng không có quân hỗ trợ. Phương Nam hầu như là lãnh điạ của sứ quân Taira. Lão đành chém, giết cho hả giận xong rồi ra lệnh kéo quân về.

Koizumi từ nãy trốn trong hốc đá nên thoát nạn. Ðói quá, đành bò ra xin binh sĩ của Yoshitsume cho ăn uống. Nghe bảo có “gián điệp” tí hon đang ở trong hàng ngũ và được vài binh sĩ động lòng từ tâm cho ăn uống, Yoshitsume vội chạy đến hiện trường xem sao. Chợt thấy thằng bé tướng mạo dữ dằn, mạnh bạo như mình và sau khi nghe tỏ bày hoàn cảnh cô đơn khốn khổ của nó, tự nhiên lão thấy có cảm tình với thằng bé ngay. Lão ra lệnh binh sĩ cho Koizumi ăn uống tử tế, tắm rửa sạch sẽ rồi cho nó cưỡi một con ngựa theo cạnh lão suốt dọc đường rút quân về phương Bắc, lãnh điạ mà lão “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.

oOo

Từ đó Koizumi Yakuno trở thành đứa con nuôi cưng yêu của sứ quân Yoshitsume. Hắn được bố nuôi dạy cho võ nghệ, binh pháp nhất là tài chính trị xảo quyệt, bịp bợm tàn ác không ai bằng. Yoshitsume bằng phương pháp này đã dẹp được nhiều sứ quân khác, thống trị trọn miền Bắc nước Nhật. Người ta nói rằng có lần mượn danh nghiã chống quân Tàu xâm lược, lão chiêu dụ những sứ quân yêu nước khác đến họp tại trang trại của lão rồi bất thần cho lâu la tập kích bằng cung nỏ giết sạch những sứ quân dám chống đối lão. Có khi lão còn dùng cả tay bọn Tàu để diệt những sứ quân này. Vì thế, về sau, trong lãnh điạ lão cai trị, người ta đặt cho lão biệt danh “Yoshitsume cáo già”. Koizumi học những mánh khoé “bình thiên hạ” này của lão rất nhanh và có khuynh hướng còn thâm độc và xảo quyệt hơn lão nữa. Trẻ tuổi tài cao có khác.

oOo

Ichinotani năm 1205.

Sứ quân Yoshitsume cảm thấy tuổi già sức yếu rồi mà chưa dẹp được Taira để làm chủ toàn cõi nước Nhật nên càng hận Taira. Lão nhất quyết bằng mọi giá phải thanh toán Taira trong năm này.


Sứ quân Yoshitsume

Vốn xuất thân là thợ rèn, chuyên rèn đao kiếm cho các Samurai nên lão học được nơi họ tài đao kiếm võ nghê vô song. Mồ côi cha mẹ, lão có một thuở ấu thơ cơ cực. Lớn lên, trong lòng chỉ nuôi mộng bá chủ thiên hạ, trả thù những người giàu có, học thức, khoa bảng, quan quyền. Khi mới chiếm trọn miền Bắc nước Nhật, lão đã ra lệnh cho thủ hạ giết sạch những nhà giàu có, những chủ đất, phú nông, quan lại, samurai và bá quan văn võ của các shogun khác. Không biết bao nhiêu là kẻ bị giết oan. Dân tình thán oán đến tận trời xanh. Vài nơi đã nổi lên làm loạn. Một mặt Yoshitsume đổ thừa thuộc hạ làm sai, một mặt thẳng tay đàn áp những kẻ nổi dậy. Sau mấy năm lão hoàn toàn bình định các lãnh điạ chiếm đóng và cai trị vô cùng hà khắc. Tất cả mọi sinh hoạt đời thường của người dân bị cấm đoán. Dân chỉ biết tuân lệnh lão và xưng tụng lão cùng những người theo lão từ thuở hàn vi, trong đó có Koizumi. Lão đã từng được một danh sư người Bạch Quỷ phương Bắc trao cho quyển chân kinh, trong đó dạy cách làm sao diệt bọn nhà giàu, bọn chủ đất, bọn khoa bảng v.v…Chỉ có những người làm thợ thuyền, nông dân mới được sống và làm quan trong vùng lão cai trị. Vớ được quyển kinh này, lão sung sướng vô tận và đem ra áp dụng trong phép trị quốc và bình thiên hạ.

Năm nay lão tự ra chỉ tiêu tối hậu là phải thanh toán cái ung nhọt Taira. Nghe đồn quân sĩ của sứ quân Taira đang hoang mang vì chuá buộc rút lui xuống sâu hơn nữa về phía xa con sông Tazima và đang thiếu thốn binh khí lương thực do bị bọn vương quốc phiá Tây phản bội, không cung cấp cho nữa, Yoshitsume tung hết lực lượng tràn xuống phiá Nam, nhất định tận diệt Taira. Quân của Yoshitsume đi tới đâu dân bỏ chạy tới đó. Lão ra lệnh giết sạch những người dân bỏ lão mà chạy. Có những nấm mồ chôn hàng ngàn người bị xỏ tay như xâu chuỗi.

Chiến thuật của lão là hành quân theo đường hiểm trở nhất để bất ngờ đánh thẳng vào kinh thành Kyoto cuả Taira. Cánh quân này do đích thân lão chỉ huy. Mặt phiá Tây Taira phòng thủ kỹ nhất nên lão giao cho một danh tướng tấn công vào.

Kinh thành Kyoto chỉ trong vài tuần chống cự, đã bị lọt vào tay đối phương. Quân của Yoshitsume chỉ cần vài ngày đã tiến đến cứ điểm cuối cùng cuả Taira, vùng eo biển Ichinotani, làng Yoshihara. Nơi đây xảy ra một trận huyết chiến long trời lở đất. Quân Taira đại bại chạy về cố thủ ở làng này. Chỉ còn vài trăm quân và các samurai trung thành, Taira nhất định không đầu hàng. Ông chiến đấu dũng mãnh như một con hổ bị thương, gầm thét vang trời trên lưng ngựa. Tay bị một mũi tên độc cắm phập vào, áo bào nhuộm máu đỏ, ông vung gươm tới đâu, đầu quân địch rơi đến đó. Khi máu ra quá nhiều, ông bắt đầu thở hồng hộc, bất thần Yoshitsume hiện ra trước mặt, cây trường thương lão luyện của lão lướt qua cổ Taira. Ðầu Taira rơi xuống đất, máu từ cổ ông tuôn lên thành vòi ướt cả chiến bào của Yoshitsume. Thừa thắng Yoshitsume thúc ngưạ bay đến lều trại nơi gia đình vợ con Taira đang ẩn nấp. Bao nhiêu hận thù giòng họ nhà này bây giờ mới được dịp rửa sạch, sẵn cây trường thương lão chém cả nhà Taira chết hết mặc dù Taira phu nhân đã quì lạy lão xin tha mạng cho các con. Thảm cảnh này đã được chàng hoạ sĩ tài hoa Seikichi vùng ngoại ô Kyoto chứng kiến và về sau vẽ lại hay xâm lên mình các cô gái để người đời truyền tụng.


Trận ác chiến ở Ichinotani, quân cuả Taira bị đánh tan

oOo

Trong khi Yoshitsume ác chiến với Taira, Toshiro Yakuno, lúc bấy giờ đã là một tướng lãnh trẻ tuổi, tài ba dưới trướng của Taira, đang trấn ở thành Yoshihara, cứ điểm trọng yếu chận đường vào kinh thành Kyoto của quân Yoshitsume. Ông không hề biết kinh thành đã mất và Taira cùng gia đình đã bỏ thành chạy về làng Yoshiha và chết thảm ở đó.

Buổi sáng hôm ấy, Toshiro đang ngồi dùng điểm tâm với vợ con bỗng lính gác thành hớt hải chạy vào phi báo thấy từ xa cát bụi mù trời có một đoàn quân với cờ xí của Yoshitsume đang tiến nhanh về phiá thành. Chỉ nửa canh giờ sau chúng đã vây kín thành Yoshihara. Cầm đầu đoàn quân này là một tướng lãnh uy dũng phi thường, râu ria rậm rạp. Ông phi ngựa đến cận thành, bắc loa kêu gọi tướng giữ thành và quân bên trong hãy ra đầu hàng. Ðáp lại lời kêu gọi này là những mũi tên bay tới tấp như mưa. Hoảng hồn, viên tướng cầm đầu quân tấn công thành quày ngưạ chạy lui về hậu cứ. Biết rằng không thể thuyết phục đám quân trong thành, ông bèn cho lệnh binh sĩ hè nhau khiêng những khúc gỗ to bằng thân cây, lấy trớn từ xa húc mạnh vào cửa thành. Tên trên thành bắn xuống như mưa, quân của Yoshitsume chết như rạ. Hết lớp này ngã, lớp sau lại tiến lên. Cứ như thế đến xế chiều, khi bóng quân sĩ in rõ trên vách thành thì đám quân tấn công đã tràn vào như nước vỡ bờ. Quân của Toshiro bị bắn, chém, chết la liệt, vắt vẻo trên bờ thành, trong hào luỹ, ngoài cổng thành. Lúc đó ông tướng đánh thành mới cùng một toán samurai hộ vệ phi ngựa vào để lùng bắt tướng Toshiro bại trận. Tìm kiếm mãi không gặp, ông ta quá chán nản nhưng may quá, binh sĩ báo chúng thấy một người kéo cả nhà gồm vợ con và thủ hạ trung thành chạy về một đường hầm bí mật hầu thoát ra khỏi thành. Tướng râu rià bèn đem một số quân chận cuối đường hầm. Khi Toshiro cùng gia đình và thủ hạ thân tín vừa chui ra, họ chạm trán ngay với ông ta. Toshiro đành liều chết mở đường máu tháo lui và bảo vệ vợ con. Ông đành phải giáp mặt giao chiến với ông tướng râu rià. Viên tướng này quá dũng mãnh. Các thủ hạ của Toshiro lần lượt bị ông ta, với cây trường thương nặng ngàn cân chém chết gần hết. Ðến khi ông ta định chém tới Toshiro phu nhân, nàng Yamaguchi Hayakawa kiều diễm, Toshiro vội quẳng giáo, quỳ xuống chịu chết thay cho vợ con. Viên tướng râu rià cảm động trước tình vợ chồng, cũng như lòng can đảm của Toshiro nên tha chết cho họ. Ông bèn sai quân sĩ trói gô Toshiro lại và truyền giải về trại. Ðêm ấy, ông ta bắt đầu hỏi cung Toshiro, sau khi cởi trói cho kẻ chiến bại.

- Mi tên họ và cấp bậc là gì dưới trướng của Taira?

Toshiro dõng dạc trả lời:

- Ta là Toshiro Yakuno, đại tướng trẻ nhất nhưng nhiều chiến công nhất, dưới trướng của sứ quân anh dũng Taira.

Nghe đến đây, tướng râu rià bỗng tròn xoe đôi mắt, dựng đứng bộ râu, bật người khỏi ghế, nhảy đến ôm chầm lấy Toshiro rồi khóc nức nở như một đứa trẻ con. Toshiro sợ quá, lấy tay đẩy ông ra. Nhưng ông ta vẫn khóc và vẫn ôm chầm lấy Toshiro cho bằng được, như ôm một đứa trẻ trong lòng. Khi dịu cơn xúc động ông mới nức nở nói:

- Ta là Koizumi Yakuno, anh của em đây, là tướng trung thành của sứ quân Yoshitsume đây. Em thay đổi nhiều quá. Em cũng không nhận ra ta à?

- Trời ơi! Anh Koizumi thân yêu của em! Sao tạo hoá lại bắt chúng ta xa cách nhau rồi lại đoàn tụ trong hoàn cảnh này, hở trời?

Hai anh em ôm chầm lấy nhau khóc lóc, nói cười, gợi lại với nhau bao kỷ niệm êm đềm lẫn thê lương ngày còn bé, cuộc đời luân lạc vinh nhục kể cho nhau nghe suốt đêm không ngủ.

oOo

Sứ quân Yoshitsume, sau khi diệt được Taira, vì tuổi già sức yếu nên đã qua đời và trao quyền chỉ huy đất nước lại cho quân sư Yamamoto. Tên này là một quân sư gian manh, khát máu không ai bằng. Từ lúc biết rằng Yoshitsume già yếu sắp chết, hắn từ từ lấn át quyền hành của lão, lặng lẽ loại trừ các tướng lãnh, các quan văn võ trung thành của lão bằng cách bắt cóc, thủ tiêu, đưa họ đi đày nơi rừng thiêng nước độc mà người nhà không ai hay biết. Sau khi Yoshitsume chết, sứ quân Yamamoto cai trị nước Nhật bằng bàn tay sắt. Trong vùng trước kia thuộc lãnh điạ của Tara, hắn bắt giam tất cả bá quan văn võ, những samurai, những người đã từng làm việc dưới thời Taira rồi giết họ lần mòn trong các trại giam thiếu ăn, dơ bẩn, bệnh tật đủ thứ và bắt họ phải làm việc khổ sai cho đến kiệt lực rồi chết. Một số ít người được tha về vì có họ hàng gần với bọn tay sai của Yamamoto.

Trường hợp của Toshiro có khác. Vì là em của tướng Koizumi nên không bị tội chết nhưng vì là tướng lãnh cao cấp của Taira nên phải bị lưu đày đi biệt giam ở một trại giam miền cực bắc Mutsu. Yamagushi ngày ngày đến chầu chực ở dinh tướng Koizumi, là anh chồng, để xin ông năn nỉ với Yamamoto tha cho chồng về đoàn tụ với vợ con. Koizumi cứ hẹn lần lữa năm này qua năm nọ, Yamagushi chẳng bao giờ thấy lại bóng dáng người chồng thân yêu của mình trở về. Thực ra Koizumi cũng không dám hé môi xin cho em vì ông ta sợ Yamamoto nghi ngờ mà mất chiếc ghế tướng lãnh. Một mình Yamaguchi với cặp nách ba đứa con còn thơ dại, bà làm đủ nghề bươn chải nuôi con, từ nghề bán đậu nành đến cuốc đất trồng khoai, bẫy cá bẫy tôm, hàng ngày đem ra ngôi chợ cách xa nhà hàng mươi cây số để bán. Từ ngày Toshiro bị lưu đày, dinh thự trong trại của vợ chồng bà đã do Koizumi chiếm lấy. Yamaguchi phải gom hết tiền bạc còn lại mua một căn nhà nhỏ ngoài cổng thành, ẩn nhẫn, thủ tiết đợi chờ ngày chồng về mặc dù bà cũng chẳng biết chồng bị giam ở đâu, bao giờ thì được tha về. Tuy đã ba con nhưng Toshiro phu nhân vẫn còn nhan sắc mặn mòi.

oOo

Sáng nay Yamaguchi dậy sớm cho con ăn rồi đưa chúng đến trường như thường lệ. Khi trở về, bà nhìn thấy trong sân nhà, Koizumi đã cột con tuấn mã ở đó hồi nào. Mừng quá, bà chạy vào nhà đã thấy Koizumi ngồi chờ. Hỏi thăm tin tức chồng: cũng lại thất vọng não nề. Bà ôm mặt khóc. Koizumi tiến đến gần bà, đặt tay trên vai bà an ủi vài câu rồi bàn tay ấy cứ thản nhiên đi xuống ngực, xuống bụng và xa hơn nữa. Yamaguchi không kịp phản ứng gì. Bỗng Koizumi ôm ghì lấy bà. Bà cố vùng vẫy thoát khỏi bàn tay cứng như thép của ông ta nhưng vô phương. Bàn tay kia của ông đã xé toang quần áo của bà rồi như điên cuồng, một tay ghì chặt Yamaguchi, tay kia ông ta tư lột hết giáp sắt, kể cả quần áo mặc trong. Mới đầu Yamaguchi còn chống cự mãnh liệt nhưng rồi sức chống cự cứ yếu dần. Trong khoảnh khắc bà thoáng nhận ra Koizumi giống hệt Toshiro chồng bà. Xa vắng chồng bao năm, Yamaguchi bỗng thấy thèm khát hương vị ái ân ngày cũ và vì nghĩ biết đâu cho Koizumi thoả mãn cơn thèm khát nhục dục thì ông ta sẽ giúp cho chồng mình được sớm thả ra, nên sau cùng bà cứ để Koizumi cắm phập vào người mình hào quang của kẻ chiến thắng, đồng thời cũng là nỗi đau nhục của người chiến bại.


Koizumi hãm hiếp Yamagushi

Sau khi chiếm đoạt được Yamagushi, tướng Koizumi mặc lại áo giáp chỉnh tề bước lên con tuấn mã, quay trở về doanh trại, không một lời từ biệt, không ngoái cổ nhìn lại, để mặc Yamagushi loã lồ ngồi thút thít khóc trong xó nhà.

Sau khi Koizumi ra đi độ một canh giờ Yamagushi mới hoàn hồn. Bà vội mặc lại xiêm y, bước ra bàn trang điểm, lấy lược chải lại mái tóc bóng mượt. Nhìn trong gương bà thấy mình còn xinh đẹp lắm. Chiếc lưng thon có xâm hình cảnh Yoshitsume chém đầu cả gia đình Taira do bà thuê chàng hoạ sĩ nổi tiếng Seikichi ở ngoại ô Kyoto vẽ, vẫn còn đó. Nó gợi lại cho bà những kỷ niệm ái ân với chồng nhưng cũng nhắc nhở bà mối thù cả dòng họ đã bị Yoshitsume tận diệt. Yamagushi vào phòng tắm để rửa cho sạch mối nhục lẫn khoái cảm do Koizumi đã lưu lại trên người. Nhưng vô ích. Càng lúc bà càng cảm thấy tội lỗi với chồng, cảm thấy phản bội Toshiro, kẻ đã luôn chở che cho bà qua bao sóng gió cuộc đời, kẻ đã suốt đời chỉ biết thương yêu vợ con và ông còn là một người yêu nước Nhật và dòng họ Taira của bà nồng nàn. Càng lúc bà càng cảm thấy nhục nhã ê chề, càng thấy không còn xứng đáng với Toshiro nữa. Bước vào buồng trong bà mở chiếc rương gỗ, lấy ra bộ quần áo cưới ngày về với Toshiro, đeo vào cổ những chiếc vòng xuyến có chạm những hình tượng của dòng họ Taira. Rồi bà lững thững trong đêm, bước ra khỏi nhà đi về phiá cánh rừng cách đó mấy dặm, có một ngọn thác cao, không than không khóc nữa, bà mím môi rồi gieo mình xuống dòng nước bạc. Thác cuốn trôi xác bà ra sông rồi từ sông ra biển.

oOo

Trong trại giam miền cực bắc Mutsu, Toshiro Yakuno ngày ngày mong ngóng tin vợ con, tin tức về kết quả chuyện Koizumi xin xỏ Yamamoto cho mình về nhà. Cả bao năm trời bị bọn cai tù hành hạ, đoạ đày, ăn uống thiếu thốn, gầy còm, Toshiro biết rồi bọn Yamamoto sẽ đày mình đến chết không ai biết. Koizumi chắc cũng không dám xin xỏ gì cho mình đâu. Tuyệt vọng.

Ðêm ba mươi tháng chạp, trời tối đen như mực. Xa xa có tiếng chó sói tru não nùng. Toshiro chờ cho các bạn tù ngủ hết bèn lén dậy chui ra khỏi chỗ nằm đặt trên những miếng gỗ thùng, tiến về điếm canh. Ðêm thanh tịnh chỉ còn nghe tiếng nghiến răng kèn kẹt của hàng ngàn tên tù trong trại giam. Trên điếm có một tên lính gác đeo cung tên, bên sườn đeo một cây đoản kiếm. đi qua đi lại. Chờ cho hắn mỏi chân ngồi bệt xuống, lén lút rít một điếu thuốc lào thì ông mọp người bò đến chân chòi. Toshiro thoăn thoắt leo lên đến điếm canh và khi tên lính vừa nghe động tịnh có người trèo lên, quay lại, đã bị ông ghịt cổ và ghì cho đến khi hắn dãy duạ vài cái rồi xuôi tay. Toshiro vội thay bộ quần áo lính canh và đeo vào người khí giới của hắn rồi trèo xuống ra khỏi trại biến mất vào khu rừng rậm gần đó.

Toshiro băng rừng vượt suối hàng mươi dặm đường đến một bến cảng tấp nập ghe thuyền buôn bán. Thay đổi y phục dân thường ông đi theo làm việc ở một tàu buôn Trung Quốc, chở hàng xuôi về Nam, đến thành Yoshihara. Về đây ông dọ hỏi, biết nay Koizumi đã chiếm nhà mình, vợ con phải ở căn nhà lụp xụp ngoại thành, vợ bị Koizumi hiếp nên tự vẫn, hai đứa con bị chuá Yamamoto đày đi làm phu cho nước bạch quỷ trên tận cùng phiá Bắc của trái đất, còn đứa út được một nhà sư Tây Tạng đem về một ngôi chuà làm chú tiểu, tận đâu không biết.

Căm hận Koizumi đến tận đáy tâm can, Toshiro nuôi chí trả thù. Nhưng dưới tay không một tấc sắt, trốn chui trốn nhủi vì là tù vượt ngục, làm sao chống chọi nổi với một viên tướng thiên binh vạn mã, uy dũng vô song? Chỉ còn một cách…

oOo

Từ một tháng nay, tướng Koizumi không ăn được ngon, không ngủ được yên. Mỗi ngày lại một chuyện rùng rợn xảy ra cho ông ta. Khi thì buổi sáng mở cửa ra đã thấy đầu con gà chọi yêu quí của ông treo lờ lững ở cửa. Lúc thì xác con chó săn thân yêu của ông chỉ còn cái đầu nhe răng ra, treo tòn ten ở cổng doanh trại. Có lúc mới sáng sớm ngủ dậy đã nhìn thấy ngoài khung cửa sổ đầu con tuấn mã móc ở cây tùng trước sân trại. Bao giờ cũng có tấm “danh thiếp” của Toshiro với “lời chúc tụng nồng nhiệt nhất”. Nếu Toshiro có thể vào trại ông để làm những chuyện này thì một ngày kia hắn ta có thể lẻn vào để giết mình, Koizumi nghĩ như vậy. Phần Toshiro, ban ngày biến đâu mất, ban đêm lẻn về ngôi nhà hoang, nhện giăng đầy đầu để “hành sự”. Koizumi chịu hết nổi, ra tối hậu thư buộc thủ hạ phải bắt cho kỳ được hoặc giết chết Toshiro.

Một đêm, khi Toshiro từ trong rừng lẻn về căn nhà hoang để hoá trang, đeo mặt nạ và lấy binh khí đi hành sự, ông lọt vào ổ phục kích của quân Koizumi. Chúng hò hét, đuổi bắt ông và bắn tên như mưa. Toshiro bị trúng tên độc rơi xuống ghềnh thác chết thảm. Ðể chắc chắn Toshiro đã chết và hồn sẽ không trở về báo oán, Koizumi sai binh sĩ đóng bè thả xác Toshiro trôi ra biển khơi.

oOo

Chuà A Di Ðà được xây cất trên một ngọn đồi làng Yoshihara nhìn ra bờ bể vùng eo biển Ichinotani. Mới năm năm trước thôi, nơi đây đã chứng kiến trận chiến ác liệt giữa sứ quân Yoshitsume và sứ quân Taira. Quân của Taira kể cả sứ quân và vợ con đã bị tàn sát hết. Chỉ còn một số rất ít Samurai trốn thoát, phải đóng bè vượt biển sang Triều Tiên lánh nạn. Ðể xây chuà, dân làng phải đào hàng chục ngôi mộ vô chủ trên đồi rồi hoả táng những xác chết cho vong linh các chiến sĩ đôi bên được siêu thoát.

Trụ trì chuà A Di Ðà là một cao tăng, không biết từ đâu đến, đến từ bao giờ, pháp danh là gì, không ai biết. Chỉ biết tướng mạo ngài phương phi, nước da trắng trẻo, sang trọng phi phàm, gương mặt chữ điền, phúc hậu hiền từ. Ai hỏi pháp danh, quê quán, ngài cũng chỉ mỉm cười, chắp tay vái mấy cái rồi nhũn nhặn trả lời: “ A di Ðà Phật!. Bần tăng là con Bồ Tát, từ xứ Phật đến”. Chiều chiều ngài hay thả bộ dọc bờ biển làng chài Yoshihara ngắm trời nước bao la, miệng lâm râm đọc kinh Phật. Từ khi về ngôi làng Yoshihara này ngài đã hành thiện cho không biết bao nhiêu gia đình dân chài: phát gạo cho người nghèo khổ, bắt mạch hốt thuốc miễn phí, dạy dỗ trẻ con, chăm lo việc cúng tế, ma chay cho dân. Ai ai cũng kính trọng, tôn thờ ngài như một vị thánh. Người ta đặt pháp danh cho ngài là thầy Chí Thiện. Có lẽ ngài là một trong những nhà sư chân chính còn sót lại tại các chuà nước Nhật thời bấy giờ. Sau khi chuá Yoshitsume đã tận diệt được sứ quân cuối cùng là Taira và thâu tóm quyền lực khắp nước, từ đó lão cho thủ hạ giả làm sư đến các chuà, tổ chức hạ bệ những nhà sư chân chính rồi chiếm lấy chuà, hành động dâm ô, vô đạo đức để dân không còn tin vào chuà chiền, sư, Phật nữa. Dân Nhật thời bấy giờ tôn sùng đạo Phật đến nỗi tại các làng xóm người ta vẫn truyền tụng nhau câu “chuà là cái Thiện của làng”. Yoshitsume cần phải làm giảm uy thế của đạo Phật trong dân chúng vì đây là lực lượng đáng sợ nhất cho quyền lực của lão.

Chiều hôm đó, Chí Thiện sai chú tiểu Hoichi lo nhang đèn, gõ mõ, tụng kinh rồi sửa soạn giường phản cho ngài nghỉ, sớm hơn thường lệ. Ngài đi bách bộ dọc theo bờ biển ngắm cảnh thiên nhiên hùng vĩ của biển cả đồng thời chiêm nghiệm những câu kinh trong quyển Kinh Phật dầy cộm ngài đã tìm được trong Tàng Kinh Các. Ngoài kia nắng chiều gần tắt, rọi chút ánh sáng vàng vọt yếu ớt lên chiếc áo nâu sòng bạc màu của ngài. Tiếng sóng rì rầm vang vọng từ xa xăm rồi lớn dần và sau cùng sóng vỡ tan thành những mảnh bạc lấp lánh thuỷ tinh dưới ánh mặt trời khi chạm vào bờ đá.

Ðang say mê thả hồn theo cảnh sắc thiên nhiên, thả hồn bay bổng theo những dòng chữ Phạn trong cuốn Kinh Phật, ngài bỗng thấy từ xa, trôi giạt vào bờ một vật gì trông như một khúc củi dài. Khúc củi bị sóng đánh trôi vào bờ rồi lại bị kéo giật ra, vật vờ, lềnh bềnh. Sau cùng, một đợt sóng mạnh hất nó văng lên bãi cát và nằm im bất động. Chí Thiện vội chạy đến xem, ngài nhận ra đó là thi thể một người đàn bà gần như loã lồ, sắp mục rữa, mùi hôi thúi xông lên nồng nặc. Chí Thiện lợm giọng buồn nôn. Ngài cố trấn tĩnh, dằn cơn buồn nôn xuống rồi vội cởi áo cà sa chùm lên che kín thân thể người chết. Người đàn bà có bộ tóc dài đen mượt, gương mặt bị mất một nửa, một chân và một tay chắc là bị cá mập cắn đứt còn quần áo bị sóng xé rách bươm. Nhưng nhìn kỹ, nhà sư cũng nhận ra bà là con nhà giòng dõi quí tộc trâm anh. Chiếc áo, loại áo cưới, rách tơi tả nhưng là loại áo sang trọng, chỉ con nhà quí tộc mới đặt may được mãi tận Kyoto. Tay còn lại và cổ bà còn đeo vòng vàng có chạm trổ những hình tượng của dòng dõi nhà sứ quân Taira. Ðặc biệt trên lưng bà, Chí Thiện cố nhìn kỹ mới nhận ra còn có xâm hình cảnh Yoshitsume cầm gươm chặt đầu vợ con nhà Taira. Bức hoạ này chỉ có tay thơ xâm lừng danh Seikichi ở ngoại ô Kyoto mới vẽ nổi và chỉ có con nhà giàu mới đủ tiền thuê y vẽ và xâm khắc lên lưng. Thời bấy giờ người đàn bà Nhật thích xâm hình lên lưng để tăng thêm “vị ngọt” kích thích của tình yêu cho đức lang quân hay người tình khi ân ái.

Ðắp cà sa cho cái xác vô thừa nhận xong, sư Chí Thiện chạy vội về chuà, gọi chú tiểu Hoichi và chúng tăng ni chuà A Di Ðà ồ ạt kéo xuống bãi biển, dùng cáng khiêng xác người đàn bà về chuà. Sau một ngày tụng kinh siêu độ cho vong linh người quá cố, đại sư Chí Thiện ra lệnh cho chú tiểu Hoichi và những đệ tử thập phương đến chuà học đạo pháp, đào huyệt, đặt cái xác quấn trong một tấm chiếu hoa, chôn vào một ngôi mộ trong khu vườn sau chuà. Không có gỗ để đóng hòm. Thời bấy giờ gạo thóc và tất cả mọi thứ bị Yamamoto tịch thu chở đi đâu không ai biết. Chí Thiện đẽo một khúc cây rồi khắc chữ “vô danh thị” cùng ngày tháng ông đem được cái xác về chuà rồi đóng thành tấm bia gỗ nhỏ gắn trên mộ kẻ xấu số.

oOo

Mấy tháng trôi qua. Bỗng một đêm, vào giờ Tý, dân làng chợt tỉnh giấc khi nghe như có tiếng đàn bà khóc, kể lể ai oán, phát xuất từ khu vườn trong chuà A Di Ðà. Lúc thì tiếng người đàn bà gọi tên một ai đó, dường như Toshiro Yakuno thì phải. Khi gọi tên người đàn ông này, tiếng khóc ai oán xen lẫn giọng âu yếm, thì thầm. Có lúc tiếng bà hốt hoảng, hét lên, hận thù pha lẫn những tiếng cười sằng sặc khoái lạc khi bà kêu tên một người đàn ông khác: Koizumi Yakuno. Sau cùng tiếng khóc thút thít, nhỏ dần rồi tắt lịm khi trời mờ sáng đúng lúc con gà tre nhà lão già Tanaka đầu xóm cất tiếng gáy đầu tiên trong ngày. Từ đó, đêm nào dân làng Yoshihara cũng nghe tiếng khóc than cuả người đàn bà này. Người ta đồn tiếng khóc phát xuất từ ngôi mộ “Vô danh thị” trong vườn chuà A Di Ðà của sư Chí Thiện. Nhưng rồi người ta cũng quen dần vì họ nghĩ ngài Chí Thiện thừa ân đức và pháp thuật để trừ yêu ma quỉ quái. Hơn nữa, vong hồn người đàn bà này có lẽ chỉ thốt nên niềm ai oán uất hận chứ không chọc ghẹo hãm hại ai cả. Có người còn đem hoa tươi hàng ngày đến cúng lễ cho hồn bà sớm siêu thoát, cho bà quên đi niềm uất hận khôn nguôi. Nhưng vong hồn này vẫn không bao giờ được siêu thoát. Vẫn réo, vẫn khóc hàng đêm, vào đúng giờ Tý và biến mất khi trời vừa sáng.

Về phần sư Chí Thiện, ngài là người đã gặp bóng ma người đàn bà vô danh ngay đêm đầu tiên nó xuất hiện nhưng ngài không kể cho ai nghe, kể cả chú tiểu Hoichi. Ðêm ấy, khi ngài đang chập chờn trước ngọn bạch lạp bỗng ngài nhìn thấy một bóng trắng đi lướt nhanh qua khung cửa sổ. Cầm cây phương trượng Chí Thiện đuổi gấp theo bóng ma. Ngài nhận ra nó. Ẩn trong cái bóng trắng của một người đàn bà đẹp đẽ, nhà sư lờ mờ thấy bên trong là mặt người đàn bà bị mất một nửa và một chân một tay bị cụt. Ðúng là người đàn bà mà ông đã đem từ bở biển về và chôn cất cách đây ba tháng. Bóng ma bỏ chạy, vừa chạy vừa kêu khóc ai oán. Một lúc sau nó dừng lại như đợi nhà sư tới gần. Rồi bỗng nó quì mọp hẳn xuống đất, dập đầu khấn lạy nhà sư như thể để cám ơn ngài đã giúp đem nó về gần cõi Phật. Chí Thiện không đuổi nữa, ngài chỉ đứng thở hổn hển, nhận lấy những cái lạy của hồn oan. Lạy xong, bóng ma chạy tiếp, nhỏ dần, nhỏ dần rồi như khói sương biến mất ngay trên nấm mộ đề “vô danh thị”.

oOo

Một buổi chiều, cũng như thường lệ, sư Chí Thiện thả bộ dọc bờ biển làng Yoshihara ngắm cảnh, niệm Phật. Cũng như lầ n trước, Sư bỗng thấy một chiếc bè trôi vào bờ, trên bè là xác một người đàn ông khoảng 40 tuổi, một mũi tên găm vào người. Xác cũng đã rữa phần nào. Cũng như lần trước, ngài chạy về chuà giục chú tiểu Hoichi và dân làng ra bờ biển lấy xác đem về chuà chôn. Nhìn diện mạo người chết, Chí Thiện biết ngay ông là tướng Toshiro Yakuno vì khi còn là tướng dưới trướng của Taira, đánh Ðông dẹp Bắc, ông này đã từng hành quân qua nơi đây. Tuy nhiên, vì sợ chuá Yamamoto và tướng soái Koizumi, nhà sư lấy khăn che mặt Toshiro, ngài cũng không dám làm bia đề tên người chết trên mộ. Ngài chôn xác Toshiro cũng trong khu vườn của chuà, cách mộ của người đàn bà “vô danh thị” vài trăm thước. Việc ngài biết lai lịch của xác chết đàn ông này là tướng Toshiro, Chí Thiện không bảo cho ai biết, kể cả chú tiểu Hoichi.

Một đêm, sau khi chôn Toshiro được vài tháng, Chí Thiện lại nghe tiếng người đàn bà khóc than như mọi đêm nhưng lần này sao ông nghe tiếng khóc có hơi khác. Giọng kể lể, ai oán, nài nỉ, có khi âu yếm. Xen lẫn với tiếng người đàn bà ngài nghe như có tiếng đàn ông, khi quát tháo, khi êm đềm dịu ngọt. Áp tai vào bàn tay, ngài nghe người đàn bà khóc lóc dập đầu xuống đất xin tha tội bị hãm hiếp rồi tiếng người đàn ông lúc đầu giận giữ quát mắng nhưng rồi rống lên một tiếng tức tưởi trước khi dịu giọng, rồi sau cùng trở nên ôn tồn, âu yếm. Người đàn ông đó, qua những lời trao đổi với vong hồn người đàn bà, Chí Thiện biết ngay là linh hồn tướng Toshiro và người đàn bà “vô danh thị” kia đích thị là phu nhân Yamaguchi của ông ta. Chí Thiện vui mừng thấy họ đã xum họp nơi cõi âm ty. Từ đó, hàng đêm, dân làng vẫn nghe, như nhà sư Chí Thiện đã nghe, những lời khóc lóc kể lể, kể cả nghe được có tiếng đàn ông. Chỉ khác một điều là dân làng không nghe rõ như ngài Chí Thiện mà chỉ nghe rất nhỏ, không biết nội dung của những lời trao đổi ấy là gì. Ðến khi trời sáng, gà bắt đầu gáy thì hai bóng ma lại chia tay, tan biến vào những ngôi mộ mà Chí Thiện đã chôn họ.

oOo

Từ khi diệt được Toshiro, Koizumi lao mình vào công việc mong quên đi nỗi ám ảnh của tội lỗi gây ra cho gia đình em. Ông ra sức khuyển mã phục vụ chúa Yamamoto hết mình, thi hành cả những lệnh tàn ác nhất của lão, bất kể lòng dân oán thán. Yamamoto sai bắt nhốt tất cả những ai làm việc dưới trướng sứ quân Taira, đày ải họ cho đến chết dần mòn trong các trại tù nơi thâm sơn cùng cốc. Nhà cửa họ bị tịch thu, vợ con họ bị đuổi ra khỏi nhà, đi xin làm tôi tớ cho lão để có cái nuôi thân, nuôi con thơ dại cũng đều bị thủ hạ của lão từ chối. Cùng đường, họ đóng bè vượt sóng, liều chết trốn qua Cao Ly nhưng trên đường đào thoát hàng trăm ngàn người đã phải làm mồi cho cá mập. Không chỉ vợ con các quan văn võ và các samurai của Taira mà hàng triệu thần dân Nhật lúc bấy giờ cũng bôn tẩu đi Cao Ly, Trung Hoa hay cả Tây vực… vì không chịu nổi đời sống cơ cực gây ra do bọn thủ hạ Yamamoto và Koizumi. Chúng vơ vét của cải, thóc luá, tịch thu nhà cửa ruộng vườn của họ để chia nhau. Quan lại thối nát, lộng quyền, nhận tiền đút lót, xét xử oan ức …đâu đâu tiếng dân oán hận đến tận trời xanh.

Thoạt đầu Koizumi còn thần phục Yamamoto nhưng rồi thấy lão tàn ác quá mức, ăn chơi trác táng, dâm dật vô độ nên ông cũng bắt đầu chán lão, nhất là sau khi lão cấu kết với những tay cùng quê với lão họp thành một “bọn bốn tên”, hạ bệ Koizumi và chỉ cho ông giữ chức tướng không có quân, chuyên lo cai quản những trại tù đàn bà trên khắp nước vì nghi ngờ ông đã trở thành kiêu binh, mưu đồ làm phản và hơn nữa lại còn là bầy tôi trung thành cũ của Yoshitsume. Coi như Koizumi đã bị thất sủng từ đấy.

oOo

Chú tiểu Hoichi hôm nay phải đốn củi dự trữ trong bếp phòng khi muà Ðông đến có nhiều củi lửa để đun và sưởi ấm. Vừa cúi xuống để nhặt một thanh củi bổ nhỏ ra chợt chú cảm thấy vai bị ai nắm chặt quá, muốn tê buốt cả toàn thân. Ðịnh thần nhìn lại chú thấy một tướng quân râu rià trong bộ áo giáp uy dũng đang nắm chặt vai chú. Ông hỏi:

- Chú tiểu, đây có phải chuà A Di Ðà của sư Chí Thiện hay không?

- Thưa ngài, phải. Nhưng sư phụ tôi đang trai tịnh trong chuà, không tiếp ai cả. Chú tiểu xanh mặt trả lời. Nhưng xin ngài nới tay một chút, tôi đau quá.

- Ðược rồi, mi đưa ta đến chuà gặp sư phụ.

Hoichi dẫn Koizumi về chuà. Chí Thiện không tiếp nhưng Koizumi năn nỉ mãi và nói rõ mục đích đến chuà để…xin xuống tóc. Chí Thiện không tin vào lỗ tai của mình nữa. Ông hỏi gặng:

- Xin ngài đừng đuà cợt kẻ tu hành. Có thật nguyện vọng của thí chủ là muốn đi tu và bái ta làm sư phụ tại chuà A Di Ðà này?

- Thưa ngài, vâng.

Chí Thiện kéo Koizumi vào phòng tiếp khách trong chuà. Hỏi rõ nguồn cơn ngài mới biết Koizumi đã hối cải việc giết em trai mình và làm nhục vợ nó. Koizumi cũng cho biết là ông đã treo ấn từ quan, xin đến chuà để ăn năn tu tỉnh, làm việc khổ sai, cứu nhân độ thế để chuộc tội với em ông. Ngoài ra ông cũng chán cảnh đời ô trọc, chán ngán bọn quan trường tham ô, ghê tởm lão Yamamoto tàn ác, xảo quyệt đang đưa đất nước vào cảnh nghèo đói, điêu linh. Thú tội xong với Chí Thiện, Koizumi sụp xuống lạy ngài xin chấp nhận lời thỉnh cầu. Chí Thiện vội đỡ ông tướng dậy, dẫn ông đến một cái am sau chuà và bảo ông ta vào nghỉ trong đó rồi sáng hôm sau sẽ làm lễ xuống tóc. Ông còn dặn trong khi tu tỉnh ở chuà, Koizumi sẽ ăn ở, tụng kinh, gõ mõ tại am, không được ra khỏi chuà vì sợ bọn Yamamoto tìm đến quấy nhiễu.

Sáng sớm hôm sau Koizumi được làm lễ xuống tóc, trước sự chứng kiến của Chí Thiện và chú tiểu Hoichi mà thôi. Từ đó, thiện nam tín nữ đến chuà chỉ thấy một vị tăng già cao lớn, lầm lì, mặc áo cà sa, đi chân đất, ngày ngày gánh phân tưới rau, bửa củi, gánh nước, làm những việc nặng nhọc nhất trong chuà. Ông không tiếp chuyện với ai ngoài Chí Thiện và Hoichi. Ðêm đêm người ta nghe tiếng gõ mõ tụng kinh phát ra từ am sau chuà. Ðêm đêm, nhà sư Koizumi ngồi diện bích mắt ngó thẳng vào vách. Bóng ông được ngọn đèn dầu hất lên tường, lung linh, chao đảo khi có ngọn gió từ cửa sổ thổi vào. Ðêm đêm ông cũng có nghe tiếng than khóc của đàn bà, tiếng xì xầm của đàn ông nhưng không rõ là gì. Vốn là một vị tướng “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, ông sợ gì những chuyện ma quái trêu ngươi?

Thật ra, sự liên hệ giữa ba người: Koizumi, Toshiro và Yamagushi như thế nào, sư Chí Thiện đã biết rõ qua những tiếng than khóc của hồn ma Yamaguchi, tiếng quát tháo, tiếng âu yếm vỗ về của oan hồn Toshiro với vợ, tiếng Yamaguchi nguyền ruả Koizumi, và sau cùng là lời thú tội của Koizumi. Nhưng ông không muốn Koizumi gặp vợ chồng Toshiro vì mối oan nghiệt, hận thù giữa họ còn lớn quá không tài nào hoá giải nổi. Chính vì thế mà ông cho Koizumi ở am, cách xa khu vườn nhà chuà và hai ngôi mộ.

Nhưng rồi ngài Chí Thiện cũng có lúc sơ sót. Một hôm, vì củi lửa trong bếp đã cạn, ngài sai Koizumi vác rìu ra khu vườn nơi chôn vợ chồng Toshiro đẵn củi. Koizumi đến vườn thấy có hai nấm mộ. Lấy làm lạ, ông hỏi chú tiểu Hoichi những nấm mộ ấy là của ai. Chú tiểu nói nấm mộ “vô danh thị” là của một người đàn bà dòng họ nhà Taira còn người đàn ông thì chú không biết, chỉ biết là xác ông được để trên một cái bè và người còn bị một mũi tên cắm phập vào. Hoichi cũng không biết gì hơn dân làng vì nhỏ tuổi nó phải đi ngủ sớm nên không nghe được những tiếng than khóc của hồn ma mà mãi đến nửa đêm mới xuất hiện. Nghe đến đây, Koizumi cảm thấy có điều gì không ổn rồi. Ông cảm thấy có sự liên hệ gì đó giữa hai nấm mồ này và những lời than khóc. Ông vội chạy bay về am, lấy mõ ra gõ lia liạ, tụng kinh thật to lên để trấn tĩnh.

Quyết tâm tìm ra sự thật, canh ba đêm hôm đó, Koizumi trong áo trận mũ mão chỉnh tề của một ông tướng, chờ cho mọi người trong chuà đã an giấc điệp, rời khỏi am, lom khom băng mình qua những rặng cây, nhà bếp, tàng kinh các, chính điện,… để đến nấp trong một bụi cây trong vườn sau chuà, nơi có hai nấm mồ vô chủ. Trăng sáng vằng vặc. Chó trong xóm tru lên những tiếng dài rờn rợn. Nằm chờ một lúc Koizumi nghe tiếng đàn bà than khóc, có lúc nghe như uất nghẹn, có lúc lạy lục van xin tha tội…Rồi thì bóng ma của bà xuất hiện, mất nửa mặt nhưng cái lưng còn thấy rõ bức hoạ Yoshitsume tàn sát gia đình sứ quân Taira do tay thợ xâm mình Seikichi lừng danh thực hiện. Koizumi nhận ngay ra bóng ma này là của Yamaguchi vì ông đã từng làm chủ tấm lưng thon này khi ông hãm hiếp bà ta tại nhà. Một lúc sau Koizumi nghe tiếng đàn ông quát tháo, rồi dịu giọng rồi ôn tồn, dịu dàng, âu yếm. Ðúng là giọng đứa em thân yêu của ông, Toshiro Yakuno. Bóng ma của Toshiro hiện ra, mặt đau khổ, tay còn cầm mũi tên đâm vào người để giựt ra, miệng không ngớt chửi rủa Koizumi Yakuno. Biết đúng là em ruột và em dâu mình, những người thân yêu mà vì theo kẻ gian ác ông đã hãm hại họ, Koizumi đau khổ hối hận trong lòng. Ðây là lúc ông cần phải tạ tội cùng em để xin nó tha lỗi cho ông, để linh hồn cha ông nơi suối vàng được phiêu diêu vì thấy hai anh em lại hoà thuận như thuở nào, bắn bi, đánh bẫy… Nghĩ thế, từ trong bụi cây Koizumi xông ra, quỳ xuống đất, dập đầu xin vợ chồng em tha lỗi. Bóng ma Toshiro phát hoảng nhảy lùi lại. Khi nhận ra người nghe lén là Koizumi, bao nhiêu căm hờn tràn lên khoé mắt Toshiro. Ông hét to:

- Anh theo bọn tà ma ngoại đạo về giết chuá của em, giết cả họ nhà người ta, đày ải rồi giết em của anh, hãm hiếp vợ nó, cướp nhà cướp của của nó, đi theo bọn Yamamoto mà bức hại dân lành, làm bao nhiêu tội ác, đến người chết cũng không buông tha, phóng uế, đập mồ đập mả người ta… Giờ đây anh bảo tôi tha tội cho anh, anh nghe thử xem có xuôi tai hay không?

Nói đến đây, xuất kỳ bất ý, Toshiro rút nhanh thanh gươm Koizumi đang đeo trên người ra chém anh. Koizumi không kịp trở tay, hốt hoảng nhưng nhờ giáp sắt che chắn, ông thoát hiểm. Với bản năng tự vệ, Koiuzumi rút nhanh thanh kiếm mà ông đã cẩn thận giấu trong lần áo giáp sau lưng ra nghênh chiến. Yamaguchi giậm chân khóc gào can gián, xin hai anh em đừng hận thù chém giết nhau nữa. Nhưng trận ác chiến vẫn tiếp tục. Tiếng kiếm, tiếng gươm chạm nhau xoang xoảng. May thay, tiếng con gà tre đầu thôn nhà lão Tanaka cất lên. Hai bóng ma bỗng thu nhỏ lại rồi tan dần vào hai ngôi mộ. Sợ có người thức giấc biết chuyện, Koizumi lật đật chạy vội về am, thay đổi quần áo trở lại làm nhà sư.

Nhưng sự việc vẫn không qua mắt được Chí Thiện. Ðêm hôm đó ngài nghe có tiếng cãi cọ, giọng đàn ông với nhau và ngài sực nhớ lại đã sai Koizumi vào vườn sau chuà đẵn củi hồi sáng, nên ngài cũng đoán được chuyện gì đang xảy ra sau vườn. Ngài vội chạy ra đó vừa lúc hai anh em nhà Yakuno đang cãi cọ. Ngài núp trong bụi cây, mục kích từ đầu đến cuối. Chờ khi Koizumi quay về am, Chí Thiện chui ra khỏi bụi cây trở về chuà, vừa đi vừa lẩm bẩm:

- Nam Mô A Di Ðà Phật. Oan nghiệt! Oan nghiệt! Nghiệp chướng này bao giờ mới cởi bỏ hết cho anh em nhà Yakuno?

Kể từ đêm hôm đó, ngoài những tiếng than khóc đàn bà, tiếng người đàn ông, dân làng còn nghe thêm tiếng một người đàn ông nữa rồi tiếng gươm kiếm chạm nhau cho đến sáng. Vì, Toshiro nhất định không tha tội cho anh, còn Koizumi nhất định không buông kiếm chịu tội. Dân làng không biết chuyện gì xảy ra, họ quên đi để sống, chỉ thầm cầu nguyện cho những oan hồn uổng tử sớm được siêu thoát. Thế thôi. Nhưng Chí Thiện thì quyết chí cầu nguyện đức Phật phù hộ cho ông đủ sức mạnh và trí khôn xoá tan hận thù oan nghiệt giữa hai anh em nhà Yakuno.

Một đêm nọ, khi Koizumi lẻn ra khỏi am để gặp vợ chồng Toshiro xin tạ lỗi rồi lại bị Toshiro từ khước và hai anh em lại đánh nhau và Kozumi lại quay về am cởi bỏ áo giáp thay áo nhà sư, ông ta đã gặp Chí Thiện ngồi trong am chờ đợi từ bao giờ. Ngài chỉ ôn tồn nói:

- Chuyện của các con ta đã biết hết tất cả. Ta che chở cho con vì nếu dân làng này biết con ở đây họ sẽ tràn vào giết con đấy. Nhưng tội lỗi của con gây ra cho gia đình Toshiro em con quá lớn. Nó không thể xoá bỏ hận thù, dung tha cho con đâu. Chi bằng con hãy tự xử lấy. Con phải huỷ bỏ tất cả những áo giáp, binh khí Yamamoto ban cho, quên đi những mưu mô xảo quyệt tàn ác con học hỏi được của lão Yoshitsume vì lão cũng chỉ học quyển kinh tai hại của bọn bạch quỷ phương Bắc, rồi ngày ngày con hãy diện bích mà đọc kinh xám hối. Không đi gặp Toshiro nữa. Cho đến khi nào Phật chứng giám cho con, lúc bấy giờ hận thù giữa con và Toshiro mới rửa sạch được và tội lỗi của con trong thời gian theo phò Yoshitsume và Yamamoto sẽ tan đi. Nghe lời Chí Thiện, Koizumi đốt hết áo giáp, binh khí , không lẻn đi gặp Toshiro nữa..

oOo

Từ bữa đó, ngày ngày người ta không thấy nhà sư to lớn lầm lì gánh phân tưới rau, bổ củi trong chuà nữa. Cửa am đóng kín, chỉ còn vang vọng tiếng người tụng niệm trong am, tiếng gõ mõ. Sau vài năm, cửa am được mở. Người ta thấy một vị sư gầy guộc, người nhẹ như lông hồng bước ra, thanh thoát, đi thẳng một mạch lên chánh điện chuà A Di Ðà để gặp Chí Thiện báo cáo kết quả tu luyện. Nhà sư đó là Koizumi. Sau những năm tháng hãm mình trong am, kinh kệ xám hối, ông thấy tâm hồn trong sáng, nhẹ nhàng, cao thương; bao nhiêu ham muốn, dục vọng tan biến. Chí Thiện hết lời ngợi khen ông đã thành tâm xám hối và tu tỉnh sắp thành chánh quả. Nhưng ngài nói ngày nào Phật chưa chứng giám là ngày đó ông chưa chuộc hết tội lỗi, trong lòng vẫn còn một ít tà tâm.

Buồn bực, Koizumi phá lệ, lén Chí Thiện mò đến hai ngôi mộ vào nửa đêm. Lần này, Toshiro nhìn thấy anh mình thân thể mong manh như tờ giấy, không áo giáp, đao kiếm, thành khẩn van nài vợ chồng em xá tội nên ông cũng động lòng. Toshiro nói trong tiếng khóc:

- Thôi chúng em cũng bằng lòng bỏ qua mọi tội lỗi cho anh. Nhưng chỉ khi nào anh em mình theo cha già trở lại làng quê cũ ở Dannoura, sống lại những ngày hạnh phúc, tuổi thơ êm ấm, bắn bi, lội sông, săn cu…, không đam mê, không thèm công danh phù phiếm, không hận thù tha nhân thì lúc đó anh em mình mới thật sự gặp lại nhau và đoàn tụ cùng nhau. Chúng mình sẽ lập bàn thờ cha già, cùng nhau thờ phụng tổ tiên.

Koizumi hiểu ý em và nhớ lời sư Chí Thiện nói là mình phải “tự xử” mới mong gặp lại em và cha già nên ông trở về am, đóng cửa, diện bích. Ông diện bích như vậy gần một tuần lễ, không ăn không uống. Cho đến hôm sau, khi mắt ông đã lờ đờ thì ngọn nến trên bàn thờ Phật bỗng tắt phụt. Một luồng gió lạnh thổi qua và trên bàn thờ Phật, rõi theo ánh sáng le lói chiếu xuyên khe cửa, ông thấy Bồ Tát hiện ra đặt tay trên đầu ông rồi biến mất.


Koizumi ngồi xếp bằng diện bích

Sáng hôm sau, Hoichi nghe lời sai bảo của Chí Thiện đi xuống am thăm ông, nó thấy ông ngồi xếp bằng diện bích nhưng người cứng đờ như khúc gỗ. Sợ quá, Hoichi áp tai vào ngưc ông mới khám phá ra ông đã tắt thở tự bao giờ. Hoichi chạy ù về chuà báo tin cho Chí Thiện. Hình như ngài không tỏ vẻ gì ngạc nhiên cả. Chí Thiện xuống đến am, vuốt mắt cho Koizumi, xác ông bỗng đổ ập xuống như một thanh củi cứng. Nhưng lạ thay, trên bức tường ông diện bích bấy lâu, chiếc bóng của ông ngồi tĩnh toạ vẫn còn in lên đấy. Chí Thiện chắp tay lạy cái bóng, miệng lẩm nhẩm chỉ đủ cho Hoichi nghe:

- Thiện tai! Thiện tai!. Phật đã chứng giám và rước ông ấy đi rồi. Ông đã hoàn thành công án. Ông đã được về với cha già, xum họp với em ông rồi. Từ nay anh em nhà Yakuno sẽ hết thù oán nhau. Nhưng họ phải làm lại hết từ đầu, ở một kiếp khác, con ạ. Còn ta nay mai rồi cũng sẽ về với Phật vì nhiệm vụ của ta đã hoàn thành. Từ nay chuà này sẽ do con cai quản. À này, còn một điều ta muốn nói với con: người đàn bà “vô danh thị” đó là phu nhân Yamaguchi của tướng quân Toshiro và Toshiro chính là người đàn ông ta vớt từ chiếc bè lên rồi chôn ở trong vườn. Hai người này là mẹ và cha con đó. Nhà sư Koizumi kia là tướng quân Koizumi, anh ruột của cha con và là bác của con. Sở dĩ ta không cho con biết lai lịch của họ vì sợ cha mẹ con sẽ bắt con đi trong khi ta lại muốn con kế vị ta cai quản chuà này, chăm sóc muôn dân. Còn tướng quân Koizumi, bác con, là một người tồi tệ, con không thể theo ông ấy để nhiễm những thói hư tật xấu.

oOo

Quả nhiên vài ngày sau, sư ông Chí Thiện viên tịch. Theo lời trối trăn của ngài, Hoichi đào xác cha mẹ rồi cho hoả táng cùng thi thể Koizumi và Chí Thiện. Xong Hoichi đem tro tàn của họ chở ra tít ngoài khơi bờ biển Ichinotani rải xuống. Những ngôi mộ được san bằng. Bóng Koizumi trên tường trong am cũng biến mất. Từ đấy dân làng không còn nghe những tiếng than khóc, tiếng cãi vã, tiếng binh khí chạm nhau ban đêm nữa. Chú tiểu Hoichi về sau được làm trụ trì chuà A Di Ðà vì bọn quan quân của Yamamoto không dám động đến chuà. Chúng nghe dân đồn chuà này thiêng lắm. Chuà được đức Phật và dòng dõi, tôi tớ chuá Taira bảo vệ. Dân làng nhờ đó được sống trong cảnh thái bình thịnh vượng. Trẻ con trong làng, mỗi khi trăng lên thường tụ tập rước đèn, cùng nhau hát một bài ca nổi tiếng thời đó của lão già hát rong Famazu Suka:

Giọt mưa trên lá tiếng nói thầm thì
Bóng dáng Phật về xoa vết thương trần thế…”