Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Và anh tồn tại


Lưu Quang Vũ

Giữa bao la đường xá của con người
Thành phố rộng, hồ xa, chiều nổi gió
Ngày chóng tắt, cây vườn mau đổ lá
Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài
Chỉ một người ở lại với anh thôi
Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi
Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới
Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương
Người ấy chỉ vui khi anh hết lo buồn
Anh lạc bước, em đưa anh trở lại
Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi
Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh
Khi những điều giả dối vây quanh
Bàn tay ấy chở che và gìn giữ
Biết ơn em, em từ miền cát gió
Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng
Anh thành người có ích cũng nhờ em
Anh biế sống vững vàng không sợ hãi
Như người làm vườn, như người dệt vải
Ngày của đời thường thành ngày-ở-bên-em
Anh biết tình yêu không phải vô biên
Như tia nắng chúng mình không sống mãi
Như câu thơ, chắc gì ai đọc lại
Ai biết ngày mai sẽ có những gì
Người đổi thay, năm tháng cũng qua đi
Giữa thế giới mong manh nhiều biến đổi
"Anh yêu em và anh tồn tại"
Em của anh ơi, đôi vai ấm dịu dàng
Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương
Em ở đấy, đời chẳng còn đáng ngại
Em ở đấy, bàn tay tin cậy
Bàn tay luôn đỏ lên vì giặt giũ mỗi ngày
Đôi mắt buồn của một xứ sở có nhiều mưa
Ngọn đèn sáng rụt rè bên cửa sổ
Đã quen lắm, anh vẫn còn bỡ ngỡ
Gọi tên em, môi vẫn lạ lùng sao.

Khuyên Quốc dân tấn thủ



Phan Chu Trinh



Gió tố mưa dông đổ lộn phèo,
Trời già chi nỡ thắt khi eo,
Ngẫm mùi trung hiếu nên cay đắng,
Dở túi văn chương đã mốc meo,
Bợm điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lửng khóc cha nghèo.
Non cao bể rộng mênh mông cả,
Mặc sức bơi chơi mặc sức trèo.

Huyết thù


Guy de Maupassant

Góa phụ Paolo Saverini sống một mình với đứa con trai trong một ngôi nhà nhỏ nghèo nàn trên vành đai của Bonifacio. Một thị trấn hình thành trên đỉnh những ngọn núi, nơi những mỏm đá nhô ra biển, trông ngang qua một con kênh tua tủa những đá ngầm, đến bờ biển Sardinia ở phía dưới. Dưới chân núi, phía bên kia và gần như bao quanh thị trấn ấy là dòng kênh có vai trò như một bến cảng, cắt vào trong đá như một hành lang khổng lồ. Xuyên một vòng giữa những bức vách đá dựng đứng trong nước, con kênh mang những chiếc thuyền đánh cá của người Italia hoặc của người Sardinia, đến tận thềm của những ngôi nhà đầu tiên và cứ mỗi hai tuần, những chiếc thuyền cũ kỹ chạy bằng hơi nước đến và đi từ Ajaccio.

Bên trên vùng núi trọc ấy là cụm nhà tạo nên những mảng vá màu trắng, trông giống như những tổ chim hoang, bám trên tảng đá nổi bật trên dòng kênh nguy hiểm mà hiếm có chiếc tàu nào liều lĩnh đi qua. Những luồng gió không bao giờ ngơi nghỉ luôn khuấy động mặt biển và ăn mòn bờ biển đến trơ trụi chỉ còn những đám cỏ lơ thơ bao phủ, gió còn thổi vào khe núi và tàn phá hai bên vách núi. Ðám bọt trắng xóa dật dờ bám quanh vô số mũi đá đen nằm khắp mọi nơi chọc thủng những cơn sóng, giống những chiếc lều rách nổi bềnh bồng nhấp nhô trên mặt nước

Căn nhà của bà góa phụ Saverini cheo leo trên một rìa đá; ba cửa sổ của căn nhà đều hướng ra khung cảnh hoang vu và heo hút này. Bà sống thui thủi ở đó với con trai là Antoine và con chó cái Semillante, một con chó to và ốm với bộ lông dài bờm xờm của một giống chó chăn cừu. Người thanh niên trẻ dùng nó để đi săn.

Buổi chiều nọ, sau một trận cãi vả, Antoine Saverini đã bị giết chết một cách thảm khốc bằng một nhát dao của tên phản phúc Nicolas Ravolati, hắn đã trốn đi Sardinia ngay đêm đó.

Khi nhận thi thể con mình và nhờ người ta mang về, bà mẹ già của anh đã không khóc, nhưng bà đã ngồi bất động rất lâu, nhìn vào xác con, vòng cánh tay nhăn nheo qua xác con mình, bà thề sẽ trả mối thù này cho con. Bà không muốn có ai bên cạnh, bà nhốt mình trong nhà cùng với xác chết và với con chó buồn thảm. Con chó cứ tru lên mãi, nó đứng ở chân giường, đầu sục vào xác chủ, đuôi cụp xuống. Nó không buồn nhúc nhích, cả bà mẹ cũng thế, bà cúi xuống và nhìn sững vào xác con lặng lẽ chùi nước mắt.

Xác người thanh niên nằm ngửa, trong chiếc áo choàng dày bằng vải séc với một lỗ thủng ở phía trước, trông như đang ngủ; nhưng khắp nơi đều đầy máu; máu trên áo sơ mi bị xé phăng bởi lần cấp cứu vội vàng; trên áo choàng, trên chiếc quần chẽn, trên mặt anh, trên đôi tay. Máu bết dính đông cứng lại trên râu và tóc anh.

Bà mẹ già bắt đầu nói với anh. Con chó lặng yên trong lúc bà nói.

“Rồi đây, con sẽ được báo thù, đứa con bé bỏng của mẹ, con của mẹ, đứa con đáng thương của mẹ. Hãy ngủ yên, ngủ đi, con sẽ được báo thù, con nghe đấy chứ! Mẹ của con đã thề như thế! Và mẹ của con sẽ luôn giữ lời thề; con biết như vậy mà”

Bà chập chạp cúi xuống thi thể của anh, đặt đôi môi giá lạnh của mình lên môi của xác chết.

Khi đó Semillante bắt đầu tru lên một lần nữa. Nó tru từng hồi dài, đều đều, những tiếng kêu não nùng thảm thiết.

Người đàn bà và con chó, vẫn cùng nhau ngồi đó cho đến sáng.

Antoine Saverini được chôn vào ngày hôm sau, và không bao lâu ở Bonifacio chẳng còn ai nói về anh nữa.

Anh chẳng có anh em hay bà con nào gần gũi. Không có một người đàn ông nào ở đó để báo thù. Chỉ có duy nhất mẹ anh, một bà già, đang nghiền ngẫm suy tính.

***

Từ phía bên kia của con kênh bà đã quan sát từ sáng đến tối, một đốm nhỏ trên bờ biển. Ðó là một làng nhỏ của người Sardinia, Longosardo, nơi những tên cướp người Corse trốn chạy và trú ẩn khi bị truy lùng gắt gao. Bọn họ trở thành toàn bộ cư dân cho cái làng nhỏ hướng ra bãi biển phía trước quê nhà của họ; và ở đó họ chờ đợi thời cơ thích hợp để trở về, về lại vùng cây bụi rậm ở Corsia. Bà biết rằng Nicolas Ravolati đã trốn tránh ở chính cái làng đó.

Ðơn độc một mình, suốt ngày dài ngồi bên cửa sổ, bà nhìn xa xăm nơi đó và hoạch định chuyện trả thù. Làm thế nào bà có thể thực hiện mà không có sự giúp đỡ của người khác, huống hồ là bà đã quá gầy yếu và đã gần đất xa trời? Nhưng bà đã hứa, đã thề trước xác con. Bà không thể quên, mà bà cũng không thể chờ đợi nữa. Bà sẽ làm gì đây? Ban đêm bà không thể ngủ được, bà không còn ngủ được cũng như không còn thấy thanh thản; bà miên man tìm kiếm cách giải quyết. Con chó nằm ngủ dưới chân bà thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và tru lên. Từ khi chủ nó qua đời, nó vẫn thường tru lên như thế, như thể nó gọi anh, như thể cái tâm hồn của con vật, không nguôi thương nhớ, vẫn cứ giữ mãi những hồi ức không phai của người chủ.

Một đêm nọ, khi Semillante lại đang bắt đầu rền rĩ, bà mẹ bỗng nảy ra một ý tưởng, một ý tưởng hoàn toàn hợp lẽ với lòng hận thù sâu sắc và tàn bạo. Bà trầm tư cho đến sáng, thế rồi khi mặt trời ló dạng, bà đến nhà thờ. Bà cầu nguyện, quỳ gối trên nền đá, phủ phục trước Chúa, bà van xin Ngài giúp đỡ bà, cứu rỗi bà, ban cho cái thân hình suy sụp của bà một sức mạnh cần thiết để trả thù cho con trai.

Rồi bà trở về nhà. Trong sân có một thùng rượu cũ dùng để hứng nước mưa, bà úp lại, đổ nước đi, gắn chặt xuống đất bằng chiếc cọc và những hòn đá; kế đến bà xích Semillante vào chiếc cũi đó, rồi vào nhà.

Sau đó bà bắt đầu bước tới bước lui trong phòng, không nghỉ ngơi, mắt bà vẫn hướng ra vùng biển Sardinia. Hắn ở đó, tên sát nhân.

Suốt một ngày và đêm dài con chó cứ tru. Vào buổi sáng bà già cho nó một chút nước đựng trong chén, và không cho thêm gì nữa, không súp, không bánh mì.

Một ngày nữa trôi qua. Semillante kiệt sức, lơ mơ ngủ. Ngày hôm sau hai mắt nó sáng lên, lông dựng ngược và nó liều lĩnh giật sợi xích.

Một lần nữa, bà già không cho nó ăn gì. Con vật điên cuồng vì đói, sủa khàn cả giọng. Một đêm nữa trôi qua.

Lúc rạng sáng, bà mẹ Saverini đi sang hàng xóm để xin hai bó rơm. Bà lấy chiếc áo cũ đã hư của chồng nhồi rơm vào bên trong giống như một hình nhân.

Trồng một cái trụ trên sân trước chiếc cũi của Semillante, bà cột vào đó cái hình nộm mà giờ đây trông giống như một người đang đứng. Rồi bà trang trí cái đầu hình nộm với một sợi dây vải đã cũ. Con chó, ngạc nhiên nhìn người đàn ông bằng rơm, yên lặng, mặc dù bị cơn đói hành hạ.

Bà già đến nhà người bán thịt lợn và mua một miếng dồi thật dài. Khi trở về nhà, bà đốt một bếp lửa nhỏ ở sân sau, đóng chiếc cũi chó lại và nướng miếng dồi lợn. Semillante, điên cuồng, lồng lộn và nước bọt sủi đầy mép, mắt nó như gắn vào món ăn, mùi thơm phức đã cào cấu bao tử nó.

Với miếng dồi bốc khói bà mẹ làm thành một chiếc cổ áo cho hình nộm rơm. Phải rất lâu bà mới có thể buộc miếng dồi vòng quanh cổ sao cho nó ngập vào bên trong hình nộm. Khi công việc xong xuôi, bà thả con chó ra.

Với một cú nhảy vọt, con vật lao lên cổ họng hình nộm, móng chân nó bấu trên vai hình nộm và bắt đầu cắn xé. Con vật rơi xuống với một mếng dồi trong miệng, nó lao lên lần nữa, cắn ngập răng chiếc cổ áo làm bằng dồi ấy và xé thành những mếng vụn, nó lại rơi xuống lần nữa, rồi lại lao lên, ngấu nghiến một cách bạo tàn.

Với những miếng ngoạm lớn, nó bứt khuôn mặt và xé toàn bộ phần cổ ra manh mún. Bà già theo dõi, lặng lẽ và bất động, một niềm hy vọng loé trong tâm tưởng của bà. Thế rồi bà xích con chó lại lần nữa, bỏ đói nó hai ngày nữa, và lặp lại cuộc diễn tập khác thường đó.

Ròng rã ba tháng trời bà huấn luyện cho con chó chiến đấu theo kiểu ấy, đoạt lấy bữa ăn bằng những chiếc nanh nhọn. Bà đã không còn xích con chó nữa mà chỉ cần ra dấu là nó tấn công hình nộm.

Bà đã dạy cho con chó cắn nát và nhai ngấu nghiến cái hình nộm không có thức ăn giấu bên trong cổ họng. Sau đó bà thưởng cho nó miếng dồi lợn mà bà đã làm sẵn.

Ngay khi thấy hình người, Semaillante run lên, nó hướng mắt về phía bà chủ - người sẽ ra lệnh cho nó: ”Ði” trong tiếng huýt sáo kèm cái phẩy tay.


***

Khi cảm thấy giờ phán quyết đã điểm, một sáng chủ nhật bà mẹ Saverini đi xưng tội và rước lễ với một vẻ vô cùng thành kính; thế rồi bà khoác vào người bộ trang phục đàn ông giống như một người ăn xin. Bà mặc cả với một ngư dân Sardinia, để ông ta đưa bà cùng con chó sang bên kia eo biển.

Trong chiếc túi vải bà đựng một miếng dồi lợn thật lớn. Semillante đã không được ăn uống gì hai ngày nay. Cứ mỗi phút, bà già lại cho nó ngửi thấy mùi thức ăn thơm phức, kích thích cơn đói của nó.

Họ đến Longosardo. Người đàn bà đảo Corse bước đi bằng những bước khập khiễng. Bà đến nhà một người làm bánh và hỏi thăm nhà của Nicolas Ravolati. Hắn đã trở về lại nghề cũ, làm thợ mộc. Hắn đang làm việc một mình phía sau xưởng.

Bà già đẩy cửa và gọi hắn:

“Ê! Nicolas! ”

Người đàn ông quay lại; thế là, bà thả ngay con chó và la lên:

“Ði đi, cắn nó đi, cắn nó!”

Con thú điên cuồng lao tới và táp lấy cổ họng của hắn ta.

Người đàn ông chìa tay ra, túm chặt lấy con chó và lăn lộn trên nền đất. Hắn quằn quại vài phút, đập chân trên nền đất, thế rồi hắn nằm im bất động trong khi Semillante sục mõm vào cổ họng hắn và xé tơi tả.

Hai người láng giềng, ngồi trên bậu cửa thản nhiên kể lại rằng đã thấy một lão ăn mày đi ra với một con chó gầy còm vừa đi vừa ăn một thứ gì đó màu nâu mà chủ của nó cho.

Chiều hôm ấy, bà già trở về nhà. Ðêm đó bà ngủ rất ngon.

Nhị Tường dịch

Người đàn bà không nhan sắc


Trần Lệ Thường

Thơm đứng bên cửa sổ, tóc buộc ở sau gáy bằng một sợi dây thun màu vàng. Trong ngày, hễ có lúc nào thuận tiện chị lại đứng bên cửa sổ nhìn ra khoảng sân xi măng rợp bóng cây bàng. Gió đưa những chiếc lá xào xạc, lá nào vàng thì lìa cành rơi xuống sân. Hoàng hôn với những bóng râm sẫm lại giữa những cây bàng trong khi bầu trời vẫn còn giữ được một màu nhôm đánh bóng. luồng ánh sáng lấp lánh cuối ngày ví như tia hy vọng mỏng manh ở trong chị.

Đến tháng bảy mưa dầm thì chị về đây làm việc đã mười năm. Trước đó chị công tác ở một cơ quan hành chánh sự nghiệp trong thị xã. Quê ở vùng nông thôn sâu, bên dòng sông nước đục ngầu sáng chiều vẫn chở những mảng lục bình xuôi ngược. Khi chiến tranh kết thúc, mái nhà của gia đình chị chỉ còn là một hố bom khuất sau hàng dừa nước xanh rì. Cô bé Thơm lúc ấy mười ba tuổi, người gầy nhom đen đúa với đôi bàn tay, bàn chân thô kệch lại thêm tật lãng tai sau lần hụt chết vì một quả bom nổ rất gần - chẳng còn ai thân thích ngoài một người chú họ xa. Thơm được chú đưa về thị xã nuôi nấng và bắt cô phải học văn hoá dù cô đã qua tuổi tiểu học. Dù sau Thơm cũng qua được lớp năm phổ cập và đậu tiểu học. Năm Thơm hai mươi tuổi, chú Thơm xin cho cô vào làm việc ở một cơ quan hành chánh. Cô làm tạp vụ, tiếp phẩm và vô số công việc khác. Ban ngày, lặng lẽ chăm chỉ với công việc. Tối đến, lùi lũi về căn hộ chật hẹp ở khu tập thể, Thơm nằm co quắp trên chiếc giường gỗ cứng, mắt mở thao láo nhìn lên nóc mùng, cô cố vận dụng đôi tai bệnh tật của mình để lắng nghe tiếng gió thổi bên ngoài cửa sổ. Sáng ra, chưa sáu giờ, Thơm đã dậy nấu cơm, quét sân với đôi mắt trũng sâu vốn có tròng trắng nhiều hơn tròng đen.

Sau, nghe nói có làng trẻ mồ côi Thơm xin chuyển về đó. Ở đây, công việc có bận rộn hơn nhưng những đứa trẻ hình như khiến chị vui lên. Cùng với chị có hai người phụ nữ khác cũng làm công việc nuôi trẻ. Mẹ Hai, mẹ Tươi ngoài ba mươi tuổi có gia đình và con cái. Vì công việc đòi hỏi nên thỉnh thoảng cả hai mới về thăm nhà. Họ có một mái nhà riêng và một hạnh phúc riêng. Đôi lần chị thở dài khi chị nghĩ về họ rồi nhớ đến mình. Chú chị giờ đây đã về hưu sống với vợ chồng người con trai duy nhất, hoạ hoằn một năm có hai lần chú đến thăm chị, mặc dầu từ thị xã đến đây chỉ hơn hai mươi cây số. Lặng lẽ, cô đơn, đêm đêm ngồi đom những chiếc cúc áo đứt như người thư ký ngồi mân mê những chiếc đinh ghim mà mong cho đến giờ tan sở. Gần bốn mươi tuổi, chị chưa bao giờ nghe được một lời tỏ tình, một câu hò hẹn, nào đâu một bài thơ đẹp, nào đâu nhữngcánh bướm ép khô trong quyển vở học trò. Và chị chưa bao giờ nhỏ được một giọt nước mắt dỗi hờn trong một lần ai lỗi hẹn. Có lần xem phim truyền hình “Hoa Phong Lan” chị cứ bồi hồi day dứt. Giá mà có ai đó tặng cho chị một giò phong lan như vậy có lẽ chị hạnh phúc lắm. Thời gian cứ qua, mỗi ngày tóc chị mỗi ít đi, xơ xác, đôi vai gầy nhô lên qua lần vải áo rẻ tiền. Tự biết mình, một người đàn bà không nhan sắc, nên chị chẳng màng soi gương, không bao giờ quan tâm đến thân thể áo quần. chị chỉ cặm cụi với công việc và tìm vui trong tiếng cười của các đứa trẻ. Rồi bỗng dưng một tối ẵm thằng bé quấy khóc trên tay chị nẩy ra ý nghĩ có một đứa con riêng của mình. Thật hạnh phúc! Đó sẽ là niềm an ủi vô biên của chị! Và chị chọn đứa trẻ mà chị yêu mến nhất. Nó được mang đến đây khi vừa mở mắt chào đời được hai ngày, bây giờ đã qua tuổi thôi nôi. Trước tình cảnh của chị, ban giám đốc bằng lòng để chị nhận nuôi đứa bé. Mọi sinh hoạt chẳng có gì thay đổi, duy có đìều nó sẽ được khai sinh mang tên Lê Minh Nhựt, mẹ là Lê Thị Thơm.

Cũng chẳng có gì khiến cho chị phải ngóng trông khắc khoải nếu như không có một người trong đoàn từ thiện thường đến thăm trẻ muốn nhận nuôi bé Nhựt. Chẳng phải chú Sáu giám đốc đã cho anh ta biết bé Nhựt không phải là trẻ mồ côi đó hay sao... Nhưng anh ta vẫn tỏ ra quyến luyến bé, quan tâm đặc biệt đến nó làm như thằng bé bụ bẩm vừa biết nói bập bẹ này có sức thu hút đặc biệt đối với anh ta. Qua cô Huế y sĩ chị cũng biết đôi điều về anh ta. Tên là Phạm Văn Quân, đã từng đi bộ đội, có một mối tình dang dỡ trong chiến tranh. Hoà bình rồi, cuộc sống ổn định, anh ta có một cửa hiệu bán tạp hoá bên chợ Ba mươi tháng tư, sống với mẹ và một cô em gái… tất cả những chuyện về Quân chị không hề quan tâm. Huế nói thì chị làm ra vẻ chú ý, đầu gật gật. Những điều Huế được biết về Quân là qua những người cùng đi với Quân nói lại chưa biết thực hư thế nào. Cho dù có thực hay hư thì chị cũng không màng đến, cả đến dáng đi khập khểnh của Quân, nếu Huế không nói thì chị cũng không biết. “Anh ta là thương binh, bị thương ở chân trái”. Điều chị lo lắng là bé Nhựt rất mến Quân. Trẻ con được ai thương yêu chiều chuộng cũng đều quyến luyến người đó. Nào đồ chơi, nào quần áo, nào quà, nào bánh… Nó thường cười nắc nẻ mỗi khi Quân nhấc bổng nó lên cao. tiếng cười của cả hai làm vỡ toang không gian yên tĩnh của buổi trưa êm ả và muốn làm vỡ tung lồng ngực chị. Những lúc ấy Thơm từ trong cửa sổ nhìn ra rất khó chịu. bản tính ích kỷ của người phụ nữ trổi dậy ở trong chị, chị không muốn ai đụng vào một sở hữu của chị dù rằng họ không làm mất mát một thứ gì. Thêm nữa đó lại là lẽ sống của đời chị. bởi vậy chị thường tìm cách giữ rịt lấy thằng bé ở trong nhà mỗi khi thoáng thấy Quân đi vào hay đang đứng nói chuyện với ai đó cạnh cây bàng. Còn bé Nhựt vừa nhác thấy Quân đã vứt bỏ cả đồ chơi, bỏ dỡ chén cơm đang ăn tất tả chạy ra ngoài “Ba! Ba Quân! ”. Nó hét to lắm. Thật là ghét! Thơm bị lãng tai mà còn nghe nó hét inh ỏi. mỗi lần nghe như vậy chị lại thấy tưng tức, mặc dù tất cả trẻ ở đây đều gọi Quân là “Ba Quân”. Có lần Quân đến vào lúc bé Nhựt đang ngủ trưa. Thật may! Trưa nó ngủ dậy muộn. Chị khắp khởi mừng thầm. “Nó ngủ rồi”. Chị nói ngay khi Quân vừa bước vào. “Vậy à! ” Quân đưa mắt nhìn về phía thằng bé đang nằm ngủ như để yên tâm về những lời chị vừa nói. Thơm hả hê trong lòng khi thấy Quân có vẻ ngượng ngập, tay cầm một món gì đó trong chiếc hộp giấy. Chị vờ chăm chú xếp quần áo. “Nó mới ngủ thôi. Đừng đánh thức nó”. “Ờ! ” “Mà nè! ” Hôm trước nó ăn sôcôla của anh cho nó đau bụng cả đêm. Lần sau đừng để phần cho nó nữa, cứ chia hết cho mấy đứa kia đi”. Không ngẩng lên nhưng Thơm biết Quân đang nhìn chị khó chịu. “Tôi có bắt mất nó đâu mà chị ghét tôi quá vậy... ” Quân hỏi lớn tiếng, nhưng không phải vì đang bực mình mà vì anh biết chị bị lãng tai. Anh toan đi ra cửa nhưng chưa đi vội mà đưa chiếc hộp về phía chị. “Đưa bé hộ tôi”. chẳng biết chị có nghe hay không nhưng chị vẫn bình thản gấp chiếc áo trên tay và không buồn ngẩng lên. Quân thở ra, đặt chiếc hộp trển đầu giường rồi khập khểnh ra khỏi phòng. Tiếng chân của anh vang lên không đều và chị cũng không nghe thấy.

Lại một buổi chiều, mọi sinh hoạt đang dần đi vào buổi tối, tất cả trẻ đều đã tập trung vào nhà sau bữa ăn chiều vậy mà Quân còn bế bé Nhựt ngồi trên thành xi măng ở gốc cây bàng. Những người cùng đi với Quân chờ anh không được đã đi về trước. Đã vậy, đến lúc anh lên xe bảo nó vào nhà để anh đi về nó cứ lắc đầu “hổng chịu! hổng chịu! ” và khóc đòi theo. Thơm bồn chồn từ nãy giờ, không nén được chị ra ẵm phắt nó vào còn phát vào mông nó mấy cái ngay trước mặt Quân. Anh nhìn theo cả hai một lúc lâu với vẻ mặt buồn bã. Đợi hai mẹ con khuất hẳn trong nhà, anh mới nổ máy xe chạy đi. Nghe tiếng xe nổ bé Nhựt càng khóc dữ dội hơn, nó dỗi không thèm nhìn chị mà úp mặt xuống gối đến khi ngủ thiếp đi. Đêm hôm đó chị mấy lần đến giường thăm chừng như thể sợ nó có thể bất ngờ biến mất, như sợ có ngọn gió lạ ùa vào phòng cuốn nó đi. “Tôi có bắt mất nó đâu mà chị ghét tôi quá vậy”. Câu nói của Quân như là tiếng chuông gõ vào đầu Thơm từng hồi, từng hồi khiến chị vô cùng hoang mang lo sợ. Liệu có một lúc nào đó Quân sẽ thực hiện lời nói ấy không... Và bé Nhựt, tự nó sẽ bỏ chị mà về với Quân. Chị không có thời gian dành riêng cho nó, ăn thì ngồi xếp hàng như các trẻ khác, ngủ cùng đồng loạt trên giường như nhau. Với chị chỉ có sự khắc khe và hình phạt còn Quân luôn mở rộng vòng tay đón với bao vuốt ve trìu mến, cả đến những sự nuông chiều có khi quá đáng. Chị cứ ngồi bó gối trên giường thằng bé cho đến sáng. Phải biết giành giật lấy những gì mình đang có. chị quyết tâm nghĩ như vậy nên sáng hôm sau chị lên văn phòng gặp chú sáu giám đốc. “Cái gì... Nghỉ việc à... ” Chú sáu muốn nhảy chồm lên trên ghế khi nghe nguyện vọng của chị. “Rồi hai mẹ con sẽ sống ra sao... Đâu cần phải trốn tránh như vậy…”. “Cháu phải đi chú à…”. “Chặc! Thôi để chú nói với Quân đừng đến đây nữa để cho cháu yên tâm. Chú hứa như vậy. Nhớ! Không được lén lút bỏ đi đâu. Nghe chưa...”.

Quân không đến thật! Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày… chị thở phào nhẹ nhõm như người vừa cất được gánh nặng khỏi vai. Chị không còn lúc nào cũng để mắt đến thằng bé nữa. Có lẽ vì vậy nên chị không thấy nó buồn và ngơ ngác. Một tuần, hai tuần, rồi ba tuần… một đoàn xe gắn máy chạy vào sân chưa kịp dừng lại bé Nhựt đã chạy ra ngoài hét to: “Ba Quân! Ba Quân! ” Thơm ôm một chồng quần áo trẻ em. Vừa bước vào nhà trẻ, trông qua cửa sổ chị thấy nó xẻn lẻn đứng nhìn những gương mặt lạ hoắc vừa mới đến. Một người cúi xuống bế nó lên nựng nụi. Nó buồn thiu sụp mắt nhìn xuống đất. Thơm quay mặt đi che giấu nỗi xót xa và cũng như chị trốn tránh không muốn nhìn nhận lòng cảm thấy trống vắng. Như Huy Cận “Vậy đó tự nhiên mà họ lớn”. Cái “tự nhiên” sao mà thật “tự nhiên”. Đã hơn nửa đời người lẽ nào vẫn còn “tự nhiên” đến vậy. Lần đầu tiên trong đời chị cảm nhận một nỗi nhớ da diết dày vò tâm tư chị. Một sự tiếc nuối tưởng chừng như khiến chị ngạt thở. Thằng bé mỗi ngày càng bơ phờ thấy rõ, biếng ăn, lười chơi, đêm ngủ hay giật mình. Chị chợt nhận ra mình đã quá ích kỷ. Có lẽ không nên giành giựt những gì không thể giành giựt được. Về với Quân tương lai nó sẽ tốt đẹp hơn. Quân sẽ cho nó một mái nhà riêng và những gì nó mong muốn. Thơm muốn ứa nước mắt khi nghĩ đến lúc chị phải mất nó. Nhưng chị không thể vì chị mà không nghĩ đến tương lai của nó. Chị thầm mong Quân trở lại, lần này thôi, chị sẽ nói: “Tôi thua anh rồi!” và để Quân mang thằng bé đi càng xa càng tốt. Chị sẽ khóc, sẽ đau khổ lắm nhưng rồi chị sẽ quên, sẽ lại sống như những ngày tẻ nhạt trước đó. Không có bé Nhựt và không có cả Quân. Hôm trước, thằng bé ôm con gấu nhồi bông ngồi ở bậc thềm thì chú Sáu đến, thấy chú nó hỏi: “Ba! Ba Quân đâu...” Chú cười xoa đầu nó: “Bỏ rồi! Bỏ Nhựt rồi!” Rồi chú nhìn Thơm đang đứng cạnh đó. “Con có mẹ Thơm rồi”. Vẻ đắc ý của chú khiến Thơm phải nhìn xuống đất. Chị chỉ muốn nói với chú “Cháu đã sai rồi chú ạ!”

Hai mươi chín ngày rôi Quân vắng bóng. Mẹ Hai và mẹ Tư nói như vậy còn Huế y sĩ thì nói ba mươi ngày. Thơm thì cho là ba mươi mốt ngày. Chị tin là mình chính xác nhất. Từ buổi chiều Quân mặc chiếc áo sơ mi màu xanh dương và chiếc quần xam xám đứng vịn con ngựa gỗ cho thằng bé Nhựt cưỡi với vẽ mặt nặng trĩu. Chị biết, hôm đó chú Sáu đã nói những gì chú đã hứa với chị. Chú đâu biết là giờ đây chị cảm thấy thiêu thiếu một cái gì đó. Hình như là tiếng cười của Quân và thằng bé, hình như chiếc bóng của Quân ngã dài trên mặt sân, hình như… mọi cái điều hình như thoắt ẩn thoắt hiện ở trong chị, ở nơi người đàn bà không nhan sắc đã đi quá xa tuổi dậy thì. Chị bỗng dưng khắc khoải từng ngày, mong chờ từng phút mà hy vọng thì như ánh hoàng hôn sắp tắt ở cuối ngày.

Thơm vén mấy sợi tóc loà xoà trên má, nghe tiếng trẻ nhốn nháo chị biết chúng sắp sửa từ nhà ăn đi lên. Thơm định rời cửa sổ thì bỗng nhiên chị trông thấy Quân xuất hiện trên khoảng sân đã râm mát. Chị nhìn đăm đăm không chớp mắt như sợ chỉ cần chớp mắt một cái thì dáng người vừa xuất hiện kia sẽ biến mất như ảo ảnh. Trên sân Quân đang hối hả đi vào, về phía nhà trẻ, một tay xách vali, tay kia xách mấy túi nilon nằng trĩu. Anh có vẽ bơ phờ như vừa qua một chặng đường dài. Sau phút lặng người, Thơm như sực tỉnh quay đi toan tìm thằng bé thì nó đã cùng bọn trẻ chạy vào phòng. “Nhựt! Lại đây! Ba Quân! Ba Quân!” Chị gọi nó và chỉ tay ra cửa. Thằng bé ngẩn người ra nhìn chị một chút rồi chợt hiểu, nó ù chạy ra khỏi phòng. Bọn trẻ chạy theo nó nhưng đến cửa thì cả bọn dừng lại trố mắt nhìn nó đang lao vào vòng tay của Quân. “Ba! Ba!” Các thứ trên tay Quân bị vứt xuống sân. Anh nhấc bổng nó lên miết cằm vào mặt vào cổ nó. “Ôi! Nhớ quá! Nhớ quá!” Thằng bé cười nắc nẻ. “Bỏ! bỏ rồi!” “Bỏ à! Ai bỏ... Bỏ ai...” “Ba! Bỏ! Bỏ Nhựt!” Quân bật cười. “Không bao giờ! Không bao giờ ba Quân bỏ Nhựt”. Thơm đứng bất động bên cửa sổ với đôi mắt vô hồn. Cuối cùng thì ánh sáng le lói cuối ngày cũng tắt. Cuối cùng thì Quân cũng trở lại. Chị sắp mất tất cả rồi. Có ai như chị, đợi chờ để bàn giao lẽ sống của đời mình. Có cái gì đó dâng lên ngực chị đầy ứ, tức uất. Chị bỏ đi như chạy trốn ra phía sau nhà, đứng tựa vào bồn chứa nước, úp mặt vào hai bàn tay chị khóc nức nở. Khóc thật to như ngày nào người ta cho chị hay bom rơi ngay nhà của chị mà mẹ chị còn ở trong đó, như lúc người ta đưa cho chị chiếc nón tai bèo và chiếc khăn rằn của ba chị. Những giọt nước mắt đã từ lâu lắm rồi không thoát ra khỏi đôi mắt khô khốc của Thơm giờ như nguồn nước có muốn ngăn cũng không được. “Mẹ Thơm!” Tiếng gọi của thằng bé lôi khuôn mặt đầy nước mắt của chị ra khỏi đôi bàn tay, Quân đang bế nó trên tay đứng trước mặt chị. Thơm nhìn cả hai như qua một tấm kính phủ hơi sương. “Xin lỗi!”. Quân có vẽ bối rối. “Tôi thăm thằng bé một lát… tôi biết chị phiền. Xin chị thông cảm! Tôi đi thành phố vừa về đến đây thì ghé lại. Tôi … có quà cho hai mẹ con”. Quân đặt bé Nhựt xuống đất để nó chạy đến với thơm. Chị bế nó lên, úp mặt vào vai nó thổn thức. “Anh mang nó theo đi. Nó nhớ anh lắm… Nó rất cần anh…” Rồi chị sụt sùi khóc. Những tiếng nấc bị nén lại trong lồng ngực khiến đôi vai chị run lên. Tai chị lùng bùng nhưng chị vẫn nghe được tiếng Quân rõ ràng, chậm rãi. “Đi xa lâu ngày tôi cứ nôn nóng, linh cảm có người đang chờ đợi tôi. Không phải là bé Nhựt! Vì thằng bé, tôi biết nó nhớ tôi lắm, nó rất cần tôi. Và nó cũng rất cần chị” Quân bước tới một chút như sợ Thơm không nghe được lời anh. “Tôi cũng rất cần chị, nhưng… tôi không biết chị có cần tôi hay không?"


Thơm không trả lời, người người như nhẹ hẫng lâng lâng và chị như thấy trước mặt một giò phong lan thơm ngát.

TRIẾT LÝ KINH DOANH TỪ QUÁN CHÁO NGƯỜI HOA


Câu chuyện của một phóng viên nọ đến phỏng vấn một ông chủ tiệm cháo người Hoa trong một cuộc khảo sát về mô hình kinh doanh.

Phóng viên : Thưa ông trước khi bán cháo ông làm gì?

Chủ tiệm : Ngộ bưng cháo cho cha ngộ bán.

Phóng viên : Vậy cửa hàng này có bao nhiêu năm?

Chủ tiệm : Không có năm, chỉ có đời. Mấy đời lận. Bà cố ngộ bán cháo. Ông nội ngộ bán cháo. Cha ngộ bán cháo. Ngộ bán cháo. Con trai ngộ…

Phóng viên : Trời ơi! Không có gì khác ư?

Chủ tiệm : Khác chớ, ngày trước có một cửa hàng ở Quảng Châu, bây giờ có hai cái ở Sài Gòn, ba cái ở Hoa Kỳ, bốn cái ở Úc.

Phóng viên : Người ta thành công thì sẽ cho con cái làm Giám đốc, còn ông?

Chủ tiệm : Ngộ có thành thì vẫn cho con làm chủ cửa hàng.

Phóng viên : Ông không muốn chúng đi học sao?

Chủ tiệm : Muốn nhiều, con ngộ một đứa có bằng Thạc sĩ kinh doanh cháo, đứa khác vừa bảo vệ luận án Tiến sĩ cơm

Phóng viên : Ở trong bếp à?

Chủ tiệm : Ở Đại học Havard, Mỹ.

Phóng viên : Học xong chúng nó về đâu? Thành ông gì?

Chủ tiệm : Về nhà này, thành người rửa bát cho “papa” chúng.

Triết lý kinh doanh từ quán cháo người Hoa (1)

Phóng viên: Ông gọi khách hàng là vua hay thượng đế?

Chủ tiệm : Gọi không quan trọng. Quan trọng là đối xử thế nào?

Phóng viên : Truyền thuyết kể lại rằng nhiều tỷ phú người Hoa đi lên từ một thùng đậu phụng rang, đúng không?

Chủ tịch : Không, những ngày đầu tiên làm sao có tới cả thùng, chỉ vài trăm hột thôi.

Phóng viên : Có tiền mà ông mặc bộ đồ vải thô thế này à?

Chủ tiệm : Dạ, người vô đây chủ yếu là người bình dân. Họ sẽ còn vô nếu thấy chủ tiệm cũng giống như họ.

Phóng viên : Lý do gì khiến người Hoa hay chọn kinh doanh ăn uống?

Chủ tiệm : Thưa, đơn giản vì kinh doanh đó phục vụ cái bụng con người. Nếu phục vụ cái đầu sẽ phát sinh nhiều rắc rối lắm.

Phóng viên : Ông bán cháo tim gan mà sao sáng ra nhà ông ăn toàn cháo trắng với củ cải muối?

Chủ tiệm : Dạ, nếu ngộ cứ ăn cao hơn khả năng của ngộ thì thế nào cũng tới lúc ngộ phải nhảy vào nồi cháo.

Phóng viên : Chắc là ông ít vay vốn ngân hàng?

Chủ tiệm : Nhà băng có tiền, nhưng không bao giờ có cách nấu cháo để mượn cả.

Phóng viên : Bây giờ tôi muốn ăn một tô, nhưng tôi chưa có tiền mai thanh toán được không, thưa ông?

Chủ tiệm : Dạ không phải là ngày mai mà 20 năm sau cũng được.

Phóng viên : Nhưng lúc ấy lãi suất thế nào?

Chủ tiệm : Dạ, lãi là ông luôn nghĩ tới hàng cháo này, đấy mới là lãi to.

(st)

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Tranh Christian Lazaro





Whispers



I've been here before



Fall
Christian Lazaro is born in 1972 in Philippine. At the age of 9 he moved with his family to the United States of America.

Maika Elan đoạt giải World Press Photo 2013





Bộ ảnh “Chọn Lựa Hồng” của Maika Elan đã được World Press Photo Foundation chọn trao giải nhất cho thể loại truyện trong bộ môn “Những Vấn Ðề Ðương Ðại” (Contemporary Issues). Ðây là lần đầu tiên một phụ nữ Việt đoạt giải nhiếp ảnh Báo Chí Thế Giới.

Maika Elan tên thật là Nguyễn Thanh Hải, 26 tuổi, là một nhiếp ảnh gia tự do. Nhiếp ảnh là sở thích của chị. Từ năm 2011 Maika Elan đã quyết định chọn chủ đề “Tình yêu đồng tính” để thực hiện nên bộ ảnh “The Pink Choice”. Một trong những mục đích khi thực hiện bộ ảnh này là chị muốn cho mọi người thấy những người đồng tính cũng là những người có sinh hoạt rất bình thường. Với bộ ảnh, Maika cố gắng phá vỡ những thành kiến xấu xa về người đồng tính. Theo chị, ở Việt Nam tuy người ta thường nói cởi mở, phóng khoáng, nhưng đồng tính vẫn là một thứ mà xã hội chưa chấp nhận. Ðể thực hiện bộ ảnh trong suốt 18 tháng, chị đã được anh Nguyễn Văn Dũng, một người đồng tính ở Việt Nam đã tự viết truyện về bản thân mình, giúp đỡ để xâm nhập vào thế giới đồng tính.

Chủ đề ảnh này đã mang lại cho Maika Elan nhiều thành công. Cuối năm 2011, chị đã cho triển lãm những tấm ảnh về chủ đề này ở Viện Goethe (Hà Nội), mang tên “Yêu Là Yêu”. “Tình yêu thì luôn đẹp, và chúng ta chỉ có thể hoàn toàn được coi là chấp nhận những người đồng tính luyến ái khi chúng ta chấp nhận tình yêu của họ - và cũng coi tình yêu đó như là một thứ gì đẹp đẽ,” chị cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Bộ ảnh của chị đã được chọn vào vòng chung kết cuộc thi Nữ Nhiếp Ảnh Gia Á Châu năm 2012.

Bộ ảnh dự thi “Chọn Lựa Hồng” gồm 12 bức ảnh được một tuyển chọn trong 45 bức ảnh Maika Elan đã thực hiện trên hơn 70 cặp đồng tính ở Hà Nội, Ðà Nẵng và Saigon.

Trong cuộc thi ảnh báo chí WPP năm nay đã có 103.481 ảnh được gởi đến từ 5666 nhiếp ảnh gia. Lễ trao giải sẽ được tổ chức vào tháng 4/2013 tại Amsterdam.

Trong cộng đồng Việt Nam, đồng tính vẫn được nhiều người coi như một hình thức bệnh hoạn. Ngay tại Little Saigon (California), nơi được xem như “thủ đô” của người tị nạn Việt Nam, trong công tác tổ chức cuộc diễn hành Tết vừa qua, theo như truyền thống của người Việt ở đây, cũng đã xảy ra trục trặc khi Liên Hội Những Người Ðồng Tính (LGBT) bị gạt ra ngoài chương trình chính thức. Nội vụ đã đưa tới thưa kiện vì bị đối xử phân biệt, mâu thuẫn sau đó đã làm một số hội đoàn và nhân vật tai mắt không tham dự buổi lễ.

Minh Hạnh

Tình cô gái điếm




Dưới gầm cây cầu dài và rộng là nơi trú ngụ của hắn từ vài tháng nay. Cây cầu này ban ngày lúc nào cũng rầm rập xe cộ qua lại làm bụi bay mù trời. Chính chỗ gầm cây cầu này là nơi ăn ngủ của người có số phận không may là hắn. Cách xa cây cầu khoảng ba mươi thước, hắn dựng một cái chòi nhỏ được che chắn bằng những thùng carton. Nơi cái chòi nhỏ đó hắn hành nghề sửa xe hai bánh từ sáng sớm tinh mơ cho đến tận khuya. Sở dĩ hắn ở dưới gầm cầu mà không bị công an phường làm khó là vì, những người đi kinh-tế-mới trốn về mỗi ngày mỗi nhiều và sống lang thang khắp cùng thành phố.

Hắn có dáng người cao, khuôn mặt khá khôi ngô nhưng nước da thì ngâm ngâm đen và ốm. Kết quả của những ngày hắn phải ngồi bên lề đường đầy nắng gió và bụi bặm. Hắn làm việc bảy ngày một tuần dù trời có mưa hay trời nắng nóng.

Từ ba tuần nay hắn thấy một cô gái cũng có dáng vẻ cao ráo nhưng nước da thì trắng ngần. Cứ trời vừa chập choạng tối là cô xuất hiện đứng bên gốc cây, cách chỗ cái chòi sửa xe của hắn khoảng năm bảy mươi thước. Hắn tò mò muốn nhìn xem cô từ đâu đến, và đến với phương tiện gì. Nhưng vì luôn bận tay sửa xe cho khách nên khi hắn nhìn đến chỗ cái cây to lớn là đã thấy cô gái đứng đó rồi. Sở dĩ hắn muốn biết những điều đó cũng vì cô gái có vẻ không phải là người hành nghề chuyên nghiệp. Cô có vẻ rụt rè mỗi khi có người đàn ông nào đến bên cô. Cô luôn có cầm một vật trong tay, khi thì đó là quyển sách, khi thì đó là tờ báo. Những ngày đầu hắn thấy cô, có khi vô ngồi trong chiếc xe hơi sang trọng, có khi cô ngồi đằng sau chiếc xe hai bánh. Và, cũng có hai lần cô ngồi trong chiếc xe mà người miền Nam mới thấy qua không bao lâu. Chiếc xe có hình dạng thô kệch của một nước cộng sản lớn nhất hành tinh này. Và, hắn hiểu ra cô là gái điếm.

Buổi trưa vắng khách, hắn ngồi vắt chân chữ ngũ, lưng dựa vô vách. Đôi con mắt lim dim dưới cái nón lưỡi trai đã bạc phếch. Nhìn hắn có vẻ mệt mỏi nhưng không phải vì làm việc, mà vì cái nắng nóng như thiêu như đốt giữa trưa hè. Trên mặt đường phía trước mặt hắn ánh lên một vùng sáng choang như ở đó có vũng nước. Từ chỗ đó đang bốc hơi lên ngùn ngụt... Hắn ngồi như thế cho đến khi có một bàn tay đặt thật nhẹ lên vai hắn, làm cho hắn giựt mình mở mắt ra. Đèn đường đã lên tự lúc nào rồi mà hắn không hề hay biết gì cả. Hắn đã ngủ một giấc thật ngon. Trước mặt hắn là cô gái mà hắn nhìn thấy mỗi tối đứng bên gốc cây từ ba tuần qua. Cô gái đang ngậm điếu thuốc chưa đốt và khi thấy hắn choàng mở mắt, cô lấy điếu thuốc ra khỏi môi và nhoẻn miệng cười rồi hỏi hắn:

– Anh cho em xin tí lửa.

Hắn lúng túng tìm cái hộp quẹt một lúc rồi như chợt nhớ ra, hắn đưa tay vô trong túi quần và lấy ra cái hộp quẹt. Cái hộp quẹt Zippo không còn nắp. Cô gái điếm ngậm điếu thuốc lại trong đôi môi đẹp được sơn son màu đỏ chót. Cô cúi xuống chìa điếu thuốc về phía ánh lửa từ cái hộp quẹt đang phát ra. Khói từ điếu thuốc thơm phả vô mặt hắn, cộng với mùi thơm nước hoa, mùi son phấn... làm cho hắn ngây ngất. Cô gái ho lên sù sụ từng cơn. Hắn đứng lên và cùng lúc đó cô gái điếm đưa bao thuốc lá về phía hắn:

– Mời anh hút với em cho... tỉnh ngủ.

Hắn thèm muốn chết cái hơi thuốc lá thật thơm của cô gái điếm nhưng vẫn lắc đầu:

– Tôi... tôi có thuốc đây mà...

– Em biết anh có thuốc rồi, nhưng đây là em mời để... chuộc cái lỗi đã làm anh thức giấc.

Hắn nhìn cô gái và nhoẻn miệng cười. Hắn rút ra điếu thuốc và gắn lên môi đốt hút.

– Tại cái nón của anh làm em tưởng anh đang... cúi đầu nhìn xuống đất, chứ không ngờ là anh đang ngủ.

Điệu bộ của hắn không được tự nhiên. Mặc dù hắn biết người đang đứng trước mặt hắn chỉ là cô gái kiếm sống bằng thân xác của cô. Nhưng vì bị mặc cảm bởi bộ đồ đang mặc trên người nên hắn bị lúng túng. Cô gái vẫn ho lên từng cơn sù sụ làm cho hắn phải lên tiếng:

– Cô đừng hút nữa. Để tôi lấy nước cho cô uống là hết ho ngay.

Hắn đi vô trong chòi một lúc và khi ra hắn cầm theo chai nước nhỏ. Cô gái điếm nhận chai nước từ tay hắn và cô liền bỏ điếu thuốc xuống đất rồi lấy giày dí lên. Mọi động tác cô gái làm thật khoan thai.

– Em mới tập hút hai ngày nay thôi nên chưa quen.

– Hút thuốc hại lắm cô ơi. Như tôi đây... buồn quá không biết làm gì thì hút cho... vui chứ tôi đâu thấy ngon lành gì đâu.

Cô gái đưa cho hắn nguyên gói thuốc mới hút có hai điếu.

– Anh cầm lấy... hút dùm em. Em không bao giờ hút nữa đâu.

Lần đầu tiên hắn chạm mặt và nói chuyện với cô gái điếm. Khi nói chuyện lời nói của cô phát ra rất rõ ràng, nhẹ nhàng và từ tốn. Có những đêm không có khách sửa xe, hắn ngồi kín đáo nhìn về phía cô gái điếm đứng bên gốc cây và trong bộ quần áo đầm. Hắn thích nhìn những cô gái trong bộ đồ đầm... Gợi lại hình ảnh người con gái đầu đời hắn yêu và yêu hắn. Không biết bây giờ người con gái hắn yêu đang ở đâu cùng với gia đình. Hay cũng có thể nàng đã... Hắn nhìn cô gái đang đứng trước mặt và làm một cuộc so sánh. Cả hai cũng đều suýt soát tuổi nhau. Nghĩa là cũng chỉ khoảng hai mươi hai hai mươi ba tuổi thôi. Tuổi đang xuân và đẹp nhất trong đời người con gái. Nếu không có một cuộc đổi đời oan nghiệt thì giờ này hắn và người hắn yêu vẫn còn có nhau và, cô gái đang đứng trước mặt hắn có lẽ sẽ không phải có mặt tối nay tại cái chỗ tồi tàn này để xin lửa hút thuốc và... chờ người đàn ông xa lạ nào đó lát nữa sẽ đến đón đi. Những đêm đã qua, khi có khách là cô lên xe và đi luôn cho đến tối hôm sau hắn mới thấy lại cô. Nếu không có chuyện xin tí lửa như hôm nay thì không biết đến bao giờ hắn và cô mới quen nhau. Có lẽ cô gái điếm thấy hắn không có vẻ lưu manh vì ánh mắt của hắn luôn nhìn ngay mắt cô mỗi khi nói. Hắn không có cái nhìn chằm chằm thèm muốn như những người đàn ông mà cô đã gặp qua. Hắn và cô gái điếm quen nhau từ hôm đó.

Ngày hôm sau, từ chập tối trời đã mưa tầm tã rồi. Đêm nay hắn thấy trong người không được khỏe nên không muốn ngồi chờ khách đến sửa xe như mọi đêm. Hắn cảm thấy lạnh vì trời có nhiều gió. Hắn muốn uống vài ly rượu cho ấm rồi đánh một giấc tới sáng cho khỏe. Đang lui cui dọn dẹp đồ nghề thì một chiếc xích lô trờ tới. Hắn cảm thấy thất vọng vì hắn không thể từ chối những người đang cần đến hắn. Người phu xích lô vội vã bước xuống xe và mở nhanh cái bạt che mưa cho khách ra. Hắn nhoẻn miệng cười vì cô gái điếm ngồi trong xe cũng đang cười với hắn và ngoắc hắn lại gần.

– Anh Tân ơi, đi ăn với em đi rồi đêm nay anh cho em ngủ lại chỗ của anh nhe. Em... thấy mệt nên không muốn... gì hết.

Những gì hắn suy đoán về cô gái điếm đều gần đúng cả. Cô gái này khôn ngoan nên ăn nói rất biết lựa lời. Cô không có những hành động hay lời nói của những cô gái điếm chuyện nghiệp mà hắn từng gặp qua. Đêm đó cô gái điếm nằm bên hắn trong cái chòi dưới gầm cầu và tâm sự. Hắn và cô gái kể cho nhau nghe câu chuyện về cuộc đời mình. Quê hắn thuộc vùng cao nguyên đất đỏ. Vùng đất mà thi sĩ Vũ-Hữu-Định đã viết:

Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố tình thân
Đi dăm phút đã về chốn cũ...

Ngày chưa... đứt phim hắn cũng đã từng lãnh nhận những công việc quan trọng cần đòi hỏi nhiều đến trí óc và, dưới tay hắn cũng có rất nhiều người phụ công việc cho hắn. Hắn còn sống độc thân và gia đình của hắn thì không còn một người nào nữa. Vì chỉ có một mình và tiền kiếm được thì cũng nhiều nên hắn luôn muốn chiêu đãi bạn bè. Hắn là người hào hoa nên được bạn bè liệt vào hàng công tử với biệt danh: “Tân công tử”. Có bao nhiêu tiền là hắn vui thú với bạn bè hết. “Tao còn độc thân thì tụi mày cứ để hết cho tao... thầu. Mai đây nếu tao có gia đình rồi và chẳng may bị... xuống chó thì tụi mày cho tao ăn lại chứ có gì mà tụi mày phải bận tâm.” Nghe hắn nói như vậy nên bạn bè cũng chìu theo. Trong nhóm khoảng chục đứa thì chỉ có hắn là được hoãn dịch vì công việc. Còn ngoài ra thì đều là lính cả mà lương Thiếu úy, Trung úy thì có là bao. Tuy vậy chứ cứ mười chầu thì bạn bè cũng giành trả một... . Cho đến ngày tất cả phải chia tay nhau để đi tù cải tạo. Hắn không phải là “Ngụy quân” nhưng vẫn phải đi trình diện theo diện “Ngụy quyền”. Hắn biết rất rõ là không bao giờ có chuyện dăm ba ngày hoặc nửa tháng rồi về, nên hắn quyết định không đi trình diện. Hắn bỏ chỗ ở và ra sống ngoài đường phố. Ngày trước, dù hắn có tưởng tượng cao siêu đến cỡ nào thì hắn cũng không làm sao tuởng tượng nổi ra cái cảnh có ngày hắn phải sống dưới gầm cầu bên con sông nước đen thui và thúi hoắc, như bây giờ. Đang từ một người ngồi trên voi, muốn ăn gì thì ăn, muốn ở đâu thì ở, muốn đi đâu thì đi... Chớp mắt một cái, hắn bị dìm xuống tận cùng hố sâu thăm thẳm để không có cái mà ăn, không có chỗ để mà trú thân. Cũng may hắn từng có thời gian học trường kỹ thuật nên giờ đây hắn mới có thể sống qua ngày với nghề sửa xe. Hắn tin con người có số. Định mệnh của mỗi một con người đều đã được sắp đặt sẵn bởi bàn tay của Thượng-Đế. Có thể cuộc sống hiện tại của hắn cũng chỉ là thời gian thử thách tạm thời mà hắn phải trải qua. Nói theo tín ngưỡng của hắn thì hắn đang phải vác thập tự giá. Hắn vui vẻ vác và tin tưởng cách mãnh liệt là rồi đây hắn sẽ thoát ra khỏi cảnh khốn cùng này.

Ngày xưa cô gái điếm – tên Loan – người đang nằm bên cạnh hắn đây, có tiếng là hoa khôi của trường nữ nội trú thuộc tỉnh Lâm-Đồng Đà-Lạt. Loan là con một. Loan được gia đình cho vô học trường nội trú thuộc dòng tu Công giáo từ khi mới tám tuổi. Trường nội trú này hắn có biết vì hắn cũng từng học nội trú ở Đà-Lạt rất nhiều năm. Gia đình Loan thuộc hàng vọng tộc và ba của Loan là sĩ quan cao cấp trong quân đội. Và, khi thành phố Đà-Lạt phải di tản thì Loan cũng phải rời khỏi trường và về sống với gia đình trong căn nhà to lớn ngoài mặt tiền đường Hiền-Vương Sàigòn. Thế rồi trong khi ba mẹ Loan đang tìm phương tiện để thoát ra khỏi Việt-Nam thì chẳng may bị tai nạn và cả hai cùng qua đời khi chẳng còn bao ngày nữa thì Sàigòn thất thủ. Vì từ nhỏ Loan đã sinh sống trên Đà-Lạt nên không có tên trong tờ khai gia đình chung với ba mẹ. Ngày tang thương của ba mẹ chưa qua thì tang thương kế tiếp lại đến và đổ ụp xuống tất cả mọi người dân của miền Nam. Người của chế độ mới muốn chiếm đoạt căn nhà nên cố tình không đếm xỉa gì đến trường hợp của Loan. Và... Loan không còn cách nào hơn là phải làm... như đang làm để kiếm sống cho qua ngày.

Hắn vẫn nằm im lắng nghe từng lời tâm sự của người con gái có hoàn cảnh thật đáng thương. Hắn thương hoàn cảnh của cô gái cũng như thương chính hoàn cảnh mình. Thỉnh thoảng hắn thở dài nhè nhẹ nhưng cũng đủ cho người con gái nghe được. Loan ngẩng đầu lên nhìn ngay mặt hắn xem có chuyện gì mà làm cho hắn phải thở dài. Thấy hắn nằm im và hai mắt nhắm lại nên Loan tưởng hắn ngủ. Loan nằm xuống nhè nhẹ thì bất ngờ hắn quay người qua và úp mặt vô cái ngực trần của Loan, đồng thời hai tay hắn siết thật chặt lấy tấm thân cũng không có một mảnh vải nào. Một luồng nước nóng hổi thấm vô ngực của Loan rồi làm ướt xuống tới nách. Loan nằm im để cho hắn khóc. Hắn cần phải khóc để được vơi đi phần nào nỗi đau khổ. Loan cũng đã từng như vậy mỗi khi nhớ đến ba mẹ và hoàn cảnh hiện tại của mình. Một lúc lâu sau, Loan vừa nói vừa lấy bàn tay xoa nhè nhẹ lên lưng của hắn:

– Ngoài trời sau cơn mưa lớn rồi cứ rã rích mãi. Mưa Sàigòn là thế. Mưa Đà-Lạt cũng vậy. Những trận mưa lớn và những đợt mưa kéo dài nhiều ngày... Anh vẫn còn nhớ những ngày mưa ở Đà-Lạt chứ?

Hắn nghe rõ Loan nói và hỏi, nhưng hắn vẫn nằm im, vẫn đang vùi đầu vô ngực của Loan mà không trả lời. Thấy vậy Loan nói tiếp:

– Nhớ lại đã có những lần khi trời đang mưa, em mặc áo mưa chạy xe lòng vòng ngoài đường không có nơi đến và cảm giác thú vị làm sao!Cũng trong trạng thái đó, em chạy xe Honda đến hồ bơi, như tìm được một người bạn để tâm sự, em vùng vẫy dưới nước thật thoải mái...

Bất ngờ hắn ngẩng cao đầu và nhìn ngay mặt Loan nói như ra lệnh:

– Em nghe anh nói đây. Em hãy chuẩn bị để chỉ trong nay mai thôi, khi nào anh nói đi là em phải đi ngay. Em phải ra khỏi chốn này càng sớm càng tốt.

Quá bất ngờ khi nghe hắn nói nên Loan lúng túng hỏi lại:

– Anh... anh có đi cùng với em không? Và... có... tốn nhiều không anh?

– Em không phải tốn đồng nào cả. Mọi chuyện anh lo hết rồi, nhưng anh thì chưa đi được. Anh còn phải ở lại giúp những người bạn của anh nữa. Anh sẽ rời khỏi chỗ này và không còn sửa xe nữa.

– Bộ anh trong tổ... Hay là anh... cho em chờ đi cùng với anh luôn được không?

– Hãy nghe anh và đừng hỏi nhiều, cũng đừng làm khác những gì anh đã tính. Nếu em đi không lọt thì còn có anh ở ngoài để lo cho em và tiếp tục nữa chứ... Hai đứa cùng kẹt thì ai lo cho mình.

– Dạ, em nghe anh. Anh nói em làm gì là em sẽ làm như vậy.

– Như vậy là em ngoan lắm! Thôi bây giờ mình ngủ đi vì cũng sắp sáng rồi đó.

Hắn vừa nằm xuống thì Loan nói nhỏ bên tai hắn:

– Anh à. Em muốn...

Bàn tay của Loan đang lần đến sợi dây thắt lưng quần của hắn. Hắn nuốt nước miếng và định ngăn bàn tay của Loan lại. Nhưng rồi hắn vẫn nằm yên không động đậy. Loan chồm người lên nằm trên mình hắn. Hắn nhắm mắt lại và để cho Loan chủ động mọi việc cho đến khi nàng và hắn buông nhau ra.

***

Hắn nhìn theo người đàn bà tuổi trung niên đang nắm tay một đứa nhỏ cùng bước vô tiệm ăn nhanh Burger King tại thành phố Amsterdam. Hắn tin cặp mắt của hắn không thể nhìn lầm được. Chắc chắn đó là Loan rồi. Tuy đã ba mươi ba năm không gặp mặt nhưng dáng người đó, khuôn mặt đó vẫn không thay đổi nhiều, thì làm sao hắn có thể không nhận ra được. Hắn bước ra khỏi xe và đi vô tiệm để gặp Loan thì vừa lúc đó, Loan và đứa bé, với một người đàn ông đang quàng tay qua vai Loan cùng bước ra. Loan nhìn ngay hắn và giật mình đứng lại. Hắn cũng nhìn ngay Loan nhưng lại bước đi tiếp vô bên trong. Hắn kịp nghĩ là không nên làm cho cuộc sống của Loan bị xáo trộn. Khi Loan cùng chồng con vô ngồi hết trong xe và chạy đi, hắn nhìn theo bảng số xe thì mới biết đó là xe đến từ Pháp Quốc. Có lẽ vợ chồng Loan đến đây du lịch.

Hắn vô ngồi trong xe nhưng không chạy đi. Hắn ngồi yên đó và hồi tưởng lại cái ngày của ba mươi ba năm về trước. Ngày đó hắn đưa Loan đi là chuyến đầu tiên, và đã đi trót lọt. Trước khi Loan bước vô ngồi trong lòng chiếc ghe. Loan đã nói nhỏ, thật nhỏ, những lời âu yếm bên tai hắn:

– Anh ráng bảo trọng lấy thân và nhớ đi sớm nghe anh. Em mong chúng mình sẽ gặp lại nhau dù thời gian có là bao lâu. Em... em yêu anh! Anh là người đàn ông đầu tiên mà em yêu. Anh đã đối xử với em thật tốt. Tiếc là thân em...

Hắn đưa tay lên môi Loan ngăn không cho nàng nói tiếp. Sau chuyến của Loan, tổ chức mà hắn may mắn được tham gia đã đưa được hơn mười chuyến nữa. Người tổ chức là Đại úy thuộc Binh chủng Công binh, cũng là vị chỉ huy của người bạn của hắn mà hắn đã từng có nhiều lần gặp mặt ông và cùng ngồi ăn uống với ông. Một hôm kia ông đang trên đường đi Bà-Rịa, thì chiếc xe Honda của ông bị bể bánh. Định mệnh đã run rủi cho ông và hắn phải gặp lại nhau. Ông và hắn đã ôm nhau và cả hai nước mắt cứ chảy ròng ròng mà không ai nói lên được một lời nào... Và, bây giờ hắn cũng đang khóc khi nhớ về ông, nhớ về kỷ niệm với người con gái tên Loan mà hắn vừa gặp lại trong một hoàn cảnh mà hắn phải làm như vừa rồi. Sau khi hắn đi thoát, vị sĩ quan Công Binh dự định sẽ cùng gia đình đi chuyến kế tiếp thì... ông bị bắt và bị hành hạ thật nhiều, thật dã man.

Hắn tin con người có số. Định mệnh của mỗi một con người đều đã được định đoạt bởi bàn tay của Thượng Đế. Ngày đó hắn không bao giờ có thể tưởng tượng nổi sẽ có ngày một con người hiền lành, có uy tín và luôn coi trọng danh dự như ông, cuối cùng lại là người bị hành hạ đến thành phế nhân. Ông bị đánh đến bán thân bất toại và hiện vẫn còn ở lại quê nhà.

– Phải... anh Tân đó không?

Hắn giật mình ngước nhìn người vừa hỏi. Trước mặt hắn là Loan. Tại sao Loan không đi luôn mà quay lại tìm hắn để làm gì. Có còn gì nữa không để nối lại dĩ vãng? Hắn vừa lau nước mắt vừa hỏi lại người đàn bà bằng tiếng Hòa-Lan.

– Xin lỗi, bà hỏi gì ạ?

Loan vẫn nói với hắn bằng tiếng Việt-Nam:

– Chính là anh Tân đây rồi. Em không thể quên được giọng...

Hắn làm vẻ mặt ngơ ngác như không hiểu và hỏi lại cũng câu hỏi cũ. Loan dùng tiếng Anh nói với hắn:

– Anh chính là anh Tân mà. Làm sao em có thể quên anh được chứ.

Hắn gật gật cái đầu làm ra vẻ hiểu ý của Loan muốn nói gì. Hắn lấy cái bóp từ túi quần sau ra và lấy ra cái bằng lái trong đó ghi tên họ người sử dụng hoàn toàn tên Hòa-Lan. Hắn đưa cho người đàn bà xem và nói bằng tiếng Anh:

– Tôi không giận, không phiền về sự lầm lẫn của bà đâu.

Nói rồi hắn đút cái bóp vô lại túi và mở công tắc cho máy nổ. Hắn lái xe chậm chậm ra khỏi bãi giữ xe và chạy thẳng. Hắn nhìn qua kiếng chiếu hậu và thấy Loan vẫn còn đứng tại chỗ nhìn theo xe cho đến khi hắn không còn thấy Loan nữa.

Hắn muốn uống vài ly rượu trước khi trở về nhà. Hắn ngừng xe và bước vô quán rượu gần nhà và gọi một ly rượu chát đỏ.



Topa ( Hòa-Lan )

Việt ngữ thuần Việt?



Phạm Đình Lân

Trên thế giới có đến 6.900 ngôn ngữ khác nhau bao gồm ngôn ngữ chính thức và các thổ ngữ. Trung Hoa và Ấn Độ là hai quốc gia rộng lớn và đông dân. Trung Hoa có từ 400 đến 500 thổ ngữ khác nhau. Ấn Độ có 2.000 thổ ngữ. Hiến pháp Ấn Độ phải ấn định tiếng Hindi và tiếng Anh là ngôn ngữ chánh thức được lưu dùng trong nước. Phi Luật Tân là quần đảo có trên 7.000 hòn đảo diện tích lớn nhỏ khác nhau. Họ có 13 ngôn ngữ lưu dùng trong nước. Quan trọng nhất là tiếng Tagalog. Ngoài ra còn có 171 thổ ngữ khác nhau được nói ở các địa phương rải rác khắp quần đảo. Trường hợp Indonesia cũng có những phức tạp ngôn ngữ tương tự. Ở Indonesia có 583 ngôn ngữ và thổ ngữ. Tiếng Javanese được 85 triệu người nói.

Cùng sống chung trong một quê hương nhưng ngôn ngữ khác nhau nên sự thông hiểu và hòa hợp với nhau cũng có ít nhiều trở ngại. Trung Hoa là quốc gia có quá khứ lịch sử lâu đời. Họ có chữ viết nhưng cách đọc khác nhau vì các vùng lãnh thổ có tiếng nói riêng. Cuộc cách mạng văn hóa Trung Hoa ra đời không đầy một thế kỷ sau khi Hu Shi (Hồ Thích), tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ, và Chen Duxiu (Trần Độc Tú), tốt nghiệp đại học ở Nhật và Pháp về nước. Đến khi Mao Zedong (Mao Trạch Đông) thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc năm 1949, tiếng Quan Thoại (Mandarin) ở miền Bắc được xem là tiếng thống nhất của lục địa Trung Hoa.

Ở điểm này người Việt Nam khoan vội tự hào vì giữ được tiếng nói, mặc dù không có chữ viết sau trên 1.000 bị người Trung Hoa đô hộ, vì người Việt như những tộc trong nhóm Bách Việt (Po Yue) ở phía nam sông Yang Tze (Dương Tử) học chữ Hán nhưng phát âm theo ngôn ngữ của tộc mình. Các nhà nho Việt Nam đọc và hiểu chữ Hán nhưng không thể đàm thoại với người Hoa. Nhà cách mạng Phan Bội Châu (Sào Nam) chỉ bút đàm khi đàm đạo với Leang Ki-chao (Lương Khải Siêu) hay Sun Yat-sen (Tôn Dật Tiên). Tiếng Việt nguyên thủy bắt nguồn từ người Mường không liên hệ với ngôn ngữ Môn-Khmer. Người Mường là tác giả của trống đồng, những chuyện cổ tích Việt Nam và là những người rút vào rừng sâu để trường kỳ kháng chiến chống Bắc xâm. Những Động Khuất Liêu, Động Hoa Lư, Động Lam Sơn như nhắc nhở chúng ta về liên hệ Mường của dân tộc. Không phải không duyên cớ mà Ngô Sĩ Liên đề cao người Mường trong Đại Việt Sử Ký, một cuốn sử có giá trị được soạn thời Hậu Lê.

Sau 11 thế kỷ Bắc thuộc trong ngôn ngữ Việt có rất nhiều chữ Hán. Tiền nhân chúng ta học chữ Hán. Các kỳ thi tam trường đều được mô phỏng theo Trung Hoa. Chữ Hán được các thầy Đồ (sinh đồ: tú tài) giảng dạy ở các tư thục tại gia, được dùng trong các kỳ thi, trong các tấu, sớ của triều đình và văn thơ hành chánh trong nước. Bên cạnh những từ ngữ nôm na có thêm từ ngữ Hán-Việt phát âm giống tiếng Guangdong (Cantonese - Canton - Kuangchou - Guangzhou, Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Guangdong) đại cương như:
ViệtHán-Việt
(phần lớn là âm theo tiếng Quảng Đông)
Vua -Vương
Một -Nhất
Hai -Nhị
Ba- Tam
Tứ -Bốn
Ngày -Nhật
Thịt- Nhục
Bò -Ngưu
Trâu -Thủy Ngưu
Trời -Thiên
Đất -Địa
Con -Tử
Trước Tiền
Sau -Hậu v.v…


Một số từ ngữ Trung Hoa liên quan đến thức ăn hay cờ bạc được Việt hóa và dùng trong đời sống hàng ngày như hoành thánh, dầu cháo quảy, bánh bao, xá xíu, bò bía, tài xỉu (đại tiểu), dì dách, xập xám v.v…

Hầu hết các từ kép, từ chánh trị, luật học, y khoa, dược học, toán học, âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo, lịch sử, địa lý, địa chất học... đều có gốc Hán –Việt. Ông Hoàng Xuân Hãn soạn ra Danh Từ Khoa Học bằng tiếng Việt dịch từ tiếng Pháp bằng cách tìm những từ ngữ Hán-Việt tương đương. Ông là nhà Tây học nhưng biết chữ Hán. Tên khoa học của thảo mộc trên thế giới được mang tên La Tinh và Hy Lạp. Tên dược thảo ở Đông Phương đều có tên chữ Hán hay tiếng Hindi, Sanskrit.

Đạo Phật có ảnh hưởng rộng rãi ở Việt Nam. Nhưng Phật Giáo Đại Thừa ở Việt Nam do các sư tăng Trung Hoa truyền giảng. Kinh Phật được viết bằng chữ Hán. Các bài chú bằng tiếng Sanskrit được các sư tăng Trung Hoa âm trại ra. Do đó trong ngôn ngữ Việt Nam không có nhiều từ xuất phát từ tiếng Hindi. Sidharta âm thành Tất Đạt Ta; Sakya Muni (nhà hiền triết tộc Sakya) trở thành Thích Ca Mâu Ni; Nirvana: Niết Bàn; karma: nghiệp chướng; bodhi: cây Bồ Đề; Mahayana: đại thừa; Hinayana: tiểu thừa v.v…

Trong quá trình Nam tiến Tiếng Việt được phong phú hóa nhờ tiếp xúc với người Chăm thuộc văn hóa Ấn Độ và Hồi Giáo, với người Khmer chịu ảnh hưởng của Ấn Giáo rồi Phật Giáo Tiểu Thừa và nhờ sự né tránh việc dùng tên vua, chúa, hoàng hậu, các con và thành viên liên hệ đến hoàng tộc.

Những địa danh Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết đều có âm hưởng của ngôn ngữ Chăm, một ngôn ngữ có nhiều liên hệ với ngôn ngữ Ấn Độ và Sanskrit (Phạn). Quốc hiệu Champa (Chiêm Thành) có nghĩa là hoa sứ theo tiếng Ấn Độ.

Nhiều địa danh hay tên gọi ở Nam Kỳ mang âm hưởng của tiếng Khmer như Mỹ Tho (Mêsa: Bà Trắng), Sa Đéc (Phsar Deck: chợ sắt), Bạc Liêu (Po-loeuh: cây da cao lớn), Cà Mau (Tuk khmau: nước đen), thốt nốt (thnot), bình bát (mean bat), xoài (Sway), muom (muỗm - xoài muỗm) v.v…

Dưới chế độ phong kiến thảo dân không được nói đến tên vua, hoàng hậu hay các thành viên trong hoàng tộc. Thí sinh phạm trường qui tức khắc bị đánh rớt vì đó là một sự hỗn láo đối với giới cầm quyền tự xem đã nhận Thiên mạng từ Trời. Từ đó ta có nhiều từ đồng nghĩa nhưng không đồng âm. Nhân trở thành nhơn; Nghĩa: Ngãi; Đức: Dước; Phúc: Phước (chữ lót của họ Nguyễn); Đàm: Đờm; Hoa: Huê; Hồng: Hường; Nhậm: Nhiệm; Tôn: Tông v.v... Bà Hồ Thị Hoa, người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa, là hoàng hậu dưới triều Minh Mạng. Vì bà tên Hoa nên Cầu Hoa phải đổi thành Cầu Bông; Thanh Hoa đổi thành Thanh Hóa (thêm dấu); Hoa Kiều đổi thanh Huê Kiều; Hoa lợi thành Huê lợi v.v... Vào năm 1862 Pháp chiếm ba tỉnh Nam Kỳ. Trần Tử Ca, một viên chức xã thôn ở Hóc Môn, ra hợp tác với Pháp, theo đạo Thiên Chúa và được vào ngạch đốc phủ sứ, một ngạch hành chánh cao cấp dành cho người bản xứ hợp tác với Pháp được thiết lập theo lời đề nghị của Tôn Thọ Tường. Ông được gọi là Phù Ca. Vì ông tên Ca dân chúng trong vùng Sài Gòn – Gia Định không dám gọi xoài thanh ca mà gọi ngắn gọn là xoài thanh.

Võ Trường Toản, một người Minh Hương, được xem là một đại phu tử ở Nam Kỳ vào thế kỷ XVIII. Người Minh Hương góp phần đắc lực vào việc khai phá châu thổ sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định đều là môn sinh của đại phu tử Võ Trường Toản. Cả ba vị nầy đều là những người lập nhiều công to khi phục vụ chúa Nguyễn Ánh trong thời kỳ nội chiến giữa dòng Nguyễn Phúc và nhà Tây Sơn. Dưới triều vua Minh Mạng, Phan Thanh Giản, một người Minh Hương khác, đậu tiến sĩ. Ông là người Nam Kỳ đầu tiên đậu tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Những nhà nho gốc Minh Hương vừa kể khác với các nhà nho Việt Nam vì họ biết chữ Hán và phát âm theo người Việt lẫn người Hoa.

Chữ quốc ngữ La Tinh hóa hiện hành là công trình nghiên cứu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII để cho việc truyền đạo Thiên Chúa được dễ dàng. Vào thời nầy chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cấm đạo Thiên Chúa. Người theo đạo bị khắc trên trán dòng chữ học theo Hòa Lan đạo vì chúa cho rằng đạo Thiên Chúa là đạo của người Hòa Lan. Thực tế người Hòa Lan theo đạo Tin Lành. Họ nặng về việc kinh thương hơn truyền đạo như người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp. Vì chúa Trịnh cấm truyền giảng đạo Thiên Chúa nên chữ quốc ngữ chưa phổ biến mạnh trong cộng đồng giáo dân Thiên Chúa ở Đàng Ngoài. Ở Nam Kỳ giáo sĩ Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) giảng đạo Thiên Chúa ở vùng Hòn Đất, Hà Tiên vào thế kỷ XVIII. Chữ quốc ngữ được
phổ biến cho giáo dân vùng Vịnh Xiêm La (Vịnh Thái Lan bây giờ). Giáo sĩ Pigneau de Behaine tìm cách vận động với triều đình Pháp thời vua Louis XVI giúp đỡ cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Nếu Nguyễn Ánh thành công, Pháp có ảnh hưởng tôn giáo lẫn kinh tế-chánh trị quan trọng ở Việt Nam.

Năm 1862 rồi 1867 Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa để làm bàn đạp chiếm Bắc và Trung Kỳ. Chữ quốc ngữ được giảng dạy cùng Pháp ngữ trong các trường học do Pháp thành lập ở Nam Kỳ. Các giáo dân là những người Việt Nam đầu tiên biết chữ quốc ngữ và Pháp ngữ. Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký là nhũng người có công trong việc viết sách bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Tờ Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên của người Việt Nam do Pétrus Trương Vĩnh Ký thành lập năm 1865 được viết bằng quốc ngữ pha lẫn với Pháp ngữ. Gia Định Báo không phải là tờ báo hiểu theo nghĩa bây giờ. Nó được xem như một công báo (Journal Officiel) để loan tin tức và hoạt động của chánh quyền thuộc địa. Lê Phát Đạt, ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu, là tín đồ Thiên Chúa giáo Nam Kỳ biết viết quốc ngữ và tiếng Pháp. Ông tốt nghiệp Trường Thông Ngôn (Ecole des interprètes). Trương Vĩnh Ký là một thành viên trong ban giảng huấn của trường. Nhờ giỏi tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và giàu có, Lê Phát Đạt được danh hiệu HỌC SĨ và được ban hàm HUYỆN (Huyện honoraire) nên ông được gọi là Huyện Sĩ.

Nam Kỳ là đất thuộc địa do Pháp trực trị. Trung và Bắc Kỳ là đất bảo hộ. Vua Việt Nam trên danh nghĩa vẫn còn ảnh hưởng ở Trung, Bắc Kỳ. Hán học bị bãi bỏ ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung Kỳ năm 1918. Pháp ngữ và quốc ngữ La Tinh hóa bắt rễ trên hai vùng đất bảo hộ trước khi các kỳ thi tam trường bị bãi bỏ. Tú Xương (Trần Tế Xương) cảm thấy mình chẳng những bất toại trong các kỳ thi tam trường mà còn lỗi thời khi than:

Cái học ngày nay đã hỏng rồi
Mười người theo học chín người thôi.

Người Pháp du nhập vào Việt Nam từ tôn giáo, âm nhạc, nghệ thuật, thể thao, kiến trúc, học thuật, khoa học kỹ thuật, kể cả kỹ thuật đóng giày, nghề hớt tóc, đến các loại rau cải thức ăn mang từ Châu Âu đến. Kinh Thánh được dịch ra Việt Ngữ. Chữ Catholicisme dịch thành đạo Gia Tô. Các địa danh ở Trung Đông như Do Thái, Syria, Ai Cập, Mesopotamia (Lưỡng Hà Châu) được phiên âm kể cả tên Đức Chúa Jesus (Giê-Su); giống như chánh quyền miền Bắc trong thời kỳ đất nước qua phân phiên âm danh nhân hay địa danh trên thế giới như Washington thành Oa-Sinh-Tông, Lenin thành Lê-Nin, Stalingrad thành Xi-ta-lin-gờ-rad, Paris thành Pa-ri, Genève thành Giơ-neo-vơ, Trotsky thành Tơ-ros-ky v.v…

Khi tiếp xúc với người Pháp, tiếng Việt bắt đầu có những từ tiếng Pháp được Việt hóa và lưu dùng như: Ô-tô (automobile), cùi-dìa (cuillère), cái tách (tasse), xe hủ lô (rouleau), xe bù-ệt (brouette), rượu vang (vin), bia (bière), cải xà lách (salade), phô-mai (fromage), bơ (beurre), tốp (stop), ô-liu (olive), cà-tô-mát (tomate), cải xà lách son (cresson), cà phê (café), cao su (caoutchouc), thịt cốc-lết (cotelette), cây láp (arbre), cây dên (bielle), cái mỏ-lét (molette), bù-lon (boulon), dây lập lồng (fil a plomb), cái tông-dơ (tondeuse), phim (film), săm (chambre), cái phanh (frein), phú-lít (police), sen đầm (gendarme), lính săn đá (soldat), ông ách (adjudant), ông cai (caporal), bà đầm (dame), bánh mì ba-ghết (baguette), ba-dơ (base), sút (soude), xà bông (savon), ô-mơ-lét (omelette), hột gà ốp-la (oeufs sur plat), ba gai (bagarre), làm reo (grève), làm cỏ-vê (corvée), đậu que (haricot vert), con vẹt (vert – con két màu xanh lá cây), trái bom (bombe), trái ‘bom’(pomme), ống bơm (pompe), trái sơ-ri (cerise), ách (ace) trong bài ‘cắt-tê’(cartes), cơ (coeur), rô (carreau), bích (pique), ra-gu (ragôut), bíp-tết (beefsteak – tiếng Anh được người Pháp dùng), tốp (stop –tiếng Anh được người Pháp dùng bên cạnh chữ arrêt) v.v…

Có hiện hữu, có thấy vật mới đặt tên. Dân ta ăn cơm nên chỉ biết lúa gạo. Khi tiếp xúc với người Pháp mới biết lúa mì, bột mì. Và bánh làm từ bột mì được gọi là bánh mì. Sự hiểu biết về địa lý hay chủng tộc học hầu như vắng bóng nên khi gặp người Phi Châu trong hàng ngũ quân đội Pháp thì gọi họ là Tây Đen vì họ to lớn như Tây nhưng da màu đen. Uống rượu có màu đỏ hồng hay trắng-xanh nhạt được người Pháp gọi là VIN nên gọi là rượu vang. Khi uống thấy có vị chát lại gọi là rượu chát. Tìm hiểu biết rượu ấy làm từ nho nên gọi là rượu nho. Chữ mô-tô chưa xuất hiện khi người Việt Nam thấy chiếc Motobécane đầu tiên ở Việt Nam. Nghe tiếng nổ người ta gọi đó là xe ‘bình bịch’. Phi cơ được gọi đơn giản là máy bay vì nó bay trên trời như chim. Chiếc tàu chạy trên mặt nước gọi là tàu thủy, đối ngược với tàu hỏa tức chiếc xe lửa vì nó chạy bằng than cháy đỏ và phun khói đen nghịt một góc trời. Âm nhạc mà người Pháp du nhập vào nước ta khác hẳn với âm nhạc sẵn có trong nước. Nhạc cụ, trống kèn, chập chỏa khác với đàn gáo, đàn bầu, đàn kìm, đàn tranh, ống tiêu, trống cơm... nên có một thời âm nhạc mới nầy được gọi là ‘âm nhạc cải cách’, ’tân nhạc’. Nhạc cụ bắt đầu có tên Việt Nam hay tên Việt hóa như đàn băng-giô (banjo), măng-dô-lin (mandoline), đàn vi-ô-lông (violon) rồi vĩ cầm, đàn ghi-ta (guitare), Tây Ban Cầm (guitare espagnole), Hạ Uy Cầm (guitare hawaiienne), kèn hạt mô-ni-ca (harmonica – khẩu cầm), đàn ac-cot-đê-ông (accordeon), pi-a-no (piano – dương cầm), v.v…

Trong tiếng Việt đã có tiếng Anh ngay dưới thời Pháp thuộc, nghĩa là trước khi tiếp xúc với người Hoa Kỳ. Từ ngữ tiếng Anh Việt hóa phần lớn là những từ ngữ liên quan đến các bộ̣ môn thể thao như banh (ball), cọt-ne (corner), bê-nanh-ty (penalty), giữ gôn (goal keeper), tơ-nít (tennis), đánh bốc (boxing – quyền Anh), nốc ao(knoct out), nóc đao (knock down), banh bong (pingpong - bóng bàn), bóng rổ (basket ball), vô-lây (voley ball – bóng chuyền) v.v... Trẻ em chơi đánh, tù, tì (one, two, three). Trong thức ăn có bánh xăng-quít (sandwich), bíp-tết (beefsteak), rượu quít-ky (whisky), v.v…

Tiếng Việt văn vẻ và đầy chữ Hán, Nga ngữ và các ngoại ngữ khác từ khi Lin, tức Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau nầy thụ huấn ở Liên Sô về Hồng Kông lập ra Đảng Cộng S̉ản Việt Nam (1930). Những từ bình dân, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản, bôn-sê-vít (Bolsheviks), men-sê-vít (mensheviks), lô-gic (logique), phạm trù (norme), abc (anti-bolchéviste), tư sản, trí thức tiểu tư sản (Petit bourgeois intellectuel), trí, phú, địa, hào, dân chủ, bình đẳng, bình quyền, vô sản, tư hữu, nhân sinh quan, thế giới quan, khách quan lịch sử, chủ quan lịch sử, duy vật biện chứng, giai cấp đấu tranh, giải phóng, mặt trận, liên đoàn, liên minh, đồng minh, thực dân, phong kiến, phát xít... được lập đi lập lại gần như hàng ngày sau cách mạng tháng 08 ở nông thôn. Từ ‘thanh niên’ thay thế cho trai tráng, ‘phụ nữ’, ‘lão ông’, ‘lão bà’ thay vì đàn bà, đàn ông, bà già; ‘nhi đồng’ thay vì trẻ em, con nít. Khi hỏi tuổi người ta nói: “Anh được bao nhiêu niên kỷ?”. Trong vùng Việt Minh kiểm soát trong chiến tranh Việt-Pháp có nhiều thay đổi đột ngột trong chánh tả Việt ngữ.Trong tiếng Việt không có chữ F, J, W, Z. Bây giờ chữ F được dùng để thay thế chữ PH. PHÁP được viết thành FÁP. Súng SKZ thoạt mới nghe tưởng là phát minh vũ khí của Liên Sô, Đức Quốc hay Tiệp Khắc, nào ngờ đó là chữ tắt của Súng Không Zật (Giật) do Phạm Quang Chánh tức Trần Đại Nghĩa làm ra bằng sắt thép đường rầy xe lửa. Chữ Y hầu như bị thủ tiêu. Mỹ viết thành Mĩ chẳng hạn. Gạch nối bị bãi bỏ trong chánh tả miền Bắc sau năm 1954 ngoại trừ bí danh Trường-Chinh, tổng bí thư đảng Lao Động Việt Nam.

Trong thời kỳ đất nước qua phân miền Bắc và miền Nam có hai chế độ chánh trị khác nhau. Miền Bắc chịu ảnh hưởng chánh trị của Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hai nước cộng sản đàn anh tranh giành ảnh hưởng và quyền lãnh đạo trong khối Cộng Sản. Ở miền Nam ảnh hưởng chánh trị của Pháp giảm sút trước ảnh hưởng chánh trị Hoa Kỳ. Tiếng Pháp vẫn còn dạy ở bậc trung học, nhưng đến thập niên 1960 tiếng Anh nắm ưu thế hết miền Nam.

Tùy theo chế độ Cộng Sản, Liên Sô và Công Hòa Nhân Dân Trung Quốc có những mâu thuẫn sâu sắc về mọi vấn đề xuất hiện. Liên Sô đại diện chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của các quốc gia kỹ nghệ theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Mao Zedong sửa đổi chủ nghĩa Marx-Lenin thành chủ nghĩa Mao (Maoism), tức chủ nghĩa Cộng Sản nông nghiệp kết hợp với chủ nghĩa bành trướng dân tộc Hán (Pan-Hanism) (xin lỗi chữ nầy do tôi đặt ra). Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có ảnh hưởng to lớn ở miền Bắc sau năm 1954 vì nước nầy viện trợ cho Việt Nam võ khí, thuốc men, lương thực, cố vấn chánh trị và quân sự trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Hồ Chí Minh là người do Liên Sô đào luyện. Ông lo ngại Trường-Chinh dựa vào thế lực của Beijing (Bắc Kinh) lấn át quyền hành của ông. Miền Bắc tìm cách nôm na hóa Việt ngữ và thay đổi Âm Lịch (1967) khác với Âm Lịch Trung Hoa như một hành động độc lập với Trung Hoa Cộng Sản để lấy lòng Liên Sô và tránh tiếng lệ thuộc Bắc quốc đối với dân chúng miền Bắc. Từ đó ta có hố xí thay cho cầu tiêu, xưởng đẻ thay cho nhà bảo sanh, máy baythay cho phi cơ, máy bay lên thẳng thay cho trực thăng, lính thủy đánh bộ thay cho thủy quân lục chiến (marine), giặc lái chỉ phi công của phe địch (Mỹ và VNCH) v.v… Nhưng họ lại mâu thuẫn và mị dân với những từ hộ khẩu, xe cải tiến (xe bù-ệt – brouette), tổng tẩy quan (người quét dọn), văn công, bần cố nông, công nghiệp, nghệ nhân, vô sản chuyên chính, tập thể hóa nông nghiệp... và muôn ngàn từ ngữ chất chứa khó hiểu khác còn mang ấn dấu Hán- Việt!

Nếu ở miền Bắc người ta ‘nôm na hóa’ Việt ngữ thì ở miền Nam từ Hán-Việt được dùng tối đa. Trường Đại Học Sư Phạm ở miền Nam có ban Việt-Hán. Tổng thống Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo, Khổng Giáo và văn hóa Tây Phương. Ông là người ngoan đạo từng sống ở Hoa Kỳ nên các bài diễn văn của ông thường kết thúc bằng câu ‘Xin Ơn Trên Phù Hộ Cho Chúng Ta’ giống như câu May God Bless Us của người Hoa Kỳ. Từ ngữ tiếng Anh của người Hoa Kỳ Việt hóa hầu như vắng bóng ngoại trừ những từ ngữ thể thao tiếng Anh Việt hóa đã có từ thời Pháp thuộc. Nhưng từ khi tiếp xúc với người Hoa Kỳ từ năm 1954 đến 1975 những từ sau đây thường được dùng đến như mục tiêu phải đạt và bổn phận phải làm: cộng đồng, phát triển cộng đồng, khuếch trương kinh tế, tự do, dân chủ, cộng hòa (dân quốc), tổng thống chế, chữ nghĩa nhân vị (Personalism), Cần Lao, Liên Đới, đả thực (thực dân), bài phong (phong kiến), diệt Cộng (Cộng Sản) v.v…Cải tiến dân sinh, Đồng tiến xã hội là những khẩu hiệu được tổng thống Ngô Đình Diệm thường nhắc đến.

*

Về Việt ngữ: Việt tự tức chữ quốc ngữ hiện hành và ngoại ngữ có ba dư luận gần như đối kháng như sau:

1. Có một dư luận về chữ quốc ngữ như sau: chữ quốc ngữ là sản phẩm của giáo sĩ người Pháp. Người Pháp xâm chiếm nước ta và quảng bá nó. Khuynh hướng nầy xem chữ quốc ngữ là sản phẩm của Pháp. Có người cực đoan hơn muốn bỏ chữ quốc ngữ và phục hồi chữ Nôm vì cho đó là một sản phẩm thuần túy Việt Nam.

2. Một số người chủ trương bỏ chữ Hán trong tiếng Việt vì dùng chữ Hán chứng tỏ ta lệ thuộc Tàu. Dùng càng nhiều chữ Hán càng làm cho người nghe càng khó hiểu.

3. Việt ngữ dồi dào phong phú nên không cần học ngoại ngữ.

*

Trước khi người Pháp đô hộ Việt Nam, nước ta không có chữ viết. Trong Lục Bộ không có bộ Giáo Dục. Năm 1932 vua Bảo Đại du học ở Pháp về mới có bộ học. Trước kia Bộ Lễ trong coi về tôn giáo, nghi lễ, ngoại giao lẫn giáo dục. Thực tế trong nước không có trường công lập. Quốc Tử Giám được mở ở kinh đô chỉ để giáo dục con quan mà thôi. Trường học đều là tư thục do các ông đồ hay quan lại hưu trí đặc trách việc giảng dạy. Thầy dạy chữ Hán thường là những người có tú tài Hán học nên không được triều đình bổ nhiệm ra làm quan hay những quan lại hưu trí hay rũ áo từ quan.

Người Pháp xâm lăng và bắt dân ta học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp thì có khác gì người Trung Hoa đô hộ nước ta và dạy chữ Hán cho dân tộc ta? Chữ Hán là chữ viết người xâm lăng từ phương Bắc nhưng chữ quốc ngữ không phải là chữ viết của người Pháp mà là chữ viết La Tinh hóa dựa vào cách phát âm của người Việt Nam. Đó là một phát minh của giáo sĩ và nhà ngôn ngữ học Alexandre de Rhodes. Về phương diện chánh trị và lịch sử, nước Pháp có đụng chạm với nước ta nhưng chữ quốc ngữ thì vô tội, lại mang nhiều tiện lợi cho nước ta vì trên thế giới ngày nay phần lớn các nước đều dùng mẫu tự La Tinh. Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia là những quốc gia Hồi Giáo đã mạnh dạn cải cách chữ viết của họ theo mẫu tự La Tinh, sao ta lại nghĩ đến việc dùng chữ Nôm? Trong thực tế chữ Nôm không có vai trò lớn nào trong lịch sử giáo dục và thi cử ở Việt Nam ngoại trừ thời gian ngắn ngủi thời Tây Sơn khi Nguyễn Huệ lên ngôi năm 1789. Vua Quang Trung mất năm 1792. Nhà Tây Sơn hoàn toàn sụp đổ năm 1801. Thời gian ngắn ngủi nầy là thời nội chiến giữa dòng Nguyễn Phúc và nhà Tây Sơn sắp đến hồi kết cuộc. Vì vậy chữ Nôm không có cơ hội thuận lợi để phát triển dù chỉ trên lãnh thổ cai trị của nhà Tây Sơn. Với chữ quốc ngữ hiện hành việc quảng bá giáo dục quần chúng dễ dàng hơn với chữ Nôm. Một người không biết chữ chỉ cần học 6 tháng là biết đọc chữ quốc ngữ. Phải mất bao lâu mới đọc được chữ Nôm? Ai dạy? Nó nôm na thì dễ. Nhưng học chữ Nôm không dễ vì phải có căn bản chữ Hán mới học được chữ Nôm. Chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh giúp cho Việt tự tách rời khởi văn hóa Trung Hoa ít ra về hình thức. Vào thế kỷ XIX khi Pháp chiếm Nam Kỳ nhiều nhà giàu có không cho con đi học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Họ phải mướn người đi học để khỏi bị chánh quyền thuộc địa nghi ngờ có phản ứng chống Pháp.

Việc không dùng chữ Hán trong tiếng Việt sẽ làm cho tiếng Việt cằn cỗi hơn là phong phú. Có nhiều lãnh vực độc lập với chánh trị và tinh thần quốc gia. Ngôn ngữ, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật... là những lãnh vực độc lập đó. Trong những trang vừa qua tôi trình bày rất nhiều từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn từ các nước khác. Tiếng Anh của người Hoa Kỳ phong phú hơn tiếng Anh của người Anh vì có sự vay mượn của nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và vì khoa học kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển nhanh chóng. Hằng năm có hàng ngàn sản phẩm mới ra đời và có tên gọi mới. Tự điển của Hoa Kỳ co thêm từ 3.000 đến 5.000 từ ngữ mới mỗi năm. Sự vay mượn chỉ làm giàu cho ngôn ngữ chớ có hại gì đâu. Vay mượn từ ngữ không phải trả vốn hay tiền lời chi cả, Tiếng Anh, Pháp và các ngôn ngữ Âu Châu đều phảng phất âm hưởng của La Tinh và Hy Lạp. Người Hoa Kỳ không có mặc cảm gì khi dùng tiếng nói của người Anh từng cai trị mình. Người Ph́ap hay Âu Châu không mặc cảm gì khi dùng từ ngữ gốc La Tinh vì xưa kia họ từng bị đặt dưới sự thống trị của đế quốc La Mã. Người Ấn Độ thấy thoải mái khi nói tiếng Anh, quốc gia từng đô hộ họ. Trong chừng mực nào đó tiếng Anh còn dễ dàng hơn các thổ ngữ trong nước. Ấn Độ há không có văn minh lâu đời? Người Canada không mặc cảm gì khi nói tiếng Anh và tiếng Pháp cũng như người Thụy Sĩ nói tiếng Đức, Pháp và Ý.

Trở về việc dùng chữ Hán trong tiếng Việt, ta thấy với chữ Hán trong Việt ngữ Việt Nam vẫn chưa có một quyển tự điển Việt ngữ hoàn chỉnh vì nước ta chưa có Hàn Lâm Viện. Bỏ chữ Hán, cuốn tự điển không hoàn chỉnh ấy mất đi 45% chiều dày của nó.

Người mù chữ ở Việt Nam vào giữa thế kỷ XX nói mã tà, phú-lít (police) thì họ biết nhưng nói cảnh sát thì họ không biết vì họ biết tên gọi mã tà hay phú-lít trước khi chữ cảnh sát ra đời. Một người không có trình độ văn hóa cao ở Hoa Kỳ biết money order chứ không biết chữ dịch ngân lịnh của nó. Ông ta biết food stamps chớ không biết tem phiếu lương thực. Đó là thói quen ban đầu đã dùng như vậy. Nếu không gọi voter là cử tri mà gọi là người đi bỏ phiếu hay người đi bầu thì electoral college (cử tri đoàn) phải gọi là đoàn người đi bỏ phiếu? Quốc gia độc lập sẽ nói thành nước nhà đứng một mình? Giữa những chữ ‘quốc gia độc lập’ và ‘nước nhà đứng một mình’ cái nào nghe êm tai, sát nghĩa, dễ hiểu và dễ nhớ hơn? Những từ kép như chánh trị, tự do, dân chủ, cộng hòa, quốc hội, hiến pháp, ngân hàng, thị trường, kinh tế, thương mại... sẽ nói như thế nào cho người ta hiểu dễ dàng nếu bỏ Hán-Việt trong tiếng Việt? Đại nhân trở thành người lớn? Tiểu nhân là người nhỏ? Phản ứng của người nghe sẽ hiểu người lớn là người trên tuổi 18 tuổi (adult) hay cao lớn gần 2m. Hiểu như vậy có đúng nghĩa của chữ đại nhân không? Còn người nhỏ là người cao không quá 1.50 m? Nghĩa thật sự của chữtiểu nhân có phải như vậy không?

Ngôn ngữ trong sáng hay không là do người truyền đạt nắm vững vấn đề để mà mình muốn truyền đạt hay không và người nghe có đủ trình độ để nghe và hiểu vấn đề hay không. Mỗi ngành nghề, mỗi bộ môn có từ ngữ riêng của nó. Không thể dùng từ nôm na mà chuyện phức tạp trở nên giản dị, chuyện khó hiểu trở nên dễ hiểu. Khẩu hiệu Mười Sáu Chữ Vàng (16) và Bốn Tốt (4) không có chữ Hán, dễ hiểu nhưng hàm chứa vô số âm mưu thâm hiểm và tàn độc khó hiểu. Ngôn ngữ có qui luật, vẻ đẹp và giá trị riêng của nó. Nó được xem là tiêu chuẩn để đánh giá người nói lẫn người nghe. Quá khó khăn phức tạp như La Tinh hay Sanskrit (tiếng Phạn) thì dễ bị đào thải để trở thành tử ngữ (langues mortes). Giản dị hay phức tạp tùy vào định chế chánh trị, tình trạng kinh tế - xã hội, sự phát triển văn hóa, giáo dục và khả năng lý luận của dân chúng trong nước.

Khi Hoa Kỳ vừa lập quốc họ tìm cách giản dị hóa cách nói tiếng Anh. Tiếng Anh của người Anh phức tạp vì Anh là một nước quân chủ. Ngôn từ có giai cấp tính của nó. Ở Việt Nam dưới chế độ quân chủ cũng không ngoại lệ. Một số từ ngữ chỉ dành cho vua chúa và hoàng tộc như: lăng (mồ mả vua), long nhan (mặt vua), long thể (thân thể vua), long bào (áo của vua), ngọc tỷ (ấn của vua), thánh ý (ý của vua), núi ngự (núi nơi vua ngự),chuối ngự (chuối của vua ăn), ngự trù (đầu bếp của vua), ngự y (thầy thuốc của vua), vua se mình (vua bệnh), vua băng (vua chết), hoàng hậu lâm bồn (hoàng hậu hạ sinh con), hoàng hậu (vợ của vua), hoàng tử (con vua), công chúa (con gái vua) v.v… Tiếng Anh của người Hoa Kỳ giản dị vì đó là nước Cộng Hòa, dân chủ. Nhưng khi Hoa Kỳ trở thành một quốc gia có nền kinh tế phồn thịnh, đời sống dân chúng cao, giáo dục mở mang. Trình độ học vấn của dân chúng lên cao. Sự giản dị trong ngôn ngữ giảm đi nhưng không có nghĩa là thiếu sự sáng sủa đến nỗi không ai hiểu gì cả. Những người trưởng giả giàu có bắt đầu muốn có cuộc sống vương giả và dùng từ ngữ cầu kỳ như giới quý tộc Châu Âu xưa kia nhưng chưa đến nỗi gọi cái ghế là vật bằng gỗ để ngồi. Sự cầu kỳ và phức tạp đôi khi xuất phát từ ý muốn của loài người để có sự phân biệt và ngăn cách giữa người và người. Nếu con đường nào cũng ngay và thẳng thì phong cảnh trở nên đơn điệu. Lắm lúc người ta phải làm cho nó cong quẹo, uốn khúc, thậm chí ngoằn ngoèo nguy hiểm để chấm dứt vẻ đơn điệu buồn tẻ và làm cho người lái xe phải chú ý và cẩn thận hơn. Sự phức tạp và khó hiểu của ngôn từ đôi khi cũng tương tự như thế.

Tô một bức tường 50m2 chỉ trả có 2 ngày công thợ. Nhưng chạm trổ một cây cột 0,5 m2 lại phải trả 20 ngày tiền công thợ vì vẻ đẹp nghệ thuật của cái nhà nằm trên cây cột chạm 0,5 m2 chớ không phải trên bức tường tô 50m2.

Sự phức tạp văn phạm của ngôn ngữ Âu Châu lại giúp cho ngôn ngữ của ho rõ ràng, sáng sủa. Nó xuất phát từ óc phân tích, tổng hợp và lý luận khoa học. Chỉ cần nghe cách chia động từ người ta biết trình độ người nói, chuyện xảy ra lúc nào (quá khứ, hiện tại, tương lai, tương lai giả định v.v...). Chỉ cần thấy không có S là thì biết không nhiều, thấy HE, SHE, IT, ELLE, IL thì biết đàn ông, đàn bà giống đực, giống cái, người hay vật. Sự sáng sủa đó xuất phát từ tinh thần trọng quy tắc, luật lệ và khoa học của người tò mò muốn có sự giải đáp của 5WH + H: What (cái gì ?), Who (ai?), Where (ở đâu), When (lúc nào?), Why (tại sao?) + How (cách nào/ như thế nào?). Trả lời được 5 WH + H thì khám phá ra nhiều điều mới lạ trong đời sống và trong vũ trụ. Muốn như vậy phải có dân chủ. Có tự do mới có sáng kiến và phát minh vì người ta dám hỏi và giải đáp những câu hỏi gai góc.

*

Dưới thời Pháp thuộc những người giỏi tiếng Pháp như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Diệp Văn Cường, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Ðình Khả, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh… đều có danh tiếng và địa vị trong xã hội thuộc địa. Sau cách mạng tháng 8 nhiều người khốn đốn thậm chí có thể vong mạng vì nói tiếng Pháp. Sự khinh miệt trí thức trở nên thịnh hành trong xã hội Việt Nam từ năm 1930 và nở rộ không riêng dưới chế độ Cộng Sản ở miền Bắc mà cả dưới chế độ quân đội ở miền Nam. Nào là tri thức ‘bơ sữa’. Nào là trí thức trùm chăn. Nào là trí thức không bằng cục phân. Nào là trí thức sa-lông, xôi thịt. Nào là trí thức trói gà không chặt. Hai chữ ‘khoa bảng’ được dùng với nghĩa xấu hơn là tốt. Bùi Quang Chiêu bị tàn sát cả nhà. Hồ Văn Ngà chết mất xác. Nguyễn Văn Sâm bị ám sát giữa thị thành. Trần Đức Thảo điên loạn. Nguyễn Mạnh Tường suýt chết đói. Phan Khôi chìm trong quên lãng. Phạm Ngọc Thạch chết trong rừng sâu. Trần Anh, Lê Minh Trí, Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Bông bị ám sát chết. Trong tuồng hát lẫn ngoài đời người ta đề cao sự NGHÈO, DỐT nhưng không che dấu được sự khinh khi nghề dạy học nghèo nàn với những câu trở thành khẩu hiệu hay ca dao như:Nghèo mà thanh bạch, Học trò đi mò cá sặt, Thầy giáo ở nhà... Dưa leo chấm với cá kèo, Học trò nghèo đi học nọt-man (normale: sư phạm) v.v...

Trí thức bị nghèo đói, bị tù đày hay bị ám sát, thủ tiêu. Người thì mượn cửa Thiền để xa lánh thế gian. Người thì phải rời khỏi quê hương để được hưởng chút không khí tự do. Những hình ảnh trên làm cho người bàng quan thấy sự dốt nát là áo giáp của sự An Toàn và Hạnh Phúc. Nếu dựa vào thành kiến gắn liền trí thức, khoa bảng với ngoại bang để bài xích việc học ngoại ngữ thì đó là một thiệt thòi vô cùng to tát cho đất nước và dân tộc. Đó là một sự qui nạp hàm hồ, tai họa và vô tội vạ. Sự tự cô lập không giúp ích gì cho sự tiến bộ của đất nước và dân tộc. Chánh sách bế quan tỏa cảng vào thế kỷ XIX của triều đình Huế phỏng theo chánh sách bế quan tỏa cảng và bài Bạch Quỉ của Trung Hoa không giúp cho Việt Nam bảo vệ độc lập trước sự xâm lăng của Pháp. Nước Trung Hoa to lớn cũng không tránh được sự xâu xé của liệt cường Tây Phương. Bế quan tỏa cảng và tự cô lập không giúp cho vua quan ta thấy được con đường dẫn đất nước và dân tộc đến phồn vinh, tự do và hạnh phúc. Các nước Âu Châu rất quan tâm đến việc giảng dạy ngoại ngữ. Nhật và Nam Hàn (Đại Hàn) chủ trương mời thầy giáo người Anh hay Hoa Kỳ dạy tiếng Anh cho học sinh ngay từ bậc tiểu học để việc nói và nghe tiếng Anh được rốt ráo hoàn chỉnh hơn. Các quốc gia chú trọng đến ngoại ngữ ý thức rằng ngoại ngữ giúp họ cập nhật những tiến bộ của nhân loại trên mọi lãnh vực.

Nếu học ngoại ngữ nên học ngoại ngữ nào? Vì sao?

Trên thế giới có các ngôn ngữ quan trọng sau đây:

1. Tiếng Quan Thoại: 935 triệu người nói tức 14,1% dân số địa cầu. Các nước nói Quan Thoại gồm có: Trung Hoa lục địa, Đài Loan (Taiwan), Singapore, Mã Lai (nơi có 30% cư dân gốc Trung Hoa).

2. Tiếng Tây Ban Nha: 387 triệu người nói (5,85% dân số địa cầu). Các nước Trung Mỹ (ngoại trừ Brazil), hải đảo Caribbean, Tây Ban Nha.

3. Tiếng Anh: 365 triệu người nói (5,52% nhân loại). Các nước nói tiếng Anh là Hoa Kỳ, Anh, Ái Nhĩ Lan (Ái Nhĩ Lan có ngôn ngữ của họ nhưng tỷ lệ người Ái Nhĩ Lan nói tiếng Anh rất cao), Nam Phi, Úc Đai Lợi, Tân Tây Lan.

4. Tiếng Hindi: 295 triệu người Ấn Độ nói (4,46% nhân loại). Dân số Ấn Độ hiện nay là 1,1 tỷ người.

5. Tiếng Ả Rập: 280 triệu người nói (4,23 % nhân loại) gồm các quốc gia Trung Đông, ngoại trừ Do Thái, Bắc Phi.

6. Tiếng Bồ̀ Đào Nha: 204 triệu người nói (3,06% nhân loại) gồm các quốc gia Brazil, Bồ Đào Nha, Angola, Mozambique.

7. Tiếng Bengali: 202 triệu người nói (3,05 %) gồm Bangladesh và cư dân phi Hồi Giáo quanh vùng.

8. Tiếng Nga: 160 triệu người nói (2,42 % nhân loại) gồm các quốc gia Nga, Trung Á, Mông Cổ và người Do Thái hồi hương).

9. Tiếng Nhật: 127 triệu người nói (1,92 % nhân loại).

Số người nói tiếng Anh đứng hàng thứ ba sau số người nói tiếng Quan Thoại và tiếng Tây Ban Nha nhưng tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới từ thế kỷ XIX đến nay. Số người Ấn Độ nói tiếng Anh đông hơn cả người Anh chính gốc! Ở những vùng xa xôi như các cựu Cộng Hòa Sô Viết ở Trung Á, Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ... cũng có người biết nói tiếng Anh.

Nhằm mục đích đào tạo mầm non để phát triển quốc gia, việc học tiếng Anh là điều cần thiết. Vì Hoa Kỳ, Anh là những nước có nền khoa học kỹ thuật tân tiến, kinh tế phồn thịnh với truyền thống kỹ nghệ và thương mại lâu đời. Hoa Kỳ và Anh là hai quốc gia được nhiều giải thưởng Nobel về khoa học, kinh tế và các lãnh vực khác căn cứ vào các số thống kê sau đây:
Quốc gia/Số giải thưởng Nobel
Hoa Kỳ 338
Anh 118
Đức 102
Pháp 65
Thụy Điển 30
Nga 27
Thụy Sĩ 26
Canada 21
Nhật 20
Ý 20
Hòa Lan 19
Áo 19


Số giải thưởng Nobel mà Nga được nhỏ hơn Thụy Điển (27-30). Nước Nga rộng lớn và đông dân so với Thụy Sĩ và Hòa Lan. Số giả̉i thưởng Nobel của Nga chỉ hơn Thụy Sĩ 1 giải (27-26) và hơn Hòa Lan 8 giải (27-19).

Nếu so với tiếng Quan Thoại, Tây Ban Nha, Nga, Pháp, Đức, Ý, Nhật thì tiếng Anh tương đối dễ học hơn các ngôn ngữ kia. Đó là tất cả những lý do tại sao phải chú trọng đến tiếng Anh.

Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Bài viết này chỉ là một bài góp ý hơn là bài khảo cứu ngôn ngữ. Tôi thiết tha mời bạn đọc cùng góp ý, sửa sai và bổ túc. Đó là cách thực tập tinh thần hợp tác và xây dựng lẫn nhau. Sức mạnh của một dân tộc không nằm trong khả năng xuất chúng của từng cá nhân nào mà nằm trong sự họp tác của tập thể dân tộc. Chúng ta không thể kể tên một người Nhật xuất chúng nào ăn nói hùng hồn cả. Nhưng chúng ta có thể kể hàng loạt thành quả rực rỡ mà toàn dân và toàn nước Nhật tạo ra. Phải mạnh dạn ghi nhận rằng quê hương gốc chúng ta yếu vì không có sức mạnh tập thể mặc dù có rất nhiều cá nhân có điểm cao ở các học đường hay đậu cấp bằng cao ở các đại học trên thế giới.

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

Yêu em giữa đời quên lãng




Nhạc và lời: Trường Sa [Bản ký âm PDF]
Tiếng hát: Kim Dung
Hòa âm: Đỗ Hải
Studio: Thế An