Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Thành công





THÀNH CÔNG VỀ CÁI GÌ ?

Khi được hỏi về sự thành công thì ta thường nghĩ ngay đến nghề nghiệp của mình. Đây cũng là lẽ đương nhiên, vì khoản thu nhập hay vị trí trong xã hội có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống của hầu hết mọi người. Nhất là tại thời điểm này, kinh tế toàn cầu đang suy thoái trầm trọng, nhiều công ty phải đóng cửa, nhiều tập đoàn bị phá sản và vô số người bị mất việc, cho nên nó đã trở thành thứ nhạy cảm hàng đầu khi người ta ngồi lại với nhau mà không ai dám nhắc tới hai chữ thành công.

Vậy nên ít khi nào ta hỏi ngược lại người kia hay tự hỏi chính mình: thành công là thành công về cái gì? Thành công phải có đối tượng của nó, cụ thể là lĩnh vực nào, chứ không phải cái gì cũng thành công thì mới được gọi là thành công. Như ta đang sở hữu những thứ tiện nghi sang trọng đắt tiền, hay vị trí xã hội mà rất nhiều người mơ tưởng, thì không lý do gì ta không tự nhận mình là kẻ thành công. Nhưng khi có được những thứ đó trong tay thì hạnh phúc gia đình lại đổ vỡ, người thân không muốn nhìn mặt ta nữa, hoặc ta không thể tin tưởng và cảm thông những người bạn xung quanh…thì ta có được gọi kẻ thành công nữa không? Có đấy, nhưng chỉ thành công về mặt vật chất, còn đời sống tình cảm thì thất bại nặng nề.

Còn nếu ta cho rằng tình yêu của ta là nhất, trên cõi đời này không còn thứ gì quan trọng và tuyệt vời hơn thế nữa, để rồi ta lao theo nó như con thiêu thân bất chấp mọi thứ đang xảy ra chung quanh và phía trước. Ta bỏ ra rất nhiều thời gian, tiền của, năng lực và cả những phẩm chất quý giá trong tâm hồn để nắm bắt nó. Ta không cần chăm sóc bản thân, không buồn quan tâm tới việc làm hay những mối quan hệ chung quanh để giữ gìn nó. Ta tập cho mình thói quen ganh ghét hay ăn thua đủ khi người kia không hết dạ với mình. Giả sử người kia đã thuộc về ta rồi thì ta có thật là kẻ thành công không? Có đấy, ta đã thành công về khả năng chinh phục kẻ khác, nhưng lại thất bại với chính mình.

THÀNH CÔNG Ở BÊN NGOÀI

Ta luôn chịu ảnh hưởng bởi tâm thức cộng đồng, luôn bị cuốn theo dòng chảy mãnh liệt của cuộc sống, nên không dễ gì có được chánh kiến (right view) của riêng mình. Dù ta đọc sách thánh hiền, được người hiểu biết hướng dẫn, hay do chính ta suy nghiệm lấy thì ta cũng không đủ can đảm để bước theo hướng đi sáng đẹp mà mình đã tìm ra. Tại vì hướng ấy rất cô độc, gần như mọi người đều đổ xô theo hướng tìm kiếm quyền lợi vật chất hay thỏa mãn danh dự, chứ không còn thiết tha gì với giá trị đời sống tinh thần.

Bây giờ bước ra đường phố ta không khỏi ngẩn ngơ trước dòng người đông nghẹt, nhưng ai nấy cũng đầy vẻ căng thẳng và hối hả như đang chạy tìm một cái gì đó. Họ không biết mình đang đi tới đâu, ai vừa lướt ngang qua mình, thì làm sao có thể nhìn nhau bằng ánh mắt trìu mến, hay tặng nhau một nụ cười thân thiện. Ngồi cạnh nhau trên xe buýt hằng giờ nhưng không ai chịu bắt chuyện, vì dường như ai cũng đang rất bận rộn với những kế hoạch trong đầu. Họ gặp nhau ở công ty nhưng cũng không thể dừng lại hỏi người kia có khỏe không và chờ đợi câu trả lời, vì họ có cảm tưởng như vậy là mất một vài giây phút quý giá trong đời, thay vì tranh thủ lao đầu vào các tờ nhật báo, lên internet để tìm kiếm những thông tin mà họ cho là hữu ích cho sự thành công.

Nhiều người lại không thích người khác hỏi thăm mình. Họ luôn nghĩ sự hiện diện của người kia là không cần thiết hay sẽ làm cho mình mất tự do. Tại vì họ không muốn công khai với người khác về sự thất bại của mình trong công việc làm ăn, và họ có thể nghĩ người kia đang tìm cách để cạnh tranh hay hạ gục mình giữa thương trường. Vì vậy mà bây giờ thương trường đã trở thành chiến trường khốc liệt, trong đó, ai không có đủ sự khôn ngoan và chiêu thức tinh xảo thì phải chấp nhận trở thành kẻ chiến bại. Để rồi con người ngày càng tự biến mình thành cỗ máy vô tri và mất dần tình người với nhau. Đến lúc không chịu đựng nổi cảnh sống “máy móc” và hời hợt như vậy nữa, thì họ chui mình vào vỏ bọc của sự cô đơn, lạnh lùng, và làm những quyết định hết sức lầm lẫn.

Sự thành công như thế vốn đã mang theo tính chất của sự hủy diệt rồi. Thà tài sản bị tiêu tán thì ta vẫn còn cơ hội tìm lại được, hay ta vẫn còn nhiều điều ý nghĩa để sống, nhưng một khi những phẩm chất linh thiêng trong tâm hồn như sự bình an, lòng thương xót, tính thật thà, đức khiêm cung… bị băng hoại thì có khi cả đời ta cũng không sao thiết lập lại nổi. Một kẻ sống không có chất liệu đạo đức là một kẻ thất bại thảm hại. Sống mà không thể yêu thương hay không được yêu thương thì có khác gì những loài ma đói!

Cho nên ta đừng quá hốt hoảng hay buồn chán khi ta đang là kẻ chiến bại trong chiến trường kinh tế. Nếu ta vẫn còn khả năng ngồi yên để uống một chén trà nóng với bạn bè, vẫn còn kiên nhẫn để lắng nghe người thương chia sẻ, vẫn còn biết rung động trước những cảnh đời trái ngang, vẫn còn sốt sắng đứng ra bảo bọc kẻ khác thì ta hãy ăn mừng đi. Vì đối với gia đình, với xã hội, với đất trời này ta là kẻ đã sống trọn kiếp con người.

Vậy nên có thể nói, thành công với chính mình thì ta sẽ dễ dàng thành công với tất cả, nếu thất bại với chính mình thì ta không bao giờ giữ được những thành công khác. Cụ Nguyễn Du cũng đã từng nói: “Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm”, ta đừng bao giờ quên nguyên tắc điều hợp cuộc sống quan trọng này. Giờ phút nào ta vẫn còn chạy vòng ngoài để tìm kiếm sự công nhận, hay tích góp thêm tiền bạc mà bỏ bê những người thân yêu trong gia đình hoặc chính tâm hồn mình, thì giờ phút đó ta vẫn chưa cắm rễ vào sự sống, chưa thực sự biết sống, hay chưa tìm ra lẽ sống.

THÀNH CÔNG VỚI CHÍNH MÌNH

Sự thống trị của cơ sở vật chất đã làm cho bao lớp người không tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống này là gì. Nhiều bạn trẻ khi đã lấy được chứng chỉ Đại học rồi mà cũng không dám bước vào đời, họ nghĩ phải tiếp tục đào xới kiến thức trong học đường vài năm nữa để lấy thêm chứng chỉ Cao học hoặc ít nhất là phải có thêm một chứng chỉ nào khác nữa thì mới đủ tư cách để bước vào ngưỡng cửa thành công. Trong đầu hầu hết các bạn trẻ đều luôn nghĩ đến việc kiếm thật nhiều tiền, phải chứng tỏ cho mọi người thấy được tài năng của mình trong khi còn sung sức thì mới hài lòng với chính mình. Nhiều bạn có cơ hội tiến thân là nắm bắt ngay, những người chưa đủ thực lực cũng chen chân và tìm mọi phương cách để gây sự chú ý của người khác, đánh bóng tên tuổi mình. Với họ, được nhiều người biết tới, dù đó là sự tai tiếng (scandal) cũng đã là một sự thành công vẻ vang rồi. Thật đáng sợ!

Làm sao để nói cho các bạn trẻ ấy biết rằng cái gì cũng có cái giá của nó, giây phút đón nhận hậu quả của những hành động sai lầm rất khủng khiếp. Làm sao để phân tích cho họ thấy được bản chất thật của cuộc sống là gì, làm sao để giúp họ xác định lại đâu mới là mục đích chính của đời sống? Hay là “đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (Nguyễn Du), chắc là đôi lúc ta cũng nên để cho các bạn ấy phải chịu vấp ngã vài lần thật đau thì may ra mới bừng tỉnh mà định vị lại cuộc đời mình, chứ không dễ gì ngăn cản nổi sự háo thắng và liều lĩnh của họ một khi đã lún sâu vào danh vọng.

Các nhà phân tâm học tây phương thường hay nhắc nhở rằng nhà trường chỉ cung cấp cho ta 25% kiến thức, còn cuộc sống trải nghiệm mới cho ta 75% kiến thức ta cần. Sự lầm lẫn về phương tiện sống và mục đích sống đã khiến cho rất nhiều thế hệ học sinh ra trường khủng hoảng về sự lựa chọn hướng đi cho cuộc đời mình. Họ không dám bước vào đời vì họ sợ mình thua sút người khác, mình sẽ không phải là sự lựa chọn tối ưu của những công ty danh tiếng, mình sẽ không dễ dàng chinh phục được những đối tượng có quyền lực. Có bao nhiêu bạn trẻ đã dành trọn nguyện vọng của mình cho việc tìm kiếm giá trị hạnh phúc chân thật, phương cách nào để làm chủ được bản thân, hay làm sao để bảo vệ môi sinh, cứu giúp trẻ em đói, hoặc giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc?

Nhưng câu hỏi đó vẫn luôn bị xem là xa vời, phi thực tế. Tiền bạc hay danh vọng mới đích thực là tâm nguyện hàng đầu của giới trẻ bây giờ. Nhưng các bạn ơi, thành công ấy sẽ đưa ta đi về đâu? Đành rằng đời sống ai cũng cần những tiện nghi đó, nhưng nếu ta không thể thành công trong những lĩnh vực sâu sắc khác của đời sống thì ta sẽ thấy đời sống này rất vô vị và trống rỗng. Tại vì những cảm giác sung sướng của sự thành công kia sẽ mau chóng đi qua, nó sẽ để lại cho ta một nỗi cô đơn mà không có ai chia sẻ được. Đó cũng là lý do tại sao kẻ có nhiều quyền lực chính là kẻ cô đơn nhất.

TA HÃY TRỞ VỀ TÌM LẠI SỰ THÀNH CÔNG NƠI CHÍNH MÌNH.
Hãy học cách lắng đọng tâm thức, không để đầu óc suy nghĩ vẩn vơ; hãy cố gắng luyện tập làm chủ một cơn giận, nhận diện và chuyển hóa những năng lượng độc hại như lòng tham, tính ích kỷ, thói quen so đo tính toán với mọi người. Hãy tìm cách khơi dậy những phẩm chất quý giá trong tâm hồn và những năng lực tiềm ẩn chưa có điều kiện phát sinh. Ta hãy tập cho thành công những bước chân thong thả, những buổi ăn cơm đầm ấm với gia đình, hay những khi lắng nghe khó khăn của người khác. Sự thật cuộc đời này không có cái thành công lớn hay nhỏ, mà chỉ có cái đem tới cảm xúc nhất thời hay giá trị hạnh phúc chân thật mà thôi.

Núi muôn đời vững chãi
Mặc tuyết phủ sương giăng
Ta đã tìm thế đứng
Hay vẫn còn lăng xăng?


Minh Niệm

Tại sao nhà văn nên học toán?


Alexander Nazaryan
Trà Kha dịch


Năm 1988, báo New York Times có một bài viết về màn trình diễn của đội múa ba-lê Fort Worth. Họ đặc biệt lưu ý đến một vũ công nam với “sức mạnh thể chất đáng kinh ngạc” trong khi lại than phiền sự thiếu sót những “cú nhảy lên không trung” và “tư thế xoay tròn sống động” của anh trong một buổi tập đầy thách thức, bao gồm vở Firebird của Balanchine. Đó không là lời khen lấy lệ, bởi biết rằng, người vũ công đó chính là Herschel Walker, cầu thủ ghi điểm của đội bóng bầu dục Dallas Cowboys. Walker từng học ba-lê tại Đại Học Georgia, và dù những gì anh từng học không có nghĩa lý gì với khoảng 8225 yard bước chạy trong sự nghiệp, nhưng chúng hầu như giúp anh dễ dàng lừa qua một, hai hậu vệ. Walker không phải là cầu thủ duy nhất từng nghiêm túc học ba-lê: cầu thủ Lynn Swann được lưu danh trong Tòa đại sảnh Danh vọng cũng từng là đề tài cho một phim tài liệu của NFL mang tựa đề “Baryshnikov của Cleats”.

Ba lê đối với cầu thủ bóng bầu dục, toán học đối với nhà thơ, cũng giống như một sự rèn luyện đầy lôi cuốn và lạ lẫm, gần giống một điều cấm kỵ, vốn lôi cuốn tâm hồn gan dạ bởi những ưu điểm trong tính vững chắc của nó. Có vài nhà văn mạo hiểm lao đầu vô môn toán học cao cấp. Lewis Carroll, Thomas Pynchon, David Foster Wallace nằm trong số nhà văn sáng tạo nhất với câu cú cũng như câu chuyện họ tạo dựng nên.

Ai từng trải nghiệm bài kiểm tra tiêu chuẩn vào nửa thế kỷ trước đều biết rằng, toán học và “nghệ thuật ngôn ngữ” cùng tồn tại song song trong sự học của mỗi người. Chúng đều nhấn mạnh sự học vẹt những điều cơ bản như: các cấu trúc câu, các bảng tính nhân. Sau đó, cả hai môn học đều trở nên nặng hơn: Lớp học Anh văn loại bỏ ngữ pháp để ưu tiên cho ý tưởng nằm giấu dưới bề mặt trang sách, trong khi toán học lại rời bỏ môn đại số học thực dụng dưới mặt đất, mà cứ bay vút lên cao suốt chiều dài của tính toán.

Đến lúc bạn đủ lớn để lái xe, bạn hầu như có thể quyết định phần não bộ nào bạn dự định dùng cho cuộc sống trưởng thành của bạn, và phần nào bạn không muốn làm gì vượt trên những yêu cầu tối thiểu được áp đặt bởi xã hội hiện đại. Những ngày của các học giả công giáo – những người có thể trích cả định luật Pindar và Newton một cách dễ dàng – đã trở nên xa vời. Và với điều mà nhà toán học Cambridge G.H.Hardy đã ghi lại trong cuốn Lời tạ lỗi của một nhà toán học vào năm 1940, có lẽ cách thức tự vệ hùng hồn nhất của môn học là dựa vào những giá trị mỹ học của nó, “phần lớn người ta vì quá sợ hãi với tên gọi của môn toán học mà sẵn sàng, hoàn toàn một cách thản nhiên, cường điệu hóa cái sự dốt nát toán học của chính mình”.

Các nhà thơ thì quen thuộc với toán học hơn là các nhà văn giả tưởng, có thể vì họ phải chú ý nhiều hơn về các tiêu chuẩn số chữ khi sáng tác có tính toán, bị bắt buộc phải cân nhắc đến cấu trúc và cả hình dạng vật lý của những gì họ viết, chứ không chỉ ý nghĩa của nó. Ngài Wordsworth đã ngợi ca “thơ và sự thật mang tính hình học” với “ân huệ cao quý của cuộc sống vĩnh hằng”, trong khi Edna St.Vincent Millay lại nhận xét rằng “nhà toán học Euclid đã một mình đứng nhìn vẻ đẹp trần trụi.”

Các nhà văn giả tưởng it khi thể hiện những sự cảm kích thành thật như vậy cho thẩm mỹ toán học. Thật đáng tiếc, vì sự chính xác toán học và trí tưởng tượng có thể trở thành cứu cánh cho một nền văn học đang chìm đắm trong sự mơ hồ của ngôn ngữ và đề tài. “Quy tắc viết văn xuôi cũng bất biến như những chiếc máy bay, hay toán học, vật lý vậy,” Ernest Hemingway viết cho Maxwell Perkins vào năm 1945. Cho dù Ông già chưa từng được học nhiều về toán, nhưng ông nhìn nhận nó như một lĩnh vực mà ở đó các vấn đề được giải quyết bằng một chuỗi các hành động tỉ mẩn khéo léo. Những câu văn xuất sắc nhất của Hemingway đều có sự phức tap mang tính toán học của một hệ “chiết học”: một công thức có vẻ đơn giản, trong phép truy toán của nó, tạo ra những thay đổi nhỏ nhưng mang tính quyết định cuối cùng. Hãy lấy ví dụ sau, về một cuộc rút chạy nổi tiếng của Caporetto trong Giã từ vũ khí.

Khi ánh sáng xuất hiện, cơn bão vẫn hoàn hành nhưng tuyết thì đã ngừng rơi. Chúng tan chảy như trượt ngã trên mặt đất ướt, và bây giờ trời lại trở mưa lần nữa. Đã có thêm một đợt tấn công sau bình minh nhưng rồi thất bại. Chúng tôi đã trông đợi một cuộc tấn công cả ngày nhưng nó vẫn không xảy ra cho đến khi mặt trời lặn. Trận oanh tạc bắt đầu nhắm vào phía nam cây cầu gỗ dài, nơi các tay súng Áo đang tập trung. Chúng tôi đã trông đợi một trận oanh tạc nhưng nó đã không đến. Các tay súng bắn tới tấp từ cánh đồng phía sau ngôi làng và những viên đạn, bay đi, với một âm thanh dễ chịu.

Đoạn vừa trích có hẳn một sự tính toán đại số hẳn hoi, thế nhưng, sự đơn giản ấy lại nhường chỗ cho tính phức tạp của ngữ nghĩa. Hemingway bắt đầu với chất liệu (tuyết, ẩm ướt, ánh sáng, mặt trời) chỉ để kết thúc với “một âm thanh dễ chịu” đầy bất ngờ và kín đáo của những tay súng Áo đang rút chạy – một chút mặc khải ngây thơ trong đoạn của nhân vật Frederic Henry. Tất cả mọi thứ trong đoạn này đều là cố ý, từ những hình ảnh giản dị đến cao trào của sự khẩn trương được tường thuật với sự lặp đi lặp lại của “chúng tôi đã trông đợi”.

Hardy cũng có gợi ý thế này: “Một nhà toán học, cũng giống như một họa sĩ hay một nhà thơ, là người tạo ra các họa tiết… Các họa tiết của nhà toán học, cũng như của họa sĩ hay nhà thơ đều phải đẹp; những ý tưởng như màu sắc hay từ ngữ, đều phải gắn kết nhau một cách hài hòa. Vẻ đẹp là bài kiểm tra đầu tiên. “Nhưng tiểu thuyết mà chỉ tuân thủ các luật lệ không thôi thì cũng giống như môn số học nhạt nhẽo, dù cho nó có đẹp thế nào chăng nữa. Và thực sự, ngày nay vẫn đang tồn tại rất nhiều “thợ thủ công” viết nên những tác phẩm mà các nhà phê bình gọi là thứ văn xuôi chạm trổ, những người thậm chí còn chưa đạt đến mức dám vung rìu chém vỡ những dòng sông băng trong lòng chúng ta. Đoạn văn ấy của Hemingway sẽ là một thủ pháp chậm rãi nếu như không vì “âm thanh dễ chịu” – thứ đã bao trùm những mơ ước vô khả thi của các chiến sĩ về nguyện vọng được điều đi đánh giết hay về một cuộc rút lui lúc chiều tà. Sự quan sát khách quan vào đầu đoạn văn đã tô điểm cho sự châm biếm lên án chiến tranh.

Nhà toán học Terence Tao đã viết rằng, học toán cần ba bước: “tiền nghiêm túc,” tức là lúc học những quy tắc cơ bản, rồi đến giai đoạn lý thuyết “nghiêm túc”, và, sau chót và hấp dẫn nhất, là “hậu nghiêm túc”, khi mà trực giác đột nghiên bắt đầu tham gia đóng một vai trò. Ông đã ghi lại rằng: “Chỉ có sự kết hợp giữa chủ nghĩa hình thức nghiêm túc với một khả năng trực quan tốt mới có thể giải quyết những vấn đề toán học phức tạp; chúng ta cần bước đầu tiên để có thể xử lí chính xác những chi tiết hay, và bước sau để xử lí bức tranh toàn cảnh. Nếu thiếu dù chỉ một bước, bạn sẽ phải mất rất nhiều thời gian loay hoay mò mẫm trong bóng tối.”

Trong văn học, bức tranh toàn cảnh là nơi bạn phải ngoại suy những nhân vật mà không phải là chính bản thân bạn, điều này thậm chí có thể nguy hiểm như một phần thưởng tiềm tàng. Ví dụ như, William Styron phát hiện ra rằng khi cố gắng viết từ tiếng nói của người nô lệ nổi loạn Nat Turner, cùng lúc ông nhận ra rằng mình đang lộ mặt thành một kẻ phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa hậu hiện đại vào cuối thế kỷ 20, với tất cả giới hạn của nó, cuối cùng cũng nhận ra rằng thế giới ngày nay đã đi quá xa cùng chúng ta, và tiểu thuyết cũng phải thay đổi cùng những biến chuyển của thời đại. David Foster Wallace, cũng như bất cứ ai trong nửa cuối thế kỷ, gần như tìm thấy sự biến chuyển toàn cầu đó. Có thể Wallace đã sống phần lớn cuộc đời khép kín, và tiểu thuyết của ông không như những câu chuyện giật gân ăn khách, mà chúng đã đề cập một cách ám ảnh về hố ngăn cách giữa cái tôi nhỏ bé và rời rạc của chúng ta với thế giới rộng lớn.

Một học sinh say mê môn toán trong suốt thời trẻ của mình, đã chuyển sang triết học khi lên trung học bởi vì toán học cao cấp không đem đến “cú chạm” cho sự khai sáng, như D. T. Max mô tả trong tiểu sử về Wallace của ông: “Mọi câu chuyện tình đều là chuyện ma cả.” Tuy Wallace đã từ bỏ toán học, nhưng ông chẳng bao giờ bỏ đi tinh thần rộng mở của môn học này. Nếu văn phong của Hemingway là toán học trong sự chính xác của nó, thì của Wallace là tính toán lượng tử, một phép toán đòi hỏi trí tưởng tượng bằng cách đòi hỏi khái niệm hóa những thứ ta không thấy, giống cách thức mà một hàm số cho thấy sự thay đổi xuyên không gian và thời gian. Chúng ta phải sử dụng trí tuệ cá nhân mình để hình thành các hình thái mà, giống như Plato đã có thể, mang tính trường tồn và phổ biến. Quả là không tồi nếu bạn có thể đạt được điều đó.

Trong bài đánh giá về hai tác phẩm văn học trong tạp chí Khoa học vào năm 2000, Wallace đã viết về “sự pha trộn đặc biệt của lý trí với khả năng sáng tạo làm mê đắm tiêu biểu cho điều gì là tốt nhất về tâm hồn của con người: “Chỉ một số ít người đã học toán học cao cấp mới đủ may mắn để có thể hiểu được sự đáng tiếc khi hầu hết học sinh theo đuổi môn học chẳng bao giờ vượt qua khỏi các trình độ sơ cấp của nó, và do vậy chỉ biết đến việc giải quyết những Phép tính và Sơ đồ ở trình độ sơ cấp… đầy khô khan và khắc nghiệt. Chỉ những ai có quyền lợi (hoặc bị bắt buộc) học môn học đó mới có thể hiểu được sự luyện tập toán học cao cấp thật sự chính là một “môn nghệ thuật” và nó mang tính lệ thuộc không ít hơn so với các môn nghệ thuật khác về cảm hứng, lòng dũng cảm, sự chăm chỉ,….”

Tôi không muốn dùng từ “lòng dũng cảm” để mô tả phần lớn tiểu thuyết ngày nay. Các học sinh M. F. A thường xuyên được dạy bảo rằng viết văn là một cách khám phá bản thân đầy rối rắm. Kết quả có thể dẫn đến hội chứng tự yêu bản thân quá mức đầy ngột ngạt, sự khiếm khuyết lòng yêu thích đối với thể loại ngoại suy và khám phá vốn rất cần đối với cả toán học và văn học. Trong bài tiểu luận nổi bật năm 1921 mang tên “Truyền thống và tài năng cá nhân,’” T. S. Eliot viết, “Những gì xảy ra là sự đầu hàng kéo dài vì hiện tại ông đang hướng tới một thứ gì đó giá trị hơn. Sự tiến bộ của người nghệ sĩ nằm ở sự hy sinh kéo dài, một sự tự hủy hoại cá tính kéo dài… Chỉ trong sự đánh mất nhân cách thì nghệ thuật mới tiếp cận được với điều kiện của khoa học.” Ông ấy so sánh tư duy của một người nghệ sĩ với một cái nồi nấu kim loại – nơi những phản ứng hóa học diễn ra.

Lúc này, chúng tôi trở nên rất say mê với ý niệm về văn học trong các bức tranh hành động của Jackson Pollock, sự xung động bản năng ném lên tấm vải đầy bạo động. Tác phẩm hư cấu cuối cùng của ông bao gồm cả màu sắc riêng vô cùng cân bằng của Rothko và sự hùng vĩ trong các chủ đề ông chọn. Tất cả điều này trông có vẻ giống như tôi đang cổ vũ cho một thứ văn học lạnh lùng và khoa học vậy, tự đưa bản thân nó hướng tới thứ kỷ luật khắc nghiệt xa lạ. Không phải. Thay vào đó tôi vẫn đang cầu xin, rằng tiểu thuyết suy tư sâu hơn và thành khẩn hơn về cách thức nó sẽ được viết và những gì nó sẽ nói – đó chính là món quà to lớn nhất mà toán học có thể tặng cho chúng ta.

“Tôi ưa thích toán học chỉ với tư cách là một môn nghệ thuật sáng tạo,” Hardy, nhà toán học ở Cambridge viết. Ý ông là sự sáng tạo trong cách thức nghĩa đen nhất, tương phản với thứ cờ vua mang tính truy vấn toán học đầy nghiêm túc. Phần sau cũng cần rất nhiều trí tuệ, nhưng nó chẳng giải quyết được vấn đề nào của con người cả. Sự khác biệt tương tự tồn tại trong tiểu thuyết, nằm giữa cái giải trí và cái nghiêm túc, giữa cái tầm thường và cái phổ quát. Trong cả hai trường hợp, các công thức chẳng là gì ngoại trừ bảng hướng dẫn các loại sẽ rời bỏ bạn khi bạn càng lúc càng leo cao hơn. Cuối cùng, bạn chỉ còn cô độc với các biến số của chính bạn, các phương trình của cá nhân bạn.

Sầu Ca Trên Đỉnh Tháp


Thơ :Inrasara 


Ngươi đứng trên đồi trọc kia cô độc ngàn đời
như ngươi, giữa hoang mạc người ta khát
khát khi trên tay ta li bia sủi bọt
cả khi từ suối nguồn ta dòng nước mát tuôn tràn.

Như ta, ngươi mãi dõi nhìn về giáo đường xanh non
cô đơn với bầy dơi, cụm mây, khuôn mặt
cô đơn con mắt camera nhấp nháy, bài diễn văn ngợi ca
cô đơn trong chính định mệnh ngươi.

Như ngươi
xa lạ với phố chợ mọc tràn
ta xa lạ lối mòn lang thang chiều rỗng
ngươi xa lạ tiếng dùi đục vào thân thể, khoét tủy xương, lớp vữa bôi trát lên da
ta xa lạ tiếng nói ta qua máy phát thanh, chữ viết ta trên trang sách

Ơi tháp!
ngươi đứng đó – lặng câm
đám mây trắng lãng tử chán ngươi đến không thể khóc
chỉ lũ gió nhiệt tình trườn qua đỉnh đầu ngươi lơ thơ bạc
rít hoài điệu huênh hoang.

Cũng như ta
đóng khung trong ngôi nhà ắp hơi ấm, nhưng tâm hồn gửi tận miền giáo đường miên viễn
cơ nghiệp hôm nay ta dựng nên/ ta không thuộc về
đám ruộng này ta gieo vãi/ sẵn sàng ngoảnh đi
ngươi cầu nguyện cho người hôm nay, an ủi vỗ về người hôm nay/ linh hồn ngươi thuộc về ngàn xưa cả ngàn sau nữa
buồn thăm thẳm ngươi là của hôm nay.

Chiều nay buồn ngươi lớn dậy.

Như ngươi
ta làm việc trong kiên nhẫn vô danh, cày xới trên đám ruộng bỏ hoang vô chủ
không hi vọng cơn mưa rào bất chợt
bất kể nắng, gió, bão, chớp giật, lũ quét
bất kể áp thấp, mắc cạn, tắc đường
(mùa màng có thể trắng tay)
cho buổi tiệc mai đạm bạc.

Như ta
bằng hữu ngươi rụng rơi hay lang bạt cùng trời
Xah Inư cô quả, Tháp Đôi còn vợ mất con, Dương Long đau đời mãn tính
Mĩ Sơn trọng thương trong chiến tranh, hôm nay mặc áo mới
Po Klaung Garai vợ con đủ đầy
Yang Praung trên cao ấy ngàn năm tủi phận con rơi.

Ngươi đứng đó, định mệnh người không chỉ thuộc quá khứ (dù bia đá tạc rõ ngày tháng năm sinh)/ thuộc cả tương lai
không của riêng Chăm (dù hình hài ngươi do Chăm đẻ đau mang nặng)/ là của vô cùng
hôm nay ngươi cô đơn trong cô đơn linh thánh
dù lời ca không âm vọng, ngươi mãi hát vào khoảng trống trần gian
ngươi đứng chôn chân trên đồi trọc hoang nơi xó xỉnh trái đất này, dù thế giới quay cứ quay

Ganesa hai vai ngươi oai phong kia, trước vô tâm người nhân gian chúng bất lực
Shiva vẫn luân vũ bất tuyệt/ uy lực linh thiêng không còn.
lời khấn lầm rầm bao thế hệ tu sĩ miệt mài bên tai không nguôi buồn ngươi.

Ngươi đứng trên đồi trọc kia cô độc ngàn đời
như ngươi
giữa sa mạc người trần gian ta khát
buồn ta chiều nay lớn dậy và vỡ òa tiếng hát
sầu ca vọng vào nẻo đường bỏ quên.

__________________

Po Klaung Garai: tháp Chàm ở Ninh Thuận; Xah Inư: tháp Chàm ở Bình Thuận; Yang Praung: tháp Chàm ở Đak Lak; Ganesa: thần Hạnh Phúc và May Mắn, đầu voi mình người.

BẮT PHÓNG VIÊN BÁO THANH NIÊN VÌ CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN


PetroTimes – Tối 2/10, cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định bắt khẩn cấp phóng viên Kim Cương, báo Thanh Niên để làm rõ hành vi “cưỡng đoạt tài sản”.



Phóng viên báo Thanh Niên bị bắt do có liên quan đến gỗ lậu


Khoảng 19h, tại nhà riêng của phóng viên Kim Cương, gần khu Nghĩa trang Cầu Sập (phường Long Bình, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai), cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã đọc lệnh bắt khẩn cấp vàthực hiệnkhám xét để thu giữ các tài liệu có liên quan đến vụ án.

Điều tra ban đầu, Kim Cương đã có hành vi “lợi dụng quyền hạn” để “bảo kê” cho lâm tặc phá rừng Nam Cát Tiên. Liên quan đến vụ án này, Phóng viên Duy Đông (báo Pháp Luật TP HCM) cũng “chung xuồng” với Kim Cương.

Trước đó, thời điểm cuối năm 2012, Công an huyện Vĩnh Cửu (tỉnh Đồng Nai) bất ngờ khám xét căn nhà được xác định của Duy Đông chứa nhiều gỗ lậu, trị giá ước tính lên đến hàng chục tỉ đồng.

Trong quá trình điều tra, Công an huyện Vĩnh Cữu đã chuyển hồ sơ lên cấp trên và báo cáo lên Bộ Công an để cùng phối hợp làm rõ. Mở rộng vụ án, cơ quan chức năng xác định số gỗ trên có liên quan đến Duy Đông và Kim Cương.

PV PetroTimes

Phương pháp phỏng vấn ít chính thức

Những nhà nghiên cứu chọn lựa hình thức phỏng vấn ít chính thức thường quan tâm đến việc tạo ra sự thông hiểu thiên về chất[2] đối với đề tài đang nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là họ sẽ dùng phỏng vấn để có được cái nhìn sâu sắc vào ý nghĩa, diễn giải, giá trị và trải nghiệm của người trả lời phỏng vấn cùng với "thế giới" của người đó. Tiềm ẩn trong phương pháp này là rất nhiều các hiểu ngầm và hệ quả quan trọng mà, đáng để chú ý, có thể phát triển từ, hoặc hơn vậy là song hành, với các phỏng vấn chính thức dùng bảng khảo sát.

Mục tiêu của phỏng vấn ít chính thức

Các nhà nghiên cứu làm việc với các phỏng vấn ít chính thức tiếp nhận một góc nhìn khác về bản chất của thế giới xã hội mà theo họ, khác với thế giới tự nhiên vì nó được tạo thành chủ yếu là từ ý nghĩa, giá trị và diễn giải. Theo cách nhìn này, con người khác với các vật thể tự nhiên nhờ khả năng biết giải nghĩa hành động của chính mình và của những người khác, phản ứng theo kiến thức của họ và gắn liền cuộc sống và hành động của họ với ý nghĩa (meaning). Những ý nghĩa này không được hiểu như là những thực tại cố định, có thể "đo đếm" được, mà được chủ động tạo dựng và thêm bớt thông qua tương tác xã hội. Nhiệm vụ của người phỏng vấn là tạo ra và thích nghi với những điều kiện mà trong đó người trả lời phỏng vấn sẽ bộc lộ hay "cởi mở" tâm tư hay "chuyện riêng" có liên quan với vấn đề đang nghiên cứu.

Theo đó, những ai làm việc với phương pháp này sẽ coi như luôn tồn tại nhiều góc nhìn khác nhau và nhiều chiều trong những người có liên quan đến đề tài hay vấn đề đang nghiên cứu. Các mục tiêu và kỹ thuật phỏng vấn sẽ được áp dụng để giảm bớt những nghi lễ, sự kiểm soát và khoảng cách thường xuất hiện trong kiểu phỏng vấn dùng bảng khảo sát, thay vào đó là loại hình trao đổi, uyển chuyển. Vì vậy phương pháp sẽ đề cao các câu hỏi mở (open-ended) và không trực tiếp, hơn là yêu cầu người trả lời phỏng vấn cung cấp những mảnh thông tin đặc biệt, trả lời những câu hỏi đã cố định sẵn. Người phỏng vấn sẽ không có bảng câu hỏi đặt sẵn, mà chỉ là một danh sách các chủ đề hay điểm cần chú ý và đi theo trong khi thảo luận. Vai trò của người phỏng vấn thường sẽ là bị động, là quá trình nghe chủ động và nhắc nhở, hơn là lo quản lý danh sách câu hỏi cần trả lời. Loại hình phỏng vấn này cũng thường đi kèm với các loại hình quan sát, mà trong một số trường hợp còn là quan sát có tham gia (participant observation), tức là người phỏng vấn sẽ tham gia các hoạt động hay bối cảnh xã hội (social setting) đang được nghiên cứu. Như vậy các cuộc phỏng vấn sẽ được thực hiện trong bối cảnh và ngữ cảnh "tự nhiên", trong "lãnh thổ" quen thuộc đối với người trả lời phỏng vấn hơn là với người phỏng vấn. Nói một cách tổng quát thì người phỏng vấn trong phương pháp này sẽ chú ý hơn đến từng cuộc phỏng vấn một - bao gồm cả phần của họ trong đó - và khả năng ảnh hưởng của nó đối với toàn bộ nhữ cận cảnh và dữ liệu thu thập được. Vấn đề này được mô tả bằng khái niệm "phản thân" (reflexivity). Người phỏng vấn sẽ ít đóng vai "kẻ thẩm vấn" mà sẽ thiên về vai "người hướng dẫn" trong cuộc phỏng vấn và trong quá trình "tìm kiếm" qua lại về đề tài đang được nghiên cứu.

Phỏng vấn ít chính thức tương phản với loại hình survey qua các điểm sau:
a. Người phỏng vấn đặt mục tiêu "đi vào bên trong" các ý nghĩa chủ quan và "thế giới" của người được phỏng vấn. Phương pháp này tốn nhiều thời gian hơn, nhưng có khả năng nhận được phản ứng sâu hơn.
b. Cuộc phỏng vấn sẽ ít nghi thức hơn, mở hơn, uyển chuyển hơn và giống cuộc nói chuyện hơn, và sẽ diễn ra trong một bối cảnh tự nhiên hơn.
c. Vai trò của người phỏng vấn và người được phỏng vấn được phân biệt rõ ràng, người phỏng vấn sẽ thay đổi và thích nghi nhiều hơn với người được phỏng vấn trong quá trình khám phá đề tài đang được bàn luận. Trong một số trường hợp thì người được phỏng vấn sẽ là người "đặt nghị trình" hơn là người phỏng vấn.
d. Thay vì tạo ra một danh sách các câu hỏi, người phỏng vấn sẽ dùng chuỗi uyển chuyển các câu hỏi không trực tiếp để kích thích hoặc "lèo lái" người được phỏng vấn vào khu vực đang quan tâm. Do đó, quá trình phỏng vấn sẽ liên tục được nâng cấp.
e. Thông tin ghi lại trong cuộc phỏng vấn sẽ rất khác nhau. Dữ liệu sẽ ít theo kết cấu, ít dự đoán trước và khó áp dụng phương pháp mã hóa và phân tích bằng xác suất thống kê. Cũng khó có thể so sánh dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn khác nhau và dùng các cuộc phỏng vấn làm cơ sở để tổng quát hóa.

Tóm lược

Thế mạnh chủ yếu hay cũng là lợi thế của phương pháp phỏng vấn ít chính thức chính là khả năng thâm nhập sâu và cận cảnh hơn những phương pháp phỏng vấn dùng bảng khảo sát. Sử dụng kỹ năng phỏng vấn ít chính thức, nhà nghiên cứu có thể tiếp cận gần một cách đáng kể đối với ý nghĩa, động cơ, giá trị hay cảm giác của những người đồng ý tham gia cuộc phỏng vấn. Họ có thể "đào sâu hơn" và kết quả của loại hình này thường rất đa dạng về mô tả. Trong khi các cuộc phỏng vấn survey có thể đề cập đến sự tồn tại của một giá trị hay tính chất cụ thể, thì phỏng vấn ít chính thức cho phép nhà nghiên cứu đi thẳng vào trung tâm của vấn đề.

Tuy nhiên, thế mạnh đối với một số người lại có thể bị một số người khác coi là điểm yếu. Với các nhà nghiên cứu làm việc với truyền thống survey, các cuộc phỏng vấn không chính thức đáng nghi ngại về nội dung. Đặc biệt là không có bằng chứng hay cơ chế dễ dàng nào để so sánh các câu trả lời, đo đếm hay tổng quát hóa. Để có được "câu chuyện bên trong", cuộc phỏng vấn ít chính thức tạo cơ hội cho sự thiên lệch chủ quan - giá trị của riêng người nghiên cứu hay của người được phỏng vấn - đối với cả hai người tham gia. Thêm vào đó, vì thời gian dài và căng thẳng của cuộc phỏng vấn, thường chỉ phỏng vấn một lượng nhỏ người hơn là so với phương pháp survey. Điều đó ít tạo nổi cơ sở để thực hiện phép tổng quát hóa theo xác suất thống kê. Ngược lại với phương pháp phỏng vấn dùng bảng khảo sát, các phỏng vấn ít chính thức có thể cho chúng ta biết rất nhiều về cá nhân hay ca cụ thể, nhưng lại không thể hiện bao nhiêu về qui luật hay xu hướng. Nhưng ngược lại, điểm mạnh của phỏng vấn ít chính thức cung cấp hình ảnh đầy đủ và hoàn hảo hơn của đề tài.

Cần phải ghi nhớ hai vấn đề ở đây. Trước hết, hai phương pháp phỏng vấn được phát triển để xử lý hai loại câu hỏi và mức độ phân tích khác nhau. Cả hai đều có thế mạnh khi dùng để nghiên cứu các vấn đề và câu hỏi phù hợp. Khác biệt cơ bản của phương pháp định lượng và định tính[3] chính là vấn đề cần được giải quyết ở đây. Câu trả lời đó cho phép nhà nghiên cứu phát triển theo hướng này hay hướng kia. Thứ đến, hai phương pháp phỏng vấn có thể được áp dụng phối hợp trong nghiên cứu. Kỹ thuật phỏng vấn ít chính thức có thể giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển lên thành một bảng khảo sát chính thức, và có thể cung cấp những phương tiện quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo trong một lãnh vực quá phức tạp vượt khỏi giới hạn của survey.

Các bước trong phỏng vấn ít chính thức

Thực ra không có một phương pháp mẫu nào cho cuộc phỏng vấn ít chính thức. Quá trình phỏng vấn nói chung đòi hỏi phải có một lượng kỹ năng nhất định, kiên nhẫn và tiếp cận nhiều hơn với người được phỏng vấn hơn là trường hợp survey. Các bước tiến hành cũng cần được so sánh với các bước tương tự trong survey[4] và có thể tổng kết thành bốn bước như sau: cụ thể hóa; tiếp xúc; phỏng vấn và phân tích.

Cụ thể hóa
Bước ban đầu, mang tính chuẩn bị này cũng khá giống với những gì đã trình bày trong phần giới thiệu survey. Nó cần định nghĩa chính xác mục tiêu của nghiên cứu, về chuyện tham khảo bất kỳ nguồn thông tin nào khác có liên quan và xác định chung về mục tiêu. Bạn cần cân nhắc toàn bộ cuộc nghiên cứu để cân nhắc việc dùng phương pháp phỏng vấn ít chính thức, và cần cung cấp lý do thuyết phục khi áp dụng đối với đối tượng hay đề tài nghiên cứu. Cần phải định rõ những gì bạn muốn đạt được nhờ sử dụng phương pháp này. Bạn sẽ cần định hình các đề tài và câu hỏi của mình trong điều kiện có thể nhất tại thời điểm này. Cũng cần phải làm một số phỏng vấn thử nghiệm (pilot).

Tiếp xúc
Bạn sẽ phải chọn và liên hệ với những người có nhiều trở thành người được phỏng vấn. Có thể cần phải liên lạc tất cả, hay một lượng người được chọn, từ một nhóm hay địa điểm nhất định, ví dụ như trong một ca nghiên cứu về văn hóa làm việc cụ thể. Điều đó có nghĩa là bạn cần tìm cách liên lạc với nhiều gia đình, những người già, phụ nữ làm việc, các đại diện của những loại người tổng quát. Trong những trường hợp đó bạn sẽ phải thiết lập một điểm liên lạc với những người có nhiều khả năng trở thành người được phỏng vấn sau này. Có thể thực hiện thông qua mạng lưới quan hệ hiện có (ví dụ liên lạc với độc giả của tạp chí thông qua danh sách của nhà phân phối) hay tham gia một sự kiện hay cuộc họp cụ thể nào đó (ví dụ tham gia câu lạc bộ hay nhóm xã hội) để xây dựng quan hệ. Như một phần của quá trình này bạn sẽ phải giới thiệu sơ lược về nghiên cứu của mình và các đề tài bạn muốn bàn thảo trong cuộc phỏng vấn. Nói chung, người phỏng vấn sẽ thích nghi với người được phỏng vấn, và người được phỏng vấn cũng nên có quyền đề nghị nơi gặp. Nhà của họ thường được coi là địa điểm tốt nhất, trừ khi có những yêu cầu đặc biệt nào đó về nơi chốn xảy ra cuộc phỏng vấn theo thiết kế của cuộc nghiên cứu - ở nơi làm việc, trong câu lạc bộ, ở trường v.v.

Phỏng vấn
Hiện có nhiều tranh cãi về cách được coi là hiệu quả nhất khi ghi âm cuộc phỏng vấn ít nghi thức hoặc không chính thức. Các cố gắng tạo ra những loại hình bất nghi thức khác nhau thường bị chuyện ghi âm phá hỏng hoặc ảnh hưởng xấu. Có thể xem thêm chương 23 về các lời khuyên khi ghi âm. Thường thì nên bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách ghi lại tên của người được phỏng vấn và các dữ liệu có liên quan đến dự án. Người được phỏng vấn cũng được bảo đảm về độ bảo mật đối với các câu trả lời của họ và tính chất của cuộc nghiên cứu. Trong cuộc phỏng vấn vô cùng bất chính thức thì cả hai bước đó đều được thay đổi cho phù hợp. Trong một số trường hợp cũng nên nói trước sẽ có bao nhiêu thời gian để bạn có thể chủ động tiến trình phỏng vấn. Nói chung khoảng một giờ đồng hồ là thời gian tối thiểu để có được một cuộc phỏng vấn hiệu quả. Các câu hỏi và nội dung chính cùng chuỗi trình tự nên được chuẩn bị sẵn và cân nhắc từ trước, nhưng các câu hỏi nối tiếp (follow-up) và bàn luận thì không thể có sẵn. Kỹ thuật vòng lặp (looping - phát triển câu hỏi khuyến khích từ chính câu trả lời vừa xong) cũng là kỹ thuật hữu dụng để giữ cho người được phỏng vấn tiếp tục "trôi chảy". Nhiều nhà nghiên cứu đề cao giá trị của các câu hỏi nối tiếp trong trường hợp này.

Phân tích
Khi đã có đủ lượng phỏng vấn cần thiết và tùy thuộc vào phương pháp được sử dụng để ghi lại các cuộc phỏng vấn, bạn sẽ có vô số thông tin và dữ liệu "thô". Nói chung, quá trình phân tích đòi hỏi bạn phải thân thuộc với những thông tin này, "đặt mình" vào các hoàn cảnh khác nhau của những người được phỏng vấn. Như một phần của phương pháp, bạn có thể thấy việc tóm lược mỗi cuộc phỏng vấn sẽ rất hữu dụng, ghi nhận những câu chuyện chính hay các điểm nhất quán trong các vấn đề mà người được phỏng vấn đã đề cập. Báo cáo và diễn giải của những tóm lược đó, thường với trích dẫn và mở rộng đi kèm, sẽ giúp bước cuối cùng trong quá trình viết luận văn. Trong ngữ cảnh của phạm vi nghiên cứu mà bạn đã bắt đầu, những người được phỏng vấn đã nói gì với bạn về đề tài nghiên cứu?

------------------------------------------------------------
[1] Bản gốc tiếng Anh là chương 22 của quyển giáo trình Kỹ năng nghiên cứu cho sinh viên (Research Skills for Students) của De Montfort University (Leceister, Anh quốc), Kogan Page xuất bản năm 1996 (tái bản 1998, 2001) ở London, 128 trang. Tác giả là các giảng viên của trường: Brian Allison, Alun Owen, Arthur Rothwell và Tim O'Sullivan, Carol Saunders, Jenny Rice biên soạn phần về phỏng vấn.
[2] (hơn là lượng) qualitative understanding. Trong một thời gian dài phương pháp định lượng (quantitative) chiếm ưu thế và các giáo trình thường giới thiệu phương pháp định tính (qualitative) như phần bổ sung, đối chiếu với các trình bày trước đó về phương pháp định lượng. Đây cũng là trường hợp của giáo trình này. Đoạn văn (thay bằng dấu [...] trong bài dịch ở trên) trước phần này như sau:
Chương trước đã nhắc nhở rằng các phỏng vấn chính thức dùng bảng khảo sát (formal survey interview) thường chủ yếu quan tâm đến việc thu thập một lượng lớn dữ liệu thông qua một hệ thống câu hỏi khá chặt chẽ. Cơ sở của phương pháp này thường là nhằm lấy số đo về lượng nếu xét đến trọng tâm nghiên cứu. Ngược lại, các loại hình phỏng vấn ít chính thức được áp dụng khi nhà nghiên cứu muốn bỏ thêm thời gian để phỏng vấn một lượng người nhỏ hơn trong không khí ít trực tiếp, ít máy móc hơn, mà mối quan tâm cũng rất khác nhau.
[3] quantitative versus qualitative. Vấn đề cũng được nhiều giáo trình nhắc tới, cũng như phần đầu của chương 12 (trang 70) trong cùng giáo trình này, do Arthur Rothwell biên soạn:
Nếu mục tiêu của bạn là biểu diễn kết quả bằng con số thì bạn sẽ lên kế hoạch nghiên cứu định lượng (quantitative). Còn nếu bạn chỉ đơn thuần muốn khám phá xem các yếu tố nào có liên quan trong quá trình tìm hiểu đề tài, không cần biết các yếu tố đó thường xuất hiện như thế nào, thì tức là bạn đang nghiên cứu định tính (qualitative). Khảo sát định tính thường đủ để cung cấp mọi thông tin cần thiết, ví dụ như trong nghiên cứu sự nghiệp thông qua một số ca chọn lọc, hay mô ta xem thay đổi đã được tiến hành như thế nào trong một ngành kinh doanh, thì không cần phải có phân tích số liệu chiếm nhiều thời gian mới đủ tính thuyết phục và hấp dẫn cho công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, thường thì các nghiên cứu định tính được thực hiện như bước loại trừ ban đầu để tiến đến ghi nhận các dữ liệu định lượng. Ví dụ như một bảng câu hỏi định tính có thể dùng để xác định các đề tài quan trọng để lập ra bảng câu hỏi định lượng (quantitative questionnaire). Chắc chắn là đa số các bảng câu hỏi được thiết kế để dùng cho khảo sát định lương, mặc dù chắc chắn cũng có một số được dùng cho phân tích định tính. Nghiên cứu định tính thường dùng các phương pháp thu nhận dữ liệu khác, ví dụ như phỏng vấn và quan sát. Dữ liệu định lượng thường được ghi nhận thông qua các đề nghị lựa chọn trong danh mục có sẵn, dễ phân tích, trong khi bản chất của khảo sát định tính là ngăn dự đoán trước các phạm trù dùng để xếp loại dữ liệu dùng trong phân tích. Do tránh các phức tạo do phân tích xác suất thống kê gây ra mà quá trình phân tích dữ liệu định tính sẽ mất nhiều thời gian hơn rất nhiều.
[4] Được trình bày trong chương trước - chương 21 - của tập giáo trình, cũng chia phỏng vấn survey thành bốn bước tương tự, nhưng mỗi bước lại có những chú ý và mục tiêu khác nhau. Sách có bán trên mạng, http://www.amazon.co.uk/Research-Skills-Students-Transferable-Learning/dp/0749418737

Từ giáo trình[1] ĐH De Montfort, Lê Hải dịch và chú thích

Mầu sắc và Khái niệm màu sắc, đâu là tọa độ cho Mỹ thuật Việt Nam?



Lê Hải

Tóm lược: Bài viết giới thiệu và áp dụng một vài phương pháp luận cơ bản cho Mỹ thuật Việt Nam, tập trung vào mối quan hệ tam giác họa sĩ - tác phẩm - bình luận, xác định vị trí tương quan trong hệ tư tưởng đương đại, đồng thời gợi mở một số hướng phát triển và giới thiệu một vài thử nghiệm mới.


Trong mỹ thuật, đặc biệt là hội họa, thì việc thể hiện ý tưởng qua mầu sắc - dù đóng vai trò chính, mang tính quyết định đối với giá trị của tác phẩm, nhưng - chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong lượng thông tin được trung chuyển trong các mối quan hệ phụ thuộc xoay quanh người họa sĩ - nhà sáng tạo. Ngay chính họa sĩ, mặc dù dùng mầu để vẽ - thể hiện ý tưởng của mình, nhưng trong mối quan hệ với nhà phê bình để nhận tín hiệu phản hồi, cần phải sử dụng đến chất liệu ngôn từ, tức là mầu sắc thể hiện qua khái niệm bằng từ ngữ. Người họa sĩ này khi truyền đạt kỹ thuật cho thế hệ sau, hoặc tiếp thu từ thế hệ trước, cũng phải thông qua ngôn ngữ. Thật khó có thể tưởng tượng được người ta sẽ học vẽ, dạy vẽ, và phê bình mỹ thuật, cũng như so sánh các nền mỹ thuật khác nhau ra sao, nếu không được phép dùng ngôn từ (trên giấy, lời nói, hoặc cử chỉ) để trao đổi.

Giới thiệu

Có lẽ Goethe là một trong số những người sớm chú ý và phát triển hệ thống ngôn từ cho mầu sắc, với pho Farbenlehre nổi tiếng. Thế nhưng, ở Goethe, mầu sắc dường như chỉ là những ấn tượng mà nó tạo ra, những mối quan hệ phụ thuộc giữa chúng với nhau, mà không quan tâm mấy đến cơ chế cảm nhận mầu sắc của con người lẫn tư cách tính chất vật thể của chính mầu sắc.Với những khái niệm về ngành học của ngày hôm nay, khó có thể xếp hệ thống của Goethe vào ngành hiện tượng, sinh lý, vật lý, tâm lý,... hay bao gồm tất, kể cả siêu thực. Không chỉ đưa ra những tuyên bố cho mầu sắc của hiện thực, Goethe định nghĩa cả những mầu sẽ xuất hiện, ví như trong ngày Chúa phán xét vậy.

Sang đến các lý luận của Wittgenstein, đặc biệt là trong bộ Tractatus logico-philosophicus, bắt đầu hiện rõ mâu thuẫn khi định nghĩa mầu sắc quá thiên về hiện tượng, hay quá thiên về logic quan hệ giữa chúng. Nếu thử dùng kỹ thuật điểm chấm của Monet mà vẽ các vùng mầu vừa xanh lá cây, vừa đỏ, để chúng cho ra một mảng mầu sắc nào đó, mà người ta phải nói: "đây là mầu vừa xanh vừa đỏ", thì câu nói đó thể hiện được phần nào sự vật, nhưng lại trái qui luật logic. Ðể giải quyết vấn đề này, Wittgenstein đã đặt ra hệ thống lý luận logic cho riêng mầu sắc, tạo thành từ 3 quá trình nối tiếp nhau: 1) khái niệm mầu sắc cơ bản, 2) logic cho các câu tả mầu, 3) qui luật sắp đặt ngôn từ, cho đến khi có được câu tả chính xác mầu sắc cần thể hiện. Wittgenstein chỉ trích lối miêu tả của Goethe không thể dùng được cho ngay cả thợ sơn, chứ chưa nói đến họa sĩ, thế nhưng trong ngay chính lý luận của ông cũng vướng mắc vào một vấn đề khác, đó là bản thể của mầu. Toàn bộ hệ logic mầu của Wittgenstein bắt đầu từ các mầu sắc cơ bản, thế nhưng mầu nào là mầu cơ bản, mầu gốc? Với các họa sĩ thời xưa, vốn chỉ được giới hạn trong một số mầu sắc gốc, thì còn phù hợp, nhưng với kỹ thuật mầu ngày nay, người ta có thể pha ra bất cứ một mầu sắc nào rồi đóng vào tuýp bán với giá ngang nhau, thời gian chế tạo như nhau, và cùng nằm ngang nhau trên một bảng chào giá hàng nghìn loại mầu khác nhau, thì việc đi tìm mầu gốc có lẽ là vô lý.

Cho đến hôm nay thì những phân tích, hệ thống cơ sở lý luận về khái niệm của mầu sắc đã đi những bước rất xa, phân chia thành nhiều nhóm, ngành, xử lý những vấn đề rất cụ thể nẩy sinh từ thực tế. Với tôi, những phát triển ấy, có thể xếp vào 3 nhóm chính:

1) Bản chất (ontology): chuyên sâu vào tìm hiểu bản chất của sự vật thông qua mầu sắc mà nó hiển thị. Người ta tiến hành các phép phân tích hóa học, vật lý để tìm ra bản chất hạt, bề mặt vật chất, và hình dạng cũng như tổ hợp sóng ánh sáng tạo nên mầu sắc cần thiết. Những nghiên cứu này được ứng dụng rất sâu trong các ngành kỹ thuật, như tạo mầu trên màn ảnh truyền hình, qua chương trình máy tính tạo ảnh 3 chiều, hay cho ngành sơn hiện đại.

2) Phản ảnh (epistemology): chuyên sâu vào tìm hiểu quá trình đón nhận mầu sắc ở con người, bắt đầu từ các phản ứng trước tín hiệu mầu của tế bào mắt cho đến hoạt động trong não, từ lý tính cho đến tâm lý tính. Các nghiên cứu có thể tập trung vào tính khách quan hay chủ quan của mầu sắc, tính tổ hợp và quá trình biến đổi về chất trong tư duy. Mặc dù có rất nhiều ứng dụng thực tế như chọn mầu cho chiến dịch tiếp thị, hàng hóa, chữa bệnh, nhưng phần chính vẫn là khu vực tư duy ý tưởng.

3) Từ ngữ (semantics): khi đã là ký tự, các khái niệm chỉ mầu sắc còn mang thêm một chức năng nữa là tín hiệu ngôn ngữ, phụ thuộc vào qui luật ngôn từ, ngữ pháp, hay chuyển dịch giữa các ngôn ngữ khác nhau, hoặc tính chất riêng của loại ngôn ngữ chịu ảnh hưởng từ văn hóa của nhóm người sáng tạo hoặc sở hữu ngôn ngữ ấy. Nếu như ở Việt Nam mầu xanh của lá cây và xanh của nước biển hay da trời đều cùng được gọi bằng (mầu) "Xanh" chứ không bằng 2 tên riêng khác nhau như ở các nước châu Âu, thì ở vùng Bắc cực người Eskimo có đến vài chục danh từ riêng để tả mầu mà chúng ta chỉ gọi đơn giản là "Trắng" của tuyết.

Chi tiết của các hệ lý luận vừa nêu có thể truy cập từ các sách trong danh sách kèm theo ở cuối bài, hoặc qua các bài viết ngắn dễ tìm trên mạng Internet. Ði sâu vào các lý luận và hệ thống triết học đương đại về mầu sắc - dù đang là vấn đề rất sôi động hiện nay - không phải là mục đích của bài viết này. Một số khái niệm được nêu để đặt cơ sở chung cho các phân tích tiếp theo trong hội họa Việt Nam, qua hệ thống tam giác với 3 cực là 3 tiêu điểm nhìn chính như đã nêu.

Bản chất

Trước hết là khu vực vật chất tạo mầu. Ðiểm qua các loại chất liệu dùng để thể hiện thì có thể thấy hội họa Việt Nam rất nghèo nàn trong số lượng chất liệu thể hiện. Mặc dù sách vở thường đề cao chất liệu Sơn từ cây Sơn ở Phú Thọ, nhưng dường như người ta thích dùng các loại sơn Nhật hơn, mà theo Chu Quang Trứ (chương 5.3, [II.1]) là kém chất lượng, nhưng thực chất là do khác biệt về cơ bản giữa 2 kỹ thuật và kết cấu hóa học của 2 loại sơni. Trong ngành sơn dầu không ít thợ vẽ - họa sĩ không hề quan tâm đến chất lượng - kết cấu của các loại sơn mà họ dùng. Hiện giới hội họa thường chỉ biết đến 2 loại sơn cơ bản nhất là Trung Quốc - Ðài Loan, còn thêm nữa, ví dụ như độ mịn hạt, chất hòa tan, độ khô... thì hầu như không ai nhắc đến. Ðó là còn chưa kể đến chất lượng của lớp lót, vải nền, vốn cũng ảnh hưởng rất lớn đến bề mặt của tác phẩm - chưa nói về chất lượng bảo quản - trong quá trình tạo hình, tạo mầu. Ðiểm qua các cửa hàng hóa chất ở khu vực Chợ Lớn, tôi nhận thấy ở Việt Nam có thừa nguyên liệu để pha chế sơn một cách đơn giản và tiện lợi, thế nhưng có vẻ như giới họa sĩ bỏ qua cơ hội này. Cũng có thể lý do là vì ở trường họ không được học về chế tạo sơn, hoặc có thể do lười sáng tạo. Với các chất liệu khác thì càng hiếm gặp hơn - thể hiện rõ qua các phòng triển lãm, nơi số lượng chất liệu có thể đếm trên đầu ngón tay. Phải chăng đó là vì các tác phẩm kiểu như Andy Warhol vẫn còn là hiện tượng vô cùng xa lạ với họa sĩ Việt Nam? Tương tự như vậy, kỹ thuật vẽ của các họa sĩ tốt nghiệp trường Mỹ thuật cũng rất hạn chế. Một phần vì không được nhìn tranh gốc, một phần vì lười tìm hiểu qua sách vở, mà với nhiều bức tranh, thay vì vẽ bằng các lớp mầu chồng lên nhau nhưng không phủ hết nhau trên vải, người ta chọn lối thể hiện cổ điển là pha mầu trên pallette rồi quệt rất mỏng lên tranh. Lối pha mầu trực tiếp trên tranh vẽ dường như cũng rất xa lạ. Một sinh viên mỹ thuật tâm sự với tôi là bài tập của anh ta bị thầy giáo phá tan vì dám trực tiếp dựng mầu chứ không qua dựng sáng tối trước. Sang đến ngành thêu tưởng chừng như sau khi được ông tổ Lê Công Hạnh nhập khẩu từ Trung Quốc về vào thế kỷ 17, đã trở thành món hàng đặc sản, nhưng thật đáng tiếc vẫn phải thực hiện bằng chỉ thêu nhập từ Pháp, Ý, tức là vẫn không thể chủ động về mầu sắc.

Phản ảnh

Nếu nhìn vào sự nhộn nhịp của thị trường tranh Việt Nam, qua xác nhận của nhiều ý kiến trong diễn đàn Talawas, thì có thể nhận xét rằng họa sĩ Việt Nam phản ảnh rất tốt các kết quả tiếp thị về khu vực khách hàng tương đối có tiền là người nước ngoài. Những thành công trong tuyên truyền cũng cho phép kết luận là không ít họa sĩ thành công trong phản ảnh tốt các tư tưởng, ý đồ của nhà nước Việt Nam qua tranh cổ động, tranh minh họa. Thế nhưng còn nhu cầu về tranh trong khu vực khách hàng nội địa? nhu cầu về thể hiện bản sắc riêng của cá nhân? Ngày hôm nay thật khó có thể chỉ nhìn tranh để đoán ngay ra là của ai, hay ít nhất cũng là theo trường phái nào. Phải chăng đây là ý của Phillip Morris 2001 khi chọn trao giải cho Lê Quảng Hà với gam mầu quá đặc biệt và riêng tư? Có không ít họa sĩ than phiền: "tư tưởng Mác-xít chỉ đạo, không có chỗ để thể hiện tư tưởng riêng". Nhưng trên thực tế, thể hiện tư tưởng riêng không có nghĩa là phải theo, hay chống lại chủ nghĩa Mác - vốn chỉ là một môn triết học thuộc khu vực chính trị, trong khi triết học - mầm sản xuất ý tưởng - còn bao gồm cả đạo đức, logic, siêu thực, tôn giáo, nhận thức và rất nhiều khu vực đương đại khác nữa. Có một số họa sĩ nhận thức được điều này, thế nhưng tác phẩm của họ chứng tỏ tư tưởng của người sáng tạo chỉ mới dừng ở mức kiến thức triết học phổ thông, hoặc rất sơ sài, chưa tập trung đủ độ sâu và chín, và chưa hề có sáng tạo - cái cần thiết tạo nên giá trị tác phẩm. Thế là thay vì hướng dẫn trình độ thưởng thức của công chúng, người họa sĩ lại đi làm cái việc ngược lại là tìm cách vẽ sao cho rẻ hơn ảnh chụp và tranh in, hoặc vẽ như tranh cổ động, tranh minh họa để thể hiện ý tưởng của mình thật "dễ hiểu" (theo kiểu trần truồng) với công chúng nói chung. Không ít tác phẩm chứa đựng số vốn ngôn từ tư tưởng ở mức trẻ con nhưng được tung hô hết mức trong giới hội họa, thể hiện tầm tư tưởng chung còn rất sơ khai. Nếu so sánh, có lẽ không có gì khác biệt giữa những nhận thức sơ khai được thể hiện qua nghệ thuật hình khối truyền thống Việt Nam mà Trần Ngọc Thêm [5] đã trình bầy, với nhận thức đương đại thể hiện qua nghệ thuật hình khối "h(ậu h)iệnii đại" của Việt Nam. Bị, hoặc tự giới hạn trong số vốn chất liệu vô cùng hạn chế, người họa sĩ quên mất rằng chính họ là người phải biết nhìn và thể hiện thế giới qua nhiều cách khác nhau, để rồi mới xuất hiện không chỉ Van Gogh hay Claude Monet, mà còn cả Leonardo de Vinci và Günther von Hagens... Tôi cho rằng nếu suy nghĩ như vậy, họa sĩ Việt Nam sẽ tha hồ mà vẽ hết sức chứ không phải chật chội trong cái xưởng vẽ mà Birgit Hussfeld [II.2] mô tả. Cũng với lối suy nghĩ như vậy, người ta sẽ không cần phải xem thường hay đề cao quá đáng chuyện một người nước ngoài nào đấy mua tranh, chọn tranh triển lãm, hay dạy vẽ tranh, vì đó chỉ là những góc cạnh khác nhau của phương tiện thể hiện và truyền đạt mà thôi. Với tôi, performance hay installation không có gì mới lạ hơn là đình chùa và lễ hội. Các bức tượng được xếp đặt theo một thứ tự rất rõ ràng, tạo không gian không kém gì các installation nổi tiếng đương đại, hay của Ðinh Gia Lêiii vừa kết thúc ở viện Goethe - Hà Nội. Trong phạm vi bài viết này, tôi tạm dùng khái niệm "đình chùa" vì lối sắp đặt tương đối phổ biến ở đình chùa, chứ không có nghĩa cho rằng nó xuất phát từ đình chùa, vì còn xuất hiện cả trong nhà thờ, tòa thánh, tháp, tiệc đám, và nhiều khu vực khác của văn hóa Việt Nam. Trong lễ hội, không chỉ những nhân vật trung tâm rước tượng, lên đồng, khuân pháo đại, mà người tham gia cũng reo hò, gia nhập, chẳng khác gì performance của Ly Hoàng Lyiv hồi tháng 9 vừa qua ở Busan. Trong khi đó, người ta than phiền mất Việt Nam tính và cố gắng học hỏi kiểu performance hay installation từ một nền văn hóa Á châu tưởng chừng như gần gũi nào ấy, hoặc mượn tạm một thứ sắp đặt dễ thấy nào đấy ngay chung quanh mình, thiếu đào sâu tư tưởng. Với tôi, văn hóa sắp đặt và biểu diễn của Việt Nam có một biểu hiện rất đặc trưng, là hòa hợp tất cả mọi nền văn hóa bên trong nó, dập tắt tất cả những xung đột. Há đó chẳng phải là cái mà không chỉ nghệ thuật đương đại đang tìm kiếm? Nếu ở Trung Quốc 3 hệ tư tưởng Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo tàn sát nhau thảm khốc và không bao giờ chịu đứng chung thì ở Việt Nam chúng lại tạo nên hệ luận cơ bản (Tam giáo) cho tư tưởng của người Việt (cho đến thế kỷ 19). Ðến thế kỷ 20 văn hóa Việt Nam lại cải hóa thêm nhiều hệ tư tưởng khác, từ xa lạ như Thiên chúa giáo, hay gần cạnh như Chăm giáo (biến thể Chăm của Bàlamôn Ấn Ðộ, cho đến trước khi người Chăm chuyển sang Hồi giáo). Ở tòa thánh Cao Ðài người ta đặt Victor Hugo, Napoléon cùng với Phật, Tăng, Khổng, Mạnh trong cùng một "tam kỳ phổ độ". Ở chùa ở miền Bắc Việt Nam, bên cạnh Phật có Vua, sư, người tài trợ, và cả bộ Linga-Yoniv nữa. Ở miền Nam nhà thờ đứng chen chân với chùa, thánh thất Tin lành, Baptist 7 ngày, Ân điển, Phao lồ, Bà Ni, Islam, Po Nagar, chùa Miên, Tiều, Minh Hương, Tầu, Ấn... mà nếu được tìm hiểu sẽ bộc lộ những trật tự, quan hệ rất là đặc trưng. Thế nhưng từ hiểu được đến thể hiện có lẽ họa sĩ Việt Nam còn phải trang bị thêm không ít các cơ sở lý luận, tư duy và bản thân phải thoát khỏi sự hạn hẹp của vật liệu như đã nhắc đến ở phần trên.

Từ ngữ

Trong khu vực ngôn từ, sự thiếu vắng nguy hiểm của phê bình đã được giới chuyên môn nhắc đến rất nhiều. Nguyên Hưng [3] đề ra biện pháp giải quyết trước mắt là: "để có được một nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại, không chỉ cần sự cố gắng của mỗi họa sĩ, mà thực tế, cần hơn hết, sự nỗ lực của cả nền văn hóa, đòi hỏi sự tiếp cận của phê bình phải đụng chạm đến toàn bộ nền móng của nền mỹ thuật, đến các cơ sở tồn tại và phát triển của nó - từ các yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến các nhận thức về ý nghĩa, giá trị nghệ thuật v.v... Nói cách khác, là phải tiếp cận từ cội nguồn văn hoá xã hội và cơ sở học thuật của nó." Thế nhưng đây mới chỉ là khởi đầu. Nguyên Hưng chưa kịp đưa ra các giải pháp cụ thể, cũng không kịp định nghĩa đâu là "cơ sở học thuật và cội nguồn văn hóa xã hội" tạo nên "nền móng của Mỹ thuật (Việt Nam), cơ sở tồn tại và phát triển của nó". Ngay cả trong diễn đàn có vẻ sôi động với tầm nhìn tương đối cao và rộng như hiện nay là Talawas - tập trung không ít tên tuổi quan trọng đối với mỹ thuật Việt Nam như được giới thiệu, thì người ta vẫn chứa nhiều "phán đoán chủ quan,[...] đang thiếu một cái nhìn hệ thống, và thiếu luôn cả một cái nhìn phân tích" , tức là thiếu những kiến thức cơ bản mà nhiều ngành khoa học, trong đó có semantics, cung cấp.Với tôi, khi dùng từ ngữ để nói đến tác phẩm hội họa và mầu sắc của nó, thì rất giống như đi trên một mảnh đất lạ đầy cạm bẫy. Có thể rơi vào cái bẫy của khác biệt văn hóa trong ngữ nghĩa, hay sa vào trò chơi ngôn ngữ, hoặc tệ hơn, là mớ bùng nhùng của logic luận, nhận thức trực quan, rất dễ làm người ta lo sợ không dám nói gì cả, nhường hết lại cho ngôn ngữ hội họa, cái đang cần được biên dịch và phản hồi. Ðể thanh minh cho sự sợ hãi của bản thân, không ít người đề cao, tôn sùng tính thể hiện của ngôn ngữ hội họa trong thể hiện. Ðiều này làm tôi liên tưởng đến một bài học, may mắn được cố họa sĩ Bùi Xuân Phái truyền đạt những năm giữa thập niên 80. Ông nhắc đến những thử nghiệm, như là cắt đôi phần dưới của chữ viết, để tiết kiệm tiền mực, khoảng cách (mà theo tôi là một xu hướng của nghệ thuật quần chúng - mass arts - trong trào lưu phát triển của ngành marketing lúc bấy giờ), và nói đến khả năng thể hiện của chữ viết với ví dụ (mà không ít trí thức Hà Nội đều có biết hoặc nghe qua) bức tranh phong cảnh "vẽ" bằng chữ Hán:

Trên mặt phẳng chữ nhật, góc bên phải người ta viết 4 chữ (mùa) "Xuân" nho nhỏ đứng dọc xuống - 1 chữ bị khuyên tròn chung quanh. Bên trên góc phải là 5 chữ "Cảnh" (sắc) nằm ngang - 1 chữ bé hơn các chữ khác. Ở bên trái là một chữ "Núi" (Sơn) cao vút lên gần hết chiều dài, và vắt ngang là một chữ "Ưng" (Ðiểu) nho nhỏ. Bên dưới là chữ "Hồ" (nước) giang rộng hết chiều ngang và bên trên là một chữ "Cá" (Ngư) bé tí, viết lật ngược. Trong số những bài thơ vịnh cảnh trong tranh mà họa sĩ trình bầy, tôi chỉ còn nhớ được duy nhất 1 bài, vì khá ấn tượng:

"Ba xuân nho nhỏ một Xuân tròn
Bốn cảnh đều nhau một Cảnh con
Hồ rộng thênh thang Ngư lộn ngược
Núi cao chót vót Ðiểu nằm ngang"


Với tôi, "bức tranh" ngôn từ (bằng chữ Hán) trên đã thể hiện đủ mọi yêu cầu của thể hiện hội họa mà tôi đã đòi hỏi ở các phần trước: chất liệu sáng tạo, ý tưởng, đủ cả installation lẫn performance lẫn sự gợi mở cho tư duy nhận thức. Bài thơ (bằng tiếng Việt) cũng thể hiện được cảnh vật trong tranh. Hi vọng là những mô tả bằng câu văn như tôi vừa làm cũng vừa tạm đủ giúp cho quí vị hình dung ra cả bức tranh lẫn phong cảnh trong tranh. Như vậy, nếu nhìn bằng cặp mắt của ngành semiotics thì có thể dùng phép so sánh, coi ngôn từ viết bằng bút hay mầu sắc thể hiện qua cọ đều cùng là ký tự (sign) để thể hiện sự vật hoặc truyền đạt tín hiệu (signal); mỗi loại hình ký tự có những đặc điểm riêng của nó. Với cách nhìn như vậy, tôi hiểu là trong lúc họa sĩ phải vật lộn với những mảng mầu thì nhà phê bình phải làm việc với những hệ thống ngôn ngữ, khái niệm. Nếu họa sĩ phải sáng tạo, thoát khỏi mớ vật liệu hạn hẹp, thì nhà phê bình cũng phải tìm đặt hệ thống khái niệm phù hợp, mà không ít kết cấu của chúng đã có sẵn từ bản thể hiện mỹ thuật, qua những instalation và perfomance của nó. Nếu Mỹ thuật Việt Nam bắt đầu cải tổ [4] bằng những Thể nghiệm 1,2,3, thì phải chăng phê bình và tranh luận cũng nên bắt đầu tìm Thể nghiệm cho nó?

Thể nghiệm

Qua phần phân tích trên, có thể bi quan cho rằng tọa độ của mỹ thuật Việt Nam còn cách quá xa vòng trao đổi của thế giới đương đại. Tuy nhiên, đây cũng chính là lợi thế khiến cho mỹ thuật Việt Nam nếu can đảm bước vào sẽ có bước đột phá ngoạn mục (cái mà tôi hiểu theo cách nói của Kaomi Izu được gọi là "siêu tốc" và "siêu lợi nhuận"vi).

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin phép được giới thiệu 2 ví dụ - tùy bút gợi mở, thể nghiệm tập hợp các vấn đề đã nêu, với khởi đầu từ gợi ý của Bùi Xuân Phái về tiết kiệm mầu và vải, nhưng hoang phí về tư duy, vay mượn nét bốc đồng của Goethe, dùng tạm vài nét lý luận triết học, tâm lý, ngôn từ, kèm theo chút kỹ thuật vẽ cơ bản.

1. Mặt Trời và Em

Tôi ngồi vẽ trong một buổi chiều đầu xuân cô đơn. Có đến hai năm rồi tôi không cầm đến cọ vẽ. Ðống tuýp sơn cứng đờ nằm hỗn độn trong cái túi nhựa đầy bụi trong góc nhà. Nói chính xác thì trong 2 năm qua thỉnh thoảng tôi có động đến cọ vẽ, nhưng chỉ được chốc lát là lại tung hê, vất tất cả đi. Thế nhưng hôm nay sự cô đơn, nỗi trống trải bỗng nhiên bị đánh động bởi một tia nắng chiều, thứ ánh nắng hiếm hoi ở cái đất châu Âu này. Trong tôi bao kỷ niệm xưa bị đánh thức dậy, càng lúc càng dâng tràn, bắt tôi phải bầy dầu, sơn, cọ, và vải ra đầy nhà để hoàn thành bức tranh chỉ mất vài phút để hình thành trong óc, nhưng phải mất vài ngày và vài đêm sau đó để thể hiện trên một diện tích bề ngang chỉ vỏn vẹn có 297mm và bề cao 210mm, một cặp số rất quen thuộc với tất cả những ai đã từng học qua đồ họa. Tôi muốn vẽ một bức tranh nhỏ để tặng em cho căn phòng mới nhỏ nhắn, ấm cúng, mầu hồng phấn nhẹ nhàng. Tôi muốn vẽ một cảnh trời nửa đêm Bắc Cực mà có lần tôi đã từng được chứng kiến. Tôi muốn vẽ một góc trời Duyên Hải trong một đêm thức nhìn về quầng sáng Sài Gòn. Tôi muốn gửi đến em những tâm sự của tôi mà có lẽ nếu nghe xong thì chỉ vài phút sau là em sẽ lãng quên ngay lập tức. Tôi muốn gửi đến em lời chia tay nhẹ nhàng trong tôi nhưng tưởng chừng như sẽ ở lại mãi mãi trong tim tôi. Tôi muốn dùng mầu để thể hiện những suy nghĩ mà ngay cả tôi cũng không biết dùng lời để thể hiện, và cũng không biết giải thích hay định nghĩa bằng bất kỳ vật liệu nào khác.

Mầu xanh hoàng gia. Mầu xanh nước biển đậm đặc thường chỉ gặp ở các vùng sâu thẳm nước lặng trong, nơi yêu thích của các loài cá mập hung dữ. Mầu xanh đen tối của bầu trời cực bắc của những ngày giá lạnh nhưng lặng gió. Tôi miệt mài bôi lên mặt tranh hàng đống mầu xanh thẫm, đủ các loại, lúc nào cũng chiếm số lượng nhiều nhất trong đống mầu của tôi. Xong rồi đến mặt trời. Ở Bắc Cực bạn sẽ có 6 tháng mặt trời không tắt trên lưng chừng trời. Mặt trời của tôi to hơn bình thường, dường như không chịu nằm khuất sau dẫy núi mờ mờ vạch tạm bằng chút mầu xám. Nền của mặt trời là mầu xanh. Mầu của mặt trời là mầu vàng chanh. Và tôi cứ phải bôi mầu vàng liên tục lên trên một cái vòng tròn nho nhỏ đầy những chất mầu xanh thẫm như bất cứ nơi nào khác trên bức tranh vậy. Thế là cái vòng tròn ấy chậm chậm chuyển từ mầu xanh dương sang thành mầu xanh lá. Và rồi bắt đầu xuất hiện một chút ánh vàng. Thế nhưng cái ánh vàng ấy vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi, và dường như mặt trời của tôi không chịu nằm đằng sau bầu khí quyển, không chịu nằm đằng sau lớp bóng tối đen thẫm, mà mạnh bạo đòi nhẩy ra khỏi bức tranh, chen lấn vượt qua cả dẫy núi đánh dấu đường chân trời. Mặt trời của tôi to dần ra đến mức quái dị, bất bình thường, đem ánh sáng của mình ra chiến đấu với đêm đen Bắc Cực.

Tôi bỗng giật mình. Ánh sáng nồng ấm của một ngày mới đã xuất hiện bên cửa sổ từ lúc nào. Hóa ra cả đêm tôi không hề ngủ mà cứ ngồi miệt mài ngồi vẽ cái bóng đêm. Nhờ đứng dậy pha cốc cà phê và châm điếu thuốc mà tôi phát hiện ra là cái bóng đêm ấy vẽ thật là đạt, thật là đúng ý muốn của tôi. Nhưng mặt trời thì trông chả giống một tí nào với cái khung cảnh bên trong bức tranh. Những chỗ giao nhau giữa mặt trời và bầu trời là các khoảng mầu xanh lá cây xa lạ, trông cứ như là một vòng tròn mầu vàng chanh bị thả vào trong chậu nước xanh thẫm và loang dần ra những cái sắc mầu của mình, trộn lẫn nhau tạo ra mầu xanh lá cây lạ lùng. Bực mình, tôi chấm một ít nâu đất và hồng đỏ quệt vào cái vòng tròn mà tôi gọi là mặt trời ấy... Và... bỗng nhiên ... Em xuất hiện. Sự giao nhau giữa các mầu ấy bất ngờ tạo thành cái mầu mà trong một góc nào đó của tiềm thức, tôi dùng để định nghĩa em. Tôi miệt mài bôi mầu, kiên nhẫn chấm sửa từng mảng bé tí để cả cái vòng tròn ấy biến thành cái mầu mà tôi vừa phát hiện ra đấy. Tôi vẽ và nhìn thấy gương mặt dễ thương và kiêu sa của em trong ấy. Và tôi không còn nghĩ đến chuyện vẽ mặt trời nữa. Tôi cảm thấy cứ như là đang vẽ em. Tôi tham lam đòi em phải là của tôi. Tôi tặng cho em cả bầu trời của tôi, và cả dẫy núi lẫn mặt đất không phải của tôi. Tôi tặng em tất cả không gian của bức tranh. Ánh sáng của em làm tan đi những mảnh băng tuyết đã đóng ở nơi đây hàng nghìn hàng triệu năm rồi, phá vỡ chúng thành những mảnh sáng tối khác nhau, trông như mặt đất sau một trận chiến ác liệt. Tôi vẽ miệt mài, phó mặc cho tình cảm và tâm sự điều khiển những cây cọ khó tính và đám mầu sơn bất trị.

Bóng đêm là sự cô đơn, vô vọng, chán nản, buông xuôi trong tôi. Ánh sáng là em, là niềm hi vọng, là tình yêu, là cuộc sống mà em đã khấy động trong con tim đã nguôi lạnh từ lâu của tôi. Tôi sợ hãi, tôi chống lại, như bóng đêm trong tranh cố ẩn nấp sau những ngọn đồi, sau những chỗ nhấp nhô của băng tuyết. Tôi đã phải tập chịu đựng nỗi cô đơn và trở thành thân thuộc dần với nó. Tôi đã quen sống trong cô đơn, và bây giờ ánh mặt trời chói lòa từ em làm tôi hoảng sợ, làm tôi trở thành kẻ hèn nhát, làm tôi đảo lộn hết tất cả trật tự hàng ngày trong cuộc sống của một gã đơn độc. Ánh nắng từ em không chói chang nhưng làm tôi lòa mắt. Hơi ấm từ em có sức lôi cuốn đến đáng sợ. Tôi chỉ muốn ôm chặt em vào lòng, tham lam và ích kỷ sưởi ấm con tim băng giá của tôi. Nhưng tôi lại không dàm làm như vậy. Tôi giữ khoảng cách. Tôi sợ hơi ấm ấy sẽ làm tan đi tất cả băng giá trong lòng tôi, và tôi sẽ mất đi cái bóng tối vốn đã trở thành quen thân với tôi suốt từ lâu rồi. Trước em gã trai bặm trợn hỗn hào bỗng trở thành ngơ ngẩn như những con cừu đứng chờ bị cạo lông.

Tôi đang nói về chuyện gì thế nhỉ ? Tôi nói về bức tranh tôi vẽ, hay tôi nói về tôi, hay tôi nói về mối quan hệ giữa tôi và em? Goethe đã từng giảng giải về định luật mầu sắc, thế nhưng không hề thèm đếm xỉa đến những cái định luật pha mầu, tức là bỏ qua hệ thống phản ứng thể hiện mầu sắc trong não người, mà nâng lên thành suy nghĩ. Trong pho Farbenlehre, Goethe đã từng viết "đúng với kiểm nghiệm, mầu vàng tạo ra cảm giác ấm cúng dễ chịu, cho nên trong hội họa người ta lấy mầu vàng là mầu chiếu sáng, mầu tác động". Goethe cũng không thèm định nghĩa xem thế nào là mầu vàng, vì ông vốn không chú trọng đến mối quan hệ logic chính xác giữa câu chữ và khái niệm thể hiện. Và "mầu vàng" ấy trong tranh của tôi chính là một sự pha trộn giữa vàng chanh sắc lạnh, nâu đất mềm mại, và hồng phấn ấm áp. Nó cũng tạo ra một cảm giác ấm cúng dễ chịu. Nhưng còn hơn thế nữa. Nó tạo ra em, nó thể hiện em, nó là em trong tôi, là em ngoài tôi, là em đang chiếm hết tâm trí tôi, là tất cả, là tình yêu đáng sợ. Tại sao tôi lại nghĩ đến Goethe nhỉ? Có lẽ vì lời của ông ta giải thích được phần nào những hành động của tôi đang làm - vẽ một cái vòng tròn "vàng" trên nền "xanh" và nói rằng đó là em, đó là mặt trời chói chang... Thế còn đâu là chỗ cho các qui luật về mầu sắc cho tranh vẽ và sơn dầu? Các nhà duy vật và duy tâm tranh cãi nhau. Hume xuất phát từ tractatus logicophilosophicus của Wittgenstein mà cho rằng mầu sắc là ý tưởng, là sự hoạt động chủ quan của tư duy. Giới phân tâm học và ngôn ngữ học cãi nhau. Nhà vật lí và nhà thơ không đồng ý với nhau. Cuộc tranh cãi khởi đầu từ khi bắt đầu có những bức tranh sơn dầu đầu tiên vẫn tiếp diễn cho đến tận ngày hôm nay. Tôi cóc cần. Tôi bất chấp. Và tôi để mặc cho sự tranh cãi ấy giằng xé bức tranh của tôi. Có lúc bóng tối tràn sang phía ánh sáng, xâm phạm cả vào địa phận của cái vòng tròn đã đặt ra là chỉ dành riêng cho mặt trời. Thế nhưng cứ dần dần từng bước một, từ trong một góc nào đó của tiềm thức, từ sự điều khiển của con tim, ánh sáng mặt trời của em cứ bao phủ dần, bao phủ dần cả bức tranh của tôi, chỉ khoan nhượng nhường lại cho bóng tối một khoảng trống trên trời cao. Tôi sợ hãi em. Tôi sợ hãi cái tình yêu trong tôi bị đánh thức dậy và ngày càng thêm đòi hỏi tôi phải xích lại gần em. Tôi sợ hãi phải bước ra khỏi cái bóng tối quen thuộc của sự cô đơn. Tôi sợ tình yêu lại tan vỡ thêm một lần nữa. Có người không thích bóng tối, cho rằng cô đơn và bóng tối đồng nghĩa với cái xấu. Thế nhưng bóng tối của tôi không có mầu đen tuyền mà mang sắc xanh thẫm. Sự cô đơn đem lại cho tôi sức mạnh để tồn tại và giành giật với cuộc đời. Tình yêu khiến cho tôi yếu đuối và mất đi sự hung bạo liều mạng, mất đi cảm giác tự tin cố hữu. Lạc lõng một mình nơi cực bắc tôi cảm thấy tự tin. Trú đêm ở một góc rừng đước non Duyên Hải bóng tối của tôi vẫn được quầng sáng ánh đèn từ Sài Gòn chiếu đến. Cô đơn ở những mảnh đất xa lạ tôi vẫn được công việc và ý chí biến thành kẻ ngạo nghễ bất cần. Thế nhưng ở nơi đông người quen biết tôi lại cảm thấy lạc lõng cô đơn vô cùng, và cô đơn hơn bao giờ hết khi ngồi cạnh em, nhìn khóe miệng xinh đẹp của em cười, cảm nhận hơi ấm từ em bao phủ khắp căn phòng và tàn nhẫn sưởi ấm con tim tôi. Em là Mặt Trời nơi Phương Bắc, sự chờ đợi trong suốt 6 tháng và sự hãi trong 6 tháng còn lại. Tôi sợ hãi em hay sợ hãi sự cô đơn trống trải sẽ lại quay trở lại sau khi vì một lý do nào đó phải chia tay em? Tôi sợ hãi một tình yêu mới bắt tôi phải chui ra khỏi nơi trú ẩn tối tăm lạnh lẽo của tôi để rồi sau đó khi tình yêu tan vỡ lại phải quay trở lại trong nỗi thất vọng ê chề, với con tim trăm lần tan nát hơn lần chia tay trước, với sự bùng nổ tình cảm não nề chán nản mà cách giải quyết duy nhất là bỏ cuộc trong ván bài tồn tại đang phải đánh với tự nhiên, với Thượng Ðế. Có lẽ tôi sẽ ở lại với nỗi cô đơn. Tôi vẽ xuống tất cả tình yêu của tôi dành cho em và gửi tặng em bức tranh đó như một lời chia tay. Tôi yêu em! Tạm biệt em.

2. Tia sét và Em

Khi nói đến tia sét, người ta thường nghĩ đến thảm họa, đến sự kinh hoàng. Những bức tranh sơn dầu thời Trung Cổ đặt sấm chớp bên cạnh những cảnh đắm tầu, những nét mặt sợ hãi của những người thủy thủ. Bầu trời đêm trong truyện cổ tích khi xẩy ra những điều tai ương cũng là dông bão và sấm chớp. Câu chuyện dân gian Việt Nam về Con cóc đi kiện ông Trời dù chế nhạo thần sấm thần sét nhưng cũng không ra khỏi ngoài phạm vi này, tức là liệt sấm sét vào những điều xấu. Ánh sáng chớp lòa và những tiếng nổ kinh hoàng trong chiến tranh của những khẩu đại bác hay máy bay cũng được người ta ví như 'Thần Sấm'. Phật Thích Ca ngồi tọa thiền trong cơn mưa dông sấm sét và ma quái quấy nhiễu chung quanh. Những người điên nổi loạn, ma cà rồng thức giấc, quỉ thần trồi lên mặt đất cũng trong khung cảnh sấm sét. Những trận bão cuốn trôi nhà cửa ở Việt Nam cũng thường đi kèm với mưa và sét. Thế nhưng người ta cũng ví tình yêu như là sét đánh - tiếng sét ái tình. Không ít nhà phù thủy thời Trung Cổ tạo ra sét trong những quả cầu bằng kính và tôn thờ nó như một thứ quyền lực vô biên. Với tôi, trong một buổi tối nghĩ đến em, tôi bỗng cảm thấy cần phải nghĩ đến những tia sét, và phải ngồi vẽ tia sét.

Sài Gòn là một trong những nơi rất thường gặp sấm sét. Cứ trời mưa to là tất cả tối sầm lại và đi cùng với các cơn lốc cuốn trôi mái nhà bay lả tả trong không trung là những tiếng sấm rền inh ỏi và những ánh chớp chói lòa. Có một lần trời mưa tôi phải trèo lên mái nhà để chèn đá cho gió khỏi cuốn đi những tấm tôn mảnh dẻ thì một tia chớp sáng lòa đánh vào cột an-ten cách tôi chỉ khoảng vài mét. Thằng bé run lẩy bẩy hết biết sợ rơi từ mái nhà cao tầng bốn xuống đất mà thích thú ngồi mường tượng lại cảnh quả cầu lửa bay từ từ về hướng nó rồi bỗng đột ngột chuyển hướng đánh vào cột an-ten chỉ cao hơn nó có một chút thôi. Sau vụ đó ông hàng xóm phải chắt góp đi mua cái TV mới vì cái cũ bị sét đánh hư mất tiêu. Và hình như cũng sau vụ đó thì tôi không còn sợ sấm sét, sợ ma quỉ nữa, và tự xếp mình vào cái nhóm số ít người Việt Nam không sợ ma.

Tôi còn nhìn thấy sét nhiều lần lắm. Ở trên không khi máy bay đang chao đảo tìm đường bay, hay đường băng để hạ cánh. Trong những bức ảnh chụp, trong phim, trong nhà hát, trên những bức tranh vẽ. Ở trên biển ... Hình như là ở trên biển người ta thường gặp sấm sét nhất. Lần nào đi biển buổi đêm tôi cũng nhìn thấy sấm sét. Nếu không ở ngay chung quanh tầu thì cũng là ở một nơi xa xa nào đó. Chắc là vì ở biển không có gì giới hạn tầm mắt, nếu trời quang mây tạnh ở chung quanh thì sẽ nhìn thấy những cơn mưa cùng sấm chớp và ánh mặt trời còn le lói ở quanh đường chân trời. Thế nhưng chụp ảnh ánh chớp thì chắc là không còn gì khó hơn. Với độ ánh sáng quá yếu của tia chớp và kỹ thuật hóa chất làm phim vẫn chỉ giới hạn ở một độ nhạy nào đó, và túi tiền cũng chỉ cho phép mua phim với độ nhạy giới hạn, cũng như mua máy ảnh với góc ngắm nhất định, cho nên khi lên ảnh những ánh chớp chỉ là một quầng sáng mờ mờ phía đằng xa, không hề rực rỡ và ma quái như là tôi đã từng chứng kiến. Như vậy có lẽ vẽ tranh sơn dầu là một biện pháp hợp túi tiền và dễ thể hiện hơn là chụp ảnh vì không phải đi xa, không phải chờ đợi để săn lùng, không phải bỏ tiền để mua thêm phim với độ nhạy vài nghìn ASA, hay mua thêm ống kính tele siêu tiệm cận. Và tôi lại bầy vải và cọ ra đất để vẽ lại tia sét trên biển mà trong một chuyến hải hành trên Ðịa Trung Hải tôi đã từng được chứng kiến. Một trận sét kinh hoàng đánh loạn xạ xuống mặt biển, hay ngưng đọng ở đâu đó giữa không trung. Những cột sét trắng xóa, chói lòa như một thân cây mọc ngược từ trên trời xuống mặt đất. Có những tia sét xanh leo lét như lân tinh. Có những tia sét đỏ lừ như lửa lò đúc thép. Có những tia sét thiên về một mầu tím ma quái nào đấy, giống hệt như cái tranh đã vẽ xong nằm trước mặt tôi đây. Tôi bắt đầu thử vẽ bằng mầu đỏ, xong lại thử bằng mầu xanh, nhưng tia sét như có sức hút ma quái, điều khiển tôi phải bôi, phải sửa, phải tô thêm mầu theo đúng ý nó muốn, chứ không phải ý tôi muốn. Tiềm thức điều khiển cây cọ của tôi, chứ không còn là ý thức chủ quan nữa. Những lớp sơn càng ngày càng mỏng, quyện lấy nhau, đè lên nhau làm cho mặt tranh bóng lên và những mầu sắc ma quái dần dần xuất hiện. Tôi sợ hãi, tôi say mê, quên ăn, quên ngủ bôi hết lớp sơn này đến lớp sơn khác, hối hả vẽ để cho những lớp sơn trên tranh không kịp khô, không kịp phân chia nhau ra... Bây giờ ngồi nhìn lại bức tranh đã vẽ xong, cảm giác của tôi vẫn giống như là lần đầu tiên nhìn lại tổng thể sau khi vẽ xong, là ánh sét trong tranh quá thật, quá giống, và quá sinh động. Chỉ là một khoảnh khắc được ghi lại trên tranh, vì chốc lát nữa đây tia sét sẽ biến mất, còn trước đấy một chút xíu thôi thì tia sét vẫn chưa hình thành. Thân sét trông như một con rồng lửa vục đầu xuống biển uống ừng ực những tia lửa chói lòa, các cánh tay của nó vươn ra không trung chống đỡ cho tấm thân nặng nề uốn khúc, cố tìm cách len lỏi theo tất cả những con đường mà nó có thể nghĩ ra. Tôi nhìn lại bức tranh mà hoàn hồn vì may mắn thay đã không chọn một chiếc khung tranh lớn hơn vì nếu cứ phải làm việc liên tục để cho sơn trên tranh không kịp khô thì tôi không thể nào chịu đựng nhiều hơn là 20 tiếng như vừa qua nữa.

Vẽ sét thật là khó. Với một vật thì giới hạn giữa vật và khung cảnh được định rõ. Ngay cả vật phát sáng như mặt trời thì tôi cũng đã thử và thành công, vì ít nhất tôi vẫn nhìn thấy giới hạn về vật chất giữa mặt trời và không gian chung quanh. Thế nhưng với tia sét thì thật kinh khủng. Bên trong tia sét là không khí. Bên ngoài tia sét cũng là không khí. Nhưng một thứ không khí thì phát sáng, thứ kia thì hoặc thu hút ánh sáng, hoặc phản chiếu ánh sáng.. Giới hạn giữa chúng không hề được phân biệt rõ ràng như giữa những thân cây mùa đông và khung cảnh chung quanh. Thật là kinh hãi. Tôi ngồi vẽ ánh sét với thái độ đầy tôn thờ và thán phục.

Có phải trong cuộc đời người ta cần đến những tia sét ? Sét đánh gẫy cột buồm báo hiệu điềm tai ương đang đến. Sét đánh phát ra tia sáng lóe lên trong đêm đen có thể khiến cho người lính thoát chết trong gang tấc. Sét ái tình làm cho người ta thay đổi tất cả mọi suy nghĩ và quan điểm sống đến mức chính bản thân ta cũng không thể giải thích được. Phải chăng sự giác ngộ trong suy nghĩ cũng là một cơn sét tạo nên do các tia điện tử di chuyển giữa các tế bào não ?

Bức tranh đã xong, đang nằm trước mặt tôi chờ khô và chờ một chiếc khung hợp lý, nhưng tôi vẫn chưa thể tin được là mình lại có thể vẽ ra được nó. Tôi vẫn chưa hoàn hồn để phân định được là tôi đã vẽ ra bức tranh tôi muốn, hay chính tia sét điều khiển tôi phải vẽ ra bức tranh mà nó muốn. Sự diệu kỳ của những mảng mầu sắc và cây cọ thật là kinh khủng, vượt quá mọi giải thích bằng từ ngữ. Chỉ với vài sợi lông thỏ mịn màng, một mặt phẳng, vài thỏi sơn với những mầu sắc bình thường, buồn tẻ, con người lại có thể tạo ra được một bức tranh ma quái đến như vậy sao ? Bức tranh bỗng trở thành điểm hút mắt trong căn phòng của tôi và tất cả những gì chung quanh đều trở nên tầm thường vô cùng khi so sánh với nó. Ngay cả cái chữ ký rất bé của tôi, chỉ là một cái dấu nho nhỏ trên tranh cũng trở nên tầm thường vô cùng đến mức tôi chỉ muốn xóa nó đi để khỏi làm bẩn bức tranh, nhưng rồi tôi lại sợ là tranh đã khô đi một chút và một chút mầu bôi lên để sửa sẽ làm cái chỗ xấu xí ấy loang to thêm một chút nữa.

Thủy thủ là những người thường được người ta xem là những kẻ anh hùng vì dám ra khơi, đơn độc đối đầu với tia sét, làm bạn với những tia sét. Thế nhưng phải chăng họ chỉ anh hùng trong thế giới của họ mà thôi, còn lý do mà họ ra khơi là vì họ hèn nhát, họ bỏ chạy khỏi cái thế giới đầy những người đang sống chung quanh họ với những biến đổi không hề được báo trước bằng tia sét ? Sự đối đầu mạo hiểm với một sự việc cũng đồng nghĩa với sự hèn nhát bỏ chạy khỏi một sự việc khác. Con người thực phức tạp và đa dạng như con số vài tỷ nhân mạng homosapiens đang hiện hữu trên thế giới này vậy. Trong một thế giới giới đảo điên mà tôi chính là một kẻ điên loạn bên trong đó, em như là một ánh sét chỉ đường cho tôi đi. Em sẽ là người bạn đường soi sáng cho con thuyền cô độc của tôi trong đêm đen, hay em sẽ là sức mạnh hủy diệt, đánh tan tành vỡ vụn con thuyền của tôi trong ánh sáng kinh hoàng của những trận cuồng phong được hàng nghìn hàng vạn tia sét khác hô hoán ? Tôi đã bị tia sét ái tình của em đẩy vào cơn mê muội của tình yêu. Tôi muốn đến gần em để có được cái cảm giác thân quen khi gặp lại tia sét, nhưng tôi cũng hoảng sợ trước cảnh tượng tàn phá khủng khiếp của những cuộc tình đổ vỡ. Tôi phải làm gì ? Trong bức tranh của tôi tia sét câm lặng đứng yên, bắt thời gian phải ngừng lại trong khoảnh khắc của một phần nghìn giây, nhưng không nói lên một lời nào cả để trả lời câu hỏi của tôi. Tôi cảm thấy tự tin vô cùng, sung sướng vô cùng vì đã vẽ thành công một tia sét mà tôi muốn, nhưng tôi lại cảm thấy yếu đuối vô cùng, tuyệt vọng vô cùng vì không thể trả lời nổi một câu hỏi tưởng chừng như rất bình thường trong đời. Em có thể trả lời cho tôi không, tia sét trong đời tôi ?

I. Một số tựa sách triết học về mầu sắc:

Allaire E.B. (London 1986, 1996) Tratacus 6.3751 The Construction and Dismantling of the Tratacus
Austin J. (London 1986, 1996) Wittgenstein's Solutions to the Color Exclusion Problem.
Goethe J.W. (reprinted Warszawa 1981) Farbenlehre
Hardin C.L. (Oxford and Cambridge 1990) Color and Illusion; (Indianapolis 1993) Color for Philisophers
Park D. (Oxford 1993) The problem of perception
Ramsey (London 1986, 1996) A critical notice of Wittgenstein's Tratatus
Rosenthal D. (Counciousness and Cognition 2000) Color, mental location and the visual field
Ross P. (Counciousness and Cognition 2000) The local problem for subjectivism
Wittgenstein L. (translated Warszawa 2000) Tractatus logico-philosophicus
Wierzbicka A. (Warszawa 1999) Znaczenie nazw kolorow i uniwersalia widzenia (Ý nghĩa của tên mầu và thị giác chung)
Pilat R. (Warszawa 2001) Nazwy i Pojec Barw (Tên và Khái niệm của mầu sắc) II. Tài liệu tham khảo
Chu Quang Trứ - Tượng cổ Việt Nam, NXB Mỹ Thuật 2002http://www.cinet.vnn.vn/nghethuat/0006/index.htm
Birgit Hussfeld - Sự chật chội của tinh thần và xưởng vẽ - Talawas 2002 http://www.talawas.org
Nguyên Hưng - Phê bình Mỹ thuật Việt Nam - Talawas 2002http://www.talawas.org
Nguyễn Quân - Mỹ thuật những năm 80, bản lề và cánh cửa - Talawas 2002 http://www.talawas.org
Trần Ngọc Thêm - Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam - NXB tp.HCM 2001

[1] Thành phần hợp chất cơ bản C12H32O2 trong sơn của Nhật chiếm đến 70-80%, trong khi ở sơn Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan chỉ khoảng 50% mà thôi. Nồng độ nhựa (gum) trong sơn Nhật cũng ít hơn gấp 2-3 lần (7-8% so với 20%)

[2] cụm từ của Nguyễn Hưng Quốc, tạp chí Việt số 7, Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn hóa Việt Namhttp://www.geocities.com/viet_journal/nhq7.html

[3] http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/My-thuat/2002/11/3B9C2565/

[4] http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/My-thuat/2002/10/3B9C14A5/

[5] hình khối đặc trưng của điêu khắc Chăm với dương vật (Linga) cắm trên bệ âm vật (Yoni), có nơi trông như cối xay bột gạo nước. Ở chùa Dạm (tỉnh Bắc Ninh) còn vết tích của cặp Linga-Yoni cao vài mét.

[6] Kaomi Izu trả lời phỏng vấn với Nguyên Hưnghttp://www.talawas.org/my/my03.html

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Tin đồn thất thiệt, bịa đặt – nhận diện và xử lý


Mưa axít, mây phóng xạ, thực phẩm chứa chất gây ung thư, gạo nhựa, trứng giả… Những tin đồn thất thiệt gây lo ngại dư luận và tác động tiêu cực tới đời sống xã hội. Để người dân có cơ sở phòng tránh và cơ quan Nhà nước có biện pháp ngăn chặn kịp thời, Báo CAND phân tích cụ thể vấn đề này.

1. Tin đồn nóng bỏng tính thời sự
Mang tính quy luật, tin đồn thường ăn theo các sự kiện thời sự nóng bỏng, được dư luận đặc biệt chú ý ở nhiều phương diện: chính trị, khoa học, công nghệ, các vấn đề kinh tế – xã hội… Khi Nhật Bản xảy ra động đất gây thiệt hại vô cùng lớn, hàng loạt tin đồn ăn theo làm cả châu Á lao đao: tin đồn mưa axit, mây phóng xạ, núi lửa phun trào, sóng thần bất ngờ tại nhiều bờ biển…

Tại Việt Nam, tin đồn nóng bỏng tính thời sự cũng đã có tiền lệ. Năm 2010, tại mỗi thời điểm khác nhau đều rộ lên những tin đồn nguy hiểm: tin đồn “dự báo sập cầu”, tin đồn thực phẩm chứa chất gây ung thư, tin đồn đổi tiền… Năm 2011, nhiều tin đồn lan rộng như: ăn cá rô đầu vuông sẽ bị ung thư; tin đồn nước mưa có chứa axít; tin đồn tăng giá xăng, phát hành tiền mệnh giá lớn…

Do tính thời sự nóng bỏng (gồm tính thời sự thế giới và thời sự trong nước) đã hút lượng người quan tâm vô cùng lớn, nó cũng gây tò mò đặc biệt với người tiếp nhận tin đồn, bất luận độ tuổi, giới tính, vùng miền. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tin đồn thất thiệt chỉ dễ lây lan ở vùng lạc hậu, người dân nhận thức kém. Nhưng ngày nay, qua hàng loạt tin đồn nóng bỏng cho thấy, tin đồn thậm chí còn gây sốt mạnh ở vùng đô thị, làm chính những người có nhận thức cũng dễ rơi vào tâm lý hoang mang không rõ thực hư.

2. Phương thức lây lan tin đồn cực khủng
Ngày xưa, tin đồn chủ yếu qua truyền miệng, thường chỉ lây lan trong phạm vi hẹp làng xã, vùng miền. Do tính truyền miệng, tốc độ tán phát cũng chậm. Nhưng công nghệ số đang làm điên đảo tin đồn, bằng chứng như sau sự kiện động đất lịch sử tại Nhật Bản, chỉ có một đêm, tin đồn mưa axít đã ào ạt tấn công toàn châu lục, bất luận ranh giới địa lý và thể chế xã hội của quốc gia, vùng miền. Tin nhắn qua chat, điện thoại với nội dung cảnh báo mọi người không nên ra ngoài khi trời mưa vì đó là mưa axít phát sinh từ sự cố hạt nhân tại Nhật Bản lan truyền khắp nơi, có cả Việt Nam. Kiểu tán phát bằng chat, điện thoại khiến kể cả người không mấy quan tâm, không tò mò cũng bị tấn công bằng phương thức tung tin nhắn tự động. Hàng loạt máy điện thoại trong buổi sáng nhận được vô số tin nhắn “cảnh báo nguy hiểm”, và phương thức này cùng với truyền miệng, nó nhanh chóng tạo thành “bão tin đồn”.

3. Gây sốc vì tin đồn chụp mũ khoa học

Để gây dựng cơ sở và tạo độ tin cậy cho tin đồn, người tung tin đồn cố gán ghép cái gọi là cơ sở khoa học, gắn với các dấu mốc, sự kiện có thật. Chính sự thật giả hỗn hợp này đã tạo tin đồn có “móng” bám trụ. Chẳng hạn, khi tung tin đồn về mưa axít, đoạn tin được nhồi nặn như sau: “Một nhà máy hạt nhân tại Fukumi, Nhật đã phát nổ lúc 4h30′ sáng nay. Nếu ngày mai hoặc ngày kia trời mưa, đừng ra khỏi nhà. Nếu bạn đang ở ngoài, hãy đảm bảo rằng bạn được bảo vệ khỏi những giọt mưa. Đấy là mưa axít. Đừng để nó rơi vào người bạn. Bạn có thể bị bỏng, rụng tóc và bị ung thư. Xin hãy chuyển thông điệp này cho mọi người và giữ an toàn, nhắc nhở những người quen của bạn”.

Tin đồn xuất phát từ Philippines và đã lan truyền với tốc độ chóng mặt khắp châu Á, trong đó có cả Việt Nam. Thời điểm đó, không ít người đã lo lắng, thông báo cho con em mình không được ra ngoài trời khi phát hiện có mưa.

Tin đồn ăn cá rô đầu vuông, hạt dưa… gây ung thư và trứng gà bằng nhựa làm nóng dư luận thời gian qua.

Đọc đoạn tin trên, có thể thấy, kẻ tung tin đồn đã khéo léo gán ghép những sự kiện nóng bỏng có thật để cài chuyện huyễn hoặc. Sự kiện nóng bỏng có thật là sự cố nhà máy điện hạt nhân ở Nhật, đúng cả về thời gian và địa điểm. Vì vậy, khi nó được cài đoạn mưa axít, hiển nhiên độ tin cậy tăng lên. Hơn nữa, cách truyền tin dưới dạng nhắc nhở, khuyến cáo chứ không phải đe dọa khiến người nhận tin cảm nhận đây là tin hữu ích: đừng để mưa rơi vào người bạn!

Tại Việt Nam, những kiểu tin đồn “cài khoa học” hoặc cố tình gán cho người có uy tín như nhà khoa học, nhà ngoại cảm cũng là thủ đoạn để đánh lừa dư luận. Chẳng hạn, năm 2010, những kẻ tung tin đồn về việc sập cầu Long Biên, cầu Bãi Cháy đã cố tình gán ghép cho rằng, đây là dự báo của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Về phần mình, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã bác bỏ tin đồn cố tình gán ghép cho chị.

Hay như tin đồn về mây phóng xạ, kẻ tung tin đã chụp mũ nguồn tin từ nhà khoa học, Giáo sư Phạm Duy Hiển. Nhiều người đã nhận được tin nhắn qua hệ thống chat hoặc email của một người xưng là cháu của Giáo sư Phạm Duy Hiển, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu năng lượng hạt nhân, nói rằng: “Mây phóng xạ từ Nhật đã vào Việt Nam với mức độ nhiễm rất cao, gần tới mức ảnh hưởng tới con người, Chính phủ chưa công bố ngay vì sợ mọi người hoang mang và viện cần tiến hành thêm một vài xét nghiệm”. Giáo sư Phạm Duy Hiển sau đó đã bác bỏ tin đồn chụp mũ, bịa đặt này.

Ở lĩnh vực tài chính, tiền tệ, chúng ta cũng từng chứng kiến những tin đồn nguy hiểm như: tin đồn cho rằng ngân hàng sắp đổi tiền, sắp phát hành những tờ tiền mệnh giá khủng như 1 triệu đồng, 2 triệu đồng… Những tin này lấy lý do lạm phát đang ở mức cao, những tờ tiền mệnh giá hiện hành đã tỏ ra nhỏ bé nên phải in ấn tiền mệnh giá lớn hơn. Gần đây, khi Nhà nước có chủ trương đưa việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do vào khuôn khổ quản lý nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường này và quyền, lợi ích hợp pháp của người dân thì trên mạng xã hội đã tán phát tin đồn: Nhà nước cấm người dân mua bán, cất giữ vàng. Việc tung tin như vậy khiến một số người không rõ thực hư lo lắng.

Trong khi đó, thị trường xăng dầu những tháng gần đây lại tái diễn cảnh người dân vây kín kho xăng như cảnh mua bán tại cửa hàng thời bao cấp. Khi mà liên Bộ Tài chính, Công thương chưa có bất kỳ quyết định nào về việc tăng giá xăng dầu thì mấy ngày qua đã rộ tin xăng sắp tăng thêm 2.000 đến 3.000 đồng/lít…

Những kẻ gieo rắc tin đồn dựa vào thời điểm nhạy cảm để tung tin nhảm.

Xã hội học đưa ra điểm phân biệt dư luận xã hội và tin đồn như sau: tin đồn là một dạng thông tin không chính thức, thông thường là bịa đặt, phao tin, đồn nhảm. Tin đồn chủ yếu dựa vào cảm xúc chủ quan nên tin tính tự phát lớn, lan truyền nhanh. Tin đồn thường bị xuyên tạc bởi tính chủ quan của người truyền tin.

Một đánh giá khác cho rằng, tin đồn là thông tin không được ai khẳng định, thiếu những sự kiện cụ thể để kiểm tra tính chính xác. Tin đồn được chế biến ngày càng xa tin gốc, mang đậm màu sắc cảm xúc cá nhân…
Thời công nghệ số, bất kỳ lĩnh vực nào cũng dễ dàng xảy ra tin đồn thất thiệt. Ở đây, việc ngăn chặn, phòng tránh tin đồn phải được thực hiện đồng thời cả hai chủ thể: người dân và cơ quan quản lý nhà nước.


Cách đây 1 năm, Tổng Công ty Lắp máy Lilama in “tờ tiền” mệnh giá 5 triệu đồng “có giá trị trong tiệc liên hoan Lilama”, đã bị NNVN nhắc nhở. Tin đồn phát hành “tiền” mệnh giá cao như thế đã bị NHNN bác bỏ.

4. Hậu quả nguy hiểm của tin đồn thất thiệt, bịa đặt

Tin đồn thất thiệt, bịa đặt vừa tác động đến tâm lý, gây căng thẳng trong nhân dân, nhất là những tin đồn ở thời điểm nhạy cảm, gắn sự kiện làm rúng động thế giới như động đất, sóng thần ở Nhật Bản vừa qua. Dư âm của vấn đề này tác động tâm lý rất mạnh khiến gần đây một số khu nhà dân ở Hà Nội có dấu hiệu rung lắc nhẹ do các công ty xây dựng lân cận khoan nhồi bê tông, nhưng nhiều người cũng tỏ ra hoảng sợ cho rằng động đất. Tin đồn mưa axít, mây phóng xạ đã khiến nhiều người bỏ bê công việc, học hành, không dám ra đường. Tin đồn ngân hàng đổi tiền khiến nhiều người tìm cách mua vàng tích trữ và lo lắng lạm phát. Tin đồn sập cầu khiến nhiều người không dám qua cầu, họ cũng tìm cách ngăn chặn con em mình đi qua cầu. Tin đồn ăn bưởi, ăn hạt dưa, trứng, ớt, ăn cá rô đầu vuông bị ung thư cũng làm nhiều người tẩy chay thực phẩm…

Tác động xã hội còn kéo theo nhiều hệ lụy, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống người dân: lao động bị đình trệ, đứt nghẽn các hoạt động hành chính, kinh tế. Nhà sản xuất cũng bị tấn công mạnh, thậm chí nhiều doanh nghiệp rơi vào phá sản vì hàng hóa ế đọng, không thể tiêu thụ, trong khi người dân điêu đứng (như tin đồn trứng gà giả, thực phẩm chứa chất gây ung thư). Khi xã hội rộ lên tin đồn trứng gà làm bằng nhựa trông như thật trà trộn trên thị trường, hậu quả là hàng vạn hộ dân nuôi gà không thể bán được trứng, thua lỗ nặng nề.

Hay tin đồn ăn bưởi bị ung thư ở đồng bằng sông Cửu Long cũng khiến người trồng bưởi ở đây nợ nần ngân hàng chồng chất vì bưởi đến mùa không ai mua. Về mặt an ninh, tin đồn có thể gây bất ổn định, tạo ra tâm lý lo lắng. Tại thủ đô Manila của Philippines, nơi khởi nguồn tin đồn mưa axít khiến toàn bộ số thuốc Betadine tại các hiệu thuốc bị vét sạch, một trường đại học phải tạm ngừng giảng dạy do lo lắng.

Rõ ràng, tin đồn ngày nay là một dạng chiến tranh tâm lý rất nguy hiểm. Nó cũng không giới hạn phòng tránh trong một quốc gia, một vùng, lãnh thổ. Cần thấy rằng, các thế lực thù địch và những đối tượng xấu lại coi đây là thứ “vũ khí” lợi hại để tấn công, hòng gây nhiễu loạn an ninh xã hội.

5. Phòng tránh, ngăn chặn tin đồn thất thiệt: Cơ quan nhà nước phải chủ động; người dân cần tỉnh táo

Để ngăn chặn “chiến tranh tin đồn”, vấn đề quan trọng là cơ quan quản lý nhà nước phải nhanh chóng có phát ngôn chính thống để bác bỏ các tin đồn thất thiệt. Tin đồn thất thiệt lan nhanh chóng mặt, chậm một ngày, một giờ đã có thể gây nhiều hậu quả xấu. Vì thế, khi có tin đồn thất thiệt thuộc lĩnh vực bộ, ngành nào quản lý, nhất thiết phải có xác minh ngay để công bố trước công luận, không thể để chậm trễ. Việc công bố có thể thực hiện ngay thông qua thông cáo báo chí, phát biểu trước truyền hình chứ không thể theo hình thức công văn có tốc độ “ì ạch”.

Chẳng hạn, trước thông tin mưa axít gây hoang mang dư luận, ông Lê Thanh Hải, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương đã có thông tin chính thức: “Không có một cơn gió nào có thể đưa bụi phóng xạ từ Nhật Bản thổi đến Việt Nam, cũng như không có gió thổi từ Nhật Bản đến Trung Quốc sau đó ảnh hưởng đến nước ta mà chỉ có gió từ Việt Nam thổi đến Nhật Bản. Vì thế, những cơn mưa hiện nay là do ảnh hưởng của gió mùa, không phải là mưa axít, không chứa phóng xạ”.

Tin đồn sự cố nhà máy điện hạt nhân ở Nhật kéo theo mây phóng xạ nồng độ cao từng làm cả châu Á lo ngại.

Hay khi có tin đồn mây phóng xạ được cho là của Giáo sư Phạm Duy Hiển, ngay sau đó, Giáo sư đã lên tiếng phản bác. Tin đồn sập cầu, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng khẳng định: “Có thể, tin đồn này xuất phát từ cá nhân nào đó muốn hạ uy tín, bôi nhọ danh dự tôi. Và cũng không loại trừ khả năng có thế lực nào đó muốn gây ảnh hưởng không tốt đến đời sống văn hoá của người dân nên lấy tên tôi ra để tung tin đồn nhảm”.

Có những tin đồn thất thiệt cần sự vào cuộc của một nhóm, tổ chuyên gia. Chẳng hạn, tin đồn ăn cá rô đầu vuông gây ung thư, tin đồn nước tương chứa chất độc hại, trứng gà làm bằng nhựa, gạo bằng nhựa; cây xà lách phun thuốc kích thích sau nửa ngày dài tới 30cm… việc này cần sự vào cuộc của nhà khoa học thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Khoa học – Công nghệ. Trong lúc chờ tổ chuyên gia xác minh, làm rõ, cũng cần phải có thông báo cụ thể để người dân biết. Đối với những tin đồn mà có cơ sở xác minh, khẳng định thì cơ quan chủ quản cần thông báo chính thức ngay trong ngày, như tin đồn tăng giá xăng (Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính quản lý vấn đề này).

Về phía người dân, việc tỉnh táo trước “bão tin đồn” là điều cần thiết. Thực tế, nhiều người do không rõ thông tin thực hư và cũng không có điều kiện tìm hiểu, đã hành động theo thói quen, theo cảm tính hoặc theo phong trào. Chẳng hạn, khi có tin đồn xăng sắp tăng giá, thấy nhiều người mang xe, xách can đi mua xăng, người khác cũng làm theo dù chưa hẳn hành động ấy là để tiết kiệm khoản tiền nhỏ trước khi xăng tăng. Hay khi có tin đồn trứng gà làm bằng nhựa, nhiều người đã không dám ăn trứng, thậm chí có bà nội trợ khi đánh trứng thấy lòng đỏ dẻo cũng nghi ngờ trứng nhựa, dù rằng xưa nay trứng gà nào cũng dẻo!

Nghĩa là họ đang bị chi phối bởi tâm lý khiến bất kỳ dấu hiệu gì, dẫu bình thường cũng bị liên tưởng ngay theo tin đồn. Do vậy, trước những tin gây sốc, người dân phải thực sự bình tĩnh, tự mình thẩm định, đánh giá thông tin hoặc chờ tin chính thống được công bố trên truyền hình, báo chí.


Bốn giải pháp ngăn chặn tin đồn thất thiệt

Tiến sĩ Vũ Trung Quý, Phó Trưởng Bộ môn Tâm lý, Học viện An ninh nhân dân đưa ra 4 giải pháp ngăn chặn tin đồn thất thiệt:

Một, cần hình thành, phát triển sự “miễn dịch tâm lý” đối với tin đồn trong quần chúng. “Miễn dịch tâm lý” tức là phải xây dựng ở mỗi cá nhân cũng như cộng đồng xã hội nền tảng vững về tri thức, làm tăng sức đề kháng, làm cho tin đồn không có đất tồn tại. Theo đó, cần cung cấp thường xuyên, kịp thời, chính xác các quan điểm của Đảng, Nhà nước, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội; thông tin về những vấn đề nổi cộm, dư luận chú ý; về âm mưu, thủ đoạn kẻ xấu… Không đưa tin mập mờ gây thắc mắc, tò mò, dễ hiểu nhầm. Báo chí và cơ quan chức năng cần thông tin, hướng dẫn, hình thành dư luận tích cực.

Hai, nhanh chóng điều tra, truy nguyên nguồn gốc, diễn biến hình thành tin đồn để chủ động ngăn chặn sự lan rộng của nó, hạn chế tác động tiêu cực. Nhanh chóng cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về sự kiện đang xảy ra tin đồn.

Ba, tập trung làm rõ nội dung tin đồn. Sự kiện tin đồn thường không có thật, không được ai khẳng định, do đó cần làm sáng tỏ thông tin, định hướng kịp thời.

Bốn, xử lý thích đáng những đối tượng tung tin đồn thất thiệt.

Thủ phạm: Khó phát hiện

Mới đây, cơ quan chức năng đã xác định tác giả của tin đồn “Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền mệnh giá 1 triệu đồng” là một thanh niên quê Nghệ An, thường trú tại quận Đống Đa, TP Hà Nội. Người này đang làm việc tại một công ty trách nhiệm hữu hạn, thường xuyên tham gia các diễn đàn, trang web về kinh tế và chứng khoán.

Thế nhưng, đây chỉ là một trong số ít ỏi các vụ truy tìm được thủ phạm. Trong khi đó, biện pháp xử lý vẫn chủ yếu hành chính. Theo luật gia Nguyễn Chấn, tin đồn thất thiệt là hành vi vi phạm nên đương nhiên thủ phạm phải bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Tuy nhiên, tin đồn cần hiểu nó vi phạm trong một lĩnh vực cụ thể như thương mại, kinh tế, cạnh tranh, chẳng hạn như theo khoản 3, Điều 45 Luật Cạnh tranh thì người đưa tin thất thiệt trong cạnh tranh bị xử lý hành chính, nặng thì hình sự. Đồng thời, cơ quan có trách nhiệm phải thông tin kịp thời và chịu trách nhiệm về việc thông tin đó.



Đăng Trường