Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Học như thế nào?




Tôi rất hay được các em học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh hỏi về “bí quyết học tập”.  Tôi thường trả lời “Không có bí quyết gì cả. Quan trọng là niềm say mê.” Trả lời như vậy là một cách né tránh. Không sai nhưng cũng không đầy đủ. Tôi bắt buộc phải trả lời như thế khi mình chưa bao giờ suy nghĩ về vấn đề này một cách thấu đáo. Nhưng không thể nào né tránh được mãi câu hỏi này. Cũng không thể nào trút hết trách nhiệm lên đầu người khác bằng cách nói: “đây là chuyện chuyên môn của những người làm công tác nghiên cứu khoa học giáo dục”.
Điểm lại cuộc đời mình, tôi thấy cho đến thời điểm này mình không làm gì khác ngoài việc đi học, sau đó dạy học và nghiên cứu khoa học. Trong quá trình ấy, chắc tôi cũng đã từng có những suy nghĩ riêng. Chỉ có điều những suy nghĩ đó chưa bao giờ được được sắp xếp lại một cách hệ thống và được diễn đạt một cách mạch lạc. Chuẩn bị cho buổi nói chuyện này là cơ hội rất tốt để tôi làm việc này, cái việc mà phải thú thật là rất vất vả nhưng hy vọng là có ích.
Tôi xin cảm ơn International Peace Foundation và trường Đại học bách khoa đã cùng tổ chức sự kiện này. Cảm ơn tất cả các quí vị, các bạn sinh viên, học sinh đã đến dự buổi nói chuyện ngày hôm nay. Sự quan tâm của quí vị là động cơ mạnh để tôi hoàn thành bài trao đổi này.
Dàn bài của tôi dựa vào ba câu hỏi. Thứ nhất: cái gì là động cơ căn bản cho việc học tập. Thứ hai: học chữ hay học làm người? Thú thực là tôi không thích câu hỏi này, vì nó rất mập mờ và đa nghĩa. Nhưng tôi sử dụng chính tính đa nghĩa của nó để triển khai thành các câu hỏi nhỏ xung quanh việc học cái gì? Câu hỏi cuối cùng làm thành nhan đề của bài nói chuyện này: học như thế nào? Tôi không có tham vọng đưa ra câu trả lời thấu đáo, đầy đủ cho cả ba câu hỏi trên, mà chỉ có ý định sắp xếp lại những suy nghĩ tản mạn của mình thành những câu trả lời không cầu toàn. Tôi hy vọng rằng vào cuối buổi nói chuyện, chúng ta sẽ còn thời gian để trao đổi thêm.
Về sự hướng thượng và hướng thiện
Sách Tam Tự Kinh mà các cụ học ngày xưa bắt đầu bằng câu “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Con người được sinh ra có bản tính vốn là hiền lành. Liệu có đúng không nhỉ ? Tin tức hàng ngày dễ làm cho người ta nghi ngờ cái “tính bản thiện” của “nhân chi sơ”. Đầu tháng Một ở Ấn độ, một cô gái 23 tuổi bị sáu người đàn ông hãm hiếp đến chết trên một chiếc xe buýt. Cuối tháng Một, ở Bắc Ninh, người ta nô nức, chen lấn nhau tham gia lễ hội chém lợn. Con lợn bị nhát đao xẻ làm hai mảnh lăn quay trong vũng máu lênh láng và trong tiếng hò reo của những người trảy hội. Đây là những hiện tượng dị biệt, không tiêu biểu cho cuộc sống của người dân Ấn độ và Việt nam. Tôi nêu chúng ra như ví dụ vì chúng cùng phản ánh sự độc ác của con người một cách vô cùng rõ nét. Xét cho cùng, giết lợn cũng chỉ là việc giết động vật để ăn thịt, cái mà con người buộc phải làm để duy trì cuộc sống của chính mình. Hãm hiếp cũng nảy sinh từ một bản năng cơ bản của con người là bản năng duy trì nòi giống. Phải chăng, con người được sinh ra với hai bản năng cơ bản duy trì cuộc sống và duy trì nòi giống, cái mà ở  trong đó đã có sẵn mầm mống của cái ác, của cái ác khủng khiếp. Nếu chỉ dừng lại đây thì quả khó mà tin được vào cái “Nhân chi sơ tính bản thiện”.
Nếu con người được sinh ra chỉ có hai bản năng nói trên thì chắc rằng hai sự việc kể trên sẽ không phải là những hiện tượng dị biệt, mà ngược lại, là phổ biến, đến mức không làm chúng ta kinh ngạc hay xúc động nữa. Có thể tôi còn là một người lạc quan, nhưng tôi tin rằng con người được sinh ra còn có một bản năng khác nữa: đó là bản năng hướng thượng, hướng thiện. Nhìn vào một đứa trẻ sơ sinh, xinh xắn như một thiên thần ta có thể nghĩ rằng đó là hiện thân của sự tốt đẹp. Nhưng cái kiểm soát mọi hành động của đứa trẻ là chỉ đơn thuần bản năng sinh tồn của nó. Tôi nghĩ rằng, trong đứa trẻ không có sẵn một tâm hồn cao thượng, nhưng đã có sẵn tiềm năng để xây dựng nên từ đó cái tâm hồn ấy. Theo tôi, nếu có “tính bản thiện” của “nhân chi sơ”, thì nó chính là cái tiềm năng ấy.
Cái tiềm năng ấy được triển khai trong học tập và là động cơ chính cho việc học tập. Có thể có người không đồng ý với quan điểm này và cho rằng học là để sau này có một cuộc sống tử tế, để sau này có một vị trí tốt trong xã hội. Tôi cho rằng cách suy nghĩ như vậy là phiến diện. Thứ nhất, để có một cuộc sống tử tế, đó cũng chính là biểu hiện của sự hướng thượng, hướng thiện – tất nhiên một khi nó đã biến thái để nhắm tới cái đích là hưởng thụ một cuộc sống an nhàn nhờ vào sức lao động của người khác, thì cái động cơ hướng thượng hướng thiện đó đã bị tha hoá nghiêm trọng. Thứ hai, tôi tin rằng đa số người ta thực ra không có khả năng phấn đấu vì một cái gì xảy ra trong một tương lai quá xa, phần lớn người ta học chỉ vì đó là cách hoàn thiện bản thân mình, tức là học với một động cơ hướng thượng thuần khiết nhất. Vì vậy, nhiều khi chính quan niệm xã hội lại làm tha hoá một động cơ mà bản chất là thuần khiết.
Cần lưu ý là quan niệm xã hội không phải là cái duy nhất làm cho sự hướng thượng hướng thiện bị tha hoá. Tôn thờ cá nhân, có thể là lãnh tụ, danh thủ bóng đá, hay là ca sĩ Hàn quốc, là một hình thức tha hoá của sự hướng thượng. Bản năng hướng thượng, hướng thiện luôn phải vật lộn với hàng loạt bản năng xấu: tính lười biếng, tính đố kỵ, tính gian dối, tính hiếu thắng, tự phụ. Bị tha hóa, nó không còn mấy cơ hội để làm động cơ cho việc học tập.
Học chữ hay học làm người?
Gần đây, trên báo chí có khá nhiều người ở đặt ra câu hỏi “Cần học chữ hay học làm người?” Hoặc giữa hai cái, cần học cái nào trước. Câu hỏi này thực ra tối nghĩa. Học chữ, là tiếp thu kiến thức. Còn học làm người là như thế nào, hẳn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu theo nghĩa hẹp: học làm người như học kỹ năng sống, học nghệ thuật sống, tóm lại là học những hành vi văn minh.  Cũng có thể hiểu học làm người theo nghĩa rộng tức là học những gì làm nên cốt cách của một con người – như vậy thì lại quá rộng, và bao hàm nốt cả học chữ rồi. Có lẽ vì ý nghĩa của câu hỏi không được phân tích rạch ròi mà nhiều cuộc thảo luận trên báo chí về đề tài có cái vẻ gì đó hơi luẩn quẩn.
Trong cái nghĩa hẹp, có thể đặt lại câu hỏi trên khác đi, và làm cho nó rõ nghĩa hơn: “Trường học phải dạy chữ hay dạy kỹ năng sống, nghệ thuật sống?” Có vẻ như càng ngày càng có nhiều người ngả về quan điểm hiện đại “Trường học phải dạy cho trẻ kỹ năng sống”.  Quan điểm cổ điển được nhà triết học Đức Hannah Arendt phát biểu rành rọt trong bài viết “Khủng hoảng trong giáo dục” như thế này: “Chức năng của nhà trường là dạy cho trẻ thế nào là thế giới, chứ không phải là rèn cho chúng nghệ thuật sống”. Tôi đồng ý với quan điểm này, và trong phần tiếp theo của bài viết quan điểm này sẽ được làm rõ hơn lên.
Ẩn trong câu nói của bà Hannah Arendt, có cả câu trả lời cho câu hỏi học làm người theo nghĩa rộng. Học làm người là học về thế giới, trong đó có thế giới tự nhiên và thế giới con người, để mỗi cá nhân nhận thức được vị trí của mình ở trong đó, nhận thức hết các tương tác giữa cá nhân mình với những người khác, để triển khai mọi tiềm năng của mình, để hoàn thiện mình và đồng thời làm cho thế giới xung quanh trở nên một nơi an toàn hơn, thân thiện hơn cho cuộc sống.
Để trẻ có kỹ năng sống, người lớn phải là tấm gương
Tôi từng nghe người ta kể chuyện một đứa bé sơ sinh bị sói tha đi. Sau này người ta tìm lại được đứa bé. Tuy vẫn còn hình hài của một con người, tính nết của nó là tính nết của loài sói. Ở đây, chính cái “tiềm năng hướng thượng, hướng thiện” đã biến nó thành người sói. Đối với nó, cái đại diện cho sự tốt đẹp chính là mẹ sói của nó. Mẹ sói cho nó bú, tha mồi về cho nó ăn. Đứa trẻ lớn lên giữa bày sói tất trở thành một con sói, cái nó coi là tốt là cái tốt của loài sói. Kể ra nếu nó tiếp tục sống trong rừng cùng với bày sói thì như thế cũng không sao. Bi kịch đến với nó vào cái ngày mà người ta buộc nó quay lại sống với con người.

Ở Lào, ở Thái Lan có phong tục gửi trẻ nhỏ vào sống ở trong chùa một thời gian, từ ba ngày, ba tuần, ba tháng cho đến ba năm. Ở trong chùa, ngoài việc học kinh kệ, trẻ còn học yêu quí cuộc sống thanh đạm, ngăn nắp của người tu hành. Khi đi thăm Lào và Thái Lan, người ta luôn cảm thấy ngạc nhiên về sự sạch sẽ, ngăn nắp của làng quê, kể cả ở những nơi nghèo nhất.
Tôi xin phép dẫn thêm một ví dụ cá nhân, nhỏ nhặt và tầm thường thôi. Vợ chồng tôi ít xem vô tuyến, hầu như không xem bao giờ. Có lẽ vì thế mà mấy đứa con của chúng  tôi hoàn toàn không có sở thích xem truyền hình, bố mẹ không cần cấm đoán hay hạn chế gì cả. Nếu có thời gian, chúng nó thích đọc sách hơn. Nhiều khi tôi muốn xem phim cùng với đám trẻ con, tôi lại phải mặc cả với chúng.
Những ví dụ này nhắc nhở chúng ta, những người có bổn phận làm người lớn, đừng bao giờ quên rằng dù muốn hay không muốn, chúng ta luôn là tấm gương để cho trẻ soi vào. Ngoài trách nhiệm cho trẻ một mái nhà, cung cấp thức ăn cho đủ no, quần áo cho đủ mặc, người làm cha mẹ luôn phải tâm niệm rằng mình cư xử ngày hôm nay như thế nào, ngày mai trẻ sẽ cư xử giống như thế. Đó là bài học của chuyện cái máng gỗ mà chắc các bạn đều biết cả.
Cái tôi muốn nói là nếu người lớn biết cư xử đúng mực thì trẻ con không cần đi học những lớp kỹ năng sống nữa. Và người có trách nhiệm chính trong việc giáo dục hành vi cho trẻ là cha mẹ, gia đình, chứ không phải nhà trường. Những bài lên lớp của thầy cô giáo không có cùng tác dụng nhiều lên hành vi của đứa trẻ như chính hành vi của cha mẹ nó.
Tất nhiên tôi không muốn nói rằng trường học hoàn toàn không có chức năng giáo dục hành vi cho trẻ nhỏ. Trong tâm hồn trẻ nhỏ, thầy cô giáo có một vị trí thiêng liêng, có lẽ thiêng liêng hơn bố mẹ, vì thế nên cách ứng xử của các thầy cô trong cuộc sống nhà trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp hành vi của học sinh. Nhưng không vì thế mà cha mẹ có thể trút toàn bộ trách nhiệm giáo dục hành vi của trẻ lên vai thầy cô giáo.
Vai trò của giáo dục nhân văn trong sự hình thành nhân cách
Khi đứa bé mới ra đời, bản năng sinh tồn điều khiển mọi hoạt động của nó. Đối với nó, toàn bộ thế giới là bầu sữa mẹ. Khi lớn lên, nó có thêm nhận thức về thế giới xung quanh, về những con người khác. Dần dần nó hiểu rằng không chỉ có nó cần sinh tồn, mà cả những người khác cũng cần sinh tồn như nó. Điều này thoạt nghe thật hiển nhiên, nhưng đó là một bước chuyển hoá vĩ đại của tư duy, đứa trẻ đã chấp nhận sự tồn tại của khách thể, của người khác, như một lực lượng đối lập với bản thân nó.
Chấp nhận sự tồn tại của khách thể là điều kiện để phân biệt giữa cái thiện và cái ác. Cái thiện là sung sướng trong sự hạnh phúc của người khác, đau khổ trong sự bất hạnh của người khác, còn ngược lại cái ác là sung sướng trong sự bất hạnh của người khác, đau khổ với sự hạnh phúc của người khác. Như vậy, khi đứa trẻ còn chưa nhận thức về người khác, theo nghĩa ở trên, các khái niệm thiện và ác chưa thể áp dụng vào nó. Thêm nữa, khái niệm “người khác” không nhất thiết phải là người. Đó có thể là con ong, cái kiến. Đó cũng có thể là con lợn ở Bắc Ninh. Cái cảm giác phấn khích, hân hoan của con người trong cái chết tức tưởi của con lợn biểu đạt cái ác ở trạng thái thuần tuý nhất của nó.
Việc học, theo Hannah Arendt, đó là cố gắng để hiểu thế giới xung quang, trong đó có thế giới tự nhiên và thế giới con người. Nó bắt người ta phải nhận thức về sự tồn tại của người khác, cái là điều kiện để phân biệt giữa thiện và ác. Chỉ biết phân biệt thiện và ác thôi không đủ. Có một câu ngạn ngữ nói rằng “Đường đến địa ngục lát bằng thiện tâm”.  Biết phân biệt rành rọt giữa thiện và ác là cần thiết nhưng sẽ thật thiếu sót, thậm chí nguy hiểm, nếu coi việc hình thành nhân cách chỉ đơn giản là phân biệt giữa thiện và ác. Trong phần lớn các trường hợp, vấn đề không phải là ở chỗ phân biện giữa thiện và ác.
Để nhận thức được vị trí của mình trong thế giới, mỗi người phải tự đặt ra cho mình những câu hỏi căn bản nhất về thân phận con người, phải tự tìm ra câu trả lời của mình cho những câu hỏi đó, hoặc ít ra cũng biết về những câu trả lời mà tiền bối đã từng đưa ra. Việc phân biệt giữa cái thiện và cái ác là một trong những câu hỏi như thế, nhưng nó không phải là câu hỏi duy nhất và có lẽ cũng không phải là câu hỏi quan trọng nhất.
Có những câu hỏi thoạt nghe thì có vẻ ngây thơ ví dụ “Những cái gì là nhu cầu căn bản của con người? Tự do và công bằng có phải là như cầu căn bản của con người hay không”. Con người có cả nhu cầu sống trong cộng đồng, trong xã hội, vì mỗi người không thể làm ra được hết tất cả những gì mình cần. Nếu tự do và công bằng cũng là nhu cầu căn bản thì xã hội phải được thiết kế thế nào để cho tự do của mỗi người và sự công bằng giữa người này và người khác được bảo đảm? Triển khai câu hỏi đến đây thì ta thấy câu hỏi này phức tạp hơn nhiều so với câu hỏi phân biệt giữa cái thiện và cái ác, và có lẽ cũng quan trọng hơn.
Trả lời cho câu hỏi về vai trò của giáo dục nhân văn nói chung vượt ra ngoài khuôn khổ của bài nói chuyện này và khả năng của tôi.  Trong phần tiếp theo, tôi muốn thu hẹp câu hỏi lại và trao đổi kỹ hơn về vai trò của giáo dục nhân văn trong sự hình thành nhân cách.
Cơ chế căn bản cho việc hình thành nhân cách là chiêm nghiệm về một sự việc cụ thể đã xảy ra trong một hoàn cảnh cụ thể, ngẫm xem người ta đã quyết định như thế nào, đã làm gì, và hậu quả, ảnh hưởng của việc đó lên cuộc sống của người khác và của chính người đó như thế nào. Có thể thấy rằng con người chiêm nghiệm bằng xúc cảm nhiều hơn là bằng tư duy. Người ta chiêm nghiệm sâu sắc nhất về những gì xảy ra với chính mình, hoặc là xảy ra với người thân của mình, vì những trải nghiệm đó để lại những xúc cảm mạnh nhất.  Nhưng nói chung, trải nghiệm của một người trẻ, kể cả những trải nghiệm được gia đình chia sẻ, không đủ phong phú để người đó hình thành một nhân cách vững vàng. Vốn trải nghiệm của anh ta sẽ giàu có hơn nhiều, nếu anh ta biết đặt mình vào trong lịch sử, nơi những câu chuyện của quá khứ được ghi lại một cách trung thực, hoặc là trong văn học, nơi có những câu chuyện lớn, tuy có thể là được hư cấu, nhưng luôn xuất phát từ sự trải nghiệm chân thực của nhà văn.
Trong một bài viết trên blog cá nhân, đặt tên là Giữ ký ức, tôi có kể câu chuyện về học sinh phổ thông ở Đức học về tội ác của chế độ quốc xã lên người Do thái như thế nào. Học sinh Đức học ở trong sách vở, đọc nhật ký của cô bé Anne Frank viết khi trong thời gian hai năm trốn trong góc tủ để rồi cuối cùng cũng bị bắt rồi bị giết. Họ đi tham quan trại tập trung Buchenwald. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn cả là học sinh Đức còn phải tự đi điều tra xem xung quanh nơi mình ở, trước đây đã từng có người Do thái nào sống, họ tên là gì, họ đã bị bắt trong hoàn cảnh nào, đã bị giết chết như thế nào. Làm như thế để cho những trải nghiệm trở nên gần gũi nhất. Một vài tháng sau khi viết bài này, tôi có nói về chuyện với một nhiếp ảnh gia người Đức, ông ấy nói người Đức phải làm như thế vì nếu không họ sẽ lại phạm lại đúng những sai lầm khủng khiếp nhất trong quá khứ. Giáo sư Hà Huy Khoái cũng bình luận như thế này: “Người Đức khôn thật, họ cho học sinh học thuộc bài lịch sử! Dân tộc nào không làm điều đó, chắc chắn phải học đi học lại nhiều lần. Chưa thuộc bài nào, lịch sử sẽ bắt học lại bài đó. Mà mỗi lần học lại, thi lại đều phải trả giá đắt hơn trước. Giá ở đây có thể là máu, không chỉ là tiền như sinh viên thi lại!”.
Tôi nghĩ về câu chuyện này từ một khía cạnh khác. Trải nghiệm chân thực về những sự thật dù đau đớn đến mấy cũng làm cho cốt cách con người trở nên mạnh mẽ, trái với những sự dối trá, có thể ngọt lịm, nhưng luôn làm tha hoá tâm hồn con người. Chức năng của giáo dục nhân văn không phải là ngợi ca cái thiện, phê bình cái ác mà là giúp con người tìm đến sự thực và để cảnh giác với sự dối trá của người khác và của chính mình. Cảnh giác với bản năng lười nhác, ích kỷ và hèn nhát, những cái rất giỏi ngụy trang trong tấm áo thiện tâm để dắt tay con người đi về địa ngục, cái không phải là gì khác mà chính là sự tha hóa hoàn toàn của tâm hồn con người. Giáo dục nhân văn nghiêm túc rèn cho chúng ta thái độ nỗ lực không mệt mỏi trong cố gắng đi tìm sự thật cùng với khả năng chiêm nghiệm bằng tư duy vì nếu chỉ chiêm nghiệm bằng xúc cảm, con người rất dễ bị đánh lừa.
Tôi đã nhắc đến chuyện bản năng hướng thượng hướng thiện của con người rất dễ bị tha hoá để trở thành hiện tượng sùng bái cá nhân, có thể xuất hiện dưới dạng là sùng bái lãnh tụ hoặc ca sĩ Hàn quốc. Vai trò của giáo dục nhân văn là dắt tay con người đi theo “tấm biển chỉ đường của trí tuệ” để đi về với cái chân thiện, chân mỹ.
Ngôn ngữ và thái độ khoa học
Nếu bản năng hướng thượng, hướng thiện là động cơ của học tập, nó không phải là công cụ. Con người biểu đạt sự hiểu biết về thế giới khách quan bằng lời. Con người thụ hưởng vốn hiểu biết mà nhân loại tích tụ được thông qua ngôn ngữ. Có hai thái độ ứng xử với ngôn ngữ đối lập nhau, dẫn đến hai phương pháp tư duy đối lập nhau: một bên là thái độ tôn giáo, coi ngôn từ như đối tượng để tôn thờ, một bên là thái độ khoa học, coi ngôn từ như một công cụ để định hình tư tưởng.
Định nghĩa chữ Đạo trong Đạo Đức Kinh là điển hình của thái độ tôn giáo đối với ngôn từ. Đạo được mô  tả như thế này, như thế kia, Đạo không phải là thế này, không phải là thế kia, nhưng không một lần Đạo được định nghĩa là cái gì. Đạo là một từ đại diện cho một khái niệm linh thiêng không định nghĩa được, người ta chỉ có thể biết thuộc tính của nó là như thế này, như thế kia, cùng lắm là biết nó không phải là cái gì, tức là hạn chế khái niệm bằng phủ định, chứ không thể nói nó là cái gì, tức là định nghĩa khái niệm bằng khẳng định.  Tính linh thiêng của chữ Đạo nằm chính ở chỗ ta không thể định hình được nó.
Tôi dẫn ví dụ Đạo Đức Kinh không với ý muốn đánh giá thấp giá trị triết học của tác phẩm này. Tôi chỉ muốn chỉ ra sự đối lập với giữa thái độ tôn giáo của nó đối với ngôn ngữ và thái độ khoa học. Thái độ tôn giáo với ngôn ngữ đưa đến những luận điểm bao quát, trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống, con người cũng có thể vận dụng chúng để diễn giải những gì xảy ra với mình, và tự an ủi mình. Mà trên đời này, ai là người không cần được an ủi.
Đóng góp lớn nhất của văn hoá Hy lạp cổ đại cho tư duy loài người có lẽ là sự phát minh ra thái độ khoa học với ngôn ngữ mà điển hình là sách Cơ sở của Euclid. Để nói về hình tròn, người ta không nói nó là cái gì đó giống mặt trời, hay mặt trăng vào thời kỳ trăng tròn, mà người ta định nghĩa đường tròn là tập hợp các điểm có một khoảng cách cho trước đến một điểm cho trước, gọi là tâm của đường tròn. Cái đáng lưu ý nhất là khái niệm luôn được xây dựng trên cơ sở khẳng định: nó là cái gì, chứ không phải trên cơ sở phủ định: nó không phải là cái gì.
Cũng cần lưu ý là ở đây đường tròn không được gán cho bất kỳ một thuộc tính thiêng liêng nào cả, nó chỉ là cái tên đưa ra để định hình khái niệm tập hợp các điểm có khoảng cách cho trước đến một điểm cho trước. Thậm chí trong thực tế, không có cái gì chính xác là hình tròn cả, chỉ có những hình tròn gần đúng mà thôi. Các định nghĩa của Euclid chỉ có giá trị giới hạn trong phạm vi của hình học. Theo một nghĩa nào đó, hình học là một sản phẩm thuần tuý của trí tuệ, là một trò chơi của tư duy. Giá trị lớn nhất của trò chơi này nằm ở ngay trong sự hạn chế của nó. Vì luật chơi bao gồm một số tiên đề, và một số phép suy luận được quy định trước, một phát biểu hình học chỉ có thể hoặc là đúng, hoặc là sai, một chứng minh chỉ có thể là đầy đủ chặt chẽ hoặc là thiếu sót ngộ nhận.  Đây là cuộc chơi mà tư duy logic của con người được tha hồ thi thố. Cho đến bây giờ nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó. Để cho trẻ học được phương pháp lập luận chặt chẽ, không có gì tốt hơn là học hình học Euclid.
Ưu điểm của trò chơi tư duy mà trong các luật chơi được cố định trước là trong phạm vi của cuộc chơi này, mọi cái đúng cái sai đều rõ ràng. Ưu điểm quan trọng khác là con người có thể rút ra kết luận rõ ràng chi tiết từ hệ thống tiên đề và khái niệm, để rồi đem nó ra kiểm chứng, đối chiếu với quan sát thực tế.
Ở điểm này, thiên hướng của khoa học khiêm tốn hơn nhiều so với thiên hướng của tôn giáo. Những luận điểm của tôn giáo thường có tính khái quát cao, nhưng không có tính chi tiết để có thể kiểm chứng đối chiếu được qua các quan sát thực tế. Trong mọi trường hợp tôn giáo yêu cầu người ta phải tin và phải chấp hành. Ngược lại, lý thuyết khoa học đưa ra những luận điểm đủ cụ thể để có thể kiểm chứng với thực tế và dành cho thực tế quyền phán xét cuối cùng. Sự khiêm tốn, luôn đặt mình vào vị trí để cho thực tế phán xét, hoặc khẳng định, hoặc phủ nhận, theo Karl Popper chính là thuộc tính đặc trưng của khoa học, đối lập với tín điều.
Sự khiêm tốn này cũng chính là cái làm nên sức sống của khoa học. Tôn giáo sẽ chết khi con người không còn đặt lòng tin vào tín điều nữa. Còn trong bản chất của mình, luận điểm khoa học chấp nhận sự phủ định, nó như chỉ chờ được thực tế phủ định để hồi sinh, lột xác thành một lý thuyết khoa học mới, phức tạp hơn, có phạm vi ứng dụng rộng hơn lý thuyết cũ.
Trong bản chất, mọi lý thuyết khoa học chỉ mô tả được một phạm vi nào đó của thế giới, lý thuyết càng thô sơ thì phạm vi áp dụng của nó càng hẹp. Đi ra ngoài phạm vi đó là bắt đầu một cuộc chơi mới, con người lại phải sáng tạo một hệ thống ngôn ngữ, khái niệm mới, tìm ra một luật chơi mới.  Nhưng không phải vì thế mà lý thuyết cũ nhất thiết phải bị thủ tiêu khi một lý thuyết mới ra đời. Trong phạm vi cuộc sống hàng ngày, khi các vật thể chuyện động chậm hơn nhiều so với ánh sáng, cơ học Newton vẫn đúng.
Người đi tìm hiểu thế giới gần như bắt buộc phải đi lại gần như toàn bộ hành trình tìm hiểu thế giới của loài người. Đây là cái khó khăn rất lớn. Đã có một số quan điểm sai lầm trong giáo dục muốn bỏ qua những lý thuyết khoa học trước đây để đưa học sinh đến với những lý thuyết tiên tiến nhất. Ở phương tây những vào những năm 70 đã có trào lưu xây dựng lại toàn bộ giáo trình toán học dựa theo cách trình bày toán học hiện đại của nhóm Bourbaki. Kết quả của thí nghiệm đại trà này không tốt. Cảm nhận chung là trình độ toán học của học sinh tốt nghiệp phổ thông kém đi nhiều.
Gần đây, con lắc cực đoan có vẻ như bị văng theo hướng ngược lại. Người ta muốn lược đi khỏi chương trình tất cả những gì được coi là không cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Tôi vô cùng ngạc nhiên bởi ý kiến của một vị Giáo sư cho rằng học sinh không cần học vi phân, tích phân vì hàng ngày có ai cần dùng đến vi phân, tích phân đâu. Nhưng chính là nhờ vào thiên tài của Newton và Leibnitz, các hiện tượng tự nhiên được mô tả một cách tường minh dưới dạng phương trình vi phân. Loại bỏ đi đạo hàm tích phân có khác gì tự nguyện quay lại với tư duy mơ hồ của siêu hình trung cổ.
Vấn đề không phải đem những kiến thức khoa học tiên tiến nhất đến cho học sinh, vì có muốn cũng không làm được. Vấn đề cũng không phải là tập trung rèn luyện cho học sinh kỹ năng tính toán để phục vụ cho những nhu cầu hàng ngày. Cái cần làm trang bị cho học sinh phương pháp tư duy khoa học: định hình rõ nét khái niệm, liên hệ những khái niệm đó với thế giới khách quan, biết lập luận, biết tính toán để đưa ra những luận điểm cụ thể, kiểm chứng những luận điểm đó với thế giới khách quan.
Còn một thuộc tính khác của một khoa học có sức sống là khả năng đem đến sự bất ngờ. Hình học Euclid không còn khả năng đưa ra những khẳng định bất ngờ nào nữa và theo nghĩa này, nó là một môn khoa học chết. Nó chỉ còn là một trò chơi trí tuệ để học sinh rèn luyện khả năng tư duy logic. Nhận định của Einstein rằng tia sáng bị uốn cong khi đến gần các vật thể có khối lượng lớn nhờ vào những tính toán trong lý thuyết tương đối là một bất ngờ khi trong hình dung của chúng ta, đường thẳng là đường truyền của ánh sáng. Sức sống của một bộ môn khoa học thể hiện ở chỗ từ một hệ thống khái niệm, tiên đề chấp nhận được, bằng tính toán và lập luận, người ta có thể đưa ra những giải thích chưa biết cho những hiện tượng đã biết, hoặc là tiên đoán về những hiện tượng chưa được biết đến.
Khi khoa học “nhận nhiệm vụ” diễn giải, chứng minh cho một luận điểm cho trước, để phục vụ một mục đích chính trị hoặc tôn giáo, bất kể mục đích đó tốt hay xấu, về mặt thực chất khoa học đã mất đi cái làm nên sức sống của nó.  Vấn đề “nhận nhiệm vụ” ảnh hưởng nhiều đến khoa học xã hội hơn là khoa học tự nhiên. Như một số người đã nhận xét, ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các ngành khoa học tự nhiên có thể rất phát triển trong khi các ngành khoa học xã hội để lại rất ít dấu ấn vào văn minh nhân loại. GS Hà Huy Khoái có lần phát biểu nửa đùa nửa thật “Thực chất, ở Việt Nam chưa có khoa học xã hội”. Phát biểu của ông đã gây ra những phản ứng khá dữ dội. Nói một cách khách quan hơn, nó có đấy, nhưng nó yếm khí và thiếu sức sống.
Học như thế nào?
Ngày xưa để học được chữ thánh hiền, cái quan trọng nhất là cần có chí. Cái chí để đi bắt đom đóm bỏ vào lọ làm đèn mà đọc sách thâu đêm. Trong công việc học tập bây giờ, trong việc tiếp thu kiến thức khoa học của nhân loại tưởng như vô hạn, chỉ có chí thôi chắc là không đủ.

Như tôi vừa trình bày ở trên, khoa học không bị cái bệnh tự phụ coi những luận điểm của mình đúng một cách tuyệt đối, đúng một cách phổ quát. Mỗi lý thuyết khoa học được khai triển bằng tính toán, bằng lập luận từ một số nhỏ khái niệm, một số tiên đề cơ sở. Mỗi lý thuyết có logic nội tại của nó, nó không tự mâu thuẫn, nhưng những kết luận mà người ta rút ra từ nó chỉ khớp với thực tế khách quan trong một phạm vi nào đó. Theo một nghĩa nào đó, mỗi lý thuyết là một trò chơi trí tuệ, với luật chơi được xác định rõ ràng mà trong đó người chơi có thể triển khai khả năng tư duy của mình để đi đến những kết quả nhiều khi nằm ngoài sự mong đợi ban đầu.
Rất ít khi người ta chơi trò gì một mình.  Để cho cuộc chơi thực sự cuốn hút, để cho người chơi có thể thực sự triển khai mọi tiềm năng tư duy của mình để đi đến những kết quả bất ngờ, đi đến sáng tạo, cuộc chơi phải có bạn chơi và phải có trọng tài. Để minh hoạ quan điểm này, tôi xin đưa ra một gợi ý nhỏ, nhưng rất nghiêm túc.
Nhờ vào internet, hiện tại người ta có thể tìm được miễn phí rất nhiều tài liệu học tập miễn phí ở trên mạng. Một số trường đại học có tên tuổi như MIT, Stanford còn tổ chức công bố miễn phí hầu hết các tư liệu học tập. Thay bằng việc phải bỏ ra 50 ngàn đô-la một năm để đến đó học, mà không phải cứ có 50 ngàn đô-la là đã được nhận vào học, bạn có thể truy cập miễn phí các tư liệu học tập, theo dõi các bài giảng video. Vậy có đúng là bạn cứ ngồi ở Hà nội, hay Sài gòn, là cũng có thể học như sinh viên ở MIT hay ở Stanford hay không.
Tôi nghĩ rằng trừ khi bạn có một ý chí sắt đá, dù có được cung cấp tất cả mọi tài liệu trên đời, dù dược theo dõi miễn phí các bài giảng, ở nhà một mình bạn vẫn không thể học được. Bởi vì ngồi theo dõi bài giảng trên mạng một mình không phải là một cuộc chơi thú vị: không có địch thủ, không có đồng đội, không có lộ trình, không thấy mục tiêu, không thấy giải thưởng. Đó là những thứ không liên quan trực tiếp đến nội dung khoa học của bài giảng nhưng đó là cái mà người đi học cần để phấn đấu liên tục. Học một mình, bạn có thể tập trung cao độ trong một hai ngày cho đến một tuần. Nhưng bạn cần có tập thể, có lớp học, có thầy giáo để duy trì nỗ lực học tập.
Gợi ý của tôi là tại sao các bạn không tự tổ chức cùng học theo giáo trình được cung cấp trên mạng. Tại sao không thể dùng trực tiếp bài giảng, tư liệu học tập cung cấp miễn phí trên mạng trong các lớp học chính khoá. Các thầy không nhất thiết phải giảng cả buổi nữa, mà có thể cho sinh viên xem bài giảng trên mạng, có thể làm trước phụ đề tiếng việt, sau đó dành thời gian để giải thích thêm, trả lời câu hỏi của sinh viên, và hướng dẫn làm bài tập. Và cuối cùng là tổ chức thi cử nghiêm túc. Tất nhiên gợi ý thì dễ, mà làm thì khó, nhưng tôi không tin là việc này không thể làm được. Kinh phí để tổ chức lớp học như thế có lẽ là không nhiều lắm, nếu so sánh với học phí 50 ngàn đô la một năm ở MIT hay Stanford.
Với gợi ý có tính suy tưởng này, tôi hy vọng làm nổi lên được sự quan trọng của việc tổ chức học tập. Học tập là một hoạt động tập thể và có tổ chức. Như đã nêu ở trên, thiếu một tập thể có tổ chức, con người nói chung không có khả năng duy trì nỗ lực của mình trong một thời gian dài. Thiếu tranh biện con người nhanh chóng lạc vào con đường chủ quan, con đường luôn dẫn đến cái đích là sự bế tắc. Bản tính con người là hiếu thắng, cái cần thiết để tạo ra sự sôi động trong tranh luận, những cũng là cái làm hỏng cuộc tranh luận, biến nó thành chiến trường để người này đè bẹp người kia. Vì vậy trong mọi cuộc chơi tập thể cần có một luật chơi lành mạnh để cho sự cạnh tranh chỉ tạo ra nỗ lực để mỗi người vượt lên chính mình, chứ không phải là cái cớ để thỏa mãn bản năng hiếu thắng. Và cuộc chơi cần một người trọng tài, nắm vững luật lệ và có thẩm quyền điều khiển cuộc chơi. Ngoài ra, chính những ràng buộc của luật chơi bắt người chơi phải vươn tới sự sáng tạo thực sự.
Tôi để ý thấy người ta phá bỏ luật chơi dễ dàng quá. Tôi xin dẫn một ví dụ nhỏ là việc viết thư giới thiệu. Viết thư giới thiệu là một công việc khá vất vả mà lại không thể mong đợi phần thưởng gì khác ngoài cảm giác hoàn thành bổn phận. Để giới thiệu cho một đồng nghiệp vào một vị trí phó giáo sư, hay giáo sư, thường thì người giới thiệu phải tìm hiểu kỹ công trình của người mình giới thiệu để chỉ ra chỗ nào hay, chỗ nào đặc sắc, chỗ nào thì cũng chỉ bình thường, và nêu ra ý nghĩa chung của công trình. Không viết được đầy đủ nội dung như vậy, thì lá thư giới thiệu không có mấy trọng lượng, mà người viết thư giới thiệu lại có thể bị đánh giá, hoặc là về sự nghiêm túc, hoặc là về trình độ. Viết thư là một việc rất vất vả, mà không có ai khen ông này ông kia viết thư giới thiệu rất hay, vì trên nguyên tắc thư giới thiệu được giữ bí mật. Tóm lại, viết thư giới thiệu là một việc vất vả, không có bổng lộc, nhưng lại cần phải làm để ủng hộ một người đồng nghiệp xứng đáng, hoặc chỉ đơn thuần là để thực hiện bổn phận của mình. Viết thư giới thiệu cho sinh viên cũng mất công, nhưng không vất vả như viết thư giới thiệu cho đồng nghiệp.
Có một lần, một sinh viên mà tôi đã từng dạy ở Hà nội nhờ tôi viết thư giới thiệu.  Khi tôi còn đang do dự vì tôi đánh giá bạn ấy không thực sự xuất sắc, thì anh ta gửi cho tôi một bức thư giới thiệu soạn sẵn để tôi chỉ việc ký vào đó. Khi tôi tỏ ra vô cùng ngạc nhiên về cách làm này, thì bạn ấy trình bày là các thầy giáo khác yêu cầu bạn ấy làm như thế. Một số người có thể coi đây là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ chính từ những chuyện nhỏ như thế sẽ làm tha hoá cả hệ thống.
Khi chuẩn bị bài nói chuyện này, ý định của tôi là chia sẻ những suy nghĩ tản mạn của mình về việc học tập, chứ không định phê bình ai cả, càng không có ý định phê bình nền giáo dục ở nước ta. Đã có nhiều người chỉ ra rất nhiều bất cập, tôi không thấy cần thiết phải hoà thêm tiếng nói của mình vào đó. Nhưng nếu chỉ nêu ra một vấn đề, vấn đề lớn nhất, thì theo tôi đó là mức độ tha hóa của hệ thống.
Xin quay lại sự kiện Đồi ngô mà các bạn đều đã biết cả. Đây là một sự kiện vô cùng đặc biệt, vì chuyện thí sinh quay phim giám thị vi phạm qui chế thi là điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Đây là một câu chuyện rất buồn, nó phải là tiếng chuông cảnh tình về mức độ tha hoá của hệ thống. Hãy khoan quy trách nhiệm cho một cơ quan, một cá nhân nào mà hãy bình tâm suy nghĩ. Để cho một việc như vậy xảy ra, phải có nhiều người từ trung ương đến địa phương, ở trong và ngoài ngành giáo dục, đã không tôn trọng luật chơi. Kết quả là kỳ thi tốt nghiệp, cái đáng ra phải là một thủ tục mang tính nghiêm cẩn, phải là một cái mốc thiêng liêng cho cả quá trình lao động học tập của học sinh, lại trở thành một trò đùa, một trò đùa làm chúng ta muốn khóc.
Nước Mỹ có thể tự hào về những trường đại học của mình. Các đại học ở Mỹ thường là tương đối trẻ, trường đại học Chicago nơi tôi làm việc cũng mới khoảng 100 tuổi, đồng niên với Đại học quốc gia Hà nội. Có lẽ cũng phải trả lời câu hỏi, cái gì là “bí quyết thành công” của họ. Vào thời điểm hiện tại thì ta có thể nói rằng lý do thành công của họ là họ rất giàu, có nhiều giáo sư giỏi, có cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại. Nhưng nói như thế là nhầm lẫn giữa kết quả và nguyên nhân. Ban đầu, họ không giàu, mà cũng không có nhiều người thực sự xuất sắc nếu so với cái trường đại học ở châu Âu vào cùng thời. Tuy không có một câu trả lời duy nhất, nhưng một nguyên nhân chắc chắn được nhắc đến là tinh thần fair-play, mọi hành vi ăn gian đều bị trừng trị một cách vô cùng nghiêm khắc.
Tôi cho rằng sự trung thực là một hành vi khó mà học được từ trong sách vở. Để trẻ học được tính trung thực, trước hết người lớn cũng phải học tính trung thực, để tự biết mà làm gương.
Tôi đã nói nhiều về sự cần thiết của việc tổ chức học tập, tính kỷ luật và tính trung thực. Nhưng bạn có thể thắc mắc rằng tại sao tôi nói về trường học mà cứ như là nói về doanh trại quân đội.
Tính kỷ luật và trung thực tất nhiên là không đủ. Cái còn thiếu chính là “niềm say mê” mà tôi nhắc đến lúc bắt đầu.  Say mê đi tìm cái mới, cái chưa biết, tìm lời giải thích cho những gì còn chưa hiểu.  Niềm say mê đi từ đâu đến? Thú thực là tôi không biết chắc chắn, và vì thế mà tôi giả sử rằng con người sinh ra với một bản năng hướng thượng, nói cách khác là đã có sẵn trong mình mầm mống của niềm ham mê. Tôi nghĩ rằng thực ra câu hỏi niềm ham mê sinh ra từ đâu không quan trọng bằng làm thế nào để gìn giữ niềm ham mê, và không để cho nó bị tha hoá. Niềm đam mê, tính hướng thượng hướng thiện là động cơ cho việc học tập, và chính việc học tập đích thực là cái nuôi dưỡng sự hướng thượng hướng thiện bởi những giá trị nhân văn chân thiện, chân mỹ, bởi tình yêu sự thật, và bởi niềm hạnh phúc của sự khám phá,  để vượt qua biên giới giữa những gì đã biết và những gì chưa biết.
Một người bạn tôi có góp ý với tôi rằng bên cạnh niềm ham mê, đừng quên bổ sung sự quả cảm. Sự quả cảm là cái bạn cần để không để lười biếng, hèn nhát dụ dỗ mà quay lưng lại với sự thật. Sự quả cảm cũng là cái bạn rất cần khi đi tìm cái mới. Bạn có tập thể, có đồng đội để cùng học tập, tiến bộ. Nhưng dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy rằng khi đã vượt qua biên giới của những gì đã biết để thực sự đuổi theo cái chưa biết, bạn rất cần tính quả cảm vì đi tìm cái mới thường là một hành trình cô đơn, và nó có thể kéo dài nhiều năm.
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn các ông Bùi Đức Lại, Nguyễn Xuân Long, Hoàng Hồng Minh và Nguyễn Phương Văn về những góp ý quí báu.

Tài liệu tham khảo
1. Hannah Arendt: La crise de l’éducation:    http://www.meirieu.com/COURSPHILO/textephilo4.pdf
2. Ngô Bảo Châu: Giữ ký ức: thichhoctoan.net/2013/01/16/giu-ky-uc/
3. Hà Huy Khoái: Muốn có ứng dụng, phải có lý thuyết: vnn.vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2006/04/562806/

GS Ngô Bảo Châu

THỀM XUÂN

Cỡi ra một nụ hoa mai
Tình như nắng ấm đủ đầy sắc tim
Hương thơm trịnh bạch dịu mềm
Niềm vui gói trọn êm đềm đợi Xuân.


Sayonara

Trơ ra những nhánh khô gầy
Hồn như tóc lạnh phơi bày trắng đêm
Trái sầu oằn xuống trĩu thêm
Giọt rơi thánh thót mưa thềm cuối khuya...
( Uyển Di)

Bí quyết thành công của Bắc Âu


The Economist
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch và chú thích
Các nước Bắc Âu có lẽ trị quốc tốt nhất thế giới
Cecil Rhodes [1] từng nhận xét rằng “sinh ra là người Anh coi như trúng số độc đắc”. Ngày nay ta cũng có thể nói như vậy về người sinh ra ở Bắc Âu. Các nước Bắc Âu không chỉ tránh được phần lớn những vấn nạn kinh tế đang làm rung chuyển vùng Địa Trung Hải; mà còn tránh được phần lớn những căn bệnh xã hội đang hành hạ nước Mỹ. Xét về bất cứ chỉ số nào đo lường tình trạng ổn định và lành mạnh của một xã hội – từ các chỉ số kinh tế như năng suất và đổi mới sáng tạo đến các chỉ số xã hội như tình trạng bất bình đẳng và tội ác – các nước Bắc Âu quần hội ở gần đầu bảng xếp hạng (xem bảng).
2012rankingTại sao khu vực hẻo lánh, dân cư thưa thớt, với mùa đông băng giá và những vùng hoang vu mênh mông này lại thành công đến vậy? Đã có thời đa số người dân các nước này chẳng ngần ngại ca ngợi chính phủ của họ, cái chính phủ mà trong phần lớn thế kỷ 20 chính là những nhà dân chủ xã hội nấp dưới một trong những vỏ bọc dân tộc khác nhau của họ. Chính phủ đó đã cung cấp cho người dân các dịch vụ phúc lợi trọn đời, từ lúc lọt lòng cho đến khi xuống mồ, cứu họ thoát khỏi cảnh sống khắc nghiệt của tổ tiên họ hồi thế kỷ 19, và can thiệp để cứu các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thoát khỏi những cuộc khủng hoảng định kỳ.
Nhưng giới chủ trương thị trường tự do bới lông tìm vết trong cách lý giải của giới ủng hộ vai trò can thiệp của chính phủ, và đưa một cách giải thích khác đầy thuyết phục. Trong giai đoạn từ 1870 đến 1970, các nước Bắc Âu nằm trong số các nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới, nhờ một loạt các cải cách có lợi cho kinh doanh chẳng hạn như thành lập các ngân hàng và tư hữu hóa các khu rừng. Nhưng trong những năm 1970 và 1980 sự bành trướng thiếu kỷ cương của chính phủ  khiến những cải cách đó chựng lại. Giới chủ trương thị trường tự do nhận định rằng thành tựu đáng nể gần đây của khu vực này là nhờ họ quyết tâm giảm chi tiêu chính phủ và để cho giới kinh doanh được tự do hành động.
Vai trò của chính phủ trong việc cải thiện tình trạng bình đẳng cũng đang bị đặt câu hỏi. Andreas Bergh, thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế học Công nghiệp của Thụy Điển, nhận định rằng thu nhập [quốc dân] của Thụy Điển đã giảm sút trước khi nhà nước phúc lợi xuất hiện, mà nhà nước phúc lợi này là một hệ quả chứ không phải nguyên nhân của sự thịnh vượng của Bắc Âu – và suýt giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng.
Bản tường trình đặc biệt này [của tạp chí The Economist] tán thành một số lập luận của giới chủ trương thị trường tự do. Các nước Bắc Âu đã từng nhiễm thói quen chi tiêu cho phúc lợi nhiều hơn khả năng trang trải của họ và thói quen dựa dẫm quá nhiều vào một số ít công ty lớn. Họ hành động đúng khi cố gắng tinh giản nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh doanh. Nhưng sẽ sai lầm nếu [họ] hoàn toàn phớt lờ vai trò của chính phủ.
Các nước Bắc Âu hãnh diện về tính trung thực và minh bạch của chính phủ nước họ. Các chính phủ Bắc Âu bị giám sát chặt chẽ: ví dụ, ở Thụy Điển ai cũng có quyền xem tất cả các hồ sơ chính thức. Các chính khách bị bêu diếu, nếu họ nhảy khỏi yên xe đạp và chui vào xe limousine công.
Người Bắc Âu đã cộng thêm hai phẩm chất quan trọng vào tính minh bạch: tính thực dụng và tính quyết đoán. Khi phát hiện rằng kiểu đồng thuận dân chủ xã hội cũ không còn tác dụng, họ sẵn sàng từ bỏ nó mà chẳng một lời bàn cãi ầm ĩ và áp dụng những ý tưởng mới từ đóng góp của mọi giới chính trị bất kể tả hữu. Họ cũng tỏ ra hết sức quyết tâm trong việc thực hiện triệt để các cải cách. Nếu thấy người Bắc Âu tử tế mà tưởng họ nhu nhược yếu đuối là ta nhầm to.
Tính thực dụng giải thích tại sao sự đồng thuận mới đã nhanh chóng thay thế sự đồng thuận cũ. Ví dụ, hiếm có chính khách Dân chủ Xã hội Thụy Điển nào muốn bãi bỏ những cải cách bảo thủ được thực hiện trong những năm gần đây. Tính thực dụng cũng giải thích tại sao dường như các nước Bắc Âu thường có thể  là nơi tập hợp đủ kiểu chính sách thiên tả và thiên hữu.
Tính thực dụng cũng giải thích tại sao người Bắc Âu liên tục nâng cấp mô hình của họ. Họ vẫn còn gặp nhiều vấn đề. Các chính phủ của họ vẫn còn quá cồng kềnh và khu vực tư nhân ở các nước này còn quá nhỏ. Thuế của họ vẫn còn quá cao và một số khoản phúc lợi của họ quá hào phóng. Hệ thống đảm bảo công ăn việc làm linh hoạt (flexicurity) của Đan Mạch quá coi trọng đến sự bảo đảm việc làm, nhưng quá coi nhẹ tính linh hoạt. Sự phát triển bùng nổ dầu hỏa của Na Uy đang có nguy cơ tiêu diệt tinh thần làm việc siêng năng cần mẫn. Quả là dấu hiệu xấu khi ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 6% lực lượng lao động nghỉ bệnh và khoảng 9% dân số trong độ tuổi lao động sống bằng trợ cấp bệnh tật. Nhưng người Bắc Âu tiếp tục áp dụng các cải cách cơ cấu mới, có lẽ là hơi chậm nhưng đầy dứt khoát và cương quyết. Họ lại đang thực hiện những điều này mà không hề hy sinh các đặc tính khiến mô hình Bắc Âu vô cùng có giá trị: khả năng đầu tư vào vốn con người và bảo vệ cho người dân tránh khỏi những xáo trộn vốn là một phần của hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Noi gương Đan Mạch [2]
Phần lớn các nước giàu hiện nay đang gặp những vấn đề mà người Bắc Âu đã gặp vào đầu những năm 1990 – chi tiêu công cộng vượt quá tầm kiểm soát và các chương trình phúc lợi an sinh quá hào phóng. Nam Âu cần đôi chút tính quyết đoán của Bắc Âu nếu muốn kiểm soát tài chính công. Và Mỹ cần đôi chút tính thực dụng của Bắc Âu nếu mong có cơ hội kiềm chế phúc lợi an sinh và cải cách khu vực công cộng.
Người Bắc Âu chẳng hề đỏ mặt ngượng ngùng khi cần quảng bá các ưu điểm của mô hình của họ. Các tổ chức nghiên cứu của Bắc Âu tiến hành những nghiên cứu chi tiết bằng tiếng Anh về cách họ cải cách nhà nước. Các chính khách tích cực bảo vệ quan điểm của mình ở các cuộc họp quốc tế và các chuyên viên tư vấn Bắc Âu mang kinh nghiệm chuyên môn của mình về khu vực công cộng đi bán khắp thế giới. Dag Detter đã đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tái cấu trúc danh mục đầu tư thương mại của nhà nước Thụy Điển trong những năm 1990, chiếm hơn một phần tư khu vực kinh doanh. Từ đó ông đã cố vấn cho chính phủ các nước ở Châu Á và Châu Âu.
Song khó mà hình dung được mô hình trị quốc của Bắc Âu có thể truyền bá nhanh chóng, chủ yếu bởi vì tài năng trị quốc Bắc Âu mang tính đặc thù, không giống ai. Việc trị quốc ở Bắc Âu xuất phát từ sự kết hợp địa lý khắc nghiệt và lịch sử ôn hòa. Tất cả các nước Bắc Âu đều có dân số ít,bởi vậy những người thuộc tầng lớp chóp bu cầm quyền phải hòa đồng với nhau. Vua chúa các nước này sống ở những nơi tương đối giản dị và giới quý tộc cũng phải kỳ kèo mặc cả với các nông dân và thủy thủ có suy nghĩ độc lập.
Họ sớm đi theo chủ nghĩa tự do. Thụy Điển bảo đảm tự do báo chí vào năm 1766, và kể từ những năm 1840 về sau Thụy Điển bãi bỏ chế độ ưu tiên cho quý tộc khi giao phó những chức vụ cao cấp trong chính phủ, và tạo ra hệ thống công quyền dựa trên năng lực và không có tham nhũng. Họ cũng theo đạo Tin Lành – một tôn giáo giảm vai trò của giáo hội xuống chỉ còn là người hỗ trợ và nhấn mạnh đến mối quan hệ trực tiếp giữa con người và Thượng Đế. Một trong những ưu tiên chính của giáo hội Tin Lành là dạy nông dân biết đọc.
Sự kết hợp giữa địa lý và lịch sử đã cung cấp cho các chính phủ Bắc Âu hai nguồn lực quan trọng: sự tín nhiệm người lạ và lòng tin vào các quyền cá nhân. Một khảo sát của Eurobarometer [3] về sự tín nhiệm xã hội tổng quát (khác với lòng tin trong gia đình) cho thấy các nước Bắc Âu nằm ở các vị trí dẫn đầu (xem biểu đồ dưới đây). Giới kinh tế học cho rằng sự tín nhiệm ở mức độ cao dẫn đến chi phí giao dịch thấp hơn – không cần đến kiện tụng kiểu Mỹ hay những thương vụ “có qua có lại mới toại lòng nhau” kiểu Ý để được việc. Nhưng các ưu điểm của Bắc Âu không chỉ dừng lại ở đó. Sự tín nhiệm đồng nghĩa với việc những người tài đức tham gia bộ máy công quyền. Công dân đóng thuế và tuân thủ luật lệ. Các quyết định của chính phủ được nhiều giới tán thành.
survey
Cuộc Khảo sát Các Giá trị Thế giới (The World Values Survey), đã thăm dò các giá trị ở hơn 100 nước từ năm 1981, cho biết dân Bắc Âu là những người có lòng tin lớn nhất thế giới về quyền tự chủ của cá nhân. Sự kết hợp kiểu Bắc Âu giữa chính phủ quy mô lớn và chủ nghĩa cá nhân có thể nghe kỳ lạ đối với một số người, nhưng theo Lars Tragardh, thuộc Đại học Ersta Skondal University College ở Stockholm, người Bắc Âu dễ dàng hòa hợp hai yếu tố này: họ xem công việc chính của nhà nước là cổ xúy quyền tự chủ của cá nhân và tính cơ động xã hội (social mobility).[4] Bất cứ luật lệ xã hội nào của Bắc Âu – đặc biệt là các luật gia đình trong những năm gần đây – cũng có thể được chứng minh là ủng hộ quyền tự chủ của cá nhân. Dịch vụ giữ trẻ phổ quát [5] giúp cho sinh viên thuộc mọi tầng lớp và hoàn cảnh đạt được tiềm năng của mình. Việc đánh thuế tách bạch đối với các cặp vợ chồng giúp người vợ được bình đẳng với người chồng. Dịch vụ giữ trẻ phổ quát tạo điều kiện cho cả hai bậc cha mẹ có thể đi làm toàn thời gian. Ông Tragardh có một cụm từ hữu ích để mô tả tâm lý này: “chủ nghĩa cá nhân có sự can thiệp của nhà nước” (statist individualism).
Người Bắc Âu mang theo thái độ này đối với chính phủ khi họ ra nước ngoài. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khoảng 1,3 triệu người, một phần tư dân số Thụy Điển lúc đó, di cư, chủ yếu sang Mỹ. Nước Mỹ sáng tác cả thể loại chuyện tiếu lâm về “những người Thụy Điển khờ khạo” và thái độ sẵn sàng tuân thủ luật lệ của họ. Chính những người Thụy Điển khờ khạo đã tạo nên các cộng đồng được quản lý tốt nhất ở Mỹ, chẳng hạn như Minnesota. Thậm chí ngày nay những người Mỹ gốc gác Bắc Âu có khả năng cao hơn 10% so với người Mỹ trung bình về chuyện tin rằng “phần lớn mọi người có thể tin được”.
Quy mô lớn nhỏ không phải yếu tố duy nhất
Giới kinh tế học thường ngỡ ngàng về thành công kinh tế gần đây của các nước Bắc Âu trong khi chính phủ các nước này có quy mô quá lớn. Theo một quy tắc không chính thức trong giới chuyên môn, nếu số thu thuế tính theo tỉ lệ phần trăm của GDP tăng lên 10 điểm phần trăm, thì thường có tương quan với mức giảm nửa điểm phần trăm về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Nhưng các con số như vậy cần được điều chỉnh để phản ánh các lợi ích của tính trung thực và hiệu quả. Ví dụ, chính phú Ý ấn một gánh nặng kinh khủng đè lên vai xã hội vì các chính khách điều hành chính phủ chủ yếu lo chuyện vơ vét lợi lộc chứ không phải cung cấp dịch vụ công cộng. Goran Persson, cựu thủ tướng Thụy Điển, từng so sánh nền kinh tế Thụy Điển với một con ong – “với một cơ thể quá nặng nề và đôi cánh nhỏ, cứ tưởng con ong không bay nổi, nhưng nó bay được”. Ngày nay con ong đó vẫn đang giữ thể trạng khỏe mạnh và đang bay khỏe hơn nhịp bay của nó trong mấy chục năm qua.
NguồnThe Economist, 02-2-2013
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra

[1] Cecil John Rhodes (1853-1902) là doanh nhân Anh, nhà tài phiệt ngành khai khoáng (chủ tịch đầu tiên của công ty kim cương De Beers), và chính khách ở Nam Phi. Ông dùng gia sản của mình lập học bổng Rhodes tài trợ cho sinh viên xuất sắc nước ngoài học ở Đại học Oxford. Học bổng này được nhiều nguồn như tạp chí Time, nhà xuất bản Yale University Press, báo The McGill Reporter,và Associated Press xem là học bổng quốc tế danh giá nhất thế giới. (Wikipedia)
[2] Nguyên văn: “getting to Denmark”. Theo Ian Morris, chủ đề trọng tâm của tác phẩm Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối cùng (The End of History and the Last Man, 1999) của Francis Fukuyama là “noi gương Đan Mạch”. Tác giả Fukuyama ý muốn nói đến việc tạo ra những xã hội ổn định, thanh bình, thịnh vượng, dung nạp mọi thành phần và tầng lớp, và trung thực. Cũng như trong tiểu luận nổi tiếng Sự cáo chung của lịch sử làm tiền đề cho cuốn sách này, Fukuyama xem đây là điểm tận cùng hợp lý của phát triển xã hội, và cho rằng tính chất Đan Mạch đòi hỏi phải có ba yếu tố: các nhà nước vận hành hiệu quả, chế độ pháp trị, và chính phủ có trách nhiệm giải trình. (Ian Morris, How To Get to the End of History, Slate, 2 May 2011)
[3] Eurobarometer là loạt khảo sát dư luận được thực hiện định kỳ nhân danh Ủy hội Châu Âu kể từ năm 1973, về nhiều loại chủ đề liên quan đến Liên hiệp Châu Âu ở các nước thành viên. (Wikipedia).
[4] Tính cơ động xã hội (social mobility) là khái niệm về sự dịch chuyển của các cá nhân, gia đình, hay nhóm người, trong một hệ thống đẳng cấp hay giai tầng xã hội. Nếu sự dịch chuyển đó là thay đổi về vị trí/chức vụ mà không thay đổi về tầng lớp xã hội, thì gọi là “cơ động theo chiều ngang” (horizontal mobility). Ví dụ một người dịch chuyển từ một chức vụ quản lý ở công ty này sang một chức vụ tương tự ở một công ty khác. Nhưng nếu sự dịch chuyển làm thay đổi tầng lớp xã hội thì gọi là “cơ động theo chiều dọc” (vertical mobility), và có thể “cơ động hướng lên” (upward mobility) hoặc “cơ động hướng xuống” (downward mobility). Một công nhân trở thành doanh nhân giàu có dịch chuyển lên giai cấp cao hơn; một quý tộc có đất bị mất hết gia sản trong một cuộc cách mạng dịch chuyển xuống giai cấp thấp hơn. (Bách khoa toàn thư Britannica)
[5] Dịch vụ giữ trẻ phổ quát (universal day care) là hệ thống bảo đảm mọi bậc phụ huynh đều có chỗ gửi con ở nhà trẻ mà không phải chờ đợi, thường có mức phí thấp và cố định. Ví dụ, ở Thụy Điển hệ thống này chủ yếu do nhà nước điều hành, chỉ có 20% đi nhà trẻ tư nhân. Năm 2002, nhà nước Thụy Điển áp dụng khung phí tối đa, giúp hệ thống này càng dễ trang trải hơn vì phí giữ trẻ mà phụ huynh đóng chiếm không quá 1% đến 3% thu nhập của họ. (Devine, Dympna & Kilkenny, Ursula, Nordic childcare model best for economic and social wellbeing, Irish Times, 9 June 2011)

Uống rượu (Wisława Szymborska)





Thái Linh dịch



Chàng đã nhìn em, khiến em đẹp hơn lên,

em nhận lấy như của mình nhan sắc.
Uống một vì sao, em hạnh phúc.

Em cho phép bản thân bịa đặt

mình giống hình phản chiếu đáy mắt chàng.
Em khiêu vũ, em đang khiêu vũ
trong bất ngờ cánh vỗ liền đôi.

Bàn là bàn, rượu là rượu đấy thôi

trong chiếc ly là chiếc ly trên bàn nằm đó
Nhưng em ảo, em là hư ảo
ảo đến khó tin
ảo tận máu đào.

Em nói điều chàng muốn nghe:

về những chú kiến vàng
chết vì yêu dưới chòm sao bồ công anh trắng.
Em xin thề, đóa hồng bạch kia đang hát,
cánh được tưới bằng những giọt rượu vang.


Em cười vui, đầu khẽ nghiêng sang

thận trọng, tựa như đang kiểm nghiệm
một phát minh. Em khiêu vũ, khiêu vũ
trong làn da kinh ngạc
trong vòng tay đang tạo nên em.


Eva từ xương sườn, Vệ nữ từ bọt biển nổi lên,

Minerva từ trán thần Zeus,
đều thực hơn em.


Khi chàng thôi không còn nhìn em,

em tìm bóng hình mình trên tường phản chiếu.
Em chỉ thấy một chiếc đinh lạnh lẽo
nơi bức tranh bị gỡ đi rồi.


Nguyên tác:


Przy winie


Spojrzał, dodał mi urody,

a ja wzięłam ją jak swoją.
Szczęśliwa, połknęłam gwiazdę.


Pozwoliłam się wymyślić

na podobieństwo odbicia
w jego oczach. Tańczę, tańczę
w zatrzęsieniu nagłych skrzydeł.


Stół jest stołem, wino winem

w kieliszku, co jest kieliszkiem
i stoi stojąc na stole.
A ja jestem urojona,
urojona nie do wiary,
urojona aż do krwi.


Mówię mu, co chce: o mrówkach

umierających z miłości
pod gwiazdozbiorem dmuchawca.
Przysięgam, że biała róża
pokropiona winem, śpiewa.


Śmieję się, przechylam głowę

ostrożnie, jakbym sprawdzała
wynalazek. Tańczę, tańczę
w zdumionej skórze, w objęciu,
które mnie stwarza.


Ewa z żebra, Wenus z piany,

Minerwa z głowy Jowisza
były bardziej rzeczywiste.


Kiedy on nie patrzy na mnie,

szukam swojego odbicia
na ścianie. I widzę tylko
gwóźdź, z którego zdjęto obraz.

Đạo trong võ học



Đạo trong võ học


Võ sư Chu Tất Tiến song đấu Judo với tay không đoạt dao. Đệ Tam Đẳng Nhu Đạo, Huấn luyện viên, O.C. Judo Training Center.



Nói về Đạo trong võ học, là nói về Đường lối, là Chân lý, là Giáo Dục. Võ học chính thống, thì cho dù là võ Việt Nam, võ Nhật, võ Trung Hoa, Đại Hàn, hay bất cứ môn phái của dân tộc nào cũng có Đạo. Nhìn chung, Võ Học có năm Đạo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.


1- Trước hết, nói về chữ Nhân:


“Nhân” có nghĩa là lòng thương người, trên căn bản Nhân đạo. Võ học chính thống luôn dậy người phải có lòng Nhân. Học võ không phải để hại người, để khoe tài, để kiêu căng, chà đạp người khác, mà học võ là để vừa Tự vệ vừa để bảo vệ người yếu đuối. Không một môn võ chính thống nào dậy võ sinh là học xong, các trò phải đi xưng hùng xưng bá, phải giết chết địch thủ như trong các phim chưởng, truyện chưởng mà chúng ta thường xem. Tất cả những điều đó chỉ là kết quả của sự tưởng tượng, nhất là đối với dân tộc Việt Nam chúng ta. Nếu lần giở lại lịch sử trên 4000 năm văn hiến, từ khi lập quốc đến nay, đến thời đại chúng ta, từ Nam, qua Trung, ra Bắc, chưa hề bao giờ nghe nói đến có những môn võ nào dậy đệ tử đi làm hại người cả. Ngược lại, chỉ thấy những môn võ rèn luyện môn sinh để giữ gìn đất nước, bảo vệ người cô thế. Đến khi những môn võ nước ngoài du nhập vào đất nước ta, cũng chỉ nghe nói đến chữ “Nhân” trong võ học.



Các đòn thế đấm, đá, vật, xiết cổ, đè, quăng, ném đều hạn chế người xử dụng tới một điểm nào đó. Những cú đánh kết liễu chỉ được dành cho các môn sinh ở trình độ cao, có thể tự điều khiển được mình rồi, mới được học cách xử dụng, với lời căn dặn là “chỉ khi nào nguy cấp, không còn cách tự vệ nào khác, mới được áp dụng đòn hiểm để thoát thân.” Do đó, từ cả trăm năm nay, không mấy ai nghe nói đến có những trường hợp tử vong chỉ vì người xử dụng võ thuật nóng giận, đấm đá kẻ địch đến chết hoặc chết vì thách đấu.

2- Chữ Nghĩa:


Một khi nói đến chữ “Nghĩa”, người ta thường nghĩ ngay đến “Nghĩa hiệp” và “hành hiệp trượng nghĩa”. Mà muốn hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổn phò nguy, thì phải biết võ nghệ. Do đó, võ học đi liền với “nghĩa”. Người học võ thường thích ra tay nghĩa hiệp. Giữa đường thấy chuyện bất bằng là phải ra tay ngay. Nghĩa còn dậy chúng ta phải biết trả ơn một khi đã nhận ơn. Người học võ thường không bao giờ muốn nợ ai mà không trả. Nhất là nghĩa Thầy, Cô, nghĩa Sư Phụ, Đệ Tử. Học chữ có thể quên Thầy, nhưng học võ thì không bao giờ có thể không nhớ ơn Thầy đã nắm tay, cầm chân, chỉ cho một thế đá, thế đấm, không thể quên lời Thầy dặn dò, chỉ bảo, hoặc gắt mắng chỉ vì lo cho môn sinh mau tiến bộ, mà lại không gây thương tích cho chính mình hoặc cho người khác.

3- Chữ Lễ:



Lễ là hình thức cư xử giữa môn sinh và Thầy Cô, giữa các môn sinh với nhau, giữa môn sinh của môn phái này và môn phái khác. Lễ được thể hiện ngay ở cách chào kính, bái tổ trước khi bước ra sân đấu. Tùy theo môn phái, mà cách chào kính, bái tổ khác nhau, thường thì bái Tổ sư, kính Thầy, chào bạn, có môn phái chào cả khán giả, có môn phái lại chào cả nơi chốn mà mình tập luyện, song đấu nữa. Trong môn phái Nhu Đạo, khi thi lên đẳng cấp đai đen, ngoài thi song đấu, thi kỹ thuật còn thi Lễ nữa. Các võ sinh đai đen phải di chuyển từng bước chân, từng cử động thật chậm đúng Lễ Nghi, đúng phong thái mới được trao bằng. Chữ Lễ trong võ học còn dậy các môn sinh quy củ trường tập, kính trên nhường dưới. Lễ dậy cách bảo vệ danh dự của Môn phái, bảo vệ danh dự cho nhau. Người đã tập võ chân chính càng ngày càng cung kính, nhún nhường, không cao ngạo, không tự phụ, khoe khoang, không biểu diễn võ công khi không cần thiết. Chữ “Lễ” trong Võ học được trọng kính và áp dụng hơn rất nhiều chữ lễ trong khi học chữ. Người Thầy trong Võ học khi xưa còn có quyền sinh sát với môn sinh hơn cả cha mẹ nữa cũng chỉ vì chữ “Lễ”.



4- Chữ Trí:


Người học võ nhất định phải học những cách phản công, xử thế trong các trường hợp ngặt nghèo. Môn võ nào cũng dậy cách biến hóa, phản đòn, nghĩa là dậy các môn sinh dùng Trí tuệ đi kèm theo Võ thuật. Không có Trí, võ chỉ là những đòn hùng hục như trâu, gặp đối thủ lanh lợi thì nhừ đòn. Trí trong các môn võ học chính thống không phải là lường gạt, mưu mô, mặc dù có đòn hư, đòn giả. Người võ sinh chính nhân quân tử chỉ dùng Trí để không cho địch thủ biết mình định xủ dụng đòn nào thật, đòn nào giả. Những cạm bẫy để lừa gạt người không phải là Trí mà chỉ là phương pháp tiểu nhân mà thôi. Ngoài ra, các môn võ chân chính cũng dậy môn sinh phải biết suy nghĩ để cho võ thuật được xử dụng đúng lúc và đúng cách hầu đúng với câu :Một trí tuệ minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.

5- Chữ Tín:


Không cần phải giải thích nhiều, ai cũng hiểu, người có võ học luôn biết giữ chữ Tín của Người Anh Hùng, đã nói là làm, đã hứa là phải giữ lời. Người có chữ Tín thà chết không để cho danh dự bị xúc phạm vì nói mà không giữ lời. Trong chiến tranh, đã biết bao võ sinh hy sinh thân mình chỉ vì một chữ Tín với Giang Sơn, Tổ Quốc.


Tóm lại, nói đến Võ Học là nói đến Đạo, đến Lễ Nghĩa, Trung Tín, đến Danh Dự, đến lòng Nhân Từ và Trí Tuệ. Võ học không chỉ là tay đấm, chân đá, quật, vật, ném, tung mà là cả một hệ thống Đạo trầm ẩn, thâm sâu. Người học võ thâm thúy cũng như người tu đạo. Cho nên, khi nhìn một vị Tôn Sư thật sự, chúng ta tự nhiên thấy kính nể, vì những ưu trầm của Đạo đã thể hiện lên khuôn mặt cũng như một vị tu hành đã thành chánh quả. Không khắc khổ, cau có, không giận bùng, không buồn bã. Chỉ cất tiếng Sư Tử Hống để áp đảo địch thủ, chứ không nổi giận gào thét bất thường. Chỉ ra tay vũ bão để giảm nhẹ đau thương, chứ không biểu diễn, dậm dọa người cô thế. Võ học cao quý như thế nên võ học chính thống càng ngày càng thịnh. Những thế võ quái đản, hại người, hại thân như của Nhạc Bất Quần, Đông Phương Bất Bại như trong chuyện Chưởng thì tự nhiên dần dần tàn lụi.


Để két luận, tôi muốn mượn lời của Võ Sư Hoàng Ngọc Diệp nói về võ học: thế kỷ hiện nay là thế kỷ của bạo lực, nhất là bạo lực súng đạn. Nếu chúng ta chỉ chú trọng học về võ thuật mà không học về võ đạo, thì chỉ làm tăng thêm sức mạnh của bạo lực và như thế sẽ khiến cho xã hội bất an hơn, thay vì giúp đời và giúp người như mong muốn của các bậc tổ sư, những vị đã phát minh ra võ đạo.

Chu Tất Tiến

Võ thuật & Đạo làm người
Võ thuật không chỉ là môn học về kỹ thuật luyện tập chiến đấu, không chỉ là một môn nghệ thuật mà còn là môn khoa học nữa. Bởi vì hình thức của nó được xây dựng từ các lý thuyết căn bản của khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh học đồng thời nội dung của nó chứa đựng lý thuyết của khoa học xã hội như triết học, nhân văn….. Tính triết lý và nhân văn đó chính là nét để khu biệt võ thuật với các môn thể thao khác. Bởi lẽ người ta chỉ gọi là Nhu đạo (Judo), Không thủ đạo (Karate), Hiệp khí đạo (Aikido), Thái cực đạo (Teakowndo) chứ không ai gọi là bóng đá đạo, cầu lông đạo hay quần vợt đạo bao giờ cả. Chữ “Đạo” trong võ được xã hội hóa và ăn sâu trong máu thịt các dân tộc có nền võ học lâu đời như Nhật bản, Trung quốc, Triều tiên, Việt nam …… Như vậy, võ học được hình thành từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức, tất cả mọi chuyển động cơ học của các kỹ thuật tay chân đều ngầm chứa nội dung mang tính đạo lý và nhân bản sâu sắc. Suy cho cùng, trong sâu xa võ có hai phần: thuật và đạo. Thuật chỉ đủ để giúp người ta biết võ. Còn đạo mới đưa người ta đến tận cùng của cái biết võ mà hành võ. Đạo chính là đẳng cấp cao nhất mà người tập võ chân chính phải phấn đấu đạt đến.
Tiếng “Đạo“ của người phương Đông – nơi nhu cầu và tài nghệ con người được nghệ thuật hóa và triết học hóa tới cao độ. Quả thật, chưa có một từ ngữ tương đương nào của người phương Tây có thể dịch thoát, vì đạo ngoài ý nghĩa là “con đường“, là “thông lộ” còn bao hàm cả ý nghĩa về tôn giáo, luân lý và nghệ thuật. Ví dụ : Uống trà là nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và những ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, giúp ích xã hội thì đó là Trà Đạo. Ngắm nghía và thưởng ngoạn hoa là thú vui thông thường trong cuộc sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn như 1 nghệ thuật và nâng cao nữa về đạo lý giúp ích cho cuộc sống thì là Hoa đạo… vv…..
Khác võ thuật Trung Hoa cũng như Việt Nam nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ thuật Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào mọi sinh hoạt chính trị để hình thành một giai cấp trong xã hội Nhật Bản đó chính là tầng lớp Samourai (Võ Sĩ Đạo). Người Võ Sĩ Đạo được huấn luyện ngay từ nhỏ những kỹ thuật chiến đấu tay không và vũ khí rất lành nghề và quan trọng nhất vẫn là rèn luyện tinh thần Nhật Võ Đạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng. Tinh thần đó tạo nên nét đặc trưng của người Võ Sĩ Đạo, bao gồm 5 đức tính tính chính (sự ngay thẳng, đức can đãm, lòng nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm) và 3 đức tính phụ (đức vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc).
Xưa nay các môn võ phương Đông dù khác nhau ở chiêu thức, nhưng đều có điểm giống nhau ở môn qui: không phản môn, phản thầy; không khoe tài, không ỷ lực hiếp người; không háo sắc, loạn dâm; không thắng vui, thua buồn… Tuy nhiên, người Nhật Bản có điểm khác biệt cơ bản các dân tộc ở quốc gia châu Á khác như Việt Nam, Trung Quốc và nhất là tại các nước Tây phương, chính ở chỗ quan niệm về học võ của họ. Người Nhật Bản đến võ đường với mục đích cao quí là học tập và rèn luyện cái “Đạo” trong võ học, còn đòn thế và cách thi triển chỉ là thứ yếu. Trong khi ở Việt Nam người ta đi học võ với mục đích rất “tầm thường” và thiên về mục đích cá nhân. Họ đi học võ để tự vệ, học để giữ gìn sức khỏe bản thân, rèn luyện để chữa bệnh, để làm việc nghĩa hiệp bênh vực kẻ yếu, có khi chỉ vì bạn bè rủ rê cho vui ……“Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ, võ như lực sĩ. Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh, võ để luyện thần “
Người ta thường nói “võ nghệ “ hay “võ thuật” với hàm ý trong võ có nghệ thuật hay võ là một nghệ thuật đặc biệt nhằm chiến thắng hoặc chinh phục một đối thủ nào đó . Nhưng, người ta còn gọi là “võ đạo” , đó là một sự tôn xưng một khi võ thuật đã đạt được cái vi diệu, cái lẽ tối thượng của nó. Khi đó nó đã tự phát lộ được khả năng soi sáng, khả năng giác ngộ, để con người không chỉ vượt thắng đối thủ, vượt thắng ngoại giới, mà cái chính là “vượt thắng chính mình”, tự hoàn thiện nhân cách, tự soi sáng tâm linh mình qua một quá trình rèn luyện gian khổ, qua hành trên con đường chông gai để đạt tới đạo .Đạo ấy của võ cũng giống như đạo Thiền, là quá trình tự khai sáng. Tổ sư Phật giáo thiền tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) tương truyền vừa là người khai sáng đạo thiền vừa là người khai sáng môn võ Thiếu Lâm. Hành trình khai sáng ấy trải qua suốt 9 năm trời ông “diện bích” – quay mặt vào vách đá trong hang động trên đỉnh núi Tung Sơn để Tham Thiền nhập định, lấy cái tĩnh mở thông cho cái động, lấy sự tịnh tâm làm đích cho mọi hoạt động của mình sau này, dù đó là hoạt động tôn giáo hay võ thuật.
Có ai bước vào nghề võ mà không vài lần nghe thầy dạy bảo: “Khi mới học võ, tôi chỉ có mong muốn là nắm được đòn thế cao siêu. Lên được đai đen, đai đỏ, tôi lại muốn mình phải thật giỏi để đánh thắng người khác. Nhưng bây giờ, mục đích lớn nhất của tôi chính là phải chiến thắng chính bản thân mình”. Trên các bức tường của võ đường hay treo đại tự “Nhẫn”. Bởi chính đó là nền tảng hun đúc nên tinh thần thượng võ. Chuyện võ kể rằng: Có một đại cung thủ đã đạt đến mức độ thượng thừa có thể “bách bộ xuyên dương”, đi trăm bước ngoảnh đầu lại bắn trúng lá liễu. Cả đời cung thủ này chỉ có một tâm nguyện duy nhất là tìm người để được thua. Ngày kia, theo lời chỉ dẫn của giới võ lâm, anh quyết lên ngọn Hoa sơn thi thố tài năng với một đại sư lừng danh đã ẩn tu. Vị đại sư đồng ý cùng anh leo lên một mỏm đá cheo leo cao nhất. Giữa cuồng phong gào rít, cung thủ chỉ đứng không đã muốn té, nói gì giương cung, lắp tên thi bắn đại bàng. Cuối cùng anh chịu thua và chuyển cung cho vị đại sư trổ tài. Thật bất ngờ, đại sư lại vứt cung xuống vực rồi bình thản nói: “Tôi đã bỏ tiền ra mua được một con đại bàng thật đẹp, thì khổ chi phải leo lên tận đây chịu nguy hiểm để bắn nữa…”. Như tuyết rơi giữa mùa hè. Như tia chớp lóe sáng ngay buổi bình minh. Đầu óc cuồng mê bất bại của cung thủ ngỡ ngàng đại ngộ! Anh lặng lẽ xuống núi, bẻ cung, ngồi thiền và viết ra dòng chữ “Dụng ý bất dụng lực”.
Như vậy thì con đường cũa võ khá gần gũi và thân mật với con đường của người làm nghệ thuật, nó đều khởi từ tâm và qua một quá trình vận động lại trở về tâm, theo một đường xoáy trôn ốc nào đó. Có lẽ người điển hình cho sự hợp nhất hòa đồng giữa Đạo, Võ và Thơ là Lý Bạch. Là một thi hào bậc nhất , luôn đứng ở Top Ten các thi sĩ mọi thời đại, Lý Bạch cũng là một kiếm sỹ lừng danh , một đạo sỹ bí ẩn của Trung quốc.
Và cũng để nói rằng, ở đời tự vượt thắng mình là con đường gian khó biết bao, và con đường ấy dẫn tới “hòa nhi bất đồmg” – hòa mà không đồng – là dẫn tới những cá tính nghệ thuật của nghệ sỹ, dù là kiếm sỹ hay thi sĩ. Hòa với người, hòa với Đại Ngã, nhưng “bất đồng”– vẫn là mình như một cá tính sáng tạo, một cái gì không lặp lại, như những đường kiếm biến ảo, dù nó vẫn theo lực hướng tâm. Ngày nay, nhiều môn võ được đưa ra thi đấu quốc tế tranh thắng thua. Mặt tích cực của nó là giúp người luyện võ tinh thần phấn đấu, rèn luyện sức khỏe, võ thuật. Nhưng nếu chỉ chú tâm vào chiến tích thấy được, e dễ rơi vào cuồng vọng thắng người mà quên mất phải tự thắng chính mình, sự chiến thắng thượng thừa nhất của người luyện võ.
Dạy võ là dạy đạo làm người
Người có võ rất coi trọng lễ và giữ lễ. Trong thời đại giao lưu, hội nhập; khi các mối quan hệ xã hội trở nên mong manh, các giá trị truyền thống dễ bị lung lay, biến dạng, cả hoà tan; xem ra chỉ có võ là còn giữ truyền thống “tôn sư trọng đạo”, là còn trọng lễ và giữ lễ.
Với con nhà võ, nơi tập võ không phải là Câu Lạc Bộ như nhiều người nghĩ, mà là một Võ đường, Đạo đường; người Nhật gọi là Dojo (Jo là nơi, Do là đạo đức. Dojo là nơi trui rèn đạo đức).

“Học lễ” là nội dung được thực hành liên tục, kiên định, nhất quán trong suốt quá trình dạy võ và học võ. Ngày đầu tiên đi học võ, người học phải trải qua thủ tục “Bái sư nhập môn”. Tuy không rườm rà như ngày trước, nhưng phép tắc thì phải duy trì: người học thắp cây hương trên bàn thờ Tổ, được gặp mặt Thầy, được giới thiệu với vị Huấn luyện viên trực tiếp huấn luyện, đặc biệt được hướng dẫn để biết phép tắc và những qui định của Võ đường… Bởi vì nơi tập là một Đạo đường, nên mỗi lần vào ra, người học phải cúi chào. Bất cứ lúc nào gặp thầy, bạn, huynh đệ, đều phải cúi chào. Bắt đầu và kết thúc một buổi tập, môn sinh phải chào Tổ, chào Thầy. Bắt đầu và kết thúc một trận đấu tập, hai đối thủ phải cúi chào nhau. Bắt đầu và kết thúc một bài quyền bao giờ cũng là cái chào. Bài tập đầu tiên trong cuộc đời học võ là bài chào. Trong Võ đường, và qua các kỳ kiểm tra, người học võ được đánh giá dựa trên hai tiêu chuẩn: thành tựu công phu và phẩm chất đạo đức, được thể hiện qua cung cách quan hệ, ứng xử với mọi người… Với những ai hiểu, thì đó không chỉ là hình thức mà còn bao hàm cả nội dung. Với những người học còn nhỏ tuổi, chưa kịp hiểu, thì cứ kiên trì thực hành lễ, một ngày kia tất sẽ ngộ ra ý nghĩa bên sau mỗi cái chào.
Người học võ chân chính không coi cái chào là lễ, mà là hình thức của lễ, cách thể hiện lễ. Cái chào ngầm chứa nội dung vô cùng quan trọng, vốn là kim chỉ nam của người học võ, đó là cái đạo của võ và đạo đức của người học võ, gọi chung là Võ đạo. Cái chào chỉ như bóng điện, Võ đạo mới là dòng điện. Không có dòng điện, bóng điện không thể toả sáng; không có tinh thần Võ đạo, cái chào chỉ còn là động tác gật đầu.
Cũng như quá trình tích tụ năng lượng để thắp sáng bóng đèn, quá trình học võ là quá trình tu dưỡng phẩm chất, đạo đức làm nền tảng cho hành vi ứng xử trong các mối quan hệ xã hội. Tuỳ theo từng mối quan hệ xã hội mà hành vi ứng xử khác nhau. Ví dụ, đối với cha mẹ khác đối với thầy, với bạn; đối với người thân, khác với kẻ sơ; với ân nhân khác với kẻ thù; cung cách đi dự đám cưới khác với dự đám ma… Nhưng dù sắc thái có khác nhau thế nào, thì tất cả đều được hình thành trên một nguyên tắc chung. Nói cách khác, nội dung ứng xử thì tuỳ từng mối quan hệ; nhưng nguyên tắc ứng xử thì chung nhất.
Người đời thường coi trọng hình thức của lễ, nội dung của lễ, nhưng con nhà võ còn coi trọng nền tảng, nguyên tắc của lễ.
Nguyên tắc đó là:
Nhân ái và tôn trọng
Nói tôn trọng là tôn trọng quyền tồn tại, quyền sống, quyền làm người, quyền làm người không giống ai. Trong đời sống xã hội, vị trí mỗi người tuy chẳng giống nhau, nhưng nhân cách làm người thì không khác nhau – ai cũng sinh ra và lớn lên bằng trái tim của mẹ; ai cũng bình đẳng trước thượng đế và trước cái chết. Có tinh thần tôn trọng, người tập võ không hạ mình trước bất cứ ai, không phân biệt ai hơn ai; không tâng bốc người trên, không miệt thị người dưới. Tôn trọng con người, tôn trọng mình, tôn trọng đối thủ, đó là một trong những phẩm chất hàng đầu của người học võ.
Nhân ái là mục đích cuối cùng của người học võ, nó giúp định hướng hành vi của người học võ. Dù nghĩ gì, làm gì, nói gì, xử sự thế nào, tất cả đều phải nhằm mục đích làm sao cho con người tốt hơn, cho mình tốt hơn, cho đời đẹp hơn. Nếu không vì lòng nhân ái, hành động của người học võ không khác chi hành động của tên cướp, nhưng nếu vì lòng nhân ái, hành động của anh ta sẽ là hành động anh hùng – “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” (Nguyễn Trãi).
Khiêm tốn và nhún nhường
Thói kiêu căng tự mãn là kẻ thù lớn nhất của người học võ. Sự hiểu biết không bao giờ có giới hạn. Ai không thấy thiếu sẽ không thêm được gì. Ai không biết ẩn mình sẽ không bay cao. Cái thùng đã đầy thì không còn chứa được nữa. Muốn nhảy lên cao thì phải rùn thấp. Muốn vượt qua xà phải biết uốn mình. Với người học võ, đức khiêm tốn không làm cho mình bé lại mà giúp mình có sức mạnh đi xa về trước; không làm cho mình thấp hơn đối thủ mà làm cho đối thủ không cao hơn mình. Đức khiêm tốn còn thể hiện đạo đức của người học võ: yêu người, vì người, “đi trước về sau”, “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của mọi người”.
Niềm tin và bản lĩnh
Ở đời, không ai có tất cả, không ai không có tất cả. Con gà trống gáy một tiếng, cả làng thức dậy, nhưng không đẻ được trứng; con gà mái đẻ được trứng, nhưng không làm kinh động được ai. Ông nông dân lấy vợ, sinh con, lao động cực nhọc nuôi sống gia đình, nhưng không làm được nhạc. Ông nhạc sĩ tài danh sáng tác cả pho nhạc hay làm rung động trái tim bao thế hệ, nhưng không có vợ con, không cuốc nổi một luống đất. Thật vô lý nếu ông nông dân nọ mặc cảm vì không sáng tác được nhạc; hoặc ông nhạc sĩ kia đau buồn vì không làm tròn thiên chức lấy vợ, sinh con. Cho nên, học võ là học để biết mình là ai, biết cách hun đúc mình, hoàn thiện mình, có niềm tin và tự hào về mình. Mất niềm tin là tự đánh mất vũ khí của mình. Niềm tin, đối với người trí thức, đó là sức mạnh nội tâm; đối với bậc thiền sư, đó là tinh thần vô uý; đối với người học võ, đó là dũng khí của người chiến sĩ. Mất niềm tin, con người hoặc rơi vào tự ti, trầm cảm; hoặc trở nên hung hăng, gây hấn. Chỉ có bản lĩnh, có niềm tin, người học võ mới có sức mạnh để thể hiện cái đức nhân ái, khiêm tốn, nhún nhường, và tôn trọng người khác.
Nhân ái và tôn trọng, khiêm tốn và nhún nhường, bản lĩnh và niềm tin, đó không chỉ là nền tảng của mọi hành vi ứng xử, mà còn là nền tảng của tinh thần Hoà Hợp. Mục đích tối thượng của người học võ là thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người với tinh thần: cộng tác, cộng đồng, cộng hưởng, cùng hưởng… trong xã hội; thái hoà trong gia đình, và an lạc trong bản thân. Đây là điểm thanh niên chúng ta đang thiếu, thậm chí thiếu trầm trọng. Thanh niên chúng ta thiếu cái thuận mà thừa cái nghịch, thiếu cái hoà mà thừa cái bất hoà, thiếu đoàn kết mà thừa chia rẽ. Tôi từng nghe nói: “Một người Việt Nam và một người Nhật, thì người Nhật không bằng người Việt Nam. Ba người Việt Nam và ba người Nhật, thì ba người Việt Nam không bằng ba người Nhật”. Ấy là cách khẳng định thói xấu bất hợp tác, mất đoàn kết của người mình đó thôi. Vì sao ư? Có chi đâu, là vì chúng ta thiếu cái đức tôn trọng, yêu thương, khiêm tốn, bản lãnh và một sức mạnh nội tâm. Ở đời, phàm kẻ nào không có sức mạnh nội tâm, không có bản lĩnh, kẻ đó sẽ không nói được tiếng xin lỗi, xin cám ơn, xin vui lòng, xin nhận trách nhiệm… Và chắc chắn kẻ đó không thể thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp với mọi người.
Tất nhiên, ở trường học và trong gia đình, ai cũng mong muốn dạy con em mình biết lễ phép, biết cách ăn ở, cách đối nhân xử thế. Nhiều trường học nêu cả khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở cổng trường và trong các lớp học. Nhưng xem ra, chỉ có võ là dạy cái lễ cho người học hiệu quả nhất. Nói vậy là vì, chỉ có võ mới có chương trình học vừa cả võ vừa cả lễ; nội dung kiểm tra lên đai đẳng cũng bao gồm cả lễ và võ. Ngoài ra, việc thực hiện chương trình “học lễ” xuyên suốt, nhất quán, và triệt để. Đặc biệt, võ coi trọng đào luyện cái gốc song song với cái ngọn, nội dung song song với hình thức, nền tảng song song với biểu hiện – coi trọng việc giáo dục cho người học tinh thần nhân ái, tôn trọng con người, khiêm tốn, niềm tin, và bản lĩnh, song song với việc dạy cho các em cách đối nhân xử thế, cách quan hệ ứng xử cho phải phép, phải đạo với mọi người.
Tiếc rằng, hiện nay nhiều người hiểu không đúng về võ. Họ cho võ là đánh nhau, là vai u thịt bắp, là mặt rổ mặt rạch… Họ không hề hiểu võ là một hình thái nghệ thuật, là công cụ giáo dục đạo làm người; học võ là học đạo làm người. Thêm vào đó, cũng vì có nhiều người dạy võ chỉ dừng lại ở mức “võ thuật” mà chưa đạt tới được mức “võ lý” và “võ đạo” – chỉ dạy cho người học cách đánh mà không dạy cho họ đánh ai, đánh thế nào, bảo vệ ai, bảo vệ cái gì… Đã thế, trong xu thế thị trường hoá, thương mại hoá, thể thao hoá, võ bị xếp ngang hàng với các môn thể thao khác. Người ta chạy theo thành tích, huy chương mà quên mất sứ mệnh giáo dục; chạy theo hư danh mà quên đi thực chất. Tất nhiên, võ cũng là một môn thể thao, nhưng không phải đơn thuần chỉ là một môn thể thao. Võ là môn thể thao truyền thống. Nó vừa phải làm nhiệm vụ đào tạo những vận động viên xuất sắc cho thể thao nước nhà, vừa phải hoàn thành sứ mệnh dạy cho người học sức khoẻ, phẩm chất đạo đức, đối nhân xử thế.
Hẳn chúng ta đều biết, “Tinh thần Nhật Bản”, “Sức mạnh Nhật Bản” được hun đúc bởi ba dòng sữa: Thần đạo Shinto, Phật giáo Thiền tông, và Tinh thần Võ đạo. Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, võ là một trong hai dòng suối tạo nên Sức mạnh Việt Nam – “Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững. Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng. Rất hiên ngang mà nhân ái chan hoà” (Huy Cận). Từ Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn… các bậc khai quốc, công thần đều xuất thân từ con nhà võ. Nhiều trong các triều đại ấy đều có trường dạy võ, chương trình học võ, và các kỳ thi võ (Tú tài, Cử nhân, Tiến sĩ). Rõ ràng, cùng với văn, võ đã góp phần hun đúc nguyên khí quốc gia, sức mạnh dân tộc; góp phần đào luyện con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có sức mạnh, niềm tin, và khí phách; được thử lửa qua suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Ngày nay, đất nước ta hoà bình, thống nhất, thịnh vượng. Chúng ta có nhiều bạn bè, nhiều đối tác khắp năm châu. Chúng ta đang hân hoan vươn ra biển lớn. Nhưng nhìn lại, xem ra dòng suối võ ngày nào không còn chảy nữa! Không biết nó tắt từ thời nào? Vì sao tắt? Có cần khơi thông không? Làm thế nào khơi thông trở lại để võ tiếp tục góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước? Rất cần các công trình nghiên cứu nghiêm túc, các hội nghị khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề ấy.
Thiết nghĩ, dù đứng trước kẻ thù hay đứng trước đối tác làm ăn, mỗi dân tộc, mỗi con người đều phải cần có sức mạnh, niềm tin, và khí phách. Thiếu sức mạnh, niềm tin, và khí phách, thì không thể đánh thắng ngoại xâm; thiếu sức mạnh, niềm tin, và khí phách, cũng không thể làm ăn sòng phẳng với người. Võ đạo của võ cổ truyền Bình Định
Võ đạo
là cái đạo của người học võ, cái đạo của con người sống trong trời, đất, được thể hiện một cách sinh động qua bản sắc văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán, điều kiện kinh tế-xã hội và cốt cách con nhà võ, cùng với quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu tâm, dưỡng tính gắn với các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng ngay từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt lìa đời.
Hơn thế nữa, võ đạo trong võ cổ truyền Bình Định được hun đúc qua bao đời và trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc, được thể hiện khá rõ nét, cụ thể:

1. Truyền thống thượng võ, chống ngoại xâm
Mỗi con người chúng ta đều gắn liền với quê hương, xứ sở, luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, xứ sở mình, và đều mang trong mình dòng máu của cha ông, của dân tộc.
Mỗi khi đất nước có họa ngoại xâm, thì mọi người già trẻ trai gái đều hăng hái tập luyện võ nghệ, sử dụng các loại binh khí, các miếng võ bí truyền và ai có súng dùng súng, ai không có súng thì gươm, giáo, mác, gậy, gộc, đồng lòng chung sức nhất tề đánh đuổi quân thù và sẵn sàng chiến đấu, hy sinh đến hơi thở cuối cùng, nhưng khi quân thù bại trận thì dân ta rất mực khoan hồng, độ lượng, hành sự đúng mực trượng phu.
Truyền thống đó được hun đúc qua 4000 năm lịch sử đấu tranh oanh liệt, chống ngoại xâm, chống bất công, áp bức, cường quyền, cùng nhau chung lưng đấu cật, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết xây dựng cuộc sống và bảo tồn giống nòi Lạc Việt.
Từ đó, cho dù ở phương trời nào, chúng ta cũng nhớ về cội nguồn, tổ tiên, luôn tự hào về các bậc tiền nhân đã dày công dựng nước, giữ nước, đánh đuổi quân thù, thu phục giang sơn về một mối, trong đó có các võ quan, võ tướng, các võ sư, võ sĩ đã không tiếc máu xương vun đắp nên truyền thống võ hào hùng của dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn.
2. Truyền thống uống nước nhớ nguồn
Dân tộc ta có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Nhắc lại chuyện xưa: khi Nguyển Ánh lên ngôi, đã hủy diệt toàn bộ thành quả của nhà Tây Sơn, trong đó có sự nghiệp võ học lẫy lừng của nhà Tây Sơn, nhưng người dân Bình Định, nhất là các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhân sĩ, trí thức, các võ sư, võ sĩ, đã một lòng một dạ trung thành với những di sản và tinh hoa võ học chân truyền của nhà Tây Sơn, vẫn tôn thờ vị hoàng đế Quang Trung. Nhiều người khi được dụ hàng để được hưởng ân sủng, chức tước, bổng lộc của nhà Nguyễn, đều từ chối và quyết tâm chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng, lưu lại tiếng thơm cho muôn đời sau.
Nhiều nhà thi đỗ tiến sĩ, cử nhân võ nhưng không ra làm quan mà vẫn trung thành với “chủ cũ” đã tìm mọi cách để tập hợp tư liệu, biên soạn lại sách, giáo trình, các bài thiệu, các bài thuốc võ, bí mật truyền bá, lưu truyền cho các thế hệ mai sau, khỏi mất gốc, nhờ vậy, mà võ cổ truyền Bình Định không bị mai một, bế tắc mà còn ăn sâu bén rễ và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống văn hóa của nhân dân Bình Định.
Người Bình Định, từ người có võ công cao cường, đến người hiểu biết võ nghệ chút ít đều luôn một lòng tôn kính giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng võ cổ truyền Bình Định, ra sức truyền bá và bảo tồn võ đạo, võ lý, võ y, võ thuật, võ nhạc và những tinh hoa độc đáo của tổ tiên, tiếp tục truyền lại cho các thế hệ mai sau.
3. Truyền thống võ sĩ đạo và trọng nhân nghĩa
Đây là truyền thống cực kỳ quý báu đã ăn sâu vào máu thịt của người Việt Nam, trong đó có người dân “đất võ”. Trong lĩnh vực võ học, người học võ trước tiên phải là người có bản lĩnh, luôn lấy tâm đạo để chế ngự tà đạo, phải có cốt cách diện mạo của con nhà võ. “Tâm đạo” là nói đến tu luyện tư duy đạo đức làm người, sống phải cao thượng, trung với nước, hiếu với dân. Trung thực với môn phái, truyền dạy những điều hay, việc nghĩa. Một võ sĩ chân chính là một công dân tốt. Còn “Tà đạo” là sự đam mê tửu sắc, dâm ô trụy lạc, rượu chè say sưa, gây lộn đánh người, phá rối xã hội, bất chấp kỷ cương phép nước. Đây là những điều cấm kỵ đối với môn sinh học võ cổ truyền Bình Định. Ngoài ra, người võ sĩ đạo còn phải được truyền thụ thuần thục về tâm pháp và thực hiện nghiêm túc những điều cần làm và cấm làm:
- Phải giữ gìn bản thân luôn trong sáng, thuần khiết.
- Phải chuyên cần tập luyện võ công suốt đời và trung thành với môn phái.
- Phải phát huy và truyền dạy võ công của môn phái theo “chính đạo”.
- Không phản thầy, hại bạn, hà hiếp người khác.
- Không khoe mình, chê người.
- Không có tư tưởng thắng thì làm “vua”, thua thì làm “giặc”.
Khi thâu nhận võ sinh, người thầy bao giờ cũng chú trọng tướng diện, cử chỉ, lời nói, cung cách xử sự, nhân thân, lai lịch của người học trò để truyền dạy hay từ chối không truyền dạy, hoặc chỉ truyền dạy một ít thảo thức thông thường (ngay cả người thân trong dòng họ cũng vậy). Sau khi được thử thách để tuyển chọn, môn sinh phải lễ cúng tổ và được thử thách về sức chịu đựng, sự kiên trì, gan dạ, về đạo đức, tư cách, về sự trung thành với môn phái, tuân thủ môn quy, đặc biệt là sự tôn sư trọng đạo. Lễ cúng tổ được tổ chức trang nghiêm và theo nghi thức võ cổ truyền Bình Định, người thầy đứng lên đọc văn tế ông Tổ nghề võ. Sau khi cúng Tổ, đệ tử làm lễ khởi động tay chân…
Người xưa thường nói: “Đệ tử tầm Sư dị, Sư tầm đệ tử nan” – người muốn học võ, nghe thầy giỏi tìm đến không khó; thầy muốn truyền dạy võ thuật cho đệ tử không phải dễ, bởi lẽ thầy phải “chọn mặt gửi vàng”, phải chọn người có đạo đức trong sáng, hành động đúng mực trượng phu.
Mỗi bài tập đều có phần “lễ Tổ” và “bái Tổ”. Bái Tổ chính là thể hiện sự tôn kính tổ tiên, môn phái, kính thầy, yêu quý đồng môn. Những người giỏi võ cuộc sống thường rất bình dị, tài võ nghệ chỉ tiềm ẩn bên trong con người giàu lòng vị tha, khiêm tốn, ít khi lộ diện ra bên ngoài. Ngoài ra, họ còn có các đức tính như: Tín-Nghĩa-Hiệp-Dũng, đây chính là tinh thần và mục đích của người võ sĩ đạo chân chính. Chữ “Tín” ở đây muốn nói lên từ cái tâm của con nhà võ, lời nói phải đi đôi với hành động, không đem võ ra “bán” theo dạng võ Sơn Đông. Không hại người, không ỷ mạnh hiếp yếu, luôn bảo tồn võ đạo, uy tín môn đồ, mọi việc đều xử sự một cách trong sáng, chính nghĩa, không làm điều phi nghĩa, thất nhân, thất đức – đó là “nghĩa”. Còn “hiệp”, “dũng” là những đức tính không thể thiếu được của con nhà võ, luôn sẵn sàng diệt gian, trừ ác, thấy sự bất bình không khoanh tay đứng nhìn.
Hay nói cách khác, ở Bình Định, học võ là để giữ thân, giữ nhà, cứu người, giúp đời khi cần thiết, người có võ công càng cao thì đức tính lại càng khiêm nhường, thường sống ẩn dật, không phô trương, kiêu ngạo, không đánh người “dưới ngựa” hoặc truy thù đến cùng, nhưng một khi đã ra đòn thì phải hạ thủ.
Nói tóm lại, võ đạo chính là đạo đức trong sáng, đức tính cao cả, tâm hồn hỷ xả của con người có võ, người có võ mà thiếu đạo đức thì sẽ trở thành một tai họa không thể lường hết được và sự nguy hại không những cho bản thân, gia đình mà cho cả xã hội nữa.
Chính vì vậy mà võ cổ truyền Bình Định luôn đặt vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc giáo dục, truyền thụ võ đạo lên hàng đầu trong toàn bộ sự nghiệp chấn hưng nền võ học chân truyền, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai góp phần hình thành con người mới phát triển toàn diện, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

Mạng xã hội, hệ lụy khôn lường





Cùng với sự phát triển của in-tơ-nét, các mạng xã hội như blog, facebook, youtube, twitter, zingMe, google plus… mới chỉ du nhập vào nước ta khoảng dăm năm nay nhưng đã thu hút hàng chục triệu người dùng. Không thể phủ nhận những tiện ích do loại hình này mang lại, song đây cũng là “con dao hai lưỡi”. Hệ lụy phát sinh từ đây không còn là nguy cơ mà đã trực tiếp đe dọa cuộc sống không ít người, làm bộ mặt của mạng xã hội ngày càng tối tăm, biến dạng…


Cùng với sự phát triển của in-tơ-nét, các mạng xã hội như blog, facebook, youtube, twitter, zingMe, google plus… mới chỉ du nhập vào nước ta khoảng dăm năm nay nhưng đã thu hút hàng chục triệu người dùng. Không thể phủ nhận những tiện ích do loại hình này mang lại, song đây cũng là “con dao hai lưỡi”. Hệ lụy phát sinh từ đây không còn là nguy cơ mà đã trực tiếp đe dọa cuộc sống không ít người, làm bộ mặt của mạng xã hội ngày càng tối tăm, biến dạng…

Tiện ích, sống động, gần gũi…

Mạng xã hội (MXH) không chỉ là nơi giao lưu trực tuyến, mà còn hơn thế, vừa mang lại lợi ích thương mại, vừa là nơi có thể tìm hiểu mọi thứ liên quan mỗi cá nhân (giới tính, tôn giáo, trường học, sở thích, hoạt động, tư duy…) chỉ với vài nhấp chuột. Người dùng thể hiện mình trên MXH với việc chia sẻ hình ảnh và vi-đê-ô, cập nhật thường xuyên hoạt động và suy nghĩ, chia sẻ những gì mình đọc, nghe, thấy, trao đổi những vấn đề chung cũng như riêng tư…
Nhờ hệ thống mở của MXH, người dùng có thể tự do kết bạn với bạn mình, những người mình quen, bạn của bạn mình, thậm chí với cả người không quen biết. Khả năng truyền tin giúp thông tin được cập nhật của một cá nhân lan truyền thành cấp số nhân ở diện hẹp hoặc ở diện rộng cho mọi người trong cộng đồng MXH cùng biết. MXH giúp người dùng giữ liên lạc với bạn bè xuyên thời gian và không gian. Chỉ với smart phone, Ipod, Ipad… có 3G, người dùng lập tức biết bạn bè mình đang làm gì, ở đâu thông qua cập nhật của họ.
Tính chất “ở đây và ngay bây giờ” khiến thông tin MXH hơn hẳn phương tiện truyền thông khác, phần nào đáp ứng nhu cầu chia sẻ và thể hiện của người dùng. Dường như sự trải nghiệm mọi hoạt động, suy nghĩ trong cuộc sống của bạn bè trở nên rất sống động dù trong môi trường rất ảo đã làm cho MXH trở nên gần gũi, nhất là giới trẻ đầy năng động hiện nay.
Hiểm họa khôn lường
Càng trở nên phổ biến, tác động tiêu cực của MXH càng mạnh, xuất phát từ chính các tính năng của nó.
Nhiều nhà khoa học chỉ ra, MXH không chỉ có điểm dở mà còn nhiều điểm rất dở. Không phải ngẫu nhiên, các trang MXH đều quy định người dùng phải từ 13 tuổi trở lên, nhưng thực tế nhiều người dùng trẻ hơn thế.
Nhìn từ góc độ tâm lý, MXH khiến người dùng quá tập trung vào bản thân và thiếu kiểm soát dẫn đến nghiện. Đưa thông tin bản thân lên trang MXH cá nhân, trước hết sẽ là những gì mình cho là hay, đẹp để thể hiện trước người khác, khuyến khích sự hài lòng ngay lập tức về mình. Mặt khác, những bình luận dương tính, nút like của bạn bè càng kích thích sự tự mãn cá nhân. Việc quá tập trung vào bản thân có thể phát triển thành các triệu chứng bệnh tâm lý còn sự quá đà, mất khả năng dừng lại, thiếu kiềm chế, ý chí không đủ mạnh để điều chỉnh hành vi…là yếu tố dẫn đến hành vi có vấn đề của người dùng, trong đó có nghiện MXH.
Truy cập MXH thường xuyên, nhanh chóng chuyển hướng thông tin (thường là ngắn gọn) từ mục nọ sang mục kia, từ người nọ sang người kia tạo thói quen cho người dùng lướt nhanh mà không dừng lại để đánh giá thông tin, chỉ chú ý thông tin giật gân. Một số nghiên cứu cảnh báo, các trang MXH làm rút ngắn thời gian não bộ có thể tập trung, ảnh hưởng đến tiếp thu tri thức, giảm khả năng đọc tài liệu, đặc biệt gây hại cho lớp trẻ – những lao động tri thức tương lai.
Sử dụng MXH, người dùng cắt giảm thời gian giao tiếp với bạn bè trong cuộc sống thực, do đó các kỹ năng xã hội khó hình thành. Họ có thể có hàng trăm, hàng nghìn bạn trên MXH, nhưng trong số ấy, những người có thể gặp mặt, chuyện trò thật sự lại chẳng bao nhiêu. Cũng giống mèo nuôi nhốt trong lồng, dần dần kỹ năng bắt chuột mai một, người dùng không trải nghiệm các giao tiếp thực tế, sẽ mất nhạy cảm trong các mối quan hệ người với người. Cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp mặt đối mặt, thiếu kỹ năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ, khó thích nghi với sự thay đổi xã hội.
Chất lượng các mối quan hệ xã hội ngoài đời thực cũng suy giảm. Bản chất mạng là ảo, rất thiếu những chia sẻ mang tính gắn kết và ý nghĩa lâu dài, sâu sắc, không cần sự thấu hiểu, cảm thông với những biểu cảm thực tế; mọi thứ thường nhanh chóng và dễ dàng trôi qua. Cơ bản là người dùng chấp nhận các mối quan hệ mà không cần hiểu biết lẫn nhau, không cần thể hiện sự quan tâm sâu sắc, chia sẻ tình cảm, giúp đỡ, nâng niu về tinh thần… – những điều làm nên mối quan hệ thật sự có chất lượng vốn phải được xây dựng trên cơ sở các trải nghiệm thực tế, tương tác trực tiếp với nhau, xung đột và giải quyết xung đột. Thiếu nó, dần dần, người dùng trở nên hời hợt hơn trong các mối quan hệ với con người. Thiếu khả năng thấu hiểu và sự dễ dàng trong các quan hệ ảo, khó khăn trong các quan hệ thực khiến họ ngày càng xa lánh xã hội và đời sống cộng đồng.
Nguy hiểm hơn, dữ liệu cá nhân sẽ trở thành thông tin chung chia sẻ cho mọi đối tượng trên MXH, kể cả người lạ, làm mất tính bảo mật, đe dọa sự riêng tư của người dùng. Họ mất đi cảm giác an toàn của cá nhân mình trước mọi người. Không ai hào hứng khi những chuyện vốn rất riêng của mình bị đem ra bàn tán. Bởi cách nhìn nhận hoàn toàn khác nhau giữa các cá nhân, nên bên cạnh các ý kiến mang tính xây dựng cũng không hiếm những “comment” ác ý làm tổn thương nhiều người. Chính vì thế, trang MXH cá nhân hoàn toàn có thể bị lợi dụng với ý đồ xấu, thông tin cập nhật có thể bị bóp méo vô tình hoặc hữu ý.
Hãy là người dùng thông minh Sự hiện diện và phát triển của MXH là khách quan, nhưng tiếp nhận và sử dụng thế nào tùy thuộc chủ quan người dùng. Trình độ nhận thức, nền tảng đạo đức, lối sống, ảnh hưởng của môi trường sống là những nhân tố quan trọng giúp họ hình thành thái độ phù hợp, đúng đắn. Mọi chuyện xấu đều đến từ sự “quá liều”, thiếu kiểm soát; nên điều độ và cân bằng khi sử dụng MXH luôn là lời khuyên hữu ích. Tuy nhiên, đối với giới trẻ, để thực hiện được những lời khuyên này là không dễ, nhất là khi họ ngày càng thiếu nguyên tắc hơn, ưa chuộng tự do hơn trong cuộc sống cá nhân. Sự thờ ơ làm giới trẻ không có điểm dừng, nhưng cấm đoán lại là tác nhân kích thích vượt rào. Thế nên, bên cạnh tự giác của mỗi cá nhân, một thái độ đúng mực, kèm theo hiểu biết nhất định về thế giới công nghệ sẽ giúp cha mẹ và các nhà giáo dục tư vấn, định hướng, hành xử hợp lý hơn cùng với các biện pháp quản lý MXH hữu hiệu ở tầm vĩ mô sẽ là những “liều thuốc” miễn nhiễm với phiền lụy do MXH gây nên.
Sự vô ý, thiếu chín chắn trong suy nghĩ, nhận định, không lường trước hậu quả được thể hiện trong các lời bình hay trong các thông tin được cập nhật, ở các hình ảnh, clip được tải lên MXH có thể làm tăng nguy cơ xung đột trực tuyến giữa người dùng với bạn bè, với các thành viên; dẫn đến xung đột giữa con người với nhau ngoài đời thực. MXH ảo mà thực là như vậy. Những status kỳ lạ, với ngôn ngữ còn vụng về trong cách thể hiện, hình ảnh không được chọn lựa, có thể có những biểu hiện mà người khác nhìn nhận là vô lý, thậm chí có thể đem đến ác cảm cho người đọc.
PGS, TS PHAN THỊ MAI HƯƠNG (VIỆN TÂM LÝ HỌC)

Mạng Xã Hội




Hoang Huu Phuoc, MIB



Nhận được thông điệp trên của Ban Quản Trị LinkedIn, một mạng xã hội của Mỹ dành cho giới doanh nhân toàn cầu đã có từ năm 2003 và hiện nay có hơn 225 triệu người đăng ký sử dụng, thông báo “Chúc Mừng Phước Hữu! Trang tin của Ông trên LinkedIn là một trong số 5% hồ sơ được bạn đọc vào xem nhiều nhất năm 2012. LinkedIn hiện có 200 triệu thành viên. Cảm ơn Ông đã giữ một vai trò đặc sắc trong cộng đồng của chúng ta! ” kèm một bức thư điện tử của Ông Deep Nishar, Phó Chủ Tịch Cấp Cao của LinkedIn, nhân danh cá nhân để cảm ơn tôi vì đã là một thành viên tích cực của cộng đồng, tôi chợt nhớ đến đề mục “mạng xã hội” mà tôi đã bao lần bình luận và tiên tri thấu thị về cái tiền đồ tăm tối của nó qua những bài viết trong đó có vài bài tiêu biểu trên Emotino như:


- Blogging (đăng ngày 01-10-2008)

- Mạng Xã Hội: Ảo Tưởng Hoang Đường (đăng ngày 09-4-2010)

- Sự Cáo Chung Của Facebook (đăng ngày 21-6-2011)

- Mạng Xã Hội Đe Dọa Xã Hội (đăng ngày 19-8-2011)

- Ngày Tàn Của Mạng Xã Hội (đăng ngày 21-8-2011)

Trong khi thiên hạ phấn khích phấn khởi về sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin và của các mạng xã hội, tôi ngay từ thời của Yahoo! 360 đã khẳng định rằng công nghệ thông tin sẽ không bao giờ phát triển được ở Việt Nam dù nó có được quy hoạch làm ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước hay không, và rằng Facebook và những thứ tương cận sẽ bị diệt vong bởi vì chưa gì hết mà bao người – có cả người nước ngoài – đã coi cái mạng xã hội miễn phí ấy (mà tiếng lóng Việt Nam gọi là “của chùa”) là của báu rồi vì cái thứ miễn phí dành cho con nít ấy nheo nhéo mắng mỏ Chính phủ Việt Nam ngăn cản truy cập, đàn áp tự do ngôn luận. Tôi cũng đã viết retort (không phải report) bằng tiếng Anh trên một “mạng xã hội” để mắng một doanh nhân ngoại quốc khi y viết nhăng viết cuội trên “mạng xã hội” về cái gọi là “ngăn cản truy cập” của Chính phủ Việt Nam vì tôi quyết không tha bất kỳ ai dù ở bất kỳ quốc gia nào và thuộc giống dân nào nếu kẻ đó dám phát huy cái “tự do ngôn luận” để láo xược xúc xiểm Việt Nam.

Trong khi chờ đợi truy xuất các bài viết của tôi theo từng chủ đề trong suốt thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đến nay để đăng lại trên các blog cá nhân tôi vừa xây dựng, tôi muốn chia sẻ cùng những vị khách ghé uống nước tại Thùng Nước Đá các thông tin, ý kiến và nhận định sau:

1) Từ lâu tôi đã không tiếp tục dùng Facebook (và những mạng xã hội khác tôi từng có account như MySpace, v.v.) vì tôi là người khó tính, không bao giờ muốn gắn kết với bất kỳ cộng đồng mạng nào hỗn tạp pha trộn chung đụng với mọi hạng người như Facebook. Nhiều người đã muốn liên kết với tôi trên Facebook (tính đến 27-7-2013 đang có 151 yêu cầu) và nhiều năm nay vẫn nhắc nhở tôi đáp ứng yêu cầu kết nối của họ, nhưng tôi buộc phải im lặng, không phản hồi, đơn giản vì nếu tôi trả lời họ và cho biết lý do vì sao tôi nhún vai đối với Facebook thì sợ làm buồn lòng họ chăng.



2) Hiện tôi vẫn duy trì sinh hoạt trên một số mạng xã hội “đẳng cấp cao” như LinkedIn (mạng xã hội của Mỹ dành cho doanh giới toàn cầu như đã kể trên) và Anphabe (mạng xã hội của Việt Nam dành cho doanh giới tại Việt Nam).



3) Điểm đặc biệt là tại các mạng xã hội tôi tham gia, tôi đều nêu rõ chính kiến của mình chẳng hạn:



Thí dụ tại hai trong số những mạng xã hội tôi tham gia như trong ảnh trên, tôi đã nêu rõ: về Quan điểm về tôn giáo, tôi “OK” với bất kỳ tôn giáo nào không can dự vào bất kỳ hành vi hành động nào chống lại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; cũng như về Quan điểm chính trị thì tôi theo Chủ nghĩa cộng sản dân tộc với khuynh hướng trọng Khổng (Nationalist Confucianist Communism).

Còn trong Lời khuyên cho ai muốn liên hệ với Phước Hữu trên một mạng xã hội khác tôi tham gia như trong ảnh dưới đây, tôi đã nêu rõ: Tôi là nhà chuyên nghiệp chân chính; do đó, tất cả các ý kiến hoặc tài liệu nào có nội dung chống Cộng, chống Việt Nam, và/hoặc bài xích tôn giáo sẽ không bao giờ được chào đón, nghĩa là đừng bao giờ gởi đến tôi những ý kiến hoặc các tài liệu nào có nội dung chống Cộng, chống Việt Nam, và/hoặc bài xích tôn giáo, vì tôi sẽ xóa ngay chứ không bao giờ đọc những gì tôi xếp vào loại có giá trị không cao.



4) Tại các mạng xã hội tôi còn tham gia, tôi sử dụng chúng không như những “diễn đàn” vì tôi đã có các “thùng nước đá” riêng, mà như nơi để tôi (a) giúp ý kiến tư vấn miễn phí cho các doanh nhân trong cộng đồng, (b) đáp lại các lời mời liên kết với tôi của các doanh nhân trong và ngoài nước, (c) gặp lại học trò và người thân cũ, và (d) đánh đổ tất cả những lập luận chống lại chính phủ, chính sách, chính đạo, và thể chế chính trị của Việt Nam. Chẳng hạn để phản bác mạnh mẽ ý kiến một người nheo nhéo nói Facebook bị chính phủ Việt Nam ngăn chặn đường truy cập, tôi đã viết dồn dập tràn ngập tổng lực bằng tiếng Anh như sau mà tất cả các doanh nhân nước ngoài trong cộng đồng sau đó không bao giờ có thể viết chỏi lại được, đơn giản vì họ không bao giờ có thể viết tranh luận sâu sắc bằng tiếng Anh và không bao giờ có thể viết đủ dài bằng tiếng Anh dù họ là dân Anh hay dân Mỹ, và dù để ủng hộ kẻ ủng hộ Facebook hay kẻ chống Facebook (như lời của ông Steven Roelandts: “bạn nói thế về việc chính phủ Việt Nam ngăn chặn Facebook chứ tôi thấy vô Google mới hay gặp trục trặc”), đơn giản vì chỉ có kẻ thất học mới chống Việt Nam nên cách chi mà có đủ sức viết lách gì được cho ra hồn, và đơn giản vì đã là doanh nhân thì rất yếu trong biện luận ngôn ngữ hàn lâm:



Gần đây nhất, vào tháng 8 này doanh nhân Matthew Collier đã đăng lại bài của Jon Russell có dòng tít ”Việt Nam ra quy định cấm người sử dụng internet được chia sẻ thông tin…”



và tôi đã bảo vệ đất nước bằng lời đanh thép – vẫn với vũ khí cố hữu khiến 100% bọn Âu Mỹ phải chào thua: đó là hùng biện thật dài bằng Anh ngữ – như sau:



Nội dung nghĩa tiếng Việt:

Kẻ viết bài trên dứt khoát là tên vô lại hoặc ngu đần không rõ ý nghĩa thật sự của nguyên bản nghị định, hoặc cố tình chống lại Việt Nam, hoặc dị ứng trầm kha với chủ nghĩa cộng sản. Bộ việc sao y bài viết thuộc bản quyền và chủ quyền của người khác rồi dán vô blog của ai đó để ra vẻ như blog mình chuyên nghiệp lắm, sâu sắc lắm, phong phú thông tin lắm, là việc sạch sẽ, đúng đắn, và đoan chính hay sao? Nếu có kẻ muốn “chia sẻ thông tin” sao không cung cấp đường link để may ra nếu có ai quan tâm thì cứ lựa lúc nhàn cư mà truy cập tự xem lấy?

Vào thời khắc Hoa Kỳ đang muối mặt điếm nhục gia phong với vụ việc PRISM, chính quyền Mỹ đã ra sức dàn dựng vở kịch bịp lừa thế giới với lời la toáng hoang đường về nguy cơ khủng bố chống nhân dân Mỹ dẫn đến việc đóng cửa nhiều văn phòng ngoại giao của Mỹ đó đây trên toàn thế giới, cùng lúc đó rống họng về nhân quyền đó đây trên toàn thế giới, chỉ để người dân đó đây trên toàn thế giới bị bịt mắt trùm đầu trong mớ hỗn độn mù mịt khói mây mà quên phức vụ PRISM..

Nếu ông cho rằng có một bó những luật lệ áp dụng chung cho hết thảy các dân tộc thì ý ông là ông ở cùng một giuộc với cái bọn vô lại viết những thứ vớ vẩn ấy ư. Nếu ông đăng lại bài vớ vẩn ấy là để người đọc nhận ra đó là bài rác rưởi thì ông đích thị là bậc quân tử hiền nhân thông tuệ. Còn nếu ông đăng lại bài ấy vì ông bất tài chả viết được cái quái gì ra hồn, chỉ để khoe mẽ là ông sâu sắc, chuyên nghiệp, và dồi dào thông tin, thì tôi chắc chắn sẽ chứng minh cho ông thấy rằng so với mức độ sâu sắc, chuyên nghiệp, và phong phú thông tin của tôi thì ông chỉ đáng là quân tép riu chiếu dưới.

Chính quyền Mỹ có PRISM (để vi hiến, xâm phạm tự do dân chủ của nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân thế giới). Chính phủ Việt Nam có những quy định rõ ràng để tôn trọng tác quyền, và tôn trọng người dân qua việc khuyên họ cung cấp đường link chứ đừng ăn cắp bài của người khác. Tôi là người Việt Nam. Và thật là thương hại người dân Âu Mỹ bị bịt mắt trùm đầu mà vẫn cứ ngỡ mình thông tuệ có quyền lực tối thượng để sủa nhặng lên về nhân quyền và quyền tự do ngôn luận. Tôi đang sử dụng quyền tự do ngôn luận để gọi tác giả bài viết đó là tên vô lại vất đi trời đánh thánh vật. Liệu ông nghe có lọt lỗ tai không? Vì vậy, đừng bao giờ nói động đến Việt Nam.

Xin cảm ơn ông rất nhiều về lòng tử tế và lịch sự của ông.

Hoàng Hữu Phước



Hoặc để tranh luận, chẳng hạn như khi doanh nhân Áo Quốc tên Rick Yvanovich nêu lên chủ đề ”Những quyết định chậm có thể làm triệt tiêu đà tiến của công ty bạn”, tôi đã góp ý như sau: ”Đúng là những quyết định chậm có thể làm triệt tiêu đà tiến của công ty bạn, nhưng những quyết định chóng vánh có khi lại đẩy công ty bạn đổ nhào qua bờ vực thẳm của hư mất. Tôi cho rằng mọi sự dựa trên 4 khía cạnh của sự đúng đắn, sự thông tuệ, sự chuẩn bị kỹ càng, và sự kịp thời, rồi sau đó là cái mà chúng ta gọi là sự may mắn. Việc kinh doanh nào phải như cuộc thi điền kinh chung chung; nó tùy thuộc vào việc cái cơ hội kinh doanh ấy có thể lớn đến cỡ nào. Chạy đua tốc độ 60 mét rất khác với chạy đường trường cự ly 10.000 mét. Đối với cơ hội kinh doanh lớn, sẽ cần khoản đầu tư khổng lồ, và điều này cần đến một quyết định đúng đắn, khôn ngoan, cẩn trọng, và kịp thời, chứ nào phải là vấn đề của cái sự chậm hay nhanh”






5) Điều đáng tiếc là có nhiều người không thuộc doanh giới vẫn gia nhập để đưa lên bản lý lịch tìm kiếm việc làm, với hy vọng trong cộng đồng doanh nhân ấy sẽ có vị quan tâm tuyển dụng mình. Có nhiều bạn trẻ vừa tốt nghiệp đại học, làm nhân viên kinh doanh của công ty nào đó, đã lẹ làng gia nhập và xin liên kết với các doanh nhân, ắt do muốn tìm kiếm khách hàng để chào bán hàng hóa của công ty mình. Có nhiều người dường như chỉ muốn gia nhập để xin liên kết với mọi doanh nhân ngõ hầu có được số lượng liên kết “khủng”. Và có nhiều người thậm chí đưa “nick name” thay vì tên thật, còn hình ảnh bản thân thì hoặc đưa hình diễu cợt, hình của hài nhi, hình con thú cưng, hoặc chẳng có hình ảnh tự giới thiệu gì cả. Tất cả những cái hoặc vội vàng, hoặc nhí nhố, hoặc vô tâm vô tư trẻ con như thế ắt đã làm doanh nhân nước ngoại ngạc nhiên trước sự “vào lộn sân” và “múa tá lả” của những người kiếm tìm cơ hội việc làm và rao bán hàng chứ không có khả năng sẻ chia kinh nghiệm, kiến thức, ý tưởng kinh doanh, thông tin thương trường, v.v.; vì rằng chỉ có doanh nhân tay mơ mới gia nhập cộng đồng để tìm khách hàng và đối tác, vì những đại gia đều đã có thị trường phát triển riêng cùng những khách hàng riêng hoặc đã biết rõ ai là khách hàng tiềm năng hoặc ai cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp đẳng cấp cao nên sinh hoạt trong cộng đồng tất nhiên nhằm vào mục đích khác của “thượng tầng”. Những thí dụ sau minh họa cho sự thiếu chuyên nghiệp khi dùng hình trái tim, tên doanh nghiệp chứ không phải tên doanh nhân, hoặc không có hình ảnh tự giới thiệu và không có chi tiết bất kỳ về bản thân trong phần “profile” nhưng lại muốn liên kết với những doanh nhân như tôi vốn đã có profile cực kỳ hoàn chỉnh và nghiêm túc y như hàng trăm triệu doanh nhân khác..



Nói tóm lại:

- khi cái gọi là mạng xã hội dù bản thân, xuất thân, tự thân, chỉ là một thứ sân được bao vây kín mít với hàng chục lớp hàng rào kẻm gai điện tử để không ai thoát ra được, để mọi người vào đó rồi tùy theo tính cách cá nhân mà dạo chơi, nghỉ ngơi, nghĩ ngợi, chuyện trò, quậy phá, nhậu nhẹt, bài bạc, hút xách, xả rác, khạc nhổ, phóng uế, v.v., để nhân vật chủ nhân từ bi bác ái có cơ hội vừa thu tiền quảng cáo vừa quay phim chụp hình cung cấp cho CIA và chính phủ Mỹ trong chương trinh PRISM vi hiến vốn đã làm chuyên viên tin học của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương CIA và Cơ Quan An Ninh Quốc Gia NSA Edward Joseph Snowden đào thoát sang Nga tháng 5 vừa qua;

- khi điều đáng tiếc luôn tồn tại ở tất cả mọi ngóc ngách của đời sống con người trên chiếc hành tinh đơn độc này là chỉ có một số cực kỳ ít ỏi hiếm hoi xem internet như nguồn tư liệu để tra cứu mở mang tri thức và kiến thức hàn lâm của tất cả các ngành học nhằm phục vụ nghề nghiệp, phục vụ công ty, phục vụ gia đình, phục vụ xã hội, phục vụ đất nước, phục vụ nhân loại; và

- khi đời sống xã hội xoay vòng như trốt xoáy cuốn hút vào đó bất kỳ ai có đôi tay không đủ mạnh để bấu víu vào một vật thể mà bản thân vật thể ấy như quyển kinh kệ bằng giấy bồi cũ kỹ mong manh mỏng manh tiêu biểu cho chân lý tinh thần;

thì mạng xã hội vẫn làm được điều mà không bất kỳ một mạng-có-trả-tiền nào có thể làm được, đó là sức quy tụ của số đông, và do đó lời khuyên sau vẫn cứ là lời khuyên dành cho người không cố chấp:

- rằng bạn chí ít cũng đừng nên buông xuôi để cơn trốt xoáy của mạng xã hội muốn nuốt bạn đến đâu thì cứ nuốt và muốn ném hất đâu thì cứ mà hất ném;

- rằng bạn chí ít cũng công nhận một điều là trốt xoáy cuốn vào nó từ những chiếc ô-tô Buick đắt tiền, những tác phẩm nghệ thuật vô giá thời Phục Hưng văng ra từ bảo tàng mỹ thuật, đến những rác rến cùng bụi bẩn chuột bọ kinh tởm từ miệng cống;

- rằng bạn chí ít cũng công nhận một điều là trong trận cháy kinh hoàng vẫn có kẻ cơ hội rình rập hôi của, huống gì tại một sân chơi miễn phí nơi mà người ta không có cớ gì để luôn phải cảnh giác như lúc đang trong địch họa thiên tai; và

- rằng nếu muốn liên kết với tôi, bạn (a) đừng mãi gởi tin qua Facebook để chẳng nhận được trả lời vì tôi đã từ bỏ nó từ lâu vì cái tội của nó là đã thành cái ổ chứa chấp quá nhiều kẻ chống lại Việt Nam, (b) hãy gia nhập đúng sân, đúng cộng đồng mà bạn trong lĩnh vực hoạt động có liên quan; (c) hãy chuẩn bị cho trang profile của bạn thật đầy đủ chi tiết và nghiêm túc với hình ảnh và thông tin để phần tự giới thiệu tương xứng công bằng với profile của tôi hay của những người như tôi mà bạn đã đọc kỹ và biết rõ, vì rằng việc bạn có dùng ảnh chụp của người khác và dùng tên giả với chi tiết giả chí ít còn cho thấy bạn tôn trọng chủ nhân mạng cộng đồng doanh nghiệp cùng thành viên của nó, vì ngay cả vận động viên xe đạp cùng quốc tịch với Tổng thống Obama nhiều năm đoạt chức vô địch Tour de France vẫn sẽ bị đội bảo vệ điệu ra ngoài ngay lập tức nếu vận áo pull quần short đạp xe vào một câu lạc bộ polo dành riêng cho quý ông quý bà Anh Quốc “trang bị tận răng”: mặc áo chẽn quần bó hàng hiệu, đội mũ Casablanca giá 500 bảng, đi ủng Fagliano cao đến gối giá 650 bảng gắn thêm bộ đinh thúc ngựa hiệu Prince of Wales 20 bảng và bộ bảo hộ đầu gối Casablanca 200 bảng, đeo kính Oakley, găng tay Neumann, cầm roi có tay cầm bọc bạc, và gậy đánh bóng Gold Bands bằng gỗ manau-cane được chế tác thủ công từ New Zealand chỉ khi có đơn đặt hàng cá nhân, cùng danh sách dài bao thứ lỉnh ca lỉnh kỉnh khác, chưa kể thẻ hội viên vài chục ngàn bảng y như thẻ sân golf; và (d) hãy công bằng vì khi bạn gia nhập để tìm những mối lợi cho bạn thì bạn cũng phải cho người xem xét yêu cầu làm quen của bạn biết họ có thể học hỏi được gì từ bạn nếu chấp thuận yêu cầu được liên kết của bạn.

Đó là tất cả những gì người thận trọng, tự trọng, nghiêm túc, nghiêm trang, đáng kính, đáng nể, và yêu nước, yêu thân, nên tính đến trước khi tham gia một mạng xã hội nói chung và một mạng cộng đồng doanh nghiệp nói riêng.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế