Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

BUỒN


NGẬM NGÙI...THU!
(Bé Cái Lầm)


Heo may gió nhẹ rung cành

Kìa Thu! Ngơ ngác giật mình, lá rơi
Tha phương đất khách quê người
Ngóng về đất mẹ, ngậm ngùi nhớ thương


BUỒN



Buồn như đã chín trên cành

Sao em không hái để dành tặng tôi
Mùa thu đưa gió gọi mời
Em về nhặt lá vàng rơi gói buồn

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

Một số báo mạng ở Việt Nam đang nhồi vào đầu độc giả những hiểu lầm tai hại

Những ngày gần đây cư dân mạng Việt Nam đang xôn xao trước thông tin “Đồng tiền Việt Nam có giá trị thấp nhất thế giới” đang được đăng tải trên các báo mạng. BBT xin gửi đến bạn đọc bài phân tích của tác giả Cục Gạch cùng các ý kiến của cư dân mạng quanh vấn đề này.
Mấy ngày trước, đọc được cái bài “Những đồng tiền ít giá trị nhất thế giới” mà anh lá cải Telegraph đăng tôi đã phì cười.




Một số tờ báo ở Việt Nam đang nhồi vào đầu độc giả những hiểu lầm tai hại


Những tưởng là chuyện đùa cho vui vì bản chất câu chuyện cũng hết sức tầm phào nhưng rồi thấy nó lần lượt xuất hiện trên hàng loạt tờ báo điện tử, trang tin điện tử của Việt Nam thì tôi không khỏi giật mình.

Giật mình vì các báo Việt Nam ‘hồn nhiên’ đến thế khi mang vấn đề an ninh tiền tệ (sinh mạng của cả 1 nền kinh tế) ra đùa giỡn và nhồi vào đầu độc giả những hiểu lầm rất tai hại.
Giật mình vì các Biên tập viên làm báo ở Việt Nam hồn nhiên một cách đáng ngạc nhiên. Các bạn cứ lấy con số 33.000 VND = 1 bảng Anh hay 126 yên Nhật = 1 bảng Anh để kết luận là đồng tiền có giá trị kém nhất thế giới. Lạy hồn. Tự hỏi là các vị đã bao giờ nghe đến cái gọi làSức mua tương đương PPP (Purchasing Power Parity) hay chưa?
Bạn đang làm việc ở thành phố với thu nhập 10 triệu/tháng nhưng vẫn phải xoay xở khó khăn lắm mới đủ sống nhưng nếu ở quê, chỉ với thu nhập 5 triệu bạn đã có thể sống khá sung túc. Hoặc, nếu đang ở Tokyo, một lần đi cắt tóc bạn sẽ mất khoảng 20-30 đô la nhưng ở Hà Nội bạn chỉ mất 1-2 đô la… Đó là những ví dụ thô sơ nhất về PPP.


VnExpress đã nhiều lần đầu độc độc giả với những thông tin hiểu lầm rất tai hại như thế này!

Trong bài “Những đồng tiền rẻ nhất thế giới”, VnExpress đã nói: Theo Telegraph, một xu (Anh) ngày nay chẳng mua được gì nhưng vẫn có giá hơn đồng tiền Việt Nam. Nếu đổi ngang, khoảng 33.000 đồng mới bằng một bảng Anh (1,54 USD). Thật sự ngây thơ lồ lộ! Không biết là có độc giả nào nhắc nhở không nhưng sau đó 1 vài tiếng VnExpress đã xóa bỏ phần nói về đồng tiền Việt Nam nhưng vẫn để các đồng khác. Nhưng bài của các tờ báo khác copy từ VnExpress thì vẫn còn nguyên. Đây không phải là lần đầu tiên VnExpress đầu độc độc giả với những thông tin hiểu lầm rất tai hại như thế này! (Xem lại bài viết: VnExpress làm cộng đồng mạng hiểu sai Nghị định 72 của Chính phủ)


Trang VinaCorp copy lại nội dung từ VnExpress

Ví dụ sâu hơn chút nữa. Nếu tính theo tỷ giá hối đoái thị trường năm 2012, GDP của Mỹ là 15.643 tỷ USD (GDP bình quân đầu người là 49.802 USD), Việt Nam là 136 tỷ USD (GDP bình quân đầu người là 1.523 USD).
Tuy nhiên, để so sánh chính xác hơn sự khác nhau về mức sống thì lại phải cần đến cách thứ ba. Đó là quy đổi đồng đô-la sang sức mua tương đương (PPP), sử dụng một “rổ” hàng hóa và dịch vụ làm đại diện. Cụ thể, Ngân hàng Thế giới tính toán thấy để mua được một rổ hàng hóa điển hình có giá 1 USD ở Việt Nam thì một người dân ở Mỹ phải bỏ ra gần 4 USD.
Vì vậy, để so sánh trên cơ sở ngang bằng sức mua của đồng đô-la, GDP của Việt Nam phải được điều chỉnh tăng lên 4 lần. Kết quả là năm 2012, thu nhập bình quân đầu người của VN tính theo tỷ giá hối đoái là 1.523 USD, còn tính theo PPP là 6.092 USD.
(Cục Gạch)
Phản ứng của một số cư dân mạng:
- Huong Jend: Ngay ở bài gốc trên Tele, dân Anh nó cũng nhảy vào ném đá ầm ấm rồi, mà một số tờ báo vẫn ngu ngốc trans về. Nó còn tồi tệ hơn cả vụ dịch bài Mẹ chồng Tăng Thanh Hà là nữ tỷ phú này nọ. Chán quá!
- Hai Kieu: Đọc đã thấy nó “rẻ tiền” rồi. Cứ bốc bừa mấy loại tiền vào rồi làm cái bảng, xong kết luận là cái này nhất cái kia bét… Ngu xuẩn!
- Lê Mỹ: Mình thấy rất nhiều bạn nhà báo dính đến cái này mà quên rằng Tiền là 1, Cờ tổ quốc là 2, là những điều cần cân nhắc khi viết. Thực tế, nếu nói đổi theo bảng Anh mà suy ra tiền VN có giá trị thấp nhất thế giới cũng chả đúng, cái này chắc những người làm hay học kinh tế đều hiểu.
- Vanhoa Sahuynh: Dân Việt Nam vẫn sống khỏe, chả có ai chết đói, mà ngược lại Hạnh phúc nhì Thế giới!!!
- Khải Tq: Cái này nguy hiểm thật dễ gây sự hiểu nhầm
- Choet Sung: Số liệu này chưa được kiểm chứng, lại gây tâm lý không tốt cho người dân. Đổi tiền rẻ không thể dựa trên tỷ giá mà đánh giá, nó phải dựa trên ngang bằng sức mua!

Nam Yết (tổng hợp)

Bận, căn bệnh của thời đại

Lilia

Hôm nay tôi là một người bất hạnh nhất trên trần gian này, vì tôi đang nhàn rỗi, trong khi tất cả thế giới quanh tôi đều bận quay cuồng.

Hãy nhìn xung quanh mà xem. Những gương mặt đăm chiêu đang mải mê suy nghĩ. Những bước chân hối hả. Sinh viên khoa Luật lúc nào cũng vội vã đi đâu đó. Vội vã vào lớp, vội vã cắm cúi ghi chép, vội vã ăn qua loa quả táo hay kẹp bánh mì, vội vã vào thư viện mượn tài liệu đem đi photocopy để tối về nhà đọc, vội vã đem trả, rồi thế là vội vã chạy hộc tốc đến một văn phòng luật sư nào đó, một công ty nào đó, một tòa án nào đó, hay vội vã giải quyết những công việc riêng nào đó có trời mới biết được. Các giáo sư, trợ giảng thì trông còn khổ sở hơn. Họ tất bật với nghĩa vụ làm thầy của mình, lúc nào cũng bị một lũ sinh viên dai như đỉa đói với hàng mớ yêu sách bám riết. Trong khi miệng giải đáp vô số thắc mắc của học trò, đầu họ nghĩ tới một vụ kiện, một chuyến đi hội thảo ở nước ngoài, một bài báo họ vừa viết, một đạo luật mới ban hành với những điểm họ không vừa ý, hay một cuộc hẹn với bác sĩ mà họ không thể hủy bỏ...

Ông giáo sư đỡ đầu của tôi, prof.dr.hab. T. Dybowski, năm nay gần 70 tuổi. Một năm phải mổ xẻ tới hai lần, nằm viện hơn bốn tháng, vậy mà vẫn vừa làm thẩm phán Tòa án Hiến pháp, vừa đến trường giảng dạy, nhận vài luận án, hàng chục luận văn tốt nghiệp, và hỏi thi hàng trăm sinh viên để thỉnh thoảng phải tống cổ một vài đứa ra khỏi phòng thi trong cơn đau tim vì tức giận (ví dụ như khi một anh chàng sinh viên tội nghiệp, thay vì "hợp đồng bán" [umowa sprzedazy], lại cứ lặp đi lặp lại từ "hợp đồng mua bán"[umowa kupno-sprzedazy] y như một gã lái buôn chưa từng giở qua bộ luật dân sự). Có những lần tôi gửi hoa và thiệp tới bệnh viện thăm ông mà lòng nghẹn ngào\. Cùng với tuổi già, sức khỏe của ông mỗi ngày một kém, vậy mà ông vẫn làm việc không mệt mỏi, và đằng sau vẻ khó tính bề ngoài là cả trách nhiệm và tình thương yêu dành cho sinh viên.

Nhưng ta hãy trở lại với hiện tại, khi tôi đang nhởn nhơ ngồi gõ keyboard còn mọi người thì bận bịu.

Sự thể chẳng lấy gì làm lạc quan hơn khi người ta nhận được thư bạn bè. Trong mười lá thư thì có tới chín lá bắt đầu bằng câu "xin lỗi nhé, dạo này bận quá...", "hồi này công việc ngập đầu ngập cổ", "mình bận túi bụi" hay những câu đại loại như vậy. Ai ai cũng hối hả đến không có thời gian mà thở nữa, từ đứa em bé mới học cấp I, cấp II hay đứa bạn đã đi làm. Một bức thư Việt Nam tôi mới nhận: " Sáng em đi học Kinh tế, chiều học Tin, tối học Đại học Ngoại ngữ. Em vẫn đi học đàn guitar..." "Em tới lớp ngồi chép bài, giờ nghỉ chỉ là 5' or 10' không đủ để mà làm gì. Chỉ kịp ngoái sang người bên cạnh nói vài câu". Và rồi kết luận "Mọi thứ cứ diễn ra đều đều, rất chán".

Những bức e-mail cũng chẳng khá hơn. Mặc dù viết e-mail tốn ítthời gian hơn viết một lá thư nhiều, những e-mail mà tôi chờ đợi cũng chỉ vỏn vẹn vài dòng với những chữ "bận", "bận" và lại "bận" tiêu biểu của thời đại.

"Đối với mọi người, chỉ cần bạn có một cái tên là đủ
Thay cho bạn, người ta chỉ nhìn thấy một gương mặt"
(lời một ca khúc trong vở musical Metro của Ba Lan)

Gặp một người bạn ngoài đường. "Dạo này thế nào?". "Cũng bình thường, nhưng bận lắm". Và thế là vội vàng chia tay. Có bao giờ bạn gặp một người quen và cùng với câu chào "Dạo này thế nào?", bạn thực sự quan tâm đến những gì đang xảy đến với người đó? Có thể đằng sau gương mặt bình thản kia là biết bao nhiêu khó khăn chồng chất. Có thể người đó thực sự muốn nói với bạn một điều gì đó, muốn trút một chút nỗi lòng, hay đơn giản chỉ là muốn chuyện trò với bạn 15-20 phút..., thế nhưng khi nhìn thấy dáng dấp tất bật của bạn thì tất cả những gì đang chất chứa trong lòng họ bỗng nhiên tự động - không hiểu bằng phép thần thông nào - biến thành mấy chữ "mọi sự đều bình thường" muôn thuở.

Tôi mới gặp lại Lukasz Filipiak, một người bạn trước khá thân ra trường cách đây ba năm. Lâu lắm rồi, có lẽ gần một năm, chúng tôi không gặp và cũng không liên lạc qua điện thoại, mặc dù cả hai người cùng ở Warszawa. Đơn giản chỉ là do bận quá. Bạn tôi làm ở Văn phòng Pháp lý của Quốc hội, đồng thời thực tập tại Tòa án Thành phố. Hàng ngày đi làm tới 9-10 giờ tối mới về, nhiều hôm đến quá nửa đêm. Không được nghỉ ngơi kể cả thứ bảy. Ngày chủ nhật dành cho việc ngủ bù. Vốn là con chiên rất ngoan đạo, vậy mà bây giờ hiếm hoi lắm mới sắp xếp được một buổi đi nhà thờ. Đằng sau bộ quần aó được chuẩn bị chu đáo, gương mặt vui vẻ và tác phong nhanh nhẹn lịch thiệp kia là những đêm thiếu ngủ, những núi công việc và những mệt mỏi triền miên. Người Warszawa chính gốc, 27 tuổi, đẹp trai và giỏi giang, con nhà gia giáo, tính tình vui vẻ dễ chịu, vậy mà vẫn chưa có người yêu. "Lilia thấy đấy, chẳng cô nào chịu nổi cảnh này. Một anh bạn cùng làm với mình đang lục đục thường xuyên với vợ cũng chỉ vì luôn phải đi làm về muộn, nghĩ thấy sợ quá!"

Nhưng hình như chúng ta lại cảm thấy có chút gì đó tự hào khi mình bận rộn, và nếu như ai đó nói là bạn nhàn rỗi, bạn sẽ phản đối ngay. Một người bạn tới Ba Lan chơi, kể cho tôi nghe chuyến chu du "vòng quanh châu Âu" của anh. Tôi thán phục : "Cũng tung tẩy quá nhỉ!" Thế là anh bạn vội vàng đính chính: "Không, bình thường anh cũng bận lắm, đây là vì hứa hẹn với bạn bè từ lâu rồi..." Dường như thảnh thơi để có thời gian cho riêng mình là tội lỗi, là một cái gì đó đáng sợ, đáng tránh né!

Nhưng tôi có thể nói gì đây khi chính tôi bình thường cũng chẳng mấy rảnh rỗi, cũng hay kêu ca một cách vô ý thức rằng tôi rất bận, cũng viết những bức thư ngắn ngủi, cũng chào "dạo này thế nào?" với một ngữ điệu vô tâm, và nếu như đôi khi có được một chút thời gian nhàn hạ hằng mơ ước thì bỗng lại cảm thấy mình như có lỗi, như thừa thãi, như bất hạnh...
"Bạn muốn đập vỡ tấm kính
Nhưng nó cong lại
Và đằng kia là tất cả mọi người
Còn phía đối diện là bạn"

Ngợi ca những giấc mơ

Wisława Szymborska


Thái Linh dịch

Trong mơ
tôi vẽ như Vermeer van Delft.

Tôi nói thành thạo tiếng Hy Lạp
không chỉ với người sống.

Tôi lái chiếc xe hơi
ngoan ngoãn nghe lời.

Tôi tài hoa,
viết ra những trường ca vĩ đại.

Tôi nghe thấy những giọng nói
không tệ hơn lời thần thánh uy nghiêm.

Các bạn hẳn sẽ ngạc nhiên
vì tôi chơi dương cầm với ngón nghề tuyệt kỹ.

Tôi bay lượn như cần phải thế
nghĩa là bay lên từ chính mình.

Khi ngã xuống từ mái nhà
tôi rơi êm ru trên cỏ.

Với tôi chẳng có gì là khó
việc thở dưới nước sâu.

Tôi không phàn nàn gì đâu:
tôi khám phá ra Atlantis.

Tôi cảm thấy vui thích
vì luôn kịp tỉnh giấc trước khi qua đời.

Khi chiến tranh vừa được châm ngòi,
tôi lập tức trở mình sang phía khác.

Tôi là, nhưng không buộc phải là
đứa con của thời đại.

Vài năm trước tôi nhìn thấy
có hai mặt trời.

Chim cánh cụt thì mới hôm kia thôi.
Hoàn toàn sắc nét.

QUẦN LỌT KHE


Bão đổ về rậm rập
Gió thổi tung hất váy
He hé quần lọt khe
Phận đàn bà em che

Sang - hèn cũng một kẽ
Buồn - vui cũng một khe
Giấu hai bờ thương-nhớ
Quần lọt khe em che

Phận đàn bà nứt nẻ
Đau đớn đời chia sẻ
Quần lọt khe em che
Chờ quân tử em khoe

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

EM-NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI


Em- nhiệm mầu như một nàng tiên luôn xuất khi tôi cần
Em-hiền lành như Phật sau mỗi lần tôi gây tội
EM-dịu dàng như m khi tôi trở về sám hối.

Khi tôi say em lè nhè như bạn
Khi tôi đắm đuối em nồng nàn như một người tình
Khi tôi chết em gục khóc trên mình.

Em- Người đàn bà của tôi

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Bàn về khoan dung (Leszek Kołakowski)






Thái Linh dịch

Từ „khoan dung“ và lời khuyên khoan dung, như chúng ta biết, đã quá phổ biến; song những từ được dùng quá thường xuyên thì luôn bị dùng một cách tùy tiện, không thận trọng và với ti tỉ mục đích khác nhau, đến mức rốt cuộc chẳng còn biết nghĩa của chúng là gì. Mặc dù từ này đã có mặt trong tiếng La-tinh cổ, „khoan dung“ trở thành vấn đề xã hội ở châu Âu vào thế kỷ XVI, là hậu quả của các cuộc phân chia và đấu tranh tôn giáo. Khoan dung đơn giản là không truy bức người khác vì lý do tôn giáo. Những người chủ xướng khoan dung muốn có một cuộc cải cách luật pháp, muốn nhà nước không dùng gươm đao để bảo vệ tôn giáo đang thống trị. Những lời kêu gọi khoan dung theo nghĩa này rất nhiều và được nhân lên gấp bội, nhưng bên cạnh các sắc lệnh đảm bảo sự khoan dung ở nhiều nước khác nhau, ta cũng biết có các phản lệnh, các cuộc đàn áp hồi phản, các đòi hỏi trừng phạt người dị giáo và không chính thống. Mặc dù có vô số chuyện khủng khiếp trong lịch sử các cuộc chiến tôn giáo, ta có thể kết luận rằng ở các nước đạo Cơ đốc chiếm ưu thế, cuộc đấu tranh cho sự khoan dung trong ý nghĩa pháp lý của từ này đã giành thắng lợi; ngược lại, các dòng chảy gây hấn và bất khoan dung trong Hồi giáo là rất mạnh mẽ. Một chính thể khoan dung đơn giản là chính thể mà nhà nước không áp đặt cho người dân bất cứ điều gì trong vấn đề tôn giáo. Nhà nước phải kiềm chế vũ lực trong các vấn đề đó, đây là nguyên tắc được công nhận rộng rãi tới mức nó được tiếp nhận bất thành văn ngay cả ở các quốc gia cộng sản châu Âu, bao gồm cả các nước nơi Giáo hội, các tu sĩ và các tín đồ phải chịu đựng sự đàn áp tồi tệ nhất.

Ngày nay mọi điều có vẻ đơn giản và ít gây tranh cãi, nhưng rắc rối nảy sinh khi ta xem xét vấn đề gần hơn một chút. Để nguyên tắc khoan dung theo nghĩa trên được chấp nhận và thực thi, không chỉ cần có các văn bản pháp lý, mà cả các điều kiện văn hóa không thể tạo dựng trong một sớm một chiều. Những người Cơ đốc chủ xướng khoan dung thế kỷ XVI và XVII giải thích rằng chúng ta không nên chém giết lẫn nhau vì lý do khác biệt quan điểm về vấn đề Thánh Ba Ngôi, Bí Tích Thánh Thể hay vận mệnh, bởi vì – họ nói – Đức Chúa Trời sẽ không hỏi chúng ta về các quan điểm thần học trong Phán quyết Cuối cùng, đúng hay sai, mà hỏi chuyện trong đời ta có cố gắng thực hiện các điều răn của sách Phúc Âm hay không. Như vậy có thể ngầm hiểu, mà nhiều khi người ta nói thẳng, rằng tất cả các khác biệt giáo điều giữa các Giáo hội, các tín điều hay giáo phái đều không quan trọng, vô nghĩa. Từ đây dễ dàng đi đến kết luận rằng không có bất cứ Giáo hội hay tín điều nào có động cơ tồn tại như một cơ thể riêng biệt, vì sự khác biệt giữa chúng là vô thưởng vô phạt; nhưng khó lòng thuyết phục điều đó với các Giáo hội (dĩ nhiên tất cả những điều này nằm trong khuôn khổ của văn hóa Cơ đốc giáo và thậm chí ngay cả ở các nước rất khoan dung như Hà Lan thế kỷ XVII thì chủ nghĩa vô thần cởi mở cũng không được chấp nhận). Chính vì thế, một ý nghĩa mới được đưa tắt vào tư tưởng khoan dung, cụ thể là „sự thờ ơ“. Nhưng khi nói: „chịu đựng ngay cả các sai lầm lớn vẫn tốt hơn là tiến hành chiến tranh tôn giáo“ là một chuyện - dưới góc độ văn hóa hay tâm lý học, còn nói „phải khoan dung mọi ý kiến thần học khác nhau nhất, vì tất cả đều là những chuyện vô thưởng vô phạt“ thì lại khác.

Khi tôi nói với ai đó: „Anh phát biểu những quan điểm kinh khủng, sai lầm và tai hại, nhưng tôi sẽ không chặt đầu anh và sẽ để Chúa phán xét“ là một chuyện, còn khi tôi nói „Anh cứ lải nhải thoải mái về tôn giáo, cái đó chả có nghĩa lý gì cả“ thì lại là chuyện khác.

Song khi ta nói về sự khoan dung, từ này không chỉ liên hệ tới các quy định pháp lý trong vấn đề tôn giáo, mà còn ám chỉ quan điểm của con người, cách hành xử của chúng ta, các phong tục. Theo nghĩa ban đầu, tôi khoan dung nếu tôi không truy bức, không đòi truy bức và không hành xử một cách gây hấn với những gì tôi rõ ràng là không thích, không chấp nhận, những gì khiến tôi thấy khó chịu, căm ghét hay ghê tởm. Với nghĩa có phần tương tự, ta dùng từ này trong y học và kỹ thuật: thuốc gây hại, nhưng ta nói về sự khoan dung đối với thuốc nếu cơ thể chấp nhận được nó trong một giới hạn nào đấy, nghĩa là chịu đựng được mà không có hại đáng kể. Ở Pháp từ „nhà khoan dung“ xưa kia được dùng để gọi nhà chứa, cái tên ám chỉ rằng đó là thứ không tốt đẹp gì, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, tốt hơn hết là chấp nhận chúng.

Cũng có thể nhận thấy người ta thường đòi hỏi khoan dung với nghĩa sự bàng quan, không có bất cứ lập trường hay ý kiến gì, đôi khi thậm chí là sự thừa nhận tất cả mọi thứ mà ta thấy ở mọi người và mọi quan điểm. Song điều đó mang nghĩa hoàn toàn khác. Hướng tới sự khoan dung theo nghĩa ấy là một phần văn hóa khoái lạc chủ nghĩa của chúng ta, khi chẳng có điều gì thực sự nghĩa lý đối với ta; đó là thứ triết lý sống không có bất cứ trách nhiệm và niềm tin nào. Các khuynh hướng này được tăng cường bởi nhiều trào lưu triết học khác nhau, những trào lưu dạy chúng ta rằng không có chân lý với nghĩa thực sự của nó; do đó khi ngoan cố với các niềm tin của mình, mặc dù không hề gây hấn, thì tôi đã có lỗi đối với sự khoan dung.

Đó là một điều vô nghĩa tai hại; sự khinh rẻ chân lý tàn phá nền văn minh của chúng ta không kém gì sự cuồng tín. Số đông thờ ơ sẽ dọn đường cho những kẻ cuồng tín luôn không bao giờ thiếu. Nền văn minh của chúng ta truyền bá ý thức nên coi tất cả là một thứ trò chơi, như nó vốn thế, trong các triết lý trẻ con được gọi là „triết lý kỷ nguyên mới“ hoàn toàn không thể xác định được nội dung, bởi nó có nghĩa là mọi thứ, ai muốn gì cũng được.

Nhưng tôi có quyền cương quyết kiên tâm với các niềm tin của mình. Ví dụ: ở các nước văn minh tình dục đồng tính không bị trừng phạt (tất nhiên, nếu đó là người trưởng thành và không có cưỡng hiếp). Giáo hội cho rằng đồng tính luyến ái là không được phép về mặt đạo đức, viện dẫn Cựu Ước và Tân Ước, viện dẫn các truyền thống và sự diễn giải thần học về tình dục của riêng mình. Như vậy, nếu Giáo hội muốn cấm đồng tính luyến ái trở lại, nó có thể bị lên án là bất khoan dung thô bạo. Nhưng các tổ chức của người đồng tính luyến ái đòi hỏi Giáo hội rút lại các giáo huấn của mình, đó là biểu hiện của sự bất khoan dung thô bạo theo chiều ngược lại. Ở Anh đã có các cuộc biểu tình và công kích Giáo hội về vấn đề này. Như vậy ai là bất khoan dung? Nếu một số người đồng tính cho rằng Giáo hội sai, họ có thể ra khỏi nó, không có gì đe dọa họ cả; nhưng khi họ muốn áp đặt ý kiến một cách ồn ào và gây hấn lên Giáo hội, họ không bảo vệ sự khoan dung mà là tuyên truyền sự bất khoan dung. Sự khoan dung hữu hiệu khi nó có từ hai phía.

Ta thường nói rằng có thể trừng phạt hành động, không trừng phạt quan điểm. Khó khăn là ở chỗ ranh rới giữa chúng không rõ ràng. Ở nhiều nước, ví dụ, kích động hận thù chủng tộc là bị trừng phạt. Có thể kích động bằng nhiều cách khác nhau và những kẻ phân biệt chủng tộc thường tự biện hộ: đó là các quan điểm, bởi vậy chúng không bị trừng phạt. Song ngôn từ trong trường hợp cụ thể cũng có thể có tác hại hoặc hiệu quả tốt. Nếu ta chỉ nói như thế, ta sẽ dễ dàng gợi ý rằng phải kiểm soát mọi quan điểm từ góc độ hậu quả có thể xảy ra của chúng. Nhưng nếu không nói vậy, ta lại gợi ý rằng không được cấm gì hết nếu chưa có sử dụng bạo lực. Như vẫn thường thấy trong cuộc sống, chúng ta phải tìm những cách giải quyết thỏa hiệp, không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng là không tránh khỏi. Đây cũng là mâu thuẫn muôn đời của sự khoan dung: có được phép và có nên chấp nhận hay không các phong trào chính trị hay tôn giáo là kẻ thù của khoan dung và muốn hủy diệt mọi thiết bị bảo vệ sự khoan dung, các phong trào toàn trị hoặc muốn áp đặt quyền lực chuyên chế của mình? Các phong trào này có thể không nguy hiểm chừng nào chúng còn nhỏ, do đó có thể chấp nhận chúng, nhưng mặt khác, nếu chúng lớn mạnh, phải chấp nhận vì không có lực lượng nào có thể hủy diệt chúng, và cuối cùng cả xã hội có thể trở thành chiến lợi phẩm của một chính thể toàn trị tồi tệ nhất. Sự khoan dung vô hạn sẽ tự hại mình và hủy hoại các điều kiện để khoan dung trở nên khả dĩ. Tôi thừa nhận rằng tôi ủng hộ việc không khoan dung đối với các phong trào nhằm tiêu diệt tự do, chúng phải bị loại ra khỏi vòng pháp luật; khoan dung sẽ ít bị đe dọa hơn nhờ sự bất khoan dung này.

Song không có một nguyên tắc tốt nào mà lại không thể bị áp dụng sai. Có thể cấm phát biểu tư tưởng phân biệt chủng tộc, nhưng ở Mỹ, những người tiến hành nghiên cứu sự phân bố năng khiếu trong một số sắc tộc bị gọi là phân biệt chủng tộc và bị đả kích. Đây là nghiên cứu đòi hỏi phải đặc biệt thận trọng và chắc chắn có thể bị lợi dụng để tuyên truyền phân biệt chủng tộc, song vì lý do đó mà cấm thì còn tồi tệ hơn nhiều. Bởi khi đó người ta chấp nhận nguyên tắc cấm mọi nghiên cứu khoa học nếu kết quả của chúng có thể không được hoan nghênh đối với các tư tưởng được coi là đúng trong thời gian đó, mà đây là một nguyên tắc toàn trị. Cần phải chỉ trích các kết quả ấy, nếu có các phản đề tốt, nhưng cấm nghiên cứu nghĩa là đặt ra một chế đô độc tài tư tưởng trong các dòng chảy khoa học.

Tôi nhắc lại: sự khoan dung được bảo vệ ít hơn bằng luật pháp, nhiều hơn thông qua việc duy trì thói quen khoan dung. Sự bất khoan dung tiềm ẩn trong mỗi chúng ta, bởi nhu cầu áp đặt hình ảnh của mình về thế giới lên người khác nói chung là mạnh; ta muốn mọi người tin vào điều ta tin, vì khi đó ta cảm thấy an toàn về mặt tinh thần và không phải suy xét các niềm tin của mình hay đối chiếu chúng với người khác. Vì lẽ đó, sự công kích, gây hấn trong quá trình đối chiếu niềm tin – tôn giáo, triết học hay chính trị - là rất nhiều. Song nếu sự bất khoan dung, ý muốn thay đổi chính kiến người khác bằng công kích và bạo lực phải bị loại bỏ và thay thế bằng phong tục không ai tin vào cái gì, không ai quan tâm đến chuyện gì, cốt sao cuộc sống vui vẻ - thì thật tội nghiệp cho chúng ta. Đừng đấu tranh với sự vinh danh bạo lực bằng cách vinh danh sự thờ ơ đại chúng.

(Trích từ tập "Các thuyết trình mini về những vấn đề maxi" (Mini wykłady o maxi sprawach), NXB Znak, Kraków 2008)

Yêu và mất (Leopold Staff)


Thái Linh dịch

Yêu và mất, khát khao và hối tiếc,
Ngã đớn đau và lại gượng đứng lên,
Hét vào nhớ thương „cút đi!”, rồi khẩn cầu „xin dẫn lối!”
Là thế đó cuộc đời: nhẹ bẫng, sao khôn kham....


Vì một viên ngọc thôi, băng qua sa mạc mênh mang
Vì một hạt châu trầm mình đáy bể
Chỉ để lại sau mình lặng lẽ
dấu vết trên cát mềm, những vòng sóng vương loang.

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

Bàn về nỗi chán (Leszek Kołakowski)




Thái Linh dịch


Ta hãy thử viết về nỗi chán một cách không chán. Không chán - ngoài những đặc điểm khác - có nghĩa là ngắn thôi. Bản thân chuyện về nỗi chán không chán cũng không vô nghĩa, bởi nó bàn đến một trải nghiệm được biết đến rộng rãi, cụ thể là trải nghiệm nói chung bị xem là tiêu cực nhưng lại không thể gọi là đau khổ (ngoại trừ những trường hợp cực đoan như việc tước bỏ nhân tạo mọi xung động ham muốn của con người một thời gian dài trong các thử nghiệm tâm lý học).
Tương tự như các phẩm chất thẩm mỹ, nỗi chán là một hiện tượng xuất hiện khi được trải nghiệm, song đồng thời có thể gán cho khách thể được tri giác chứ không riêng cho kẻ tri giác („tiểu thuyết này khiến tôi phát chán”, „tiểu thuyết này chán”); bởi vậy, nói cho sang, nó thích hợp với một xem xét mang tính hiện tượng luận.
Khi dừng lại ở cách dùng thông thường của từ này, ta sẽ nhận thấy ngay, thứ nhất, ta chỉ gán sự chán cho những gì kéo dài trong thời gian: vở kịch chán, bản nhạc chán, bài lịch sử chán, công việc chán, nói chung ta không nói tác phẩm hội họa chán, thứ thường là ta nắm bắt được ngay trong một cái nhìn. Phong cảnh chán, nghĩa là đơn điệu, không có sự tương phản, nếu ta ngắm nhìn nó trong khoảng thời gian dài, ví dụ khi đi tàu qua bình nguyên phủ đầy tuyết. Từ góc độ khách thể, chán là sự lặp lại chính một điều, hoặc là sự hỗn độn, thiếu vắng sự khớp nối và ý nghĩa (song tiểu thuyết hay bi kịch diễn tả thế giới trong hỗn loạn hoàn toàn không nhất thiết phải chán: thí dụ Ulisses của Joyce, kịch của Beckett và nhiều thứ khác). Từ góc độ người tri giác, chán nghĩa là không có khả năng mong đợi điều gì đó mới mẻ, là cảm giác hiện hữu (dẫu chỉ trong chốc lát) trong một thế giới nơi sẽ không có gì xảy ra, tức là nơi hoặc sẽ mãi như thế, hoặc nếu có gì đó xảy ra thì người tri giác cũng thấy như nhau, nghĩa là như chẳng có gì xảy ra.
Có thể khẳng định rằng chẳng có gì tự thân nó là chán, bởi con người khác nhau trong cách tiếp nhận những mảnh thế giới khác nhau, và cảm giác chán của họ phụ thuộc vào từng trường hợp, nhất là phụ thuộc vào kinh nghiệm từng trải qua. Một bộ phim hoàn toàn thú vị có thể trở thành chán nếu ta xem lại ngay sau khi xem lần đầu, bởi những gì sẽ xảy ra ở đó đối với ta là đã xảy ra. Ngay cả một người rất kém giáo dục về âm nhạc cũng không cho một bản concerto cho vĩ cầm của Paganini, concerto cho vĩ cầm của Tchaikovsky, concerto cho dương cầm của Chopin là chán, nhưng lại có thể chán một số bản giao hưởng của Brahm, mà người am hiểu sẽ không chia sẻ cả ý kiến lẫn cảm nhận này, chắc chắn sẽ phê phán sự vô minh của anh ta. Có thể một tác phẩm lịch sử nào đó khiến tôi chán, nhưng lại lý thú với người khác, bởi sự tiếp nhận của tôi là do tôi không thấy sự tương phản, bởi vậy tôi không biết phân biệt nặng nhẹ, mới cũ v.v. Một việc là chán đối với người làm nó đã lâu và theo lệ, không nhất thiết chán đối với người làm lần đầu. Ta hãy thử cố tạo ra nỗi chán và đọc một cuốn sách bằng thứ ngôn ngữ mình không biết trong suốt một giờ đồng hồ: ấy thế nhưng cuốn sách đó có thể là tiểu thuyết của Agatha Christie.
Dĩ nhiên, trong nỗi chán cũng như sự chán ngán có một vùng đáng kể phụ thuộc hoàn toàn vào các khuynh hướng và kinh nghiệm cá nhân của chúng ta và không thể có được sự đồng thuận. Vấn đề liệu có điều gì chán tự thân hay không cũng tương tự như vấn đề của các phẩm chất mỹ học: có phải chúng luôn luôn và tuyệt đối là dự phóng cá nhân, hay chúng được phát hiện ra „trong sự vật” bằng cách nào đó? Cả hai trường hợp đều có phạm vi đồng thuận và phạm vi bất đồng, chắc chắn vậy. Cả hai trường hợp cũng đều là về những phẩm chất được giáo dục rèn luyện qua văn hóa; có lẽ thật ra chả có gì là ngớ ngẩn trong giả định rằng khi các phẩm chất đó được tri giác, luôn có sự tác động qua lại giữa sự vật và tinh thần, và rằng câu hỏi điều gì tuyệt đối có trước chẳng có mấy ý nghĩa.
Nói chung chúng ta cho rằng chán không những là hiện tượng phổ biến ở loài người – đây không phải là đặc quyền của Baudelaire hay Chateaubriand – mà còn là đặc trưng của con người, loài vật không có trải nghiệm đó (nếu chó nhà cũng có trải nghiệm về nỗi chán, như chúng ta vẫn tưởng tượng – dẫu làm sao có thể biết được điều đó? - thì chắc hẳn chúng học điều đó từ chúng ta); khi các nhu cầu sinh lý của chúng được thỏa mãn và không có sự đe dọa nào, các loài vật nằm ườn không hoạt động để không tiêu hao năng lượng vô ích, và chẳng có lý do gì để giả định rằng chúng đang chán. Hơn thế nữa, không rõ nỗi chán sinh ra khi nào và vì sao; tôi không cho rằng trước thế kỷ XIX đây từng là một chủ đê văn học hay triết học, mặc dù từ này đã tồn tại. Dân quê ở các làng mạc sơ khai truyền thống, từ sáng sớm đến tối mịt đầu tắt mặt tối chỉ để đủ ăn, trong sự đơn điệu của công việc thường ngày, chỉ sống một nơi suốt cuộc đời, họ có trải nghiệm nỗi chán không? Tôi không biết, nhưng tôi hình dung rằng ngay cả một phận đời như thế, chẳng có lấy một viễn cảnh thay đổi, gần như phi thời gian, cũng không nhất thiết phải gây ra cảm giác chán thường xuyên; luôn có điều gì đó xảy ra ngoài lệ thường: con cái ra đời, con cái chết, hàng xóm ngoại tình, bão, hạn hán, lụt lội, hỏa hoạn, rất nhiều việc xảy ra bất ngờ, bí ẩn, nguy hiểm hoặc ích lợi. Tóm lại, ngay cả trong những hoàn cảnh có vẻ ù lì như thế, con người vẫn có cảm giác rằng cuộc đời được ban tặng là ân phước may mắn không thể khước từ.
Quả là cái bình thường, sự đơn điệu của cuộc sống có thể bị xem là chán. Ta hay nghe phàn nàn rằng tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng thường xấu: thiên tai, giết người, chiến tranh, sự dã man tàn bạo, khủng hoảng. Câu trả lời thường là: chính thế, bởi khi người ta giết anh Jan ngoài đường thì đó là tin mới, còn khi Jan ăn sáng, đi làm hay về nhà thì không còn là tin mới nữa, chuyện đó chán chết; nếu anh Jan li dị thì đó là tin mới cho người thân bạn bè, còn nếu anh ta sống hòa thuận với vợ thì chả có gì sốt dẻo, chán như con gián. Tin mới là điều bất ngờ và ít khả năng xảy ra, nhưng sự ngẫu nhiên thường bất lợi cho chúng ta; nhưng gì ngẫu nhiên chủ yếu là những điều không hay, cái hỗn loạn của thế giới không phục vụ chúng ta. Lịch sử loài người là cuộc đấu tranh với sự ngẫu nhiên, là nỗ lực giảm thiểu sự ngẫu nhiên trong cuộc sống; nếu ngẫu nhiên thường tốt lành thì chẳng có lý do gì để chiến đấu với nó. Quả thật là khi anh Jan trúng xổ số, đó cũng là tin mới, nhưng đó là tin mới tốt lành cho Jan, song là xấu cho tất cả những người không trúng nhưng đã mua vé để Jan được trúng; bởi vậy rốt cuộc đó là tin xấu.
Những người may mắn, ví dụ những người dành phần lớn đời mình cho thư sách, nói chung không thấy chán, nghĩa là họ không có cảm giác thiếu ham muốn tìm tòi, họ luôn có thể tìm thấy những ham muốn ấy. Những tưởng con người đương đại không nên cảm thấy chán, bởi hầu như tất cả mọi người đều có thể xem ti-vi, nghe đài, nghe nhạc và có những thú tiêu khiển khác, nơi người ta dễ dàng tìm thấy cái gì đó lý thú. Trong khi đó, ta có thể đọc đâu đó, thí dụ, rằng các nhóm côn đồ trong các thành phố ở nhiều nước phá phách vô mục đích, gặp gì đập nấy, gặp ai đánh nấy, và chúng giải thích: vì chán. Xem các bộ phim kích động, như ta thấy, là chưa đủ, chắc hẳn bởi đó chỉ là sự xem thụ động, bởi không thể rũ bỏ cảm giác giả tưởng, không trực tiếp tham gia vào nó. Ngược lại, những cuộc phiêu lưu hấp dẫn của các nhân vật truyền hình có thể làm tăng thêm nỗi chán, tăng thêm cơn đói được kích thích và cả cảm giác thiệt thòi: vì sao tôi không có cuộc sống thú vị như anh chàng thám tử kia, vì sao tôi không giàu như Liz Taylor? Phải làm gì đây với đám thanh niên tội nghiệp, tuy không đói ăn thiếu mặc nhưng cũng không có chút của cải nào, không có cuộc phiêu lưu thực tế hay giả tưởng nào như của các minh tinh màn bạc? Phải hướng bản năng tò mò và nhu cầu ham muốn của họ vào con đường „kiến thiết”, để họ không giải tỏa chúng vào những cuộc tàn phá thiếu suy nghĩ và những cơn lên đồng tập thể trong các buổi hòa nhạc ầm ỹ ồn ào vô nghĩa, nói thì dễ, nhưng phải làm thế nào đây?
Hiếu kỳ là bản tính par excellence của con người và thiếu nó thì chúng ta chẳng có lý do gì để thoát ra khỏi tình trạng thú vật: hiếu kỳ, tức bản năng khiến chúng ta tìm hiểu thế giới chỉ để tìm hiểu, không lệ thuộc vào việc các nhu cầu sinh lý của chúng ta có được đáp ứng hay không và chúng ta có muốn tránh nguy hiểm hay không. Tương tự như trong trường hợp nỗi chán, „hiếu kỳ” có thể là sự vật, và „hiếu kỳ” cũng là tinh thần hướng đến sự vật đó; không thể có cái này mà thiếu cái kia. Bởi „là người hiếu kỳ” và „thú vị” trái nghĩa tương ứng với „là người chán” và „chán”, có thể nói rằng hiện tượng chán là cái giá chúng ta trả cho việc mình biết hiếu kỳ; không có gì là thú vị đáng hiếu kỳ nếu không có gì chán. Nói cách khác: chán là một phần không thể tách rời trong nhân tính của chúng ta; hoặc là: thực kiện rằng chúng ta có khả năng cảm thấy chán khiến chúng ta có nhân tính. Cảm giác chán đánh thức nhu cầu thoát khỏi sự chán, dĩ nhiên, sự thoát khỏi này có thể mang tính hủy diệt, nhưng cũng có thể mang tính sáng tạo, và trường hợp thứ nhất dễ dàng hơn. Chiến tranh thật khủng khiếp, nhưng nó không chán và hàng bao đời nay trong chiến tranh, bên cạnh các nguyên nhân khác, có phần của nhiệt huyết chiến đấu để chống lại nỗi chán.
Hơn thế nữa, bởi sự lặp lại dễ sinh chán, có thể e ngại rằng những ham muốn hiện có như nguồn gốc của sự hiếu kỳ sẽ luôn cạn đi và chúng ta sẽ luôn có những ham muốn không chỉ mỗi lúc một khác hơn, mà còn mỗi lúc một mạnh hơn, như những kẻ nghiện ma túy. Ta không biết điều này có thể dẫn đến đâu.
Trường hợp cụ thể của hiện tượng đang được xem xét là „người chán”, một người rất khó miêu tả. Đó không nhất thiết phải là một người không biết phân biệt nặng nhẹ, kể lể đủ thứ với những chi tiết thừa thãi và dở ẹc, người không biết châm biếm hay hài hước, không thể dứt khỏi những sự việc chả khơi dậy phản ứng nào xung quanh, không thể đưa vào guồng cái cơ chế ảnh hưởng lẫn nhau với người khác; vậy có lẽ anh ta không có khả năng tạo ra sự tương phản trong giao tiếp chăng? Trong nghĩa này, anh ta rơi vào tính chất chung của sự chán được nêu ra ở trên. Sẽ là thừa thãi khi thêm rằng: là người chán hay không chẳng liên quan gì đến học vấn hay tính cách tốt xấu.
Utopia, tức tình trạng thỏa mãn tuyệt đối, thiếu vắng xung đột và căng thẳng, dĩ nhiên, nếu đạt được, sẽ là tận thế của loài người, là sự khô kiệt bản năng hiếu kỳ. Chừng nào giống loài của chúng ta còn là chính nó, chừng đó còn không thể dựng xây utopia. Dù sao đi nữa, liệu có thể hình dung một „cáo chung của lịch sử” với nghĩa như ông người Mỹ gốc Nhật nói gần đây, tức thế giới trong đó không có bất cứ lựa chọn tưởng tượng nào cho các định chế chính trị, cũng không có chiến tranh và thiếu thốn, nghệ thuật và văn học suy tàn, nỗi chán ngự trị khắp nơi? Tôi chẳng lo lắng lắm về tính hiện thực của lời tiên tri này, nhưng nếu nó trở thành hiện thực, thì hậu quả nhãn tiền chắc hẳn không phải là sự đồng thuận với nỗi chán vĩnh cửu, mà nhiều hơn là sự tìm kiếm lối thoát liều lĩnh tuyệt vọng như của các băng đảng thanh thiếu niên đã nhắc ở trên: ham muốn hủy diệt chỉ để hủy diệt. Bởi vậy nỗi chán, như mọi hiện tượng phổ quát khác của con người, xứng đáng được ngợi ca, nhưng đồng thời cũng nguy hiểm.
(Trích từ tập "Các thuyết trình mini về những vấn đề maxi" (Mini wykłady o maxi sprawach), NXB Znak, Kraków 2008)

MỜI RƯỢU



French kiss

Ừ thì môi tím

Môi cong tràn trề
Ôi môi hờn dỗi
Ôi lòng tái tê...

Nhấp ngụm môi đi

Vùi sâu vào nữa
Cho cong xuân thì
Cho vồng ngực tối
 

Cho thiên thai về
Cho mộng tràn trề
Ươm tơ ướt đẫm...
Kéo nhau vào mê...
(Uyển Di )


MỜI RƯỢU


Này em hãy liệm
Nỗi buồn chán chê
Vào vòng tội lỗi
Cơn say đam mê

Hãy uống cạn ly
Chớ đừng lần lữa
Đời người mấy khi
Được lần phạm tội

Cớ gì ủ ê

Khi rượu ê hề
Trong tình thấm đẫm
Máu còn rần tê