Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 4 tháng 7, 2017

V ư ợ t q u a t h ờ i - m ặ t - n ạ ?





Truyện ngắn



1*

Đại ca vung tay ra lệnh và hắn cũng là kẻ mẫu mực làm đầu:

-Từ nay, không cần mặt nạ. Đây này…coi, tự tao lột lấy.

Chúng bộ hạ giật mình kinh ngạc. Chưa kịp hiểu ất giáp gì nhưng vừa thấy rõ bộ mặt thật của “chúa thượng”, bọn tôi thần lập tức thi hành đồng loạt. Chúng cố không tỏ vẻ gì khác lạ. Từ lâu, cái lý-luận-không-bao-giờ-phổ-biến “cũng mặt rạch như nhau” đã ngầm gắn kết chúng như keo. Ít ra, nó đang giúp cả bọn “lờ đi” cơn choáng váng. Kết quả có lợi hay không mới là điều đáng kể?

Tự sờ vào “bản mặt lộ thiên”, đại ca minh bạch giáo huấn:

-Nay vàng thau quá rõ, không có chuyện lộn sòng như xưa. Mặt nạ nào cũng chẳng lừa thêm ai được. Xem ra, mọi cách kiểu đều đã “quê cơ”…nhàm chán.

Hắn tiếp tục truyền thụ:

-Bây giờ, tất cả “tự lột” để nâng cấp bản lĩnh. Không riêng gì các chú mày, qua việc nầy tao còn muốn gián tiếp bảo cho ai nấy đều biết: Đã đến lúc chúng ta “ăn hàng” công khai… Tóm lại, từ nay các chú mày “làm hàng” vô tư, không phải cần ngụy trang xóa vết. Kiểu cũ chỉ khiến các băng nhóm kẻ thù cười đểu. Giờ, hễ “cấn khàn” là “tái”. Các chú mày nhớ đủ chưa, hả? Mọi việc còn lại, phần tao…

Đại ca ngừng nói để “thổi kèn” chai uýt ky. Hắn phất tay chỉ đống mặt nạ dưới chân, bạnh mặt nói với lũ bộ hạ đang nín khe, học việc:

-Nghe đây, bất kỳ băng nhóm nào, dù thể hiện sớm nhất quyền lực “phủ sóng” nhưng xem ra vẫn chưa dám “chơi trội” liệng bỏ cả mặt nạ như tao, thủ lĩnh ấy chưa đủ tư cách để ngồi tổng đại ca. Ấy, nâng cấp để hiện đại hóa nghiệp vụ là không thể nào chậm trễ. Chiến lược mới, đến lúc tao cóc cần thứ “đồ nghề” lỗi thời, hèn kém. Nó phiền hà, phí thì giờ và “mất mặt” với những thằng đại ca khác.

-Vâng, thưa đại ca. Thế là từ nay chúng ta hoàn toàn không sợ lộ phải không ạ?

-Thằng ngu. Vấn đề đó quá xưa, cũ rích. Đã bảo ai cũng đã biết tỏng tòng tong…còn lo lộ quái gì, hả? Quyền mưu “nhất tiễn xạ song điêu” của tao để buộc lũ nạn nhân “bó phép” không “khổ nhục kế” chờ thời. Nhưng “vế” nầy cũng chỉ là chuyện “nhí” mà thôi. Quá nhỏ. “Vế” khác kia kìa…

Đại ca tỉ mỉ cắt giấy kiếng bọc xì gà bằng kéo mini mạ vàng tây, hắn ngạo nghễ gắn chếch lên môi. Xoạch một cái, đàn em nâng bật lửa. Nhìn vào làn khói phun ra thơm lựng, đại ca cứ cười gằn không thôi. Hắn lăm lăm mũi xì gà, cứ xỉa mãi vào những đối tượng ẩn hình nào đó:

-Quan trọng hơn trăm lần, là chấm dứt cơ hội băng nhóm khác mượn cớ để “quậy bèo” chơi đểu. Bọn bảo kê, bọn châm lửa các “nạn nhân con mồi” khi lần ra “đường cháy chậm” đến tao… Hừ, có đủ công lực như tao để sẵn sàng chơi ván bài lật ngữa chưa? Chúng nó phải trả lời hoặc “chờn” và lập tức “xếp giáp”… Đấy, thực ra thì kẻ thù nguy hiểm nhất chả mơ hồ xa lạ. Này các chú em, đây mới là cuộc thượng đài “mai hoa thung” đầy thách đố. Nó không có “vé” cho những thằng đại ca “què sách vở”, những thủ lĩnh võ biền chỉ biết liều thân cố mạng, những tên trọc phú “lên giàn” bằng nấc thang tủ két, hoặc bọn “đểu nông” chưa hề làm ruộng lấy một ngày lại “ăn có” toàn đẩy lưng người chăn trâu cắt cỏ. Chúng đều lết đi từ “đầu gối tới ngồi ngai”…Tất cả “hùm bà lằng” y hệt nhau, cùng một “tử huyệt”: Đều ngu dốt gặp thời, “ngáp ruồi” được quyền oai vị lớn. Chúng quá cần quân sư “thổi đít”. Cuối cùng thật nực cười, “họ Tào” nào rồi cũng không thoát khỏi tay “Tư Mã Ý”. Mưu “đoạt vốn” âm thầm treo ngay sau lưng chúng… Ha ha, những “con nọc đình làng” được tắm rửa, ăn cực no, nằm khềnh kêu eng éc để cuối cùng, đợi đến “mùa chọc tiết”.

Dí thật mạnh cho tắt ngấm mẩu xì gà đang hút dở, đại ca nghiến răng đứng bật dậy rời khỏi nệm ghế bành:

-Vì thế, tao đếch ham “lấn lưng” các đường biên giang hồ để chia chác thị phần như cũ. Nó mỏi mệt lôm côm, cóc nhái và rặc lũ kiêu căng xuẩn ngốc…Cú một, không chần chừ, tao phải cất cánh ngay từ đây để “đại bàng nhất thống”…Hừ hừ, chỉ an thân thủ phận, kế “ỷ giác” thôi hả? Chẳng khác gì cứ cong lưng “gom vốn” giúp người ta. Tất cả rồi sẽ dâng nạp, sẽ chẳng còn cái đếch gì ngoài phần thù lao đã nhận…Đù má nó!

Hắn trợn mắt “chơi” một đạp vào ghế bành sau lưng. Ghế bật ngữa. Mặc các đàn em lật đật lo dọn ngay và thay vào cái “hoành tráng” hơn, đại ca cứ “tọa” hẳn lên bàn:

-Đấy, mấy cái “bàn chông bọc nhung” khắc rồng chạm phụng. Ngồi lên để cuối đời đi “tàu suốt” không kèn không trống. Tao hả? Tao đếch mê làm “vỏ chanh vĩ đại”.

Đợi đại ca hạ hỏa, chúng bộ hạ chưa biết làm gì. Một thằng can đảm, vẫn không quên công việc:

-Đại ca “tới” hết chỗ nói. Còn cái “lý thuyết công khai” ra sao dạy đàn em “lận lưng” luôn thể.

Búng tay cái toạch, đại ca tỏ ý hài lòng:

-Lẽ tất nhiên, chú em. Lý thuyết mà không quyền lực, đấy chỉ là bùn lầy tăm tối. Quyền lực như ánh mặt trời chiếu đến đâu, nơi ấy lập tức xoay chiều “đủ bóng”. Hiểu không? Lập tức, ngay cả một bãi phân trâu bốc thối. Có thấy chưa? Đấy…

Hắn ta nheo mắt nhìn vào các đàn em như thôi miên. Đột ngột, đại ca thò tay vào bụng thằng gần nhất rút ra khẩu súng báng ngà. Ném lên bàn như một cục đất, đại ca hỏi trổng:

-Chó lửa chú mầy nổ đạn gì? Nói đi.

Gã cận vệ khúm núm, ánh mắt đầy hãnh diện:

-Vâng, nếu đại ca muốn. Tùy lúc thưa anh, nói chung đạn thì đồng, chì, thuốc mê hay độc dược xi-a-nua có tất…

-Tốt, đó là việc của chú mày. Còn đàn anh nổ đạn khác. Loại chỉ “bắn ngay vào giấy”, kí tên và “xịt đỏ”. Đây nầy…

Hắn rút túi, ném lên bàn cây bút. Cái vật nhỏ lăn lông lốc mấy vòng, tênh hênh bên chó lửa. Lập tức, gã đàn em đến nâng hai tay, đặt lên cao rồi lập tức lui xuống. Đại ca gật gù phán bảo:

-Quyền lực cũng chính là lý thuyết, khi ấy nó sẽ tự giải thích tất cả… Cái quyền lực ở đây, tao muốn nói là để sinh ra pháp luật chứ không phải làm ngược lại…Đừng có “lo bò trắng răng”. Tao lận lưng “lý thuyết tao muốn” chứ không phải các chú mày. Đơn giản đi. Chỉ gọi dạ bảo vâng là đủ. Nhất nhất…



2*

Hôm ấy, chúng đàn em cùng hân hoan đại tiệc, chào mừng một giai đoạn mới vừa kịp lúc ra đời. Giai đoạn mà “Hắc sử biên niên” biệt chú: “Vượt qua thời-mặt-nạ”.

Nửa chừng, giữa cuộc vui trong buổi sáng đầu tiên, trước khi lui gót - để gọi là bề trên quá rành tâm lý dùng người - đại ca buông lệnh “thả giàn 3 ngày vui chơi tại chỗ”.



3*

Xế chiều ngày cuối cùng cuộc “tam nhật đại tiệc”, đại đa số đều đã “lụy xà mâu” nhưng vẫn còn dăm ba tay gượng được. Chúng “hết món thi công” chỉ lè nhè tiếng được tiếng mất bên nhau. “Bãi tưới” ở đây “dán bùa” trăm phần trăm, bây giờ ngổn ngang như trận giặc càn qua.

Một đứa dựa tường, ngồi ôm mặt nạ:

-“Hở gió” rồi. Sao mầy? Riêng tao “nhột nhột” cái mặt mình…

Một thằng khác phá lên cười khật khưỡng:

-Quen vai không bỏ nổi hả? Lệnh lột xuống phải làm, nghe thằng con.

Giọng thứ ba thì thào xen tiếng “bass” ụa mửa:

-Tất cả… chỉ còn trong… kỷ niệm…

Tiếng thứ tư hét:

-Tao “bồi dưỡng” mày thêm câu…kỷ niệm phân vân…từng tứng tưng… phải quên đi hay vẫn còn nhớ mãi?

Giọng thứ năm lừ lừ sau một cú đấm oành vào vách:

-Sao lại “phân vân” hả thằng nào đấy? Xin lệnh đại ca, giải quyết hết phân vân.

Bỗng tất cả im bặt khi nghe hai chữ đại ca. Sau đó mùi khói tỏa ra từ đám cháy góc phòng. Là một gã khác đang thu gom và đốt đi từng mặt nạ… Cuối cùng, hắn ta đứng lên khuyến cáo:

-Không có chuyện quan trọng, đừng tùy tiện nhắc nhở đến đại ca. Chúng mày nghe đây, phiên tao nói. Lột mặt nạ xuống thì là hết chưa nhỉ? Lộ ra cái mặt người. Cái bản mặt cha sinh mẹ đẻ chứ gì? Chưa hết đâu…

Gã đốt mặt nạ điềm nhiên cúi xuống làm bộ dạng cong lưng. Hắn áp sát hai bàn tay xuống sàn:

-Thấy chưa, hả? “Mặt người” lòng thú cũng là thứ “mặt nạ trời sinh”, khỏi phải lột ra đeo vào xoành xoạch… Chúng mày cứ bàn nầy nọ làm gì? “Nhột nhột” cái đéo? Cốt thú nhưng “mặt người” sao lại bảo không còn mang mặt nạ? Loại siêu-mặt-nạ-tự-nhiên vẫn sờ sờ ra đấy… Coi.

Tất cả thao láo mắt trước hoạt cảnh đầy bất ngờ. “Thằng-bốn-chân” thỉnh thoảng lấy một tay bỏ sau mông đít làm đuôi ngúc ngoắc. Hắn, giọng thuyết kinh trên bục giảng:

-Nầy, bố bảo. Con thú tốt để luyện xiếc không thể nào là con thú thường suy tư, động não. Nó phải dừng, không có mom men qua biên giới “bọn người”. Ngoài quán tính vâng lời đã được thuần dưỡng từ “miếng ăn phủ sóng”, năng lượng cao hay thấp của “cốt thú” là ở cơ bắp và móng vuốt…

Thằng-bốn-chân ngừng. Hắn đột ngột gừ lên, há miệng nhe răng và chồm tới. Nghiêng cái đầu chút, ngoạm mạnh vào cần cổ một con mồi tưởng tượng…

Đứng dậy phủi tay tổng kết. Hắn “múa”:

-Ê, đó là bề trên chưa kịp dạy, nhưng tao đây đón ý: Đại ca muốn phán rằng, đã qua thời chúng ta mãi ôm đồm “mặt nạ giả”…Vốn đã sẵn “mặt nạ thật” nhưng từ lâu chưa từng ai chịu biết? Gẫm lại, chỉ thêm phần phiền toái.

Cả bọn ngớ ra, tỉnh người và ngơ ngác. Tất cả đều dè chừng, không còn lắm lời trước mặt “thằng-bốn-chân” vừa phát hiện. Bất ngờ, trong đám vẫn có đứa ngay lập tức “đón gió”. Gã nầy tươi nét mặt lên, hớn hở vỗ tay như trẻ nít:

-Thế mới biết đại ca không cần phải nói nhiều, do có người sẽ giải thích chi li… Rõ ràng hiểu đại ca đến thế là cùng.

Hất mặt nhìn đám đồng bọn đang “trụt lưỡi” ngồi im, gã nầy dõng dạc tán dương thằng-bốn-chân cú một:

-Ô kê, tất cả nghiêm chỉnh ngay. Tao nói nghe chưa, hả? Hãy cụng ly vì tương lai của siêu-mặt-nạ-tự-nhiên. Luôn thể để chúc mừng người có câu kinh điển mới “lên khung”…



4*

Vâng, thằng vừa hô hào cụng ly ấy ngoài cái tài nhanh nhạy như sóc, hắn ta còn có thêm thứ mũi cực thính của loài chó săn sục sạo, cái tai loài mèo, con mắt thâu đêm cú vọ và tất nhiên, kiêm cả não bộ tinh ranh loài chuột nhắt.

Xa xưa… các thiền sư từng dạy truy tìm khuôn-mặt-muôn-thuở-của-thế-nhân. Họ nói về “bản lai diện mục” như một cách ám chỉ “khuôn mặt đích thực, không giả trá”, khuôn mặt sơ khai, xa xôi nhất… Liệu rằng trong cuộc sống ngày nay, khi soi gương hằng ngày - có ai tự hỏi - đã “chính ta” ngay trước mắt hay chưa?



(Vườn tượng – 21/3/2017)

Trần Hạ Tháp

Thứ Sáu, 9 tháng 6, 2017

Bộ xương người trị giá một tỷ đôla





Phan Huy Đường
Nguyên tác : Un squelette d'un milliard de dollars [1]

199x, Tổng thống Liên bang Hoa-kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Richard Steel, người giàu nhất nước Mỹ, kể như giàu nhất thế giới, Nhà Tỷ-Phú, nhảy lên máy bay phản lực riêng, phóng qua thành phố Hồ Chí Minh, cầm đầu một bộ tham mưu đồ sộ, chí ít cũng hơn trăm mạng. Ông đã dành cho mình mọi phương tiện để thành công. Những người có ít nhiều khả năng phục vụ hữu hiệu mục tiêu của ông đều có mặt. Một mục tiêu không tưởng, chẳng khác chuyện vác đá vá trời : tìm bằng được John, con ông, đã mất tích từ năm 1972 trong một trận dội bom vĩ tuyến 17. John là con trai duy nhất của ông. Ông sẽ tìm nó. Ông sẽ mang hài cốt nó về Mỹ, như ông đã hứa với vợ khi bà lâm chung. Ðứa nhỏ sẽ an nghỉ bên cạnh mẹ trong lăng mộ của gia tộc Steel. Tỷ-Phú đã quyết tâm, không có gì ngăn cản được. Suốt đời, ông chưa hề cho phép bất cứ ai, bất cứ điều gì bó tay ông. Ông là kẻ hiếu thắng. Ông luôn luôn thắng.
Cả bộ tham mưu nín thinh. Như bị ý chí quyết liệt của Tỷ-Phú thôi miên, mọi người đã làm việc cật lực. Nhưng chẳng ai tin chiến dịch này sẽ thành công. Tỷ-Phú hớp cạn ly whisky :
– Mọi chuyện cho ngày mai đã sẵn sàng chưa, đại tá Wood ?
Ðại tá chỉ huy bộ tổng tham mưu. Xưa kia, ông làm việc cho bộ quốc phòng, chuyên trách vấn đề tù binh và lính Mỹ biệt tích trong chiến tranh, lãnh đạo phái đoàn Mỹ trong tất cả những cuộc điều đình với chính phủ Việt Nam. Ông đã phân tích tỉ mỉ, từng cái một, bốn ngàn hồ sơ mà tụi Việt đã trao cho Mỹ trước khi Mỹ bãi bỏ cấm vận. Không hề có một dấu vết về John Steel. Tỷ-Phú đã thuê ông để điều khiển toàn bộ chiến dịch.
Ðại tá càu nhàu :
– Mọi sự đã xong, kho, nhà cửa, dụng cụ, hệ truyền thông. Tổng hành dinh đã sẵn sàng hoạt động từ một tuần nay. Ông có thể liên lạc trực tiếp với cả thế giới qua vệ tinh. Ông có thể theo sát mọi công việc tại trận. Bộ chỉ huy nằm trong một cánh của biệt thự. Quyển Thánh Kinh của bà đặt trên bàn thờ nhà nguyện, cạnh phòng ngủ của ông. Hôm qua, tôi đã kiểm soát lại mọi chuyện. Tất cả vẫn đâu vào đấy.
– Thế còn chiến dịch quảng cáo ?
– Sáng mai, đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí quốc gia và địa phương sẽ có mặt tại cuộc họp báo của ông. Khoảng gần nghìn người. Chúng ta đã mua một trăm ngày quảng cáo trên trang đầu của tất cả các báo, mua quyền phát tin hàng giờ trên đài phát thanh, gửi thông điệp trên tivi mỗi tối, đúng giờ cao điểm. Chúng ta đã thuê tất cả những bảng quảng cáo trên đất nước này và dựng thêm khắp nơi. Không một ai có thể không biết tới lời cầu mua của chúng ta. Sáng mai, bắt đầu. Ông chỉ còn một chuyện phải làm, chọn người đàn bà phục vụ.
Ðại tá đưa cho Tỷ-Phú một quyển an-bum :
– Ðã mua hết. Không ngại sida hay bệnh tật. Bác sĩ của ông đã khám xét tất cả. Họ đều còn trinh và lành mạnh. Người ông chọn sẽ được đưa tới biệt thự ngay tối nay. Cô ta sẽ không được ra khỏi nhà với bất cứ lý do nào. Biệt thự này được canh gác rất nghiêm ngặt.
Tỷ-Phú lướt mắt nhìn quyển an-bum. Quả nhiên, các cô gái đều trẻ đẹp. Ông không quan tâm lắm. Ông không ham mê nữ sắc, chỉ theo lệnh của bác sĩ, làm tình mỗi ngày để bảo đảm sự cân bằng thể lực và tâm lý, thế thôi. Tỷ-Phú liếc qua những lý lịch, ngừng lại trước cô gái đầu tiên biết nói tiếng Anh lưu loát.
Ðại tá ho.
– Ngừng lại lúc này vẫn còn kịp. Tôi không tin ý của ông. Tôi quản lý hồ sơ này hơn hai mươi năm rồi. Kế hoạch của ông thật là điên khùng… Khả năng thành công họa may là một phần triệu.
– Ờ, tôi mua khả năng ấy. Tôi đã trích ra một tỷ đôla để mua nó. Tổng sản lượng quốc dân của nước này là 150$ một đầu người. Chúng ta dư tiền mua cái một phần triệu ấy. Tôi cho anh 100 ngày để tìm ra nó. Chúng ta sẽ thành công. Hãy dẹp đầu óc quan liêu đi, những đống hồ sơ, những toan tính chính trị, những chiến lược chiến thuật thật khôi hài tội nghiệp. Tôi không điều tra, tôi không điều đình, tôi hành động. Tôi mua. Lầu Năm Góc của các anh đã thất bại, nhưng tôi sẽ thành công.
Sáng hôm sau, toàn bộ báo chí quốc gia và địa phương tụ lại trong phòng họp báo của Tỷ-Phú. Tỷ-Phú chẳng phải loại người nói suông, chịu mất thời giờ. Ông vào thẳng cốt lõi vấn đề :
– Tôi đã dành một ngân sách một tỷ đôla để tìm con tôi, John Steel, phi công trong Không lực Hoa Kỳ, biệt tích trong trận đánh ngày 24 tháng 12 năm 1972 trên vĩ tuyết 17. Người nào giúp được tôi tìm lại nó hay hài cốt của nó, tôi cho người ấy làm triệu phú suốt đời. Tôi sẽ trọng thưởng mọi nguồn tin chính đáng. Ngoài ra, tôi mua 150$ tiền mặt tất cả những bộ xương hoang. Tôi nhấn mạnh, tất cả, bất kể là xương đàn ông, đàn bà hay trẻ con. Cứ tìm chúng, cứ mang tới cho tôi, tôi sẽ thanh toán sòng phẳng. Văn phòng chúng tôi sẽ mở cửa 24 giờ trên 24, đúng 100 ngày. Mọi người tới đó sẽ được đón tiếp tử tế.
Và ông rời phòng họp.
Tin loan đi như lửa bốc. Mỗi sáng, báo chí đều đăng trên trang đầu chân dung của John Steel, kích thước, những nét đặc thù của chàng, địa chỉ, số điện thoại, số fax của Trung Tâm Tìm Kiếm, một bản đồ dẫn đường, những trạm xe ca trong các tỉnh lân cận, giờ xe lửa khởi hành, máy bay cất cánh… giá chẵn 150$ cho nguyên bộ xương, bảng giá lẻ cho từng khúc. Mỗi giờ, đài phát thanh lại loan bố tin cầu mua. Mỗi tối, đài truyền hình lại nhắc nhở. Nội một đêm, áp-phích phủ cả Hà Nội, Sàigòn, các tỉnh lẻ và ngay cả những làng mạc hẻo lánh. Một cái đầu lâu… 150$… một lời thầu… vang vọng triệu triệu lần trong cả nước. Người người tranh luận say sưa, từ Bộ chính trị tới dân khố rách áo ôm trong những chòi nghèo nàn, kinh tởm nhất. Có người ủng hộ, có người chống. Chẳng ai nghĩ tới chuyện cấm đoán. Phải công nhận, đó là chuyện nhân đạo. Người Việt vốn biết thờ tổ tiên, tưởng niệm người chết, không thể ngăn cản việc này. Với lại, quan trọng hơn cả, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam gặp dịp may lớn thế. Một tỷ đôla đổi lấy một bộ xương ! Mà ai ai cũng có quyền thử lòng số phận, kẻ quyền lực cũng như dân đen. Chưa bao giờ người ta được hưởng công lý và dân chủ đến thế.
Hôm đầu, không ai đến Trung Tâm.
Hôm thứ hai, lúc đêm xuống, một gã khả nghi, tóc tai bù xù, mặt nấp sau bộ râu rậm rạp, lẻn vào phòng tiếp khách, một túi vải bẩn trên vai. Trong đó, có một bộ xương khá lớn. Hắn dốc túi vải, lĩnh 150$ thủ túi, và biến.
Tỷ-Phú ra lịnh xét nghiệm ngay bộ xương. Trong phòng thí nghiệm được đặc biệt xây cất cho việc ấy, Giáo sư Smith và đồng nghiệp có đầy đủ những dữ liệu, máy móc để xác nhận từng đốt xương của John. Ở đây, có tất cả những hình ảnh, những rađiô-X của John từ thuở sơ sinh tới ngày biệt tích. Hình dáng, kích thước của từng cái xương đã được chụp ảnh, đo đếm, tính toán, và lưu trữ trong một căn cứ dữ liệu dưới dạng hình và dạng số. Một ống kính chụp ảnh bộ xương, rồi chuyển cho một định trình thông minh nhân tạo - chạy trên một máy tính vận động theo cấu trúc của mạng óc - xác định có khúc xương nào là của John Steel hay không.
Giáo sư :
– Không phải nó. Bộ xương này kể cũng lạ. Với hình dáng ấy, nó có thể là một người Mỹ cũng như một người Việt Nam. Theo máy tính là nửa này nửa nọ. Có lẽ là một thằng lai. Mình làm gì với nó bây giờ ?
– Cứ để nó qua một bên. Ðó là thằng đầu. Một thằng lính vô danh chân chính. Kiếm được John rồi, tôi sẽ tặng cho nó một ngôi mộ tại Hoa Thịnh Ðốn xứng đáng với bi kịch của nó.
Ngày thứ ba, một đám người rách rưới đến trước quầy. Họ đều được tiếp đón tử tế, trả tiền đàng hoàng đúng theo bảng giá đã công bố : 150$ cho một bộ xương nguyên vẹn, 10$ cho một cái sọ, 5$ cho xương chày… 10 xu cho những đốt xương nhỏ.
Hệ thống phân loại do Ðại tá thiết kế bắt đầu hoạt động, đổ xương đàn bà, trẻ con vào những kho riêng biệt. Xương đàn ông được nhập kho ngay cạnh sở chỉ huy, nối liền với phòng thí nghiệm bằng những toa xe tự động chạy trên đường rầy. Những con RôBô thông minh phân chia xương xẩu theo 214 loại xương người : xương sọ, xương sống, xương đòn, xương vai, xương cẳng tay… Rồi sàng lọc sơ bộ, xương Việt Nam đưa vào kho đồ phế thải, xương Mỹ đưa qua máy điện tử để xem xét một lần cuối.
Như trong các nước nghèo, thuật rỉ tai truyền miệng hữu hiệu kỳ diệu. Chưa hết một tuần mà thiên hạ đều biết rằng Tỷ-Phú là người trọng tín, tiền trao cháo múc. Một biển người liền bu quanh Trung Tâm, người này mang tới một cái sọ, người nọ mang theo xương chày, xương sườn, xương bánh chè, xương trụ, xương đùi, một đốt xương tay… Chỉ việc tới quầy, trao xương dưới một máy ảnh, là có liền đôla thủ túi… Chỉ có xương chó, xương mèo, xương khỉ… mới bị trả lại.
Từ khắp nơi những dòng người dài đằng đẵng đổ về Trung Tâm. Chưa bao giờ người ta cuốc đất, đào non, bới rừng đến thế… Thỉnh thoảng, có đàn bà, trẻ con bị trúng mìn và bom nổ tung. Tỷ-Phú bồi thường gia đình hậu hĩ, mua xương họ gấp đôi giá thường. Bới cả ký ức loài người cũng chưa bao giờ thấy được một mật độ xương người đặc như thế trên từng thước vuông đất. Có đủ thứ xương, đàn ông đàn bà con nít phụ lão trẻ sơ sinh Việt Lào Khmer Thái-Lan Cao-Ly Úc Tân-Tây-Lan Pháp trắng đen vàng đỏ nâu, vượn cổ Úc châu… và vài khúc xương Mỹ. Tỷ-Phú gửi xương người Tây Âu cho chính phủ nước họ, xương thiên cổ vào viện bảo tàng. Xương còn lại chất vào kho, đàn ông với đàn ông, đàn bà với đàn bà, phụ lão với phụ lão, trẻ sơ sinh với trẻ sơ sinh. Có xương rõ ràng còn mới, cạo rửa chưa sạch, còn dính sợi gân, mẩu thịt. Chẳng sao. Tỷ-Phú không muốn làm bất cứ ai nản lòng, cứ trả tiền, không cãi cọ nửa lời.
Một tháng sau, kho đã chật ních. Ðại tá :
– Làm sao bây giờ ? Ta chất chúng trong kho dành cho người Mỹ ?
– Không được. Anh hãy mua những thửa ruộng quanh đây mà chất. Chúng ta làm đến đâu rồi ?
– Hơn bốn trăm nghìn bộ.
– Tuyệt. Vượt kế hoạch rồi đấy. Khả năng thành công của anh sẽ vượt tỷ lệ một phần triệu. Nếu khả năng ấy có thực, chúng ta sẽ chụp được nó.
Những thửa ruộng tức khắc biến thành kho lộ thiên. Phương Bắc, đàn ông. Phương Nam, đàn bà. Phương Ðông, con nít. Phương Tây, trẻ sơ sinh. Lúc đầu, chỉ là những ngọn đồi khiêm tốn.
Ngày qua ngày, xương cốt rải rác trên đất Việt tuôn về Trung Tâm. Chẳng bao lâu, những ngọn đồi biến thành núi, thấy rõ từ xa hàng cây số. Hệ thống đường rầy chi chít nhanh chóng lan rộng. Bốn còn đường nhựa trắng láng từ Trung Tâm phóng tới chân trời. Bây giờ, đi vào Trung Tâm như đi miền núi, phải băng qua một hốc sâu giữa hai bức trường thành xương cốt.
Một phóng viên đăng trên tờ New York Times bức hình công trường đồ sộ này dưới tựa : “Vì tình phụ tử, công trình ngông cuồng nhất của nhân loại”. Vài ông triết gia già nua của Châu Âu già cỗi cất lời phản đối. Họ chẳng hiểu biết gì cả về kinh tế thị trường. Ðược đào tạo kỹ hơn, vài cậu triết gia trẻ cũng thuộc thế giới ấy đã khéo bình tới bình lui đúng theo chuẩn media. Vài nghệ sĩ Việt đã thất thanh tố cáo xì-căng-đan. Một dân biểu quốc hội cả gan đề nghị thành lập ban điều tra. Chính phủ Việt Nam hoảng hốt tuyên bố quanh co về Nhân Quyền, nghĩa vụ nhân bản. Nó chẳng thể không phản ứng, cũng chẳng thể làm hơn. Nhờ tỷ đôla nọ, cả tỉnh đã hết thất nghiệp. Cả nước cũng bớt đói.
Ðã tới hai phần ba kế hoạch. Ðã bắt đầu thiếu đất để chất xương. Trên mấy hếch-ta còn lại, Tỷ-Phú sai cất lò hoả thiêu. Ông điều khiển sát mọi công việc. Ngày nào ông cũng tham dự những đợt sàng lọc. Ông ít ăn, mỗi đêm chỉ ngủ non bốn tiếng. Ông làm việc không ngừng từ mờ sáng tới đêm. Sau mười giờ tối, ông mới nhường quyền cho Ðại tá, trở về nhà. Ông tắm ào, ngốn một khúc bánh mì thịt, tu nửa chai whisky, làm tình với người đàn bà phục dịch, rồi rút vào nhà nguyện, cầu Chúa, và tưởng niệm, giao cảm với vợ. Mỗi đêm, ông lại nhớ con. Một chàng trai trẻ thế, to lớn thế, đẹp thế, thông minh thế. Với cặp mắt xanh thế. Một cuộc đời đầy tương lai, đầy hứa hẹn như thế. Chỉ mới hôm qua, chưa đầy hai mươi năm. Từ ấy, đêm nào ông cũng đặt tay trên Thánh Kinh, thề tìm lại nó. Mỗi sáng, mới 4 giờ, ông đã có mặt ở phòng chỉ huy.
Ngày thứ tám mươi, thủy triều xương cốt bắt đầu suy giảm. Tới ngày thứ chín mươi, nó cạn trông thấy. Những xương cũ càng lúc càng hiếm. Tỷ-Phú càng chăm chú quan sát hơn. Không mệt mỏi, ông khuyến khích, cổ vũ, động viên người làm :
– Nếu quả thực khả năng thành công là một phần triệu thì chính là ở lúc này.
Ngày tiền định lần tới. Những kẻ bán xương càng lúc càng thưa. Mỗi ngày nhiều lắm còn được dăm chục. Họ mang đến những bộ xương mới toanh hay đã có ít nhất cả trăm năm. Ngày áp chót, chỉ còn một lão ăn mày mang tới quầy một ngón chân mới lóc sơ chút thịt. Nhân viên cho hắn mười xu cuối cùng còn lại trên số tiền một tỷ đôla.
Ðó là ngày thứ một trăm. Suốt ngày, không có ai tới. Ngồi trong ghế bành, Tỷ-Phú nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường. Mũi kim lặng lẽ quay. Ráng chiều thiêu đốt văn phòng. Những tủ gỗ hồng rực ánh lửa. Ðồng hồ báo hiệu ngày tàn. Tỷ-Phú thở dài, đẩy lui ly whisky, đứng dậy.
Ba tiếng gõ nhẹ vang lên trên cánh cửa. Người phiên dịch len vào văn phòng, bước nhẹ như bông :
– Có một ông lão xin gặp ông chủ.
– Cho ống ấy vài đôla và vứt xương của ông ấy vào một đống. Chiến dịch đã kết thúc rồi.
– Ông ấy không có xương để bán. Ông chỉ muốn trao lại cho ông chủ cái này.
Người phiên dịch xòe bàn tay đưa ra một gói nhung đen. Tỷ-Phú nhặt lấy nó, chán nản. Ông hững hờ mở xem. Ông thấy một thánh giá bằng bạch kim, có một trái tim ngọc đỏ khảm ở giữa. Tỷ-Phú rùng mình. Con trai ông đã chết. Nó chẳng thể nào chịu rời chiếc thánh giá này. Mẹ nó đã đặt mua cho lễ rửa tội của nó tại hiệu kim hoàn lớn nhất Paris. Tỷ-Phú ngả mình xuống ghế bành, khẽ nói :
– Ðưa người ấy vào.
Ðó là một cụ già mảnh khảnh, mày tóc bạc phơ, chòm râu nhọn trắng phau, khẳng khiu trong bộ đồ nhà quê màu đất đỏ Cao Nguyên, rộng thùng thình. Cụ chống gậy tre dịu dàng bước tới, dừng chân trước bàn giấy. Tỷ-Phú dang tay mời ngồi. Cụ lắc đầu.
– Ông tìm thấy thánh giá này ở đâu ?
– Nó là của tôi.
– Ông biết con trai tôi ở đâu không ?
– Biết.
– Hãy chỉ cho tôi. Tôi sẽ đổ vàng ngập nhà ông suốt ba đời.
Ông cụ lắc đầu. Tỷ-Phú :
– Vậy thì ông muốn gì, xin cho tôi biết.
– Người hãy đốt những núi xương kia. Hãy trải tro tàn trên đất Việt, từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau. Làm xong, hãy tới nhà ta, ở làng Nhân, chân núi Bình. Ta sẽ trả lại hài cốt đứa con trai cho người.
– Nội bảy ngày nữa, tôi sẽ tới.
Cụ già không trả lời, quay đầu, chậm chạp bước ra khỏi phòng. Chiếc gậy tre của cụ vang trên sàn gỗ, khô khan, đều đặn, như báo hiệu bức màn sân khấu sắp mở.
Tỷ-Phú liền triệu tập bộ tham mưu của mình. Ông hạ lệnh đốt hết xương trong nội sáu ngày. Ðại tá tái mặt :
– Làm sao nổi ! Những lò thiêu đã chạy hết ga. Dân chúng đang than phiền mùi hôi và khói. Chúng tôi phải chật vật hết sức mới vỗ yên được phần nào chính quyền.
– Câm đi ! Cái gì mà làm không nổi ? Chúa đã tạo được cả thế giới này trong bảy ngày. Tại sao chúng ta lại không đốt được đống xương kia trong thời gian ấy ? Hãy tăng các đơn vị lên bốn lần, nhân lương bổng lên gấp hai, và tổ chức ngay sản xuất liên tục. Nếu thiếu lò thiêu thì mua gỗ, than, dầu lửa mà đốt. Cần bao nhiêu ngọn lửa nhóm bấy nhiêu. Tôi muốn, bảy ngày nữa, máy bay cất cánh, trải đống tro khốn nạn kia từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mâu. Tuân lệnh !
Bới cả ký ức loài người cũng chưa bao giờ thấy được lửa và khói nhiều đến thế trên một mảnh đất. Một hỏa ngục, lúc nhúc đàn ông, đàn bà, trẻ con nhọ nhem đen ngòm. Người nối người thành xiềng, thành xích, đan chéo nhau, siết chặt những lò thiêu, những cồn lửa trong một cái lưới mênh mông chập chờn. Xương cốt chuyền từ tay này qua tay kia, từ những núi xương tới những miệng lửa hừng hực. Khói ngộp trời, dày đặc, cay, khét. Ngay từ ngày thứ ba, không ai phân biệt được ngày với đêm nữa. Bóng người ngọ nguậy, giần giật trong bóng đêm. Sáu ngày sáu đêm liền, khói đen ập xuống cả tỉnh, nặng như chì, bào mặt, chích mắt, cào cổ họng. Người ta chui vào nhà, chặn cửa ra vào, cửa sổ. Và khấn. Trẻ sơ sinh im thin thít. Trái đất chỉ còn là một lời cầu nguyện mênh mông, đen ngòm, bị lửa thiêu tí tách liên miên.
Ðến chiều thứ sáu, những lò thiêu, những cồn lửa, những lời cầu nguyện dần tắt. Một mặt trời máu phụt đốt bầu trời, rồi bóng đêm tràn ngập mặt đất. Từ phương Ðông một luồng gió ấm dâng lên, nhẹ nhàng lùa tan khói. Vài ngôi sao nhợt nhạt bắt đầu lấp lánh. Ánh trăng lạnh lùng soi sáng cõi vô ngôn.
Chợt có tiếng gà gáy, chó sủa xa xa. Một trẻ thơ mơ khóc. Mặt trời run rẩy, ngượng ngùng, hé mặt vén màn sương. Tiếng máy rù rì đơn điệu nơi chân trời. Đoàn phi cơ hú rách bầu trời, trải sau đuôi những dải tro xám mênh mông. Trận mưa tro tuôn xuống cõi trần. Không mảnh đất nào thoát thân. Không khí đặc sệt. Tro bám vào cây, cành, hoa, trái. Tro len lỏi vào nhà. Tro làm mắt mù, mũi nghẹt. Tro chét bùn đầy cuống họng. Suốt ngày, từ Bắc chí Nam, cả nước quằn quại trong cơn bão lốc màu tro xám, trong tiếng may bay rú. Về chiều, cơn bão lắng đi, rồi đêm lặng lẽ trở lại.
Hôm sau, Tỷ-Phú đến gặp cụ già :
– Ông lão, tôi đã thực hiện điều ông mong muốn. Xin trao lại hài cốt con tôi.
Ông lão dịu dàng nhìn Tỷ-Phú, nhè nhẹ nói :
– Ta cảm ơn người. Hôm nay đồng bào ta mới tìm lại được nấm đất tổ tiên. Nơi an nghỉ của người chết là nơi có người đang xây dựng những nền văn minh. Hãy đón con người về. Nó nằm dưới cái miếu trong vườn của ta.
Tỷ-Phú lao vào trong vườn. Dưới gốc cây đa, có một cái miếu bằng đất nung. Trong miếu, vài thanh nhang đang cháy. Tỷ-Phú sai người làm đào mả. Họ vác xẻng cuốc tiến tới.
Gần ngay đó, một đứa bé, tựa lưng vào một rễ cái của cây đa, lặng lẽ nhìn. Tỷ-Phú bước tới nó, cúi mình đưa cho nó một đôla. Ðứa bé hất tay Tỷ-Phú, nhảy ra xa, chạy nấp sau lưng ông cụ. Nón lá của nó rơi vào huyệt đạo. Tỷ-Phú nhặt chiếc nón lá, bước về phía đứa bé. Ông rùng mình. Sau màn nước mắt, mắt đứa trẻ bừng lửa, xanh biếc căm thù.
Tỷ-Phú nhấm nháp whisky, nhìn cỗ quan tài sang trọng. Hài cốt con ông an nghỉ ở đó. Một lần nữa, ông lại thắng. Ông đã hoàn thành nhiệm vụ của một người cha, ông đã thực hiện nguyện vọng cuối cùng của vợ. Máy bay phản lực của ông đợi ông cả tuần nay. Nhưng ông chưa thể đi được. Ông không thể rời xứ này mà không biết con mình đã chết ra sao. Ông đã sai người phiên dịch điều tra tại làng Nhân ở chân núi Bình.
Người phiên dịch len lỏi như mèo vào văn phòng.
Tỷ-Phú quay chiếc ghế bành lại :
– Thế nào ?
– Tôi đã làm tất cả những gì phải làm. Tốn cả núi của. Người ta đã kể hết.
– Tốt lắm. Anh thuật lại đi.
– Ông nhất định muốn biết mọi chuyện ?
– Ðúng. Tôi muốn biết tất cả.
– Họ đã giết cậu ấy. Cậu đã kịp nhảy dù ra ngoài trước khi máy bay nổ. Cậu bị gãy chân trái. Có lẽ cậu đã bò rất lâu trong rừng. Ông già bắt gặp cậu nằm ngất xỉu trên một bờ suối và tha về nhà. Không ai biết cậu đã sống bao lâu trong nhà ông lão. Một buổi chiều, cậu rời chỗ ẩn, đi ra suối. Một đứa trẻ thấy cậu. Nó báo động cả làng. Người ta tức khắc bắt cậu. Làng ấy đã từng bị dội bom liên miên. Có nhiều người chết, căm thù ngất trời. Dân làng liền thành lập một toà án nhân dân. Họ kết án tử hình cậu và con gái ông lão. Họ bắn cậu tại trận. Cô gái có mang nên được tạm tha. Khi thằng bé ra đời, người ta trao nó cho ông già, và dắt cô đi.
– Cảm ơn anh, anh về đi. Chớ hé một lời nào cho bất cứ ai về chuyện này nhe. Ðó là lệnh của tôi, anh hiểu chứ ?
– Tất nhiên rồi, thưa ông.
Tỷ-Phú nhấm nháp whisky. Ông lặng nhìn cỗ quan tài sang trọng. Hài cốt con ông an nghỉ ở đó. Một nỗi đau dịu dàng tràn ngập lòng ông. Ông ngồi bất động hàng giờ đằng đẵng. Ðột nhiên ông lắc đầu, đứng dậy, kêu người đàn bà phục dịch :
– Em làm ơn giúp anh nhé.
Ông mở quan tài. Họ khiêng xương bỏ vào lò thiêu. Trong khi bộ xương cháy rụi, họ đặt hài cốt người lính vô danh vào trong quan tài.
Ngày hôm sau, Tỷ-Phú lại đến gặp cụ già. Ông ôm trong lòng một hũ tro. Cụ già đang ngồi dưới bóng cây đa. Ðứa bé đứng sau lưng cụ, hai tay gầy còm ôm cổ cụ. Mắt nó xanh, xanh biếc căm thù. Tỷ-Phú thở dài :
– Cụ ơi, xin trả lại cụ nắm tro tàn của con cụ. Ðúng thế, nơi đây mới là ngôi nhà cuối cùng của nó. Xin vĩnh biệt.
– Vĩnh biệt. Chúc người luôn luôn được bình an.
Tỷ-Phú nhìn đứa bé mắt xanh một lần cuối. Ông bước đi, bình thản, vững vàng. Ông cảm thấy bình yên lạ lùng.
Tỷ-Phú mang bộ xương người lính vô danh về Mỹ, an táng nó long trọng bên cạnh mả vợ ông, trong ngôi mộ tổ tiên ông. Ông cưới người đàn bà phục dịch. Họ đã từng hạnh phúc. Họ đã từng có đông con. Trong đám hậu duệ đông đảo của con người ấy, đã từng có nhiều phụ nữ, nhiều đàn ông lừng danh trong văn chương, văn học, được người đời quý trọng, yêu mến. Một trong những người đàn bà ấy đã trở thành nữ Tổng thống đầu tiên của Liên bang Hoa Kỳ.

Tác giả tự dịch, 2003

[1] Nguyên tác : Un squelette d’un milliard de dollars, Terre des éphémères, Philippe Picquier, Paris, 1994. Bản dịch tiếng Anh, Nina McPherson : The Billion Dollar Skeleton, In Story, USA, Autumn 1994 và The Other Side of Heaven, Curbstone Press, USA, 1995.

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

Chữ







Không một chữ, ừ. Không một chữ.

Giấy trắng trước mặt. Tôi bấm bút, ngoáy thử. Chưa chữ nào chịu phun xuống mặt giấy dù mực vẫn ăm ắp trong ruột. Bút bi màu đỏ, thứ bút dùng để chấm điểm và viết lời phê. Tôi không cố tình chọn màu mực này. Nhiều năm qua, tôi dùng mực đen. Chữ trên giấy phải luôn màu đen. Màu xanh thì đẹp. Xanh dương hoặc xanh cây cỏ, sắc biếc sậm của biển hiền, phù chú của vàng, tím, hồng, chàm, nâu đất, trắng bông gòn…cũng là lựa chọn không tồi với mỗi họa sỹ. Nhiều tranh lấy trắng làm áo khoác, cũng trắng là màu của trinh tiết sương mù, của cõi tuyệt âm tuyệt mù tuyệt náu, và trắng chỉ như lát tuyết ngắn, một dấu chân, kẽ nứt của sự sống trên bầu trời ngùn ngụt đủ thứ màu loang vỡ trong hố sâu. Vàng, của hoàng gia, của kim quang đất Phật, cũng vàng nhấn chìm mọi thủ phủ chọc trời trong sắc rữa, ủng ôi của xác mẹ vắng con. Đen, vật choàng ám muội, phù chú của yêu ma nhưng cũng đen đấy, an toàn, bình yên và bí hiểm, gọi thức lòng can đảm dũng sỹ phải liều mình khám phá từng lớp từng lớp. Người sống sợ màu đen nhưng chỉ ngủ say khi đen đã buông màn. Đêm sục ngầu và cũng trắng. Thực ra nếu đêm đã há hàm, cách ly vạn thằng người trong phòng hơi ngạt thì đỏ cũng khiến mắt mất sáng.

Tôi chưa từng vẽ, chỉ viết.

Tôi từng viết rất nhiều. Gan lì tôi luyện mình trước khi ra những trang bản thảo, khuôn đúc thành sách và chường mặt ngoài cuộc đời. Một bản thảo thường chấm dứt số phận cậu ấm khi đã thành sách. Những đầu sách vào lửa khi vừa chào đời, cũng lắm sách biến dạng, lở loét, sách được nựng, rồi sách bị truy sát, hỏa táng và cấp số nhân trong những xưởng in( bất hợp pháp) vì con người.

Trí óc tôi minh mẫn, nửa giờ trước tôi đã uống rượu. Rượu Xo nhắm cùng đĩa tôm khô. Tôi bật nhạc. Nhạc tôi chọn là những âm thanh của rừng của núi, tiếng sóng vỗ, gió thổi, lá reo vui được thâu lại. Thứ nhạc này giúp bữa nhắm ngon lành hơn. Bữa trước tôi uống rượu cùng chút đồ nướng mua từ nhà hàng danh giá nhất thành phố. Tay dĩa tay dao, tôi xắt nhỏ miếng thịt. Hớp một ngụm rồi nhai một miếng. Nhai thật chậm, tôi gắng quên tạp âm phía ngoài. Đĩa nhạc phát một bản mưa. Cơn mưa rừng nhiệt đới. Những giọt va mạnh xuống cây, khoét xuống đất bùn. Sẽ tuyệt vời nếu xong bữa, tôi viết được gì đấy. Giấy trước mặt, bút trước mặt. Giấy trắng.

*

Viết đi nào. Tôi cố ừ, thôi thúc mình. Tôi hút xì gà. Xơi một điếu, tôi thấy sảng khoái. Chất kích thích sóng não phải làm việc. Hơi thuốc quyến luyến lúc lâu rồi tan vào khí quyển. Tôi đương nghĩ sẽ viết về gì đấy. Cái gì nhỉ, tôi chưa hình dung ra.

Lật lại nhiều năm lịch chất rác trong quá khứ, tôi thấy mình từng viết rất hăng. Vẫn một căn phòng, vẫn mùi thuốc vẩn không khí và vẫn cái bàn với giấy trắng, bút bi. Lắm lúc tôi viết nhằm giảm tải những chướng vật quá ngổn ngang trong đầu, viết bởi cơn nhức lồng ngực, viết sau khi ngốn ngấu một chồng sách, chữ của thế nhân thấu thẳng vào óc, bồi bổ và thách thức tôi lấp đầy giấy trắng bằng ngôn ngữ riêng mình. Một thời gian, đầu tôi rỗng như cái ly úp ngược xuống đất, ừ, tôi không quên mình từng mút ngón tay qua ngày, ngậm đến nhăn nhúm, vẫn chẳng thấy giọt mật nào, trí lực như cái túi thủng. Viết, tôi chẳng biếng. Đói sách và đói viết, hai bi kịch của mỗi thằng chữ. Bấy giờ tôi bạc đãi mình quá, bao nhiêu tiền nướng sạch vào những chồng sách vỉa hè. Khát sách như con bạc, tên ngáo kinh niên. Tôi thấy ngạt và tìm khí thở trong sách, uống từng dòng từng dòng. Nếu giấy ăn được khéo tôi sẽ chén sau khi hút cạn mật.

Trước mặt tôi là một tủ sách, sau lưng cũng tủ sách lớn. Ngày đấy, tôi từng mong có một cái tủ cao chạm trần, trên mỗi ngăn ních đủ thứ sách. Phải là sách gáy dày, nhiễm bụi trăm năm. Triết học, tôn giáo hay văn chương không phải ưu tiên hàng đầu. Lắm lúc tôi bày sách khắp nhà, chất sách cả lên bàn thờ và làm gãy cánh tổ tông. Sau cái cúi xưng tội, tôi vớt sách lên, ừ, sách vướng tàn hương. Nếu bụi là dấu tích thời gian thì tàn hương là vết linh hồn. Tằng tổ nhà tôi đã lần tay, và sách được thương, được trân quý thêm một lần. Bởi sách bày khắp nơi, xếp thành chồng, thành dãy, vây quanh tôi tứ phía nên xẩy chân là vấp ngã. Ngã xuống sách, tấm thảm chữ, êm và dịu ngọt như ngả vào cơ thể thánh nữ. Khoái lắm những cuộc ăn chữ miên viễn hết tối lại ngày. Tôi đọc đến mờ mắt. Trong mơ tôi mộng thấy mình mỏng dính, được đóng vào một cuốn sách.

Thời gian cháy xèo xèo khiến tôi chỉ mong mình có phép co giãn thời gian, cuồng đồ hơn là giấc mơ đóng băng cả thế giới, chỉ tôi với sách tồn tại, yêu nhau và cấy giống nhau bằng những bản thảo kìn kìn chữ. Một triết gia từng bảo rằng chỉ muốn bôi mực khắp mình và lăn trên giấy.(1) Tôi không đồng thuận với quái ý này. Với tôi lão râu rậm, mũi lõ nào cũng chỉ là món thiên thực, thứ rượu nho ngàn năm chưng cất nơi bầu sữa Gaia. Xơi từng trang từng trang, tôi thèm ăn thêm, no nữa, no nữa và khi gân cốt đủ nóng, cơ bắp căng quá độ, những sợi thần kinh nóng bỏng đòi một trận điên, tôi húc mình xuống giấy. Giấy rũ sẵn váy, đợi chờ tráng sỹ ngày rỉ máu. Đọc, chỉ rèn ra một vũ khí, một giáp trụ liền mình với ngựa chiến đầu sừng. Viết thì khác, một đấu trường. Nơi đấy, nhà văn đối đầu với những gã khổng lồ trong số sách mình đã nhai nuốt. Gục rồi đứng. Lắm lúc trong đường gươm sắc chẻ đôi vũ trụ, thiến hết Hoàng Đạo tinh, y, thằng viết bắt gặp tiếng Chúa chết, gã mù trong pháo đài sách, tên ngậm tẩu nôn nao(2), ừ, tôi từng mắc kẹt trong mớ dây chằng bằng tơ tằm. Tơ này bền, dai và không sắc nhưng cứa được. Cưỡi trên mình con trâu đen, tôi bẻ sừng, vặn nó theo lối chỉ dẫn. Bộ guốc quăng quật, hất mạnh cái đầu sừng, tôi văng đi. Trong rối bời, tôi ợ một mẩu giấy, nhai, nhai mãi cho đến khi giấy tan đi, ngấm từ cuống lưỡi. Trận đấu với con trâu chưa thắng bại. Con thú một nẻo, tôi một nẻo và cả hai gặp nhau trên một cây cầu. Tôi lẫn nó đối đầu một lần nữa. Kết quả là giấy trắng, đúng hơn giấy vẫn ngòm ngòm mực nhưng đấy là khoảng rỗng đầy ngờ vực. Không dấu hỏi. Một dấu phẩy ngờ vực. Tôi có lúc reo lên sau khi xong một cuốn sách, thấy mình chế ra thứ hương gây nghiện cả thế gian, buồn thay chỉ là hương liệu dùng lại. Thay vì ướp dâu tây nguyên quả, tôi ướp nửa trái dâu, quên vặt lá. Lên đạn, bắn vào một đám mây. Mây không oặt thành những hài nhi hay tái tạo. Mây rơi. Những miếng mây sắc như và muốt đến mức soi gương. Nhặt một miểng mây lớn nhất, Kant cười kì lạ. Mảnh mây khác, sáng quắc khuôn mặt chia đôi, một của Faust, một của Mehisto(3). Gầy nên một cơ ngơi, tôi bỏ trống gian thờ. Lời nào trong sách rằng, đừng tận tin gì ngoài chân lý sau sương mù. Vác thập tự không phải lựa chọn bắt buộc. Thập giá có thể chẻ đóng thuyền, đóng cầu thang, làm củi đun nước thánh hay từ khối gỗ ruột đặc, tôi nhóm lửa cứu mình cứu những tha nhân co giật. Chân lý là thứ theo đuổi chứ không phải vật sở hữu. Chân lý nào nắm được trong tay, sẽ thành tà thuyết.

Chưa chữ nào. Và giấy trắng.

Tôi tính đặt một câu, câu gì, câu đơn hay ghép. Thử một chữ cái. Tôi viết rồi xóa lem nhem. Bởi xóa quá mau, tôi quên mình viết gì.

Giấy vẫn trắng. Không ai bắt đầu bằng dấu câu cả. Dấu ngoặc được đấy. Sau ngoặc phải là chữ. Tôi nghĩ, chống cằm nghĩ. Ý tưởng bay hơi. Tôi nhìn quanh nhà.

Xóa ngoặc.

*

Sách. Tôi đọc không thấy chữ và chẳng bỏ bụng. Sách nhà tôi chất hết trong tủ. Cái tủ gỗ thật bền, có bọc giấy vàng. Tủ rất mới, kính tủ cũng sáng bong, sau kính là sách. Giấy sách thơm, giấy đẹp, mịn, hoa văn cũng đẹp. Vớ bừa một cuốn, tôi giở và thấy một trang chưa rọc. Đọc một dòng, tôi quên một dòng. Viết một dòng, tôi xóa một dòng.

Nhạc không còn hiệu lực. Trước kia tôi…Tôi từng viết trong lúc đói. Cảm giác rã ruột vẫn phải ngồi trên bàn, bị gió cắt da, khi ướt sũng dưới nắng mặt trời còn trong đầu. Cơn đói rút bao tử, tiếng ục sôi của chảo dầu. Vừa nghĩ đến một cái bánh đầy đủ pate, thịt, mẩu khúc xích lớn với ớt và nước sốt, xà lách tươi, giòn tan, tôi viết xuống. Từ ngòi bút, tôi vấy mực và soạn đại tiệc cho mình. Tôi bắn rụng một cánh phượng và nướng lên. Cục đá trong tay, tôi ném gục con trâu ngày nào. Sau món nướng, là món nướng khác. Các đầu bếp tí hon vừa nhảy nhót vừa xẻo thịt trâu. Mực đen toát mùi thơm của thịt cháy. Nằm sau lớp lông huyền đen, là thớ thịt mềm với các chữ nổi gờ như vẩy cá. Lửa nhóm hết củi, nhóm miếng thịt chữ. Miếng ăn không cần gia vị, gặm rất khoái khẩu. Cái dai không bàn, trong lúc ngấu nghiến tôi thấy điển thư trong mình dày thêm, chữ nối chữ, trang nối trang. Tôi chia thịt cho đám tí hon, chia cho những sinh linh nhỏ kéo đến bởi mùi nướng. Lông phượng chất một đống. Cây bút như đũa thần, chữ tôi kéo một phép màu. Từ đám lông, một cánh chim xuyên lên, khoét cả mây cả gió, hủy hết nắng độc tháng tư. Từ đống bầy hầy thịt, con trâu gượng dậy. Thịt rơi lả tả, chỉ còn xương. Khung xương trắng, chi chít chữ viết. Cái sừng lắc lư, rồi con thú cũng đi. Bộ guốc vừa như khuất khỏi tôi vừa như đi vào đầu tôi. Cánh rừng cao lên, ngọn núi chữ đồ sộ. Đền vàng cháy xa xa. (4)

Tôi chắc lúc đấy mình viết nhiều vì đói. Viết không cứu đói, viết giúp tôi quên đi những thèm muốn phàm tục.

Tôi bỏ đói mình và suýt ngã gục. Một bữa thịnh soạn với đủ loại dưỡng chất, rượu ngon và đá lạnh. Tôi ních no mình. Cái bụng lớn dần lên và căng cứng. Cây viết trên bàn, giấy trên bàn. Giấy trắng, tuyệt không một vân chữ.

No quá, tôi muốn ngủ. Những tháng này hễ no là tôi ngủ. Giấc thật sâu. Tôi đã ngủ, đúng hơn, chỉ lịm đi. Không có lấy một giấc mơ ngắn. Không ý tưởng, không tưởng tượng, không mơ. Tôi thường đắn đo giữa viết và mơ luôn có mối liên kết, tương hỗ nhau. Trí tưởng tượng là hiện thực của mọi hiện thực đời sống. Thứ hiện thực bị giấu che trong cái bóng không ai nhìn. Quấn-Quýt cũng như một trạng huống trăn lấy bản ngã mình. (5) Một cuốn sách bay được, trước hết kẻ viết ra nó đã có một trí óc quái đản, thích mộng du lúc thức và luôn mơ giấc chẳng lành.

Quên đi giấc mơ khi vừa tỉnh dậy với lý do trí nhớ chẳng mấy thuyết phục. Sự thật thì tôi chẳng cảm giác mình đã mơ. Giấc rất đều, êm trong bình yên. Thứ khoái cảm bị rượt đuổi, bị nắm gáy, ném đi, sự thoi thóp khi mở một căn phòng chỉ tìm thấy đủ thứ chìa khóa mở những căn phòng khác xuyên vào lâu đài, cái cẫng mình hồi hộp, tróc da gà đòi thoát mộng bằng cú nảy bật khỏi chỗ nằm, đâu rồi sự vã mồ hôi lạnh, những tín hiệu may rủi khi rụng răng rụng tóc, nhện đốt, rắn nuốt, bay lên và tan chảy dưới xe ngựa…không thấy nữa. Giấc ngủ lành. Có lúc tôi ngủ dài, say sưa cả ngày trời. Ngủ dai dẳng đến mức khi tỉnh lại thấy khô khan. Óc tôi không nặng nhưng cứ ù ù, như có ai đang thổi tù và trong đầu. Tiếng tù rất to nhưng không rõ âm, chỉ biết nghe chối, vừa lù phù vừa ong ong như mấy ông già hết hơi thao thao chủ nghĩa xã hội. Chân tay rã rời, buồng tim tôi loạn nhịp. Tỉnh táo lại, tôi bước vào bàn và chẳng viết được gì. Những dòng viết bạt mạt rồi cũng bị xóa sổ.

Tôi từng viết rất mau về tình trạng bươm nát. Đôi phút rỗng ruyếch khô hết ý tưởng cũng giúp tôi viết ra trường đoạn hàng chục trang. Bệnh trạng nào cũng là thời cơ của bút. Bội phản đâu phải xấu xa. Nếu Đại Đồng luôn là tấm giáp của Độc Tài, bần cố nông sau khi vang danh, liền chém đi bàn chân đất để viết rằng mình sinh từ trời, con của rồng của phượng của thánh, nếu cõi người mong các phép màu từ Như Lai hơn phật pháp, bất chấp việc sẽ kéo ông khỏi Niết Bàn, bắt ông phải nhập vai tượng gỗ vô tri, thì người phản người là lẽ thường. Mọi cú huýnh, nhát đâm là mồi, là thuốc dẫn giúp thằng người hết đái dầm.

Túng chữ quá, tôi sẽ lôi cổ từng cuốn sách, hớp từng ngụm chữ nhằm đắp đầy mực. Và rồi, tôi bổ mình xuống giấy. Tại sao nhỉ, giờ này giấy trắng vẫn giấy trắng. Kẻ ngang hay ô ly không quan trọng. Tôi vừa uống một ly café chồn, loại cao cấp nhất được sàng kỹ lưỡng từ cao nguyên. Rồi một tách capuchino thật đặc. Mắt tôi sáng quắc, đừng mong cơn buồn ngủ sẽ chụp xuống và tiễn tôi vào tấm rèm mông lung. Nhưng không một chữ. Cả khi tôi đánh lừa mình rằng giấy không đủ mịn hay bút quá tồi, không vừa tay, hay chăng nhai sách chưa đủ thì đấy vẫn chỉ là cắc cớ vụng về. Mất ngủ là hiệu quả của café.

Hàng tiếng trời, tôi hết gật gù lại chống cằm. Hút thêm thuốc. Và nhạc, vẫn thứ nhạc thiên nhiên được thu trong cd. Sau khi viện cớ chán chê rằng âm hưởng rừng thiếu sự tĩnh tại, tôi chuyển sang tiếng lá rơi nhẹ, bấm sang chương sóng rì rào, suối nước, sáo diều vi vu đùa cùng mây. Nhạc nhẽo không tạp âm, ừ, cánh cửa. Cửa kính nhà tôi không cách âm nhưng đủ dày để lọc hết tạp âm bên ngoài. Hễ hé mở cửa là tai sẽ chảy nước. Bấm bút, rồi bấm bút, tôi tắt béng nhạc. Tôi tỉnh táo, quanh tôi tĩnh như không gian vừa được tắm gội.

Bàn viết. Không một chữ, ừ, không một chữ.

*

Mực tôi chọn, đỏ. Tôi thường viết mực đen. Các bản nháp luôn phải màu đen, à, đen là thứ màu vĩnh viễn nhất, sách nào in ra cũng chữ đen. Viết bằng bút đen chữ không đẹp hơn, ấy chỉ là thói quen. Tôi không nhớ mình quen viết mực đen bao giờ. Giấy không lấm màu đen, thì vẫn trắng. Mực đỏ là chọn lựa của riêng tôi. Không có phá cách nào như một đầu sách chỉ viết chữ nghiêng, không chấm không phẩy không xuống dòng, nhân vật không tên. Một bản thảo chỉ với một màu chữ đỏ đậm nhạt tùy ngẫu không ấn tượng lắm dù với cá nhân tôi hay người biên tập. Trừ việc nhức mắt. Sẽ có người sẵn sàng bỏ thời gian để tô lại chữ trên bản thảo dù bằng mực xanh hay mực đen.

Cắm ngọn bút xuống giấy. Một dấu chấm đỏ. Tôi dự tính từ hạt nhân này sẽ trồng cái gì đấy. Bút cắm thế. Đầu tôi không ngổn ngang, mọi thứ còn trật tự và gọn gàng nhưng tuyệt nhiên không còn háo hức.

Quá nhiều lần, tôi nhìn tháp Big Ben và phết lên giấy đủ thứ kỳ quặc. Không phải lớp tuyết dày, đóng băng tháp đồng hồ và khiến thời gian trễ đi, hai mươi tư tiếng nhân đôi nhân ba nhân bốn rồi tắc lại, tuổi xuân kéo dài, rồi thì những em bé mãi là em bé dù trí óc có thông thái hơn. Không có cái trống sắt, không luôn cả tiếng hét cắt thủy tinh. Chỉ là những đứa trẻ lớn và không bao giờ chết. Đừng phì cười vì một vương quốc toàn búp bê. Kim đồng hồ kẹt trong băng. Thời gian là vô tận, hãy sống thêm nhiều cuộc đời. Viết rằng mỗi Noel, ông già tuyết lại cưỡi tuần lộc bay lên ngọn tháp. Các ống khói không có dấu vết xâm phạm, bít tất rỗng vẫn rỗng. Đêm đấy, ông già ném quà từ nóc tháp đồng hồ, quà dành cho cả người lớn lẫn trẻ em, cả trẻ ngoan lẫn không ngoan. Sau khi mở túi, một điều ước được hiện thực. Phép màu chỉ giành cho người nghèo và những ai đã cầu nguyện dưới chân Chúa. Thế rồi, Noel nọ, một tiếng súng và không ai còn thấy ông già. Số quà tứ tung LonDon, đều rỗng không. Cũng tháp đồng hồ, tôi từng gắn biết bao ngọn nến, lửa nến lúc nào cũng cháy, riêng mùa đông thì kết băng. Băng ấm, sưởi ấm cả Anh quốc. Bao giờ nhỉ…chuyến bay đã đưa tôi đến Anh, tháp Big Ben trước mặt. Năm đấy, mùa đông không ai tặng tôi quà.

Dấu chấm xuyên xuống giấy, đậm và loang.

Năm…tôi đã viết về những xác cá trắng biển. Nước mắt dân nghèo không chữa nổi chất độc nạo buồng trứng. Chất trắng đùn ngày một nhiều, rộng và bao la hết mặt biển. Mùi thối dày lên thành những tầng những tầng. Không khí như bị trục vét, hóa khí độc. Một cái hít quá sâu, sẽ thở ra một cái chết. Bút cắm phập. Xác cá nổi mặt nước và nổi cao hơn mặt nước, hướng trời. Từ lưng chừng, mùi ung thối đã sát thủ nòi giống được tẩy sạch. Cá không sống lại. Xác được gói trong mây, và mây, an táng cho những sinh linh tội nghiệp. Những sinh vật biển nghe tiếng đồng loại, cũng chào biển, bay lên. Tôm, mực, sứa, sao biển, ốc nối nhau leo lên, cá voi nổi chậm còn chàng mũi kiếm phóng một đường thật dài, cá mập trắng hiền đi và bơi khỏi dòng nước uế, gia tộc bạch tuộc cũng trèo lên, mỗi xúc tu giữ một rặng san hô. Cá xuyên qua mây và biến mất. Một chốn với nước sạch và gió trời bao dung đợi cá. Nơi đấy, không có giống hai chân. Biển hết cá, cũng bay hơi, để trơ trơ giữa địa cầu một sa mạc sâu hoắm như thấu xuống Vô Gián. Hết một cây bút là một cây bút. Tôi lờ mờ nhớ mình đã viết biển dâng cao, nuốt hết mặt đất, xóa sổ giống độc ác đã hủy biển bằng chính thứ nước nồng nặc phenol. Một ngẫu đoạn, tôi viết rằng biển cạn khô sinh vật, sóng dềnh lên rác thải. Xú uế muôn nơi. Xác người chết trôi ngổn ngang. Không còn cá, xác chỉ nuôi ra giòi. Và giòi, khi no bụng sẽ hóa ruồi. Và ruồi, bay kín trời đất, nhấm nháp mọi thứ còn sót lại. Biển cạn nước, chỉ rác đùn lên những pháo đài lớn. Đấy, vương quốc mới, triều đại mới của dòng Diptera. Trời đất chỉ thấy ruồi. Tiếng vù vù, bóng đen cả hành tinh. Chữ được nhuộm đen, cứ vậy đâm xuống giấy. Chữ chồng chữ, cộn hải triều. Tôi như viên đường, kích dụ loài kiến đạn kéo đến xé phanh. Ngón tay tôi run run, có lúc cứng đơ rồi thì ngón tay rỉ máu. Lúc đấy, tôi mong mình có một cây bút không bao giờ hết mực cùng xấp giấy vô tận, hết lại có. Viết hết giấy trắng, tôi viết xuống bàn, ghi chép khắp mọi nơi trong phòng. Lắm khi tôi mong có thể viết lên chính cơ thể mình. Để chữ phá khỏi nòng bút, xăm vào da, thấu đến xương. Khi tôi chết, họ sẽ tìm thấy một cái xác đầy chữ như cuốn sách da người.

Dấu đỏ lớn lắm. Mực lấm xuyên trang giấy. Không một chữ.

Tôi lùng đọc sách, mở sách điên loạn như cố cướp bóc tiền của thiên hạ để xây lên triều đại mang tên mình. Kéo hết cửa kính, tôi lấy hết sách. Những tầng sách ở quá tầm với thì tôi dựng thang. Vác từng chồng từng chồng. Các ông tổ Hy Lạp, binh đoàn La Mã, Thiết Mộc Chân, tôi ném lão râu xồm lẫn Mao Trạch Đông xuống. Lôi hết thánh thần, bảy mươi hai phép biến hóa, vét sạch Mộc Tinh, Diêm Vương tinh, dải ngân hà được kéo như rút hết len trong áo, chẳng để chừa dù anh em nhà Grim hay chàng thủy thủ lúc tí hon lúc khổng lồ…Sách chồng lên nhau, cao dần cao dần rồi đổ ập. Thang kênh, rồi đổ nhào. Ngã, không đau, chỉ ê ẩm vì các gáy sách bìa cứng. Thời gian lúc này là ngọn nến, phải tranh thủ từng giọt sáp trước lúc ngọn đăng teo thành đống sáp xù xì.

Sách khắp nhà. Chồng cao chồng thấp, xếp thành vòng tròn, đổ dồn dưới đất như lát gạch. Đi đâu cũng dẫm phải sách. Tôi không định dọn thật gọn sách để có một lối đi, không xúc phạm con chữ. Giấy thơm, không ngai ngái mê luyến (6) như số sách tôi đọc nhiều năm trước. Trong một góc nhỏ với cây đèn nhỏ, khi thì gầm cầu thang, trên căn xép cao, một góc ảm đạm trong thư viện, quán café hết thời, tôi cúi đầu xuống trang sách. Giấy vàng hoặc nhợt vàng. Mùi sách cũ với lỗ chỗ vết lủng của răng mối. Chính thứ mùi ương, mốc của thời gian này đã chuốc nghiện tôi. Thế là tôi mê mệt, chữ chui hết vào mắt, xâm chiếm não bộ và tái sinh lại các mạch máu chết. Các dòng gạch chân, khoanh vùng không khiến sách xấu đi. Nếp quăn gấp, một trang bị xé lìa nhét vào túi học là bằng chứng toàn hảo cho việc sách đã sống. Kẻ viết sách rồi sẽ quắt queo, chết xấu xí trong một cơ thể bệnh tật. Khi trút hơi tàn, hắn sẽ bị tống vào một cái hộp gỗ chữ nhật và táng xuống đất. Và sách, nếu còn được đọc, chữ được truyền qua nhiều cái đầu, nhiều cửa tim và bị tranh giành sở hữu thì đời kẻ viết đã không phí phạm.

Tôi từng ngốn không sót chữ nào. Nướng hết sách kinh điển đến tôn giáo, triết học, không buông tha hồi ký hay bút ký, chuyên luận ngắn, dài, sách phản Chúa, rồi thì triết duy vật, duy tâm, tiểu thuyết phản địa đàng. Đọc không để no, cái đọc chừng ấy cũng khác xa việc dùng tri thức để xổ hết bã cặn từ mười hai viên thuốc. Tôi chỉ biết đến sách vở, sẵn lòng bỏ sọt rác mọi vật chất, đoạn tuyệt hết quan hệ người người. Tin cậy sách vở cũng là tin cậy những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn người.

Sách mở hết ra. Chữ nghìn nghìn. Tôi đã chăm chú, nhưng chữ, oái ăm, cứ trơn đi. Quanh tôi sách là sách. Sách chất cao, nghiền mọi đồ đạc còn lại trong nhà xuống đáy. Chữ trên giấy mới, không một dấu vân tay, không nếp gấp, không cả bụi đóng. Chúng được mua và bị hắt hủi.

Quá mệt, tôi nằm lăn trên đống sách. Mồ hôi ướt sũng khắp người. Tôi thấy mệt, thấy nặng vì những múi thịt lớn, cái bụng lớn giấu đi cái rốn lồi. Tiếng tôi thở phì phò, và tiếng ngáy lớn.

*

Sách khắp nơi. Tôi khựng một chỗ, cơ thể này dốc không có gì.

*

Không còn nhạc từ đầu đĩa cd. Tôi mở cửa kính. Bởi đóng cửa quá lâu, bụi làm rít thành ra khó kéo. Dốc sức đẩy, cánh cửa chỉ dịch xê chút ít. Tiếng phía ngoài len lỏi, râm ran nhói óc. Tôi đẩy mạnh, dẫm cả vào một cuốn sách nằm dưới thềm. Giấy nhàu và bẹp dúm dưới bàn chân mập.

Cú đấm. Tiếng loảng xoảng. Từ cái ngách lớn, tôi nhìn ra ngoài.

Tiếng gì đấy, ừ, tôi đập thêm kính. Một cú, thêm một cú, mảnh kính sắc làm trầy máu. Cảnh phía ngoài thoạt tiên chỉ như khe hở, được khoét rộng ra, hệt bộ vuốt bị cắt để thấy bàn tay lành. Phía dưới, thành phố lớn. Các cao ốc đâm thẳng lên trời và rỗng con người. Thang máy chết cứng từ bao giờ, riêng điện đóm vẫn chóe sáng. Đèn giăng khắp các tầng, loại đèn công suất cao khiến tòa nhà như một ngọn núi lửa. Cao ốc xây theo dạng uốn, gập một chữ U tham vọng. Tòa thì nóc nhọn, tòa nóc vuông, năm cánh sao lộn nhào. Chúng đều rất sáng, sáng đến mức lòa con mắt. Dãy phố nào cũng không bóng râm. Nhiều năm trước cây vẫn rợp, đổ vết đen mỗi lúc nắng. Sang Hạ, cây gọi gió và gọi ve bay đến. No nhựa, ve cười cả đêm. Hoa sữa khiến các cặp đôi tìm đến nhau, kiếm mật dù nơi mái tóc quên gội, đôi môi chưa lấm son. Dưới gốc liễu rủ, lứa đôi trao nhau hơi thở. Chàng rất cao, còn nàng phải kiễng chân, hai tay quàng cổ, đóa hoa tìm vào đóa hoa. Gió hà hơi, tóc liễu lòa xòa, tóc nàng cũng ve vẩn. Gió phồng miệng, thổi khí lạnh. Vòng tay người tình xiết mạnh. Chiếc hôn thôi phớt lờ và chặt hơn, sâu hơn, ngon lành như miếng dorayaki. Ngày hôm nay sẽ tàn qua, riêng thời khắc này là vĩnh cửu. Tôi đi trong mùi hoa sữa. Đặt xuống cái ghế nhỏ, tôi ngồi dưới cây phượng và mở sách, cúi đầu. Hương sữa ướp thơm giấy sách. Lá phượng rơi rơi, phủ lên đầu, dính trên trang sách. Tôi đã không rũ lá, tôi để vậy, lưu giữ chúng trong sách. Ý tưởng nhảy nhót, dẫm trên lá cây rơi, nhún cái mạnh và mắc võng vào gió, cứ vậy rong chơi. Tôi bấm bút và trải cuộn giấy. Rồi thì viết…

…Cây đã trụi hết tóc, bị nhổ khỏi đất mẹ. Trên tấm thớt màu hỏa, cây bị chặt, chia khúc như cái bánh ngọt Trung Hoa. Tên đao phủ nào đã núp bóng thần Kali để triệt sản nòi cây xanh. Tiếng cây đổ không còn vang. Sau lớp kính vỡ, tôi thấy những hố thủng, ừ, dấu tích cột mốc danh dự bị nhổ. Nhiều lắm, những cây mới được cấy xuống đất. Chúng trụi lủi, không lá không cành, bộ rễ cũng yếu, không ăn vào đất. Một trận bão là đổ nhào. Khắp nơi chỉ thấy các cọc lớn, cái cao cái thấp, khấp khiểng như bộ răng hỏng. Màu tươi của gỗ bị nạo. Số cọc không dưới sông, không nhọn để đâm giặc Hán. Các cọc cắm trên đất liền, táng xuống cư dân nước tôi, lủng qua tim. Mỗi cọc tương ứng một đầu người, một cái giá treo mình. Rào chắn khắp nơi. Mỗi ngày, giở báo lại thấy tin báo tử. Kia kìa, một người nhảy sông. Căn phòng với đầy đá trong túi không đắm(6) mà nổi lên, nhão nhoét như tờ giấy hỏng. Đèn khắp nơi, dây điện muôn nẻo, phố phường sát vào nhau. Kiến trúc nhà trong ngõ sâu hoắm đời đời không xê dịch. Diện tích hẹp lại, chật ních. Tôi tưởng như thành phố này như một sinh thể sống. Ngóc ngách liền vào nhau nhưng các mô máu, các tế bào luôn xung đột, ăn thịt, đào thải nhau. Thức ăn vào bụng bị chia ra, không thể bài tiết nên dồn ứ lại. Cái bụng lớn cứ trương lên, ậm ạch, và luôn đói. Tôi nhìn ra xa. Vắng tiếng người. Sau những tiếng máy móc két vào nhau, họ im lìm. Ai cũng run rẩy. Có bầm dập không lý do, có bị tiếng còi tầm cắn đứt màng nhĩ, vẫn vô tư. Ai nấy nói vào tai nhau, nói nhỏ, thều thào. Nhà cửa như có ma, đuổi hết ông chủ ra đường. Nơi cánh cửa toang đến gãy cánh, kẻ lạ hoắc bước vào, nói tiếng hẹ. Giấy đấy ư, một tấm giấy tuyệt không khoảng trống. Tất cả bị phủ nhòa trong mực đỏ, thứ mực tôi đã chọn. Đỏ này làm hoa mắt, khiến ai cũng run sợ như thấy máu. Thế rồi, một cái lật tay, giấy úp xuống. Hình in lồi qua mặt sau, mờ mờ. Đừng cố lần vào sợi dây chằng, càng đi sâu sẽ thấy con nhện lớn. Nhện, ừ, nhện đói. Con quái này bắt người không lý do. Chết là sự cố không ai muốn. Không có toà án cho khẩu súng chợt cướp cò, nhà tù thiết quân luật với lũ trộm bánh mỳ. Trong trà có gián, nhưng trà là trà, gián là gián. Kẻ phiền nhiễu, gây rối đáng bỏ tù. Cư dân lết theo cái bóng người khác. Nếu không suỵt thì phải cố cắt lưỡi ngắn đi, nhét thật đầy hạt mận vào họng. Hướng chỉ tay lên trời. Đèn vẫn sáng, choang choang khắp nơi. Dưới đất, xác ve chết yểu. Đàn ong ủ rũ. Hết cây, hết hoa, không còn mật. Tiếng mẹ ơi vừa thốt ra liền bị vặn nhỏ. Mất mẹ, ơi ai bây giờ. Họ điều lao công vệ sinh đến. Chổi sắt quét hết chữ rơi, nước muối đặc sát trùng, vòi phun nước sạch rửa hết chứng tích. Đường xá sạch bong. Bốt. Rào chắn. Súng hướng trời. Nòng súng không chỉ trời. Đạn nhiều lắm.

Tôi lùi một bước, không còn nhạc. Ngoài kia, tạp, ừ, tạp âm trong này. Tay tôi đã ráo máu. Sắp có sẹo. Tay tôi. Hết nhìn tay trái, lại nhìn phải. Tay cầm bút, ừ, tay cầm bút.

Thấy cái bóng mình, tôi đấm. Các cú đấm nhiều, liên tục và mạnh đến mức khiến vết thương há miệng. Cái bóng quét đất, cao hơn cả tôi. Nó bất diệt. Tôi đau.

Nhìn khối sách lớn, tôi như gục. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi…

*

Rầm. Cửa gãy cánh.

Cửa kính thứ nhất đã vỡ, tôi tháo lìa vứt đi. Như con ốc chính bị tháo, số cửa còn lại lung lay.

Cánh thứ hai, thứ ba, thứ tư…Tuần tự thế, cả căn phòng tróc mảng. Sau một cú đẩy mạnh, những mặt kính ngã va vào nhau. Tiếng loảng xoảng kéo đoạn, phòng sang phòng, tầng xuống tầng. Đồ đạc vỡ theo, đèn đóm tắt ngúm, các đĩa Cd lìa tan tành, tủ rượu quý, cái giường với nệm da hổ, gối bông của Pháp, sàn nhà tróc hết, vàng tứ tung. Tôi tụt xuống từng tầng một. Không va đập, không níu vào đâu. Cứ thế rơi. Rồi thì Rầm…

Còn lại tôi với đống sách. Trong sách, toàn giấy trắng.

Giấy trắng, ừ, giấy trắng. Chữ đây rồi.

Tru Sa

9/2016





(1) Paul Nguyễn Hoàng Đức.

(2) Niezche ( người viết rằng Chúa đã chết), Borges, Jean Paul Satre.

(3) Goetheo.

(4) Ngôi Đền Vàng, tiểu thuyết của Mishima Yukio

(5) Tiểu Thuyết ngắn của Romain Gary (dùng bút danh Romily Ajar), viết về một người sống cùng con trăn có tên Quấn-Quýt.

(6) Chữ “mê luyến” trong tiểu thuyết “Con Cú Mù” của Sadegh Hedayat (Hà Vũ Trọng dịch), người viết dùng lại.

(7) Virginia Woolf, tự sát bằng cách nhét đầy đá vào túi và nhảy xuống sông River Ouse, căn phòng, tức “Căn Phòng riêng”, tiểu luận của bà.

Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Chuộc lương tâm





Cách đây hơn hai chục năm, hồi tôi học phổ thông cấp III, đồng hồ đeo tay còn là thứ xa xỉ phẩm khan hiếm. Một hôm, thằng bạn cùng bàn sắm được một chiếc đồng hồ mới toanh; nó đeo đồng hồ rồi xắn tay áo lên trông thật oách làm sao, khiến cả lớp phục lăn. Chỉ vài hôm sau đã thấy mấy thằng khác cùng lớp đua nhau sắm đồng hồ đeo tay. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng ao ước được như chúng nó: sắm một chiếc đồng hồ để mọi người trông thấy mà thèm.

Hôm chủ nhật, tôi về nhà chơi. Lấy hết lòng can đảm, tôi nói với mẹ: “Mẹ ơi, con muốn mua một cái đồng hồ đeo tay, mẹ ạ !” Mẹ tôi trả lời: “Con này, nhà mình đến cháo cũng sắp sửa chẳng có mà ăn nữa, lấy đâu ra tiền để sắm đồng hồ cho con ?” Nghe mẹ nói thế, tôi rất thất vọng, vội quáng quàng húp hai bát cháo rồi chuẩn bị về trường. Bỗng dưng bố tôi hỏi: “Con cần đồng hồ làm gì thế hả ?”

Câu hỏi của bố nhen lên một tia hy vọng trong lòng tôi. Rất nhanh trí, tôi bịa ra một câu chuyện: “Hồi này lớp con đang học ngày học đêm để chuẩn bị thi đại học, vì là lớp cuối nên bây giờ chúng con lên lớp không theo thời khoá biểu của trường nữa, cho nên ai cũng phải có đồng hồ để biết giờ lên lớp.” Nói xong, tôi nôn nóng chờ bố trả lời đồng ý; thế nhưng bố tôi chỉ ngồi xổm ngoài cửa chẳng nói câu nào.

Trở về ký túc xá nhà trường, tôi chẳng còn dám nằm mơ đến chuyện sắm đồng hồ nữa. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau, bất chợt mẹ tôi đến trường, rút từ túi áo ra một túi vải hoa con tý rồi mở túi lấy ra một chiếc đồng hồ mác Thượng Hải mới toanh sáng loáng. Tôi đón lấy nó, đeo ngay vào cổ tay, trong lòng trào lên một cảm giác lâng lâng như bay lên trời. Rồi tôi xắn tay áo lên với ý định để mọi người trông thấy chiếc đồng hồ của mình.

Thấy thế, mẹ tôi liền kéo tay áo tôi xuống rồi bảo: “Con này, đồng hồ là thứ quý giá, phải lấy tay áo che đi để giữ cho nó khỏi bị sây xước chứ ! Con nhớ là tuyệt đối không được làm hỏng, lại càng không được đánh mất nó đấy ! Thôi, mẹ về đây.”

Tôi tiễn mẹ ra cổng trường rồi hỏi: “Sao nhà mình bỗng dưng lại có tiền thế hở mẹ ?” Mẹ tôi trả lời: “Bố mày bán máu lấy tiền đấy !”

Bố đi bán máu để kiếm tiền mua đồng hồ cho tôi ? Trời ơi ! Đầu óc tôi quay cuồng, ngực đau nhói. Tiễn mẹ về xong, tôi tháo chiếc đồng hồ ra, bọc kỹ mấy lớp vải như cũ cất vào cái túi con tý mẹ đưa. Ngay hôm ấy, tôi hỏi thăm các bạn xem có ai cần mua đồng hồ mới không. Các bạn hỏi tôi tại sao có đồng hồ mà lại không đeo, tôi bảo tôi không thích. Họ chẳng tin, cho rằng chắc hẳn đồng hồ của tôi có trục trặc gì đấy, vì thế chẳng ai muốn mua nó.

Cuối cùng tôi đành phải nhờ thầy chủ nhiệm lớp giúp tôi tìm người mua đồng hồ và thành thật kể lại đầu đuôi câu chuyện cho thầy nghe, vừa kể vừa nước mắt lưng tròng. Thầy chủ nhiệm nghe xong bèn vỗ vai tôi và nói: “Đừng buồn, em ạ. May quá, thầy đang cần mua một chiếc đồng hồ đây, em để lại nó cho thầy nhé !” Thầy trả tôi nguyên giá, còn tôi thì dùng số tiền đó nộp hai tháng tiền ăn ở nhà ăn tập thể. Có điều khó hiểu là sau đó chưa bao giờ tôi thấy thầy chủ nhiệm đeo đồng hồ cả. Mỗi lần tôi hỏi tại sao thì thầy chỉ cười không nói gì.

Về sau tôi thi đỗ đại học rồi ra trường và làm việc ở một tỉnh lỵ xa quê. Câu chuyện chiếc đồng hồ kia cứ mãi mãi đeo bám ám ảnh tôi.

Trong một dịp về quê thăm gia đình, tôi tìm đến nhà thầy chủ nhiệm cũ và hỏi chuyện về chiếc đồng hồ ấy. Thầy tôi bây giờ đã già, tóc bạc hết cả. Thầy bảo: “Chiếc đồng hồ vẫn còn đây.”Nói rồi thầy mở tủ lấy ra chiếc túi vải hoa nhỏ xíu năm nào mẹ tôi đưa cho tôi. Thầy mở túi, giở từng lớp vải bọc, cuối cùng chiếc đồng hồ hiện ra, còn mới nguyên !

Tôi kinh ngạc hỏi: “Thưa thầy, tại sao thầy không đeo nó thế ạ ?” Thầy chủ nhiệm từ tốn trả lời: “Thầy đợi em đến chuộc lại nó đấy !” Tôi hỏi tiếp: “Thưa thầy, vì sao thầy biết em sẽ trở lại xin chuộc chiếc đồng hồ ạ ?” Thầy bảo: “Bởi vì nó không đơn giản chỉ là chiếc đồng hồ, mà điều quan trọng hơn, nó là lương tâm của một con người.”

Lý Tử

Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2017

CON BÉ VÀ CÂY HOA CẢI DẦU









Shiga Naoya, 1904





_________________

SHIGA Naoya (1883-1971)

Viết truyện ngắn và truyện dài. Shiga Naoya được xem là « vua truyện ngắn », là nhà văn tiêu biểu của loại tự truyện, là một « thánh chủ » của nền văn học Nhật hiện đại. Ông theo học đại học Tokyo, nhưng không tốt nghiệp ngành nào. Ông bắt đầu viết từ năm 21 tuổi : « Con bé và cây hoa cải dầu » là truyện ngắn đầu tay. Sự nghiệp viết văn của ông chịu ảnh hưởng nặng nề và phản ánh một đời sống gia đình bất hạnh : mất mẹ năm 12 tuổi, ông có những quan hệ sóng gió với bố, đi từ xung khắc đến đoạn tuyệt, rồi hoà giải. Tác phẩm của ông - phần lớn đã được dịch ra Anh ngữ - có thể được chia làm 3 loại : loại dựa trên kinh nghiệm và quan sát (« As far as Abashiri », « An Incident »...) ; loại dựa vào đời sống tư tưởng và trí tưởng tượng (« The Little girl and the Rapeseed Flower », « The Razor », « Han's crime »... ) ; và loại ít nhiều là tự truyện (« The Death of my mother and the new mother », « Reconciliation », « The Paper door »...)

_________________



Hôm đó là buổi chiều xuân trong sáng êm đềm. Một con bé đang nhặt củi đóm trên sườn núi.



Chặp sau, khi ráng chiều đỏ thắm xuyên qua các tàng cây thưa thớt, con bé đem mớ củi nhặt được xuống đồng cỏ, bắt đầu sắp vào giỏ trên lưng.



Thình lình, con bé có cảm tưởng như nghe như ai gọi mình.



- Hả ?



Con bé buột miệng. Nó đứng lên nhìn chung quanh nhưng chẳng thấy người nào.



- Ai gọi tôi ?



Con bé lại lớn giọng hỏi nữa. Nhưng cũng chẳng ai trả lời.



Sau hai ba lần có cảm tưởng đó, con bé chợt phát hiện là tiếng gọi phát ra từ cây hoa cải dầu nhỏ đơn độc đang ngẩng đầu lên trong đám cỏ dại.



Con bé lau mặt với tấm vải quàng đầu rồi nói :



- Tao nghĩ chắc mày cô độc lắm trong một chỗ như vầy.



Cây hoa trả lời với giọng thân mật :



- Em rất cô độc.



Con bé hỏi với giọng quở trách :



- Vậy sao mày đến đây làm chi ?



- Một hạt dính vào ngực con chim chiền chiện rồi rớt xuống đây. Em làm gì được !



Cây hoa nói một cách buồn rầu. Rồi nó nhờ con bé mang nó theo xuống làng dưới chân núi, nơi nó có nhiều đồng loại.



Con bé thấy xót xa cho cây hoa cải dầu, quyết định làm nó thoả mãn. Khẽ khàng gỡ khỏi đất, con bé cầm nó trong lòng tay khum khum và xuống đường núi về làng.



Dọc đường, một con suối nhỏ trong veo chảy róc rách. Thời gian trôi qua. Cây hoa nói :



- Tay chị nóng khủng khiếp. Em thấy đầu nặng quá, không ngẩng thẳng lên được.



Theo mỗi bước đi của con bé, cây hoa yếu ớt lắc lư cái đầu rũ gục.



Cả chặp lâu, con bé không biết phải làm gì.



Rồi thình lình con bé nảy ra một ý tuyệt vời. Vội vàng ngồi xổm xuống bờ đường, con bé lặng lẽ ngâm rễ cây hoa vào nước.



- Aaa !



Cây hoa thốt lên với giọng hồi sinh, sôi nổi. Nó nhìn lên con bé. Nhân đó con bé nói như truyền lệnh :



- Từ chỗ này, mày cứ đi theo nước.



Lắc đầu một cách khó khăn, cây hoa nói :



- Lỡ bị cuốn đi cách xa chị quá, em sợ chết !



- Không việc gì phải sợ cả.



Con bé vừa nói vừa thả trôi cây hoa.



- Em sợ ! Em sợ !



Bị giòng nước cuốn đi tức khắc, cây hoa ré lên hãi hùng khi thấy nước kéo mình càng lúc càng xa con bé. Nhưng con bé không nói không rằng, vòng tay ra sau lưng sửa lại cái giỏ nhảy nhót trên lưng và chạy theo sau.



Cây hoa thở dài nhẹ nhõm. Rồi vui vẻ từ mặt nước nhìn lên, nó nói với con bé đủ thứ chuyện.



Một con bướm từ đâu bay tới dập dờn vui nhộn. Nó phá phách, vỗ nhẹ cánh nhảy nhót quanh đầu cây hoa. Cây hoa có vẻ khoái chí. Nhưng rồi con bướm rộn ràng bất định đó lại bay đi chỗ khác.



Thấy trên chóp mũi con bé lốm đốm mồ hôi như những hạt trân châu, cây hoa nói với giọng ái ngại :



- Bây giờ tới phiên chị cực quá.



Con bé trả lời ngắn gọn :



- Ðừng lo cho tao.



Ngỡ bị mắng, cây hoa im lặng.



Một lát sau con bé giật nẩy mình vì tiếng kêu thét của cây hoa. Rễ nó bị vướng vào đám cỏ dại nhấp nhô trên giòng nước như một suối tóc dài, cây hoa ráng cựa quậy đầu ra trước ra sau, kiệt sức.



- Ðược rồi. Yên đó một lát.



Hụt hơi, con bé ngồi xuống tảng đá bên bờ suối.



- Làm sao em yên được với chân cẳng vướng víu như thế này ? Em thấy chẳng thoải mái chút nào.



Giọng phàn nàn của cây hoa càng lúc càng tha thiết. Con bé đáp :



- Mày như vậy là khỏe rồi.



- Em không khỏe. Dừng lại thì tốt, nhưng kiểu này thì khiếp lắm. Làm ơn, chị làm ơn vớt em lên.



Cây hoa nài nỉ, nhưng con bé không muốn nghe, chỉ mỉm cười nói :



- Mày như vậy được mà.



Chẳng bao lâu sức mạnh giòng nước làm rễ cây hoa trượt ra. Với giọng khẩn trương chói tai « Em bị cuốn đi đây này », một lần nữa cây hoa lại bị cuốn xuôi theo giòng. Giật mình, con bé chạy theo.



Khi còn cách nhau không bao xa, cây hoa rụt rè nói :



- Cực chị quá !



- Không sao cả.



Con bé dịu dàng trả lời. Rồi vì cây hoa không còn lo âu nữa, nó chạy trước cách xa khoảng chừng mười lăm bộ.



Ðã trông thấy làng dưới chân núi. Con bé nói to :



- Không còn bao xa nữa.



- Ờ há !



Cây hoa trả lời đằng sau. Chúng không nói gì với nhau một lát. Âm thanh duy nhất là tiếng lách tách, lách tách của đôi dép rơm con bé chạy, trộn lẫn với tiếng róc rách của suối.



« Chaach » ! Tiếng nước toé lên bất ngờ dưới chân con bé. Cây hoa kêu thét lên như thể sắp chết. Con bé giật mình dừng lại nhìn ra sau. Từng cánh hoa lá tái mét vì sợ, cây hoa gượng lên khỏi mặt nước la bải hải « Nhanh lên ! Nhanh lên ! ». Con bé vội vàng kéo nó ra khỏi nước.



- Chuyện gì vậy ?



Nâng niu cây hoa vào ngực, con bé quay nhìn giòng nước sau lưng.



- Có cái gì phóng ra từ chân chị đấy.



Cây hoa nói giọng hổn hển :



- Con cóc cáy đấy, chị. Nó ngụp xuống một lần rồi bất thần ở đâu trồi lên trước mặt em. Thiếu chút nữa là dám mặt tụi em chạm vào nhau. Miệng nó nhọn và có vẻ cáu kỉnh như con yêu Hà Bá vậy.



Nghe cây hoa nói, con bé cười vang. Cây hoa nói giọng trách móc :



- Ðâu có gì tức cười đâu. Nhưng mà khi em ré, con cóc giật mình đấy. Nó mất hồn mất vía lặn xuống.



Nói tới đây thì cây hoa cải dầu cũng cười vang lên.



Chẳng bao lâu, chúng về tới làng.



Con bé tức khắc trồng cây hoa trong đám đất sau nhà.



Không giống trên sườn núi khô cằn đầy cỏ dại, ở đây đất đai màu mỡ. Cây hoa cải dầu lớn nhanh như thổi.



Và ở đó, giữa bạn bè với đồng loại, cây hoa cải dầu mãi mãi sống yên vui hạnh phúc.







MIÊNG

Dịch theo bản tiếng Anh của Lane Dunlop :

«The Little Girl and The Rapeseed Flower».



Paris, Février 1998.

Thứ Năm, 12 tháng 1, 2017

Kẻ Hợm Mình (The Snob)





Tại quầy bán sách của khu thương xá, chàng sinh viên trẻ John Harcourt thóang nhìn thấy cha mình. Trong đám đông xô đẩy nhau dọc lối đi, mới đầu chàng không tin chắc lắm, nhưng có những cái mà chàng biết rất rõ - đó là cái màu phía sau cổ của ông già, chiếc mũ nỉ bạc màu. Harcourt đang đứng với một người con gái mà chàng yêu mến để mua sách cho nàng. Suốt buổi chiều chàng đã nồng nàn nói chuyện với nàng nhưng cũng đầy rụt rè và xao xuyến như thể trong chàng vẫn còn ngỡ ngàng tự hỏi không biết nàng có sung sướng khi được đi bên cạnh mình không. Dưới chiếc mũ rơm rộng vành, khuôn mặt của nàng thật đẹp, mạnh khỏe và tỏa ra dáng vẻ đầy tự tin, thường quay qua nhìn chàng và mỉm cười mỗi khi chàng nói điều gì. Hai người thường nói chuyện với nhau như thế và chưa bao giờ dám bạo dạn bày tỏ hết tình cảm của mình. Harcourt cũng vừa mua sách xong, và cũng vừa thọc tay vào túi với một dáng vẻ tự nhiên và sẵn sàng như thể chàng vốn có thói quen mua sách cho các cô - thì ông già đầu bạc với chiếc mũ nỉ bạc màu đang đứng ở đầu quầy chợt quay nửa mình về phía chàng và chàng biết rất rõ mình chỉ còn cách ông cụ có vài thước.

Giọng nói lưu lóat thường nhật của chàng thanh niên bỗng ấp úng rồi trở nên thều thào như thể chàng sợ người chung quanh nghe thấy. Trong chàng dậy lên một một nỗi bực dọc khôn tả, chàng linh cảm thấy một cái gì đó thật quý giá mà chàng đang nắm giữ dường như sắp đổ vỡ. Cha chàng đang đứng thẳng thốn ở quầy trả tiền, ông cụ trầm ngâm lật đi lật lại cuốn sách trên tay. Rồi ông cụ lấy ra cặp kính lão từ cái bao da đã sờn, sửa đi sửa lại trên sống mũi rồi cúi nhìn cuốn sách. Chiếc áo khoác (manteau) bỏ ngỏ, còn chiếc áo vest thì hai chiếc khuy không cài nút, tóc ông cụ quá dài còn bộ quần áo luộm thuộm khiến ông cụ trông như dân thợ, có lẽ một ông thợ mộc thì đúng hơn. Một nỗi bất bình dậy lên trong chàng khiến chàng muốn đau khổ kêu lên “Tại sao ông cụ lại ăn mặc như thể trong đời chưa bao giờ có một bộ quần áo tốt đẹp? Ông cụ chả để ý gì đến thế giới này đang nghĩ gì về ông cụ. Ông cụ chẳng để ý gì cả. Mình đã nói cả trăm lần là bố phải ăn mặc đàng hòang khi ra đường. Mẹ cũng đã nói như vậy. Ông cụ chỉ nhe răng cười. Và giờ thì Grace có thể thấy ông cụ. Grace có thể gặp ông cụ.”

Vì thế mà chàng Harcourt đứng yên như tượng đá, đầu gục xuống và linh cảm thấy một cái gì đau đớn sắp xảy đến. Chàng xao xuyến liếc nhìn Grace lúc này đã quay đầu lại quầy tính tiền. Trong số khách hàng mặt đỏ gay, người nào người nấy tỉnh bơ, dùng cả cùi chõ, xô đẩy nhau để dành lối đi, Grace nổi bật lên với vẻ đẹp lộng lẫy. Con người nàng tỏa ra một dáng vẻ rất tự tin về sự giao tiếp với mọi người, với mấy người bán hàng, với sách vở nằm trên kệ và với tất cả mọi thứ chung quanh nàng. Đầu vẫn cúi xuống, chàng nhích lại gần nàng thì thào với giọng thật lo lắng, “Mình kiếm chỗ khác để uống trà đi Grace.”

“Chút xíu nữa anh,” nàng đáp.

“Mình đi ngay bây giờ đi.”

“Chút xíu nữa mà anh,” nàng lơ đãng nhắc lại.

“Ở đây ngột ngạt quá. Mình đi ngay bây giờ đi.”

“Sao anh nóng ruột quá vậy?”

“Ở đây chẳng có gì cả ngòai mớ sách cũ trên kệ.”

“Có thể có một số mà em rất cần trong cuộc sống của em,” nàng vừa nói vừa mỉm cười tươi tắn và không hề nhận biết mối lo âu trên khuôn mặt của Harcourt.

Chính vì thế mà Harcourt phải tiến lại phía sau nàng do đó mỗi lúc chàng càng đến gần ông cụ hơn. Có lúc chàng ngửng đầu lên, liếc nhìn qua một bên với vẻ lơ đãng. Còn cha chàng, với khuôn mặt hồng hào, phúc hậu, vẫn yên lặng đọc sách nhưng lúc này dường như trên khuôn mặt của ông cụ có dáng vẻ tư lự như thể trong sách có cái gì làm ông cụ xúc động cho nên ông cụ quyết định đứng lại đó đọc tiếp.

Ông già Harcourt có dư thời gian để vui thú bởi ông đã nghỉ hưu sau khi làm việc cực nhọc suốt cả đời. Ông gửi chàng vào đại học và ước mong chàng rạng rỡ với người ta. Mỗi tối khi trở về nhà, dù sớm dù khuya, chàng thường vào phòng bố mẹ, bật đèn lên để chia xẻ với song thân những gì hay đẹp trong ngày. Cả hai lắng nghe chàng nói và chia xẻ với chàng về một thế giới mới mà chàng đang ngụp lặn trong đó. Cả hai ngồi dậy trong bộ quần áo ngủ, mỗi khi mẹ chàng hỏi điều gì, cha chàng đều chăm chú lắng nghe, đầu nghiêng qua một bên, mỉm cười hoặc chau mày. Tất cả những hình ảnh đó hiện rõ trong tâm trí chàng lúc này thế nhưng có một niềm khát khao và một nỗi đau đớn mỗi lúc cứ đè nặng lên chàng khi chàng sợ hãi liếc nhìn cha mình, nhưng chàng bướng bỉnh cho rằng, “Mình không thể giới thiệu ông cụ với Grace. Mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nếu ông cụ không nhìn thấy hai người. Phải mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Như thế hợp lý hơn. Gặp Grace chỉ làm cho ông cụ thêm lúng túng.”

Vào lúc này thì Harcourt biết mình đang xấu hổ, nhưng chàng biện minh cho sự xấu hổ của mình với lý do cha của Grace là người có phong thái lịch sự và tự tin vì suốt đời sống trong một xã hội giàu có và thành công. Thỉnh thỏang khi ghé vào nhà Grace lễ phép nói chuyện với mẹ nàng, chàng không khỏi suy nghĩ về vẻ đơn sơ của nhà mình, về giọng nói tiếng cười xuề xòa, mộc mạc của cha mẹ và chàng quyết định phải làm sao để gia đình Grace nể mặt.

Chàng thận trọng ngước nhìn lên vì hai người chỉ còn cách nhau khỏang ba thước, nhưng vào ngay lúc đó, ông cụ cũng ngửng đầu lên nhưng ánh mắt của Harcourt lại tránh qua một bên, nhìn về phía lối đi, về phía quầy tính tiền, làm bộ như không thấy gì cả. Khi đôi mắt xanh và bình thản của ông cụ chú mục qua cặp mắt kính, có một lúc dường như hai người đã nhìn thấy nhau. Không biết rõ là ai, nhưng khi chàng Harcourt quay lưng và hối hả nói với Grace thì chàng biết rõ là cha chàng đã nhìn thấy chàng. Chàng biết chắc như vậy vì vẻ bình thản trong đôi mắt xanh của ông cụ. Niềm xấu hổ trong chàng trào dâng và nó làm chàng đau khổ khi chàng đứng đó bất động, không biết làm gì cả.

Cha chàng quay lui, đi dọc theo hành lang, bước đi thẳng thốn trong bộ quần áo đã sờn cũ, đôi vai ông cụ giang rộng và không quay đầu nhìn lại. Rồi ông cụ bước xuống đường với dáng vẻ trầm tư mà chàng biết chắc mỗi lúc mỗi trở nên sâu nặng và nghiêm trọng.

Chàng trẻ tuổi Harcourt đứng bên cạnh Grace, khẽ cọ vào đôi vai mềm mại của nàng và thoang thỏang ngửi thấy mùi nước hoa mà nàng dùng. Đó, đứng sát bên mình, nàng là tất cả những gì mà chàng khát khao ôm chặt lấy, nhưng giờ đây chàng chỉ còn thấy một nỗi thù hận ghê gớm khiến chàng ủ rũ cúi mặt và đứng bất động.

“Anh nói đúng đó John,” giọng nàng nhỏ nhẹ và hơi ề à. “Vào ngày nóng nực như thế này ở đây khó chịu thật anh ạ. Giờ mình đi. Nè, có bao giờ anh nghĩ rằng đứng ở khu thương xá lâu như thế này có khi mình trở nên ghét người ta không biết chừng?” Nhưng vừa nói nàng vừa mỉm cười cho nên Harcourt biết chắc rằng nàng chẳng ghét ai cả.

“Em ghét người ta có phải không?” chàng gặng hỏi.

“Ghét người ta? Mà người ta nào? Anh nói gì vậy?”

“Anh muốn nói,” chàng bực tức nói tiếp, “em không thích những người mà em gặp ở đây chẳng hạn.”

“Đâu phải vậy. Mà ai ghét? Anh nói gì vậy?”

“Thiên hạ đều biết rằng em không,” chàng nói bừa với tất cả sự bực tức để tấn công nàng. “Anh muốn nói em không thích những người bình dị, chân chất là những người mà em gặp ở khắp thành phố này.”

Chàng thốt ra những lời nói này như thể chàng muốn chọc giận nàng nhưng trong thâm tâm thật sự chàng muốn nói, “ Em không thích gia đình anh. Tại sao anh không muốn đưa em tới nhà để ăn cơm tối với cha mẹ anh? Em sẽ có thái độ khinh khỉnh bởi vì bố mẹ anh không có tính tự phụ, kiêu căng. Ngay khi cha anh nhìn thấy em, ông cụ biết rằng em không muốn gặp ông cụ. Cứ nhìn cách ông cụ bỏ đi là anh biết mà.”

Cha chàng đang trên đường về nhà và chàng biết rằng trong bữa cơm tối nay cả nhà sẽ gặp lại. Mẹ chàng và em gái chàng sẽ nói mau mắn hỏi đủ chuyện nhưng còn cha chàng thì ông cụ sẽ không nói gì với chàng, không nói gì với mọi người. Rồi trong ký ức của chàng sẽ nổi lên hình ảnh của cha chàng với cái nhìn đăm chiêu qua đôi mắt xanh và cả nỗi đau đớn của ông cụ mà chàng biết rất rõ khi ông cụ bỏ đi.

Khi hai người bước qua hiệu sách, Grace ngắm nhìn khuôn mặt sầu thảm của Harcourt và nàng hiểu rằng Harcourt đang giận dữ trong lòng cho nên sự bực tức và nỗi bất bình trong nàng lại dâng lên, nàng nghiêm nghị nói, “Theo em nghĩ anh có quyền bực tức trong một buổi chiều nóng nực như thế này, nhưng còn em, nếu em không thích chỗ này thì em có quyền không thích. Anh cũng muốn đi chỗ khác cơ mà. Có ai thích đứng lì ở đây trong một buổi chiều nóng nực như thế này đâu? Nói cho anh biết, em bắt đầu không ưa những người lố bịch đụng vào người em, tất cả những ai gần em. Như vậy thì có sao không?

“Thì em là kẻ hợm mình.”

“Em mà là kẻ hợm mình à?” nàng tức giận hỏi lại.

“Rõ ràng em là kẻ hợm mình,” chàng nói.

Lúc này hai người đã ra ngòai cửa và sửa soạn bước xuống đường. Trong ánh nắng chan hòa, giữa dòng người đang tản bộ dọc theo con phố, khi hai người sánh bước bên nhau, Harcourt cố tìm cho ra những câu nói để diễn tả hết ý nghĩ thầm kín của mình đối với Grace, “Anh biết rất rõ cảm nghĩ của em đối với những người không thích hợp với lối sống của gia đình em,” chàng nói.

“Anh đúng là kẻ lố bịch,” nàng nói. Lúc này mặt Grace đỏ gay và vì không biết làm cách nào để diễn tả hết cơn giận dữ, cho nên nàng ngửng cao đầu và bước thẳng.

Chưa bao giờ hai người nói với nhau như thế nhưng giờ đây thì cả hai sẵn sàng tấn công để làm tổn thương nhau. Sau một thôi một hồi, nàng bắt đầu tranh luận với Harcourt rồi nàng trấn tĩnh lại, nói, “Nghe đây John, tôi nghĩ rằng anh không còn muốn đi với tôi nữa. Uống trà với nhau làm gì thêm vô ích. Tôi nghĩ chúng mình chia tay ngay bây giờ tốt hơn.”

“Được lắm,” Harcourt nói. “Chào em.”

“Chào anh.”

“Chào em.”

Nhưng khi nàng bỏ đi, bước đi khỏang hai bước thì Harcourt run sợ, vội vã nắm chặt lấy tay nàng, năn nỉ, “Đừng bỏ đi Grace à.”

Tất cả nỗi bực dọc và căm tức giờ đây biến mất trong chàng và chỉ còn lại một niềm khát khao và xao xuyến qua giọng nói, “Xin Grace tha thứ cho anh. Anh không có quyền nói với em như thế. Không hiểu tại sao anh lại thô lỗ như vậy hoặc có cái gì đây. Anh lố bịch thật. Anh lố bịch quá em à. Xin em tha thứ cho anh. Đừng bỏ anh.”

Harcourt chưa bao giờ nói ấp úng như thế và nói bằng cả khối chân tình cho nên Grace bắt đầu xúc động. Trong khi lắng nghe chàng nói và hiểu được tấm lòng thương mến của chàng, do sự xung đột lúc vừa rồi, dường như họ xích lại gần nhau hơn lúc nào hết và Grace bắt đầu cảm thấy e thẹn. “Em không hiểu tại sao như vậy anh ạ. Em nghĩ cả hai chúng ta đều bực bội trong mình. Có lẽ tại thời tiết nóng quá,“nàng nói. “Nhưng em không giận anh đâu.”

Harcourt đau khổ gật đầu. Chàng mong mỏ nói cho Grace biết là chắc chắn cha chàng sẽ quý mến nàng, nhưng chưa bao giờ trong đời chàng cảm thấy đau khổ như thế. Chàng nắm chặt lấy tay Grace như muốn ghì chặt lấy cái gì thân thương nhất trong đời như sợ nó có thể vuột khỏi tầm tay… và trong đầu chàng lại hiện lên và còn tiếp tục hiện lên hình ảnh cha chàng đã lặng lẽ bỏ đi và ông cụ không quay đầu trở lại./.



Đào Văn Bình
(California Tháng 12,2016)

Truyện ngắn The Snob của Callaghan dưới đây cho chúng ta thấy tình cảm rất phức tạp của chàng sinh viên Harcourt ở thập niên 1930 trong một đất nước giàu có, thanh bình Canada. Những tình cảm phức tạp đó có thể đưa tới xung đột, nếu không khéo sẽ gây đổ vỡ. Kính mời quý vị thưởng thúc. (ĐVB)

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

Nước như nước mắt









Nguyễn Ngọc Tư





Đừng sợ hãi, dù vì nó mà người ta sống, chết… (*)

1

Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai.

2

Nhà chức trách nói rằng họ đang tìm sự thật nhưng có thể chồng Sáo đã lẻn lên bè rẫy Đại Thanh trộm tài sản của họ, lúc người ta bắt gặp đã xảy ra xô xát nhỏ, anh lao xuống sông định trốn, chết nước là chuyện rủi ro không ai ngờ… “Những người đầu tiên trông thấy xác chồng cô đều chứng kiến trên tay anh ta còn cầm một sợi dây chuyền vàng đã đứt”, nhà chức trách bảo vậy. Sáo nói không phải đâu, anh Thi chồng tôi chỉ muốn lén hái vài lá ngò. Nhà chức trách hơi xẵng giọng, chúng tôi dựa trên nhiều bằng chứng quan trọng. Sáo cãi không phải đâu, chồng tôi cần có chút ngò gai thôi. Họ kiên nhẫn kêu vài nhân chứng tới nói mấy câu chuyện ngập ngừng.


Sáo cãi phăng đi. Ngay khi Sáo ôm xiết chồng đang nằm thõng thượt trên cái bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chức trách, ngay khi nó vùi mặt mình vào cơ thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm, ràn rụa tìm kiếm hơi thở của anh núp trốn đâu đó, trong rún, trong mắt hay ở bên sườn. Khi lướt qua đôi môi dập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai. Trời đất ơi, chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa hái được. Anh vẫn chưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Người ta đang nhâm nhi ngò gai thì không ngó ngàng tới vàng bạc đâu, Sáo nói và xốc ôm chồng tha về ghe.


Dưới sạp ghe hai con cá Bạc Đầu đã chết. Cặp cá này sáu tiếng đồng hồ trước vợ chồng Sáo giăng lưới bắt được. Cá bị nước đuổi ốm tong teo nhưng chồng Sáo sướng quên trời đất, và như con nít, anh đứng múa may quay cuồng ở đầu ghe, kêu hết sẩy hết sẩy, nói phước đức ông bà để lại. Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đến vậy, đến nỗi nó đã chạnh lòng ngay lúc đó, anh đâu có từng tỏ ra quý mình như quý cặp cá này.


Cá Bạc Đầu luôn đi thành đôi, là loại cá rất hiếm hoi. Sục sạo như chồng Sáo cũng chỉ một lần thấy chúng. Má chồng Sáo hồi còn sống thường thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốt mật cặp cá Bạc Đầu thể nào cũng cấn thai. Bà hay ngồi ở cửa trước hóng coi trẻ con bên xóm đang chạy giỡn, tiếng thở dài của bà lửng thửng bay về phía Sáo nhoi nhói. Chồng Sáo cà rỡn, “bắt được cá Bạc Đầu rồi vợ con sanh một lần bảy đứa, cho má giữ mệt nghỉ…”. Má chồng không chờ được, lúc bà chết bên vách vẫn còn giắt mớ vỏ tỏi - thứ đàn bà đẻ dùng để xông da thịt cho thơm. Chồng Sáo vẫn phấn khích quăng chài xuống sông Sắc nuôi hy vọng, không hoàn toàn vì khao khát trẻ con. Chồng Sáo đã được ăn cá một lần hồi mười lăm tuổi mà mỗi khi anh nhắc lại nồi canh cá nấu mẳn, Sáo lại thấy nước miếng rỉ ra rưng rưng bên mép anh. Người Châu Thổ hay nói, bắt tao tả đau bụng đẻ ra làm sao chẳng khác nào kêu tả mùi vị con cá Bạc Đầu, tức là chẳng thể chia sẻ cảm giác với người khác nếu họ không tự mình trải qua. Sách “Bi ký” chép lại, năm 813 đã có một làng chài lưới bị tàn sát vì giữ lại cá Bạc Đầu mà không cống nộp cho vua. Một trăm ba mươi bốn người trong làng đã chết. Ba chồng Sáo quý cuốn sách đó như một gia tài nhưng nhà nó đã làm mất vào một bữa nước đột ngột dâng.


Giờ con cá của những đồn đãi, con cá huyền thoại, con cá vì nó mà người ta sống, chết đang nằm trong ghe nhà Sáo, đuôi màu xám đậm rồi phai dần cho đến phần đầu thì trắng muốt tựa bông lau chín. Cái chết cận kề không làm cho chúng thôi quấn quýt. Chúng chạm râu vào nhau khẽ khàng, như âu yếm như đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức. Phải, nước đuổi đã quá hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc bạc đi.



3


Mùa nước đuổi bắt đầu từ giữa tháng Giêng. Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn Tết trên ghe.


Cứ mỗi năm nước đuổi lại tới sớm hơn, mùa mỗi năm mỗi dài hơn. Tết chưa tàn vợ chồng Sáo đã lụi hụi dọn đồ đạc lên ghe, bông vạn thọ trồng trong cái khạp lủng để trước hàng ba còn chưa bung nở hết. Chồng Sáo cứ tiếc là ghe chật quá, không rinh cái khạp đó đem theo được.


Anh còn muốn bứng cả cây cỏ quanh nhà theo, nếu có thể. Nên trên ghe lủ khủ những bụi hành hẹ, sả, vài cây ớt, ít hẹ, ngò om… Mấy thứ cỏn con này hay làm chồng Sáo bận lòng, ăn cá chốt nấu cơm mẻ mà thiếu sả ớt, cá trê nướng mà không gừng… là anh băn khoăn lắm. Anh nói thà không ăn, chứ ăn vầy không đúng điệu.


Chồng Sáo ưa nói hai từ đúng điệu. Coi kìa, đêm nay trời trong nhưng trăng tròn quá nhìn không đúng điệu, phải khuyết chút ngó hay hơn. Nắng vầy mà có bóng cây để treo võng nằm chơi là đúng điệu. Con lá lóc này phải có rơm khô chất lên đốt nướng trui mới đúng điệu. Sống giữa trời nước bao la vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ mà tức.


Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khi đang ngồi ểnh ra, se miết mấy ngón tay da cổ làm đất rụng xuống lả tả. Gọi là tắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong sẽ tắm ướt bằng hai gàu nước. Nhưng có bữa chồng Sáo tắm cả xô, tắm đúng điệu. Chữ đúng điệu nhiều lúc làm Sáo sợ. Nhất là khi nghe bảo “em nằm day lại tui gãi cho đúng điệu cái coi”. Đêm nào trước lúc ăn nằm với nhau bao giờ chồng cũng gãi lưng Sáo, trong một trình tự lớp lang đúng điệu, bắt đầu từ lúc những ngón chân cọ vào bắp chân Sáo, sau đó này sau đó kia, anh nhẩn nha đến nỗi nó thiu thiu ngủ luôn bỗng nghe cái gì đó xộc tới chới với. Nó không thích vậy nhưng không dám nói, biết đâu vì cái khoảnh khắc chới với đó mà trẻ con không chịu ra đời.


Sáo còn hồ nghi vì hai chữ đúng điệu mà nhà nó nghèo. Gieo mấy giồng cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổ bán là không đúng điệu, nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau rách nát. Có năm trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo đòi bán cho thương lái. Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa căng bóng mới đúng điệu. Ai ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt dây dưa nổ lụp bụp như pháo, nứt vỏ hết. Trắng tay.


Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùng gần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào chân ruộng. Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo nhau lên ghe ở cho rồi. Cây trái tàn rụi, chỉ còn cỏ Đuôi Mèo là sống được, đem bán rẻ mạt cho những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới, chẳng được bao nhiêu tiền.


Chồng Sáo không lấy chuyện đó làm phiền, cả khi ôm cái lư hương cha mẹ rút lên ghe chờ qua mùa nước đuổi, anh vẫn làm mặt tỉnh queo. Cả xứ này bỏ đất mà đi chớ đâu phải chỉ nhà mình, chồng Sáo nói vậy. Chỉ một lần duy nhất chợt thèm ớt giữa bữa cơm, mà cây ớt đem theo đã chết queo, anh mới dựng đũa kêu trời.


Trời im ắng ở trên cao, trong ngằn ngặt, trong như nước mắt. Nắng quay quắt như vắt như vo con người thành những hòn đá khô khốc có thể lăn cọc cạch. Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đất vườn mình, cạnh mái nhà mình, lây lất sống nhờ chài lưới những con cá nước đục còn sót lại ốm ròm trên mình đầy ghẻ lở… sau đó thì tới đám cá nước trong len lỏi vào sâu trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đến nỗi cực ăn. Nhưng có bữa chỉ bắt được cá Sầu Ngư, đành ăn cơm với muối hột.


Sầu Ngư bình thường vẩy màu xám bạc chỉ nhẩn nha ăn bèo rong trôi dạt, đến nước đuổi thân cá trở nên đỏ thẫm. Chúng có thể sống tỉnh queo nhờ rỉa xác súc vật chết trôi, trong đó có cả xác người. Chồng Sáo vừa ghét vừa ghê sợ chúng, anh xỉa xói, “Cái thứ ham sống tới nỗi bất chấp tội lỗi…”. Sáo mắc cười quá, mắng cá mà như mắng người.

Sáo đâu có ngờ có ngày mình phải bảo vệ chồng khỏi miệng cá Sầu Ngư.



4


Chồng Sáo ốm teo, nằm gọn đeo trong cái hòm được ghép tạm bằng mấy tấm ván ngựa xóm giềng giúp mò lấy từ dưới nhà lên. Lúc lau rửa cho chồng, men tay theo từng tấc thịt da dường như đang tan chảy Sáo thấy buồn quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hòm xuống nước, lấy dây buộc níu vô cột nhà, chờ nước rút mới đem âm thổ. Vị mặn của nước ngấm vào sẽ làm chồng Sáo lâu tàn rữa, họ nói vậy.


Xóm giềng lặng lẽ tiễn chồng Sáo. Cũng mệt mỏi và đuối sức như những con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển, họ chới với khi bị bứng lìa khỏi đất, khỏi cái màu xanh rười rượi của cỏ cây. Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông…


Riêng chồng Sáo thì chết vì thèm rau. Hàng xóm bảo, không phải, nó chết vì nghèo đó chớ. Vì nghèo nên không đi ra khỏi cái xứ trần ai này được. Vì nghèo nên phải bỏ mạng vì gặp phải bọn cậy giàu coi sinh mệnh người như cỏ rác. Bứt mấy cọng ngò thôi mà, có phải thù oán gì cho lắm đâu mà nhẫn tâm quá thể ? Sáo cũng muốn đi hỏi người của bè rau Đại Thanh câu đó. Sao vậy, tại sao, vì sao ?


- Thời thế loạn rồi, đất không còn thì có thứ gì còn.


Ông bán xôi dạo thở hắt ứ hự. Ông nói bữa trước đi ngang bè rau nghe có tiếng kêu cứu, nghe trên đó rầy sao mầy không chết đi, sống làm chi mà làm khổ người ta. Không biết “người ta” là ai, mắc mớ gì tới cái bọn sống sung sướng trên cái bè rau đó.


Sáo nghe xong tưởng trong lồng ngực có thứ gì vừa đứt phựt, nó hức lên, anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. Ủa, vậy chồng mình chết chỗ khác thì mình đỡ đau lòng hơn sao ? Sáo giật mình nghĩ vậy khi vừa khóc dứt. Trong nỗi ân hận Sáo ngồi dựa vách ghe, mong xóm giềng cứ ngồi chơi, nếu không muốn nhắc tới chồng nó thì cứ nói chuyện bâng quơ, chuyện những vùng đất cao cẳng xa xôi nước biển không bao giờ đuổi tới, chuyện ở đâu đó con chó đẻ ra con dê, cây dừa có chín đọt… Hoặc họ không nói gì cũng được, ca hát cũng được… Nhưng họ phải về, phải sống. Cuối buổi sáng là nhà chức trách xả nước ngọt ở các máy nước công cộng, không kịp chèo ghe đi lấy sẽ không có nước nấu cơm, tắm giặt…


Sáo chỉ còn một mình.


Một mình.


Sáo lết đi bắc xoong cơm lên bếp lửa. Cảm thấy tay áo giở lên còn không nổi. Bụng không đói miệng thì đắng nhưng Sáo phải ăn, để chờ người ta trả lời tại sao chồng nó chết. Đợi chán Sáo lại chèo ghe tới chỗ nhà chức trách thăm chừng, khi thì thấy vài anh say sưa chơi cờ, khi thì thấy một anh ngủ gục bên bàn làm việc kệ ruồi o e trên mép. Hỏi thì họ chưng hửng nói cô còn đợi sự thật nào ? Như thể có rất nhiều sự thật nằm nhấp nhổm trong ngăn kéo, và họ đang chọn một cái sự thật hợp với tướng tá xơ rơ, túi áo lép kẹp của Sáo.


Hơi thất vọng, Sáo chèo trong chảo nắng mặn trở về, bỗng nín thở nhìn thấy cái lưng dài nhằng của chồng mình trên mái nhà. Em chồng Sáo mang nó về, cả đôi chân mày rậm. Nó thảng thốt hỏi chị Hai làm gì vậy. Sáo nói chị đâu có làm gì. Trời ơi chị xởn tóc chị xơ cờ kìa.


Em chồng nhìn Sáo như thể kêu Sáo nín đi, như thể Sáo xởn tóc là một cách khóc. Sáo chỉ gượng cười rồi luýnh quýnh đi nấu cơm cho em chồng ăn, bận bịu làm sự sống quay trở lại trong nó. Sáo đã quen sống và làm lụng vì ai đó. Như bà nội Sáo vì thương chồng mà bơi xuồng đi cưới hai bà vợ bé cho chồng, như má Sáo vì chuộc chồng khỏi núi nợ ở trường gà mà phải bán hết đất lên ghe sống lênh đênh. Năm mười chín tuổi, nghe má ao ước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy chồng. Lấy người má nó chọn, lý do “thằng đó có tới chục ngoài công đất”. Sáo nhìn thấy chồng lần đầu khi anh đang ôm con gà tre đi trên đường, miệng ngậm vung vinh cọng cỏ mần trầu, nó tự hỏi đây sẽ là chồng mình sao ? Lễ ăn trầu uống rượu rồi, chồng vỗ mông Sáo, nó lại hỏi đây là chồng mình sao ? Hôm cưới nghe chồng phả hơi rượu nóng rực vô vành tai, vẫn hỏi chồng mình đó sao ? Nhưng lúc Sáo cài khuy áo lại, ngó cái người đang lật ra ngủ queo đó, nó nghĩ đây là chồng mình. Nghẹn căng ứ mũi.


Má Sáo vui lắm, gói gém mấy lễ, bà mua hai công đất dành để chôn. Nhờ con gái hiếu thảo mà thím đổi đời rồi, má giả đò vu vơ khoe với một khách thương hồ quen, không lâu sau, anh ta cũng lấy con gái nhà giàu dưới chợ.


Nước đuổi vào sâu Châu Thổ, đất – thứ mà vì nó mà Sáo lấy chồng – trở nên vô nghĩa, như cái tên xóm Rẫy mà còn cái rẫy nào đâu.


Giờ đến cả chồng, Sáo cũng làm mất.


Em chồng rút trong túi xách ra bộ đồ tây mới cáu đặt cạnh đôi dép da mà nó đã mua cho chồng Sáo từ năm trước. Món quà còn nguyên niêm mạc, chồng Sáo chưa đi lần nào, anh nói chờ kiếm có quần áo đẹp mặc cho đúng điệu. Có lần đi chợ gặp em chồng, Sáo kể, nó buột miệng chửi thề, “Má, thằng cha cầu kỳ quá, con nhà lính tính nhà quan…”. Giờ thì em chồng im lìm ngồi vuốt mớ đồ của anh nó. Bao giờ chồng nhập thổ, Sáo sẽ chôn chúng theo.


Ngó cái cảnh đợi công lý của Sáo, thằng em chồng cười khào, con dao bấm trên tay cứ lè lưỡi ra tanh tách, sáng quắc. Nó nói “công lý ở trong tay mình mà, chị Hai…”


Em chồng đi giang hồ từ nhỏ, lưng em giờ đã hai mươi hai cái thẹo, đó là những lần em thực thi công lý hay bị công lý của nhóm giang hồ khác thực thi lên. Không thẹo người ta không biết mình dân giang hồ, em khoe vậy, giống như ở chợ hay gắn chữ văn hóa cho người ta biết là có văn hóa vậy. Em chồng cũng thường khoe công lý của em nhanh hơn, luật của em công bằng, sòng phẳng hơn. Không tin không được, nhiều lần nó tìm lại những món đồ nhà Sáo bị trộm lấy đi, dù chúng đã bị thay hình đổi dạng, bị tháo rã ra bán đầu một nơi mình một nẻo. Nó còn dẫn thằng ăn trộm về biểu, "xin lỗi anh chị Hai tao, mầy !", và thằng kia cun cút cúi đầu.


Nhưng đó chỉ là thằng trộm nhỏ thó hom hem, giờ em chồng Sáo sẽ đối đầu với một bè rau đông người lắm của. Em chồng đi rồi Sáo nóng ruột bồn chồn quá, như thể chỉ cần vo gạo rồi ôm cái nồi vào bụng, gạo sẽ sôi thành cơm. Mấy bữa sau nghe ở mấy máy nước công cộng người ta hể hả bàn tán, nói xe hơi của nhà Đại Thanh dưới chợ bị đập phá, tụi giang hồ còn đánh thuốc chết mấy con chó, tưới xăng định đốt biệt thự may mà nhà chức trách tiếp cứu kịp.


Bữa sau nữa, người ta rủ Sáo đi coi một bảo vệ của bè rau bị dìm chết. Sáo không đi, nó không chắc mình sẽ hả hê khi nhìn thi thể đó. Sáo sợ cái bàn lạnh ngắt giữa căn phòng lạnh ngắt, nơi hơi thở một con người bỗng dưng biến mất. Ở đó, biết đâu cũng có con đàn bà gột rửa da thịt chồng bằng nước mắt, mong gọi những hơi thở trở về.


Nhưng buổi tối hôm đó Sáo đã phải xuôi ghe tới văn phòng của nhà chức trách, vì em chồng Sáo. May phước, em chồng không nằm trên bàn mà bị trói gô, khiến cái lưng dài thượt gần như cuốn tròn lại. Sáo thở phào nhẹ nhỏm dù hoàn cảnh của thằng em hiện giờ rất cay đắng. Vậy mấy bữa qua Sáo đã bồn chồn lo lắng cho ai ? Nó tự hỏi, người mướt mồ hôi lạnh. Ngó vẻ mặt đờ đẫn của Sáo, em chồng cố an ủi mà giọng nói cứ nghiến sít sìn sịt :


- Chị buồn con c. gì, tụi nó bắt tui như bắt cóc bỏ dĩa. Chỉ uổng là tui chưa kịp bẻ cổ thằng Giang.


Câu nói làm Sáo rúm ró. Sáo biết người đàn ông tên Giang đó, lầm lì ít nói, da ngăm đen mắt sâu, hai bàn tay đều chai. Và tóc gội sương gió cứng đến nỗi nếu ai đó để anh ta gối đầu lên đùi, họ sẽ nghe vừa nhột ran vừa đau nhoi nhói. Người đó đã từng hiền lắm, ngập ngừng mãi mới dám nắm bàn tay con gái, nhưng theo lời em chồng Sáo thì giờ anh ta đã đổi thay quay quắt như con cá Sầu Ngư. Sáo muốn đi tìm coi anh ta nhuốm đỏ tới mức nào.


Sáo sẽ đi. Nó quyết định vậy khi nhìn theo em chồng bị người ta đưa đi mất. Nhanh đến nỗi Sáo nhận ra công lý thật ra đâu có già nua hay chậm chạp hay đui mù. Sáo thấy mình vừa mất hết, cả người thân cuối cùng và chút niềm tin cuối cùng. Nhưng cái cảm giác đó thật sự rõ ràng khi nước bắt đầu rút, Sáo đào xuống năm lớp dá, rồi kéo cái thứ đất ngâm lâu bủng beo trong nước đó, đắp lên cho chồng.


Chờ những mầm cỏ Đuôi Mèo lún phún lên xanh, Sáo chèo ghe đến bè rau Đại Thanh. Nhắm mắt thì nó cũng chèo được tới cái chuỗi xanh ngằn ngặt ở ngã ba sông Sắc, chỗ sông Mê cắt qua.



5


Bè đang tuyển người làm. Những nhân công cũ sợ giang hồ đòi công lý nên xin nghỉ quá nửa. Sáo bị xua đuổi ngay khi trờ tới, họ nhận ra vợ của thằng oan gia bứt ngò. Nhưng vì người ta biết Sáo nên nó vẫn cắp cái nón trong nách nấn ná chờ. Hồi lâu có người kêu, cô kia tên gì để tôi ghi hồ sơ ? Ông ta hỏi mà vẻ mặt thảng thốt như không hiểu cái câu vừa rồi sao lại tuôn ra khỏi miệng, như thể đang nghĩ mướn con này chẳng khác nào rước giặc vô nhà, sao ông chủ mình ngu vậy ?


Cũng ngơ ngác, Sáo nói tên mình. Ngay lập tức trên danh nghĩa nó trở thành người của bè rau. Dù Sáo chỉ muốn tới hỏi người đàn ông tên Giang đó có thật đã muốn chồng nó chết không. Sáo nghĩ người đó sẽ im lặng hoặc nói không, vậy đỡ quá. Chối bỏ nghĩa là còn biết sợ hãi. Nhưng con rể của nhà giàu Đại Thanh, người quản lý bè rau mênh mông này, anh ta nói có. Anh ta nhìn thẳng vào Sáo, nói có, nó – đáng – chết…". Anh ta vẫn rám nắng chắc chắn vạm vỡ như năm bảy năm trước, mắt vẫn rười rượi sâu. Mặt anh ta phẳng lặng, giọng cũng đều đặn thản nhiên, mà buốt nhức :


- Em sẽ làm gì tôi ?


Sáo chết trân. Nó không biết. Nó đinh ninh là anh ta sẽ chối bay chối biến và nó cắp nón ra về, an ủi mình đã tìm được sự thật giống như sự thật. Nhưng anh ta thừa nhận, trâng tráo như Sáo không thể làm gì được. Sáo sẽ chạy tới nhờ nhà chức trách đang ngủ gục hay sẽ đòi công lý bằng dao bấm giống như em chồng?


Ngơ ngác, Sáo bỏ đi. Vài ba bận chèo ghe trở lại, cũng chừng ấy lần lủi thủi quay về, Sáo nghi chắc tại phải chèo xa mệt mỏi nên sự căm thù hao hụt. Nó quyết định ở lại làm công cho bè rau. Ở đây nó sẽ tích tụ được những cơn giận dữ, đến khi chúng căng chật, nổ tung thì đường đến căn phòng của tên gian ác cũng gần.


Và nơi này làm cho Sáo không bao giờ nguôi oán giận. Sáo gánh nước tưới những giồng ngò gai và tưởng tượng cái tối chồng mình khoái chí nhấm nháp chúng, chắc anh không kịp rửa, chắc trong cái vị cay nồng có lẫn oi oi mùi rơm mục. Sáo ngồi bó rau bồ ngót ở sàn nước và nghe gan bàn chân tê tái bởi ý nghĩ chồng mình đã bị người ta đánh đập, lăn lộn đau đớn ở đây (dựa theo sự thật của ông bán củi). Trầm mình dưới khúc sông bên hông bè để ủ rơm tươi, Sáo đánh dấu lên dòng nước chỗ người ta đã dìm chồng nó xuống (vịn vào sự thật của thím bán bánh dừa).


Có lần lửa bùng lên tới mặt, Sáo đã chạy tới căn phòng đó, khi xô cửa bỗng bàn tay Sáo chui tọt vào vạt áo. Một đứa trẻ đang ngồi trong lòng người đàn ông, nó đang vùng vằng cằn nhằn cha không biết chải tóc làm đầu nó đau lắm luôn. Anh ta nhác thấy Sáo liền nói, “cô để lần sau…”. Ừ, Sáo không muốn khi xiên con dao trong túi nó qua ngực người đàn ông đó lại có đàn bà và trẻ con trông thấy. Đi men theo những giồng gừng về dãy nhà ngang nơi dành cho những người làm công ngủ, tiếng con nít thỏ thẻ vướng chân làm Sáo trợt chân té sấp. Nó gượng bò dậy khỏi những vũng nước săm sắp, nghĩ phải chi mà vợ chồng nó cũng có đứa con như vậy, chắc bọn nó sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau, sẽ không phải tìm kiếm mỗi đêm dù nó mệt đến rã rời, chỉ muốn ngủ thôi. Và đứa con sẽ làm Sáo thôi nhớ tháng ngày trôi nổi.


Trưa thứ bảy ca nô đưa trẻ con ra bè, chiều chủ nhật trẻ con vào trong chợ. Vợ của người đàn ông, tức bà chủ của Sáo thì tới bè mỗi buổi chiều, lúc các máy nước công cộng đã khóa chặt và những người không lấy nước kịp sẽ ghé qua chỗ chị ta mua nước với giá cao. Cuối chiều cho tới nửa đêm, thương lái nườm nượp tới để giành giật nhau từng bó rau, chị ta đứng bán rồi sáng hôm sau cũng biến mất sau con đê kiên cố sừng sững như tường thành bọc quanh thành phố. Nó cao tới mức những người lam lũ như Sáo cảm giác bị bỏ rơi, bị rời ra, thấy mình nhỏ nhoi như kiến, cỏ. Nó nhắc nhớ nắm xương của ba Sáo đã lạc mất bên dưới tầng tầng lớp lớp nhà cao. Nó nhắc nhớ ba mươi sáu bậc thang mà Sáo đã dò dẫm từ mặt đê xuống ghe cùng với xác chồng.


Nên nhìn thấy bà chủ là Sáo nghe giận. Chị ta cứ lai vảng hoài nên mỗi tuần Sáo chỉ còn lại chừng bốn mươi tiếng đồng hồ để tiếp cận kẻ thù, mà không phải lúc nào kẻ thù cũng ở một mình, bởi người làm công cứ dập dìu qua lại. Trắc trở nhiều khi đến từ trong Sáo, bởi đôi lúc đứng nhìn một vạt cải con xanh non, đôi lúc đi ngang giồng quế đang trổ bông, hay bước chân giẫm lên một lá gừng già… mùi thơm nồng nàn làm người Sáo lỏng lơi ra, nhẹ bỗng. Vậy đâu có được. Nó ở đây để đòi công lý cho chồng, sao lại quên chỉ vì mùi hương của những thứ cỏ cây này.


Nhưng trước những đọt ổi non, những giồng rau húng lủi, đống rơm mới…Sáo vẫn không cầm lòng nổi. Sáo đã nhớ chúng biết bao nhiêu, từ khi nước đuổi lấp ló phía chân trời.



6


Sáo sống gần như đơn độc trên bè. Thui thủi. Bạn làm công dè dặt, đám bảo vệ canh chừng, và Sáo biết mình đi đâu làm gì cũng có người ngó theo, khi da diết khi mãnh liệt, khi hờn mát khi chua chát. Có cảm giác người ta rọng nó ở lại bè rau chỉ để Sáo quẩn quanh trong tầm mắt, nó không phải thả ghe chơi vơi chài lưới chật vật kiếm sống trong mùa nước đuổi.


Sáo hơi tuyệt vọng, nó vẫn chưa trả được thù chồng. Người xóm Rẫy ghé qua bè mua rau đổi nước cắt Sáo bằng ánh mắt căm ghét đến rát mặt, ý nói "thứ người gì tệ bạc, đi làm tôi mọi cho giặc...". Sáo càng nôn nóng, sợ năm dài tháng rộng mớ màu xanh ngằn ngặt trên bè sẽ loang hết mảng tím bầm trong lòng nó. Vậy đâu có được. Nhưng kết thúc bằng cách xiên một mũi dao thì quá dễ cho anh ta. Cái cảm giác sống mà mất hết, nhìn thấy mọi thứ chung quanh tàn rữa mới ghê. Nhưng những thứ mà kẻ thù yêu quý Sáo đều không thể chạm vào. Trẻ con, đàn bà, và cả những giồng rau trái thênh thang trên bè - thứ mà mùa nước đuổi trắng xóa những chân trời, chúng là vàng. Có thể anh ta còn thứ quý giá hơn, Sáo đang tìm kiếm. Nó tới gần anh ta hơn, tới mức có thể nghe giữa những cơn nín thở là tiếng nuốt nước bọt lục cục trong cổ họng. Có lần vô tình cùng khiêng chung một cái lu, Sáo bỗng thấy cảnh này sao giống đôi vợ chồng đang chuẩn bị đón mưa đầu mùa, ý nghĩ làm nó giật mình buông tay làm lu rớt xuống mấy ngón chân anh ta tươm máu. Sáo đau, đến nỗi nó tin rằng nếu lưỡi dao thấu qua ngực anh ta chắc nó là người gục xuống.


Phát hiện đó làm Sáo về luẩn quẩn gần mộ chồng ân hận cả ngày. Oán đong đầy lại. Sáo bắt đầu ráo riết tìm kiếm, bằng cách nhìn rười rượi vào mắt anh ta mỗi khi chạm nhau giữa mấy luống cà chua, dưa chuột. Bằng cách vu vơ hát lên một câu hát cũ, hoặc ra ngồi nhìn trời nước chỗ cây quao. Trời ơi, khi mà mỗi tấc đất trên bè này đều là một tấc vàng, thì người ta bứng trồng lên đó một cây quao, chẳng làm gì cả, trái không ăn được lá lại hôi rình.


Anh ta không thèm giải thích. Con người kỳ cục đó hùng hục làm giàu, nhưng có khi Sáo thấy anh ta đứng ngó bạn hàng vây quanh vợ mình, ngó những xấp tiền xập xòe bằng cái nhìn trống rỗng, tựa như chúng vô nghĩa. Dù nhiều tiền thì gì cũng có, có cả nhà chức trách hồ hởi ghé chơi. Bạn làm công lâu năm vui miệng kể hồi lập bè anh ta cũng chỉ nói với vợ một câu, “tôi ra sông làm rẫy, em ưng thì theo…” Bè dứt khoát phải đặt ở ngã ba sông Sắc, người xóm Rẫy đi chợ đằng nào cũng phải ngang qua. Vợ anh ta nghĩ chắc chồng nhớ sông, nhớ quãng đời lênh đênh nên quyết ra bè sống. Sau này nước đuổi, rau trái quý như vàng, bên nhà vợ khen con rễ biết nhìn xa trông rộng. Sáo nghe chuyện nghĩ, thì anh ta hại chồng nó chết mà có giải thích gì đâu.


Mỗi khi nhìn những bông quao trắng muốt, Sáo nghiến ngầm trong bụng, thằng gian ác thằng gian ác, mình căm thù mình căm thù mình căm thù. Như thể không đinh ninh vậy thì Sáo sẽ coi anh ta như người yêu cũ mất. Vậy đâu có được.


Một bữa người ta cho phun thuốc khắp nơi trên bè. Mọi bán mua vốn đang tấp nập bỗng dưng ngưng bặt. Bà chủ của Sáo cũng không trèo đê ra với chồng. Tắm đêm giữa chừng Sáo để nguyên quần áo ướt xông vào căn phòng người đàn ông đó. Anh ta nằm im lìm như mặt ao ngày không gió, cả khi bọc tay nó trong bàn tay chai cứng vì từng chèo chống sông hồ.


- Em đi với tôi nghen…


Sáo muốn khóc. Câu nói này Sáo đã nghe lần đầu dễ chừng bảy năm trước, hồi chưa lấy chồng. Sáo đùng đưa chân khỏa nước trên sông, nói má em bệnh không ai lo. Lần thứ hai ngồi dưới chòm quao lập lòe đom đóm, nó nói má em nhận lễ của người ta rồi. Lần thứ ba là vào một mùa mưa, bữa đó đi chợ, đứng đụt mưa ở hiên nhà người ta, gió tạt làm hai ống quần sũng nước, Sáo bỗng nghe ai đó nói “em đi với tôi nghen…”, như tha thiết như thương hại, xót xa… Nó đi hết chặng đò rồi, về tới nhà vẫn còn nghe. Chục bữa sau vẫn nghe. Sáo không đi chợ nữa, cần gì thì chồng đi hoặc nhờ hàng xóm tiện thể mua giùm.


Nhưng Sáo có cài bao nhiêu cửa, có ngồi miết trong buồng thì vẫn nghe “hãy đi với tôi…”. Bằng thứ âm thanh chỉ mình nó biết, nó nói đâu có được, tui mắc nấu cơm cho chồng tui, người khác không biết ý ổng nấu ăn sẽ ấm ức lắm. Như bữa ở chợ Sáo nói mắc đi mua chỉ về cho chồng vá chài. Sáo luôn phải bận bịu, vướng víu vì ai đó, dù đôi lúc giữa đêm Sáo mặc lại áo, nó nghĩ nếu đi với Câu Nói thì giờ chắc mình được ngủ rồi.


Lần cuối cùng Sáo nghĩ tới chuyện nắm tay Câu Nói ra đi, là khi chồng Sáo nhảy lên chiếc xuồng câu bơi đi hái trộm ngò gai nêm canh cá Bạc Đầu. Nhìn theo anh rẽ lân tinh lấp lánh như con tôm mon men vào ven đó, Sáo nghĩ, nếu con cá, cọng ngò có thể làm anh vui vẻ tới vậy, thì không nó cũng không sao. Nó muốn có một đứa con được tạo thành bởi tình yêu chớ không phải bởi phép màu của cá. Đang nghĩ bùi ngùi bỗng có người tới gọi, chồng bây bị người ta đánh té xuống nước chết queo rồi. Sáo chôn cất cuộc đi, vì mắc tang tế, đòi công lý cho chồng, cúng quảy người nhà chồng. Chớ ai.


Hôm đó, Sáo chôn cất luôn những ý nghĩ chạy trốn vẩn vơ. Giờ người đàn ông này lại bảo, “Em đi với tôi nghen – Cũng câu nói hôm xưa, giờ nhuốm màu vô vọng – Chồng em có còn đâu…”. Sự vô vọng của năm chữ đằng sau phả hơi lạnh tới cả cái gật đầu của Sáo, ừ thì đi.



7


Cả hai không xếp hành lý, thậm chí không lấy ghe, cứ ào xuống nước bơi về phía bờ mà ai cũng biết là đã không còn bờ từ nước đuổi. Sau lưng, bè rau càng lúc càng rực rỡ. Ngọn đèn chong Sáo kê sát vách mùng giờ chắc đã bén lửa lan vào tận những đụn rơm phía ngoài. Người đàn ông bơi cạnh Sáo không một lần ngoái lại. Sáng hôm qua khi tiễn con gái nhỏ trở vô trong chợ, anh ta đã xiết nó đến nỗi nó kêu đau. Như không có lần sau. Giây phút đó Sáo nhận ra thứ anh ta quý nhất, đến nỗi sẵn sàng từ bỏ tất cả để có được. Là Sáo.


Nó rớt nước mắt. Đi cùng nó có gì vui đâu mà người này cứ đòi phải đi cho được, bảy năm trời không chịu thôi. Ừ vậy thì đi. Hai đứa bơi mãi trong ánh lân tinh réo rắt dìu dặt. Nước tràm trụa trên mặt, nước mặn xót mấy cái chân răng. Bơi đến kiệt sức, đến trống rỗng, đến mức có thể chìm trôi, có thể quên hết quá khứ. Chớ Sáo biết đi đâu với người đã vô tình làm chồng nó chết, bởi một cơn nóng giận, bởi một lầm lẫn, tưởng đạp rào là sẽ được bước qua.


Quanh hai con người đau đớn, cá Sầu Ngư đang nhơ nhởn họp bầy.


… Đoạn, có người hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi không biết, tôi đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi.




(*) Từ Bi Ký