Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

Harari – Có Phải Chúng Ta Đã Hạnh Phúc Hơn Trong Thời Đồ Đá?



Cuộc sống hiện nay có khiến chúng ta hạnh phúc không? Chúng ta đã thành tựu được nhiều nhưng chúng ta cũng đã thiệt mất rất nhiều. Có phải con người đã thích hợp hơn với một đời sống của kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm?


Chúng ta có nhiều quyền năng hơn những tổ tiên của chúng ta, nhưng chúng ta có nhiều hạnh phúc hơn không? Những nhà sử học hiếm khi dừng lại để suy nghĩ về vấn đề này, nhưng cuối cùng, không phải lịch sử là về câu hỏi đó? Sự hiểu biết của chúng ta và sự phán xét của chúng ta, hãy tạm nói, về sự truyền bá trên thế giới của tôn giáo tin chỉ một gót chắc chắn tùy thuộc vào việc chúng ta kết luận rằng liệu nó nâng cao hay hạ thấp những mức độ hạnh phúc của thế giới. Và nếu sự lan truyền của tôn giáo tin chỉ một gót đã không có tác động đáng ghi nhận nào đến hạnh phúc của thế giới, vậy nó đã làm được khác biệt gì?




Với sự nổi lên của chủ nghĩa cá nhân và sự suy thoái của những hệ ý thức tập thể, hạnh phúc có thể được cho là trở thành giá trị cao nhất của chúng ta. Với sự tăng trưởng lớn lao đến kỳ diệu trong sự sản xuất của con người, hạnh phúc cũng đang tiếp nhận mức độ quan trọng chưa từng có về kinh tế. Nền kinh tế tiêu thụ đang ngày càng chuyển sang cung ứng hạnh phúc hơn là cung cấp sinh kế tối thiểu hoặc ngay cả cung cấp sự giàu có hay sung túc, và một hợp xướng gồm nhiều giọng nói hiện đang kêu gọi một thay thế những đo lường GDP với những chỉ số thống kê về hạnh phúc, như thước đo kinh tế cơ bản. Chính trị dường như cũng làm theo. Quyền truyền thống với sự “theo đuổi hạnh phúc” thì được chuyển hóa, khó nhận thấy, vào trong hình thái của một ‘quyền hưởng hạnh phúc’, có nghĩa là nó đang trở thành nhiệm vụ của chính phủ để bảo đảm hạnh phúc cho những công dân của mình. Năm 2007, Ủy ban Europe đã bắt đầu tung ra “Vượt khỏi GDP” để xem xét liệu có thể thực hiện được việc dùng một chỉ số an sinh để thay thế hoặc bổ sung cho GDP. Những sáng kiến ​​tương tự gần đây đã được phát triển ở nhiều nước khác – từ Thailand đến Canada, từ Israel đến Brazil.


Hầu hết những chính phủ vẫn chú trọng vào sự thành tựu tăng trưởng kinh tế, nhưng khi được hỏi tăng trưởng như thế có gì là tốt, ngay cả những nhà tư bản ‘quyết liệt đến chết’ hầu như luôn luôn quay sang hạnh phúc. Giả sử chúng ta bất chợt gặp (thủ tướng United Kingdom) David Cameron, và đòi hỏi muốn biết tại sao ông quá quan tâm đến tăng trưởng kinh tế. “Vâng,” ông có thể trả lời, “tăng trưởng là điều cần thiết để cung cấp cho người ta mức sống cao hơn, chăm sóc y tế tốt hơn, nhà ở lớn hơn, xe ô tô nhanh hơn, kem ăn ngon miệng hơn.” Và, chúng ta có thể hỏi thêm nữa, mức sống cao hơn thì có gì quá tốt thế?“Không rành rành ra đấy sao?” Cameron có thể trả lời, “Nó làm người ta hạnh phúc hơn.”


Hãy giả sử, để biện luận cho gọn, rằng bằng cách nào đó chúng ta có thể chứng minh một cách khoa học rằng những tiêu chuẩn sống cao hơn không chuyển thành hạnh phúc lớn hơn. “Nhưng David,” chúng ta có thể nói, “nhìn vào những nghiên cứu lịch sử, tâm lý và sinh học này. Chúng chứng minh vượt khỏi bất kỳ một nghi ngờ hợp lý nào rằng việc có nhà lớn hơn, kem ngon hơn và thậm chí thuốc men tốt hơn không làm tăng hạnh phúc của con người”. “Thật vậy sao?” Ông ta sẽ ngạc nhiên thở hắt ra, “Tại sao chả ai nói với tôi cả! Chà, nếu đúng như vậy, hãy quên những kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tôi đi. Tôi sẽ bỏ tất cả, và nhập đoàn sống chung với một cộng đồng hippie.”


Đây là một trường hợp rất khó có thể xảy ra, và không chỉ vì cho đến nay chúng ta hầu như không có nghiên cứu khoa học nào về lịch sử dài hạn của hạnh phúc. Những học giả đã nghiên cứu lịch sử của tất cả mọi sự vật việc – chính trị, kinh tế, bệnh tật, tình dục, thực phẩm – nhưng hiếm khi họ đã hỏi chúng tất cả ảnh hưởng thế nào đến hạnh phúc con người. Trong những mười năm qua, tôi đã viết một lịch sử của loài người, theo dõi sự biến đổi của loài chúng ta từ một con ape không đáng kể ở Africa thành chủ nhân của cả hành tinh. Không phải là dễ dàng để hiểu những gì đã biến Homo sapiens thành một kẻ giết hại hàng loạt môi trường sinh thái; tại sao đàn ông lại thống trị phụ nữ trong hầu hết những xã hội loài người; hoặc tại sao chủ nghĩa tư bản đã trở thành tôn giáo thành công nhất từ ​​trước tới nay. Không dễ để giải quyết những câu hỏi như vậy bởi vì những học giả đã đưa ra rất nhiều trả lời khác nhau và mâu thuẫn nhau. Ngược lại, khi đánh giá thành tựu sau cùng – không biết hàng nghìn năm của phát minh và những khám phá có khiến chúng ta hạnh phúc hơn không – thật ngạc nhiên khi nhận ra rằng những học giả đã bỏ quên ngay cả việc nêu lên câu hỏi. Đây là thiếu xót lớn nhất trong sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử.


Quan điểm Whig về lịch sử


Mặc dù có ít học giả đã nghiên cứu lịch sử dài hạn của hạnh phúc, hầu hết mọi người đều có một vài ý tưởng về nó. Một định kiến ​​phổ biến – thường gọi đặc biệt là “quan điểm Whig về lịch sử” – xem lịch sử như sự diễn hành khải hoàn của tiến bộ. Mỗi những nghìn năm qua đều chứng kiến ​​những khám phá mới: canh nông, bánh xe, chữ viết, kỹ thuật in, động cơ hơi nước, thuốc kháng sinh. Con người thường dùng quyền năng mới tìm được để làm giảm bớt những khổ sở và thực hiện những ước vọng. Theo đó, sự tăng trưởng theo cấp số nhân về quyền năng con người phải có kết quả là sự tăng trưởng theo cấp số nhân về hạnh phúc. Người thời nay hạnh phúc hơn những người thời trung cổ, và những người thời trung cổ đã hạnh phúc hơn những người thời đồ đá.


Nhưng quan điểm về tiến bộ này gây rất nhiều bất đồng. Mặc dù ít người sẽ tranh luận về sự kiện rằng quyền năng con người đã phát triển từ thời bình minh của lịch sử, nhưng tương liên giữa quyền năng với hạnh phúc là điều kém rõ ràng hơn nhiều. Thí dụ, sự ra đời của nông nghiệp đã làm tăng sức mạnh tập thể của nhân loại với cấp số nhiều bội phần. Tuy nhiên, nó không nhất thiết đã cải thiện số phận cá nhân. Trong hàng triệu năm, cơ thể con người và não thức đã thích nghi để chạy đuổi theo loài dê núi, trèo cây để hái táo, và dọ dẫm chỗ này sang chỗ kia để tìm nấm. Ngược lại, cuộc sống nhà nông, gồm những giờ đằng đẵng dài hết ngày trong công việc nông nghiệp nặng nhọc: cày xới, làm cỏ, thu hoạch và gánh từng thùng lấy nước sông. Lối sống như vậy có hại cho lưng, đầu gối và khớp xương con người, và làm tê cóng não thức con người.


Đổi lấy tất cả những công việc nặng nhọc này, những người làm ruộng thường nhận được chế độ ăn uống tồi tệ hơn so với những người săn bắn hái lượm, và khổ hơn vì kém bổ dưỡng và đói nhiều hơn. Những vùng định cư đông đúc của họ trở thành lò sinh sản những bệnh truyền nhiễm mới, phần lớn chúng có gốc từ những động vật thuần hóa trong những trại nuôi. Nông nghiệp cũng mở đường cho sự phân chia giai cấp xã hội, cho sự khai thác bóc lột và có thể cả chế độ gia trưởng. Từ cái nhìn theo hướng hạnh phúc cá nhân, “cách mạng nông nghiệp”, theo lời của nhà khoa học Jared Diamond, là sự “sai lầm tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại”. [1]


Tuy nhiên, trường hợp của cách mạng nông nghiệp không phải là một lệch lạc duy nhất. Sự diễn hành của tiến bộ từ những nhà nước-thành phố Sumer đầu tiên đến những đế quốc Assyria và Babylonia, đều đã đi kèm với sự suy thoái ngày càng tăng trong địa vị xã hội và tự do kinh tế của phụ nữ. Thời Phục hưng của Europe, với tất cả những khám phá và sáng chế tuyệt vời của nó, đã giúp ích cho ít người ngoài vòng giới hạn của giới ưu tú chọn lọc phái nam. Sự lan truyền của những đế quốc Europe đã thúc đẩy sự trao đổi trong công nghệ, ý tưởng và sản phẩm, nhưng đây không phải là những ‘tin lành’ cho hàng triệu người bản địa America, người da đen Africa and thổ dân Australia.


Không cần phải khai triển thêm. Những học giả đã kỹ lưỡng đập tan cái nhìn Whig về lịch sử, nhưng câu hỏi duy nhất còn lại là: tại sao nhiều người vẫn tin vào nó?


Thiên đường đã mất


Có một định kiến ​​cũng ngang thế nhưng đối nghịch hoàn toàn, có thể được gọi là “cái nhìn lãng mạn về lịch sử”. Định kiến này cho rằng giữa quyền lực và hạnh phúc có tương quan ngược nhau. Khi nhân loại có được nhiều quyền lực hơn, nó tạo ra một thế giới máy móc lạnh lẽo, vốn ít thích hợp với những nhu cầu thực sự của chúng ta.


Cái nhìn lãng mạn không bao giờ mệt mỏi với việc săn tìm mặt tối của mọi khám phá. Chữ viết đã là nguyên nhân của bòn rút sưu thuế. Kỹ thuật in đã sinh ra tuyên truyền và tẩy não đại chúng. Cômputơ biến chúng ta thành những zômbie. Những chỉ trích gay gắt nhất tất cả dành riêng cho ‘ba ngôi’ bất lương là chủ nghĩa công nghiệp, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tiêu thụ. Ba ‘ông ba bị’ này đã gây xa lạ, lạc lõng cho người ta với môi trường tự nhiên, với cộng đồng nhân loại, và thậm chí với những sinh hoạt hàng ngày của họ. Những công nhân nhà máy thì không gì khác hơn một răng cưa bánh xe cơ khí, một nô lệ cho những đòi hỏi của những máy móc và lời lãi của tính toán tiền bạc. Tầng lớp trung lưu có thể an hưởng những điều kiện làm việc và nhiều tiện nghi vật chất tốt hơn, nhưng nó trả cho chúng một giá cắt cổ của sự tan rã xã hội và hoang vắng tinh thần. Từ một hướng nhìn lãng mạn, đời sống của những nông dân trung cổ thì ưa chuộng hơn so với của những công nhân nhà máy và của những nhân viên văn phòng thời nay, và đời sống của những người săn bắn hái lượm là tốt nhất tất cả.


Tuy nhiên, cái nhìn lãng mạn nhấn mạnh việc nhìn vào mặt tối của mỗi khám phá mới lạ thì cũng giáo điều như sự tin tưởng Whig vào tiến bộ. Thí dụ, trong hai trăm năm qua, y học thời nay đã đánh bại những đội quân của những bệnh tật vốn vẫn rình rập loài người, từ bệnh lao và bệnh sởi đến bệnh tả và bạch hầu. Tuổi thọ trung bình đã tăng vọt và tỉ lệ trẻ em chết non trên thế giới đã giảm từ khoảng 33% xuống dưới 5%. Ai có thể ngở vực rằng điều này đã tạo ra một đóng góp to lớn cho hạnh phúc, không chỉ của những đứa trẻ có thể chết, nhưng còn của cha mẹ, anh chị em và bạn bè của chúng?


Thiên đường bây giờ


Một lập trường uyển chuyển hơn đồng ý với cái nhìn lãng mạn, cho đến thời hiện nay, rằng không có tương quan rõ ràng giữa quyền năng và hạnh phúc. Nông dân thời trung cổ thực sự có thể đã khốn khổ hơn tổ tiên săn bắn hái lượm của họ. Nhưng lập trường lãng mạn thì sai lầm trong phán xét khắc nghiệt của họ về những gì là phẩm chất của thời hiện nay. Trong vài trăm năm qua chúng ta không chỉ có quyền năng to lớn, nhưng quan trọng hơn, những hệ ý thức nhân văn mới cuối cùng đã chặt chẽ gò ép quyền năng tập thể của chúng ta vào sự phục vụ hạnh phúc cá nhân. Mặc dù có một số thảm họa như Holocaust và mua bán nô lệ xuyên Atlantic (như chuyện đã kể), chúng ta đã cuối cùng ở khúc rẽ ngoặt cuối và đã bắt đầu tăng trưởng một cách hệ thống hạnh phúc trên toàn thế giới. Những chiến thắng của y học thời nay chỉ là một trong những thí dụ. Những thành tựu chưa từng có khác gồm sự suy giảm những chiến tranh quốc tế; sựsụt giảm mạnh về bạo động trong gia đình; và sự loại bỏ nạn đói với quy mô lớn. (Xem The Angels of Our Nature của Steven Pinker) [2]


Tuy nhiên, điều này nữa, cũng là một sự giản lược hóa. Chúng ta chỉ có thể chúc mừng chúng ta về những thành tựu của Homo sapiens thời nay nếu chúng ta hoàn toàn làm ngơ trước số phận của tất cả những loài động vật khác. Phần lớn sự phong phú trong việc bảo vệ con người khỏi những bệnh tật và nạn đói đã tích luỹ bằng tổn thất của những con khỉ trong thí nghiệm, những con bò sữa và gà trong những dây chuyền sản xuất công nghiệp. Trong hai trăm năm qua, hàng chục tỷ của chúng đã là đối tượng nạn nhân của một chế độ khai thác công nghiệp, mà sự tàn ác của nó không có tiền lệ nào đã thấy trong những sử sách ghi từng năm của hành tinh Trái Đất.


Thứ hai, khung thời gian mà chúng ta đang nói đến thì rất ngắn. Ngay cả nếu chúng ta chỉ tập trung vào số phận của con người, thật khó để biện luận rằng đời sống của người bình thường làm thợ mỏ xứ Wales, hay làm ruộng nước Tàu năm 1800 thì tốt hơn so với đời sống của người săn bắn hái lượm bình thường 20.000 năm trước. Hầu hết mọi người bắt đầu tiếp nhận những thành quả của y học thời nay không sớm hơn năm 1850. Những trận đói kém chết hàng loạt và những chiến tranh lớn tiếp tục tàn phá phần lớn nhân loại cho đến giữa thế kỷ 20. Mặc dù vài chục năm gần đây đã cho thấy tương đối là trong một thời hoàng kim của nhân loại ở những nước đã phát triển, nhưng vẫn còn quá sớm để biết liệu điều này có phải trong nền tảng là một thay đổi của dòng chảy lịch sử, hay chỉ là một cơn sóng nhất thời của may mắn: 50 năm thì đơn giản là chưa đủ thời gian hầu có thể căn cứ vào đó để thiết lập những tổng quát hóa triệt để và toàn diện.


Thật vậy, thời hoàng kim hiện có ngày nay có thể quay ra là đã gieo những hạt giống của thảm họa tương lai. Trong vài những mười năm qua, chúng ta đã làm xáo trộn sự cân bằng sinh thái của hành tinh chúng ta trong vô số những cách thức phức tạp, và không ai biết hậu quả cảu chúng sẽ là gì. Chúng ta có thể đang phá hủy nền tảng của sự thịnh vượng của con người trong một cơn truy hoan cuồng loạn của sự tiêu thụ bất cần liều lĩnh.


Cô đơn và buồn xám?


Ngay cả khi chúng ta chỉ tính đến những công dân của những xã hội giàu có ngày nay, những người với cái nhìn lãng mạn có thể chỉ ra rằng sự thoải mái và an ninh của chúng ta có cái giá phải trả của chúng. Homo sapiens đã tiến hóa như một động vật xã hội, và những điều kiện thỏa mãn hạnh phúc chúng ta thường nhận ảnh hưởng từ phẩm chất của những quan hệ nhân văn nhiều hơn từ những tiện ích gia đình, khối tiền gửi nhà băng, hay ngay cả sức khỏe của chính chúng ta. Thật không may, sự cải thiện to lớn trong những điều kiện sinh hoạt vật chất mà người phương Tây giàu có đã được hưởng trong hơn trăm năm vừa qua đã đi kèm với sự sụp đổ của những cộng đồng thân mật nhất.


Mọi người trong thế giới phát triển đều dựa vào nhà nước và thị trường cho hầu hết mọi thứ họ cần: thức ăn, nhà ở, giáo dục, y tế, an ninh. Do đó nó đã trở thành có thể tồn tại mà không cần có những gia đình mở rộng hoặc bất kỳ bạn bè thực sự nào. Một người sống trong một binđing nhiều tầng cao ở London, bất cứ nơi nào cô đi đâu, đều có hàng ngàn người xung quanh, nhưng cô có thể không bao giờ đến thăm gia đình hay người ở ngay bên cạnh, và có thể chỉ biết rất ít về những đồng nghiệp nơi cô làm việc hàng này. Ngay cả bạn của cô cũng có thể chỉ là những bạn gặp trong quán rượu. Nhiều tình bạn ngày nay gồm không gì nhiều hơn nói chuyện và có dịp vui chung cùng nhau. Chúng ta gặp một người bạn ở quán rượu, gọi điện thoại hoặc gửi email cho người ấy, để chúng ta có thể giải tỏa tức giận chúng ta gặp phải về những gì đã xảy ra hôm nay trong văn phòng, hoặc chia sẻ những suy nghĩ của chúng ta về vụ bê bối mới nhất trong hoàng gia. Tuy nhiên, làm sao bạn có thể thực sự biết một người chỉ từ những bàn luận, đàm thoại?


Ngược lại với bạn bè kiểu ‘quán rượu’ như vậy, bạn bè trong thời đồ đá tùy thuộc vào nhau cho sự sống còn của họ. Con người sống trong những cộng đồng gắn bó mật thiết, và bạn bè là những người mà bạn đã cùng đi săn loài voi ma mút khổng lồ. Bạn đã cùng sống sót những chuyến đi dài và những mùa đông khó khăn. Bạn đã chăm sóc lẫn nhau khi một trong những người bạn ngã bệnh, và chia sẻ những mẩu thức ăn cuối cùng của bạn vào những lúc cần. Những người bạn như vậy biết nhau sâu sắc hơn nhiều cặp vợ chồng ngày nay. Thay thế những mạng lưới bộ lạc bấp bênh như vậy với sự an toàn của những nền kinh tế thời nay và những quốc gia, rõ ràng là có những ưu thế to lớn. Nhưng phẩm chất và chiều sâu của những quan hệ thân mật thì có nhiều phần đã bị thiệt hại.


Ngoài những quan hệ nông cạn hơn, con người thời nay cũng chịu khổ từ một thế giới cảm giác nghèo nàn hơn rất nhiều. Những người săn bắn hái lượm cổ xưa sống trong giây phút hiện tại, có nhận thức bén nhọn về thính giác, vị giác và khứu giác. Sự sống còn của họ tùy thuộc vào nó. Họ lắng nghe những cử động nhỏ nhất trên cỏ để tìm xem có phải một con rắn có thể đang nấp ở đó không. Họ cẩn thận quan sát chùm lá rừng để tìm trái cây và tổ chim. Họ ngửi gió để dò dẫm nguy hiểm đang đến gần. Họ di động với nỗ lực tối thiểu để giữ nhẹ nhàng và tránh tiếng động, và biết những cách ngồi, bước và chạy nhanh nhẹn và hiệu quả nhất. Liên tiếp và dùng cơ thể dưới nhiều cách khác nhau đã cho họ sự khéo léo thể chất vốn người ngày nay không thể nào có được, ngay cả sau nhiều năm tập yoga hay tàichí.


Hôm nay chúng ta có thể đi đến siêu thị và chọn hàng ngàn món ăn khác nhau. Nhưng bất cứ món gì chúng ta chọn, chúng ta có thể ăn nó trong vội vàng trước một TV, không thực sự chú ý đến hương vị. Chúng ta có thể đi nghỉ mát đến hàng nghìn địa điểm tuyệt vời. Nhưng bất cứ nơi nào chúng ta đến, chúng ta có thể chơi với điện thoại thông minh của chúng ta thay vì thực sự nhìn ngắm nơi này. Chúng ta có nhiều lựa chọn hơn bao giờ hết, nhưng lựa chọn này là gì, khi chúng ta đã mất khả năng thực sự để chú ý?


Tốt, bạn đã trông mong gì?


Ngay cả nếu bạn không đồng ý với bức tranh này của sự giàu có thời Pleistocene, thời băng giá cuối cùng với sự xuất hiện của loài người, được thay thế với sự nghèo nàn của thời hiện nay, rõ ràng là sự gia tăng to lớn về quyền năng con người đã không sánh ngang được với sự gia tăng về hạnh phúc của con người. Chúng ta mạnh hơn ngàn lần so với tổ tiên săn bắn hái lượm của chúng ta, nhưng ngay cả quan điểm Whig lạc quan nhất cũng không thể tin rằng chúng ta hạnh phúc hơn ngàn lần. Nếu chúng ta nói với cụ cố bà của chúng ta về cách chúng ta sống, với thuốc chủng và thuốc giảm đau, và nước phân phát từ vòi công cộng và tủ lạnh nhét đầy thức ăn, cụ cố có thể đã vỗ tay trong ngạc nhiên và nói: “Cháu đang sống trong thiên đường! cháu có thể thức dậy mỗi sáng với một bài hát trong lòng, và trải qua những ngày sáng sủa dưới nắng trời, đầy biết ơn và lòng tốt với tất cả mọi người.” Vâng, nhưng chúng ta không thế! So với những gì hầu hết mọi người trong lịch sử đã mơ ước, chúng ta có thể sống đang sống trên thiên đường. Nhưng vì lý do nào đó, chúng ta không cảm thấy rằng chúng ta đang như thế.


Một giải thích đã được những nhà khoa học xã hội cung cấp, những người gần đây đã tái khám phá một khôn ngoan của thời cổ: hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ít hơn vào những điều kiện khách quan và nhiều hơn nữa vào những trông mong của chính chúng ta. Những trông mong, tuy nhiên, có khuynh hướng thích nghi với những điều kiện. Khi mọi sự vật việc cải thiện, những kỳ vọng tăng lên, và do đó thậm chí những cải tiến ấn tượng vượt bực trong những điều kiện, nhưng có thể vẫn khiến chúng ta không hài lòng như trước đây. Trong sự theo đuổi hạnh phúc, mọi người bị mắc kẹt trên khuynh hướng “thích ứng với hạnh phúc” [3] nổi tiếng, chạy nhanh hơn và nhanh thêm hơn nhưng không đi đến đâu cả.


Nếu bạn không tin điều đó, hãy hỏi Hosni Mubarak. Người Egypt trung bình ít có khả năng chết vì đói, vì dịch hạch hoặc vì bạo hành dưới thời Mubarak làm tổng thống hơn bất kỳ chế độ nào trước đây trong lịch sử Egypt. Trong mọi khả năng, chế độ của Mubarak cũng ít tham nhũng hơn. Tuy nhiên, vào năm 2011 những người Egypt đã xuống đường trong giận dữ để lật đổ Mubarak. Vì họ có những kỳ vọng cao hơn nhiều so với tổ tiên của họ.


Thật vậy, nếu hạnh phúc chịu ảnh hưởng mạnh bởi kỳ vọng thì một trong những trụ cột trung tâm của thế giới thời nay, truyền thông đại chúng, dường như được may cắt để ngăn chặn sự gia tăng đáng kể trong những mức độ hạnh phúc toàn cầu. Một người đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ cách đây 5.000 năm, đã tự đánh giá mình khi so sánh với 50 người đàn ông khác cùng làng. So với họ, người ấy trông khá ‘bảnh’. Ngày nay, một người đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ so sánh mình với những ngôi sao điện ảnh và những người mẫu, những người mà người này nhìn thấy hàng ngày trên màn hình và biển quảng cáo khổng lồ. Người dân làng thời nay của chúng ta chắc chắn có thể ít hài lòng hơn với cách người ấy nhìn.


Trần kính trong xuốt ngăn cản của sinh học


Những nhà sinh vật học tiến hóa đưa ra một giải thích bổ sung cho thuyết thích ứng với hạnh phúc. Họ cho rằng cả hai, những kỳ vọng của chúng ta và hạnh phúc của chúng ta đều không thực sự do những yếu tố chính trị, xã hội hay văn hóa ấn định, nhưng do hệ thống sinh hóa của chúng ta. Không ai bao giờ được làm cho hạnh phúc, họ biện luận, sau khi được tăng lương hay lên chức, hay trúng xổ số, hay ngay cả cho rằng mình đã tìm được tình yêu chân thực. Mọi người được làm cho hạnh phúc bởi một điều và một điều duy nhất – những cảm giác dễ chịu trong cơ thể của họ. Một người vừa được thăng chức và nhảy lên sung sướng thì không thực sự phản ứng với tin mừng này. Cô đang phản ứng với những kích thích tố khác nhau chảy nhanh trong những mạch máu của cô, và với cơn bão của những tín hiệu điện nhấp nháy giữa những phần não khác nhau của cô.


Tin xấu là những cảm giác dễ chịu đó đều nhanh chóng giảm xuống. Nếu năm ngoái tôi được thăng chức, tôi có thể vẫn đang giữ chức vị mới đó, nhưng những cảm giác rất dễ chịu mà tôi cảm thấy khi đó đã giảm bớt từ lâu. Nếu tôi muốn tiếp tục cảm thấy những cảm giác như vậy, tôi phải có một thăng chức khác nữa. Và một khác nữa. Đây tất cả là lỗi của sự tiến hóa. Tiến hóa không quan tâm với tự thân hạnh phúc cho mỗi người: nó chỉ quan tâm đến sự sống còn và tái sinh sản, và nó đơn thuần dùng hạnh phúc và khổ sở như những kích thích, như những gậy nhọn để thúc trâu bò. Sự tiến hóa bảo đảm rằng bất kể chúng ta đạt được gì, chúng ta vẫn không hài lòng, mãi mãi mong tìm nắm bắt nhiều hơn. Hạnh phúc là như vậy, một hệ thống những trạng thái cân bằng bên trong. Cũng giống như hệ thống sinh hóa của chúng ta duy trì nhiệt độ cơ thể và mức đường trong phạm vi của những ranh giới hạn hẹp, nó cũng ngăn cản mức độ hạnh phúc của chúng ta, không cho vượt quá những ngưỡng cửa nhất định.


Nếu hạnh phúc thực sự được xác định bởi hệ thống sinh hóa của chúng ta, thì tăng trưởng kinh tế, cải cách xã hội và những cách mạng chính trị thêm hơn nhiều nữa, đều sẽ không làm thế giới của chúng ta trở nên hạnh phúc nhiều hơn. Cách duy nhất đột nhiên và nhận thấy nổi bật để nâng cao mức độ hạnh phúc toàn cầu là dùng những thuốc tâm thần, kỹ thuật di truyền và những vận dụng xoay sở trực tiếp khác trên cơ sở hạ tầng cấu trúc sinh hóa của chúng ta. Trong tác phẩm Brave New World, Aldous Huxley [4] đã dự phóng một thế giới trong đó hạnh phúc là giá trị cao nhất, và mọi người liên tục dùng thuốc soma, vốn nó làm cho mọi người hạnh phúc nhưng không gây tổn hại đến năng suất và hiệu quả của họ. Loại thuốc này dựng thành một trong những nền tảng của Nhà nước Thế giới, không bao giờ bị những chiến tranh, cách mạng hay đình công đe dọa, vì tất cả mọi người đều cực kỳ hài lòng, hết sức thỏa mãn với những điều kiện đang có của họ. Huxley đã trình bày thế giới này như một không tưởng khùng khiếp của sai lạc và thất bại hoàn toàn. Ngày nay, ngày càng nhiều nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách và những người bình thường đang áp dụng nó như mục đích của họ.


Suy nghĩ lại


Có những người nghĩ rằng hạnh phúc thì thực sự không quan trọng như thế, và rằng định nghĩa sự hài lòng cá nhân như mục đích của xã hội loài người là một sai lầm. Những người khác đồng ý rằng hạnh phúc là sự tốt lành cao nhất, nhưng nghĩ rằng hạnh phúc không chỉ là một nội dung của những cảm xúc dễ chịu. Hàng ngàn năm trước, những nhà sư đạo Phật đã đi đến được kết luận ngạc nhiên rằng sự theo đuổi những xúc cảm xúc dễ chịu thì thực ra là gốc rễ của đau khổ, và rằng hạnh phúc nằm ở hướng đối nghịch. Những cảm giác dễ chịu đều chỉ là những rung động phù du và vô nghĩa. Nếu năm phút trước, tôi cảm thấy vui vẻ hoặc yên bình, giờ đây cảm giác đó đã biến mất và tôi cũng có thể cảm thấy tức giận hoặc buồn chán. Nếu tôi đồng hóa hạnh phúc với những cảm giác dễ chịu và khao khát có kinh nghiệm này càng thêm nhiều hơn nữa, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc liên tục theo đuổi chúng, và thậm chí nếu tôi nhận được chúng, chúng ngay lập tức biến mất và tôi phải bắt đầu lại từ đầu. Việc theo đuổi này không mang lại thành tựu lâu dài. Ngược lại: tôi càng khao khát những cảm giác dễ chịu này, tôi càng trở nên căng thẳng và không hài lòng hơn. Tuy nhiên, nếu tôi học cách nhìn thấy cảm giác của mình về những gì chúng thực sự là – những rung động phù du và vô nghĩa – tôi mất hứng thú theo đuổi chúng, và có thể hài lòng với bất cứ gì tôi kinh nghiệm. Vì chạy theo sau một gì đó vốn cũng tan biến nhanh như nó phát sinh thì không ý nghĩa gì nữa? Đối với đạo Phật, sau đó, hạnh phúc không phải là những cảm giác dễ chịu, nhưng đúng hơn là sự khôn ngoan, yên bình thanh thản và tự do đến từ sự hiểu biết bản chất chân thực của chúng ta.


Đúng hay sai, tác động thực tế của những quan điểm có thể chọn lựa loại như vậy thì rất nhỏ. Đối với thế lực khổng lồ tư bản, hạnh phúc là vui sướng. Chấm hết, không ‘nhưng’ hay ‘và’, … gì gì nữa. Với mỗi năm trôi qua, sự khoan dung của chúng ta đối với những cảm giác khó chịu giảm đi, trong khi sự thèm muốn của chúng ta với những cảm giác dễ chịu tăng lên. Cả hai, nghiên cứu khoa học và hoạt động kinh tế đều chuyển hướng nhắm đến cứu cánh đó, mỗi năm sản xuất thuốc giảm đau tốt hơn, thêm những vị kem mới, nệm giường thoải mái hơn và nhiều trò chơi mê đến nghiện hơn cho những điện thoại thông minh, để chúng ta không phải chịu đựng một khoảnh khắc buồn chán nào đương khi chờ xe buýt.


Tất cả điều này khó mà goi là đủ, dĩ nhiên. Do luật tự nhiên của tiến hóa, con người không thể làm cho thích ứng được với kinh nghiệm sự vui sướng bất biến, vì vậy kem mới và những trò chơi trong điện thoại sẽ không thành công. Nhưng nếu đó là những gì loài người dẫu sao vẫn mong muốn, để chế tạo lại những cơ thể và những não thức của chúng ta sẽ là cần thiết. Chúng ta đang cố gắng làm việc đó.


Yuval Noah Harari
[Were we happier in the stone age? The Guardian (5 Sep 2014)]


Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Nov/2018)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com


[1] Jared Diamond, giáo sư UCLA. Trong Guns, Germs and Steel năm 1997, ông viết rằng mặc dù chúng ta tin rằng nông nghiệp đã khiến chúng ta có thể sống giàu có, khỏe mạnh và lâu hơn, nhưng thực tế nó là tai họa cho loài người. Theo Diamond, nông nghiệp đã phát triển khoảng 12.000 năm trước, và từ đó con người đã bị kém dinh dưỡng và nhiều bệnh tật hơn so với tổ tiên thời săn bắn hái lượm của họ. Tệ hại hơn, vì nông nghiệp cho phép sự dự trữ thực phẩm, và cho phép một số người có thể làm những việc khác ngoài việc tìm kiếm thức ăn, nó dẫn đến sự phát minh ra nhiều hơn và tốt hơn về vũ khí, quân đội, chiến tranh, đưa đến phân chia giai cấp giữa những người có/làm chủ cái ăn và những người không có cái ăn, và bất bình đẳng phái tính (trọng nam khinh nữ).
[2] The Better Angels of Our Nature: Why Violence Has Declined (2011) – tác giả, giáo sư tâm lý Harvard – nhấn mạnh vào những động lực con người – cảm thông, tự chủ, ý thức đạo đức thông thường, và lý trí — nói ràng chúng hướng chúng ta tránh xa bạo động, và đến cộng tác hòa hợp, và vị tha.
[3] hedonic treadmill (hedonic adaptation): máy tập chạy tìm hạnh phúc (sự thích ứng với hạnh phúc): Một lý thuyết mô tả khuynh hướng của một người để duy trì ở mức tương đối ổn định của hạnh phúc, mặc dù những thay đổi tích cực hay tiêu cực đối với mục tiêu sinh kế hoặc cuộc sống. Ví dụ như một người kiếm được nhiều tiền hơn và đạt được những mục tiêu cuộc sống nhất định nào đó, những trông mong và ao ước của họ tăng tỷ lệ tương đối với những thành tựu này, kết quả là không có thêm được gì lâu dài trong hạnh phúc.
[4] Brave New World (1932) Thế Giới Tương lai Mới của Aldous Huxley (1894-1963) - vẫn được xem như một khuôn mẫu cho tất cả những tiểu thuyết khoa học sau đó về thế giới kinh hoàng vì không tưởng nhưng thất bại. Trong khi kể câu chuyện về một văn minh trong đó khổ sở và đau đớn đều được xóa sạch nhưng với giá của sự tự chủ, tự do ý chí của con người. Brave New World thăm dò những tác dụng của kỹ thuật làm mất nhân tính con người, và hàm ý rằng khổ đau là thiết yếu để đời sống con người có ý nghĩa. Nhà nước Thế giới là một xã hội tương lai tác phẩm này phác họa. Trong đó, hôn nhân, gia đình và sinh sản được loại bỏ, và trẻ sơ sinh được chế tạo dùng kỹ thuật di truyền và nuôi lớn trong những lọ thủy tinh. Sau đó những công dân đều được program để có năng lực sản xuất và luôn được hài lòng sung sướng, tất cả qua một kết hợp của thao túng tạo tác về sinh học, và điều kiện hóa những trạng thái tâm lý, và một loại thuốc gọi là soma.

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2018

Đọc Tư-duy tự-do của Phan Huy Đường



Cảm hứng triết luận chủ đạo của công trình này có thể tóm tắt trong lời thuyết trình của tác giả định nghĩa thế nào là suy luận biện chứng:



"Con người chỉ có thể tự-do đối với những con người tự-do. Nó không tự-do đối với sỏi đá hay chó sói. Tự-do là một giá-trị trong quan-hệ giữa người với người. Khi nó khai triển xuyên qua ba chiều-kích của con người, nó tự-hiện-thực trong những quan-hệ mà con người trực tiếp hay gián tiếp thiết lập với nhau xuyên qua hành-động của họ vào thế-giới. Để thực-hiện điều đó, nó cần sự "chính xác" của khoa-học trong quan-hệ với vật-giới, cần yêu và tôn trọng sự-sống trong quan-hệ với sinh-giới, cần nhận thấy mình ở tha-nhân và tha-nhân ở mình trong quan-hệ với người khác, với chính-mình. Tóm lại, để giải-phóng ta một lúc khỏi ngôn-ngữ gỗ nặng khuynh hướng vật-thể-hoá này[1], ta càng hiểu-biết thế-giới vật-chất, ta càng yêu càng tôn trọng sự-sống dưới mọi hình-thái của nó, ta càng cảm-thấy đoàn-kết hay liên đới trách-nhiệm với người đời trong mọi hành-động của nó, kể cả những tội ác[2], thì ta càng tự-do. […] Trong quá-trình nên-người của mình, con người là gốc-gác, cứu-cánh và phương-tiện duy-nhất của con người. Nó nên-người bằng cách hành-động vào thế-giới và hành-động đó, để hoàn tất, đòi hỏi kiến-thức khoa-học, tình-yêu sự-sống và tình đoàn-kết giữa người với người. Suy-luận về quan-hệ vật-chất một cách chính-xác, về quan-hệ-sống một cách trìu mến, về quan-hệ tinh-thần như thấy tha-nhân ở mình và kêu gọi tha-nhân thấy mình ở tha-nhân, suy-luận về con người như thể thống-nhất năng-động của những quan-hệ đó, tôn trọng sự toàn vẹn vật-lý của nó, trìu mến sinh-tính cá-biệt của nó, biết ơn trí-tính phổ-cập ở nó, suy-luận như thế gọi là suy-luận biện-chứng."

Tự do là chủ đề trung tâm của công trình. Tự do của con người được tác giả xem xét trong quan hệ của nó với vật chất, trong quan hệ của nó với sự sống và trong quan hệ của nó với "tha-nhân và với chính-mình". Từ ba quan hệ này có ba hình thái của tự do. Hình thái thứ nhất đòi hỏi sự hiểu biết vật chất một cách chính xác, tức là kiến thức khoa học, hoặc nói một cách bao quát, đó là "tính tất yếu được nhận thức". Hình thái thứ hai đòi hỏi "tình-yêu sự-sống". Hình thái thứ ba đòi hỏi "tình đoàn-kết giữa người với người". Đoàn kết là "nhận thấy mình ở tha-nhân và tha-nhân ở mình trong quan-hệ với người khác, với chính-mình". Hiểu như vậy, "đoàn-kết là hình-thái tối cao, là chân trời của tự-do".





Chủ đề tự do và những vấn đề triết học khác trong công trình này được tác giả triển khai có sự tham chiếu những triết thuyết của những "nhà tư-tưởng lớn đã nuôi dưỡng tư-duy hiện đại" : Descartes, Kant, Hegel, Marx, Engels, Darwin, Freud, Einstein, Sartre… và dĩ nhiên bằng nghiệm sinh của chính tác giả. Đặc biệt "Sự rạn-nứt-khoa-học-luận do Descartes gây ra", những "mầm mống thiên tài của thế-giới-quan mới" được chứa đựng trong những luận đề về Feuerbach của Marx, công thức xuất sắc của Sartre "để biểu-đạt thể-thống-nhất giữa Thực-thể và Hư-vô xuyên qua cảm-nhận của ta về những vật-thể", sự "truy nã tiềm-thức" của Freud và quá trình "nhân-hoá thế-giới"…, những vấn này đã được tác giả phân tích sâu sắc, mỗi triết thuyết đã "được hiểu và vượt qua đúng theo lô gích nội tại của nó", được phê phán "để gạt bỏ khía cạnh hình-thức của nó nhưng vẫn giữ lại nội-dung mới mà nó đã đạt được" (xem Phần II).

Phần III chuyên bàn về những vấn đề văn hoá, nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ. Về nhiều vấn đề cụ thể được nêu lên tác giả có những ý kiến sâu sắc.

Về đặc trưng của văn chương :

"Khi quan-hệ của một con người với đồ-vật, xuyên qua ngôn-ngữ biểu-hiện nó, chỉ lặp lại những quan-hệ xưa của con người với đồ-vật thì chỉ có chuyện tái-tạo những ý-chung, không có văn-chương. Khi, trên cơ sở đó, một cá-nhân tạo ra một quan-hệ nhân-tính mới với đồ-vật, ngôn-ngữ của người ấy trở thành văn-chương. Điều độc giả tiếp nhận, chính là quan-hệ đó. Độc giả có thể nhạy-cảm với nó vì quan-hệ đó khơi lại ở mình một nghiệm-sinh chưa thành lời của chính-mình hoặc vì nó mở ra cho mình khả-năng sống những quan-hệ mới với đồ-vật. Vì thế, độc giả không quan tâm tới đồ-vật được mô tả. Thường thường nó cũng không nhớ tới. Điều quan trọng là tác giả diễn tả như thế nào, là quan-hệ cá-biệt của tác giả với đồ-vật. Cái "thế nào" ấy, độc giả không bao giờ "tìm" được bằng cách phân-tích văn bản. Độc giả (tái) tạo nó xuyên qua quá-trình đọc của chính-mình…»

Về sự tạo cái mới trong văn chương :

"Văn-chương tạo cái mới từ cái cũ, thậm chí từ cái cổ, từ những ý-chung, ký-ức muôn đời của loài người. Nó thực-hiện điều đó bằng cách thay đổi quan-hệ hiện nay của ta với thế-giới trong hình-thái người đời đã dạy ta ý-niệm chúng. Làm như thế, nó đặt lại vấn đề đối với toàn bộ niềm-tin của những nền văn-minh. Vì nó là ngôn-ngữ nó có khả-năng tra hỏi ngôn-ngữ, tra tấn nó, biến nó thành vấn đề[3]. Nhưng nó không thể thực-hiện điều ấy nếu nó vứt bỏ khỏi ngôn-ngữ điều khiến ngôn-ngữ là ngôn-ngữ, loại bỏ ý-nghĩa của ngôn-từ và những gò bó cấu trúc của ngôn-ngữ : bỏ hết đi, chỉ còn lại những luồng âm-thanh vô nghĩa, hay một đống giấy rác. Nó thực-hiện điều ấy bằng cách xô đẩy ý-nghĩa mệt mỏi, thiếu máu, đông lạnh của ngôn-từ, xô đẩy sự trói buộc của cấu trúc câu, để tái-tạo cho chúng một nội-dung trọn vẹn. Nó chỉ có thể thực-hiện điều ấy trên cơ sở một quan-điểm khác, một cách có ý-thức hay không, về con người và thế-giới."

Tác giả đã tăng thêm chiều sâu cho thuyết cảm nhận qua sự phân tích chiều sâu mối quan hệ giữa tác giả và độc giả, qua linh thức về sự tương đồng kỳ diệu giữa sự giao cảm nghệ thuật :

"… bất kể hình-thái, kể cả lừa dối, che dấu, ngôn-ngữ văn-chương luôn luôn phô trương con người thầm kín ở nhà văn. Đọc là ve-vuốt ngôn-ngữ ấy. Nghệ-thuật ngôn-từ là nghệ-thuật kích thích độc giả ve-vuốt áng văn để tìm sự hiện-diện của một con người ở thế-giới. Sự hiện-diện của nó ở ta. Ta không thể ve-vuốt một áng văn mà không đồng thời tự-ve-vuốt mình ở nó, đón nhận trong cái ta cá-biệt sự hiện-diện cá-biệt của tác giả ở đời. Như thế, ta hiểu vì sao có lúc ta nhận diện một nhà văn ngay khi vừa đọc tác-phẩm của người ấy : trong tác-phẩm ấy có tất cả, ý-tưởng, cảm-xúc và cách thực-hiện chúng bằng ngôn-từ."

và sự giao cảm tình yêu :

"… Ta nói ta ve-vuốt một người đàn bà tuy bàn tay ta chỉ ve-vuốt được một bầu vú. Chính vì xuyên qua một quan-hệ vật-chất ta ý-thức rằng ta đang quan-hệ với "hai thực-thể", thực-thể vật-chất của một bầu vú và "thực-thể" sống của một người đàn bà. Xuyên qua động tác, ta ve-vuốt toàn bộ "thực-thể" sống và ta không thể làm được điều đó nếu ta không tự-ve-vuốt[4] qua nó, không hoàn toàn tan mình trong hành-động ve-vuốt của ta. […] Người đàn bà ta ve-vuốt cũng phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa ma sát ít nhiều ram ráp của một bàn tay với ve-vuốt ngộp tình-dục của người đàn ông. Hành-động ve-vuốt, một quan-hệ giữa sự-sống với sự-sống không thể tự-hiện-thực được nếu không có sự tương-tác cùng chiều-kích. Sống đổi lấy sống."



"Tôi chẳng có dạy điều gì cả. Tôi làm người ta suy nghĩ" (Socrate). Các độc giả trẻ, đặc biệt những sinh viên mới làm quen với triết học, đọc công trình này có thể học được nhiều điều, nhất là, ở đây, những triết thuyết, những tư tưởng và khái niệm cơ bản của những triết gia cổ điển được thuyết trình với một sự minh xác hiếm có, một diễn ngôn triết học tiếng Việt khúc chiết trong đó nhiều thuật ngữ triết chưa phổ cập trong nước đã được chuyển ngữ xác đáng và, đáng chú ý hơn, có những câu văn và lời lẽ diễn đạt của tác giả khiến ta nghĩ đến giá trị văn chương của văn bản triết. Tác giả đã sống nhiều năm ở Pháp, trong công trình có những trang sự sáng sủa Pháp đạt tới độ tuyệt vời.

Nguyện vọng duy nhất của người viết bài giới thiệu này là công trình của Phan Huy Đường khơi gợi sự suy nghĩ của độc giả về những vấn đề đã được nêu lên cũng như về những điều chưa được đề cập trong cuốn sách.

Suy nghĩ và lắng nghe.

Với cách nhìn "tứ hải giai huynh đệ" tác giả lên tiếng cảnh báo "một cuộc khủng hoảng văn-minh khủng khiếp" trên toàn cầu :

"Ta đang sống trong đầu và thể-xác ta một cuộc khủng hoảng văn-minh khủng khiếp. Những mái nhà chung của con người đang tan nát dưới đòn áp đảo, đè bẹp của Thị-trường tư-bản. Ở đó, mỗi người chỉ bấp bênh đáng giá vài Đôla, Yen hay Euro. Mạnh ai nấy chạy. Những đứa thiếu ý-thức nhất kiên quyết dương cao niềm-tin vững chắc sáng lạn và ra tiền của chúng. Chúng bàn tán trong những ủy ban nho nhỏ với ngôn-từ lạ lẫm, khoa-học bí hiểm, phương-trình không ai hiểu được. Những đứa khôn khéo nhất độc chiếm media, trở thành thầy-cúng toàn cầu hoá, không thể vòng tránh, phủ-nhận được, nhưng luôn luôn có thể thay thế lẫn nhau."

Lời kêu gọi của tác giả vượt qua mọi biên giới quốc gia, dân tộc.

"Nào cha, mẹ, anh, chị, em, bạn, đồng đội, đồng chí, công-dân – nếu những ngôn-từ đó còn có nghĩa – xin đừng cam chịu. Ta có cả một thế-giới không thể để mất. Hãy từ chối mất nó, hãy đòi tự-do trong đoàn-kết giữa người với người của thế kỷ này, ta sẽ có một thế-giới để tái-tạo, do mỗi người làm cho mọi người. Người đời xưa, người đời nay và người của mai sau. Nào những ai làm thuê – những kẻ thất nghiệp tương-lai –, những ai đang thất nghiệp, đã bị loại khỏi xã-hội ở mọi nơi, hãy đoàn-kết lại ! Nhân-cách của ta ở đó.

Hỡi người nghệ-sĩ của các thế-giới nghệ-thuật, hãy nhập cuộc ! Nghệ-thuật của bạn tùy thuộc điều ấy.

Hỡi trí thức trong mọi lĩnh-vực kiến-thức và tư-duy, hãy nổi loạn, vùng lên ! Bạn nắm ngôn-ngữ, mái nhà chung hoàn-hảo nhất của con người, ngục tù tệ hại nhất của nó. Bạn có những kiến-thức, quyền-lực, sở-hữu để mất, nhưng bạn sẽ được cả một thế-giới để chinh phục, sáng-tạo, yêu.

Hãy cùng nhau tìm lại con đường nhân, sáng-tạo lại những nghệ-thuật làm-người" (xem Lời cuối sách)




[1] langue de bois chosiste.


[2] Những tội ác đó thuộc lịch-sử của nhân-loại, là một thời điểm của quá-trình nên-người hay trở thành phi-nhân của nó. Ta đã nghiệm-sinh thời điểm ấy thì ta trách-nhiệm nó, dù chỉ ở hình-thái ký-ức.


[3] Có văn-chương khi ngôn-ngữ bị đặt vấn đề. Il y a littérature quand le langage est en question. Paul Valéry.


[4] se caresser, không có nghĩa là thủ dâm !

© http://vietsciences.free.frhttp://vietsciences.org Hoàng Ngọc Hiến


Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

Thuyết tiến hóa Darwin: Đã đến lúc chấm dứt sự lừa dối vĩ đại





Keymaster




Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy. Điển hình là trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học thuyết Darwin. Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức: “Thuyết tiến hóa có thể chứng minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a courtroom?).

Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006, ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….

Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”, Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng (tìm xem video “Richard Dawkins stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi của những người theo thuyết sáng tạo). Còn đây là thêm 2 videos bác bỏ Darwin:

The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ

DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w

Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.

Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới, tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.

Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết: “Sự giải thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.

Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.

Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự thật. Với công nghệ 3D hiện đại, nhiều bức tranh tiến hóa được bịa ra bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy (hình đi kèm là một ví dụ).
Nhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.

Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ 20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là missing links (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc, một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới, đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy họ rằng “trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”.
“Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức” (Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California).

Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cái được coi là động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.

Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác hơn, bản chất phản khoa học của nó.

Nó phi khoa học vì vô bằng chứng: “Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa) của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại Denver, Mỹ).

Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như giận dữ bác bỏ cơ chế này:

“Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358, “Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).

Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên, một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn, không có chọn lọc tự nhiên.

Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu, hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu, hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang đường!

Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.

Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn. Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.

Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn “Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại Anh năm 1983. Xin trích đoạn:

“Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.

Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles Darwin.

Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991, trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
“… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science… It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as sound parts).

Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên, thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay. Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât: “một ngày nào đó, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học”.
Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg. Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10 nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp này.

Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và “Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi!

Nguồn: Pham Viet Hung’s blog

Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

BÀI TOÁN KHÓ NHẤT: Ý THỨC THE HARDEST PROBLEM: CONSCIOUSNESS




Phạm Viết Hưng

Ai cũng biết ý thức tồn tại, nhưng không ai biết bản chất ý thức là cái gì. Các nhà khoa học muốn nắm bắt được ý thức, nhưng họ chỉ tóm được cái bóng của nó chứ không phải bản thân ý thức. Vấn đề bản chất của ý thức đã trở thành bài toán khó nhất đang thách thức khoa học…(Everyone knows that consciousness exists, but no one knows what the nature of consciousness is. Scientists want to grasp consciousness, but they grasp only its shadow, not the consciousness itself. The problem of consciousness’ nature has become the hardest problem challenging science…)

Nếu có một cái gì đó hiển nhiên rõ ràng nhất nhưng lại bí ẩn khó hiểu nhất thì đó là Ý THỨC.

Ngay từ thời cổ Hy Lạp, một nhà thông thái bậc nhất như Socrates cũng đã phải thốt lên: “Tôi biết rằng tôi chẳng biết gì cả” (I know that I know nothing), rồi ông khuyên: “Hãy hiểu chính mình” (Connais-toi, toi même!). Dường như ông muốn nói với người đời rằng bao nhiêu hiểu biết cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu không hiểu chính mình. Thế nào là hiểu chính mình? Ấy là đặt ra những câu hỏi về bản thân mình và trả lời những câu hỏi đó, chẳng hạn: sự hiểu biết của mình có đầy đủ không? Sự hiểu biết của mình có đúng đắn không? Tại sao mình có thể nhận biết, tư duy, cảm xúc, suy tưởng? Sự vật mà mình nhận thức được là hiện thực khách quan hay chỉ là ảo ảnh do ý thức tạo ra? Bản chất của ý thức là gì?… Có lẽ Socrates không thể tìm được câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi này nên ông cảm thấy bao nhiêu sự biết của mình vẫn như chẳng biết gì cả. Trở ngại chính đối với ông có lẽ là bí mật về bản chất của ý thức.

Từ đó đến nay, ngót 2 thiên niên kỷ rưỡi đã trôi qua, loài người đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong sự hiểu biết thế giới, nhưng dường như vẫn dậm chân tại chỗ trong sự hiểu biết về chính mình, mặc dù các nhà triết học và khoa học không ngừng nghiên cứu, thảo luận, tranh cãi về bản chất của ý thức. Tình hình này đã được phản ánh rõ ràng và thú vị trong một bài báo của Oliver Burkeman trên tờ The Guardian của Anh ngày 21/01/2015. Tiêu đề là một câu hỏi chất vấn: “Tại sao những trí tuệ vĩ đại nhất thế giới đều bất lực trước bí mật của ý thức?” ( Why can’t the world’s greatest minds solve the mystery of consciousness? ).

Hỏi tức là đã trả lời: Bí mật của ý thức vượt quá khả năng của những trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Một trong những trí tuệ đó là René Descartes (1596-1650), nhà toán học và triết học trứ danh của nước Pháp và thế giới, cha đẻ của Hình học Giải tích, một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ nhất trong lịch sử văn minh của nhân loại.

1/ Luận thuyết Descartes

Từ nửa sau thế kỷ 20 cho tới nay, sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ đã tạo ra một lợi thế rất lớn trong việc nghiên cứu bản chất của ý thức. Ấy là sự ra đời của một ngành khoa học “chạm” vào ý thức của con người: Khoa học về “Trí thông minh nhân tạo” (Artificial Intellgigence), viết tắt là AI. Thành tựu của AI đã và đang làm cho mọi người kinh ngạc, nhiều dự đoán cho rằng AI sẽ chế tạo ra những robots thông minh bằng và hơn con người trong một tương lai không xa. Năm 1997, chương trình Deep Blue đã đánh cờ thắng vua cờ Gary Kasparov, làm cho niềm hy vọng chế tạo ra trí thông minh trở nên hiện thực hơn bao giờ hết.

Nhưng đúng vào lúc đó, khi tư duy logic cơ giới thô thiển hí hửng nhất, thì những nhà khoa học có đầu óc triết học sâu sắc lại nhận ra sự thật của trí thông minh là cái gì ─ cái mà từ xưa tới nay từng được coi là thước đo của trí thông minh là tư duy logic tính toán hóa ra không phải là “thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”, như Douglas Hofstadter nhận định trong cuốn sách nổi tiếng của ông, “Gödel, Escher, Bach”. Đây là một cuốn sách từng đoạt Giải Pulitzer, một sách “gối đầu giường” của tất cả các nhà khoa học về trí thông minh nhân tạo hiện nay, một tác phẩm đặc biệt chuyên sâu dành cho tất cả những ai quan tâm tới vấn đề bản chất của ý thức và trí thông minh của con người. Nguyên văn câu nói của Hofstadter như sau:

“Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hóa thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự” (Once some mental function is programmed, people soon cease to consider it as an essential ingredient of real thinking) [1]

Đó là một nhận định mang tính cách mạng về bản chất của ý thức, làm tiêu tan hy vọng của những ai tưởng rằng có thể giải mã bí ẩn của ý thức thông qua công nghệ trí thông minh nhân tạo.

Nếu quả thật toàn bộ ý thức có thể chương trình hóa thì chắc chắn đến một lúc nào đó con người sẽ có thể chế tạo ra những robots có ý thức, và như thế thì ý thức không còn gì là bí mật nữa. Khi đó ý thức có thể được xem như kết quả của một hệ thống vật chất hoạt động theo những quy tắc logic xác định. Có nghĩa là thành tựu của khoa học và công nghệ AI một mặt nói lên sức mạnh của tư duy logic, nhưng mặt khác chỉ ra rằng tư duy logic chỉ là một bộ phận của ý thức và thậm chí không phải là bộ phận chủ yếu của tư duy thực sự. Theo tờ The New York Times, Hofstadter cho rằng ý thức thực sự của con người nằm ở tư duy cảm xúc, chẳng hạn như soạn nhạc, viết văn ─ “những lĩnh vực đòi hỏi một linh hồn” (they require a soul), cái mà robots không có và không bao giờ có thể có [1].

Tại sao robots không thể có tư duy cảm xúc? Đơn giản vì cảm xúc không tuân thủ chương trình, cảm xúc là một dạng tư duy phi logic (non-logical thinking) trong khi computer là một cỗ máy hoạt động theo chương trình..

Tóm lại, thành tựu của AI càng làm cho vấn đề bản chất của ý thức càng trở nên khó hiểu hơn. Nó chỉ ra rằng con người, hay sự sống nói chung, là những thực thể hoàn toàn khác biệt với những cỗ máy, mặc dù con người và sự sống nói chung cũng có những yếu tố của những cỗ máy.

Bài báo trên tờ The Guardian ngày 21/01/2015 (đã dẫn) cũng có những ý kiến làm sáng tỏ thêm nhận định nói trên. Xin tóm lược một đoạn thú vị nhất:

Các nhà triết học và khoa học đã tranh cãi nẩy lửa trong hàng thập kỷ nay về vấn đề cái gì làm cho con người phức tạp hơn robots. Bộ não đặt ra đủ các loại bài toán làm cho các nhà khoa học phải bận tâm. Chẳng hạn, chúng ta học như thế nào, làm thế nào để ghi nhớ, hoặc để nhận biết sự vật? Có một số bài toán được xếp vào loại dễ, thí dụ: Làm thế nào để bạn biết rụt tay lại khi chạm phải nước nóng, hoặc nghe thấy tên mình trong một căn phòng hội hè ồn ào? Nếu có đủ thời gian và tiền tài trợ, một ngày nào đó các chuyên gia về thần kinh có thể sẽ đưa ra lời giải đáp. Chỉ có một bài toán duy nhất thực sự khó, được gọi là Bài toán Hóc búa về Ý thức (the Hard Problem of Consciousness), nội dung gồm những câu hỏi như: Tại sao mọi quá trình phức tạp diễn ra bên trong bộ não có cảm giác như từ bên trong nội tâm? Tại sao chúng ta không chỉ thông minh như robots (nói cách khác, tại sao chúng ta không ngu như robots) tức là chỉ có khả năng ghi nhận thông tin, hoặc có phản xạ đáp ứng với ngoại cảnh như tiếng ồn hoặc mùi vị của thức ăn bốc lên từ xoong chảo,… nhưng vẫn dốt đặc và trống rỗng cuộc sống nội tâm? Và làm thế nào mà bộ não sản sinh ra những cảm xúc nội tâm đó? Làm thế nào mà một bộ não nặng khoảng 1.4kg với những mô não mầu hồng nhạt nằm bên trong hộp sọ lại có thể làm nẩy sinh ra một cái gì đó đầy bí ẩn như ý thức về sự sống mà nó và toàn bộ cơ thể được gắn vào sự sống đó?
Khởi nguồn những tranh cãi về bản chất của ý thức dẫn chúng ta đi ngược trở về quá khứ những năm 1600, khi René Descartes nêu lên một luận thuyết về ý thức mà hàng trăm năm sau vẫn là chủ đề để các học giả tiếp tục tranh cãi mà không tìm thấy lời giải. Một mặt Descartes nhận thấy không có cái gì rõ ràng hơn và khó bác bỏ hơn một thực tế là tất cả chúng ta đều có ý thức. Về lý thuyết, tất cả mọi thứ mà bạn nghĩ là bạn biết về thế giới đều có thể chỉ là một ảo ảnh được tạo ra để đánh lừa bạn, nhưng bản thân ý thức thì không thể là một ảo ảnh. Mặt khác, hiện tượng quen thuộc nhất và chắc chắn nhất này lại không tuân thủ bất kỳ một quy luật thông thường nào của khoa học. Nó dường như không phải là vật chất. Nó không thể quan sát được, ngoại trừ sự cảm nhận từ bên trong, bởi chính ý thức của con người. Thậm chí nó không thể thực sự mô tả được. Do đó, Descartes kết luận, ý thức phải được tạo ra bởi một chất liệu gì đó đặc biệt, phi vật chất, không tuân thủ các định luật của tự nhiên; vì thế ý thức ắt phải là một cái gì đó do Chúa truyền cho chúng ta.

Luận thuyết Descartes nói trên đẩy khoa học duy vật vào tình trạng bế tắc: thừa nhận luận thuyết Descartes thì tự bác bỏ mình, không thừa nhận thì buộc phải chứng minh ý thức là vật chất. Nhưng làm thế nào để chứng minh?

Bế tắc! Bốn thế kỷ qua không có chứng minh nào cả! Thành tựu của khoa học về trí thông minh nhân tạo cho thấy trí thông minh thực sự nằm ở cảm xúc, một dạng ý thức phi logic, không tuân thủ bất kỳ một chương trình nào cả, và do đó nó nằm ở bên kia tầm với của khoa học. Trớ trêu thay, khoa học về trí thông minh nhân tạo không những không chống lại Descartes, mà vô tình còn ủng hộ Descartes.

Vậy là sau bốn thế kỷ, luận thuyết Descartes vẫn giữ nguyên giá trị. Bất chấp sự thắng thế của chủ nghĩa duy vật trong thế kỷ 20, những trí tuệ vĩ đại nhất trong thế kỷ này vẫn nghiêng về phía Descartes. Nhận định này có thể kiểm chứng thông qua tư duy của những đại diện khoa học lớn nhất trong thế kỷ 20.

2/ Các nhà khoa học giỏi nhất nghĩ gì về bản chất của ý thức?

Muốn bác bỏ Descartes thì phải chứng minh ý thức là vật chất. Rất nhiều công trình nghiên cứu muốn quy ý thức về một dạng năng lượng, nhưng khốn thay, không có cách nào để phát hiện ra dạng năng lượng đó. Vậy hãy tìm hiểu xem những bộ não vĩ đại nhất trong thế kỷ 20 và hiện nay nghĩ gì về vấn đề này.

Max Planck là cha đẻ của khái niệm lượng tử, mở đầu cuộc cách mạng vĩ đại về nhận thức trong thế kỷ 20. Tầm vóc khổng lồ về khoa học và tư tưởng của ông là điều không thể bàn cãi. Các nhà khoa học duy vật rất ngại trích dẫn Planck bởi uy tín của ông quá lớn, nhưng ông lại có những phát biểu đối nghịch hoàn toàn với chủ nghĩa duy vật. Thật vậy, ông tuyên bố:

“Tôi coi ý thức là nền tảng căn bản, và vật chất bắt nguồn từ ý thức. Chúng ta không thể biết được những gì đằng sau ý thức. Mọi thứ chúng ta bàn đến, mọi thứ mà ta coi là đang tồn tại, đều do ý thức mặc nhận” (I regard consciousness as fundamental. I regard matter as derivative from consciousness. We cannot get behind consciousness. Everything that we talk about, everything that we regard as existing, postulates consciousness) [2]

Ý Planck muốn nói ý thức là gốc rễ của mọi nhận thức, phải có ý thức thì mới nhận biết được vật chất, vì thế không thể giải thích cái gốc rễ ấy là cái gì được. Giống như trong một hệ logic, không thể giải thích hệ tiên đề của hệ logic đó, vì hệ tiên đề là những nguyên lý đầu tiên chỉ có thể thừa nhận như một tiên nghiệm. Trong một trường hợp khác, ông nhắc lại ý kiến này trên phạm vi toàn vũ trụ.

“Mọi vật chất bắt nguồn và tồn tại chỉ vì một lực… Chúng ta phải thừa nhận đằng sau lực này tồn tại một Trí Tuệ có ý thức và thông minh. Trí Tuệ này là cái sinh ra mọi vật chất” (All matter originates and exists only by virtue of a force… We must assume behind this force the existence of a conscious ans intelligent Mind. This Mind is the matrix of all matter) [3]

Chú ý rằng chữ “Trí Tuệ” trong câu nói trên được Planck viết hoa. Vậy Trí Tuệ đó là gì nếu không phải Nhà Thiết kế Thông minh của vũ trụ mà Lý thuyết Thiết kế Thông minh ngày nay mô tả?

Người hiểu rõ khái niệm năng lượng hơn ai hết là Albert Einstein, nhưng Einstein chưa bao giờ thể hiện quan điểm coi ý thức như một dạng năng lượng, dù chỉ ở mức nghi vấn hoặc đặt vấn đề. Công thức nổi tiếng của ông, E = mc^2 , thâu tóm toàn bộ năng lượng và vật chất trong vũ trụ, nhưng không có chỗ cho ý thức ở đó. Ngược lại, ý thức đối với ông vẫn là một cái gì đó hoàn toàn không thể hiểu được, nó không thể là vật chất. Ông nói:

“Điều khó hiểu nhất về vũ trụ là ở chỗ nó có thể hiểu được” (The most incomprehensible thing about the universe is that it is comprehensible).

Còn ai hiểu vũ trụ bằng Einstein? Chẳng phải Thuyết tương đối tổng quát của ông đã mô tả toàn bộ vũ trụ trong một phương trình duy nhất đó sao? [4] Vậy mà ông không hiểu tại sao cái vũ trụ ấy lại có thể được phản ánh trong ý thức của con người, hay nói cách khác, làm sao mà con người có thể nắm bắt được cái vũ trụ mênh mông và kỳ diệu như thế. Giữa vũ trụ và ý thức của con người có một mối quan hệ tương tác như thế nào để ý thức có thể trở thành một tấm gương phản chiếu vũ trụ? Nếu vũ trụ quá bí ẩn thì cái ý thức nắm bắt được vũ trụ còn bí ẩn gấp bội! Tại sao vậy? Vì ý thức không tuân thủ bất cứ một định luật tự nhiên nào, như Descartes khẳng định! Nếu vũ trụ quá kỳ diệu để làm cho Einstein phải thốt lên những lời ngạc nhiên thán phục thì ý thức còn làm cho ông tò mò gấp bội, vì nó hoàn toàn bí ẩn đối với ông. Ông nói: “Trải nghiệm cái bí ẩn – dù có pha trộn cảm giác sợ hãi – cũng chính là trải nghiệm mà tôn giáo đã tạo ra. Hiểu biết về sự hiện hữu của cái mà ta không thể nhìn thấu, của những biểu hiện lý trí sâu thẳm nhất và cái đẹp rực rỡ nhất, những cái chỉ có thể đến với trí não của ta trong những hình thức sơ khai nhất; chính cái biết và cái cảm này làm nên tính tín ngưỡng đích thực; những người có tín ngưỡng sâu xa” [5] Tín ngưỡng mà ông nói ở đây là niềm tin vào sự hiện hữu của cái không thể chứng minh được. Đối với người Thiên Chúa giáo, đó là Chúa, là Thượng Đế. Đối với các nhà khoa học như Pascal, Newton, Galilé, Pasteur, Mendel, Kelvin, Einstein, Heisenberg, Godel,… đó là Đấng Sáng tạo. Bản thân ý thức cũng là một hiện hữu không thể nhìn thấu, không thể chứng minh bằng khoa học, vì thế niềm tin vào sự hiện hữu của ý thức cũng chính là một tín ngưỡng. Vì thế không có gì để ngạc nhiên khi bốn thế kỷ trước, Descartes cho rằng ý thức có nguồn gốc từ Chúa. Einstein không nói rõ như Descartes, nhưng cũng nói điều tương tự khi tuyên bố:

“Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng…” [6]. Quà tặng thiêng liêng ấy do ai tặng, nếu không phải Đấng Sáng tạo?

Chú ý rằng tư duy trực giác cũng chỉ là một dạng thức đặc biệt của ý thức. Nó chẳng phải cái gì khác chiếc đèn pha của ý thức giúp con người phát hiện được chân lý một cách trực tiếp và bất chợt, không thông qua suy luận. Tất cả các nhà khoa học lớn đều thấy rõ điều đó. Henri Poincaré, nhà toán học vĩ đại nhất cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, cũng từng nói “Logic giúp ta chứng minh, trực giác giúp ta khám phá”. Nhưng có lẽ Einstein là người băn khoăn nhiều nhất về bí ẩn của trực giác, vì thế ông thường xuyên nhắc tới vai trò định hướng của trực giác trong khám phá, đồng thời gợi ý cho chúng ta suy ngẫm về tính chất bí ẩn không thể giải thích của dạng năng lực tinh thần kỳ lạ này. Ông nói:

“Tri thức đóng vai trò thứ yếu trên con đường khám phá. Có một sự nhảy vọt trong ý thức được gọi là Trực giác hay gọi là gì tùy ý, nhờ đó mà bạn tìm thấy lời giải nhưng bạn không hiểu điều đó diễn ra như thế nào và tại sao” (The intellect has little to do on the road to discovery. There comes a leap in consciousness, call it Intuition or what you will, the solution comes to you and you don’t know or why).

Nếu Einstein còn để cho chúng ta tự suy đoán nguồn gốc của năng lực tinh thần kỳ lạ đó thì Nicolas Tesla, một nhà khoa học xuất chúng đầu thế kỷ 20 lại nói rõ rằng nó đến từ một Trung Tâm trong vũ trụ.

Vào thời của Tesla, khái niệm trung tâm phát thanh và truyền hình hoặc là chưa có, hoặc là còn quá non trẻ, vậy mà Tesla đã quan niệm bộ óc của chúng ta chỉ là một chiếc máy nhận thông tin, giống như chiếc radio hay tivi bây giờ vậy. Nói cách khác, theo Tesla, ý thức đơn giản chỉ là những thông tin xuất phát từ một Trung tâm trí tuệ trong vũ trụ. Trung Tâm này là gì, nếu không phải Thượng Đế? Đây, ông nói:

“Bộ não của tôi chỉ là một điểm tiếp nhận. Trong Vũ trụ tồn tại một trung tâm mà từ đó chúng ta nhận được tri thức, sức mạnh, cảm hứng. Tôi chưa thâm nhập được vào những bí mật của trung tâm này, nhưng tôi biết nó tồn tại” (My brain is only a receiver. In the Universe there is a core from which we obtain knowledge, strength, inspiration. I have not penetrated into the secrets of this core, but I know that it exists) [7]

Câu nói trên, mặc dù không có chứng minh khoa học, nhưng nó mang bóng dáng của một ngoại cảm tiên tri. [8]

Một câu nói khác của ông cũng chứa đựng nhiều gợi ý về bản chất của nhận thức:

“Thật nghịch lý nhưng là sự thật khi nói rằng chúng ta càng hiểu biết càng trở nên dốt nát theo nghĩa đen, bởi vì chỉ thông qua sự khai sáng thì chúng ta mới ý thức được những hạn chế của chúng ta” (It is paradoxical, yet true, to say, that the more we know, the more ignorant we become in the absolute sense, for it is only through enlightenment that we become conscious of our limitations) [9].

Tôi không rõ câu nói này được nói ra vào thời điểm nào, nhưng nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của Định lý Bất toàn của Gödel năm 1931. Định lý này khẳng định rằng nhận thức của chúng ta bị hạn chế. Nhưng Tesla ý thức được tính hạn chế đó không phải do Định lý Gödel, mà do được khai sáng, tức được Chúa mặc khải. Khái niệm được mặc khải thực ra cũng là khái niệm trực giác như Einstein nhấn mạnh, đó là món quà thiêng liêng…

Như chúng ta đã thấy, ý thức của con người bao gồm cả logic lẫn phi logic, và Douglas Hofstadter đã chỉ ra rằng tư duy logic không phải là thành phần mang tính người nhiều nhất. Tư duy mang tính người nhiều nhất là tư duy cảm xúc ─ dạng tư duy theo cảm hứng, phi logic và không tuân thủ chương trình…

Sau một thời gian dài các nhà khoa học đánh giá trí thông minh theo cái gọi là IQ, để rồi thấy không ổn, gần đây họ sáng tác ra cái gọi là EQ. Đây là hệ quả của chủ nghĩa duy vật thô thiển, muốn quy mọi hiện tượng trong thế giới hiện thực về vật chất có thể cân đong đo đếm được. Điều đáng buồn là những sáng tác này được đám đông hùa theo, đương nhiên coi đó là những khái niệm khoa học. Nhưng đối với những người có cái nhìn triết học sâu sắc, đó chỉ là những trò hề khoa học. Bản thân chữ EQ (Emotional Quotient) đã là sai lầm, bởi cảm xúc là một hiện tượng không thể đo được. Nói cách khác, mọi giá trị đo lường về cảm xúc đều phiến diện, sai lệch, làm méo mó sự thật. Thí dụ, mọi cách cho điểm các bức tranh của Van Gogh đều vô nghĩa, kể cả việc đo giá trị bức tranh bằng số tiền bán được. Tất cả những con số đó đều là lừa dối, không phản ánh được cảm xúc thực sự của người thưởng thức tranh. Vì thế, Hofstadter từng nói nếu computer có thể vẽ tranh hay viết văn ở trình độ nghệ thuật thì đó sẽ là một thảm họa.

Tất cả những thảo luận nói trên sẽ có thể kém thuyết phục nếu không có Định lý Bất toàn của Kurrt Gödel, “nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle”.

Thật trớ trêu, Định lý Bất toàn là con đẻ của toán học logic, nó đặt nền móng cho khoa học computer, nhưng nội dung của nó lại nói lên tính bất toàn của logic. Nếu trường phái Hilbert tôn sùng logic như “đấng toàn năng” của toán học thì Gödel lại hạ nó xuống đúng vị trí của nó, rằng logic là ngôn ngữ đắc dụng của computer, với những hạn chế mang tính bản chất không thể khắc phục được, và đối với con người, logic chỉ là một bộ phận của ý thức ─ ý thức của con người rộng lớn hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với cái phần logic đó. Đây, hãy nghe ông nói:

“Bộ não là một chiếc máy tính được kết nối với một tâm linh” (The brain is a computing machine connected with a spirit) và “Ý thức được kết nối với một cái toàn thể”

Chữ “bộ não” trong câu nói trên phải được hiểu là ý thức lưu hành trong bộ não. Vậy theo Gödel, ý thức ấy không chỉ có tư duy tính toán, tư duy theo chương trình, mà bao gồm cả tâm linh ─ phần ý thức chứa đựng tất cả những gì mà toán học nói riêng và khoa học nói chung bất lực, chẳng hạn như cảm xúc âm nhạc, cảm xúc trước cái đẹp, cảm xúc thi ca, khả năng trực giác, ngoại cảm, tiên tri,… Ở một mức độ nào đó, có thể thấy Gödel vượt xa Einstein trong những suy nghĩ về bản chất của ý thức ─ ông không dừng lại ở chỗ ngạc nhiên trước sự kỳ lạ khó hiểu về những khả năng không thể giải thích được của ý thức, mà cho rằng cái ý thức đó được nối kết với một trung tâm trí tuệ nào đó của vũ trụ, cái mà ông gọi là “một toàn thể” (one unity). Ở chỗ này ta thấy Gödel có phần nào giống Tesla, khi Tesla cho rằng bộ não chỉ là chiếc máy thu những tri thức được phát ra từ một Trung Tâm trong vũ trụ.

Cái mà Tesla gọi là một Trung Tâm, và Gödel gọi là một Toàn thể, thực ra là Thượng Đế, hoặc Đấng Sáng tạo, Đấng Toàn năng, Nhà Thiết kế Vũ trụ, Nhà Lập trình Vũ trụ, Chúa, Brama, Alah, Bà Mẹ Tự Nhiên,… Điều này rất dễ hiểu, bởi cả Tesla lẫn Gödel đều công khai bầy tỏ Đức tin của mình.

Tesla từng nói: “Quà tặng sức mạnh tinh thần đến từ Chúa, Thực thể Thần thánh, và nếu chúng ta tập trung tư tưởng của chúng ta vào chân lý đó, chúng ta sẽ hòa hợp với sức mạnh vĩ đại ấy. Mẹ tôi dạy tôi tìm kiếm mọi chân lý từ trong Kinh Thánh”. [11]

Gödel còn đi xa hơn thế, ông không chỉ khẳng định sự tồn tại của những thế giới khác với thế giới chúng ta đang sống, mà còn dùng toán học logic để chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Đầu năm 2013 hai nhà khoa học computer là Christoph Benzmüller thuộc Đại học Tự do ở Berlin (Free University of Berlin) và Bruno Woltzenlogel Paleo thuộc Đại học Kỹ thuật Vienna đã bắt tay vào việc “computer hóa” toàn bộ chứng minh của Gödel. Không đầy một năm, đến Tháng 10, kết quả được công bố trong một công trình mang tên: “Formalization, Mechanization and Automation of Gödel’s Proof of God’s Existence” (Hình thức hóa, Cơ giới hóa và Tự động hóa chứng minh của Gödel về sự hiện hữu của Chúa). Công trình này được giới khoa học computer nhiệt liệt hưởng ứng như một mẫu mực của bài toán computer hóa các định lý toán học. [12]

Erwin Schrödinger là nhà vật lý lỗi lạc người Áo, đoạt Giải Nobel năm 1933, nổi tiếng với phương trình sóng trong Cơ học Lượng tử. Ông tuyên bố rất rõ ràng và dứt khoát về bản chất của ý thức như sau:

“Ý thức không thể giải thích được bằng những thuật ngữ mang tính vật chất. Vì ý thức là khái niệm gốc rễ, không thể giải thích được bằng thuật ngữ của bất cứ thứ gì khác” (Consciousness cannot be accounted for in physical terms. For cansciousness is absolutely fundamental. It cannot be accounted for in terms of anything else). [13]

Ý kiến này có thể xem như một lời thuyết minh hoặc tán thưởng ý kiến của Planck đã dẫn ở trên, rằng phải có ý thức thì mới nhận thức được mọi thứ, ý thức là mắt xích đầu tiên của hệ thống nhận thức, vì thế không thể giải thích mắt xích đầu tiên ấy là cái gì được.

Tóm lại, luận thuyết Descartes vẫn đứng vững trong thế kỷ 20, ít nhất trong tư tưởng của những nhà khoa học tài giỏi nhất và có tầm nhìn triết học sâu xa nhất.

Tuy nhiên, các nhà khoa học duy vật không có lựa chọn nào khác là phải cố gắng chứng minh ý thức chỉ là một dạng vật chất đặc biệt nào đó. Hy vọng chứng minh này dấy lên mạnh mẽ trong bối cảnh xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng ngoại cảm và tâm linh trên khắp thế giới. Nổi tiếng nhất là hiện tượng chữa bệnh bằng tâm linh có hiệu quả thực tế rất cao của nhà chữa bệnh bằng tâm linh Bruno Gröning ở Đức giai đoạn 1949-1959 và nhà chữa bệnh bằng tâm linh Nguyễn Đức Cần ở Việt Nam những năm 1970,… Nhiều dự án nghiên cứu những hiện tượng này đã xuất hiện ở nhiều quốc gia, được gọi tắt trên sách báo quốc tế là PSI, thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà khoa học lẫn người không làm khoa học. Vậy kết quả PSI ra sao?

3/ PSI và những nghiên cứu thực tế về bản chất của ý thức

PSI là chữ viết tắt của thuật ngữ “Psychic phenomenna”, dịch nôm na là những hiện tượng tâm linh. Tìm hiểu kỹ hơn trên Google, gõ “what does psychic mean” (psychic nghĩa là gì), chúng ta nhận được kết quả như sau:

– Nếu đóng vai trò tính từ, “psychic” có nghĩa thứ nhất là tính chất liên quan đến những hiện tượng dường như không thể giải thích được bằng các định luật tự nhiên, đặc biệt là hiện tượng thần giao cách cảm (telepathy) hoặc thấu thị (clairvoyance). Những từ đồng nghĩa với nó là “supernatural” (siêu tự nhiên), “paranormal” (dị thường, ngoài phạm vi giải thích của khoa học), “other-worldly” (thuộc thế giới khác), “supernormal” (siêu thường), “preternatural” (vượt quá tự nhiên), “metaphysical” (siêu hình), “extrasensory” (ngoại cảm), “transcendental” (siêu việt), “magic” (huyền ảo), “mystical” (huyền bí), occult (huyền bí),…

– Nghĩa thứ hai, “psychic” là tính chất liên quan đến linh hồn (soul) hoặc tư tưởng (mind).

– Nếu đóng vai trò danh từ thì “psychic” là một người có khả năng “psychic”, tức là có những khả năng dị thường không thể giải thích bằng các định luật tự nhiên được.

Vậy bản thân sự giải thích của Google (dựa trên các từ điển học thuật) đã thừa nhận hai sự thật:

Một, những hiện tượng ngoại cảm và tâm linh không thể giải thích được bằng các định luật tự nhiên là có thật! Những hiện tượng này tồn tại khách quan, hoàn toàn không phải là bịa đặt, mê tín dị đoan như một số người lầm tưởng! Vì thế, việc quan tâm nghiên cứu những hiện tượng đó là cần thiết.

Hai, những hiện tượng ngoại cảm và tâm linh không thể giải thích bằng các định luật tự nhiên, tức là nằm bên ngoài khoa học. Nói cách khác, khoa học không thể giải thích những hiện tượng ngoại cảm và tâm linh!

Hai kết luận trên hoàn toàn phù hợp với kết luận trong cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC do NXB Khoa học & Kỹ thuật Hà-nội xuất bản năm 2004, trong đó viết:

“Đòi hỏi về tính phổ quát là một trong những lý do vì sao thật khó thực hiện một sự khảo sát khoa học về các hiện tượng như tâm động và ngoại cảm, các hiện tượng này dường như chỉ đi liền với một số cá nhân nào đó trong những hoàn cảnh đặc biệt. Với cùng lý do như vậy, kinh nghiệm cá nhân độc nhất, dù gây ấn tượng như thế nào đối với người nhận, không thể xem là một phần của khoa học” (ý kiến của nhà vật lý Peter Hodgson, trang 20).
“PSI vẫn còn đang trôi nổi! … Vì sao các nhà khoa học không chấp nhận PSI? Lý do đối với sự hoài nghi chính là chúng ta cần các số liệu lặp lại được và một lý thuyết có thể đứng vững được. Cả hai đòi hỏi này vẫn còn thiếu trong nghiên cứu về PSI…. Chừng nào mà người cổ vũ cho PSI vẫn chưa thể làm rõ việc ý nghĩ được sản sinh ra bởi các nơ-ron trong não của người gửi có thể đi qua xương sọ để vào não của người nhận thì hoài nghi là sự đáp ứng thích hợp…” (ý kiến của GS Đặng Mộng Lân, đồng dịch giả và biên tập viên của cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC, trang 25-27, đã công bố trên tạp chí Vật lý Ngày nay số Tháng 10/2003).
Tóm lại, cho đến hôm nay, khi độc giả đang đọc những dòng này, thì tất cả những công trình nghiên cứu về ngoại cảm và tâm linh đều chưa đem lại một kết quả gì có lợi cho khoa học duy vật, và có lẽ điều này là BẤT KHẢ, vì như bản thân khái niệm “psychic”, tức “ngoại cảm và tâm linh”, đã được định nghĩa là những hiện tượng không thể giải thích được bằng các định luật tự nhiên.

Nói cách khác, những nghiên cứu về ngoại cảm và tâm linh không hề chứng minh được rằng ý thức là một dạng vật chất, mặc dù trong những nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu thường xuyên dùng những thuật ngữ vật lý để gán cho khả năng ngoại cảm và tâm linh, chẳng hạn, “trường sinh học”, “năng lượng tinh thần”, “năng lượng tâm linh”,… Thực chất, đây là một việc làm “gượng ép” ─ việc dùng những khái niệm và thuật ngữ quen thuộc trong một thế giới quen thuộc để mô tả một hiện tượng không biết rõ bản chất trong một thế giới chưa biết ─ tương tự như tình trạng khủng hoảng trong vật lý học đầu thế kỷ 20, khi các nhà vật lý cố gắng mô tả thế giới lượng tử bằng những khái niệm và thuật ngữ của thế giới vật chất thông thường. Niels Bohr đã cảnh tỉnh thế giới vật lý rằng đây là một nỗ lực BẤT KHẢ (impossible), và do đó đừng bao giờ cầu mong có thể hiểu được thế giới lượng tử một cách rõ ràng và xác định như thế giới hàng ngày của chúng ta. Rốt cuộc các nhà vật lý chỉ có thể tiên đoán các hiện tượng lượng tử theo xác suất, và sự khôn ngoan mách bảo chúng ta rằng đừng cố hiểu bản chất của thế giới lượng tử, mà hãy tận dụng các hiện tượng lượng tử vào đời sống của chúng ta, miễn là đem lại lợi ích cho loài người. Các nhà vật lý đã khôn ngoan đi theo con đường này. Chẳng hạn, “tương tác ma quái” giữa hai hạt photon là một hiện tượng không thể giải thích được, nhưng đã và đang được nghiên cứu để ứng dụng truyền thông tin tức thời, được gọi là “viễn tải lượng tử” (teleportation).

Đó là một bài học rất tốt cho những nghiên cứu về ngoại cảm và tâm linh, hay nói chung cho những nghiên cứu về bản chất của ý thức. Nói gợi ý cho chúng ta thấy không nhất thiết phải ôm lấy quan điểm lỗi thời cho rằng mọi thứ trong thế giới hiện thực đều là vật chất. Hãy thừa nhận sự tồn tại của những hiện thực phi vật chất hoặc siêu nhiên mà khoa học bất lực, để tìm cách ứng dụng những hiện tượng đó vào những mục đích thiết thực đối với đời sống loài người, điển hình là việc chữa bệnh.

Dù khoa học thừa nhận hay không, việc chữa bệnh của “hai vị thánh chữa bệnh”, Bruno Gröning và Nguyễn Đức Cần, vẫn mang lại những kết quả phi thường không thể chối cãi. Nếu phương pháp chữa bệnh bằng tâm linh của “hai vị thánh” này không thể giải thích được bằng khoa học thì đơn giản là khoa học vật chất quá nghèo nàn để giải thích các hiện tượng thuộc về ý thức và tâm linh.

Sự nghèo nàn này thiết tưởng đã quá rõ.

Định lý Bất toàn của Gödel đã nói rằng tư duy lý lẽ và logic không đủ để chứng minh mọi hiện tượng ngay trong thế giới vật chất thông thường chứ đừng nói đến những thế giới bên ngoài hoặc bên trên thế giới vật chất. Vì thế, cái cần phải thay đổi không phải là tìm kiếm một thứ máy móc hay công cụ vật lý tối tân hơn, tinh vi hơn, để chụp ảnh hay ghi lại dấu vết của ý thức hoặc tâm linh, mà là thay đổi thế giới quan, thay đổi cách nhìn về thế giới!

PSI không được khoa học thừa nhận vì nó nghiên cứu những hiện thực khách quan cao hơn, rộng hơn thế giới vật chất ─ thế giới bên ngoài hoặc bên trên tầm với của khoa học. Vậy nếu nhìn nhận khoa học chỉ là một trong số những con đường khám phá chân lý thì hãy bổ sung cho những hiểu biết hạn hẹp của khoa học bằng những phương pháp nhận thức khác.

4/ Những con đường tiệm cận tới bản chất của ý thức

Việc PSI không được công nhận là khoa học không phải là một tin buồn đối với những người tin vào thế giới tâm linh, mà ngược lại, đó là một tin vui, vì nó chứng tỏ hai điều:

Nó xác nhận hiện tượng tâm linh là có thật.
Nó chỉ ra rằng khoa học vật chất không đủ để nghiên cứu ý thức và tâm linh. Nói cách khác, nó chỉ ra “cái gót A-sin” của khoa học duy vật ─ một dạng nhận thức dựa trên tư tưởng nền tảng cho rằng thế giới chỉ có vật chất và vật chất, ngoài ra không có cái gì khác.
Cái “gót A-sin” ấy cản trở con người tiến về phía trước trên con đường nhận thức sự thật. Điều này đã được nhấn mạnh bởi David Hawkins, nhà triết học khoa học nổi tiếng của Mỹ trong thế kỷ 20 (từng là thành viên trong Dự án Manhattan – Dự án chế tạo bọm nguyên tử của Mỹ trong những năm 1940). Ông nói:

“Trở ngại chính trên con đường phát triển của chúng ta là sự thiếu hiểu biết về bản chất của bản thân ý thức” (The main obstacle to our development is our lack of knowledge about the nature of consciousness itself). [14]

Làm thế nào để vượt qua trở ngại đó? Liệu khoa học có thể tự nó vượt qua trở ngại này không?

Câu trả lời là KHÔNG, chừng nào khoa học còn tiếp tục duy trì quan điểm lỗi thời cho rằng thế giới chỉ có vật chất và vật chất mà thôi. Nếu đóng khung trong quan niệm như thế thì làm sao một lý thuyết thuần túy vật chất có thể giải thích một hiện thực phi vật chất? Chẳng phải các nhà khoa học giỏi nhất thế kỷ 20 như Max Planck, Einstein, Tesla, Gödel, Schrödinger,… đã nói rõ điều này rồi sao?

Các nhà triết học, thần học cũng thấy rõ điều đó. Trong cuốn “Vũ trụ trong một nguyên tử”, Đức Đạt Lai Lạt ma dùng thuyết nhân quả để bác bỏ khả năng quy giản tinh thần thành vật chất. Ngài viết:

“Điều cốt yếu để hiểu khái niệm của Phật giáo về ý thức – và sự bác bỏ của nó về khả năng quy giản tinh thần thành vật chất – là thuyết nhân quả” (trang 195, Công ty Nhã Nam và NXB Thế giới xuất bản năm 2016).

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng ý thức mang tính chủ quan, nhưng khoa học chỉ coi trọng những chứng cứ khách quan, và do đó khoa học dường như chẳng đạt được kết quả nào trong việc khám phá bản chất của ý thức:

“Kinh nghiệm của ý thức là hoàn toàn chủ quan. Tuy nhiên, điều nghịch lý là mặc cho thực tại không thể nghi ngờ của chủ quan tính của chúng ta và hàng ngàn năm khảo cứu triết học, có rất ít đồng thuận về vấn đề ý thức là gì. Khoa học, với phương pháp ngôi thứ ba đặc trưng của nó – cái nhìn khách quan từ bên ngoài – chỉ đạt được những tiến bộ ít ỏi đến kinh ngạc trong sự hiểu biết này” (trang 177, sách đã dẫn) (chữ in đậm do tôi nhấn mạnh, PVHg).

Vậy có cách nào để khoa học vượt qua trở ngại hiện nay không?

Đức Đạt Lai Lạt ma nêu lên một đề nghị: kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học với phương pháp nghiên cứu truyền thống của Phật học. Cụ thể, kết hợp phương pháp thí nghiệm khách quan, mà ngài gọi là “phương pháp ngôi thứ ba), của khoa học với phương pháp chủ quan của thiền định Phật giáo, mà ngài gọi là “phương pháp ngôi thứ nhất”.

Cái khó trong sự kết hợp này là ở chỗ khoa học xưa nay chỉ chấp nhận “phương pháp ngôi thứ ba”, tức là chỉ chấp nhận những kết luận được rút ra từ những thí nghiệm khách quan, có thể lặp đi lặp lại, cùng cho một kết quả như nhau. Chẳng hạn, quy luật F = ma dù được bạn kiểm tra ở Việt Nam hay tôi kiểm tra tại Úc sẽ đều cho một kết luận như nhau. Và khoa học xưa nay không chấp nhận bất kỳ một kinh nghiệm cá nhân chủ quan nào, nếu nó không được kiểm chứng bởi những người khác và cho cùng một kết quả. Vì thế khoa học rất khó có thể chấp nhận những kinh nghiệm thiền định của các bậc tu hành bất kể các ngài đắc đạo như thế nào. Xin nhắc lại ý kiến của nhà vật lý Peter Hodgson trong cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC đã dẫn ở trên:

“…kinh nghiệm cá nhân độc nhất, dù gây ấn tượng như thế nào đối với người nhận, không thể xem là một phần của khoa học”.

Giả sử có một thiền giả cao cấp đã chứng ngộ được những sự thật huyền nhiệm ở những cõi giới ý thức siêu linh, đồng thời lại là một nhà khoa học xuất chúng về vật lý, có khả năng quy kết những sự thật chứng ngộ được thành một định luật biểu thị dưới dạng toán học, liệu định luật đó có được khoa học công nhận không?

Câu trả lời là KHÔNG, nếu định luật đó không thể phát biểu được ở “ngôi thứ ba”, tức là không được kiểm chứng bởi những người khác ở địa vị hoàn toàn khách quan.

Thực chất vấn đề Đức Đạt Lai Lạt ma nêu lên cũng chính là vấn để hóc búa nhất của PSI ─ làm thế nào để kiểm chứng những ý thức nẩy sinh trong bộ não của những nhà ngoại cảm? Làm thế nào để biết ý thức thực sự diễn ra như thế nào ở các “vị thánh chữa bệnh”? Không có cách nào cả. Chúng ta chỉ có thể xác nhận đó là những hiện thực, những sự thật diễn ra trước mắt, để tin rằng đó là những phép lạ có thật. Đọc cuốn “Nguyễn Đức Cần, nhà văn hóa tâm linh” của Nguyễn Phúc Giác Hải và Nguyễn Tài Đức, do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2013, một người có thể chất tinh thần lành mạnh không thể không tin đó là sự thật. Cá nhân tôi, tôi hoàn toàn tin đó là sự thật, vì hai lý do: một, tôi có người nhà được cụ Cần chữa bệnh; hai, bản thân tôi có những trải nghiệm tâm linh nhất định, đủ để tôi tin vào sự tồn tại của những thế giới tâm linh khác và cao hơn thế giới vật chất của chúng ta. Tuy nhiên, niềm tin của cá nhân tôi và của hàng nghìn hàng vạn người khác không đủ để trở thành một phát biểu ở “ngôi thứ ba” mà khoa học yêu cầu. Đức Đạt Lai Lạt Ma viết:

“Tôi biết rằng có sự hoài nghi sâu sắc về các phương pháp ngôi thứ nhất trong khoa học hiện đại” (trang201, sách đã dẫn).

Nhưng ngài cho rằng ĐÃ ĐẾN LÚC khoa học phải tìm cách dung nạp những trải nghiệm chủ quan, nếu thực sự muốn khám phá bí ẩn của ý thức, bởi bản thân ý thức mang tính chủ quan:

“Do đó một nghiên cứu khoa học toàn diện về ý thức phải dung chứa cả hai phương pháp ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất” (trang 199, sách đã dẫn).

Đây thực sự là một lời mời gọi khoa học nhưng đồng thời là một thách thức quá lớn đối với khoa học, bởi nếu khoa học chấp nhận “ngôi thứ nhất” thì khoa học không còn là khoa học nữa, ít nhất là khoa học theo cách hiểu như hiện nay.

Riêng tôi, từ lâu tôi đã cho rằng có thể tiệm cận tới thế giới kỳ diệu của ý thức bằng một phương pháp hoàn toàn khác, đó là phương pháp của logic toán học, mà Kurt Gödel từng gợi ý. Để đi theo hướng này, nhà khoa học phải xây dựng cho mình một hệ tiên đề. Từ đó nêu lên các định lý, tập hợp các định lý sẽ tạo nên một lý thuyết logic về ý thức. Nếu lý thuyết này phù hợp với các hiện tượng thực tế liên quan đến ý thức thì nó sẽ được chấp nhận; ngược lại nếu mâu thuẫn với thực tế thì sẽ bị loại bỏ.

5/ Hệ tiên đề về ý thức của sự sống

Việc gán cho ý thức bản chất vật chất, như năng lượng hoặc một trường vật chất nào đó, sẽ gặp phải hai khó khăn lớn: Một, phải chỉ ra dạng vật chất đó, hoặc phải cân đong đo đếm được dạng vật chất đó; Hai, việc cố gắng giải thích bản chất vật chất của ý thức là mâu thuẫn với logic nhận thức.

Thật vậy, theo logic nhận thức mà Planck và Schrödinger đã nói (mục 2 ở trên), phải có ý thức thì mới nhận biết được vật chất, do đó việc quy giản ý thức thành vật chất là một quy trình ngược, trái với logic nhận thức!

Tóm lại, khái niệm ý thức phải được coi là một tiên nghiệm, không cần giải thích. Nhưng từ tiên nghiệm đó có thể nêu lên các tiên đề về sự hiện hữu của ý thức, làm cơ sở cho một hệ thống lý thuyết logic về ý thức. Cụ thể, tôi xin nêu lên Hệ tiên đề về ý thức của sự sống gồm 3 tiên đề sau đây:

Tiên đề 1: Ý thức là một dạng thông tin đặc biệt mà chỉ sự sống mới có, được gọi là thông tin ý thức (conscious information).

Tiên đề 2: Tồn tại một Trung Tâm Ý Thức trong vũ trụ.

Tiên đề 3: Bộ não là một cỗ máy sinh học có khả năng thu nhận, lưu trữ, xử lý và phát ra thông tin ý thức.

Nếu bạn hiểu Lý thuyết Thông tin, bạn sẽ dễ dàng chấp nhận Tiên đề 1. Thật vậy, theo Lý thuyết Thông tin, thông tin là một hiện thực phi vật chất, nhưng nó biểu lộ thông qua vật chất. Hoàn toàn tương tự, ý thức cũng là một hiện thực phi vật chất, và cũng biểu lộ thông qua vật chất.

Nếu bạn hiểu ý kiến của Planck và Tesla như đã dẫn ở mục 2, bạn cũng sẽ dễ dàng chấp nhận Tiên đề 2. Xin nhắc lại, Planck nói: “Mọi vật chất bắt nguồn và tồn tại chỉ vì một lực… Chúng ta phải thừa nhận đằng sau lực này tồn tại một Trí Tuệ có ý thức và thông minh. Trí Tuệ này là cái sinh ra mọi vật chất”.

Tesla cũng nói: “Bộ não của tôi chỉ là một điểm tiếp nhận. Trong Vũ trụ tồn tại một trung tâm mà từ đó chúng ta nhận được tri thức, sức mạnh, cảm hứng.”

Nếu bạn từng so sánh bộ não với computer, bạn cũng sẽ dễ dàng chấp nhận Tiên đề 3. Vật chất của bộ não giống như phần cứng; ý thức lưu hành trong bộ não giống như thông tin lưu hành trong computer.

Với hệ tiên đề đó, tôi cho rằng có thể giải thích được hầu hết các hiện tượng về ý thức của sự sống, từ những hiện tượng thông thường ta gặp hàng ngày đến những chuyện khó hiểu như bí mật của các giấc mơ, từ những thiên tài khoa học như Einstein, Gödel… đến những vị thánh chữa bệnh như Bruno Gröning, Nguyễn Đức Cần,…

Thí dụ, Eisnstein giỏi hơn chúng ta không phải vì ông có bộ não tốt hơn chúng ta, như khoa học thần kinh muốn chứng minh, mà vì ông nhận được những thông tin đặc biệt từ Trung Tâm Ý Thức trong vũ trụ. Những nhà ngoại cảm hay các “vị thánh chữa bệnh” cũng vậy. Đó là lý do để ông thánh Bruno Gröning nói với những bệnh nhân được ông chữa lành rằng “Đừng cám ơn tôi, hãy cám ơn Thượng Đế”. Thượng Đế mà ông nói chính là Trung Tâm Ý Thức đã nói ở Tiên Đề 2.

Nếu ai chất vấn tôi rằng làm thế nào mà kiểm chứng các tiên đề nói trên, tôi xin trả lời rằng: Tiên đề là những mệnh đề được xây dựng trên niềm tin. Bất kỳ một lý thuyết khoa học nào cũng đều xây dựng trên một hệ tiên đề dựa trên niềm tin ban đầu. Toán học có hệ tiên đề Euclid, hệ tiên đề Hilbert,… Vật lý cũng có những tiên đề của nó, chẳng hạn, vũ trụ là đồng nhất và đẳng hướng, các định luật vật lý đúng trong mọi thời điểm của lịch sử hình thành vũ trụ,…

Hệ tiên đề về ý thức của sự sống nêu trên có thể không đầy đủ. Điều này là bình thường. Theo Định lý Bất toàn của Gödel, không tồn tại một hệ tiên đề nào vừa đầy đủ vừa phi mâu thuẫn. Vậy điều quan trọng nhất là ở chỗ lý thuyết xây dựng từ hệ tiên đề nói trên có phù hợp với các sự kiện thực tế về ý thức hay không. Hiện còn quá sớm để nói điều này. Phải có thời gian nghiên cứu và kiểm chứng mới có thể có một kết luận chính xác. Nhưng trực giác gợi ý cho tôi thấy hệ tiên đề nói trên là hợp lý và hữu dụng để xây dựng nên một lý thuyết cho phép giải thích được phần lớn những hiện tượng về ý thức của sự sống. Vậy xin tạm thời bỏ ngỏ việc kiểm chứng tính hợp lý và hữu hiệu của hệ tiên đề nói trên cho những nghiên cứu tiếp theo.

Để kết, xin giải thích đôi lời tại sao tại sao nên áp dụng phương pháp tiên đề để nghiên cứu ý thức.

Vì vấn đề ý thức thực chất là vấn đề siêu hình (phi vật chất), không thể dùng khoa học vật chất để khám phá một đối tượng siêu hình. Chỉ có thể áp dụng triết học và thần học để xử lý các vấn đề siêu hình. Tuy nhiên, triết học và thần học từ trước tới nay không được coi là khoa học chính xác, vì thế chưa có độ thuyết phục cao. Liệu có thể có một thứ triết học hay thần học có tính chính xác cao như toán học hay các khoa học vật chất không?

Một lần nữa, Kurt Gödel, tác giả của Định lý Bất toàn nổi tiếng, nói cho chúng ta biết rằng CÓ! Có thể có một thứ triết học hoặc thần học chính xác như thế. Ông nói:

“Triết học, với tư cách một lý thuyết chính xác, nên áp dụng cho siêu hình học như Newton đã làm đối với vật lý. Tôi cho rằng có nhiều khả năng sự phát triển của một lý thuyết triết học như thế sẽ xảy ra trong vòng 100 năm tới hoặc sớm hơn” (Philosophy as an exact theory should do for metaphysics as much as Newton did for physics. I think it is perfectly possible that the development of such a philosophical theory will take place within the next hundred years or even sooner) [10]

Ông cũng nói: “Tôn giáo cũng có thể được xây dựng như một hệ thống triết học dựa trên một hệ tiên đề” (Religion may also be developed as a philosophical system built on axioms). [10]

Bản thân Gödel đã áp dụng phương pháp tiên đề để chứng minh sự hiện hữu của Chúa ─ bài toán lớn nhất của triết học, thần học và siêu hình học nói chung [12]. Đó là một mô hình mẫu mực của việc sử dụng phương pháp tiên đề để giải quyết các bài toán của siêu hình học, như ông khuyên chúng ta nên làm.

Việc xây dựng Hệ tiên đề về ý thức của sự sống như tôi trình bầy ở trên là một thử nghiệm phương pháp tiên đề theo lời khuyên của Gödel.