Hiển thị các bài đăng có nhãn Báo chí. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Báo chí. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 11 tháng 5, 2020

VỊ TRÌ "TẤM THỚT" TRƯỚC VÀ SAU KHI HẢI GÂY ÁN LÀ CHI TIẾT CỰC KỲ QUAN TRỌNG CÓ THỂ LÀM SÁNG TỎ VỤ ÁN !




"Theo cáo buộc của Viện KSND tỉnh Long An thì Hồ Duy Hải có mặt tại Bưu điện Cầu Voi vào lúc 19 giờ 30 ngày 13.1.2008. Do nảy sinh ý định quan hệ tình dục với Ánh Hồng, Hải đưa tiền cho Thu Vân đi mua trái cây. Khi Vân vừa đi khỏi, Hải kéo Hồng vào buồng và đẩy nằm ngửa xuống đi-văng. Hồng phản ứng, dùng chân đạp vào bụng Hải rồi đi về phía cầu thang.

Hải đuổi theo đẩy vào góc tường nhưng Hồng kêu la. Sợ bị phát hiện, Hải dùng tay bóp cổ, đẩy nạn nhân ngã xuống sàn rồi lấy tấm thớt gỗ đập vào đầu Hồng nhiều lần đến khi bất tỉnh. Sau đó vào bếp lấy con dao inox ra cắt cổ nạn nhân rồi lôi xác vào giấu ở góc cầu thang...

Cũng theo cáo trạng của Viện KSND tỉnh Long An, khi Thu Vân mua trái cây về, kéo cửa sắt xuống rồi bỏ bịch trái cây lên bàn salon, trong khi Hải núp vào một góc và cầm ghế inox thủ sẵn. Khi phát hiện thi thể Hồng, Vân hoảng hồn quay đầu bỏ chạy thì Hải đuổi theo, dùng ghế đập vào đầu làm nạn nhân ngã xuống sàn gạch bất tỉnh.

Tiếp theo, Hải kéo xác Vân để nằm cạnh Hồng, dùng dao cắt cổ nạn nhân rồi ra phòng vệ sinh rửa dao, rửa tay. Sau đó đem dao bỏ vào trong kẹt giữa tấm bảng và vách tường.

Gây án xong, Hải lục tủ lấy 1,4 triệu đồng, khoảng 40 simcard, thẻ cào điện thoại di động, điện thoại Nokia, lột hết dây chuyền, nhẫn, bông tai của 2 nạn nhân rồi ra phía sau đóng cửa lại, leo cửa rào ra sân trước lấy xe gắn máy chạy về nhà. Sợ bị phát hiện, khoảng một tuần sau Hải lấy quần áo mặc lúc gây án và sợi dây nịt đem đốt để phi tang..." ( Báo Thanh niên ngày 5/12/2014 https://thanhnien.vn/…/ho-duy-hai-va-ky-an-buu-dien-cau-voi…)

Thứ nhất : thật vô lý khi Hải đeo găng tay với ý định "làm tình" ( Hải và Hồng quen biết và ít nhiều có tình ý) và như vậy dấu vân tay của Hải phải có ở hiện trường nhất là trên các hung khí Hải sử dụng như Tấm thớt, dao và ghế .

Thứ hai : Hiện trường chính là ở khu vực Cầu thang lầu, sao lại có sự trùng hợp lạ lùng là "Tấm thớt" nằm sẳn ở đó để Hải vớ lấy đập vào đầu Hồng đến bất tỉnh ( đập nhiều lần). Hải đi vào bếp lấy dao cắt cổ Hồng khi cô này đang bất tỉnh.( dao và thớt thường nằm 1 chỗ với nhau) .Hành vi này của cũng thật vô lý bởi Hải chưa từng có tiền án tiền sự, cũng không có ý định cướp của giết người thì lấy dao cắt cổ Hồng vì lý do gì? Nếu Hải sợ tội thì Hải chạy trồn thì hộp lý hơn.

Thứ ba : Bải Hải cố ý đưa tiền cho Vân mua trái cây để thực hiện hành vi tình dục với Hồng. Khoảng thời gian đi mua trái cây ( gần đó) trở về quá ngắn ngủi ( khoảng 5 phút) cho dù Hồng đồng ý thì cũng không đủ thời gian "mây mưa " xong trước khi Vân trở về. Cho rằng Hải có dự mưu thì cũng thật vô lý.

Thứ 4 : Khi Vân về thấy xác của Hồng thì bỏ chạy, Hải đuổi theo dùng ghế sắt đập vào đầu nạn nhân bất tỉnh rồi kéo xác để nằm cạnh Hồng dùng dao cắt cổ.Trên tay Hải có sẳn dao sao không dùng dao đâm Vân mà phải dùng ghế? Phi lý hơn là khi Vân ngã bất tỉnh xuống Hải không cắt cổ Vân tại chỗ mà phải lôi vào dể cạnh Hồng rồi mới cắt cổ? ( Phải chi vân dã thoát ra khỏi Bưu cục mới bị Hải đánh bất tỉnh thì việc Hải kéo vân vào đặt cạnh xác hồng thì còn khã dĩ hợp lý)!

Thứ 5 : Thớt, ghế đều là vật cứng khi đập vào đầu mạnh đến mức nạn nhân phải bất tỉnh thì phải dể lại dấu vết rất rõ ràng, không sưng phù thì cũng bể dầu chảy máu. Thế thì tại sao điều tra viên không phát hiện ? ( để giờ trả lời là không biết ghế thớt là hung khí? Có tin được hay không!) . Tại thời điểm khám nghiệm hiện trường thì Tấm thớt nằm ở đâu?

Thứ 6 : Hải biết rữa dao, xóa dấu vết thì tại sao dấu con dao ở hiện trường mà không đem theo mình để bỏ trốn rồi tiêu hủy như tiêu hủy quần áo?

Thứ 7 : Khi dùng Thớt đập Hồng xong phải bỏ thớt ở đâu ? Điều này vì sao không có trong lời khai của Hải . Vị trí của "Tấm thớt" trước và sau khi Hải gây án là chi tiết cự kỳ quan trọng trong vụ án này

Thứ 8 : Nếu sợ bị phát hiện thì tại sao " MỘT TUẦN SAU" Hải mới đem quần áo đi đốt mà không đốt ngay. Điều này dường như trái với tâm lý thông thường của kẻ cố ý phạm tội?

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

Nhìn lại báo chí trong nước.




Vương Trùng Dương

Theo bản tin Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) ngày 09/4/2019: Quy hoạch báo chí ‘vi hiến’, sẽ ‘làm thất nghiệp’ hàng nghìn nhà báo?

Theo tìm hiểu của VOA, tính đến giữa năm 2018, Việt Nam có hơn 1.100 cơ quan báo chí các loại, gồm 857 báo và tạp chí in, 195 trang báo điện tử và tạp chí điện tử, 67 đài phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương…”

Báo Chí (Press) đã có từ xa xưa, kế đến là Truyền Thanh (Broadcasting) và Truyền Hình (Television – TV) thường gọi là Truyền Thông (Media), sau nầy có thêm Internet nên gọi là Truyền Thông Đại Chúng (Communication).

Theo Wikipedia “Vào cuối thế kỷ 20, truyền thông đại chúng có thể được phân ra thành 8 ngành công nghiệp: sách, báo in, tạp chí, ghi dữ liệu, phát thanh, điện ảnh, truyền hình và Internet. Trong thập niên 2000, một sự phân loại gọi là “seven mass media” (bảy loại hình truyền thông đại chúng) đã trở nên phổ biến. Nó bao gồm:

In ấn từ cuối thế kỷ 15

Ghi dữ liệu từ cuối thế kỷ 19

Điện ảnh từ khoảng năm 1900

Phát thanh từ khoảng năm 1910

Truyền hình từ khoảng năm 1950

Internet từ khoảng năm 1990

Điện thoại di động từ khoảng năm 2000”…

Ngoài Google, Yahoo… để xử dụng email thông dụng, có hàng trăm Mạng Xã Hội (Social Network) rất phổ biến như Facebook, Google plus, Twitter, Youtube, Instagram, Pinterest, Reddit, Vine, Ask.fm, Tumblr, Flickr, WhatApp, WeChat… Trong đó, theo thống kê năm 2018, Facebook với số người xử dụng hằng tháng đến 2,070,000,000 và Youtube có 1,500,000,000. Hiện nay các nước Cộng Sản và độc tài rất lo sợ mạng xã hội vì không thể bưng bít hết những tệ trạng xảy ra trong chế độ với thế giới bên ngoài.

Trong các lần họp báo, hội họp, diễn văn… chúng ta thường nghe 4 chữ “truyền thanh, báo chí” chưa được chính xác nhưng đã trở thành thói quen từ trước đến nay rồi.

Sách vở đề cập đến Báo Chí rất nhiều, trong đó có quyển The Proffessional Journalist của John Hohenberg được Lê Thái Bằng & Lê Đình Điểu dịch Ký Giả Chuyên Nghiệp, Lý Thuyết & Thực Hành Trong Các Ngành Truyền Thông Đại Chúng, ấn hành năm 1988 tại Little Saigon, dày 634 trang,. với tôi quyển nầy rất hữu ích.

Trở lại 4 chữ “Quy Hoạch Báo Chí” mà gồm cả các ngành truyền thông, có lẽ không ổn mà lại dùng chữ “Quy Hoạch” cảm thấy buồn nôn (mượn tựa đề tác phẩm Buồn Nôn (La Nausée/The Nausea) của triết gia Pháp J.P Sartre). Quy hoạch về mặt bằng như quy hoạch Làng Báo Chí Thủ Đức có trước năm 1975 để xây khách sạn… còn với báo chí thì luật lệ quy định để chỉnh đốn lại điều lệ, nguyên tắc, sát nhập, đường lối (lề trái, lề phải trong chế độ thống trị). Trong đất nước tự do, không có chuyện nầy như Hoa Kỳ đã minh định qua Tu Chính Án Thứ Nhất (The First Amendment) trong Hiến Pháp Hoa Kỳ thường được gọi Tu Chính Án Về Tự Do Ngôn Luận (Freedom of Speech)…

Có nhiều bài viết phê phán về cách xử dụng tiếng Việt ngày nay, trong đó hai bài của Chu Đậu và Đào Văn Bình về “Nỗi Buồn Tiếng Việt” đã dẫn chứng đầy đủ.

Bài viết Nhìn Lại Báo Chí Trong Nước của tôi vào năm 2002 đã đăng trên tờ Saigon Times và sau đó trên các tờ báo khác. Thời điểm đó internet chưa phổ biến rộng rãi nên việc liệt kê tốn nhiều thời gian. Trải qua 17 năm (2002-2019), số lượng đã tăng thêm nhưng bây giờ siết lại và đều là chiêu bài cho công cụ nhà nước! Trích đăng lại bài viết cũ năm 2002

*

Nhìn Lại Báo Chí Trong Nước

Vương Trùng Dương

Kể từ thời César lãnh đạo đế quốc La Mã, tờ bích báo đầu tiên xuất hiện có tính cách “thông báo thường nhật” phổ biến ở Quốc Hội cho đến nay đã trải qua suốt chặng đường dài theo tiến trình của lịch sử. Ngày nay, báo chí đã trở thành vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Vai trò của báo chí là thông tin, chuyển đạt tất cả những gì liên quan đến sinh hoạt, cảm nghĩ của nhân loại trên mọi bình diện. Trong sinh hoạt xã hội, đời sống, luật pháp… báo chí được minh định trong vai trò “đệ tứ quyền” – một trong những điều căn bản của nền Tự Do Dân Chủ – tuy nhiên quyền cao quý đó được tôn trọng hay không tùy theo thể chế của quốc gia đó. Vì vậy, nhìn vào sinh hoạt báo chí cũng đủ đánh giá được nền tảng tự do căn bản của quốc gia đó.

Lịch sử báo chí Việt Nam với quá khứ lâu dài, tờ báo đầu tiên ra đời bằng Pháp ngữ ở trong Nam, ngày 29-9-1861, tờ Le Bulletin Officied de L’ Expedition de la Cochinchine dưới dạng tờ công báo mang tên “Le Bulletin Officiel de l’Expédition De La Cochinchine” rồi đến tờ công báo “Le Bulletin Des Communes” bằng Hán văn (tờ công báo nầy bằng Hán văn mà tựa tiếng Pháp và chữ Hán) do nhà cầm quyền thuộc địa Pháp phát hành.

Tờ Gia Định Báo được đánh dấu là tờ báo quốc ngữ đầu tiên ra đời ngày 15-4-1865. Chủ bút nguyệt san Gia Định Báo lúc đầu do người Pháp Ernest Potteau, năm 1969 trao cho học giả Trương Vĩnh Ký. Kể từ đó đến nay, gần 140 năm, qua bao biến động, thăng trầm của lịch sử, báo chí Việt Nam còn bị đóng khung trong vòng kiểm soát, vẫn bị kiểm duyệt chặt chẻ nên nằm trong tình trạng hạn hẹp. Bước sang đầu thiên kỷ mới, hình thức đã được thay đổi tươi sáng trên một số tờ báo nhưng nội dung vẫn còn nằm trong quỹ đạo ràng buộc, chưa đáp ứng được tiếng nói của nền tảng “đệ tứ quyền”. Trong thời Việt Nam Cộng Hòa vì hoàn cảnh chiến tranh, báo chí cũng bị kiểm duyệt nhưng tự do báo chí cũng được tôn trọng.

*.- Số Lượng

Với nhân số 78 triệu dân vào thời điểm 2001 nhưng số lượng ấn bản tờ báo phát hành rất giới hạn. Dù chưa có thống kê nào chính xác tổng kết số ấn bản hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng của mỗi loại nhưng có thể ước tính được số liệu.

Với 12 tờ được xem như nhật báo, hầu hết khổ standard, không có tờ nào vượt quá con số 16 trang, tổng cộng chưa tới bảy trăm nghìn số/ngày. Tờ Nhân Dân khoảng 200,000 số/kỳ, tờ Quân Đội Nhân Dân 150,000 số/kỳ.

Khoảng 20 tờ bán tuần báo, chỉ có 2 tờ có ấn bản cao nhất cao nhất trong hệ thống báo chí trong nước. Tờ Công An TPHCM (Sài Gòn) với 350,000 số/kỳ và tờ Tuổi Trẻ 260,000 số/kỳ. Tờ Thanh Niên trước kia đã giảm sút khi ra tuần tin Thanh Niên. Ngoài ra, không có tờ nào với con số ấn bản trên một trăm nghìn. Chính quyền hạn chế việc thực hiện nhật báo vì vậy nhiều tờ báo chuyển sang con đường bán tuần báo, thêm số Chủ Nhật để phân chia bán tuần báo và tuần báo. (Trong quyển Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, từ khởi thủy đến hiện tại 1861-1999 của ông Đặng Văn Nhâm, dày 668 trang, có nêu chi tiết một số tờ báo trong quá khứ).

Với khoảng 75 tờ tuần báo, chưa có tờ nào trên một trăm nghìn số/kỳ. Tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật chỉ có 80,000 số/kỳ.

Với khoảng 25 bán nguyệt san, chưa có tờ nào vượt được con số 60,000 số/kỳ.

Khoảng 130 nguyệt san, chỉ có tờ Tuổi Trẻ Cười với con số 160,000 số/kỳ, và không có tờ nào trên con số 100,000 số/kỳ.

Khoảng 50 tạp chí định kỳ ra mỗi năm có 2, 3, 4, 6 số, ấn bản phát hành còn bị giới hạn vì có tính cách chuyên ngành và ít được phổ thông.

Tổng cộng số lượng báo chí VN có khoảng 220 tờ được lưu hành rộng rãi trong nước cũng như ở các thành phố lớn, ngoài ra mỗi tỉnh có vài tờ, nhiều nhất ở ngành Công An, hầu hết là nguyệt san; còn bản tin lưu hành trong phạm vi địa phương với số lượng ấn hành bị hạn chế.

ohlala 2

Theo Bùi Huy Lan, Phó Vụ trưởng Vụ Báo Chí cho biết trong ngày Nhà báo Việt Nam 21-6-97: “Hiện nay có 563 tờ báo, tạp chí và bản tin các loại, thuộc 450 cơ quan báo chí; số lượng trung bình phát hành khoảng 1.500.000 bản / ngày.

Có 6 tờ nhật báo và 7 bản tin phát hành hằng ngày, số lượng phát hành khoảng 500.000 bản… và có 3 tờ xuất bản bằng tiếng dân tộc ít người. Ngoài báo in… còn có 69 đài phát thanh và truyền hình, ngoài 2 đài trung ương… còn lại là các đài truyền hình khu vực, đài phát thanh và truyền hình tỉnh, thành phố… Cả nước có trên 8.000 nhà báo chuyên nghiệp (21% là nhà báo nữ) 71% số nhà báo có trình độ đại học và trên đại học, 7,500 người đã được cấp thẻ nhà báo. Đó là chưa kể hàng vạn nhà báo không chuyên và cộng tác viên báo chí” (trong nước còn dùng nhà báo nghiệp dư – freelance theo cách gọi của họ. Ở hải ngoại thì “freelance”, không làm mướn riêng cho một tờ báo, mà viết rồi bán bài cho nhiều tờ, tùy lúc)

Nhìn vào thời điểm đó mà thấy con số tờ báo lên cao vì theo “báo cáo” của nhân vật có trách nhiệm với báo chí, nhờ “bản tin các loại” mới nâng con số lên cao như vậy.

Trong vài năm sau nầy mới có thêm nhiều tờ báo xuất hiện. Để dẫn chứng và tìm hiểu thêm về báo chí trong nước, xin liệt kê danh xưng tờ báo tính đến cuối năm 2001. Dựa vào danh xưng thuần túy của tờ báo như mọi người thường hiểu (không tính bản tin các loại) có khoảng hai trăm hai mươi tờ báo được ấn hành bằng ngoại ngữ và Việt ngữ, hầu hết đều xuất phát dưới danh nghĩa của cơ quan, tổ chức nhà nước.

1.- Báo chí ấn hành bằng Anh, Pháp và Hoa ngữ gồm có:

A.- Nhật Báo: Saigon Times, Vietnam News, Le Courier Du Vietnam, Saigon Libertated, Sài Gòn Giải Phóng

B.- Bán Tuần Báo: Saigon Business Newsletter.

C.- Tuần Báo: Saigon Times, Vietnam Courier, Market and Price, Vietnam Economic News, Vietnam Investment Review, Le Courier Du Vietnam… (Ở Los Angeles có tuần báo Saigon Times của nhà thơ Thái Tú Hạp).

D.- Bán Nguyệt San: The Gazette, Vietnam Business, Vietnam Scoop, Vietnam Business.

E.- Nguyệt San: New Vietnam, Vietnam Pictorial, Business Vietnam, Economic Development Review, Vietnam Banking Review, Vietnam Commerce & Industry, Vietnam Economic Times, The Guide, Vietnam Law & Legal Forum, Vietnam Illustre, Saigon Eco.

F.- Tạp Chí Định Kỳ (2, 3, 4, 6 số mỗi năm): Vietnam Development News, Vietnamese Studies, Asia-Pacific Economic Review, Petro Vietnam, Vietnam Economic Review, Vietnam Trade Union, Proceeding of The National Centre for Scientific Research in Vietnam, Social Science, Vietnamese Scientific and Technical Abstracts, Women of Vietnam, Vietnam Journal of Mathematics, Vietnam Social Economic Development, Communications in Physics, Vietnam Aviation, Vietnamese Law, Etudes Vietnamiennnes, Syndicats Vietnamiens, Vietnam Pictorial, Vietnam Tourism Review, New Vietnam, Vietnam Renovation.

2.- Báo chí Việt ngữ

A.- Nhật Báo: Con Thoi Thị Trường, Hà Nội Mới, Hải Phòng, Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Saigon Giải Phóng, Tin Tức Buổi Chiều.

B.- Bán Tuần Báo: Bản Tin Kinh Thế Thương Mại VN, Cần Thơ, Công An Nhân Dân, Công An TP.HCM, Đại Đoàn Kết, Giáo Dục & Thời Đại, Huế, Lao Động, Người Lao Động, Nhi Đồng, Phụ Nữ, Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Trị, Saigon Giải Phóng Thể Thao, Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Thể Thao TPHCM, Tin Tức Buổi Chiều, Thị Trường Giá Cả Vật Tư, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam, Thương Mại, tuần tin Thanh Niên, Văn Nghệ Trẻ…

C.-Tuần Báo: An Ninh Thế Giới, Bưu Điện Việt Nam, Công Giáo & Dân Tộc, Công Nghiệp Thương Mại VN, Doanh Nghiệp, Doanh Nghiệp Chủ Nhật, Điện Toán Doanh Nghiệp, Đầu Tư Giác Ngộ, Hà Nội Mới Cuối Tuần, Giao Thông Vận Tải, Giáo Dục & Thời Đại, Hải Phòng Chủ Nhật, Hoạt Động Ngân Hàng, Kinh Doanh & Pháp Luật, Kinh Tế Phát Triển, Khăn Quàng Đỏ, Khoa Học Phổ Thông, Khoa Học Kỹ Thuật Kinh Tế Thế Giới, Khoa Học & Đời Sống, Lao Động chủ Nhật, Lao Động Đồng Nai, Lao Động Hà Nội, Lao Động, Mực Tím, Ngân Hàng, Ngân Hàng Dữ Liệu, Thông Tin Pháp Luật, Ngoại Thương, Người Công Giáo Việt Nam, Người Hà Nội, Người Lao Động Cuối Tuần, Nhân Dân Cuối Tuần, Nhi Đồng Họa Mi, Nhi Đồng TPHCM, Nông Nghiệp VN, Nông Thôn Ngày Nay, Nông Thôn Việt Nam, Pháp Luật & Đời Sống, Phụ Nữ TPHCM Chủ Nhật, Phụ Nữ TPHCM Thứ Bảy, Phụ Nữ TPHCM Thứ Tư, Phụ Nữ Thủ Đô, Phụ Nữ Việt Nam, Quân Đội Nhân Dân Cuối Tuần, Saigon Giải Phóng Thứ Bảy, Saigon Tiếp Thị, Sáng Tạo, Sân Khấu Thành Phố HCM, Sức Khỏe & Đời Sống, Hàng Không Việt Nam, Tiền Phong Chủ Nhật, Thanh Niên Chủ Nhật, Thanh Tra, Thế Giới Mới, Thế Giới Phụ Nữ, Thể Thao TPHCM, Thể Thao Văn Hóa, Thể Thao Việt Nam, Thị Trường Giá Cả, Thị Trường Chủ Nhật, Thiếu Niên Tiền Phong, Thông Tin Khoa Học Kỹ Thuật Kinh Tế, Thông Tin Kinh Doanh & Tiếp Thị, Thời Báo Kinh Tế Saigon, Thời Báo Ngân Hàng VN, Thời Báo Tài Chánh, Tuần Tin Tức, Tuần Báo Quốc Tế, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Tuổi Trẻ Thủ Đô, Văn Hóa, Văn Hóa Chủ Nhật, Văn Hóa Nguyệt San, Văn Học, Văn Nghệ TPHCM…

D.- Bán Nguyệt San: Công Báo, Cựu Chiến Binh VN, Màn Ảnh Việt Nam, Khoa Học & Đời Sống, Màn Ảnh Sân Khấu Hà Nội, Một Cửa Sổ Nhìn Ra Thế Giới, Mỹ Thuật Thời Nay, Nghệ Thuật Điện Ảnh, Người Bảo Vệ Công Lý, Người Cao Tuổi, Người Đưa Tin Unesco, Người Làm Báo, Phụ Nữ Hà Nội, Sức Khỏe, Tạp Chí Cộng Sản, Tia Sáng, Thanh Niên BNS, Thể Thao Chuyên San, Thông Tin Chọn Lọc KHKT, Thuốc & Sức Khỏe…

E.- Nguyệt San: Áo Trắng, Bưu Chính Viễn Thông, Công An Nhân Dân, Chuyên Đề (CĐ) Đại Đoàn Kết, CĐ Gia Đình Văn Hóa, CĐ Thế Giới Trẻ, CĐ Thời Trang Thẩm Mỹ, CĐ Tuổi Trẻ Hạnh Phúc, CĐ Tuổi Trẻ Sắc Đẹp, Con Số Sự Kiện, Công Nghệ & Đầu Tư, Công Tác Tư Tưởng Văn Hóa, Cựu Chiến Binh, Dân Chủ & Pháp Luật, Dân Tộc & Thời Đại, Đại học & Giáo Dục, Địa Chất Đời Sống Người Hà Nội, Đời Sống Văn Nghệ Dân Tộc Miền Núi, Gia Đình Ngày Nay, Giác Ngộ, Hà Nội Ngày Nay, Hàng Không VN, Hạnh Phúc Gia Đình, Khoa Học & Phát Triển, Khoa Học & Tổ Quốc, Kiến Trúc & Đời Sống, Lao Động Hà Nội, Lao Động & Công Đoàn, Lao Động & Xã Hội, Nghiên Cứu Giáo Dục, Nghiên Cứu Lịch Sử, Nghiên Cứu Kinh Tế, Nghiên Cứu Văn Hóa Nghệ Thuật, Người Đẹp Việt Nam, Người Tiêu Dùng, Người Xây Dựng, Ngưỡng Cửa Vào Đời, Nhà Báo & Công Luận, Nhân Đạo, Nhiếp Ảnh, Nông Nghiệp & Công Nghiệp Thực Phẩm, Nông Nghiệp Việt Nam, Pháp Luật & Đời Sống, Pháp Luật TP.HCM, Pháp Lý, Pháp Quy Về Ngành Thương Mại, Phụ Nữ Thủ Đô, Phụ Nữ Việt Nam, Quân Đội Nhân Dân, Quê Hương, Quốc Phòng Toàn Dân, Sóng Nhạc, Sự Kiện & Dư Luận, Sức Khỏe & Đời Sống, Tác Phẩm Mới, Thế Giới Muôn Màu, Thế Giới Sách, Thế Giới Trong Ta, Thế Giới Vi Tính, Thị Trường Tài Chánh, Thiếu Nhi Dân Tộc, Thời Báo Kinh Tế VN, Thời Báo Tài Chánh, Thời Trang Trẻ, Thông Tin (TT) & Cuộc Sống, Thông Tin Lý Luận, TT Cơ Hội Kinh Doanh, Thông Tin KHKT, TT Môi Trường, TT Thương Nghiệp Thị Trường, TT KHoa Học Tài Chánh, TT Khoa Học Thanh Niên, TT Phục vụ Lãnh Đạo, TT Tư Liệu, Tòa Án, Trí Thức Trẻ, Trí Thức & Công Nghệ, Truyền Hình, Tuổi Xanh, Tuổi Trẻ Cười, Văn Học, Văn Nghệ Hạ Long, Văn Nghệ Quân Đội, Vì Trẻ Thơ, Việt Nam Hương Sắc, VN Văn Đông Nam Á Ngày Nay, Xây Dựng, Y Học Cổ Truyền, Y Học Thực Hành, Y Học Việt Nam…

F.- Tạp Chí Định Kỳ (3, 4, 6 số mỗi năm): Âm Nhạc, Báo Chí Tuyên Truyền, Bảo Hiểm, Bảo Hộ Lao Động, Bảo Tàng & Di Tích, Biển, Cánh Buồm, Cần Thơ, Cơ Khí Ngày Nay, Dân Tộc Học, Dầu Khí, Địa Chất, Giáo Dục & Đào Tạo, Giáo Dục Lý Luận, Hán Nôm, Hóa Học, Khảo Cổ Học, Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật, Khoa Học Kỹ Thuật, Khoa Học Phụ Nữ, Khoa Học Trái Đất, Khoa Học & Công Nghệ, Kiến Trúc, Lịch Sử Đảng, Luật Học, Lưu Trữ VN, Ngoại Khoa, Nghiên Cứu Châu Âu, Kinh Tế Á Châu TBD, Nghiên Cứu Lịch Sử, Nghiên Cứu Nhật Bản, Nghiên Cứu Phật Học, Nghiên Cứu Quốc Tế, Nghiên Cứu Trung Quốc, Nhà Nước & Pháp Luật, Những Vấn Đề Kinh Tế Thế Giới, Ngôn Ngữ & Đời Sống, Người Đại Biểu ND, Người Phụ Trách, Sinh Học, Pháp Quy, Tem, Thế Giới Âm Nhạc, Thông Tin (TT) Bảo Hiểm Y Tế, TT KHKT, TT Môi Trường, TT Sinh Học, TT Tư Liệu, Thủy Sản, Văn Hóa Dân Gian, Vật Lý, Xưa & Nay…

ohlala 3

Với danh sách báo giấy được liệt kể trên để dễ dàng phân biệt được số lượng đích thực của tờ báo theo đúng ý nghĩa thông dụng của nó; bên cạnh đó, loại “bản tin các loại” ít được đề cập để xếp loại chung với nhau. Trong thời gian qua, có nhiều nguồn tin đưa ra con số từ 700 đến 800 tờ báo ở VN, có lẽ kèm theo nhiều “bản tin các loại” nhằm phù hợp 10 tờ cho một triệu dân.

Với hệ thống thông tin điện toán hiện nay, báo chí trong nước thực hiện trên website còn bị hạn hẹp. Ngoại trừ những tờ phát hành bằng ngoại ngữ, số lượng báo chí Việt ngữ thực hiện trên website chưa được một phần mười. Nếu so sánh số lượng và chất lượng báo chí được thực hiện trên website thì báo chí trong nước chưa bằng báo chí Việt ngữ ở California. Giới cầm bút thì không được quyền tự ý chuyển bài viết trên trang web!

*.- Luật Lệ

Báo chí được xem là thành phần trong ngành truyền thông (truyền thanh, truyền hình, báo chí) nhưng CSVN lại quan niệm báo chí một cách tổng quát, bao gồm báo viết, báo nói (truyền thanh) và báo hình (truyền hình). Báo chí trực thuộc bộ Văn Hóa & Thông Tin (VH&TT), nằm dưới quyền giám sát của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương (TTVHTT).

Hiến Pháp CSVN cũng đã đề cập quyền tự do báo chí từ năm 1946. Qua hai lần thay đổi năm 1959 & năm 1980… Chương V Điều 69 của Hiến Pháp CSVN thông qua ngày 15-4-1992 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Điều I Chương I được Quốc Hội thông qua trong tháng 12-1989 về Luật Báo Chí có nhiều điều bảo đảm và tôn trọng quyền tự do báo chí: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí… Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới…”. Thế nhưng, Việt Nam là một trong những nước bị liệt vào danh sách không tôn trọng “đệ tứ quyền”, chà đạp quyền tự do báo chí.

Ở Trung ương có Ban TTVHTT và Bộ VH&TT kiểm soát, ở địa phương đặt dưới quyền lãnh đạo của Ban TTVH tỉnh, thành và Sở VH&TT. Tháng 12-1997, Bộ Nội Vụ lập Trung Tâm kiểm soát báo chí dù không công khai nhưng là cái lưới vô hình giăng mắc khắp nơi.

Tuy Hiến Pháp CSVN quy định “Công dân có quyền tự do báo chí” nghĩa là có quyền xin phép để thực hiện tờ báo nhưng trên thực tế không dễ dàng như vậy. Hầu như không có tờ báo nào của tư nhân.

Trường hợp của cựu tướng Trần Độ xin phép ra báo vào đầu năm 1999 đã bị chối từ, gây xôn xao dư luận trong nước lẫn hải ngoại. Văn Thư của ông Đỗ Quý Đoàn, Vụ trưởng Vụ Báo Chí ký ngày 23-4-1999 trả lời Trần Độ lại minh xác: “Không có quy định nào cho cá nhân đứng tên xin cấp giấy phép hoạt động báo chí”. Ngay cả cựu tướng Trần Độ, người có nhiều “thành tích” với đảng và chính quyền CSVN còn bị chối từ và lên án phá rối, rồi đến trường hợp các vị lãnh đạo tinh thần, nếu không là thành phần của tổ chức nhà nước thì làm sao được quyền thực hiện tờ báo cho tôn giáo, tín ngưỡng.

Tháng 8 – 1997, Hữu Thọ – Vụ trưởng Vụ VH&TT – minh định: “Từ nay trở đi, báo chí và văn hóa phẩm phải được đặt dưới sự chỉ đạo chặt chẻ của đảng và hoạt động trong khuôn khổ luật pháp”.

Báo chí được ấn hành dưới hình thức là tiếng nói, công cụ của cơ quan ngôn luận được đảng, tổ chức thông qua sự duyệt xét của Ban VHTT và Bộ, Sở ngành VH&TT. Nhìn tất cả tờ báo đã liệt kê ở trên đều nấp dưới danh nghĩa nầy, tổ chức nọ… tuy đã có chiều hướng “cải tiến” trong giai đoạn ông Nguyễn Văn Linh tuy được nới lỏng phần nào nhưng đều nằm trong quỷ đạo làm công cụ như sự đánh giá về nền tảng báo chí CSVN từ trước đến nay.

Kể từ khi báo chí không còn nằm trong “chế độ bao cấp”, nội dung và hình thức báo chí được thay đổi khá nhiều nhưng không thể nào thoát ra được vòng kiềm tỏa. Tờ nào được độc giả ưa thích, giới hữu trách lại càng canh phòng kỹ càng. Thật ra chỉ khai thác những tệ nạn xã hội rồi bán cái “tàn dư chế độ cũ” để câu độc giả, không dám nói lên tệ nạn tham nhũng, hối lộ, cưỡng chiếm đất đai nhà cửa làm băng hoại xã hội!

Thị trường báo chí cũng là môi trường đặc biệt. Nhìn lại trong khoảng thời gian qua, với chế độ bao cấp, giá tờ báo trung bình 1$ đến 2$ bạc VN (tương đương với ly cà phê ở ven đường). Đầu thập niên 90, bỏ chế độ cao cấp, giá bán tờ báo tăng 200 đến 300%, số lượng tờ báo đọc được cũng tăng vọt. Tờ Nhân Dân, bắt buộc các cơ quan phải mua nhưng số lượng ấn hành chỉ còn 1/5, điều đó nói lên tầm ảnh hưởng thuận và nghịch giữa công chúng và báo chí, giữa giáo điều và sự thật.

Hầu hết việc thu nhập tờ báo dựa trên quảng cáo và số lượng bán, vì vậy độc giả ảnh hưởng rất nhiều đến sự sống còn của tờ báo; tuy nhiên nhiều quy luật ràng buộc nên không thể nào đáp ứng được nhu cầu của độc giả.

Tờ Nhân Dân & Quân Đội Nhân Dân được xem là tiếng nói của đảng và chính quyền, quân đội khi loan tin quy định, luật lệ trong công việc kiểm soát báo chí, đồng thời nêu ra công tác thực thi cho người cầm bút “thấu triệt” để khỏi bị đi lệch hướng.

*.- Kết

Báo chí trong nước trải qua hai giai đoạn: bao cấp và kinh tế thị trường. Trong thời kỳ bao cấp số lượng báo chí rất ít, trong thời kỳ kinh tế thị trường nhiều tờ báo được ra đời. Tuy “cởi trói” nhưng được cởi mở phần nào rồi bị trói chặt trong luật lệ của giới chức lãnh đạo. Hiến pháp đề cập đến vấn đề tự do báo chí nhưng nhiều quy luật của giới chức hữu trách trực tiếp trói buộc quyền tự do báo chí. Vấn đề tham ô, cửa quyền được báo chí phanh phui, đề cập nhưng không được phép “xâm phạm” đến cấp lãnh đạo chính quyền, đảng ở trung ương; không được nêu lên vấn đề đa đảng, không được ca ngợi nền tảng tự do, dân chủ, dân quyền ở những quốc gia tân tiến…

Trong tình thế mới, với thương ước Việt-Mỹ, với nhu cầu cần phải đáp ứng để thế giới bên ngoài chấp nhận, liệu CSVN “mở cửa” cho cơ sở truyền thông dưới hình thức nào đó ở Hoa Kỳ thực hiện tờ báo tại Việt Nam?. Không có tự do báo chí thì không có tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng… Không có tự do báo chí thì tình trạng bưng bít vẫn bị khép kín, mọi thông tin sẽ bị lệch lạc… Cho tự do báo chí thì chính quyền và đảng cảm thấy mối nguy cơ của “cơn bão tự do” thổi xoáy tận gốc rễ mục nát bị bất khả xâm phạm từ trước đến nay.

Báo chí trong nước không thể nào tiêu thụ được ở hải ngoại, nội dung và hình thức không có gì để quan tâm mà giá cả thì xa vời thực tế. Điển hình như tờ Nhân Dân, tờ Saigon Giải Phóng với giá $1,200 USD cho một năm 365 số, tờ Hải Phòng và Quân Đội Nhân Dân với giá $1,400 USD, tờ Lao Động giá $900 USD cho 156 số, Saigon Times giá $400 cho 52 số, Vietnam Economic News giá $800 cho 52 số, Tuổi Trẻ Chủ Nhật giá $380 USD cho 52 số… Trong khi đó thì báo chí Việt ngữ ở Hoa Kỳ, nhật báo với giá 25 cent, tuần báo với giá 50 cent đến $1 USD, nguyệt san, tạp chí từ $3 đến $8 USD… rất phù hợp với nhu cầu thực tế của độc giả.

Khi nào báo chí VN không còn đánh giá là công cụ cho đảng, cơ quan và tổ chức của nhà nước CSVN mới thể hiện tinh thần tự do, dân chủ thì tiếng nói đích thực của nó mới có giá trị chân chính.

Little Saigon, May 2002

Vương Trùng Dương gửi đến Nghiệp đoàn báo chí Việt Nam.

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2020

CÁI CHẾT CỦA CỤ LÊ ĐÌNH KÌNH DƯỚI GÓC NHÌN CỦA HIẾN PHÁP VÀ BLHS 2015





fb Vũ Hữu Sự -

Trước khi khởi tố bị can đối với 22 người dân Đồng Tâm, tại sao lại không khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi xâm phạm trái phép chỗ ở và giết người với những kẻ giết cụ Lê Đình Kình ? Chẳng lẽ cái chết của cụ không phải là cái chết ? Mạng của cụ không phải là mạng người ? Nếu không đưa được những kẻ giết cụ Lê Đình Kình ra trước vành móng ngựa, thì vụ án này sẽ trở thành một vết bẩn không thể nào rửa sạch được của ngành công an vẫn tự hào là “giỏi nhất thế giới” này


Trước khi bị giết, cụ Lê Đình Kình là một công dân. Cụ có đủ quyền và nghĩa vụ của một công dân theo quy định tại các điều 14;15;16;17 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013. Cụ không có tiền án, tiền sự. Hiện tại, cụ không phải chấp hành bất cứ một bản án nào, do tòa án cấp nào tuyên. Cụ là một đảng viên ĐCS Việt Nam, cho đến lúc chết vẫn chưa bị khai trừ ra khỏi đảng.
Theo thông tin từ cơ quan công an, được các báo quốc doanh đăng tải, thì cụ Lê Đình Kình chế tạo bom xăng, tàng trữ dao, kiếm, lựu đạn... Như vậy, cụ có hành vi có dấu hiệu cấu thành tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, được quy định tại điều 230 BLHS năm 2015, và tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ, được quy định tại điều 233 BLHS năm 2015.

Muốn kết luận được hành vi của cụ có cấu thành hai tội đó hay không, thì phải khởi tố vu án, tức là khởi tố về hành vi có dấu hiệu phạm tội. Và nếu đủ căn cứ là cụ Lê Đình Kình có dấu hiệu phạm tội, thì phải khởi tố bị can để điều tra. Sau khi khởi tố bị can, nếu thấy cần thiết, thì có thể bắt tạm giam bị can dể điều tra.

Cụ Lê Đình Kình có địa chỉ cư trú rõ ràng là thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội. Cụ không phạm tội quả tang, cũng không phải tội phạm bị truy nã. Nên theo quy định tại khoản 3, điều 113 bộ luật TTHS năm 2015, thì không được phép bắt cụ vào ban đêm (từ 22 giờ đến 6 giờ). Như vậy, nếu cụ trở thành bị can của vụ án nói trên, và nếu cụ phải chấp hành lệnh bắt tạm giam, thì cơ quan tố tụng chỉ có thể bắt cụ giữa “thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi (truyện Kiều- Nguyễn Du)”. Việc bắt cụ phải được thực hiện theo đúng quy định tại điều 113 bộ luật TTHS năm 2015 : phải đọc quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam cho cụ nghe tại nhà. Phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho cụ biết, phải lập biên bản về việc bắt. Phải giao quyết định và lệnh bắt cho cụ. Tất cả mọi việc phải diễn ra dưới sự chứng kiến của chính quyền địa phương.

Cụ Lê Đình Kình không phải là bị can trong vụ án nào, không phải chấp hành lệnh tạm giam. Cụ đang sống bình yên tại nhà mình. Như vậy, chỗ ở của cụ là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Không ai được tự ý vào chỗ ở của cụ nếu không được cụ cho phép, theo quy định tại điều 22 Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam. Tính mạng của cụ được pháp luật bảo hộ và không ai được quyền tước đoạt mạng sống của cụ trái luật, theo quy định tại điều 19 Hiến pháp năm 2013của nước CHXHCN Việt Nam.

Lực lượng cảnh sát cơ động đã đột nhập nhà của cụ Lê Đình Kình vào lúc nửa đêm mà không được cụ cho phép. Như vậy, lực lượng này đã vi phạm điều 22 Hiến pháp năm 2013 của nướcCHXHCN Việt Nam và vi phạm điều 158 BLHS năm 2015 (tội xâm phạm chỗ ở của người khác), mà đây lại là việc xâm phạm có tổ chức. Tội này được quy định tại điểm a, khoản 2 điều luật trên, có khungn hình phạt cao nhất đến 5 năm tù.

Không chỉ xâm phạm trái phép, lực lượng này còn đánh, bắn chết cụ, tước đoạt mạng sống của cụ trái luật, vi phạm điều 19 Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam. Vi phạm khoản 1 điều 123 BLHS năm 2015, với 2 tình tiết tăng nặng là giết người có tính chất côn đồ và có tổ chức (điểm n và điểm o ).

Còn 3 cảnh sát cơ động bị chết ? Ai giết họ ?

Có 3 giả thiết được đặt ra. Thứ nhất là cụ Kình giết. Thứ hai, họ tàn sát lẫn nhau và thứ ba, là họ bị người dân giết.

Giả thiết thứ nhất bị loại trừ ngay. Ở tuổi 84, mắt mờ chân chậm, bị phá cửa vào nhà quá đột ngột. Cụ Kình vừa mở mắt thì đã bị đánh gẫy chân, bị bắn thẳng vào tim ở cự li rất gần. Cụ Kình chết mà chưa kịp hiểu ai đã giết mình, giết bằng vũ khí gì, nói chi đến phản ứng.

Giả thiết thứ hai, thì trên mạng xã hội đã có một thông tin rằng một chú bị trượt chân ngã xuống giếng trời, chết do va đập. Chú thứ hai chết do bị đồng đội bắn nhầm. Và chú thứ ba đang ở trên mái nhà, nghe tiếng súng nổ giật mình ngã xuống, cũng chết. Nhưng thông tin này chưa được kiểm chứng, và có lẽ cũng chẳng ai có thể kiểm chứng được.

Giả thiết thứ ba, thì cơ quan CSĐT công an TP Hà Nội vừa khởi tố bị can đối với 22 người dân Đồng Tâm về các hành vi giết người; tàng trữ, sử dụng vũ khí trái phép và chống người thi hành công vụ. Thế có nghĩa là dưới mắt cơ quan CSĐT, 3 CSCĐ chết là do bị người dân làng Hoành giết. Họ có giết người hay không, thì chúng ta hãy chờ xem.

Thế nhưng trước khi khởi tố bị can đối với 22 người dân Đồng Tâm, tại sao lại không khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi xâm phạm trái phép chỗ ở và giết người với những kẻ giết cụ Lê Đình Kình ? Chẳng lẽ cái chết của cụ không phải là cái chết ? Mạng của cụ không phải là mạng người ?

Nếu không đưa được những kẻ giết cụ Lê Đình Kình ra trước vành móng ngựa, thì vụ án này sẽ trở thành một vết bẩn không thể nào rửa sạch được của ngành công an vẫn tự hào là “giỏi nhất thế giới” này

VỤ ĐỒNG TÂM : TỘI PHẠM TRONG CHÍNH QUYỀN CHỨ Ở ĐÂU XA





*Thông tin chi tiết từ Bộ Công an

14/1/2020, Trung tướng Lương Tam Quang, Thứ trưởng Bộ Công an đã thông tin với các cơ quan báo chí về diễn tiến sự việc tại Đồng Tâm vào đêm 8, rạng sáng 9/12020.
Trung tướng Lương Tam Quang cho biết sự việc tại Đồng Tâm có diễn biến phức tạp từ năm 2017 đến nay, đặc biệt là sau khi Thanh tra Chính phủ công bố kết quả rà soát kết luận thanh tra của Thanh tra TP Hà Nội (vào tháng 7-2019).
Cũng theo ông Quang, khi Thanh tra Chính phủ tổ chức đối thoại với người dân để thông báo kết luận rà soát thì ngày 25-11-2019, số người ở tổ đồng thuận gây mất trật tự trụ sở UBND xã Đồng Tâm, chửi bới những người phát biểu ủng hộ, tin tưởng với kết luận của thanh tra. Dùng lời nói, vũ lực đe dọa các đại biểu phát biểu ủng hộ.
“Số này ráo riết chuẩn bị phương án, vũ khí để chuẩn bị chống đối. Họ có ý đồ bắt cán bộ, gây cháy nổ UBND xã Đồng Tâm, gây cháy nổ cây xăng Đồng Tâm để gây tiếng vang với dư luận bên ngoài” - ông Quang thông tin và cho biết trước diễn biến trên, Công an Hà Nội đã nắm bắt tình hình, chủ động chuẩn bị phương án ứng phó."

Như vậy lực lương Công An đã biết rất rõ là Nhóm Đồng Thuận xã Đồng Tâm đã " TÀNG TRỮ VŨ KHÍ TRÁI PHÉP". Điều này càng được khẳng định khi ông Lê Đình Công TUYÊN BỐ CÔNG KHAI SẼ TỬ CHIẾN ĐỂ BẢO VỆ ĐẤT".
Trong các tội danh cáo buộc 22 bị cáo có tội danh " TÀNG TRỮ VŨ KHÍ TRÁI PHÉP"( Tàng trữ gì nữa chứ khi mà họ đã đem ra sử dụng và trở thành hung khí trong vụ án giết người. Đến cái Tội danh cũng được chuẩn bị sẳn). Nhóm Đồng Thuận có đủ thời gian để " Mua vũ khí nóng" ( Lựu đạn) mà Công an hay tổng Cục 2 không có động thái gì thì thật buồn cười. Cứ thử tìm mua "vũ khí nóng" ở xứ sở này thì biết ngay, mười tên cò mồi bán vũ khí nóng thì hế 9 là người của Công an và quân đội !

Dấu hiệu vi phạm luật pháp của "Nhóm Đồng Thuận" hết sức rõ ràng. Thế thì , TẠI SAO LỰC LƯỢNG CHỨC NĂNG KHÔNG XIN LỊNH KHÁM XÉT ĐỂ TIẾN HÀNH KHÁM XÉT NGĂN CẢN CÁC ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG SỐ VŨ KHÍ TRÁI PHÉP NÀY ĐỂ XÃY RA TÌNH TRẠNG HỌ SỬ DỤNG VŨ KHI GÂY TỬ VONG CHO 3 CHIẾN SĨ CÔNG AN ĐÊM NGÀY 9/1/2020?

VIỆC TIẾN HÀNH KHÁM XÉT CÁC ĐỐI TƯỢNG TÌNH NGHI TÀNG TRỮ VŨ KHÍ TRÁI PHÉP LÀ VIỆC LÀM RẤT DỄ DÀNG ĐỐI VỚI CƠ QUAN CÔNG AN.

NHƯNG KHÔNG, HỌ ĐÃ KHÔNG LÀM ĐIỀU PHẢI LÀM. VÀ PHẢI CHĂNG CÓ AI ĐÓ MUỐN NHÓM ĐỒNG THUẬN SỬ DỤNG SỐ VŨ KHÍ NÀY CHÔNG LẠI NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ, VÀ THIỆT MẠNG CÀNG NHIỀU NGƯỜI CÀNG TỐT. VÌ ĐIỀU HỌ MUỐN LÀ PHÁ HOẠI "UY TÍN ĐANG CÓ TRỞ LẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN", PHÁ HOẠI SỰ HÒI NHẬP VIỆT NAM VỚI CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ?

Cũng theo ông Quang, sự việc đêm và rạng sáng ngày 9/01/2020 có thể hiểu như sau :

- Nhóm "Đồng Thuận " lén lút tổ chức gây rối ban đêm, tìm cách phá việc xây dựng tường rào và chạm trán với lực lượng bảo vệ công trình. Khi không phá đuợc họ rút về làng. Thế là họ đã rơi vào "ý đồ" của kẻ ra lệnh muốn "tiêu diệt Nhóm Đồng Thuận". Thế nên, lực lượng Công an ( được chuẩn bị sẵn) liền tiến hành truy kích, tấn công vào làng Đồng Tâm mà họ biết chắc là sẽ bị chống trả quyết liệt bằng VŨ KHÍ SÁT THƯƠNG.
Nếu như nhóm quấy rối Đồng Thuận không rút về làng Đồng Tâm mà sang làng khác thì chắc hẳn không có sự truy kích và xãy ra sự kiện đau lòng khiến 4 người thiệt mạng. ( Mà họ không thể không rút về thôn Hoành- Đồng Tâm)

Việc truy kích các đối tượng mà lực lượng chức năng biết rất rõ ràng là sẽ xãy ra xung đột, cho dù việc truy kích bắt các đối tượng là không nhất thiếtphải thự hiện ngay. Thế nhưng nó vẫn xãy ra, bởi lẽ mọi chuyện như đã đã được chuẩn bị từ trước để dẫn đến tội danh " chống người thi hành công vụ", tàng trữ vũ khí trái phép" và cả tội danh " GIẾT NGƯỜI".

VÀ NHỮNG ĐIỀU ĐÓ ĐÃ XÃY RA. CHỦ TỊCH NƯỚC HẲN SẼ RẤT ĐAU LÒNG KHI KÝ TRAO TẶNG HUÂN CHƯƠNG CHO CÁC CHIẾN SĨ ĐÃ BỎ MẠNG!

GIẶC Ở BÊN NGOÀI KHÔNG ĐÁNG SỢ BẰNG GIẶC Ở TRONG NHÀ. TỘI PHẠM NGAY TRONG CHÍNH QUYỀN CHỨ Ở ĐÂU XA?

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2019

Phạm Nhật Vượng &VinGroup: người tài trí hay tội đồ?





Trần Lâm - (Tôi không nhìn từ khía cạnh một người bình thường với khát vọng làm giàu cho bản thân. Mà đó là lợi ích cho quốc gia, dân tộc này).

Trong mắt 1 người như tôi, ông Vượng không phải loại tài trí ngút trời, xoay chuyển càn khôn gì. Chỉ là một loại trục lợi, làm giàu dựa trên nguồn tài nguyên đất - nguồn tài nguyên gần như cuối cùng của Việt Nam. Quy mô càng tăng lên hàng chục tỉ usd, thì sự bị tước đoạt sở hữu đất của người dân càng tăng lên, vì nó còn là phát súng cho hàng ngàn doanh nghiệp kinh doanh bất động sản như kiểu FLC gây oan trái khắp nơi. Một loại làm giàu kí sinh chứ không thực tài trí. Có chăng là làm thay đổi hình ảnh đẹp hơn ở các góc thành phố trải dài trên khắp Việt Nam mà không đi đôi với tạo ra giá trị thặng dư, đóng góp vào cân bằng ngân sách lõi cho quốc gia.

Tôi đã kinh doanh, làm việc với rất nhiều doanh nhân nổi tiếng trên thế giới, đọc và nghiên cứu gần như tất cả lịch sử chính trị của nhân loại. Nên tôi sẽ có cái nhìn nhiều điểm chung với tầng lớp tri thức, làm doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nếu chỉ đánh giá Phạm Nhật Vượng và Vingroup khát vọng, kinh doanh làm giàu hay sự nổi tiếng thì không có gì đáng nói, cũng sẽ giống như sự ra đời, phát triển như những doanh nghiệp thông thường khác ở Việt Nam.

Nhưng hiện nay, sau hơn 20 năm quay về Việt Nam kinh doanh và xây dựng doanh nghiệp của ông Vượng tới quy mô này, lựa chọn ngành dọc và sản phẩm như hiện nay thì nó không còn là riêng vấn đề cá nhân ông ta và nội bộ đời sống của công ty này. Nó càng không phải rất hình thức như gần đây nhiều người nói: bộ mặt quốc gia, hình ảnh quốc gia, tự hào dân tộc, hay sự tỏa sáng của người Việt. Những từ ngữ này chỉ là của nội bộ công ty này và một bộ phận dân trí còn chưa được mở rộng khai sáng hơn để hiểu bản chất vấn đề vai trò của ô Vượng, của Vingroup, sự đóng góp hay gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.

Tôi không vội nói về quy mô, vì so với các tập đoàn kinh doanh đa ngành quốc tế thì Vingroup tạm quy đổi khoảng 15 tỉ usd và chỉ bằng 1/6 của Deawoo của Hàn Quốc cách đây 15 năm khi sụp đổ. Cũng như nó vẫn nhỏ so với các tập đoàn đa quốc gia khác ở EU, Mỹ, Nhật, Hàn. Tạm bỏ qua vấn đề quy mô, mà thực sự nó được xây dựng và tăng quy mô tài sản dựa trên buôn bán gì và đang sản xuất gây thiệt hại 1 cách bản chất cho Việt Nam ngay những năm vừa rồi và tương lai hàng chục năm nữa.

Trước tiên nói về sự phát triển một cách ngắn gọn: sau khi ô Vượng rời Ukraine, chuyển giao Technocom và nhận thấy cơ hội quay về Việt Nam kinh doanh sau giai đoạn bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ 1995. Bắt đầu phát triển bằng thu mua đất để phát triển ngành bất động sản, việc nhận thấy cần có kho quỹ về đất để có sự chuẩn bị xây dựng hàng loạt các dự án BDS đình đám sau này, đặc biệt sau giai đoạn 2006.

Ô Vượng đã ngấm ngầm liên kết với quan chức, công an, quân đội để cưỡng chế, cướp đất đai của người dân để có 1 kho quỹ đất làm giàu trên sự oan ức của người dân khắp nơi ở Việt Nam, ai lên tiếng đều bị công an, truyền thông bịt miệng, bắt bớ. Ông ta không phát triển doanh nghiệp dựa trên trí tuệ và tạo ra giá trị thặng dư cho quốc gia, cho người dân như Apple, Microsoft, Facebook.... Ông ta làm giàu dựa trên sự tham nhũng của quan quyền, lỗ hổng thể chế chính trị của Việt Nam.

Trong mắt 1 người như tôi, ông Vượng không phải loại tài trí ngút trời, xoay chuyển càn khôn gì. Chỉ là một loại trục lợi, làm giàu dựa trên nguồn tài nguyên đất - nguồn tài nguyên gần như cuối cùng của Việt Nam. Quy mô càng tăng lên hàng chục tỉ usd, thì sự bị tước đoạt sở hữu đất của người dân càng tăng lên, vì nó còn là phát súng cho hàng ngàn doanh nghiệp kinh doanh bất động sản như kiểu FLC gây oan trái khắp nơi. Một loại làm giàu kí sinh chứ không thực tài trí. Có chăng là làm thay đổi hình ảnh đẹp hơn ở các góc thành phố trải dài trên khắp Việt Nam mà không đi đôi với tạo ra giá trị thặng dư, đóng góp vào cân bằng ngân sách lõi cho quốc gia.

Tiếp theo 2 năm gần đây ô Vượng cho mở ra nhà máy sản xuất ô tô Vinfast, sản xuất điện thoại V-smart. Đây mới là VẤN ĐỀ LỚN NHẤT tôi muốn bàn đến. Tôi không đánh giá chất lượng sản phẩm ông ấy tạo ra, vì thực ra ông ấy chẳng tạo ra gì, chỉ đi mua về, lắp ráp, dán logo của Vin lên để làm thương mại. ông Vượng không thực sự sản xuất gì, vì không sở hữu người tài nào, nắm giữ chìa khóa trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm trên.

Vậy việc nhập toàn bộ phụ tùng, máy móc, phương tiện để lắp ráp ô tô Vinfast, điện thoại V-smart đã tiêu tốn đến hiện nay khoảng 3 tỉ usd. Với chuyển giao công nghệ cũ từ Châu Âu và một phần phụ tùng từ Trung Quốc. Ông ta trực tiếp làm giảm cán cân thương mại, gây thâm hụt thương mại vì các đơn hàng nhập khẩu quốc tế. Tiền thanh toán không phải là VND, mà phải bằng usd, eur, jpy - là các ngoại tệ mạnh mà Việt Nam hàng năm phải trông chờ vào nguồn kiều hối duy nhất giữ được lãi suất, không đổ vỡ thị trường giá cả ở Việt Nam.

Nói cho thật đơn giản để khai dân trí với ngay cả giới tri thức và người dân rằng: ô Vượng sau 20 năm lấy đất của dân bán được một đống tiền tính bằng VND thì tiếp tục lấy usd từ hệ thống ngân hàng của quốc gia, phát hành trái phiếu bằng usd có sự bảo lãnh của Chính phủ để có tiền nhập tất cả mọi thứ về lắp ráp ra ô tô và điện thoại.

Chưa bao giờ ô Vượng và Vingroup xuất khẩu được một cái gì mang lại ngoại tệ cho đất nước này. Chỉ khi nào mang lại ngoại tệ mạnh mới thực sự tạo ra giá trị thặng dư cho quốc gia, mới trực tiếp đóng góp vào sự giàu có , phát triển của dân Việt.

Với việc mua máy móc, chuyển giao công nghệ thải từ Châu Âu thế hệ thập niên 90, ông Vượng không bao giờ bán nổi ổ tô, điện thoại bên ngoài lãnh thổ Việt Nam - kể cả khu vực Đông Nam Á và Phi Châu. Như vậy hiện nay ông Vượng vẫn đang dùng tiền, quan hệ với lãnh đạo Việt Nam chỉ để bán hàng nội địa những thứ ông ta mang về gây thiệt hại hàng tỉ usd của người dân. Ông Vượng đang gián tiếp dùng công cụ thuế để bán ô tô, điện thoại - giảm thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng nhập khẩu tại chỗ từ sản phẩm ô ta lắp ráp lên.

So với việc ông ta góp 1 phần nhỏ làm thay đổi 1 vài góc thành phố, thì việc gây oan sai khắp nơi. Đặc biệt gây thiệt hại trước mắt khoảng 3 tỉ usd cho quỹ ngoại hối quốc gia mà không thu lại một đồng ngoại tệ nào. Ông ta trong mắt tôi và nhiều người tri thức khác là tội đồ của nhân dân. Không phải loại tài trí đáng khen tặng.

Hãy nhớ rằng thời kì Park Chung Hee - Tổng thống tầm vóc, quả cảm của Hàn Quốc đã giao nhiệm vụ cho những tập đoàn như Huyndai phải đi kiếm ngoại tệ về xây dựng, phát triển, làm giàu cho quốc gia, cho người dân.

Vingroup và ô Vượng đang làm ngược lại, chỉ có hình ảnh đánh bóng, lừa người dân và là công cụ mị dân lòe bịp của chính quyền về sự thịnh vượng giả tạo.

Hãy ghi nhớ ông Vượng không sản xuất được cái gì có chìa khóa trí tuệ trong tay. ông ta còn thua xa cả Đặng Lê Nguyên Vũ - Trung NGuyên hàng năm mang về hàng trăm triệu usd cho đất nước này.

Nếu người dân mua xe và điện thoạt của Vin lắp ráp, nghĩa là đang gián tiếp gây thâm hụt dự trữ ngoại tệ quốc gia, tăng nợ nần và ủng hộ kinh doanh không trí tuệ của ông này!

Trần Lâm
(FB Trần Lâm)

Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2019

LƯƠNG TRI KẺ TRỘM





Thừa tướng xứ ếch vừa bị đánh cắp con Vẹt nổi tiếng nói rất là thông thạo. Ngài rất tức giận ra lệnh hình bộ phải lập tức đổ quân tìm bắt kẻ cắp thu hồi chú Vẹt cưng đem về cho ngài. Lệnh vừa ban ra chưa đầy một giờ thì một tên trộm rách rưới đã mang con Vẹt đến cơ quan hình bộ đầu thú.

Vị quan hình bộ tra hỏi tên trộm :


- Ngươi là tên trộm Vẹt?

- Dạ thưa chính con ạ

- Có đồng phạm hay không?

-Dạ thưa rất may là chỉ có mình con ạ.

- Thế ngươi ăn cắp con Vẹt để làm gì?

- Dạ, để bán kiếm tiền ạ?

- Thế sao ngươi chưa bán?

-Dạ, con không dám đem đi bán ạ?

-Ngươi sợ bị phát hiện à?

- Dạ, không phải ngàn lần không phải ạ?

- Thế con Vẹt này không biết nói à?

- Không ạ, đúng như lời đồn nó nói rất thạo ạ!

- Vậy sao ngươi không bán kiếm tiền xài hết rồi ra đầu thú cũng đâu có muộn.

- Dạ, con biết, phải để cho hình bộ lên kế hoạch điều tra xin kinh phí và được phê duyệt rồi mới lộ diện để bị bắt cho hình bộ lập công.

- Ai cha, ngươi đúng là tên trộm chuyên nghiệp rồi.

- Da, thưa vâng, tuy con trôm cắp chuyên nghiệp nhưng cũng còn chút lương tri ạ?

- Ai cha, ngươi lại láo lếu à? Lương tri gì ở đây chứ?

- Dạ, bởi con còn có chút lương tâm nên nghe con vẹt nói con vội ra đầu thú chịu tội ạ

-Ai cha, con Vẹt này tài thế à? Vậy nó nó gì với ngươi?
-Dạ, Đờ Bờ Cờ Lờ ạ!

-À, Đồng bằng sông Cửu Long chứ gì. Con Vẹt này đúng là của Thừa tướng rồi. Ngài đã từng Đờ Bờ Cờ Lờ trước hội nghị bá quan văn võ. Thế nó còn nói gì?

-Dạ,nó bảo không đến thăm quê hương con thì chết phải hối tiếc ạ!
-Ái chà, thế quê mày ở đâu?

- Dạ, con sanh ra trong khám Chí Hòa ạ

- Thế mày đúng là trộm ba đời rồi.

-Dạ không ạ. Mới hai đời thôi ạ.Đời con không dám lấy vợ sanh

- Tại sao?

- Cũng nhờ con Vẹt này ạ !

-A, con Vẹt này tài thế à?

- Dạ, nó đúng là thiên tài ạ. Chỉ trong có nửa giờ nó nói không sót một chữ về bài phát biểu chỉ đạo " cải cách giáo dục" của Thừa tướng ạ?

- ???
-Dạ, Ngài thấy đấy ,dù sao con cũng còn chút lương tri ạ. Xin Ngài cho con được hưởng chính sách khoan hồng ạ
-...

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2019

Ba câu hỏi cốt lõi và lạ mà ông Nguyễn Phú Trọng đặt ra tại Hội nghị 10


Tác giả: theo FB Trần Đình Thu
1. Có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước hay không?
2. Đổi mới chính trị có phải là đổi mới chế độ chính trị không?
3. Có cần phải sửa đổi điều lệ của Đảng CSVN hay không?
Ba câu hỏi cốt lõi này vừa bình thường vừa không bình thường.
Bình thường ở chỗ không thấy lóe lên cái gì trong câu chữ nhưng không bình thường ở chỗ có những câu hỏi chưa bao giờ hỏi (TĐT)
KD: Có thể nói, đây là một trong số những stt đàu tiên trên mạng FB bình về bài khai mạc của ông Tổng- Chủ tại Hội nghị 10. Tác giả TĐT tóm tắt thành 3 nội dung, vừa mới vừa không mới.
  • Không mới vì nó là những đề tài lâu nay đã được đưa ra trong XH ở chỗ này, chỗ khác, của nhiều trí thức, nhà KH, những ai ai quan tâm tới vận mệnh đất nước- tụt hậu và quá nhiều bất an trước đòi hỏi của sự phát triển trong thế giới hiện đại. Nhưng khá mới, vì nó chính thức được đưa ra trong lời khai mạc tại HN 10 lần này của quan chức lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và Nhà nước. Có những vấn đề thuộc loại cấm kỵ hoặc khá nhạy cảm, rất dễ bị quy chụp. Ví thứ vấn đề thứ 2!
  • Không mới vì nếu quan sát các QG văn minh, phát triển, thì kinh tế thị trường phát triển bao giờ cũng phải tương đồng, tương ứng, tương thích với một thể chế chính trị mà ở đó, không thể tồn tại tư duy kinh tế lỗi thời Xin- cho, ở đó Pháp luật độc lập, thượng tôn. Nhưng mới ở chỗ Kinh tế thị trường VN luôn có cái đuôi định hướng XHCN, tương đồng, tương thích, tương ứng với sự lãnh đạo toàn diện và duy nhất của Đảng CS (kể cả pháp luật cũng nằm dưới chiếu  😀  ). Nhưng tư duy kinh tế Xin- cho của nước Việt đang ngày càng tỏ ra lỗi thời, và là vật cản sự phát triển lành mạnh cho một nền kinh tế. Thì nếu Kinh tế Nhà nước không còn tồn tại (hoặc tồn tại một phần rất nhỏ), thì tương ứng với nó là một thể chế chính trị … ra răng? 
  • Dĩ nhiên, nếu Kinh tế nhà nước thay đổi, kéo theo sự tương ứng của một thể chế, hài hòa và nâng đỡ nhau, thì việc sửa Điều lệ Đảng CS chỉ là hệ quả tiếp theo của hai nội dung cốt yếu nhất
Nhưng vấn đề đặt ra, liệu những ý kiến thẳng thắn, và có phần gai góc do sự khác biệt về nhận thức, tư duy thời cuộc, có bị “chụp” cho những chiếc mũ cũng đầy… gai sắc hay không?  😀  😀  😀
Trí tuệ và sự sáng tạo chỉ có thể thăng hoa trên nền tảng một môi trường XH thực sự dân chủ, vì lợi ích QG. Và ngược lại, nó sẽ lụi tàn trên nền tảng một đời sống XH những toan định kiến, tư duy áp đặt kiểu “kẻ mạnh là chân lý”
Vậy thôi. Hãy đợi ở thì… sắp đến!  😀  😀  😀
————— 
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, bộ vét
Trong hình ảnh có thể có: 1 ngườiTrong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang cười, mọi người đang đứng và bộ vét
Ông Trọng xuất hiện bằng xương bằng thịt tại Hội nghị 10, không như thông tin “việc tập đi vẫn còn khó khăn, lưỡi cứng chưa nói được” của 1 facebooker nổi tiếng, đặt ra 3 câu hỏi mang tính gợi mở:
1. Có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước hay không?
2. Đổi mới chính trị có phải là đổi mới chế độ chính trị không?
3. Có cần phải sửa đổi điều lệ của Đảng CSVN hay không?
Ba câu hỏi cốt lõi này vừa bình thường vừa không bình thường.
Bình thường ở chỗ không thấy lóe lên cái gì trong câu chữ nhưng không bình thường ở chỗ có những câu hỏi chưa bao giờ hỏi.
Câu hỏi có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước không là câu hỏi chưa bao giờ các lãnh đạo Đảng CSVN đặt ra kể từ đổi mới đến nay. Đây là câu hỏi cốt lõi cho định hướng kinh tế, giữ cái đuôi “định hướng XHCN” gây tai họa lâu nay hay bỏ đi. Mặc dầu ông Trọng có rào đón (dĩ nhiên là phải rào đón) rằng “Kinh tế nhà nước có mặt tốt, nhưng vừa qua có rất nhiều thất thoát. Nhưng từ chỗ thất thoát như thế mà dẫn đến coi nhẹ kinh tế nhà nước, chuyển tất cả sang tư nhân thì có đúng không?” nhưng ông không hẳn kết luận trong câu chữ là giữ lại cái đuôi, bởi vì ông nói tiếp “Tôi nói ví dụ những vấn đề như vậy có cần bàn không? Lần này tôi nói mang tầm chiến lược là như thế.”.
Ở thời điểm này, gợi mở là một tiến bộ vì nó còn quá sớm để kết luận. Quá sớm là vì tình hình quốc tế chưa hoàn toàn thuận lợi, Mỹ và Trung đang giằng co, ông Trọng chưa đi Mỹ, nhận thức của 4 triệu đảng viên còn chưa thông suốt hoàn toàn, hàng ngũ lãnh đạo vẫn còn những kẻ muốn giữ cái đuôi để dễ bề kiếm chác. Nhưng xu thế lịch sử phải đưa tới chỗ bỏ cái đuôi này. Vậy thì trong hội nghị đầu tiên của kỳ đại hội này, chỉ cần gợi mở là đủ vì còn nhiều hội nghị khác cho tới trước khi đại hội.
Câu hỏi thứ 2 đã từng đặt ra nhưng cũng chưa từng đặt ra. Đổi mới đảng thì đã từng đặt ra nhưng đổi mới chính trị dường như chưa từng đặt ra.
Cái mới là câu hỏi “Đổi mới chính trị có phải là đổi mới chế độ chính trị không?”.
Mặc dầu liền sau đó ông Trọng vội “cố thủ” trở lại, bảo là chỉ “đổi mới hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy, nhân lực, phương thức, lề lối làm việc…” nhưng ông Trọng cũng đã nói ra cái điều mà thời cuộc đặt cho ông: “Đổi mới chế độ chính trị”.
Đổi mới chế độ chính trị là không còn đảng CSVN lãnh đạo toàn diện mà sẽ có nhiều đảng cùng tham gia lãnh đạo, đó là mong muốn của thời đại nhưng cũng như đổi mới kinh tế, điều này còn quá sớm ở hội nghị 10 và ông Trọng đã khẳng định là không có chuyện đổi mới này. Nhưng, tôi đánh giá cao câu hỏi mang tính chất mà những người lãnh đạo cộng sản như ông Trọng coi là cấm kị ấy.
Hỏi một câu hỏi cấm kị với vị trí ông Trọng là một tiến bộ lớn.
Câu hỏi cuối cùng là có sửa điều lệ đảng của đảng ông ấy hay không.
Câu hỏi này ông Trọng đặt ra đầu tiên trong bài diễn văn nhưng tôi đặt cuối vì nó phụ thuộc 2 câu hỏi trên. Nếu có thay đổi về kinh tế và chính trị thì mới sửa điều lệ đảng CSVN còn nếu không thì không sửa.
Tôi còn đặc biệt chú ý đến đoạn này, mang tính khái quát cao:
“Vậy chúng ta định hướng, hình dung ra nước ta vào năm 2030 sẽ là thế nào? Đến năm 2045, nước ta sẽ như thế nào?”.
Ông Trọng trả lời cho câu hỏi trên:
“Đây là những vấn đề rất lớn, vô cùng khó”.
Hình dung Việt Nam đến 2045 khó thì đúng, vì nó quá xa, nhưng tới 2030, chỉ có 11 năm nhưng ông than khó, thì đó là tín hiệu cho thấy ông không thể chắc được điều gì.
Nó hoàn toàn khác với giọng điệu từng nghe từng thấy của các lãnh đạo đảng CSVN xưa nay “Chúng ta phải kiên trì trên con đường tiến lên CNXH và nhất định chúng ta sẽ thắng lợi”.
Trong một bài phát biểu ngắn chỉ 2.600 từ, ông Trọng 2 lần than thở không thể biết Việt Nam 10 năm sau như thế nào:
“Báo cáo trình ra Đại hội không giống như báo cáo thành tích hàng năm, mà cũng phải phân tích quá trình của địa phương, đơn vị mình hiện tại và sắp tới hình dung xem địa phương ta đến năm 2030 sẽ ra sao, đến năm 2045 sẽ là như thế nào.
Đây là việc khó lắm, không dễ, cho nên các đồng chí phải nghiên cứu, chuẩn bị hết sức công phu”.
Bài phát biểu của ông Trọng thật ra có rất nhiều thông điệp, không phải là một bài phát biểu “một lần như mọi lần” mà nhiều người đang phàn nàn trên facebook của họ.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2019

Các “mê lộ” tấn công của Trung Quốc




Tác giả: Tô Văn Trường

Dùng các thủ đoạn mua chuộc các quan chức, lợi dụng “kẽ hở” của chủ trương đầu tư để thuê dài hạn đến 50 năm các khu vực trọng yếu về kinh tế và quốc phòng từ rừng núi, đến vùng ven biển của đất nước. Hậu họa đã nhãn tiền chẳng cần chờ đến 50 năm sau để con cháu lên án cha ông chết vì tham và ngu dại!… (TVT)

Phân tích các dữ kiện lịch sử cho thấy bành trướng Đại Hán là tư tưởng xuyên suốt các triều đại từ thời phong kiến đến Trung Hoa hiện đại ngày nay. Việt Nam là địa bàn cửa ngõ để triển khai sự bành trướng xuống khu vực Đông Nam Á nhưng trong suốt hàng nghìn năm các triều đại phong kiến tiến hành nhiều cuộc viễn chinh nhưng không chinh phục được, đó là lịch sử vẻ vang tự hào của các triều đại phong kiến Việt Nam.

Từ giai đoạn sau thắng lợi cách mạng 1949 lập nên nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, do tác động của các lực lượng và xu thế chính trị quốc tế, chiến lược bành trướng Trung Hoa có nhu cầu mạnh mẽ hơn, đồng thời có những thay đổi lớn về tư duy cũng như chính sách triển khai thực hiện rất tinh vi uyển chuyển được xây dựng trong ngắn hạn hay dài hạn tùy tình huống mà đối phương rất khó nhận biết, hoặc nhận biết được thì đã muộn không kịp ứng phó tương tự “trận đồ bát quái” Khổng Minh lập ra thời Tam Quốc

Ở giai đoạn này, Việt Nam lại càng đóng một vai trò quan trọng hơn trước đây do cả vị trí địa lý cũng như vị thế chính trị. Nếu chi phối được Việt Nam theo ý đồ Trung Quốc thì chiến lược bành trướng Trung Hoa xuống phía nam và làm chủ Biển Đông sẽ hiện thực được nhanh chóng nhất. Đây cũng chính là sự lo ngại nhất của các nước Đông Nam Á và lãnh đạo an ninh thế giới.

Cách đây hơn 5 năm, tôi viết bài “Mê lộ tám hướng tấn công của Trung Quốc”, đến hôm nay nếu có bổ sung và cập nhật thì hợp lý nhất đó là kiểm điểm lại trong các năm qua Trung Quốc đã tiến thêm như thế nào một cách cụ thể trên cả 8 hướng đó.

Còn ngoài 8 hướng phá Việt Nam ra, có thể thấy thêm gì nữa không? Đó là Trung Quốc đã và tiếp tục chia rẽ ASEAN, mua chuộc, ép buộc và đi đêm với các thế lực quốc tế nhằm cô lập Việt Nam về mọi mặt khiến tiếng nói của Việt Nam trở nên lạc lõng và yếu ớt khi có biến cố bất lợi trên Biển Đông hoặc các tranh chấp khác với Trung Quốc xảy ra.

Cũng nên “kiểm toán” lại xem chính Việt Nam đã ngu ngơ hay vô tình tiếp tay thực hiện các mũi tấn công đó trong thời gian qua ra sao. Có lẽ rõ ràng nhất là chính quyền đang đánh mất lòng tin của người dân khi nhiều hoạt động yêu nước chống ngoại xâm lại bị đàn áp, cố tình hiểu sai lệch, bóp méo và chụp cho cái mũ của con ngáo ộp Việt Tân.

Tám hướng cũng đã là quá đủ để Trung Quốc có thể hạ gục đối thủ nhỏ bé như Việt Nam. Hướng thứ tám là hướng thâm độc và là hướng quyết định thành công của mọi hướng khác.

Gần đây, ngừời dân cả nước quan tâm, phản đối luật 3 đặc khu kinh tế và dự án đường cao tốc Bắc Nam (do một tập đoàn Trung Quốc đề xuất) vì thấy rõ bàn tay “lông lá” của Tầu và bài học về dự án đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông “tiền mất tật mang” đã nhãn tiền.

” Dùng người Việt để trị người Việt và đồng hóa người Việt …” xưa nay nhiều kẻ ngoại xâm đã làm, kể cả Tàu trước đây. Cuối cùng, hướng này vẫn cứ thất bại thảm hại. Có lẽ vận nước mình còn lớn lắm.

Sách lược “lấy bất biến ứng vạn biến “cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh” cứu nước khi nước còn chưa nguy ” mới là thượng sách. Chỉ cần chống lại hướng thứ tám bằng nội lực vươn lên của chính mình, nỗ lực vượt lên chính mình để cải tổ thể chế và hòa giải dân tộc thì hướng thứ tám của Tàu sẽ trở nên vô dụng.

Đọc Tam Quốc, trong lịch sử trận đồ bát quái do Khổng Minh sáng tạo ra chỉ có hai người có thể phá nổi: Người thứ nhất là Hoàng Thừa Ngạn (bố vợ Khổng Minh ) và người thứ hai là Khương Duy ( học trò và là người kế tục sự nghiệp của Khổng Minh). Tướng Ngô là Lục Tốn nếu không có Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường chắc chắn sẽ chết tại trận đồ Bát Quái này của Khổng Minh.

Từ lâu, các thế hệ cầm quyền bành trướng Trung Hoa đã bày trận Bát quái này với người “đồng chí” Việt Nam. Ai sẽ là người Việt Nam có đủ tài năng, trí tuệ và bản lãnh phá trận này đây?.

Người ta, thường vẫn hay dùng hình ảnh của tảng băng nổi trên mặt biển để nói về phần NỔI (ý là phần lộ diện : nhỏ) và phần CHÌM (ý là phần tiềm tàng : lớn) –đó là theo lý thông thường , nhưng … ở ta thì cái tảng băng (cũng hình chóp) đó lại … lộn ngược lềnh bềnh nên rất khó đảo lại nhưng … lại rất dễ tan, mau tan chảy! Cái hệ thống “lộn tùng phèo” này có vô số thứ để bàn theo kiểu … “hội đồng chuột” (bàn cách treo chuông vào cổ mèo) nếu chưa đảo ngược lại được!

Trong phạm vi bài viết này, chúng ta cùng nhau điểm lại việc Trung Quốc dã tâm tấn công một cách có hệ thống như “mê lộ” tám hướng vào nước ta .

Hướng thứ nhất

Bằng mọi cách ngăn chặn mọi cơ hội Việt Nam độc lập tiếp xúc với văn minh thế giới, luôn tạo ra sự phụ thuộc vào Trung Quốc dưới chiêu bài phe XHCN. Ngay trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã dùng viện trợ quân sự và kinh tế để VN thắng Pháp ở mức loại bỏ ảnh hưởng của Pháp, không để Mỹ tiếp xúc với VN mà dùng biện pháp hòa bình nửa vời chia đôi 2 miền Bắc – Nam VN thực chất là gây tình trạng dẫn đến đối đầu Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ (không chỉ 2 miền VN mà cả nước Mỹ cũng bị rơi vào “bẫy” này).

Khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc (trong khi Mỹ đang lúng túng, Trung Quốc chiếm luôn Hoàng Sa). Việt Nam thống nhất (thực chất không theo mong muốn của Trung Quốc) mặc dù Mỹ tích cực vận động bình thường hóa quan hệ 2 nước giúp VN phát triển mong muốn của thế giới và Đông Nam Á, nhưng Trung Quốc tiếp tục xúi giục (bẫy tiếp) VN thực hiện ý đồ/ tham vọng thiết lập Liên Bang Đông Dương, tiếp theo là đem quân sang Campuchia thực chất là các bẫy để thế giới nhận thấy VN rất hiếu chiến và mưu đồ bành trướng khó hợp tác!

Đến 1979 gây chiến tranh biên giới nói là cho VN, nhưng thực chất là cho cả thế giới bài học: “Chỉ Trung Quốc có thể dạy được VN mà thôi”, lãnh đạo CS VN không muốn sụp đổ hãy đến Thành Đô.

Từ đó đến nay, VN cứ từ bẫy này sang bẫy khác trong cái vòng luẩn quẩn hay “mê lộ” này, lãnh đạo VN chưa dám dù chỉ nghĩ tới thoát bẫy, đó và chỉ là: độc lập tiếp thu văn minh nhân loại, mà lịch sử VN đã ghi nhận người khởi xướng đúng đắn (nhà trí thức Phan Châu Trinh) hơn 100 năm trước mà chưa thực hiện: “Khai dân trí, hậu dân túy, vị dân sinh” chứ không phải cố nứu và phát triển các chương trình “câu giờ với lịch sử”: “đổi toàn vẹn lãnh thổ lấy tình hữu nghị viển vông”! Ngoài các hướng của mê lộ sau đây, theo thời gian nếu VN vẫn không có được tầng lớp tinh hoa, thì cái mê lộ này sẽ ngày càng phát triển có khi còn ngoài mong đợi của nhà cầm quyền Trung Quốc.

Sáu tỉnh biên giới phía bắc của nước ta bị Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn chiếm đoạt “gặm nhấm”. Ngày nay, các địa danh Mục Nam Quan, Thác Bản Giốc vv…chỉ còn là hoài niệm trong sách giáo khoa và những câu ca dao của dân Việt. Chúng ta phải mất 6 năm điều đình, nhún nhường, phân định để xây được hơn 1500 cọc mốc bê tông biên giới Việt Trung cao 10-15 m, sâu trung bình 20 m nhưng vẫn chưa phải là bình yên vì đổ cho dân tại chỗ có “quậy phá” chỉ vì cho rằng mồ mả của người dân Trung Quốc vẫn còn nằm trên lãnh thổ Việt Nam!

Hướng thứ hai

Dùng các thủ đoạn mua chuộc các quan chức, lợi dụng “kẽ hở” của chủ trương đầu tư để thuê dài hạn đến 50 năm các khu vực trọng yếu về kinh tế và quốc phòng từ rừng núi, đến vùng ven biển của đất nước. Hậu họa đã nhãn tiền chẳng cần chờ đến 50 năm sau để con cháu lên án cha ông chết vì tham và ngu dại!

Hướng thứ ba

Phía Tây- Nam, ‘phiên dậu” của nước ta ở Campuchia và Lào nhiều vùng đất rộng lớn đã được Trung Quốc đầu tư, mua bán. Trước đây, các du học sinh người Lào còn thích sang Việt Nam học tập nhưng ngày nay địa điểm đến của họ là Trung Quốc vì học bổng cao gấp 30 lần so với Việt Nam, lại còn được cho về phép vv…Sau tầng lớp cán bộ trung kiên gắn bó với Việt Nam già, mất đi dễ hiểu “đòn xoay trục” của Tầu như thế nào với tầng lớp kế cận ở các nước phía Tây Nam của nước ta.

Hướng thứ tư

Việt Nam là một trong những quốc gia đang chịu nhiều tác động bởi thiên tai như: bão, lũ lụt, lũ ống, lũ quét, xói lở bờ sông, bờ biển, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn và hoang mạc hóa (gần 100% là liên quan đến nước). Hằng năm, nước ta chịu nhiều tác động bất lợi của thiên tai, làm thiệt hại về người và của vô cùng to lớn. Đặc biệt trong những năm qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước, gây ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, các cơ sở hạ tầng về kinh tế, văn hoá, xã hội, tác động xấu đến môi trường. Trong 20 năm gần đây (1994 – 2013) ở nước ta,thiên tai (chỉ tính riêng bão, lũ lụt, sạt lở đất và lũ quét) đã làm chết và mất tích gần 13.000 người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5% GDP/năm (đó là chưa nói đến thiệt hại kinh tế, môi trường do ngập úng thường xuyên ở các thành phố).

Hai nguồn nước chính tác động đén Việt Nam là sông Hồng và sông Mekong đều bắt nguồn từ Trung Quốc. Quản lý nước là phải quản lý lưu vực sông nhưng Trung Quốc xây dựng tràn lan các đập thủy điện ở thượng nguồn bất chấp đến các hậu qủa phải hứng chịu của Việt Nam ở hạ lưu. Tệ hơn, họ còn không cho ta biết quy trình vận hành các hồ chứa thủy điện phía thượng lưu, đây là nguy cơ không nhỏ về “chiến tranh nguồn nước” trong tương lai.

Hướng thứ năm

Hàng hóa từ Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam qua các con đường từ nhập khẩu, tiểu ngạch đến buôn lậu. Chất lượng các sản phẩm qua những hàng hóa đã kiểm nghiệm hầu hết đều vượt mức báo động cho phép, gây tổn hại sức khỏe của nhân dân ta. Người Trung Quốc đi khắp nơi thu mua các sản phẩm không giống ai như lá điều khô, đỉa, móng trâu, hoa thanh long, lá khoai non, thảo quả, cây culi, cây long khỉ vv…giá cao bất thường rồi đồng loạt rút bỏ gây điêu đứng cho bà con nông dân thiếu thông tin, nhẹ dạ , gây bất ổn về an ninh chính trị và trật tự xã hội ở các địa phương.

Phần lớn các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kể cả năng lượng, giao thông đều rơi vào tay Trung Quốc do bỏ giá thầu rẻ, và giỏi “đi đêm”, nhưng lúc thực thi lại đưa công nghệ lạc hậu, thi công kéo dài, dùng đủ phép để đội giá đầu tư so với được duyệt để lại hậu quả “tiền mất – tật mang” cho Việt Nam.

Hướng thứ sáu

Xâm chiếm Hoàng sa của Việt Nam, tự vẽ ra đường lưỡi bò 9 đoạn chiếm khoảng 90% diện tích Biển Đông bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế. Sự kiện giàn khoan HD 981 càng lột tả bộ mặt thật về thủ đoạn trắng trợn, dã tâm của Trung Quốc đối với Việt Nam. Kế hoạch tiếp tục đưa thêm các giàn khoan khác đến Biển Đông chứng tỏ Việt Nam không còn đường lùi, phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Mời xem bài “Phải kiện nhưng kiện cái gì, như thế nào, khi nào?” và bài “Hôn nhân ý thức hệ món quá trớ trêu của số phận” (tác giả Tô Văn Trường).

Hướng thứ bảy

Vịnh Hạ Long đã có đường ranh giới Việt – Trung từ thời người Pháp ông Mac Mohon ký kết với nhà Mãn Thanh. Nhưng thực tế, Trung Quốc cũng tìm cách lấn lướt sang ta đến khoảng 50 km2 và thường xuyên gây khó cho hoạt động của ngư dân Việt Nam vì họ người đông lại có tầu to.

Hướng thứ tám

Đất nước muốn phát triển cần có những người lãnh đạo có phẩm hạnh, trí tuệ và tài năng. Từ lâu, Trung Quốc đã can thiệp vào công tác nhân sự của ta. Thủ đoạn truyền thống của Trung Quốc là “cấy mối thân tình”, mua chuộc bằng mọi cách kể cả hù dọa người yếu bóng vía, tạo nên ân tình từ cấp trung ương đến địa phương. Đối với nhân dân ta không thể mua chuộc được thì họ tuyên truyền thất thiệt gây chia rẽ giữa lãnh đạo Nhà nước và nhân dân. Ngày nay, có thể nói “tai mắt” của Trung Quốc len lỏi khắp nơi, tác động khôn lường đến cả chính trị và kinh tế xã hội của Việt Nam.

Mù mờ

Trong bối cảnh mù mờ, Nhà nước chỉ cho cán bộ và nhân dân biết một phần về những việc làm với tư cách đại diện cho cả một dân tộc, đây là một sự bất công đã kéo dài từ nhiều năm nay. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết những gì cho ông Chu Ân Lai về biển đảo, lãnh hải của Việt Nam năm 1958, một điều mà chỉ những ai chú ý tìm hiểu lắm mới biết! Hội nghị Thành Đô năm 1990 có những nội dung gì, ngoài những điều mà báo chí đã đưa? Nội dung của việc trao khu khai thác bauxite cho Trung Quốc ở Tây Nguyên là gì, trong bao nhiêu năm, nội dung của việc cho thuê rừng phòng hộ ở biên giới Việt-Trung là thế nào? Rất nhiều người Việt Nam không được biết rõ, và khi đọc từng đoạn trong tin tức từ báo chí “lề trái”, người ta không còn biết tin vào đâu nữa!

Tại sao trước kia công an giải tán các đoàn biểu tình chống Trung Quốc bành trướng tại các biển đảo của Việt Nam, bắt, giết ngư dân, thậm chí còn theo dõi, bắt người Việt Nam vô tội chỉ vì đã có những biểu cảm của lòng yêu nước, và gần đây lúc lại nới lỏng. lúc thắt chặt? Vậy thì phải đợi Trung Quốc hung dữ hơn thì dân ta mới được phép phản đối chăng? Tại sao nhiều vị chóp bu của Việt nam hầu như không nói gì trước những sự việc trọng đại như Trung Quốc hạ dàn khoan trái phép HD 981, hay những vụ lộn xộn ở Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản, Thái Bình, Cần Thơ vv…?

Vĩ Thanh

Dân tộc đã có không chỉ các ngoại xâm hiện thực mà ta đã chiến thắng, mà còn ngoại xâm và nội xâm không lộ diện mà ta chưa thắng, nên dân tộc ta vẫn cứ nghèo so với thế giới. Nước nhà đã độc lập nhưng toàn vẹn lãnh thổ thì chưa và nguy cơ ngày càng lớn. Mỗi người dân, đặc biệt là trí thức nghĩ gì?

Đến lúc này, mà người ta vẫn còn gọi nhau là đồng chí. Thực chất chỉ còn là đồng chí “bán phần”, hay là “bán phần đồng chí” như văn phạm Tàu vì chỉ có nửa phần “vận mệnh tương quan” trong 16 chữ vàng là đồng. Chưa có lúc nào người dân và chính quyền lại sống trong ngờ vực như ngày nay vì Nhà nước không minh bạch với dân. Trước hết, Ban chấp hành Trung ương và các vị đại biểu Quốc hội có quyền được biết các ý kiến của từng thành viên Bộ Chính trị và Ban bí thư về quan điểm và các đối sách đối với Trung Quốc.

Phương ngôn có câu im hơi, lặng tiếng là một đức hay. Nếu danh dự bắt buộc phải lên tiếng mà lặng im thì là một sự hèn nhát (La Cordaire). Ta căm ghét thái độ dửng dưng chỉ cần thêm một bước là dẫn tới phản bội và một bước nữa đã là tội ác trước lương tâm (I.V. Bodarev).

Một lần Byron, thi hào Anh sau khi đứng làm mẫu cho người bạn là nhà điêu khắc Torvansen tạc tượng chân dung của mình, bỗng nhiên ông kêu lên : “không, bạn không tạc hình tôi mà là hình hài của một anh chàng yên ổn nào đó! Tôi hoàn toàn không giống bức tượng này !”. Torvansen hỏi lại : “thế, có gì là xấu nếu ta sung sướng ?”.

Khuôn mặt Byron vụt tái đi vì tức giận và ông la lớn : “Torvansen! hạnh phúc và sự yên ổn cũng khác nhau như đá hoa cương và đất sét vậy . Chỉ có những kẻ ngu và những người tâm hồn thấp kém mới tìm kiếm sự yên ổn trong thế kỷ chúng ta . Chẳng nhẽ trên mặt tôi không có nét nào nói lên sự cay đắng, lòng can đảm và nỗi đau khổ của suy tư ?”…

Theo Ts Phạm Gia Minh, Đảng chỉ có được khi đất nước còn, mất nước thì Đảng như cá không có nước. Thật đáng thương và đáng giận cho những ai lú lẫn, không ý thức được rằng, nước trong đó họ bơi đang cạn dần và nóng lên nhanh chóng!

Dù cho kẻ bán nước có “thẻ xanh” nhưng dân nước Việt không bao giờ quên lời dạy của Vua Lê Thánh Tông (1473) : ”Nếu các ngươi đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”.

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2019

Đầu năm nói chuyện ăn Tết theo dương lịch




Từ độ hơn chục năm trở lại đây, năm nào cũng như năm nào, cứ mỗi độ xuân về là chúng ta lại phải chứng kiến một bản nhạc cũ mèm được những cái loa rè của đám trí thức thân phương Tây phát đi phát lại không biết nhàm. Ấy là chuyện Việt Nam ta nên ăn Tết theo Tây lịch để được văn minh, hiệu quả về kinh tế và thoát ảnh hưởng của Trung Quốc.

Lập luận về văn minh là rất nhàm, phương Tây ăn Tết theo dương lịch, phương Đông ăn Tết theo âm lịch, người Hồi giáo hay Do Thái giáo đều nghỉ ngơi theo lịch riêng của họ, đằng nào cũng là văn minh và có bản sắc riêng của cả. Lấy cái chuẩn mực nào để nói cái nào văn minh hơn cái nào, thật là thô thiển hết chỗ nói. Như ông bà ta vẫn nhắn nhủ, ấy là cái đám me Tây nên cứt tây cũng thơm. Phương Tây văn minh hơn hết là tư duy từ thời thuộc địa, các đế quốc phương Tây nhồi vào đầu các nước Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ để dễ bề cai trị. Bây giờ các nước Châu Á độc lập tự do, kinh tế cũng đã khởi sắc, cớ gì ngu dại tin vào điều đó nữa.

Lập luận về hiệu quả kinh tế mới nghe thì xuôi tai nhưng kỳ thực là bịp bợm. Họ nói rằng ăn Tết theo dương lịch để cho đỡ gián đoạn việc sản xuất, bán hàng cho phương Tây. Điều này là vô nghĩa, thực tiễn công nghiệp hiện đại cho thấy điều đó được xử lý rất dễ dàng về mặt kỹ thuật, tức là sản lượng hụt đi do nghỉ lễ thì sẽ được làm bù trước đó hoặc sau đó. Bên cạnh đó vẫn còn một khía cạnh nữa mà các nhà giả trí thức bịp bợm của chúng ta lờ tịt đi, ấy là chuyện Việt Nam hiện giờ xuất khẩu đi khắp thế giới chứ không phải mỗi phương Tây, trong đó Trung Quốc cũng là một bạn hàng lớn. Nếu bây giờ lấy cái lập luận về hiệu quả kinh tế đó áp vào thì những người bán hàng cho Trung Quốc sẽ đòi phải ăn Tết theo lịch Trung Quốc, những người bán hàng cho Ấn Độ sẽ đòi ăn Tết theo lịch Ấn Độ... vậy thì sẽ phải nghe ai. Nếu nghe một người thì những người khác sẽ hỏi lại rằng tại sao tôi phải hy sinh lợi nhuận của mình cho anh kia, anh có chia cho tôi đồng nào không? Thế đấy, những chuyện về kinh tế này chả đi đến đâu hết. Lại còn có một chuyện nữa là người ta kêu ca tết âm với tết dương gần nhau nên người lao động có tâm lý ăn chơi từ tết dương đến tết âm rồi chơi cả tháng giêng, chuyện này cũng vớ vẩn nốt. Thực tế tháng trước Tết âm lịch là tháng làm hàng bù cho kỳ nghỉ Tết, hầu hết các doanh nghiệp trước Tết đều tăng ca, công nhân thì tích cực vì có thêm lương thưởng. Sau Tết thì hoạt động mua sắm tiêu dùng giảm đi, do đã chi tiêu trước Tết, do vậy các doanh nghiệp đều có sản lượng thấp sau Tết, vì thế người lao động có nhiều thời gian rảnh rang để đi lễ hội hơn. Một ví dụ điển hình là ngành lắp ráp ô tô, trước Tết, hầu hết các nhà máy lắp ráp ô tô đều chạy hết công suất, làm việc 3 ca/ngày, sản lượng ô tô bán ra các tháng trước Tết cực lớn. Tháng sau Tết thì là thảm họa của các đại lý bán xe vì ai mua xe được đã mua từ trước Tết, sau Tết họ chạy đi chơi lễ hội, không mấy ai đi mua xe cả. Các trí giả của chúng ta khi nói về hiệu quả kinh tế cũng lờ tịt đi một khía cạnh thứ ba, họ giả định rằng sự thống trị về thương mại quốc tế thì sẽ thống trị về văn hóa, tức là giờ chúng ta bán hàng cho phương Tây thì phải ăn Tết theo dương lịch cho nó toàn cầu hóa. Câu hỏi ngược lại: Nếu Trung Quốc thống trị thương mại thế giới thì Việt Nam và cả phương Tây sẽ phải ăn Tết theo lịch Trung Quốc? Đến đây thì các bạn hẳn đã biết câu trả lời, các trí giả của chúng ta sẽ tự vả vào miệng họ mà khăng khăng nói rằng, kinh tế có mạnh nhưng Trung Quốc vẫn kém văn minh, không nên theo Trung Quốc. Thực tế cho thấy các nước phương Tây giờ đây cũng đua nhau tổ chức lễ tết âm lịch của Trung Quốc để mong phát tài.

Cuối cùng, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc là chuyện hài hước nhất tôi được nghe trong đời mình. Người Việt giờ ra đường đều mặc áo phông, quần jeans, uống cafe kiểu phương Tây, lúc cần lịch sự thì mặc veston, nói tiếng Anh ào ào trong làm ăn, đâu có thứ gì của Trung Quốc mà kêu ảnh hưởng. Việc buôn bán làm ăn với Trung Quốc của Việt Nam cũng như bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Chuyện buôn bán không phải là ảnh hưởng hay phải thoát ảnh hưởng gì hết. Về mặt chính trị thì Việt Nam đã từng bước ký hiệp định phân chia biên giới rõ ràng với Trung Quốc để khẳng định sự độc lập của mình, chỉ có một phần tranh chấp trên những đảo ngoài khơi, nhưng chuyện tranh chấp đó là bình thường giữa các quốc gia ở gần nhau và Việt Nam không chỉ có tranh chấp duy nhất với Trung Quốc, còn có những nước khác như Malaysia, Đài Loan, Philippines. Nếu có đòi lại đảo thì đòi mấy nước kia chắc chắn dễ hơn đòi Trung Quốc, nhưng các trí giả hậm hực của chúng ta thường lờ tịt điều đó đi, họ chỉ chĩa mũi nhọn vào Trung Quốc, tránh phải động tới các đồng minh của Mỹ.

Nhật Bản quá khứ và hiện tại

Người ta thường ca ngợi rằng Nhật Bản bỏ âm lịch theo dương lịch nên sau 100 năm đã trở thành giàu thứ hai thế giới nhưng người ta quên mất rằng Trung Quốc chả cần bỏ cái gì, chỉ cần 40 năm đã thành giàu thứ hai thế giới và đang trên đà trở thành giàu nhất thế giới.

Người Nhật bỏ âm lịch theo dương lịch vào năm 1873, nhưng họ giàu lên là nhờ quá trình tư bản hóa thành công giai đoạn sau Thế Chiến Thứ 2, chứ không phải việc bỏ âm lịch. Giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản mặc dù hùng mạnh nhưng chỉ là một đế quốc nhỏ ở Phương Đông. Sau Thế Chiến Thứ Hai, khi nước Nhật thua trận và trở thành thị trường của Mỹ và phương Tây thì mới nhanh chóng phất lên, nhưng cái giá phải trả là quá đắt. Việc nói Nhật Bản giàu lên nhờ bỏ âm lịch là tào lao.

Sau hơn một thế kỷ ăn Tết theo dương lịch thì người Nhật Bản lại đang muốn khôi phục lại bản sắc của mình. Họ muốn khôi phục Tết theo âm lịch.

Một vị công sứ Nhật Bản đã nói rõ rằng:

"Nhật Bản đã bỏ âm lịch để sử dụng dương lịch vì những đòi hỏi của nền kinh tế khi đó. Nhưng như tôi đã nói, Nhật Bản lẽ ra vẫn có thể giữ Tết Nguyên đán như một nét văn hóa cổ truyền và là sợi dây liên kết cộng đồng. Chúng ta đang sống trong một xã hội toàn cầu hóa. Điều đó tạo ra một xã hội mở, nhưng mặt khác nó khiến con người mất đi bản sắc, sự nhận diện "chúng ta là ai?".
Đây là một vấn đề lớn, thậm chí về khía cạnh an ninh quốc gia. Một quốc gia có thể có trong tay những máy bay chiến đấu hiện đại nhất, tinh xảo nhất, nhưng nếu những người điều khiển máy bay không có ý chí mạnh mẽ để bảo vệ chủ quyền quốc gia thì các máy bay hiện đại ấy chẳng có tác dụng gì.
Bên cạnh đó, con người chỉ có sức mạnh khi họ đoàn kết và cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng để đoàn kết mọi người. Đây là lý do nhiều người Nhật Bản muốn khôi phục lễ hội đón năm mới cổ truyền, với mong muốn giúp làm tăng sức mạnh cộng đồng".
Lý do của Nhật Bản rất rõ ràng, họ muốn tạo ra một bản sắc văn hóa riêng với sức kết nối cộng đồng mạnh mẽ để gia tăng sức cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hóa.

Hàn Quốc khôi phục Tết âm lịch

Người ta hay nhắc đến Nhật Bản như là hình mẫu bỏ âm lịch để giàu có nhưng lại quên mất nước láng giềng Hàn Quốc đã nỗ lực khôi phục lại Tết âm lịch sau gần 100 năm bị từ bỏ.

Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, sáp nhập Triều Tiên vào Nhật Bản và buộc người Triều Tiên phải sử dụng dương lịch như họ, điều này có nghĩa là Triều Tiên cũng phải ăn Tết theo dương lịch. Thế nên đối với người Triều Tiên khi đó, Tết theo dương lịch là biểu tượng của sự ô nhục, của sự mất nước. Suốt thời kỳ bị Nhật Bản cai trị, TriềuTiên cũng không vì ăn Tết theo dương lịch mà giàu lên được.

Sau đó Triều Tiên bị tách thành hai miền Bắc-Nam, miền Nam được gọi là Hàn Quốc. Nắm chính quyền ở Hàn Quốc là cựu các sĩ quan quân đội đánh thuê cho Nhật, họ vẫn làm ăn với Nhật Bản và áp dụng dương lịch cho đến tận năm 1985. Khi đó, người Hàn Quốc đấu tranh dữ dội để bỏ Tết theo dương lịch và khôi phục âm lịch, điều này không chỉ là yếu tố văn hóa mà nó còn phản ánh sự trỗi dậy của Hàn Quốc, họ muốn có bản sắc riêng và đoạn tuyệt với cái dấu hiệu ô nhục của thời mất nước. Vào năm 1989, Hàn Quốc chính thức khôi phục Tết âm lịch. Cùng với việc Tết âm lịch được khôi phục, hàng loạt các nghi lễ và phong tục truyền thống cũng được khôi phục, điều này đã góp phần tạo ra một Hàn Quốc có bản sắc văn hóa độc đáo và gia tăng các mối liên kết cộng đồng.

Hàn Quốc đã đi ngược dòng, thậm chí với sự giàu có của mình, các nước phương Tây cũng phải nở nụ cười cầu tài, chúc người Hàn Quốc ăn Tết âm lịch vui vẻ hàng năm. Giờ đây có ai dám nói Hàn Quốc lạc điệu với thế giới, âm lịch hay bị Hán hóa không?


Việt Nam trên con đường đi tới

Việc kêu gào đòi bỏ âm lịch để ăn Tết theo dương lịch ở Việt Nam thể hiện rõ một mặt là sự trỗi dậy của tầng lớp tư sản, họ muốn phá vỡ các mối liên kết cộng đồng để thay nó bằng quan hệ tiền-hàng lạnh lùng, bởi vì sự thống trị của họ dựa vào quan hệ đó, mặt khác thể hiện sự yếu thế của họ, họ không có khả năng dựa vào những điều kiện văn hóa xã hội sẵn có của Việt Nam mà phải dựa vào sức mạnh của tư bản quốc tế, thế nên họ muốn tất cả mọi thứ phải dập khuôn theo phương Tây. Mặc dù những lập luận của đám trí giả trong vấn đề này rất tào lao và dễ dàng bị bẻ gãy, họ giống như những con rối mua vui cho đám báo lá cải mỗi độ xuân về, song không vì vậy mà chúng ta quên mất động cơ thật sự ẩn giấu sau việc này.

Nếu ai đó hỏi tôi về việc ăn Tết theo dương lịch thì tôi sẽ trả lời như thế này: Khi nào Việt Nam đủ giàu, cả thế giới sẽ chung vui Tết âm lịch với Việt Nam.