Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

Chưa hiểu hết cha ông thì đừng tính chuyện “soán ngôi” thơ






Nguyễn Trọng Bình







1. Thật buồn cười khi biết rằng hiện nay người ta đem chuyện “thơ đương đại khó hay độc giả quá khắt khe” với nó ra mà bàn tán rôm rả. Sao lại đặt vấn đề như thế nhỉ? Không phải mọi người luôn bảo nhau rằng dù muốn dù không; dù “thơ khó hay độc giả khó” gì thì “thơ vẫn sống”, vẫn “tồn tại” đó sao? Thế thì bàn chuyện này cuối cùng sẽ mang lại kết quả gì? Lẽ ra, ở chỗ này nên luận xem thơ đương đại đang “sống” ra sao, “sống” như như thế nào; “sống” với bộ phận công chúng nào; “sống” tới bao lâu; và những người làm ra nó có thể cùng “sống” với nó để lưu danh hậu thế như cha ông thời trước không? Hay là thật sự nó đang “chết trong lúc sống” như cách nói của Nam Cao trong tiểu thuyết nổi tiếng Sống mòn viết cách đây hơn nửa thế kỷ?… Những vấn đề như thế này lẽ ra phải được “mổ xẻ” thì có khi là “hợp tình hợp cảnh” hơn chăng?
Chưa hết, càng buồn cười hơn nữa khi có không ít những người làm thơ đương đại hiện nay còn “úp mở” rằng đã đến lúc làm một cuộc “thay máu” cho thơ ca kiểu như các nhà thơ Mới thế hệ 1932-1942 đã từng làm trong lịch sử thơ ca dân tộc nữa chứ? Làm gì mà phải thống thiết đến mức ảo tưởng và ngô nghê khi van nài rằng:“nên chăng độc giả hãy cho thơ đương đại cơ hội được đọc, được hiểu như thơ Mới, tới lúc đó thơ đương đại không còn khó nữa”? [1]. Trời ạ, có ai cấm cản chuyện này bao giờ đâu mà bảo “cho hay không cho”. Tuy thế, nếu chỉ dẫn ra vài trường hợp thơ đương đại viết theo lối rất tự phát hiện nay để so sánh với cả một trào lưu thơ Mới rồi yêu cầu công chúng “ban phát cho một cơ hội” thì rõ ràng chưa phải lúc nếu không muốn nói là quá ảo tưởng?!
2. Đến nay phong trào thơ Mới 1932-1942 đã trở thành quá khứ, trở thành truyền thống thơ ca của dân tộc. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết rằng để làm nên “một thời đại trong thi ca vừa đúng mười năm chẵn” này (theo cách nói của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam) thì cha ông ta đã mất đến 1000 năm để “chuẩn bị” (nếu làm tròn những con số kể từ khi chúng ta có nền văn học viết (thế kỷ X) đến thời thơ Mới – thế kỷ XX). Trong cái nhìn so sánh, nếu lấy mốc 1945 đến nay thì với khoảng trên dưới 70 năm thử hỏi những người làm thơ đương đại hiện nay đã có những bước “chuẩn bị” gì và chuẩn bị như thế nào mà đòi làm cuộc “nổi loạn” nhằm “tống tiễn thơ Mới” như kiểu các nhà thơ Mới trước đây đã tống tiễn thơ Cũ (thơ ca trung đại)? Hay nói cách khác, trong khoảng hơn nửa thế kỷ này, chúng ta đã hiểu cha ông ta chưa, hiểu như thế nào, hiểu đến mức nào… mà đòi làm cuộc “thay máu”?
Công bằng mà nói thì chúng ta có hiểu nhưng vẫn chưa hiểu hết hoặc có những chỗ hiểu nhưng hiểu rất mơ hồ hoặc có khi là vẫn không thể hiểu nổi cha ông ta thời thơ Mới đâu. Thảo nào mà chúng ta chưa kịp hiểu hết cha ông, hoặc không hiểu cha ông nên mới đưa ra những cách so sánh ấu trĩ và buồn cười thế này:
“Nếu cái tôi thơ mới chỉ dừng lại là sự khẳng định cá nhân trong nỗi cô đơn, lạc lõng giữa thế giới:“ta là một, là riêng là thứ nhất/ không có chi bè bạn nỗi cùng ta (Hy Mà Lạp Sơn – Xuân Diệu) thì cái tôi cô đơn trong thơ đương đại lại là sự khẳng định cái cô đơn ngay giữa những người thân yêu nhất:
Bố
Mặt trời nóng rực và ồn ã
Con muốn gần … lại sợ …
tan ra…
Mẹ
Mặt trăng xa
Con ngần ngại cận kề
Con
Vì sao lạc giữa
Lớn lên và sáng bằng nước mắt
Bầu trời không ngừng bão tố
Sấm, sét chớp rạch đấy…
(Những đối lập – Vi Thùy Linh)” [2]
Có thật là “cái tôi thơ Mới chỉ dừng lại” ở “sự khẳng định cá nhân trong nỗi cô đơn, lạc lõng giữa thế giới” như cách nói của tác giả đoạn trích này không? Hơn nữa, nếu lấy cái tôi thơ Mới “cô đơn lạc lõng giữa thế giới” so với cái tôi của thơ đương đại “cô đơn ngay giữa những người thân yêu nhất” (mà cô nàng “thi sĩ ái quyền” Vi Thùy Linh đang làm “đại diện”) thì cái tôi nào đáng thông cảm và chia sẻ hơn? Một đằng là lạc lỏng giữa vũ trụ khôn cùng; một đằng chỉ là sự lạc lỏng trong phạm vi của một gia đình thì liệu sự lạc lỏng nào đáng thương hơn?
Nên nhớ rằng, suy cho cùng sự ra đời của thơ Mới nói chung hay các trào lưu văn học giai đoạn 1930-1945 về sâu xa đó còn là nỗi “bức xúc” của cha ông nhằm thoát ra khỏi sự “nô lệ văn hóa” (văn hóa Trung Hoa suốt 1000 năm Bắc thuộc) bên cạnh một nỗi “bức xúc” khác đó là sự nô lệ về cương vực, lãnh thổ” (sự cay trị của thực dân Pháp). Cho nên, sự khẳng định “cái tôi” ở thơ Mới ở góc nhìn văn hóa, đó là một bước ngoặt cực kì quan trọng đối với vận mệnh dân tộc ở phương diện trình độ tư duy và nhận thức của mỗi cá nhân. Trong cái nhìn này, có thể nói các cây bút thơ đương đại chưa làm được những điều mà các nhà thơ Mới đã làm trước đó. Bằng chứng là các cây bút thơ đương đại nhìn chung vẫn viết theo lối tự phát (tôi muốn nói đến sự “tự phát” ở nghĩa rộng của từ này). Vì thế, tiếng nói của họ chưa đủ “sức nặng” để thuyết phục công chúng vì một lẽ rất đơn giản đó không phải là “tiếng nói chung của một thế hệ”. Trong khi đó, với thơ Mới tuy mỗi nhà thơ là một phong cách nhưng gần như tất cả họ đều cùng chung một “chiến tuyến” (cùng tham gia “bút chiến” với thơ Cũ), chung một mục tiêu là hướng đến việc thay đổi nhận thức nhằm “cải tạo văn hóa”; dẫn dắt dân tộc hòa nhập với những nền văn hóa khác trên con đường hòa nhập với xu hướng thế giới mở.
3. Bây giờ chúng ta thử bàn thêm một vài nét cơ bản để xem cha ông ta thời thơ Mới đã có những bước đi và chuẩn bị gì về văn hóa như thế nào trong 1000 năm để đến năm 1932 mới bắt đầu chính thức làm cuộc lật đổ “thành trì” thơ ca trung đại trước đó?
Thứ nhất, làm nên thời đại thơ Mới là những tên tuổi cụ thể như Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Kiêm, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, Huy Thông, Đoàn Phú Tứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… Tuy nhiên trước đó, để có được thành công của thơ Mới thì không thể không kể đến những người đã cất công “dò đường”, cất công “tiền trạm” tiêu biểu như “ông thần ngông” Tản Đà – người mà Hoài Thanh đã thành kính tri ân bằng việc rước “anh linh” về chứng giám trước khi cho “khai mạc Hội Tao Đàn thơ Mới”. Đó là nói về những người có công tham gia trực tiếp vào cuộc “nổi loạn” của thơ Mới còn như nói về những bước “chuẩn bị” sâu xa hơn nữa ở các phương diện như văn hóa, giáo dục, nghệ thuật… có lẽ khó mà kể hết ra đây những tên tuổi đã gián tiếp ít nhiều góp phần vào cuộc cuộc “nổi loạn” này. Chúng ta hãy nghe học giả Lưu Trọng Lư phát biểu về vấn đề này trong bài diễn thuyết ở Học hội Quy Nhơn năm tháng 6/1934 để hiểu rõ hơn sự thay đổi mang tính bước ngoặt về nhận thức và trình độ tư duy của cha ông ta như thế nào:
“Các cụ ta ưa màu đỏ choét, ta lại ưa màu xanh nhạt…các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì ta cho là mát mẻ như đứng trước một xanh đồng xanh. Cái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…” (Dẫn lại từ Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân).
Thứ hai, nhận định về các khuynh hướng của thơ Mới, Hoài Thanh viết: “Mỗi nhà thơ Việt Nam hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”. Tôi muốn nhìn nhận vấn đề ở đây với ý nghĩa tích cực của nó đó là sự tác động, ảnh hưởng của sự giao thoa văn hóa – một thực tế đã diễn ra có tác động trực tiếp đến các nhà thơ Mới. Ở góc nhìn này, tôi cho rằng; để có thể hiểu cha ông – để hiểu, để “giải mã” những phong cách thơ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương… dứt khoát chúng ta cần phải được “trang bị” về văn hóa Pháp nhất là ở phương diện triết học. Bởi với các nước phương Tây, hầu như những trào lưu văn học của họ bao giờ cũng được “dẫn dắt” bằng một triết thuyết nào đó! Ở góc nhìn này, chúng ta cần nên thành thật với nhau là đến nay ta thật sự vẫn chưa hiểu hết những gì gọi là “thơ điên”, “thơ loạn” ở Hàn Mặc Tử, ở Chế Lan Viên….; hay chúng ta tuy cũng có nói đến “thơ tượng trưng”, nói đến “thơ siêu thực” trong phong trào thơ Mới nhưng để nói cho tường tận, cho “ra ngô ra khoai” thì hầu như vẫn là vấn đề còn đang được các nhà nghiên cứu trao đổi, bàn bạc. Đó là chưa nói, một thời gian dài chúng ta bị “ức chế” vì thơ Mới bị loại bỏ ra khỏi đời sống văn học những năm cả dân tộc tiến hành “hai cuộc chiến sống còn” để thống nhất bờ cõi. Sự “ức chế” này không đơn giản chỉ là sự “ức chế” vì không được phép đề cập, không được bàn, không được ca ngợi thơ Mới mà quan trọng hơn nó là sự “ức chế triết học”; “ức chế về quan điểm và xúc cảm thẩm mỹ” vì đường hướng cách mạng dân tộc chỉ chấp nhận duy nhất một con đường, một hướng đi chung cả về “lý luận” lẫn “thực tiễn”. Và chỉ từ khi sau đổi mới (1986), chúng ta mới bắt đầu tìm lại, xem lại, đọc lại, đánh giá lại thơ Mới cũng như những hiện tượng văn học khác mà một thời vì “hoàn cảnh” mà chúng ta coi đó là những trường hợp “phức tạp”. Thế nhưng, như đã nói với chừng ấy năm sau đổi mới, thử hỏi chúng ta liệu đã đủ thời gian để giải tỏa hết những nỗi “ức chế triết học” chưa; liệu chúng ta đã hiểu hết cha ông ta thời thơ Mới chưa? Rõ ràng, chúng ta chỉ hiểu ở một vài phương diện; hoặc có khi là vẫn chưa hiểu, không hiểu, hay hiểu rất mơ hồ… Như thế, thì liệu chúng ta làm sao đủ “vốn” để mà làm những “cuộc bạo động chữ nghĩa” hay “cách tân” gì đó?
Ngoài ra, tiện thể cũng xin nói thêm, đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa hiểu và khai thác hết cái di sản văn học nghệ thuật nói chung hay thơ ca nói riêng của cha ông ở “khu vực” mà các nhà nghiên cứu hiện nay vẫn gọi đó là “văn học đô thị miền Nam” những năm đất nước còn bị chia cắt (– một di sản văn học được đánh giá là rất phong phú và đa dạng). Trong cái nhìn cầu thị và chân thành nhất, riêng ở chỗ này chúng ta cũng lại chưa kịp hiểu hết những tâm tư, tình cảm, những trăn trở của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc trên dãy đất hình chữ S thống nhất. Một lần nữa có thể nói, chúng ta vẫn chưa kịp hiểu hết cha ông mà đã vội hát câu “ví dầu tình bậu muốn thôi/bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra” rồi!
4. Có thể nói, để làm nên phong trào thơ Mới cách đây hơn nửa thế kỷ, cha ông ta đã có những bước đi và những sự “chuẩn bị” về rất kỹ về văn hóa. Nói cách khác, cha ông ta thời thơ Mới đã hiểu rất rõ cha ông ta thời trung đại trong suốt 1000 năm và họ thấy đã đến lúc phải làm cuộc “thay máu” và thực tế là họ đã đúng và đã làm được. Cha ông ta thời thơ Mới đã hiểu rất rõ cha ông thời trung đại bằng một con mắt tinh đời luôn “nhìn xa trông rộng” với một tinh thần tự giác và rất có trách nhiệm. Trên cơ sở ấy, họ mới dám tự tin làm nên cuộc “nổi loạn” nhằm giải tỏa những nỗi “bức xúc về văn hóa” ở “địa hạt” văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng.
Còn với chúng ta ngày nay – thử hỏi những nhà thơ đương đại đã hiểu cha ông ta (thời thơ Mới) đến đâu trong khoảng trên dưới 70 năm qua (tính luôn những 41 năm bị gián đoạn từ 1945 đến 1986) mà đòi làm cuộc “soán ngôi” thơ? Thực ra, thì chúng ta vẫn đang sống, vẫn đang được sưởi ấm bằng ngọn lửa âm ỉ cháy của cha ông ta từ thời thơ Mới mà có khi ta đang cố tình tự lừa dối mình để không chịu thừa nhận đó thôi. Những cái mà chúng ta gọi là “thơ khó”, thơ “tân hình thức”, “thơ hậu hiện đại” … gì đó hiện nay thì cha ông ta thời thơ Mới đã thử nghiệm hết cả rồi. Những phát ngôn theo kiểu “tôi viết những gì thuộc về chính tôi, viết cho riêng mình tôi” thì cha ông ta đã nói rồi. Thơ của Xuân Thu Nhã tập đây này:
“Lẳng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đái đĩa mùa đi nhịp hãi hà”
Chúng ta không hiểu hoặc chưa kịp hiểu cha ông đó là một cái tội. Mặt khác, không hiểu hay chưa hiểu cha ông ở phương diện nào đó cũng tức là ta không hiểu hay chưa hiểu chính bản thân ta. Mà ta không hiểu chính ta thì làm sao làm việc có hiệu quả? Cho nên, trên thực tế có khi không khéo chúng ta cũng giống như chú khỉ Tôn Ngộ Không dù có lộn đi lộn lại trăm ngàn vòng đi nữa vẫn không thoát ra khỏi bàn tay của Phật tổ?
***
Cuộc đời vốn rất công bằng, ai có tài năng và tâm huyết nhất định cuộc đời sẽ vinh danh. Chúng ta không bi quan vào sự vận động và phát triển của thơ ca dân tộc ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Tuy nhiên, có lẽ cũng không nên quá nôn nóng nghĩ đến chuyện phải làm cuộc “soán ngôi thơ” gì đó trong lúc này. Hãy dũng cảm nhìn vào một sự thật là chúng ta vẫn còn đang nợ cha ông ta rất nhiều. Bởi những di sản cha ông để lại chúng ta vẫn chưa “xử lý”, chưa “tiêu hóa” nổi. Rồi đây chắc chắn sẽ có một cuộc “thay máu” nữa thơ ca cho dân tộc. Nhưng đó là chuyện của tương lai có thể rất gần mà cũng là rất xa (vì với những gì đang diễn ra có lẽ lịch sử đã không chọn thế hệ chúng ta hiện nay để gánh vác cái “sứ mệnh thay máu” cho thơ ca dân tộc rồi). Cho nên, theo thiển ý cá nhân, người viết cho rằng nếu thật sự có trách nhiệm với thơ, thật sự yêu và kính trọng thơ, nên chăng chúng ta cần có những bước “chuẩn bị văn hóa” (chữ dùng của nhà phê bình Nguyễn Hòa) thật tốt cho con cháu mai sau. Biết đâu khi ấy cuộc đời sẽ lại vinh danh chúng ta như một người có đã công “tiền trạm” kiểu như thi sĩ Tản Đà trước đây. Được như thế, thiết nghĩ cũng đã là may mắn lắm rồi.
Tóm lại, vấn đề ở đây không phải là chuyện“thơ khó hay độc giả khắt khe” (mà dẫu nếu có chuyện này đi chăng nữa thì đây cũng là chuyện rất nhỏ) mà vấn đề là tất cả chúng ta (cả người làm thơ và người thưởng thức thơ) đã chuẩn bị gì cho thơ, đã “thay nghén” và “nuôi dưỡng” thơ như thế nào để thơ được “sống”, được can dự vào sự tiến hóa chung của con người trong thời đại toàn cầu hóa?

Ghi chú:
[1]; [2]: Bài viết “Thơ đương đại, thơ khó hay người đọc khắt khe” của Trần Thư được chúng tôi dẫn lại từ báo Văn nghệ Trẻ số ra ngày 26/2/2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét